-Trăm năm bia đá thì mònNgàn năm bia miệng hãy còn trơ trơ! -Nhưng mấy ai thoát được sự cám dỗ của danh lợi - quyền lực? -Và khi đã mù quáng về nhận thức mà lại còn khuếch trương quyền lực thì thật là đáng sợ!
------------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)
Võ Nguyên Giáp (25 tháng 8 năm 1911 – 4 tháng 10 năm 2013), còn được gọi là tướng Giáp hoặc anh Văn, là một nhà chỉ huy quân sự và chính trị gia Việt Nam. Ông là Đại tướng đầu tiên, Tổng tư lệnh của Quân đội Nhân dân Việt Nam, cũng là người chỉ huy đầu tiên Quân đội Nhân dân Việt Nam, là một trong những người góp công thành lập Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, được chính phủ Việt Nam đánh giá là "người học trò xuất sắc và gần gũi của Chủ tịch Hồ Chí Minh", là chỉ huy chính trong các chiến dịch và chiến thắng chính trong Chiến tranh Đông Dương (1946–1954) đánh bại Thực dân Pháp, Chiến tranh Việt Nam (1960–1975) chống Mỹ, thống nhất đất nước và Chiến tranh biên giới Việt-Trung (1979)[cần dẫn nguồn] chống quân Trung Quốc tấn công biên giới phía Bắc.
Xuất thân là một giáo viên dạy sử, ông trở thành người được đánh giá
là một trong những nhà lãnh đạo quân sự lỗi lạc trong lịch sử Việt Nam. Ông cũng được đánh giá là một trong những vị tướng tài giỏi trên thế giới. Ông được nhiều tờ báo ca ngợi là anh hùng của nhân dân Việt Nam.
Thân thế
Võ Nguyên Giáp sinh ngày 25/08/1911 ở làng An Xá, xã Lộc Thủy, huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình trong một gia đình nhà nho, con của ông Võ Quang Nghiêm (Võ Nguyên Thân), một nhà nho đức độ và mẹ là bà Nguyễn Thị Kiên.
Về họ ngoại, ông ngoại Võ Nguyên Giáp quê ở thôn Mỹ Đức xã Sơn Thủy huyện Lệ Thủy, đầu nguồn sông Cẩm Ly, một vùng sơn cước, dưới dãy Trường Sơn; từng tham gia Phong trào Văn thân-Cần Vương,
làm đến chức Đề đốc coi đại đồn tiền vệ, sau bị quân Pháp bắt, tra tấn
dã man, nhưng một mực trung thành, không một lời khai báo.
Về họ nội, Võ Nguyên Giáp sinh trưởng trong một dòng họ lớn, có tiếng
tăm tại làng An Xá. Ông nội ông cũng từng tham gia phò tá vua Hàm Nghi
trong Phong trào Cần Vương. Cha ông, Võ Quang Nghiêm, là một nho sinh thi cử bất thành về nhà làm hương sư và thầy thuốcĐông y trong làng. Khi Chiến tranh Đông Dương bùng nổ, cụ Võ Quang Nghiêm bị người Pháp bắt, đưa về giam ở Huế và mất trong tù (Sau này, con cháu đã tìm thấy và bốc mộ ông đưa về an táng tại nghĩa trang liệt sĩ huyện Lệ Thủy.
Gia đình Võ Nguyên Giáp có 7 anh chị em, nhưng người anh cả và chị cả
mất sớm nên còn lại năm, 3 người con gái và 2 người con trai là Võ
Nguyên Giáp và Võ Thuần Nho, sau này là Thứ trưởng Bộ Giáo dục.
Thời niên thiếu
Một góc ngôi nhà nơi Võ Nguyên Giáp đã sinh ra và lớn lên
Gia đình cụ Nghiêm thuộc diện nghèo trong làng, quanh năm phải vay nợ nặng lãi của các nhà giàu như nhà Khóa Uy, một Hoa kiều
giàu có ở làng Tuy Lộc kề bên. Võ Nguyên Giáp đã có lần theo mẹ chèo
thuyền chở thóc đi trả nợ. Tuy còn nhỏ tuổi, nhưng những câu chuyện đêm
đêm mẹ kể cho cậu nghe về tướng quân Tôn Thất Thuyết phò vua Hàm Nghi
hạ chiếu Cần Vương, kêu gọi các sĩ phu và dân chúng đứng lên chống Pháp
bảo vệ non sông, còn cha nói về phong trào đánh Pháp qua bài vè "Thất thủ kinh đô"
đầy cảm động, đã gieo vào lòng cậu bé những ấn tượng không bao giờ phai
mờ, góp phần nuôi dưỡng ý chí cho sự nghiệp cách mạng sau này
Cha ông là một nhà Nho nên dạy dỗ con cái rất nghiêm cẩn trong sinh hoạt gia đình và học hành, giữ gìn nề nếp gia phong của đạo Khổng. Ông khuyên dạy con: "Chữ Nho là chữ của Thánh hiền, là nho sinh, các con không được nghịch ngợm, dẫm đạp lên sách vở chữ Nho".
Ông dạy đám học trò cùng hai con ông: Tạm thiện tự, Ngũ thiên tự và cả
Ấu học tân thư. Năm tháng học chữ Nho không nhiều nhưng những đạo lý học
được trong các sách của Thánh hiền Nho gia, đặc biệt là Ấu học tân thư, đã trở thành nền tảng cơ bản có ảnh hưởng sâu sắc trong cả cuộc đời ông. Trong thế giới quan Nho giáo,
cả 3 yếu tố: cá nhân, gia đình và dân tộc đều hòa quyện chặt chẽ với
nhau. Qua sách Ấu học tân thư, cậu Giáp được biết tới nhiều tấm gương
quên mình để bảo vệ Tổ quốc, hình thành trong cậu niềm tự hào về các
chiến công của cha ông trong quá khứ. Những giá trị đạo đức,
nề nếp gia phong của đạo Khổng thấm nhuần trong con người cậu: lối sống
giản dị và đức hiếu học, sự kính trọng tổ tiên và ông bà cha mẹ, sự
kính trên nhường dưới, đạo hiếu của con cái với cha mẹ, nghĩa vụ của con
người với gia đình, xã hội và Trời Đất
Học xong lớp 3 cậu phải xuống thị xã Đồng Hới
học tiếp, Đồng Hới thuộc tỉnh lỵ Quảng Bình, cách làng An Xá của cậu
trên 20 cây số, nằm bên bờ Nhật Lệ trong xanh lung linh soi bóng Lũy
thầy, với thành cổ bao quanh từ thời Gia Long năm thứ 10 (1812) và được
xây lại bằng gạch năm Minh Mạng thứ năm (1824).
Những năm học ở thị xã Đồng Hới, cậu Giáp ở trọ nhà người quen của cụ
Nghiêm. Cậu được gia chủ quý mến coi như con cháu trong nhà, không lấy
tiền trọ, cậu được học với nhà sư phạm có tiếng, thầy giáo Đào Duy Anh.
Hai năm học ở tiểu học Đồng Hới, hàng tháng cậu luôn đứng đầu lớp. Tại
kỳ thi tốt nghiệp bậc sơ học, cậu đỗ đầu toàn tỉnh. Hồi đó, đạt được
trình độ ấy là không dễ, vì thực dân Pháp hạn chế mở trường học và muốn
duy trì nạn mù chữ để dễ cai trị. Về làng cậu được dân làng nể trọng, gia đình rất tự hào về cậu.
Năm 1925, Võ Nguyên Giáp rời trường Tiểu học Đồng Hới ở quê nhà Quảng Bình để vào Huế ôn thi vào trường Quốc học Huế (ông đỗ thứ hai sau Nguyễn Thúc Hào).
Trong 2 năm học, ông luôn đứng đầu lớp trừ 1 tháng bị rớt xuống hạng
nhì. Trong thời gian này, cậu Giáp có vài lần đến thăm nhà yêu nước Phan Bội Châu để nghe thuyết giảng về lý tưởng Cách mạng. Trên tường nhà Cụ Châu có treo những nhà tư tưởng nổi bật mà cụ tôn kính là Tôn Dật Tiên, Vladimir Ilyich Lenin và Đức Phật Thích Ca, điều đó khiến cậu càng say mê theo đuổi chân lý của lịch sử.
Năm 1927, ông bị đuổi học cùng với Nguyễn Chí Diểu, Nguyễn Khoa Văn (tức Hải Triều), Phan Bôi sau khi tổ chức một cuộc bãi khóa. Ông về quê và được Nguyễn Chí Diểu giới thiệu tham gia Tân Việt Cách mạng Đảng, một đảng theo chủ nghĩa dân tộc nhưng có màu sắc cộng sản thành lập năm 1924 ở miền Trung Việt Nam. Nguyễn Chí Diểu cũng giới thiệu Võ Nguyên Giáp vào làm việc ở Huế, tại nhà xuất bản Quan hải tùng thư do Đào Duy Anh sáng lập và ở báo Tiếng dân của Huỳnh Thúc Kháng. Tại đây, Võ Nguyên Giáp bắt đầu học nghề làm báo, chuẩn bị cho giai đoạn hoạt động báo chí trong thời Mặt trận Bình dân Pháp.
Thời thanh niên
Tháng 4/1927 tại trường Quốc học Huế lại diễn ra một cuộc bãi khóa rầm rộ với quy mô lớn. Nguyễn Chí Diểu
bị tên giám thị Pháp chú ý, coi là kẻ cầm đầu những cuộc đấu tranh bãi
khóa ở trường, nên đuổi học. Võ Nguyên Giáp liền bàn với Nguyễn Khoa Văn
tiếp tục tổ chức bãi khóa để phản đối việc Diểu bị đuổi học. Cuộc bãi
khóa của học sinh Trường Quốc học Huế lan rộng ra khắp các trường ở Huế
và phát triển thành cuộc tổng bãi khóa. Võ Nguyên Giáp bị bắt rồi bị
đuổi học, phải trở về quê nhà. Bỗng nhiên một hôm Nguyễn Chí Diểu lặn
lội từ Huế về làng An Xá tìm gặp Võ Nguyên Giáp. Diểu mang theo một tập
tài liệu về "Liên đoàn các dân tộc bị áp bức trên thế giới" và một số văn kiện cuộc họp của Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội ở Quảng Châu, trong đó có 2 bài phát biểu của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc. Anh Giáp đọc rất xúc động: "Bài luận văn của Nguyễn Ái Quốc đã gây cho chúng tôi một lòng căm phẫn sâu sắc như một luồng điện giật". Đó là sợi dây đầu tiên nối liền số mệnh của cậu Giáp với Hồ Chí Minh và sự nghiệp Cách mạng Việt Nam.
Mùa hè năm 1928, Võ Nguyên Giáp trở lại Huế, bước vào đời của một
chiến sĩ cách mạng. Tại Huế, Nguyễn Chí Diểu giới thiệu anh Giáp đến làm
việc ở Quan Hải Tùng thư, một nhà xuất bản do Tổng bộ Tân Việt chủ
trương, trụ sở đặt ở phố Đông Sa. Sáng lập viên là Đào Duy Anh. Tại đây Võ Nguyên Giáp có điều kiện tiếp xúc với những học thuyết kinh tế, xã hội, dân tộc, cách mạng. Đặc biệt là cuốn "Bản án chế độ thực dân Pháp" và tờ báo "Người cùng khổ" (Le Paria) do Nguyễn Ái Quốc viết từ Pháp gửi về.
Đầu tháng 10 năm 1930, trong sự kiện Xô Viết Nghệ Tĩnh, Võ Nguyên Giáp bị bắt và bị giam ở Nhà lao Thừa phủ (Huế), cùng với người yêu là Nguyễn Thị Quang Thái, em trai là Võ Thuần Nho và các giáo sưĐặng Thai Mai, Lê Viết Lượng... Sau này liệt sỹNguyễn Thị Quang Thái chính là người vợ đầu tiên của Đại tướng. Đại tướng có một con với bà là Võ Hồng Anh.
Chị Thái hẹn, khi con cứng cáp sẽ đi thoát ly hoạt động. Nhưng cả hai
không ngờ lần chia tay năm 1940 cũng là lần vĩnh biệt, chị Thái bị Pháp
bắt giam và chết ngay trong ngục tù. Bà qua đời khi còn rất trẻ, nhiều
người biết đến bà như một hình tượng người phụ nữ mẫu mực, kiên trung,
yêu nước.
Cuối năm 1931, nhờ sự can thiệp của Hội Cứu tế Đỏ của Pháp, Võ Nguyên Giáp được trả tự do nhưng lại bị Công sứ Pháp tại Huế ngăn cấm không cho ở lại Huế. Ông ra Hà Nội, học trường Albert Sarraut và đỗ. Ông nhận bằng cử nhân luật năm 1937 (Licence en Droit). Do bận rộn hoạt động cách mạng, vào năm 1938, ông bỏ dở học chương trình năm thứ tư về Kinh tế Chính trị và không lấy bằng Luật sư.
Từ 1936 đến 1939, Võ Nguyên Giáp tham gia phong trào Mặt trận Dân chủ Đông Dương, là sáng lập viên của mặt trận và là Chủ tịch Ủy ban Báo chí Bắc Kỳ trong phong trào Đông Dương đại hội. Ông tham gia thành lập và làm báo tiếng PhápNotre voix (Tiếng nói của chúng ta), Le Travail (Lao động), biên tập các báo Tin tức, Dân chúng. Tháng 5 năm 1939, Võ Nguyên Giáp nhận dạy môn lịch sử tại Trường Tư thục Thăng Long, Hà Nội do Hoàng Minh Giám làm giám đốc nhà trường. Học sinh của ông mô tả rằng: ông có thể vẽ lên bảng đen sơ đồ từng trận đánh của Napoléon, ông sôi nổi kể về Công xã Paris, về cái chết của những nhà Cách mạng như Danton và Robespierre, "ông không chỉ là nhà sử học đơn thuần, ông còn là một trạng sư say mê, luôn bênh vực tính chính nghĩa của lịch sử". Học trò của Võ Nguyên Giáp là Bùi Diễm, sau này trở thành đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Mỹ, nhớ về ông như một người bị "quỷ thần ám ảnh về cách mạng và các trận chiến". Người ta kể lại khi một giáo viên khác hỏi ông "Không chơi kiểu Napoleon à ?", ông đã trả lời "Mình sẽ là một Napoleon". Sau này, khi trả lời phỏng vấn, ông hay có điệu bộ như hoàng đế Napoleon đang độc thoại trước các nhà báo.
Bắt đầu sự nghiệp quân sự
Kháng chiến chống Pháp, Nhật trong Đệ nhị thế chiến
Chỉ sau một thời gian ngắn, Hồ Chí Minh đã thấy Võ Nguyên Giáp là
người triển vọng nên liên hệ với Đảng cộng sản Trung Quốc và cử anh đi
học quân sự tại căn cứ địa Diên An.
Trên đường tới Diên An, anh được Hồ Chí Minh gọi quay lại vì tình hình
thế giới có nhiều thay đổi lớn. Ở châu Âu, phát xít Đức đã xâm chiếm
Pháp. Hồ Chí Minh nhận định tình hình Đông Dương sẽ chuyển biến nhanh,
cần gấp rút trở về nước chuẩn bị đón thời cơ.
Ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương trong năm này và bắt đầu các hoạt động của mình trong Việt Nam Độc lập Đồng minh Hội, một tổ chức chống phát-xít và đấu tranh cho độc lập của Việt Nam. Năm 1941 đúng dịp tết Nguyên đán Tân Tỵ, Võ Nguyên Giáp cùng Hồ Chí Minh trở về Cao Bằng. Trong thời gian ở hang Pác Bó, Hồ Chí Minh tiên đoán cách mạng sẽ thành công vào năm 1945, một dự đoán chuẩn xác: "Trong 5 năm nữa (tính từ 1941) cách mạng sẽ thành công, điều chúng ta mong đợi sẽ tỏa sáng". Niềm tin sắt đá đó đã giúp Võ Nguyên Giáp và các đồng chí có thêm niềm tin vào tương lai.
Đời sống ở Việt Bắc rất cực khổ, ông kể: "Tìm được cái ăn đã là chiến công. Chúng tôi phải chia nhau từng củ sắn, từng bắp ngô".
Nhiều người bối rối dao động, có người e ngại: làm sao Cách mạng thành
công khi không có súng và lấy đâu ra súng? Những lúc ấy, ông không bao
giờ quên lời dạy của Hồ Chủ tịch: "Chúng ta sẽ dựa vào sức mình là
chính cùng với một ít viện trợ từ nước ngoài. Mọi việc đều do nhân dân
mà nên. Người trước súng sau, có nhân dân là có tất cả."
Ông tham gia xây dựng cơ sở cách mạng, mở lớp huấn luyện quân sự cho Việt Minh ở Cao Bằng.
Trong thời gian này, Pháp tăng cường càn quét Việt Bắc, ai mang tài
liệu Việt Minh sẽ bị bắn ngay. Võ Nguyên Giáp nhớ lại: trong thời gian
này, ông thường mang theo một quả lựu đạn để nếu bị bắt thì sẽ cho nổ để vừa chết nhanh chóng vừa kéo theo được vài tên địch.
Võ Nguyên Giáp và Hồ Chí Minh, chụp khoảng năm 1945
Cách mạng Tháng Tám thành công, quốc gia Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập, Võ Nguyên Giáp được cử làm Bộ trưởngBộ Nội vụ và Phó Bộ trưởng (Thứ trưởng thường trực) Bộ Quốc phòng trong Chính phủ lâm thời (từ ngày 28 tháng 8 đến hết năm 1945) và là Tổng chỉ huyQuân đội Quốc gia và Dân quân tự vệ năm 1946.
Ngay sau khi thành lập, Võ Nguyên Giáp thay mặt Hồ Chí Minh, Chủ tịch Chính phủ Cách mạng Lâm thời, ban hành các sắc lệnh giải tán một số đảng phái, với lý do các đảng này "tư thông với ngoại quốc", làm "phương hại đến nền độc lập Việt Nam" (như Việt Nam Quốc xã, Đại Việt Quốc dân đảng...)
nhằm kịp thời trừng trị "bọn phản cách mạng", "bảo vệ" chính quyền non
trẻ đồng thời "giáo dục ý thức về tinh thần cảnh giác" cho nhân dân,đồng thời Chủ tịch Hồ Chí Minh cho phép Ty Liêm phóng có thể bắt những hạng người bị quy là nguy hiểm cho nền Dân chủ cộng hoà Việt Nam Cùng với đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh giải tán các nghiệp đoànđể kiểm soát nền kinh tế thống nhất các tổ chức thanh niên (vào Đoàn Thanh niên Cứu quốc Việt Nam). Đồng thời Chính phủ cũng ban hành sắc lệnh thành lập Hội đồng nhân dân và Ủy ban hành chính địa phương các cấp.
Ở miền Bắc, hơn 20 vạn quân Tưởng Giới Thạch theo sự phân công của phe Đồng Minh tiến vào miền Bắc Việt Nam để giải giáp quân Nhật. Theo Việt Minh, đội quân này mang theo kế hoạch Diệt Cộng Cầm Hồ. Đội quân Quốc dân Đảng Trung Quốc "chạy trốn" Đảng Cộng sản Trung Quốc đã tiến hành các hoạt động cướp bóc trên đường xuống phía Nam đến Hà Nội. Trong hồi ký Những năm tháng không thể nào quên Võ Nguyên Giáp mô tả: quân đoàn 62 của Vũ Kim Thành (đi cùng là Việt Cách) tàn phá suốt dọc miền Đông Bắc Bắc Kỳ; lực lượng của Vũ Hồng Khanh (Việt Nam Quốc dân Đảng) và của Nguyễn Tường Tam (Đại Việt) đi theo quân đoàn 93 Vân Nam, cũng tiến hành những bài bản cướp bóc tương tự, dọc theo hành lang Tây Bắc từ Lào Cai đến Yên Bái, Phú Thọ
Võ Nguyên Giáp mô tả lãnh đạo Việt Quốc, Việt Cách như những người đã
bỏ xứ sở mà đi, tự cho mình là những người yêu nước phụng sự cho Chủ
nghĩa Quốc gia nhưng thực tế chỉ là "một nhóm phản động đang ra sức thu vén làm giàu cho bản thân" nhờ vào sự giúp đỡ của Trung Quốc, và rằng Trung Hoa Quốc dân Đảng đã tô vẽ cho nhiều "tên phản bội người Việt".
Trong hai ngày 18 và 19 tháng 9 năm 1945, Việt Minh họp bí mật với
Việt Cách (ngày 18/9/1945) và Việt Quốc (ngày 19/9/1945). Trong hai cuộc
họp này, Nguyễn Hải Thần đại diện Việt Cách và Nguyễn Tường Tam đại diện Việt Nam Quốc dân Đảng
đề nghị Hồ Chí Minh đồng ý hợp nhất Việt Minh với Việt Cách và Việt Nam
Quốc dân Đảng. Đối với lời đề nghị này, trong nội bộ Việt Minh có nhiều
ý kiến khác nhau. Hoàng Minh Giám
nghĩ rằng việc hợp nhất Việt Minh với các đảng phái Quốc gia sẽ làm
giảm bớt sự đối lập và tăng cường thế lực cho Việt Minh, làm người Trung
Quốc yên lòng còn Pháp phải lo ngại, quan trọng nhất là Chính phủ Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa trong con mắt của Đồng Minh, đặc biệt là Mỹ, là
chính phủ thật sự dân chủ. Võ Nguyên Giáp thì dứt khoát không đồng ý,
theo ông, những đề nghị đó không có giá trị và không thật thà, nó chẳng
khác gì thay thế chủ nghĩa thực dân Pháp bằng ách thống trị của Trung
Quốc, nhân dân sẽ "chẳng bao giờ chịu bán rẻ sự nghiệp chính nghĩa của họ để đổi lấy đô la Trung Quốc" Cuối cùng Việt Minh đã từ chối hợp nhất với Việt Cách và Đại Việt Quốc dân Đảng.
Ngày 1 tháng 1 năm 1946, sau một hội nghị hòa giải có Việt Nam Quốc dân Đảng, Việt Nam Cách mạng Đồng minh hội và Việt Minh tham gia do tướng Tiêu Văn tổ chức, Chính phủ Liên hiệp Lâm thời được thành lập thay thế Chính phủ Cách mạng Lâm thời với sự tham gia của một số đảng phái đối lập (Việt Cách, Việt Quốc...) hoạt động ở Trung Quốc với sự bảo trợ của Trung Hoa Quốc Dân Đảng. Tuy nhiên chức trách các Bộ cũng thay đổi. Bộ trưởng Quốc phòng trở
thành người lo về tài chính mà không được xem xét danh sách nhân sự,
quân số, súng đạn còn các Bộ trưởng khác của các đảng phái Quốc gia
chẳng có chức trách cụ thể gì, không bao giờ được tham dự bất cứ buổi
họp nào của nội các.
Ngày 6 tháng 1 năm 1946, Chính phủ Liên hiệp Lâm thời do Chủ tịch Hồ
Chí Minh đứng đầu đã tổ chức cuộc Tổng tuyển cử trên toàn quốc, lần đầu
tiên đã bầu Quốc hội và thông qua Hiến pháp. Nhiều đảng phái không có quyền tham gia Tổng tuyển cử đã tìm cách phá hoại Các đảng này cho là trúng cử chỉ là Việt Minh cộng sản, chính quyền trong tay nên Việt Minh muốn ai trúng cũng được. Theo Báo Đại đoàn kết, mặc dù bị nhiều đảng phái tuyên truyền vận động
dân chúng tẩy chay cuộc bầu cử và ngăn cản việc tổ chức bầu cử ở một số
nơi, nhưng tại các địa phương, ở đâu cũng có người tự ứng cử, các cuộc
tiếp xúc tranh cử công khai, tự do diễn ra ở khắp mọi nơi. Theo Việt Minh, cuộc bầu cử diễn ra công bằng Tuy nhiên, lá phiếu không bí mật và theo quan sát của sử gia Trần Trọng Kim thì có nơi người dân bị cưỡng bách bầu cho Việt Minh
Sau khi kết quả bầu cử được công bố, sự thật hoàn toàn không như các đảng phái tuyên truyền. Nhiều đại biểu có uy tín của các giai cấp, tầng lớp, tôn giáo, dân tộc đều trúng cử tại Quốc hội khóa I hầu hết chưa là đảng viên Võ Nguyên Giáp được bầu làm đại biểu quốc hộikhóa đầu tiênvà liên tiếp 6 kỳ sau.
Sau khi Quốc hội được bầu, ngày 2 tháng 3 năm 1946, Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến được thành lập để thay thế Chính phủ Liên hiệp Lâm thời. Ở các địa phương, các cấp chính quyền liên hiệp được thành lập trong năm 1946. Theo thỏa thuận với Việt Minh, phe đối lập bao gồm một số tổ chức như Việt Nam Cách mạng Đồng minh hội và Việt Nam Quốc dân Đảng được Trung Hoa Dân quốc
ủng hộ, không tham gia Tổng tuyển cử nhưng vẫn được nắm 70 ghế Quốc hội
cùng nhiều vị trí trong chính quyền trung ương do chính sách hòa hợp
các đảng phái của Chính phủ. Trong hồi ký Những năm tháng không thể nào quên,
đại tướng Võ Nguyên Giáp nhận định các đảng phái này lo sợ thất bại
trước sức ủng hộ lớn của cử tri với mặt trận Việt Minh nên không tham
gia bầu cử.
Cũng trong năm 1946, ông kết hôn với bà Đặng Bích Hà (con gái giáo sư Đặng Thai Mai).
Trấn áp các đảng phái đối lập
Trong thời gian hoạt động, Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến tiếp tục
thực hiện các biện pháp, chính sách để giữ vững nền độc lập của nước
Việt Nam dân chủ non trẻ. Về đối nội đã kêu gọi các đảng phái đoàn kết
phụng sự quốc gia, thực hiện các chính sách kinh tế, quốc phòng, văn
hóa, giáo dục..
Việt Nam Quốc dân Đảng và Đại Việt Quốc dân đảng đã tổ chức các đội
vũ trang như "Thần lôi đoàn", "Thiết huyết đoàn", "Hùm xám"... Các đội
này đã tổ chức nhiều vụ cướp có vũ trang, bắt cóc, tống tiền, tổ chức ám
sát những người theo Việt Minh và cả những người trung lập như ông Ba
Viên (Ba Viên bị Quốc dân Đảng nghi ngờ là gián điệp của Pháp, sau khi
gặp Hồ Chí Minh, Ba Viên quay về Hà Giang, bắt giữ và hành quyết một số
đảng viên Việt Nam Quốc dân Đảng) rồi tuyên truyền đổ lỗi cho Việt Minh đã không đảm bảo được an ninh trật tự ở Hà nội và một số đô thị ở Bắc Bộ.
Hồ Chí Minh giao cho Võ Nguyên Giáp và Trần Quốc Hoàn, sau này trở thành Bộ trưởng Công an, nhiệm vụ vô hiệu hóa các cuộc biểu tình do Việt Nam Quốc dân Đảng và Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội tổ chức nhằm chấm dứt hoạt động tuyên truyền của các đảng này trong dân chúng. Võ Nguyên Giáp kể lại: "Chúng tôi phải trừng trị bọn phá hoại... Nhưng bằng mọi giá phải tránh khiêu khích và đảm bảo không xảy ra xung đột lớn".
Võ Nguyên Giáp dùng lực lượng tự vệ và các hội viên Hội Cứu Quốc phá
các cuộc biểu tình này. Khi có lộn xộn, lính Trung Quốc bắn chỉ thiên,
xông vào giải tán đám biểu tình để vãn hồi trị an. Việt Nam Quốc dân Đảng hoảng hốt khi người Trung Hoa không giúp được gì nhiều trong việc chống lại Việt Minh như họ mong đợi. Ông Nguyễn Duy Thanh, một người theo chủ nghĩa quốc gia buồn rầu nhớ lại: "Không có Trung Hoa ủng hộ, những đảng phái theo chủ nghĩa quốc gia chẳng thể đối phó được với những người Cộng sản"
Sự có mặt của quân đội Tưởng Giới Thạch
cho tới lúc đó đã đảm bảo sự tồn tại của Việt Nam Quốc dân Đảng và Việt
Nam Cách mệnh Đồng minh Hội. Hai đảng này không có một chương trình gắn
kết với nhau để tranh thủ dân chúng như Việt Minh. Những người lãnh đạo
Việt Nam Quốc dân Đảng và Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội thì còn xa
mới có được những phẩm chất có thể so sánh với Hồ Chí Minh, Võ Nguyễn
Giáp và những người có trách nhiệm khác của Việt Minh.
Khi quân đội Tưởng Giới Thạch rút khỏi Việt Nam ngày 15/6/1946, hiểu
theo cách này hay cách khác, Võ Nguyên Giáp quyết định Việt Minh phải
hoàn toàn một mình điều khiển bộ máy chính quyền. Võ Nguyên Giáp hối hả
hành động ngay với mục tiêu rải khắp: Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội
được Trung Hoa Quốc dân Đảng ủng hộ, Việt Nam Quốc dân Đảng (theo Cecil
B. Currey tổ chức này mượn danh cách mạng của Việt Nam Quốc dân Đảng năm
1930 do Nguyễn Thái Học sáng lập còn theo David G. Marr Đảng Cộng sản Đông Dương đã ra sức tuyên truyền
Việt Nam Quốc dân Đảng phản bội lại sự nghiệp cách mạng của Nguyễn Thái
Học năm 1930 nhưng đến cuối năm 1945 nhiều người dân vẫn không tin vào
điều đó),
nhóm quốc gia thân Nhật Đại Việt, những người Trotskyist, những người
quốc gia chống Pháp, nhóm Công giáo mang tên "chiến sĩ Công giáo". Võ
Nguyên Giáp đã từng bước tìm cách loại bỏ dần các đảng phái này. Ngày
19/6/1946, Báo Cứu Quốc của Tổng bộ Việt Minh đăng xã luận kịch liệt chỉ trích "bọn phản động phá hoại Hiệp định sơ bộ Pháp Việt mùng 6 tháng 3".
Ngay sau đó Võ Nguyên Giáp bắt đầu chiến dịch truy quét các đảng phái
đối lập bằng lực lượng công an và quân đội do Việt Minh kiểm soát với sự
giúp đỡ của nhà cầm quyền Pháp. Ông cũng sử dụng các binh lính, sỹ quan
Nhật Bản tình nguyện ở lại Việt Nam và một số vũ khí do Pháp cung cấp
(ở Hòn Gai quân Pháp cung cấp cho Việt Minh những khẩu pháo để diệt một
số vị trí do quân Đại Việt chiếm giữ). Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến được thành lập nhằm tạo khối đại đoàn kết, hòa hợp dân tộc giữa các đảng phái, sau Vụ án phố Ôn Như Hầu đã mất đi ý nghĩa của nó.
Võ Nguyên Giáp duyệt đội hình danh dự của quân đội Việt Nam trong Cách mạng tháng Tám
Không được đào tạo tại bất kỳ trường quân sự nào trước đó, không phải
trải qua các cấp bậc quân hàm trong quân đội, Võ Nguyên Giáp được phong
quân hàm Đại tướng vào ngày 28 tháng 5 năm 1948 theo sắc lệnh 110/SL ký ngày 20 tháng 1 năm 1948, Ông trở thành Đại tướng đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam khi 37 tuổi.
Sau này, trả lời phóng viên nước ngoài về tiêu chí phong tướng, Hồ Chí
Minh đã nói: "Đánh thắng đại tá phong đại tá, đánh thắng thiếu tướng
phong thiếu tướng, thắng trung tướng phong trung tướng, thắng đại tướng
phong đại tướng".Cùng đợt phong hàm có Nguyễn Bình được phong Trung tướng; Nguyễn Sơn, Lê Thiết Hùng, Chu Văn Tấn, Hoàng Sâm, Hoàng Văn Thái, Lê Hiến Mai, Văn Tiến Dũng, Trần Đại Nghĩa, Trần Tử Bình được phong Thiếu tướng. Tháng 8 năm 1948, ông là ủy viên Hội đồng Quốc phòng Tối cao vừa mới được thành lập.
Từ tháng 8 năm 1945 Võ Nguyên Giáp là một trong 5 ủy viên Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương và trở thành ủy viên Bộ Chính trị (thay thế Ban Thường vụ Trung ương) Đảng Lao động Việt Nam từ năm 1951.
Như các danh tướng Việt Nam trong lịch sử, Võ Nguyên Giáp chú trọng
nghệ thuật lấy ít địch nhiều, lấy yếu chế mạnh, lấy thô sơ thắng hiện
đại. Tư tưởng quân sự nổi tiếng của ông có tên gọi là Chiến tranh nhân dân
kế thừa quan điểm quân sự Hồ Chí Minh, tinh hoa nghệ thuật đánh giặc
của tổ tiên, tri thức quân sự thế giới, lý luận quân sự Mác-Lênin và
được đúc rút từ kinh nghiệm cá nhân được liên tục cập nhật trong nhiều
cuộc chiến tranh mà nổi bật là chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ.
Trong 9 năm trường kỳ đánh Pháp, Võ Nguyên Giáp đã có những sáng kiến
quan trọng để phát huy sức mạnh quân sự và đã trở thành những kinh
nghiệm quý báu như: "Đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung". Với chuyên
gia quân sự Trung Quốc sang giúp huấn luyện quân đội, ông chỉ đạo chiến
sĩ học tập, tiếp thu, nghiên cứu kỹ phương pháp của nước bạn, đồng thời
nhắc nhở cán bộ, sĩ quan phải ghi nhớ việc tiết kiệm sinh mạng bộ đội do
Việt Nam là nước nhỏ không thể nuôi nhiều quân.
Năm 1954, Võ Nguyên Giáp được Hồ Chí Minh và Đảng Lao động tin tưởng trao cho toàn quyền chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ. Trước khi ra trận, Hồ Chí Minh đã dặn dò: "Cho chú toàn quyền chỉ huy. Trận này chỉ được thắng không được thua vì thua là hết vốn".
Ông tự tin lên kế hoạch và chỉ huy 4 trong 6 sư đoàn bộ binh khi đó của
Quân đội Nhân dân Việt Nam là 308, 304, 312, 316 và Đại đoàn sơn pháo
351 tấn công Điện Biên Phủ, đánh bại đội quân nhà nghề được trang bị hiện đại của Liên hiệp Pháp.
Chiến thắng này đã đặt dấu chấm hết cho quyền lực của người Pháp tại
Đông Dương sau 83 năm và đã đưa Võ Nguyên Giáp đi vào lịch sử thế giới
như là một danh nhân quân sự Việt Nam, một người hùng của Thế giới thứ ba,
nơi có những người dân bị nô dịch đã xem Võ Nguyên Giáp là thần tượng
để hạ quyết tâm lật đổ chế độ thực dân xây dựng nền độc lập của riêng
mình.
Các chiến dịch
Tướng Giáp báo cáo kế hoạch tấn công Điện Biên Phủ
Thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ mang đậm việc tạo thế, tổ chức hậu cần, thay đổi chiến thuật. Sau chiến dịch này, Hiệp định Genève về Đông Dương được ký kết, đặt dấu chấm hết cho sự có mặt của người Pháp ở Việt Nam sau hơn 80 năm.
Từ năm 1954 đến năm 1976, Võ Nguyên Giáp tiếp tục giữ cương vị Ủy viên Bộ Chính trị - Bí thư Quân ủy Trung ương, Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam, Bộ trưởngBộ Quốc phòng. Ông còn là Phó Thủ tướngChính phủ, sau là Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (từ năm 1955 đến năm 1991).
Từ tháng 3 năm 1960, Võ Nguyên Giáp làm việc dưới sự lãnh đạo của Bộ Chính trị và nhà lãnh đạo mới là Lê Duẩn, Bí thư Thứ nhấtĐảng Lao động Việt Nam,
một nhà cách mạng theo đường lối cứng rắn đã trải qua những nhà tù khắc
nghiệt nhất, tận mắt chứng kiến tình cảnh của những cán bộ Việt Minh ở miền nam sau Hiệp định Geneve trong Phong trào Tố cộng - Diệt cộng do Ngô Đình Diệm phát động. Lê Duẩn chủ trương dùng quân sự xóa bỏ nhà nước Việt Nam Cộng hòa, thống nhất Việt Nam dù Việt Nam Cộng hòa được Hoa Kỳ hỗ trợ về mọi mặt.
Dù có thói quen viết hồi ký, Võ Nguyên Giáp vẫn chưa xuất bản cuốn nào về giai đoạn 1954-1971. Đây là thời kỳ Lê Duẩn từ vị trí lãnh đạo Trung ương Cục miền Nam
tiến đến điều hành Bộ Chính trị. Một mặt, nhà lãnh đạo này xem trọng Võ
Nguyên Giáp, mặt khác, vẫn giữ ấn tượng về việc lãnh đạo Việt Minh
đồng ý rút ra bắc theo Hiệp định Geneve với Pháp. Theo các sử gia
phương Tây, họ chia sự hợp tác giữa 2 nhân vật quyết định chiến tranh ở
cấp cao nhất này thành 3 giai đoạn:
Từ năm 1954 đến năm 1964, thời gian Lê Duẩn mới ra miền Bắc nắm quyền chính trị và Võ Nguyên Giáp với tư cách người chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ, cả hai nhất trí hầu hết các điểm về đường lối quân sự;
Từ năm 1965 đến năm 1972
(giai đoạn Mỹ trực tiếp tham chiến), thời gian Lê Duẩn nắm toàn quyền
chính trị và ý kiến Võ Nguyên Giáp thường bị xem là chưa đủ cứng rắn; [cần dẫn nguồn]
Từ năm 1972 đến năm 1975 (giai đoạn Mỹ rút quân), Lê Duẩn trao toàn quyền chỉ huy quân sự cho Võ Nguyên Giáp. [cần dẫn nguồn]
Thậm chí còn có ý kiến cho rằng tướng Giáp không có vai trò quan trọng trong việc định hình chiến lược chiến tranh của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
sau năm 1965 mà ông còn thật sự phản đối cuộc chiến ngay từ đầu. Vào
thời gian cuộc chiến chống Mỹ tại miền Nam Việt Nam nổ ra vào năm 1965,
Võ Nguyên Giáp đóng một vai trò chủ yếu mang tính nghi lễ giống như Hồ
Chí Minh. Ông trở thành "một khuôn mặt của các nỗ lực chiến tranh
chống Mỹ, một công cụ tiếp thị, cho một phe cánh trong Đảng, những người
thiếu danh tiếng, uy tín và tính hấp dẫn trên trường quốc tế". Cũng theo quan điểm này, Sự kiện Tết Mậu Thân
năm 1968 không liên can gì tới tướng Giáp mà là chủ trương của Lê Duẩn
vì ông Giáp chống lại chủ trương này. Chính Lê Duẩn là người chỉ đạo
chính trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, là kiến trúc sư của chiến thắng
của người cộng sản vào năm 1975.
Tuy nhiên nghiên cứu các tài liệu của Việt Nam, Giáo sư Nguyễn Quang Ngọc
từ chối cho rằng vai trò của Tướng Giáp bị làm cho lu mờ bởi những
thành viên Bộ Chính trị trong giai đoạn cuộc chiến tranh chống Mỹ. Ông
cho rằng không hề có một sự phân chia ê-kíp trong nội bộ Bộ Chính trị
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa như các nhà sử học phương Tây vẫn phán đoán,
mà theo đó Tướng Giáp được cho là thuộc phái "chủ hoà".
Đại tướng Võ Nguyên Giáp cũng viết trong hồi ký: "Với tôi, những năm công tác trong Bộ Chính trị, Anh (tức Lê Duẩn)
đã thường xuyên trao đổi ý kiến, thường là nhanh chóng đi đến nhất trí
trong những vấn đề lớn; khi có ý kiến khác nhau thì tranh luận thẳng
thắn, những điều chưa nhất trí thì chờ thực tiễn kiểm nghiệm. Lúc mới ra
Bắc, Anh thường tâm sự với tôi những khó khăn trong công việc... Từ sau
Đại hội III và Đại hội IV, tôi đã ba lần đề nghị Anh là Tổng Bí thư
kiêm luôn Bí thư Quân ủy Trung ương, nhưng Anh nói với tôi: "Anh (tướng
Giáp) là Tổng chỉ huy lâu năm nên tiếp tục làm Bí thư Quân ủy Trung
ương, như vậy có lợi cho lãnh đạo".
Từ 1954 đến 1964
Võ Nguyên Giáp năm 1954
Từ năm 1954 đến năm 1956, Võ Nguyên Giáp chủ trương đấu tranh hòa bình, yêu cầu Việt Nam Cộng hòa
thực hiện Hiệp định Geneve vì một Việt Nam thống nhất, không chia rẽ về
tình cảm và chính trị. Tuy nhiên, Ngô Đình Diệm đã thẳng thừng bác bỏ
đề nghị này bằng Phong trào tố cộng diệt cộng.
Từ năm 1957 đến năm 1958,
Đảng Lao động đã có những cuộc họp bàn về cách mạng Miền Nam nhưng chủ
trương, biện pháp đấu tranh vẫn chưa thay đổi, phong trào cách mạng tiếp
tục bị đàn áp và tổn thất nặng nề.
Tháng 1-1959, khi hy vọng thi hành Hiệp định Genève không còn, Ban
Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị (mở rộng) lần thứ 15, Võ Nguyên
Giáp giúp Bộ Chính trị và những người cộng sản miền nam do Lê Duẩn đứng
đầu ban hành Nghị quyết 15 Bộ Chính trị, khẳng định việc giải phóng miền
nam bằng đấu tranh vũ trang, cho phép những cán bộ kháng chiến còn lại ở
miền nam tổ chức hoạt động vũ trang.
Năm 1959, được Bộ Chính trị đồng ý, Võ Nguyên Giáp đã quyết định thành lập Đoàn 559 mở đường mòn dọc dãy Trường Sơn để tiếp ứng phong trào cách mạng miền nam Việt Nam. Nhờ việc mở đường Trường Sơn, phong trào cách mạng và hoạt động du kích miền Nam phát triển rất mạnh. Sau 4 năm, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã thành lập được một số đơn vị cấp trung đoàn.
Năm 1964, được Bộ Chính trị đồng ý, Võ Nguyên Giáp đã bí mật cử Nguyễn Chí Thanh, Lê Trọng Tấn vào chiến trường Đông Nam Bộ chỉ huy quân giải phóng miền Nam đánh lớn tại Bàu Bàng, Dầu Tiếng, Đồng Xoài... tạo chuyển biến chiến trường và thành lập các Sư đoàn 1, 2, 3, 5, 7, 9 nổi tiếng. Trong đó, Sư đoàn 1 trấn thủ Tây Nguyên, Sư đoàn 2 trấn thủ Quảng Nam, Quảng Ngãi, Sư đoàn 3 Sao Vàng trấn thủ Bình Định, trung đoàn 10 trấn thủ Phú Yên, trung đoàn 20 trấn thủ Khánh Hòa, Sư đoàn 5 trấn thủ khu vực Sài Gòn - Gia Định, Sư đoàn 7 cơ động chiến đấu khắp Quân khu 7 gồm Lâm Đồng, Ninh Thuận, Đồng Nai, Tây Ninh, Bình Thuận, Bình Phước và Sư đoàn 9 di chuyển chiến đấu khắp Tây Ninh và Quân khu 9.
Năm 1965, chia lửa với Nam Bộ, Hoàng Minh Thảo, người học trò của Võ Nguyên Giáp ở trường Thăng Long được cử vào Mặt trận Tây Nguyên làm Phó Tư lệnh rồi Tư lệnhMặt trận B3 thay Chu Huy Mân chuyển sang chỉ huy Mặt trận duyên hải Nam Trung Bộ đến khi chiến tranh kết thúc.
Năm 1965, Quân Mỹ bắt đầu thực hiện chiến lược chiến tranh cục bộ.
Quy mô quân viễn chinh Mỹ đã lên tới hơn 500.000 ngàn vào cuối năm
1967, cùng với đó là hàng ngàn máy bay, trực thăng và xe thiết giáp. Đối
phó với quân Mỹ, Võ Nguyên Giáp vấn kiên trì đường lối chiến tranh nhân dân - "trường kỳ kháng chiến" như Chiến tranh Đông Dương trước đó. Kết quả là hai cuộc tiến công mùa khô 1965-1966[cần dẫn nguồn] và 1966-1967[cần dẫn nguồn]
của Mỹ đã thất bại, họ đã không thể tiêu diệt được quân Giải phóng và
bình định miền Nam Việt Nam trong 18 tháng như kế hoạch ban đầu, và quân
Mỹ bắt đầu sa lầy vào một cuộc chiến hao tổn, mệt mỏi và không có dấu
hiệu kết thúc. Ký giả James Fox
nhận xét: tướng Giáp đã thi hành một đường lối không quá khác biệt
nhưng vô cùng hiệu quả, và quân Mỹ đã rút ra được rất ít bài học từ
người Pháp trước đó
Năm 1968, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương tại Hà Nội phát động cuộc Tổng Tấn công và Nổi dậy Tết Mậu Thân.
Bản thân ông đã tham gia lập kế hoạch, nhưng khi Hội nghị Bộ Chính trị
tháng 10 và tháng 12 năm 1967 quyết định mở chiến dịch thì ông đang đi
chữa bệnh ở Hungary. Ông trở về tháng 1 năm 1968. Hội nghị Trung ương lần thứ 14 tháng 1/1968 thông qua quyết định của Bộ Chính trị quyết định Tổng tiến công Chiến dịch Mậu Thân làm suy yếu ý chí xâm lược của Mỹ, thúc đẩy phong
trào phản chiến ở Mỹ và trên khắp thế giới nhưng về quân sự có những tổn
thất không đáng có và có nhiều vấn đề cần rút kinh nghiệm.
Từ 1972 đến 1975
Cuốn hồi ức mang tên "Tổng hành dinh trong Mùa xuân đại thắng" do Võ Nguyên Giáp xuất bản lần đầu năm 2001 đã thuật lại những hoạt động của ông vào giai đoạn cuối cuộc kháng chiến chống Mỹ từ năm 1972 đến năm 1975.
Năm 1972, sau đại thắng tại Chiến dịch Đường 9 Nam Lào,
với kho vũ khí hùng hậu, Võ Nguyên Giáp chủ trương khuếch trương chiến
quả bằng một kế hoạch quân sự ở Tây Nguyên, nơi có khả năng triển khai
lực lượng lớn, đánh lớn, gây những khó khăn lớn hơn cho Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Kế hoạch này đã bị nhà lãnh đạo Lê Duẩn
và Quân ủy trung ương bác bỏ do Tổng cục tình báo 2 nhận được thông tin
là Mỹ và Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã sớm biết và đã đón lõng tại Tây
Nguyên. Đồng thời do ở gần nên mặt trận Trị-Thiên cũng dễ bổ sung đạn
dược, quân số hơn, lại có 2 mục tiêu cực kỳ quan trọng là Huế và Đà Nẵng.
Một phương án mới được đưa ra. Quân Giải phóng sẽ chia quân mở 3
chiến dịch tại Trị-Thiên, Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Sau 2 tháng, trước
những thắng lợi lớn trong Chiến dịch Trị Thiên
và quân Giải phóng đã áp sát Huế, các lực lượng bổ sung được tiếp tục
đưa vào đây, còn mặt trận Tây Nguyên thì buộc phải ngừng tiến công do
hết dự trữ. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đề xuất vòng qua phía tây Huế, chia
lực lượng và hỏa lực đánh vào Vùng Chiến thuật I. Tuy nhiên các đơn vị
công binh mở đường do thiếu phương tiện nên thực hiện quá chậm, không
kịp phục vụ mục tiêu chiến dịch (con đường này sau đó đã phát huy tác
dụng vào chiến dịch mùa xuân năm 1975). 6 sư đoàn tham gia chiến dịch Trị Thiên gồm 312, 308, 324, 325, 320, 341 đã hành quân đánh trực diện từ phía bắc xuống Vùng Chiến thuật I, nơi có Quân đoàn I và lực lượng tổng trù bị của Quân lực Việt Nam Cộng hòa gồm các Lữ đoàn Biệt động quân, Sư đoàn Dù và Sư đoàn Thủy quân Lục chiến, được không quân và Hải quân Mỹ chi viện tối đa.
Cuối năm 1972, Võ Nguyên Giáp đã bố trí lực lượng đánh trả cuộc tập kích đường không của Không lực Mỹ
suốt 12 ngày đêm. Thất bại trong chiến dịch này buộc Mỹ phải chấp nhận
ký Hiệp định Paris với những điều khoản nhân nhượng mà chính họ trước đó
đã từ chối.[cần dẫn nguồn]
Năm 1974, để nắm vững tình hình thực tế chiến trường và có quyết sách
đúng đắn, Đại tướng cùng Tư lệnh trưởng Đoàn 559 Đồng Sĩ Nguyên và
chính ủy Đặng Tính đã vượt hàng trăm cây số đi thăm bộ đội Trường Sơn trên đường mòn Hồ Chí Minh và kiểm tra sự chuẩn bị cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy dự kiến vào mùa Xuân 1975.
Năm 1975, Võ Nguyên Giáp đã tán thành đề xuất của Trung tướng Hoàng Minh Thảo chọn địa bàn Nam Tây Nguyên làm hướng tấn công chiến lược, xin ý kiến Bộ Chính trị và cử Đại tướng Văn Tiến Dũng vào Nam chỉ đạo đánh đòn "điểm huyệt" vào hệ thống phòng ngự của Việt Nam Cộng hòa tại Buôn Mê Thuột. Chính ông nhân đà thắng trận Buôn Ma Thuột, trực tiếp ra lệnh Trung tướng Lê Trọng Tấn gấp rút giải phóng Đà Nẵng trong 3 ngày. Chính ông đề xuất và ra quyết định mở Chiến dịch Hồ Chí Minh mà trong đó Văn Tiến Dũng làm Tư lệnh, Lê Trọng Tấn, Lê Đức Anh, Trần Văn Trà làm Phó Tư lệnh, chỉ huy 5 cánh quân với sức mạnh của 20 sư đoàn đồng loạt tiến vào giải phóng Sài Gòn. Mệnh lệnh nổi tiếng nhất của ông chỉ đạo Chiến dịch Hồ Chí Minh là "Thần
tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa, tranh thủ từng phút,
từng giờ, xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam, quyết chiến và toàn
thắng".
Chiến tranh Đông Dương lần 3
Trong một thời gian ngắn từ tháng 7 năm 1960 đến tháng 1 năm 1963 ông kiêm thêm chức vụ Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học Nhà nước Năm 1978, ông thôi chức Bí thư quân ủy Trung ương, Lê Duẩn trở thành Bí thư và Văn Tiến Dũng làm Phó Bí thư Quân ủy Trung ương.
Đất nước mới vừa thống nhất ngày 30 tháng 4 năm 1975, đã bị quân
Khmer Đỏ vượt biên giới Tây Nam tiến vào Việt Nam và xung đột với Việt
Nam trong một thời gian dài, Khmer Đỏ được hậu thuẫn từ Trung Quốc và
sau đó có Thái Lan một phần gây xung đột biên giới với Việt Nam từ năm
1975 mãi đến năm 1990 mới chấm dứt, đỉnh điểm là cuộc Chiến tranh biên giới Việt-Trung, 1979 khiến chủ tịch nước lúc đó là Tôn Đức Thắng
phải ký sắc lệnh Tổng động viên Quân đội toàn quốc, với tư cách là Bộ
trưởng Bộ Quốc Phòng, Phó tổng tư lệnh ông lại một lần nữa chỉ huy quân
đội toàn quốc chiến đấu[cần dẫn nguồn]. Sau khi cuộc chiến tranh ở biên giới phía Bắc kết thúc, không có thay đổi lãnh thổ đáng kể giữa Việt Nam và Trung Quốc.
Ngày 7 tháng 2 năm 1980, ông thôi giữ chức Bộ trưởngBộ Quốc phòng nhưng vẫn tiếp tục là Ủy viên Bộ Chính trị (đến năm 1982) và Phó Thủ tướng phụ trách Khoa học - Kỹ thuật. Người thay thế ông ở Bộ Quốc phòng là Đại tướng Văn Tiến Dũng - Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam. Văn Tiến Dũng là một trong những lãnh đạo quân đội lâu năm nhất cùng thời với Võ Nguyên Giáp Năm 1983 ông được Hội đồng Bộ trưởng phân công kiêm nhiệm thêm vai trò Chủ tịch Ủy ban quốc gia dân số và sinh đẻ có kế hoạch khi Ủy ban này được thành lập (cùng với một số Bộ trưởng các Bộ và Tổ chức khác làm phó)
Nghỉ hưu đến khi qua đời
Nghỉ hưu
Năm 1991,
ông thôi chức ủy viên Trung ương, Phó Thủ tướng, nghỉ hưu ở tuổi 80.
Theo tiểu sử tóm tắt khi ông mất, ông đảm nhiệm Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ
trưởng đến tháng 12/1986.
Thời gian cuối đời, ông vẫn quan tâm và đưa ra một số lời bình luận
trên mặt báo về tình hình đất nước như có bài báo yêu cầu kiểm định và
báo cáo Đại hội Đảng Cộng sản X về Vụ PMU18, hay cuộc gặp gỡ và khuyến khích doanh nhân làm xuất khâu nông sản.
Vào ngày 1 tháng 11 năm 2007 ông gửi thư trong đó bày tỏ sự phản đối chủ trương xây dựng Nhà Quốc hội ở khu di tích 18 Hoàng Diệu.
Ông cũng có bài viết thực trạng và kiến nghị 6 vấn đề "cơ bản và cấp
bách" nhằm triển khai có kết quả công cuộc đổi mới nền giáo dục và đào
tạo của Việt Nam hiện nay. Vào đầu năm 2009, ông góp ý về Dự án khai thác bô xít ở Tây Nguyên, không dưới 3 lần, ông đã viết thư yêu cầu thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng dừng dự án này,vì lý do an ninh quốc gia và vấn đề môi trường.
Đại thọ 103 tuổi và qua đời
Dòng người vào viếng Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong chiều 12 tháng 10 năm 2013 tại Hà Nội
Ngày 25 tháng 8 năm 2011, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã mừng đại thọ tròn 100 tuổi.
Trong dịp ông bước sang tuổi 100 và tròn 70 năm tuổi đảng. Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã phát biểu "Một
vị đại tướng mà đã vào sinh ra tử, chiến đấu ở những chiến trường hết
sức khó khăn, là thế hệ cận vệ học trò xuất sắc của chủ tịch Hồ Chí Minh nay đã sống trên 100 tuổi, đây là điều hết sức vui mừng..."
Đại tướng cũng thường xuyên được các chính khách hàng đầu trên thế
giới đến thăm hỏi tại tư dinh của Đại tướng. Đại tướng được coi là một
tượng đài sống và có ảnh hưởng sâu rộng đến Việt Nam, tầm ảnh hưởng lớn
trong lòng mỗi người dân Việt Nam.
Khu mộ Đại tướng Võ Nguyên Giáp tại Quảng Bình
Sau 100 tuổi, sức khỏe của ông yếu hơn trước. Ngày 22 tháng 5 năm
2011, Đài Truyền hình Việt Nam đã phát sóng chương trình thời sự với
hình ảnh ông đang thực hiện việc bỏ phiếu thực hiện quyền công dân của
mình trong cuộc bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp, xóa đi
những đồn đoán về sức khỏe của ông trên những phương tiện thông tin
không chính thống.
Trong dịp Ngày Thương binh Liệt sĩ 27 tháng 7 năm 2011, Truyền hình
Quân đội nhân dân phát sóng hình ảnh Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Lê Hữu Đức
đến thăm hỏi một số tướng lĩnh cao cấp đang nằm điều trị tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, trong đó có Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Qua theo dõi trong hình ảnh thì sức khỏe Đại tướng đã tốt lên nhiều
Đại tướng Võ Nguyên Giáp qua đời vào hồi 18h09 phút ngày 4 tháng 10 năm 2013, tại Viện quân y 108, Hà Nội, nơi ông nằm điều trị từ năm 2009, hưởng thọ 103 tuổi (tuổi âm) và là Đại tướng Việt Nam sống thọ nhất.
Văn phòng Ban chấp hành Trung ương Đảng thông báo tang lễ Đại tướng Võ Nguyên Giáp được tổ chức trọng thể theo nghi thức Quốc tang trong hai ngày 12 và 13 tháng 10 năm 2013 và ông được an táng tại quê hương Quảng Bình, theo ý nguyện của ông và gia đình. Địa điểm an táng là khu vực Vũng Chùa - Đảo Yến thuộc xã Quảng Đông, Quảng Trạch tỉnh Quảng Bình, nằm cách đèo Ngang khoảng 4 km
"Võ Giáp": Tên ghi trên bằng cử nhân Luật năm 1935.
"Dương Hoài Nam": Bí danh hoạt động tại Trung Quốc từ ngày 3 tháng 5 năm 1940.
"Văn": Do Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt. Trong quân đội, ông thường được gọi thân mật là "Anh Văn". Bí danh
"Văn" này được dùng phổ biến nhất, được ký dưới "Mệnh lệnh khởi nghĩa
của Ủy ban chỉ huy lâm thời khu Giải phóng" ngày 12 tháng 8 năm 1945 và
Mệnh lệnh số 1371/TK ngày 7 tháng 4 năm 1975.
"Hưng": Bí danh ký trong bức thư ngày 30 tháng 1 năm 1954 của ông
gửi Hồ Chí Minh, Trường Chinh và Chính trị bộ để trình bày về chủ trương
tác chiến mới tại Điện Biên Phủ khi ông chuyển từ chiến thuật "đánh
nhanh, thắng nhanh" sang "đánh chắc, thắng chắc".
"Vân Đình" và "Hải Thanh": Dùng khi viết bài trên các tờ báo tiếng
Việt "Hồn trẻ" và tiếng Pháp "Notre Voix" (Tiếng nói của chúng ta), Le
Travail (Lao động) giai đoạn 1929-1930 và cuốn sách "Vấn đề dân cày"
(viết chung với Trường Chinh năm 1938)
"Chính Nghĩa": Bút danh tại một số bài bình luận quan trọng mang ý
nghĩa chỉ đạo toàn quân của Bộ chỉ huy chiến dịch và Bộ Tổng tham mưu
đọc trên Đài tiếng nói Việt Nam thời kỳ 1946 - 1954.
Đánh giá
Tại Việt Nam
Với hơn 50 năm tham gia hoạt động chính trị, trong đó có 30 năm là Tổng tư lệnh Quân đội, ông có uy tín lớn trong Đảng Cộng sản Việt Nam và trong Quân đội Nhân dân Việt Nam. Thông tin chính thống gần đây cho biết: "Tất cả các ý kiến của anh Văn đều được Bộ Chính trị tiếp thu và tán thành trong suốt thời kỳ chiến tranh". Thượng tướng Trần Văn Trà đã từng gọi Đại tướng Võ Nguyễn Giáp là "tư lệnh của tư lệnh, chính uỷ của chính uỷ". Thượng tướng Giáo sư Hoàng Minh Thảo khi được hỏi về trình độ đánh trận của các tướng lĩnh Việt Nam đã trả lời:
Ông Giáp đã xây dựng Quân đội Nhân dân Việt Nam từ 34 người vào tháng 12 năm 1944 thành một đội quân với hơn một triệu người năm 1975. Ông đã chỉ huy quân đội tốt trong cả hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ. Tên tuổi ông gắn liền với chiến thắng Điện Biên Phủ cùng với nỗi hổ thẹn của Quân lực Hoa Kỳ tại Việt Nam, với học thuyết "Chiến tranh nhân dân",
với toàn bộ cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước
Việt Nam. Nhà sử học Derek Frisby gọi ông là kiến trúc sư của quân đội
nhân dân Việt Nam, hoặc thậm chí có thể là của nước Việt Nam tồn tại như
ngày nay.
Một số người phương Tây chỉ trích ông tàn nhẫn, bất chấp tổn thất mạng sống để đạt đến mục tiêu. Tướng Mỹ William Westmoreland, đối phương của ông trong chiến tranh Việt Nam, coi ông là người tàn nhẫn, "Bất cứ tướng Mỹ nào chịu tổn thất nhiều như thế sẽ không giữ được chức trong vòng ba tuần". Westmoreland cho rằng: "Một sự coi thường mạng người như thế có lẽ sẽ tạo nên một đối thủ ghê gớm, nhưng nó không tạo nên một thiên tài quân sự." Nhà sử học quân sự Cecil Currey, trong quyển tiểu sử Victory at Any Cost (Chiến thắng bằng mọi giá),
cho rằng tướng Giáp đã dành trọn khát vọng cuộc đời đến 2 mục tiêu:
giải phóng Việt Nam ra khỏi sự đô hộ nước ngoài và thống nhất đất nước,
do đó ông đã "tách rời cảm xúc với những người cấp dưới cho nên chỉ xem họ như những con cờ
để mà sử dụng không ngần ngại, bề ngoài lạnh buốt của ông che đậy một
tính khí rất nóng nên người Pháp đã miêu tả ông là một núi lửa được
tuyết che phủ."
Đối với những chỉ trích từ phương Tây rằng ông là người tàn nhẫn,
chính bản thân Võ Nguyên Giáp đã từng trả lời một nhà báo Ý rằng: "Người
phương Đông chúng tôi khác người phương Tây các ông. Chúng tôi đặt sự
tồn vong của cộng đồng lên trên lợi ích cá nhân. Mỗi phút có hàng trăm,
hàng ngàn người chết trên trái đất này. Sự sống hoặc cái chết của hàng
trăm, hàng ngàn, thậm chí hàng chục ngàn con người, đối với đồng bào của
chúng tôi, cũng là không đáng kể (đối với sự nghiệp giành độc lập dân
tộc)". Ông cho biết: người Việt Nam sẽ sẵn sàng chịu bất kỳ hy sinh
nào và chiến đấu tới cùng để giải phóng đất đai của họ từ quân đội nước
ngoài, và ông cũng không ngoại lệ Trong hồi ký của mình, tướng Giáp chia sẻ: Nắm trong tay một đội quân
trang bị nghèo nàn và đối mặt với những đội quân trang bị tối tân nhất,
không thể nào giành chiến thắng mà không phải hy sinh, ông không thể
thay đổi điều đó mà chỉ có thể hạn chế tối đa mức độ hy sinh. Ông đã ra
quyết định ngừng Chiến dịch Điện Biên Phủ
thêm 2 tháng để thay đổi phương án tác chiến do e ngại việc đánh nhanh
thắng nhanh sẽ gây nhiều tổn thất. Sau một đêm lo lắng mất ngủ, ông kết
luận "sẽ là tự sát nếu đưa bộ đội vào trận đánh mà không chuẩn bị chống pháo binh, xe tăng và máy bay địch", và ông kiên quyết ra lệnh ngừng tấn công dù rằng khi đó áp lực rất lớn và ông coi đó là "quyết định khó khăn nhất trong cuộc đời" Thượng tướng Trần Văn Trà nói rằng tướng Giáp "là một tổng tư lệnh biết đau với từng vết thương của mỗi người lính, biết tiếc từng giọt máu của mỗi chiến binh"
Trả lời lại nhận xét của Westmoreland về Võ Nguyên Giáp, nhà sử học Derek Frisby
chỉ ra: tướng Giáp thừa hiểu một cuộc chiến kéo dài chắc chắn sẽ mang
lại nhiều tổn thất nhưng điều đó không có nghĩa là một phe nào đó chắc
chắn sẽ thắng hay thua; và chỉ cần quân đội Việt Nam còn tồn tại để tiếp
tục chiến đấu thì ý niệm về Việt Nam sẽ tiếp tục sống trong tâm khảm
của những người ủng hộ nó. Đó là bản chất của một cuộc chiến tranh cách mạng.
Những lời chỉ trích của Westmoreland dành cho tướng Giáp lại chính là
chìa khóa để hiểu tại sao viên tướng Mỹ đã không thể đánh bại Võ Nguyên
Giáp.
Theo Frisby, Võ Nguyên Giáp đã lợi dụng sự ỷ lại của người phương Tây
vào ưu thế vũ khí để đánh bại họ bằng những chiến thuật không ai ngờ
tới. Một ví dụ tiêu biểu là trận Điện Biên Phủ,
khi Võ Nguyên Giáp sử dụng những phương tiện thô sơ để đưa đại bác và
pháo phòng không đi xuyên qua những vùng địa hình tưởng chừng không thể
vượt qua được, và điều này đã khiến quân Pháp "chết điếng người"
Giáo sư Fredrik Logevall
nhận định, dù Võ Nguyên Giáp sẵn sàng chấp nhận tổn thất lớn để giành
chiến thắng, nhưng việc đánh bại Pháp và Mỹ không chỉ đơn giản là đánh
đổi bằng tổn thất lớn. Võ Nguyên Giáp đã thành công trong việc tận dụng
các lợi thế sẵn có như địa hình và sự ủng hộ của người dân để khắc chế
ưu thế về hỏa lực và vũ khí của Pháp và Mỹ, ngoài ra ông và các đồng sự
cũng tranh thủ được sự ủng hộ của những người dân Pháp, Mỹ phản đối
chiến tranh Nếu không có đường lối quân sự đúng đắn này thì dù Việt Nam có hy sinh
nhiều tới đâu cũng chỉ là vô ích trước những kẻ thù mạnh như Pháp và Mỹ.
Cecil B. Currey nhận xét: các tướng Pháp và Mỹ đều ỷ vào sự áp đảo của xe tăng, máy bay, pháo binh
với suy nghĩ là cứ chiếm thật nhiều vùng đất thì sẽ thắng, họ đã không
nắm được yếu tố căn bản của chiến tranh như Võ Nguyên Giáp. Ông có thể
thua trong một số trận đánh, nhưng kết quả chung cuộc thì ông luôn
thắng. Tư tưởng quân sự của Võ Nguyên Giáp vừa đúc rút từ lịch sử của
Việt Nam, vừa chấm phá bằng những màu sắc từ Lê Lợi, Trần Hưng Đạo, của Tôn Tử, Napoleon, của Thomas Lawrence
và nhiều người khác. Ông tạo nên những nét sáng tạo của chính mình trên
tấm vải là Đảng và nhân dân của ông. Bức tranh hoàn toàn là của riêng
ông - một kiệt tác nghệ thuật.
Các đánh giá khác:
“
Võ Nguyên Giáp là một trong 21 vị danh tướng của thế giới trong 25 thế kỷ qua, từ thời Alexandre Đại đế đến Hannibal rồi đến thời cận hiện đại với Kutuzov, Zhukov..., những người đã có chiến công tạo nên bước ngoặt của nghệ thuật chiến tranh.
Ông [Giáp] không quá nổi bật so với các tướng lãnh khác trong lịch sử, vì ông đứng cao hơn họ.
”
—Nhà sử học Derek Frisby,
“
Từ
năm 1944-1975, cuộc đời của Võ Nguyên Giáp gắn liền với chiến đấu và
chiến thắng, khiến ông trở thành một trong những thống soái lớn của mọi
thời đại. Với 30 năm làm tổng tư lệnh và gần 50 năm tham gia chính sự ở
cấp cao nhất, ông tỏ ra là người có phẩm chất phi thường trong mọi lĩnh
vực của chiến tranh. Khó có vị tướng nào có thể so sánh với ông trong
việc kết hợp chiến tranh du kích với chiến tranh chính quy. Sự kết hợp
đó xưa nay chưa từng có.
”
— Đại tướng Peter MacDonald, nhà nghiên cứu khoa học lịch sử quân sự người Anh
“
Tài
thao lược của tướng Giáp về chiến lược, chiến thuật và hậu cần được kết
hợp nhuần nhuyễn với chính trị và ngoại giao... Sức mạnh hơn hẳn về
kinh tế, tính ưu việt về công nghệ cùng với sức mạnh áp đảo về quân sự
và hỏa lực khổng lồ của các quốc gia phương Tây đã phải khuất phục trước
tài thao lược của một vị tướng từng một thời là thầy giáo dạy sử.
”
— Bách khoa toàn thư quân sự Bộ Quốc phòng Mỹ (xuất bản năm 1993)
“
Là
người tổ chức quân đội nhân dân, ông Giáp đã thực hiện được một sự tổng
hợp độc đáo các học thuyết quân sự mácxít kết hợp nhuần nhuyễn với
truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc, vận dụng khôn khéo vào những
điều kiện của một quốc gia có đất đai tương đối hẹp. Võ Nguyên Giáp đã
chứng minh rằng ông có những đức tính ngoài tầm cỡ bình thường trên mọi
lĩnh vực lớn của cuộc chiến tranh".
”
— Bách khoa toàn thư Pháp, mục từ về Võ Nguyên Giáp
“
Ông
Giáp đã chỉ huy quân đội Việt Nam chiến đấu giành thắng lợi trong một
thời gian đặc biệt lâu dài suốt 30 năm, một kỳ tích chưa từng thấy!
Vâng, không phải hiện nay mà muôn đời sau, tôi tin rằng cuộc đời và sự
nghiệp đầy huyền thoại của Đại tướng Võ Nguyên Giáp mãi mãi là tấm
gương, là niềm tự hào của mỗi người Việt Nam.
”
— Tướng Marcel Bigeard,
nguyên Bộ trưởng Quốc phòng Pháp, cựu thiếu tá chỉ huy phó của Pháp
trận Điện Biên Phủ, thành viên Học viện Quân sự Quốc phòng Pháp[116]
“
Đại tướng Võ Nguyên Giáp không phải là một người hiền lành. Ông không khác những chiến binh trong quá khứ, từ Attila, Tamerlane cho tới Napoleon, Zhukov, Patton, McAthur.
Người hiền lành không trở thành những vị tướng huyền thoại; họ dạy lớp
học giáo huấn, làm giáo sư lịch sử, hay giáo sĩ trong quân đội. Họ không
làm tràn đầy những sách với những chiến công của họ hay những chiến
trường với những xác chết. Giáp cũng không thể kể lại những câu chuyện
về lòng từ bi hay sự thương người của ông, có thể trừ quan hệ với gia
đình và con cháu, nhưng ngay cả họ chỉ nằm trong địa vị thứ ba hay thứ
tư trong đời ông. Tướng Giáp đã dành trọn tình cảm của ông đến đất nước
và toàn bộ sự hiến dâng đến Đảng Cộng sản. Ông đã tự hướng đến mục tiêu
giải phóng Việt Nam ra khỏi sự đô hộ nước ngoài và thống nhất đất nước.
Hai mục tiêu này đã giành toàn bộ sự chú ý của ông qua những thập niên
trong cuộc đời, và ông đã dành trọn khát vọng và niềm kiêu hãnh vô bờ
bến của mình vào đây. Mặc dù ông đã tách rời cảm xúc với những người cấp
dưới cho nên chỉ xem sinh mệnh của họ như những con tốt để mà sử dụng
không ngần ngại, bề ngoài lạnh buốt của ông đã che đậy một tính khí rất
nóng cho nên người Pháp đã miêu tả ông là một núi lửa được tuyết che
phủ.
”
— Cecil Currey, Chiến thắng bằng mọi giá
“
Trong
suốt thời gian đó [quá trình chỉ huy quân đội của vị tổng tư lệnh], ông
không chỉ trở thành một huyền thoại mà có lẽ còn trở thành một thiên
tài quân sự lớn nhất của thế kỷ 20 và một trong những thiên tài quân sự
lớn nhất của tất cả các thời đại... Ông Giáp là vị tướng duy nhất trong
lịch sử hiện đại tiến hành chiến đấu chống kẻ thù từ thế vô cùng yếu,
thiếu trang bị, thiếu nguồn tài chính, dù mới đầu trong tay chưa có
quân, vậy mà vẫn liên tiếp đánh bại tàn quân của đế quốc Nhật Bản, quân đội Pháp (một đế chế thực dân số 2) và quân đội Mỹ
(một trong hai siêu cường thế giới)... Ông Giáp là chuyên gia hiện hữu
vĩ đại nhất về chiến tranh nhân dân... là một vị tướng hậu cần vĩ đại
của mọi thời đại.
”
— Nhà sử học quân sự Mỹ Cecil Currey, trong tác phẩm "Chiến thắng bằng mọi giá - Sự thiên tài của Đại tướng Võ Nguyên Giáp của Việt Nam"
“
30
năm trước, trước khi nổ ra cuộc Đại chiến thế giới lần thứ I, ngày
25-8-1911, ở làng An Xá (tỉnh Quảng Bình), gần vĩ tuyến 17, đã sinh ra
một con người sẽ là một trong những người hiếm hoi làm chuyển dịch dòng
chảy của lịch sử. Người ấy sẽ xuất hiện trước toàn thế giới như vị tướng
của một quân đội sơ khai nhưng đã chiến thắng hai cường quốc phương
Tây, đó là Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Cho đến nay (ở tuổi gần 100), ông
vẫn luôn luôn còn đó, tràn đầy nhiệt tình và nghị lực. Những chiến thắng
là một liều thuốc bổ mạnh mẽ cho tâm hồn, những chiến thắng đã làm nên
sức khỏe cho ông.
”
— Đại tướng, sử gia Anh Peter Macdonald - tác giả cuốn Giap - an assessment, bản tiếng Pháp Giap - les deux guerres d’Indochine
“
Tài năng chiến lược của Tướng Giáp đã đặt ông vào ngôi đền của những nhà lãnh đạo quân sự vĩ đại. Sau Hồ Chí Minh,
ông là nhân vật quan trọng nhất trong lịch sử Việt Nam thế kỷ 20... Ông
ấy giống như một vị thánh. Không có gì khiến ông phải chấp nhận thất
bại.
Lý
do rất đơn giản...ông đánh bại không chỉ một mà hai thế lực phương Tây,
đầu tiên là Pháp và sau đó là Hoa Kỳ. Cả hai đều mạnh hơn ông về quân
sự, còn ông thì có rất ít phương tiện để sử dụng nhưng lại đã thành công
trong việc đánh bại cả hai quốc gia này, trong đó Hoa Kỳ là quốc gia
mạnh nhất thế giới về quân sự từ xưa đến nay, nhưng Giáp và quân đội của
ông vẫn đứng vững, và đó là lý do tại sao ông lại có vị trí cao quý như
vậy.
Giáp
là người có thân hình thấp bé... Ông có một thái độ kỳ cục: tự coi mình
như Napoleon của Châu Á. Ông muốn người khác nhìn ông như thế. Và tôi
cũng thấy thế.
”
— Lucien Conein, nhân viên tình báo Mỹ thuộc đội Con Na
Nếu như tiêu chí chọn tướng của Hồ Chủ tịch là "Đánh thắng Đại tướng
được phong Đại tướng" thì suốt cuộc đời mình, Đại tướng Võ Nguyên Giáp
đã lần lượt đọ sức và đánh thắng 10 đại tướng của Pháp và Mỹ (4 Pháp và 6 Mỹ),
chưa kể đến nhiều viên đại tướng của chính quyền Việt Nam Cộng hoà. Các
tướng lĩnh Mỹ khi nhắc đến ông vẫn thường gọi ông là "Đại tướng 5 sao",
William Westmoreland
gọi ông là "Tướng huyền thoại" (Legendary Giap)... Trong bách khoa toàn
thư của Mỹ và của nhiều nước, tên và hình ảnh của ông được ghi lại như
là một trong những vĩ nhân quân sự hiển hách nhất.
Kỷ niệm 60 năm ngày phát hành số đầu tiên, Thời báo châu Á (Time Asia)
đã ra số đặc biệt giới thiệu các "Anh hùng châu Á", gồm các nhân vật
làm thay đổi cục diện châu lục trong những thập kỷ gần đây. Những nhân
vật được giới thiệu gồm Mahatma Gandhi, Jawaharlal Nehru, Đại tướng Võ Nguyên Giáp, thiền sư Thích Nhất Hạnh,..
Trong một cuốn sách được xuất bản tại Anh năm 2008 mang tựa đề Great Military Leaders and Their Campaigns (Những nhà lãnh đạo quân sự lớn và những chiến dịch của họ).
Sách dày hơn 300 trang khổ lớn, với hơn 500 tấm ảnh màu minh hoạ của
Nhà xuất bản Thames & Hudson dành để giới thiệu 59 nhân vật danh
tiếng nhất trong lịch sử các cuộc chiến tranh của thế giới trong 2.500
năm qua, thứ tự được xếp theo trình tự thời gian từ cổ đến kim. Đại
tướng Võ Nguyên Giáp được lựa chọn là nhân vật thứ 59, tức là nhân vật
nổi bật nhất kể từ sau Thế chiến thứ hai cho tới hiện nay (xếp thứ 58 là Đô đốc Nimitz của Hoa Kỳ,
người chỉ huy mặt trận Thái Bình Dương trong Thế chiến II), và Võ
Nguyên Giáp cũng là người duy nhất trong 59 nhân vật vẫn còn sống khi
cuốn sách được xuất bản.
Danh tiếng của ông không chỉ bó hẹp ở Việt Nam mà các nước trên thế
giới khi nhắc đến tên Võ Nguyên Giáp đều bày tỏ sự ngưỡng mộ sâu sắc,
các dân tộc châu Phi và Mỹ La-tinh tin rằng chiến thắng Điện Biên Phủ
do ông chỉ huy là khởi nguồn cho nền độc lập ngày nay của họ. Khi ông
mất, hàng chục chính phủ các nước đã gửi điện chia buồn. Tổng thống Uruguay, Jose Mujica gọi ông là "vị tướng huyền thoại", người đã dành cả cuộc đời cho sự nghiệp đấu tranh chống áp bức và "gieo niềm tin rằng yếu tố con người chính là chìa khóa của thắng lợi". Bộ Ngoại giao Venezuela ra thông cáo khẳng định việc Đại tướng ra đi cũng là một tổn thất đối với người dân quốc gia Nam Mỹ này Tổng thống Algérie - Abdelaziz Bouteflika
- gọi ông là người anh hùng quân đội của nền độc lập Việt Nam, là nhà
chiến lược vĩ đại đã khiến cho thực dân Pháp phải kinh hoàng ở Điện Biên
Phủ, và tên tuổi ông "sẽ vẫn mãi khắc sâu trong ký ức của nhân dân Algeria.".
Các tác phẩm chính
Một số tác phẩm chính của Đại tướng như:
Tổng tập hồi ký"
Vấn đề dân cày (đồng tác giả với Trường Chinh), 1938;
Đội quân giải phóng, 1950
Chiến tranh giải phóng và quân đội nhân dân, ba giai đoạn chiến lược, 1950
Từ nhân dân mà ra, 1964;
Điện Biên Phủ, 1964;
Mấy vấn đề đường lối quân sự của Đảng, 1970;
Những năm tháng không thể nào quên, 1970
Vũ trang quần chúng cách mạng, xây dựng quân đội nhân dân, 1972;
Những chặng đường lịch sử (gồm 2 tác phẩm đã in trước đó là Từ nhân dân mà ra và Những năm tháng không thể nào quên), 1977;
Chiến đấu trong vòng vây, 1995;
Chiến tranh giải phóng dân tộc và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, 1979;
Đường tới Điện Biên Phủ;
Điện Biên Phủ điểm hẹn lịch sử;
Tổng hành dinh trong mùa xuân đại thắng, 2000.
Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam, 2000
Hồi ký tiếng Anh
Unforgettable Days, Vo Nguyen Giap, NXB Thế giới, 2003;
Dien Bien Phu, Vo Nguyen Giap, NXB Thế giới, 2004;
Fighting under Siege, Vo Nguyen Giap, Nhà xuất bản Thế giới, 2004;
Những
quyền tự do mà các ông (người phương Tây) tán dương chung quy chẳng có
nghĩa lý gì với đa số nhân loại. Các ông chỉ quan tâm đến sự tự do xa xỉ
của chính mình hơn là những sự tự do tối thiểu của đồng loại, là được
ăn 3 bữa một ngày và không có bệnh truyền nhiễm.
Thử hỏi nhân dân Ấn Độ được tự do du lịch thì có nghĩa lý gì khi họ
đang sống khốn khổ. Người da đỏ Mỹ Latinh có lợi gì khi được tự do mua
các ấn phẩm của phát xít
”
“
Mỹ thua ở Việt Nam vì Mỹ không hiểu người Việt Nam.
”
“
Giải
phóng dân tộc là nghĩa vụ thiêng liêng nhất của mỗi người Việt Nam yêu
nước, của toàn thể dân tộc Việt Nam. Nhân dân chúng tôi quyết tâm chiến
đấu bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam và thực hiện hòa bình, thống
nhất Tổ quốc.
”
“
Nghệ
thuật quân sự của chúng tôi, là lấy tinh thần chế ngự vật chất, lấy yếu
chế ngự mạnh, lấy thô sơ chế ngự hiện đại. Chúng tôi đánh bại quân đội
đế quốc hiện đại bằng tinh thần yêu nước của nhân dân cùng với chủ nghĩa
anh hùng Cách mạng
”
“
Chúng
tôi trả lời là từ "lo sợ" không có trong tư duy quân sự của chúng tôi,
bởi vì với chúng tôi, không có gì quý hơn độc lập tự do, chúng tôi quyết
đánh Mỹ và chúng tôi luôn tin tưởng là sẽ thắng.
”
“
Kẻ
địch mạnh thì ta tránh chúng. Kẻ địch yếu thì ta đánh chúng. Nơi nào có
du kích là có mặt trận, kể cả sau phòng tuyến địch. Đối phó với trang bị
tối tân của chúng, chúng ta có chủ nghĩa anh hùng vô bờ bến
”
“
Quân đội Nhân dân Việt Nam
ở cả miền Bắc và miền Nam, như Chủ tịch Hồ Chí Minh nói là một quân đội
anh hùng của một dân tộc anh hùng, có tinh thần quyết chiến rất cao,
thông minh và sáng tạo. Còn vị tướng dù có công lao lớn đến đâu cũng chỉ
là giọt nước trong biển cả. Chỉ có nhân dân Việt Nam là người đánh
thắng Mỹ. Các ngài gọi tôi là vị tướng thần thoại, nhưng tôi tự nghĩ tôi
bình đẳng với những người lính của mình.
”
Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 00:02 ngày 8 tháng 7 năm 2015.
Sóng gió của Đại tướng Võ Nguyên Gíáp
Một
hôm, tôi đến hỏi Đại tướng để xác minh lời kể của thượng Tướng Trần Văn
Trà. Đại tướng dẫn tôi ra ngoài vườn vì sợ trong nhà bị đặt máy ghi âm.
Đi hết mấy vòng sân vườn, Đại tướng xác nhận: Các điều anh Tư nói đều
đúng hết. Nhưng thôi đừng quan tâm. Lịch sử rồi sẽ minh xét như vụ án Lệ
Chi Viên, cụ Nguyễn Trãi bị chu di tam tộc nhưng lịch sử đã minh oan
lâu rồi.
Chiến dịch Điện
biên Phủ, tôi là chính trị viên đại đội pháo (Tô Vĩnh Diện) đã được gặp
đại tướng Võ Nguyên Giáp lần đầu tiên. Đại tướng rất thân tình với anh
em. Chúng tôi kính mến lắm. Khi Mỹ bắt đầu đánh phá miền Bắc, tôi làm
Tổng Biên tập báo Phòng không, Không quân. Năm 1970 tôi làm phó chính ủy
trung đoàn bảo vệ cầu Hàm Rồng (Thanh Hóa), rồi đưa cả đơn vị vào bảo
vệ Trường Sơn. Khi Trung Quốc đánh ta, tôi lại được chiến đấu ở biên
giới phía Bắc.
Từ ngày lãnh
trách nhiệm Tổng Biên tập tạp chí Lịch Sử Quân Sự (1982) tôi nhiều lần
được gặp Đại tướng để xin ý kiến. Trong các buổi gặp bao giờ Đại tướng
cũng rất thân tình, cung cấp nhiều tư liệu quý giá với những chỉ bảo
thật căn kẽ, thấu đáo.
Tôi rất khâm
phục trí tuệ uyên thâm, uyên bác và sức làm việc hết sức dẻo dai của Đại
tướng nhưng rất thắc mắc là tại sao năm 1980 Đại tướng đã thôi làm Bộ
trưởng Bộ Quốc phòng và năm 1982 đã thôi Uỷ viên Bộ Chính Trị.
Đôi lần trong bối cảnh thân tình tôi đã định hỏi trực tiếp Đại tướng nhưng rồi lại ngần ngại, lần lữa.
Một hôm, trong
một bữa cơm thân mật tại nhà thượng tướng Trần Văn Trà tôi nêu câu hỏi
vì sao Đảng không tận dụng tài thao lược và trí tuệ siêu việt của Đai
tướng Võ Nguyên Giáp trong lĩnh vực quốc phòng mà lại bắt Đại tướng phụ
trách việc sinh đẻ có kế hoạch?
Thượng tướng bảo tôi: Chủ yếu là do mâu thuẫn với anh Ba (Lê Duẩn) nhiều việc:
“Từ những năm
1950 anh Văn đã không đồng tình đánh Nhân Văn Giai Phẩm và ngay thời
gian đó vẫn thường thăm hỏi, sẻ chia chân tình với một số nhà văn có
tài”.
Anh Tư (tên
thường gọi của Thượng tướng Trần Văn Trà) kể tiếp: “Khi đánh xét lại anh
Văn bị coi như trùm trưởng dấu mặt. Đối với cải cách ruộng đất và cải
tạo công thương tư doanh cả ở miền Bắc và sau này ở miền Nam anh Văn
cũng không tán thành.
Mâu thuẫn với
anh Ba càng sâu sắc hơn khi sau ngày 30/4/1975 anh Ba chủ trương bắt
chính quyền Sài Gòn và quân đội Sài Gòn đi cải tạo trong khi mình thì
nhất trí với anh Văn là nên phân biệt hàng binh và tù binh, nên đối xử
với những người bại trân như nước Mỹ thế kỷ 18 trong chiến tranh Nam -
Bắc. Phía Bắc thắng, phía Nam đầu hàng mà không bị xử lý gì. Cha ông ta
xưa cũng từng đối xử với giặc Tàu bại trận như vậy”.
(Văn bia Vĩnh
Lăng kể về chiến công Lê Lợi- Nguyễn Trãi đánh thắng quân Minh còn ghi
rõ: “Những quân giặc bị bắt và những quân đầu hàng có đến mười vạn
người, đều tha cho về cả. Đường thủy thì cấp cho hơn 500 thuyền, đường
bộ thì cấp cho lương ăn và ngựa; răn cấm quân sỹ (của ta) không được xâm
phạm mảy may (đến quân giặc)”).
Một hôm, tôi
đến hỏi Đại tướng để xác minh lời kể của thượng Tướng Trần Văn Trà. Đại
tướng dẫn tôi ra ngoài vườn vì sợ trong nhà bị đặt máy ghi âm. Đi hết
mấy vòng sân vườn, Đại tướng xác nhận: Các điều anh Tư nói đều đúng hết.
Nhưng thôi đừng quan tâm. Lịch sử rồi sẽ minh xét như vụ án Lệ Chi
Viên, cụ Nguyễn Trãi bị chu di tam tộc nhưng lịch sử đã minh oan lâu
rồi.
Hôm ấy Đại tướng đã ký tặng tôi tấm ảnh chụp giữa hai người.
Tháng Hai năm
1984 Hội đồng Khoa học Hoàng gia Anh chọn 10 danh tướng trong số 90 vị
tướng nổi tiếng từ Cổ đại đến hiện đại .Việt Nam vinh dự được chọn 2 vị:
Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn và Đại tướng Võ Nguyên Gíap. Năm 1994
, kỷ niệm 50 năm ngày thành lập Quân Đội Nhân Dân Việt Nam, nhà xuất
bản Văn hóa-Thông tin nhờ tôi làm chủ biên xuất bản cuốn sách “10 danh
tướng thế giới”.
Tôi viết hai
phần: “Lời nói đầu” và “Đại tướng Võ Nguyên Giáp”. Về Đại tướng Võ
Nguyên Giáp tôi lấy tài liệu của Bách Khoa Toàn Thư về quân sự và quốc
phòng của Mỹ (International military Defende Encyclopedia). Họ ca ngợi
Đại tướng Võ Nguyên Giáp hết lời với nhiều tài liệu xác thực. Sách phát
hành, tôi bị người của Ban Tuyên Giáo Trung Ương đến nhà 4, 5 lần quy
kết tôi bịa đặt, quá đề cao Tướng Giáp.
Tin Đại Tướng
ra đi làm tôi quá xúc động nên có dấu hiệu bị tai biến mạch máu não. May
nhờ cấp cứu kịp thời và chỉ xuất huyết nhẹ nên đã qua khỏi.
Người đến viếng
nhà Đại tướng quá đông. Tivi đưa tin hàng trăm ngàn người. Xem tivi
thấy các phố đông kín người. Tôi rất lo không đi viếng được. May mà có
cháu của Đại Tướng đến đón nên 8 giờ sáng mồng 10/10, vợ chồng tôi đã
được vào lễ. Tôi phúng bức trướng ghi: “Kính Viếng Đại Tướng Võ Nguyên
Giáp Đại Danh Nhân Danh Tướng Thế Gian – Đời Đời Kiếp Kiếp Lưu Danh
Thiên Tài”.
Phạm Quế Dương – Hội Viên Hội Khoa Học Lịch Sử Việt Nam.
*Hùng Vương Vài nét tiểu sử
Đại tướng Võ Nguyên Giáp quê Quảng Bình, cùng quê với Tổng thống miền
Nam Ngô Đình Diệm. Cả hai ông Giáp và Diệm đều quê ở huyện Lệ Thủy, tỉnh
Quảng Bình. Tổng thống Diệm quê ở làng Đại Phong, đại tướng Giáp quê ở
làng Lộc Thủy, rất gần nhau, chỉ cách nhau vài cánh đồng.
Tổng thống Diệm sinh năm 1901, hơn tướng Giáp 10 tuổi.
Nhưng có lẽ vì cái tên huyện Lệ Thủy-nước mắt nhiều như nước-mà cả hai
ông Giáp-Diệm đều có những bất hạnh riêng. Riêng ông Diệm thì có kết cục
đau đớn hơn nhiều.
Trong tiểu sử của đại tướng Võ Nguyên Giáp, đăng trên trang Web của
Chính phủ, và của Đảng Cộng sản VN ta, ngày mồng 6 tháng 10 năm 2013,
thấy có nhiều sự cắt xén.
Chẳng hạn Tiểu sử này nói tháng 6 năm 1940, ông Giáp được kết nạp vào
Đảng, và sau đó, được Đảng cử sang Trung Quốc gặp Cụ Hồ Chí Minh. Nhưng
chính đại tướng Giáp nói Cụ Hồ là người kết nạp đại tướng vào Đảng, tại
Trung Quốc. Một tài liệu khác không chính thống nói ông Giáp cùng ông
Phạm Văn Đồng sang Trung Quốc ngày mồng 3 tháng 5 năm 1940 để gặp Cụ Hồ.
Như vậy ông Giáp sang Trung Quốc không phải là sau khi kết nạp Đảng vào
tháng 6 năm 1940, như trang Web của Đảng ta nói, mà phải lầ trước tháng
6. Dường như Đảng ta không muốn thừa nhận là Chủ tịch Hồ Chí Minh là
người kết nạp đại tướng Giáp vào Đảng.
Trong Tiểu sử của tướng Giáp do Đảng Cộng sản Việt Nam xuất bản, người
ta cũng chỉ thấy nói về một Ủy viên Bộ Chính trị Võ Nguyên Giáp, chứ
không thấy nói về một vị đại tướng Võ Nguyên Giáp. Tiểu sử không hề nói
đến các chiến thắng quân sự do đại tướng Giáp chỉ huy, ví dụ chiến thắng
Biên Giới, chiến thắng Điện Biên Phủ, và cuộc chiến tranh với người Mỹ. Như
vậy lại một lần nữa, cho đến ngay cả khi đại tướng Giáp qua đời, Bộ
Chính Trị của Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục cắt xén, che dấu nhiều
sự thật về sự nghiệp quân sự vẻ vang của đại tướng Võ Nguyên Giáp. Lê Duẩn tìm cách làm giảm vai trò của tướng Giáp trong chỉ đạo chiến tranh chống Mỹ, nhưng thất bại
Ghen ghét với tài năng quân sự lỗi lạc của tướng Giáp, ông Tổng Bí thư
Lê Duẩn, và Trưởng ban Tổ chức Trung ương Lê Đức Thọ tìm cách giảm bớt
vai trò của tướng Giáp trong chỉ đạo chiến tranh miền Nam. Nếu như trong
trận Điện Biên Phủ, Cụ Hồ giao cho đại tướng Giáp toàn quyền chỉ huy,
thì bây giờ, trong mọi việc hoạch định kế hoạch chiến tranh, tướng Giáp
chỉ còn là 1 phiếu trong tập thể Quân ủy Trung ương gồm 9 người. Tướng
Giáp tuy vừa là Tổng tư lệnh quân đội, vừa là Bộ trưởng Bộ quốc phòng,
vừa là Bí thư Quân ủy Trung ương, nhưng vẫn dưới quyền Tổng Bí thư Lê
Duẩn, và dưới quyền Trưởng ban Tổ chức Trung ương Lê Đức Thọ. Và cũng
dưới quyền Chủ tịch Quốc hội Trường Chinh- nguyên Tổng Bí thư cũ.
Có thể nói, trong cuộc chiến tranh với người Mỹ, và với quân đội Sài
Gòn, các kế hoạch mà đại tướng Giáp chỉ huy thì đều thắng lợi. Nhưng các
kế hoạch mà ông Lê Duẩn lập ra thì đều thất bại. Thất bại lớn nhất là
Tổng tấn công Mậu Thân năm 1968, đại tướng Giáp rất phản đối, vì không
thể “lấy gan vàng mà chọi với đạn sắt” được. Nhưng rất may cho Lê Duẩn,
và cho dân tộc Việt Nam ta, là từ thất bại về quân sự, nhưng lại dẫn đến
thắng lợi về chính trị, phong trào phản chiến ở Mỹ tăng lên.
Sau đó, người Mỹ vẫn chưa chịu ký Hiệp định Pari, mà tiến hành cuộc ném
bom 12 ngày đêm cuối năm 1972, gọi là Chiến dịch Linebacker, để gây áp
lực với ta trong ký Hiệp định Pari. Khi đó, Lê Duẩn quá hoảng sợ, hàng
ngày chui xuống hầm ngầm tránh bom, mọi kế hoạch tác chiến chống máy bay
Mỹ giao toàn quyền cho đại tướng Giáp.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã bố trí các trận địa tên lửa và pháo phòng
không hết sức tài tình. Chỉ trong 3 ngày đầu tiên, các tên lửa SAM của
ta đã bắn rơi 9 máy bay ném bom chiến lược B52 của Mỹ. Những ngày sau
đó, bắn rơi thêm 6 chiếc B52. Tổng số máy bay B52 bị bắn rơi trong 12
ngày đêm là 15 chiếc.
Chiến thắng này được gọi là “Điện Biên Phủ trên không”, và đã buộc Mỹ phải ký Hiệp định Pari vào ngày 27 tháng 1 năm 1973.
Nếu không có chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không” này, thì cuộc Tổng
tấn công Xuân Mậu Thân sẽ thất bại hoàn toàn, vì phong trào phản chiến ở
Mỹ tuy có tăng lên, nhưng vẫn không đủ để buộc Mỹ ký Hiệp định Pari.
Một thất bại khác của Lê Duẩn, là ông ta chỉ đạo cuộc Tổng tấn công
chiến lược đầu năm 1972, mà người Mỹ gọi là “Easter Offensive”, và quân
đội Sài Gòn gọi là Mùa hè đỏ lửa. Trong cuộc Tổng tấn công chiến lược
này, Lê Duẩn chỉ đạo chỉ có tấn công, mà không có phòng ngự, phòng ngự
là bị coi là hèn nhát. Trong hồi ký “Chiến trường mới” của Thượng tướng
Nguyễn Hữu An, và ý kiến của thượng tướng Hoàn Minh Thảo, đều phê phán
cách đánh chỉ có tấn công này. Kết quả là cuộc Tổng tấn công năm 1972
này ta cũng bị thiệt hại nặng, Quảng Trị, Huế lúc đầu giải phóng được,
nhưng sau đó lại bị quân đội Sài Gòn lấy lại. Trong
hồi ký này, tướng Nguyễn Hữu An cũng nói đến chiến dịch Cánh đồng Chum ở
Lào, quân dội ta giúp Pathet Lào đánh quân Thái Lan, nhưng không thành
công lắm, chỉ vì không làm đường tiếp tế theo như kế hoạch tướng Giáp
chỉ đạo.
Sau hai thất bại đau đớn đó, Lê Duẩn buộc phải giao toàn bộ chiến lược năm 1973, 1974, 1975 cho đại tướng Giáp chỉ huy.
Và cũng rất may, kế hoạch làm đường mòn Hồ Chí Minh từ đầu những năm
1960 đã được tướng Giáp gợi ý phải làm, và Lê Duẩn đã phải đồng ý, vì
con đường này rất lợi hại.
Cuối năm 1974, đại tướng Giáp và tướng Lê Trọng Tấn đã chọn Thượng Đức
làm trận đánh thăm dò khả năng 1 sư đoàn Bắc Việt đánh nhau với 1 sư
đoàn quân Sài Gòn, để thử khả năng đánh nhau cấp sư đoàn của quân đội
hai bên. Kết quả, trận Thượng Đức ta thắng, và điều đó cho Bộ chỉ huy
của tướng Giáp có nhận định từ nay, có thể đánh lớn từ cấp sư đoàn trở
lên, và khả năng kết thúc chiến tranh đã đến gần.
Năm 1975, Bộ chỉ huy của đại tướng Võ Nguyên Giáp đã chọn Tây Nguyên, và
Buôn Mê Thuột làm nơi trọng điểm để tấn công. Trước đây, Lê Duẩn luôn
phản đối chọn Tây Nguyên làm nơi tấn công chiến lược, vì ông ta cho rằng
đường vận chuyển khó khăn, và tầm quan trọng không bằng vùng ven biển,
gần quê Quảng Trị của ông. Nhưng bây giờ, ông Lê Duẩn quá mệt mỏi với
các thất bại của ông, nên đành để tướng Giáp toàn quyền chỉ huy.
Chính vì lẽ đó mà chúng ta có ngày chiến thắng 30 tháng 4 năm 1975, mặc
dù, nếu không có ngày đó, nếu nước ta vẫn tạm chia làm 2 miền, chung
sống hòa bình, cùng nhau thi đua làm cho nhân dân hạnh phúc, thì tốt
hơn.
Thế nhưng khi sắp đến ngày hái quả, thì Lê Duẩn cử tướng Văn Tiến
Dũng-đệ tử ruột của Duẩn, vào miềm Nam, làm Tổng Chỉ huy Chiến dịch Hồ
Chí Minh.
Và vị tướng hèn Văn Tiến Dũng trong hồi ký của mình “Đại thắng mùa
Xuân”, đã không hề có một chữ nào nói đến vai trò của tướng Giáp.
Có người hỏi tướng Giáp về cuốn sách này, tướng Giáp cười hiền hậu nói
lịch sử rất công bằng, cứ yên tâm, ai như thế nào, rồi lịch sử sẽ làm
rõ. Tập đoàn Lê Duẩn-Lê Đức Thọ dựng chuyện, bới móc lý lịch tướng Giáp.
Bên cạnh việc tìm mọi cách tước bớt quyền lực của tướng Giáp trong chỉ
đạo chiến tranh Việt Nam, hai ông Duẩn-Thọ còn tìm cách bới móc lý lịch
của tướng Giáp, và dựng chuyện để đánh tướng Giáp.
Lý do vì sao 2 ông họ Lê này hùa nhau làm mọi cách để hạ thấp uy tín của
tướng Giáp, thì không ai biết rõ, chỉ phỏng đoán thôi. Sau này, khi
nước ta có nhiều tự do hơn, thì mới có thể lôi ra ánh sáng nhiều sự thật
thâm cung bí sử của Đảng ta được.
Cùng với 2 ông Duẩn-Thọ, sau này có thêm 2 ông Lê nữa là Lê Đức Anh, Chủ
tịch nước, và Lê Khả Phiêu, Tổng Bí thư, và cả Đỗ Mười, Tổng bí thư,
cũng vào hùa đánh đại tướng, nhưng đều thất bại.
Nghe nói việc dựng chuyện, cho tướng Giáp là phản động, chống Đảng bắt
đầu từ Hội nghị Trung ương 9 tháng 12 năm 1963, khi Đảng đưa ra Nghị
quyết đánh nhau bằng võ lực để giải phóng miền Nam, và “chống chủ nghĩa
xét lại trong phong trào cộng sản quốc tế”.
Khi đó, cả tướng Giáp, và Cụ Hồ đều muốn chung sống hòa bình với Mỹ và
với Chính phủ Ngô Đình Diệm. Chính Ngô Đình Nhu, cố vấn đặc biệt của
Tổng thống Diệm khi đó cũng nói là ông đã và đang có những mối tiếp xúc
bí mật với Cộng sản Bắc Việt. Không
phải vì tướng Giáp và Cụ Hồ sợ Mỹ, mà vì nghĩ rằng chung sống hòa bình,
thỏa hiệp, nhượng bộ thì có lợi cho dân tộc hơn. Khi đó Khrushev đang
là Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô, và ông Khrushev có chủ trương
chung sống hòa bình với Mỹ và với thế giới phương Tây. Khi đó, đầu những
năm 1960, người ta thấy ở khắp các cơ quan Nhà nước, cơ quan Đảng ở
miền Bắc Việt Nam đều học nhẩy valse, đó là văn hóa của Liên Xô được du
nhập vào Việt Nam, theo tư tưởng chung sống hòa bình.
Nhưng từ Hội nghị 9 tháng 12 năm 1963, người ta thấy phong trào nhảy
valse chấm dứt. Năm 1964, ông Khrushev bị Breznev thay thế, và đường lối
cứng rắn ở Liên Xô và toàn phe xã hội chủ nghĩa cũng thay thế đường lối
chung sống hòa bình.
Nhưng dư luận nhân dân Hà Nội chỉ bắt đầu biết rộng rãi về việc 2 ông Lê
Duẩn-Lê Đức Thọ đánh tướng Giáp là từ Đại hội Đảng 5, năm 1982.
Sau đó, việc đánh này kéo dài suốt 3 đại hội, Đại hội 5, từ ngày 27 đến
31 tháng 3 năm 1982, Đại hội 6 từ ngày 15 đến 18 tháng 12 năm 1986, và
Đại hội 7 từ 24 đến 27 tháng 6 năm 1991.
Tháng 7 năm 1980, Lê Duẩn-Lê Đức Thọ tước quyền Bộ trưởng Bộ Quốc phòng
của đại tướng Giáp, giao cho chức Bộ trưởng Quốc phòng cho đại tướng Văn
Tiến Dũng, đệ tử ruột của Lê Duẩn.
Đến Đại hội 5, năm 1982, nghe nói Lê Đức Thọ đã chất vấn đại tướng Giáp
khoảng gần 20 câu hỏi. Ví dụ Thọ hỏi tướng Giáp: “Ai kết nạp anh vào
Đảng”. Tướng Giáp bình thản trả lời: “Bác Hồ”.
Thọ im lặng. Sau đó, Thọ hỏi sang chuyện về bức thư mà tướng Giáp gửi
cho Liên Xô năm 1967. Đại tướng Giáp bình thản trả lời thư này tướng
Giáp viết do Bộ Chính trị phân công.
Thọ lại hỏi có phải tướng Giáp là con nuôi mật thám Pháp không. Đại
tướng Giáp trả lời “ Anh Thọ có chứng cứ nào về chuyện đó, thì xin đưa
ra đây”. Thọ nói sẽ bảo anh em bên an ninh chuẩn bị tài liệu. Nhưng sau
đó cũng không thấy ông Thọ đưa ra tài liệu gì cả. Chỉ có lời khai của ai
đó nói thế. Chỉ lời khai thì ai được cho tiền mà chẳng khai được.
Mặc dù không làm nhục được đại tướng Giáp, nhưng tại Đại hội 5 này, tập
đoàn Lê Duẩn-lê Đức Thọ cũng thành công trong việc loại đại tướng Võ
Nguyễn Giáp ra khỏi Bộ Chính trị, với lý do cao tuổi. Khi đó, năm 1982,
tướng Giáp 71 tuổi, đúng là cao tuổi thật. Nhưng ông Lê Duẩn sinh năm
1907, khi đó 75 tuổi, hơn tướng Giáp 6 tuổi, vẫn ở lại Bộ Chính trị. Ông
Lê Đức Thọ, cùng tuổi với tướng Giáp, sinh năm 1911, vẫn ở lại Bộ Chính
trị. Ông Trường Chinh, sinh năm 1907, hơn tướng Giáp 6 tuổi, vẫn ở lại
Bộ Chính trị. Ông Phạm Văn Đồng, sinh năm 1906, hơn tướng Giáp 5 tuổi,
vẫn ở lại Bộ Chính trị.
Năm 1984, kỷ niệm 30 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, làm tại Điện Biên
Phủ. Người ta không mời Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Nhưng khi buổi Lễ Kỷ
niệm bắt đầu, Đại tướng xuất hiện. Ông lên Điện Biên Phủ bằng xe riêng.
Cả rừng người òa lên khóc, chạy ra đón Đại tướng. Tập đoàn Lê Duẩn-Lê
Đức Thọ biết tướng Giáp rất có uy tín trong nhân dân, nên không dễ gì
đánh tướng Giáp.
Cũng năm 1984 này, tập đoàn Lê Duẩn-Lê Dức Thọ đưa ra một món võ cực
hiểm, hạ nhục tướng Giáp đến mức có thể uất ức mà chết. Khi đó, ông thủ
tướng Phạm Văn Đồng ký quyết định số 58/HDBT ngày 11 tháng 4 năm 1984,
bổ nhiệm Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Nguyên Giáp làm Chủ tịch Ủy
ban Quốc gia dân số và sinh đẻ có kế hoạch. Khi đó, người ta không gọi
một cách lịch sự, kín đáo, là Ủy ban dân số và Kế hoạch hóa gia đình, mà
gọi thẳng là Ủy ban Dân số và Sinh đẻ có kế hoạch.
Ông thủ tướng Phạm Văn Đồng vì sao lại hèn nhát đến mức nhắm mắt ký theo
lệnh của Duẩn-Thọ? Nếu ông Đồng có lương tâm và dũng khí, thì sẽ từ
chối không ký vào cái quyết định hạ nhục này. Làm sao mà một vị đại
tướng cầm quân 30 năm, đánh thắng 7 đại tướng Pháp, 3 đại tướng Mỹ,
chiến thắng 2 cuộc chiến tranh lừng lẫy, mà nay bị bổ nhiệm vào chức vụ
Chủ tịch Ủy ban sinh đẻ có kế hoạch? Thế mà ông thủ tướng Phạm Văn Đồng
cũng ký?
Mà ông Đồng là ai? Là người cùng với đại tướng Giáp sang Trung Quốc năm
1940 để gặp Cụ Hồ lần đầu tiên. Tình nghĩa với nhau như thế, mà nay,
lòng nào mà dám làm điều hạ nhục nhau như thế?
Ông thủ tướng Phạm văn Đồng hèn nhát đến thế là cùng.
Tập đoàn Lê Duẩn-Lê Đức thọ tiểu nhân đến thế là cùng.
Đến Đại hội Đảng 6, tháng 12 năm 1986, Lê Duẩn chết, Lê Đức Thọ nghỉ làm
cố vấn, Nguyễn Văn Linh làm Tổng Bí thư. Nhưng Lê Dức Thọ vẫn khuynh
loát Đại hội 6, lại đưa vấn đề lý lịch của tướng Giáp ra. Và lần này,
thấy xuất hiện Đỗ Mười, lúc này là Phó chủ tịch Hội đồng bộ trưởng. Có
lẽ vì Lê Đức Thọ hứa cho làm Thủ tướng, nên Đỗ Mười cũng vào hùa đánh
tướng Giáp.
Theo hồi ký Đoàn Duy Thành, nguyên Phó Thủ tướng, thì tại Đại hội 6
này, Đỗ Mười kéo ông Thành vào phòng riêng, rỉ tai nói Võ Nguyên Giáp
lúc 16 tuổi được Pháp cho sang Pháp học 6 tháng. Đỗ Mười nói với ông
Thành về nói lại cho các đoàn đại biểu khác dự Đại hội Đảng biết chuyện
này.
Nhưng việc đánh tướng Giáp ở Đại hội 6 không có kết quả, vì Đại hội đang bận vào chuyện làm kế hoạch đổi mới.
Đến đại hội 7, năm 1991, cả Lê Duẩn, Lê Đức Thọ đều đã chết, những tưởng
chuyện đánh tướng Giáp đã hết. Không ngờ, lại mọc ra 2 con người xảo
quyệt nữa, là Lê Đức Anh, Chủ tịch nước, và Lê Khả Phiêu, Thường trực
ban Bí thư, đệ tử ruột của Lê Đức Anh.
Trước khi vào Đại hội 7, nhóm Lê Đức Anh chỉ đạo Tổng Cục 2 nặn ra vụ
T4-Sáu Sứ để đánh tướng Giáp. Nếu thành công, rất có thể tướng Giáp sẽ
bị bắt, và vị tướng lừng danh của Việt Nam sẽ chỉ còn lại đại tướng Lê
Đức Anh, sắp lên Chủ tịch nước.
Thế nhưng vụ Sáu Sứ đã thất bại, vì chỉ toàn là thông tin do Tổng Cục 2 bịa đặt.
Kết thúc Đại hội 7, Lê Đức Anh lên Chủ tịch nước. Lê Đức Anh dở món võ khác.
Lê Đức Anh khi đó có một đệ tử ruột là Đặng Đình Loan, không rõ nghề
nghiệp, chỉ thấy tự giới thiệu là “Chuyên viên cao cấp của Bộ Chính trị
và Chủ tịch nước Lê Đức Anh”.
Nhà tên Loan này ở Hồ Tây, một biệt thự to, trong nhà treo đầy ảnh nữ
khỏa thân. Mấy người dân có chuyện oan trái, nghe nói tên Loan này có
thế lực, nên tìm đến nhà tên Loan để nhờ giúp đỡ chuyện oan trái, đã
thấy các bức ảnh khỏa thân này, và thấy rất xấu hổ.
Tên Loan này đi đến các địa phương, nhân danh chuyên viên cao cấp của Bộ
Chính trị, nói chuyện về tình hình trong nước, tình hình thế giới, và
sau đó, làm ra vẻ nhân tiện, nói chuyện tướng Giáp, đưa ra các vấn đề lý
lịch của tướng Giáp, rồi hủ hóa, rồi con nuôi mật thám Pháp,,,.Đã đến
mức ở một vài địa phương, người ta hạ ảnh tướng Giáp xuống, không treo ở
trên tường nữa.
Khi đó, năm 1997-1998, ở Hà Nội, người ta chuyền tay nhau một bức thư,
ký tên T.A., để đánh lại Lê Đức Anh, Lê Khả Phiêu, Đặng Đình
Loan,,,.Người ta rỉ tai nhau, rằng thư này chính là thư do đại tướng
Giáp viết, để giải thích rõ cho dư luận thấy được sự thật trong các vụ
đánh tướng Giáp.
Bây giờ, đại tướng Võ Nguyên Giáp đã về với tổ tiên, đi theo các cụ Lý
thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung,,.Đại tướng nói rất
đúng, lịch sử rất công bằng. Và lòng dân rất công bằng. Nhìn hàng vạn
người dân kính cẩn đi đưa tiễn đại tướng về nơi an nghỉ cuối cùng, người
ta thấy rõ đại tướng đã có chỗ đứng thiêng liêng trong lòng người dân
Việt Nam.
Những kẻ tiểu nhân đánh đại tướng, thì lập tức nhìn thấy ngay hậu quả
nhãn tiền. Lê Duẩn, Lê Đức Thọ khi nằm xuống, chẳng có mấy người dân nào
đến viếng. Sắp tới đây, khi Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Lê Khả Phiêu nằm
xuống, cũng sẽ chẳng có mấy người dân đến viếng. Sẽ có người đến nghĩa
trang Mai Dịch, tìm đến mộ của Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Lê Đức Anh, Đỗ
Mười,,,, để đái xuống.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã có thêm một quyết định rất sáng suốt, là
được an táng ở quê nhà Quảng Bình. Bởi vì, đại tướng không thể nằm chung
một chỗ ở Mai Dịch với tập đoàn tiểu nhân, bẩn thỉu Lê Duẩn, Lê Đức
Thọ, và tương lai là Lê Đức Anh, Đỗ Mười, Lê Khả Phiêu,,,.///
LÊ DUẨN VÀ VÕ NGUYÊN GIÁP
Hôm nay kỷ niệm 106 năm ngày sinh ông Lê Duẩn, cố Tổng Bí thư Đảng
cộng sản Việt Nam, nhiều báo và blog đã đăng bài về ông, trong đó có cả
bài của Tiến sĩ Lê Kiên Thành nhắc lại những kỉ niệm về cha mình với
nhan đề: "Cha tôi, Lê Duẩn và kỉ niệm với Trung Quốc". Tôi thì vẫn ấn
tượng với câu nói hão nổi tiếng của ông năm 1976: "Trong vòng 10 năm tới
mỗi gia đình Việt Nam sẽ có một radio, một TV và một tủ lạnh". Cùng
thời gian này, cả nước đang sôi nổi kỉ niệm 38 năm ngày giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975). Hai nhân vật lịch sử nổi tiếng
nhất gắn liền với sự kiện trọng đại này là ông Lê Duẩn và ông Võ Nguyên
Giáp. Có nhiều tin đồn đã lan truyền về cách ứng xử không đẹp của ông
Duẩn với ông Giáp sau năm 1975. Nhân dịp sinh nhật cố Tổng Bí thư, blog E
xin giới thiệu một bài viết đã được phổ biến trên mạng về hai nhân vật
nói trên. (NCT).
Có rất nhiều câu chuyện về mối quan hệ giữa Võ
Nguyên Giáp và Lê Duẩn được lan truyền trong dân chúng. Trong những câu chuyện
đó, thực cũng có mà hư cũng có. Sau năm 1975, người đời thường bàn tán, ca ngợi
ông Giáp giỏi chữ “Nhẫn”, nếu không, khó tránh khỏi tai họa? Một vị tướng huyền
thoại, một khai quốc công thần, tự nhiên lại bị “thất sủng” như vậy, làm người
dân trong nước và nước ngoài đều kinh ngạc. Nếu chúng ta nhìn lại lịch sử thế
giới cũng như lịch sử dân tộc Việt Nam, thì cái sự thăng trầm ấy của
ông Giáp là có thể hiểu được. Xưa nay, người quân tử bao giờ cũng thường thua
tiểu nhân đó sao!
Từ rất sớm, ông Giáp đã có vị trí rất cao trong
Đảng và Nhà nước. Năm 1940, Võ Nguyên Giáp và Phạm Văn Đồng sang Trung Quốc gặp
Hồ Chí Minh tại Thúy Hồ, Côn Minh. Cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa Võ Nguyên Giáp và
Hồ Chí Minh có thể nói là cuộc gặp gỡ lịch sử. Hai người sau này trở thành hai
nhân vật nổi bật nhất trên bầu trời chính trị Việt Nam.
Võ Nguyên Giáp là người hết sức thân cận Hồ Chí
Minh, ngay từ những ngày còn hoạt động bí mật, cùng nằm trong một cái lán giữa
rừng suy nghĩ về con đường giải phóng. Có thời gian, Hồ Chí Minh mệt nặng tưởng
chừng không qua khỏi, Võ Nguyên Giáp luôn ở bên cạnh và đã đón thầy lang bốc
thuốc khỏi bệnh. Chiến dịch Biên Giới, cả Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp đều ra
trận và đã giành đại thắng. Võ Nguyên Giáp có lần đánh đàn piano để Hồ Chí Minh
nghe. Hồ Chí Minh gọi Võ Nguyên Giáp là người anh Cả của quân đội. Giáo sư Đặng
Thai Mai nói với con gái, ông Cụ cưng và thương anh Văn.
Sau ngày lập nước, Võ Nguyên Giáp đã là Bộ trưởng
Nội vụ, Chủ tịch Quân sự ủy viên hội, Bí Thư Đảng đoàn Chính phủ, là nhân vật
trên thực tế chèo lái Nhà nước Cộng hoà non trẻ khi Hồ Chí Minh đi Pháp 4 tháng.
Ông là một nhà báo, từng làm Chủ tịch Hội báo chí Bắc Kỳ, một cử nhân kinh tế,
một nhà luật học. Ông còn là một nhà ngoại giao sắc sảo, làm người Pháp phải nể
phục tại Hội nghị Đà Lạt.
Lê Duẩn thì khác. Ông hoạt động chủ yếu ở miền
Trung và miền Nam, lần thứ hai bị tù Côn Đảo sau cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, cách
mạng tháng Tám thắng lợi mới được tàu ra đón về. Trong cuộc chiến với người
Pháp, ông vẫn tiếp tục hoạt động ở miền Nam. Bấy giờ, ông được dân chúng
miền Nam yêu mến, còn các nhà lãnh đạo thì gọi ông là “ông 200 ngọn nến” – chỉ
độ sáng đặc biệt trong tư duy của ông. Mặc dù là Bí thư Xứ ủy Nam Bộ, song về
mặt chính quyền, ông chỉ là Trưởng phòng dân quân. Trong khi đó, ông Giáp là
Tổng tư lệnh, chỉ đạo chiến trường cả nước, kể cả chiến trường Lào và Miên. Nam
Bộ lúc bấy giờ có một loạt tên tuổi vang bóng: Trung tướng Tư lệnh Nguyễn Bình,
các trí thức nổi tiếng Kha Vạn Cân, Ung Văn Khiêm, Trần Bửu Kiếm, Phạm Ngọc
Thuần, Luật sư Nguyễn Thành Vĩnh, Giáo sư Phạm Thiều…
Năm 1952, Lê Duẩn có ra Bắc và lần đầu tiên gặp
Võ Nguyên Giáp. Thế mà, không hiểu căn cứ vào đâu, Lê Kiên Thành, con trai Lê
Duẩn, trong một cuộc trả lời phỏng vấn, trích một câu của ông Giáp nói: “Đời
tôi đi làm cách mạng là nhờ anh Ba”???!!!
Chiến trường chính trong cuộc chiến với người Pháp
là chiến trường Bắc Bộ. Mặc dù phải chiến đấu trong vòng vây, Võ Nguyên Giáp
chỉ huy ba quân đối đầu và lần lượt hạ đo ván bảy tướng Pháp: Lơcle, Valuy,
Bledô, Cácpăngchiê, Đờlát, Xalăng và Nava. Sau chiến thắng Điên Biên Phủ, hòa
bình được lập lại trên nửa nước Việt Nam, tên tuổi Võ Nguyên Giáp vang dội trên
toàn thế giới, chỉ sau Hồ Chí Minh. Khi ấy, ở miền Bắc, dân chúng chưa được
biết nhiều về Lê Duẩn.
Lê Duẩn đã sớm tiên đoán không thể có bầu cử
thống nhất hai miền và đã soạn thảo Đề cương cách mạng miền Nam. Cũng thời
điểm ấy, Võ Nguyên Giáp được Hồ Chí Minh giao phụ trách chỉ đạo soạn thảo Nghị
quyết 15, với hai người giúp việc là Hoàng Tùng và Trần Quang Huy. Điều ngạc
nhiên là tư tưởng của Lê Duẩn và Võ Nguyên Giáp về cách mạng miền Nam có nhiều điểm
trùng hợp.
Năm 1957, Lê Duẩn được Hồ Chí Minh điều ra Bắc.
Lúc bấy giờ, Trường Chinh phải từ chức sau sai lầm cuộc cải cách ruộng đất. Hồ
Chí Minh là Chủ tịch Đảng kiêm Tổng bí thư với hai trợ lý là Võ Nguyên Giáp và
Nguyễn Duy Trinh. Lê Duẩn rất khéo léo trong các mối quan hệ, có nhiều ý kiến
sắc sảo. Võ Nguyên Giáp đề nghị Bộ Chính trị cử Lê Duẩn làm Phó Tổng bí thư để
dễ làm việc, song Lê Duẩn từ chối và nói “nên chờ đến Đại hội quyết định”. Khi
được đề nghị làm Trưởng ban chuẩn bị Báo cáo chính trị (Đại hội III), Lê Duẩn
cũng từ chối và nói: “Đã 10 năm không ở miền Bắc, chủ trì chuẩn bị Báo cáo
chính trị e khó khăn, vì vậy đề nghị hai đồng chí Trường Chinh và Võ Nguyên
Giáp cùng tham gia Ban chuẩn bị Báo cáo chính trị”.
Đại hội III đã bầu Lê Duẩn làm Bí thư thứ nhất.
Võ Nguyên Giáp đã ba lần đề nghị Lê Duẩn kiêm luôn Bí thư Quân ủy Trung ương
nhưng Lê Duẩn nói: “Anh là Tổng chỉ huy lâu năm nên tiếp tục làm Bí thư Quân ủy
Trung ương, như vậy có lợi cho lãnh đạo”. Có thể thấy, Võ Nguyên Giáp đối với
Lê Duẩn rất thiện chí.
Sau ngày đất nước thống nhất, hành trình của hai
ông có vẻ ngược nhau. Trong khi tiếng nói của Lê Duẩn trong mọi lĩnh vực có
tính chất quyết định, thì Võ Nguyên Giáp dần dần không còn đảm đương Bộ trưởng
Quốc phòng, Bí thư quân ủy Trung ương nữa. Đến năm 1982, Võ Nguyên Giáp không
còn ở trong Bộ Chính trị và đến năm 1991 thì ông thôi đảm đương các chức vụ
chính thức. Lê Duẩn mất năm 1986, trước Đại hội VI – Đại hội “Đổi mới”. Các nhà
nghiên cứu thường tự hỏi, nếu Lê Duẩn còn sống, liệu có cuộc “đổi mới” hay
không?
Ông Giáp có một gia đình hoà thuận, hạnh phúc,
gần như không bị mang tiếng bất cứ điều gì. Trái lại, đời sống riêng gia đình
ông Duẩn nhiều khi sóng gió, với hai bà vợ. Bà vợ hai Nguyễn Thuỵ Nga sau khi
ra Bắc phải sang Thiên Tân học. Bà đã kể lại cho nhà báo Xuân Ba nghe rất nhiều
sự kiện xung quanh cuộc sống của gia đình bà.
Khi mới ra Bắc, Lê Duẩn thường tâm sự với Võ
Nguyên Giáp những khó khăn trong công việc. Và ông thường kể với ông Giáp, năm
1940, nhờ có chị Thái (vợ đầu ông Giáp) nên Lê Duẩn thoát khỏi án tử hình.
Võ Nguyên Giáp đánh giá:
“Trong hơn 10 năm đầu xây dựng CNXH trên cả
nước, đã phạm sai lầm nghiêm trọng: muốn nhanh chóng thực hiện kinh tế XHCN với
hai thành phần quốc doanh và tập thể ở trình độ cao; vận dụng triệt để cơ chế
kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bài xích mọi quan hệ thị trường…vội vã nhập
tỉnh, nhập huyện, nhập xã, nhập HTX…Những chủ trương không phù hợp quy luật đó
đã làm cho nền kinh tế nước ta lầm vào khủng hoảng trầm trọng…”. “Những khuyết
điểm, sai lầm nói trên là trách nhiệm chung của Bộ Chính trị và Trung ương,
trong đó anh Ba là người chủ trì có trách nhiệm lớn”.
Anh Ba “có những phản ứng quá mức đối với
những ý kiến khác mình. Điều đó đã hạn chế không khí dân chủ nội bộ, nhất là về
những năm cuối đời”.
Võ Nguyên Giáp viết rất nhiều tác phẩm quân sự
xuất sắc. Còn Lê Duẩn thường không tự mình viết, mà nói ý cho trợ lý, thư ký
ghi rồi ông xem lại. Võ Nguyên Giáp đạt được sự yêu mến gần như tuyệt đối của
toàn quân, là người anh Cả đầu tiên và duy nhất của quân đội. Võ Nguyên Giáp là
một nhà sử học hàng đầu, còn là một nhân chứng đặc biệt. Thế giới nghiên cứu
nhiều về Võ Nguyên Giáp. Phương Tây đặc biệt ca ngợi Võ Nguyên Giáp – kể cả
những người từng là đối thủ của ông. Đờ Cát nói ông rất tự hào khi được thua
trận trực tiếp ông Giáp.
Hai con người. Hai tài năng. Hai tính cách. Hai
số phận. Có giống nhau và có khác nhau. Tôi không dám và tất nhiên – không đủ
tư cách để so sánh hai ông, chỉ phác lên vài nét về hai ông, qua các tài liệu
lịch sử đã được công bố công khai.
Võ Nguyên Giáp có một bài viết về Lê Duẩn rất
thiện chí với những đánh giá rất thoả đáng. “Dĩ công vi thượng – đặt lợi ích
dân tộc lên trên hết” – đó là phương châm sống của Võ Nguyên Giáp, làm nên nhân
cách Võ Nguyên Giáp, cho nên, ông luôn được người đời ca ngợi và tự hào
Bức
ảnh kèm bài là hình ảnh TBT Lê Duẩn và Đại tướng Võ Nguyên Giáp bắt tay
các phi công thuộc “Phi đội Quyết Thắng” đã lái máy bay A37 thu được
của Mỹ trước đó ít ngày và bỏ bom sân bay Tân Sơn Nhất ngày 28/4/1975.
Phi đội gồm các phi công: Nguyễn Thành Trung (người của ta cài vào hàng
ngũ "địch"), 4 người khác là Từ Để, Nguyễn Văn Lục, Hoàng Văn Vượng và
Hán Văn Quảng - những phi công đang lái máy bay chiến đấu MIG vừa chuyển
sang tập huấn sử dụng máy bay A37 được 5 ngày ở Đà Nẵng. Ngoài ra, còn
có Trung úy Trần On, nguyên là hoa tiêu huấn luyện A37 của không quân
ngụy đã trình diện, nay xin tình nguyện tham gia chiến đấu. (NCT)
Theo từ điển Wikipedia, Ông Lê Duẩn có hai người vợ:
1.Bà Lê Thị Sương (25 tháng 12 năm 1910 - 6 tháng 8 năm 2008) kết hôn năm 1929 ở quê. Có bốn người con:
- Lê Hãn (sinh 1929), tên thường dùng là Lê Thạch Hãn, Đại tá Quân
đội Nhân dân Việt Nam, nguyên Cục trưởng Cục Quản lý các nhà trường Quân
đội, Tư lệnh Bộ Tư lệnh Bảo vệ Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã nghỉ hưu;
- Lê Thị Cừ;Chồng là Lê Bá Tôn (Cán bộ lãnh đạo của Bộ CN nặng).
- Lê Tuyết Hồng có chồng là Giáo sư, Tiến sĩ Hồ Ngọc Đại;
- Lê Thị Diệu Muội (1940-2008), Phó Giáo sư, Tiến sĩ sinh vật học.
(trùng họ tên với bà Muội khác là bạn ông Duẩn chứ không phải con của
ông ấy,như ai trước đây đã ghi nhầm. Bà này nguyên Ủy viên Ủy ban Kinh
tế và Ngân sách Quốc hội khóa V, Thứ trưởng Bộ Nội thương);
2.Bà
Nguyễn Thụy Nga (tên thường gọi Nguyễn Thị Vân hoặc Bảy Vân)[20][21],
kết hôn năm 1950 tại miền Tây Nam Bộ, do Lê Đức Thọ làm mối, Phạm Hùng
làm chủ hôn. Sau 1975, bà Nga làm Phó ban Tuyên Giáo Tỉnh ủy An Giang,
Phó Tổng Biên tập Phụ trách Hành chánh trị sự của Báo Sài Gòn Giải
phóng. Hiện bà sống ở Thành phố Hồ Chí Minh. Có ba người con:
-
Lê Vũ Anh, kết hôn giáo sư toán học Viktor Maslov người Nga ở Moskva,
mất năm 1981 do băng huyết khi sinh đứa con thứ ba (là con trai); cả 3
người con của bà sau này đều lớn lên và ăn học ở Nga, nhưng hiện tại đều
làm việc tại Anh.
- Lê Kiên Thành (sinh 1955), học kỹ sư hàng
không tại Liên xô, sau đó là phó tiến sĩ vật lý. Khi về nước chuyển
ngành sang kinh doanh, từng là Chủ tịch HĐQT Ngân hàng Kỹ thương
Techcombank, hiện là Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần Xây dựng và phát
triển đô thị; Chủ tịch HĐQT Công ty CP Chế biến Thực phẩm Thái Minh; chủ
một sân gôn và là Phó Chủ tịch thường trực Hội Gôn Việt nam. Ông còn là
thành viên Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt nam TP Hồ Chí Minh.
- Lê
Kiên Trung (sinh 1958), Cục trưởng Cục Hải quan Tp.HCM (từ tháng 12 năm
2007). Hiện là Thiếu tướng, Phó Tổng cục trưởng Tổng Cục An ninh II - Bộ
Công an (2011).
Võ Nguyên Giáp cũng có 2 người vợ
1. Ông
kết hôn lần đầu với chiến sỹ cách mạng Nguyễn Thị Quang Thái (Em gái nhà
cách mạng Nguyễn Thị Minh Khai) năm 1934 và có với nhau một người con
gái là Võ Hồng Anh (1941-2009), một tiến sĩ khoa học ngành Toán-lý đã
từng đoạt giải thưởng Kovalevskaia năm 1988.
2. Sau khi bà Quang
Thái hy sinh, năm 1946, ông tái hôn với giáo sư Đặng Bích Hà, con gái
của giáo sư Đặng Thai Mai. Ông bà có 4 người con, 2 gái và 2 trai
- Võ Hòa Bình (1951-), con gái.
- Võ Hạnh Phúc (10 tháng 8 năm 1952-), con gái, vợ đầu tiên của
Trương Gia Bình nay đã li hôn. Hiện là Ủy viên Hội đồng quản trị Tập
đoàn HIPT.
- Võ Điện Biên (1954-), con trai. Hiện là Giám đốc Công ty CP Đông Sơn.
- Võ Hồng Nam (1956-), con trai. Hiện là Giám đốc Công ty CP Máy tính Truyền thông Hồng Nam. (LPT)