(ĐC sưu tầm trên NET)
TTO - Đại tướng Phùng Quang Thanh, Bộ trưởng Bộ
Quốc Phòng, đi Pháp trị bệnh cách đây một tuần. Tối 30-6, ông Thanh đã
được phẫu thuật.
|
Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Phùng Quang
Thanh trong lần trả lời phỏng vấn báo chí bên lề kỳ họp Quốc hội vào
tháng 10-2014 - Ảnh: Việt Dũng |
Ngày 1-7, thông tin từ Ban bảo vệ và chăm sóc sức khỏe trung ương cho
hay đại tướng Phùng Quang Thanh, Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng, đã đi Pháp
trị bệnh cách đây một tuần.
Tối 30-6, ông Thanh đã được phẫu thuật, có thể là một khối u phổi.
Theo nguồn tin của
Tuổi Trẻ, ông Thanh từng bị chấn thương vùng ngực từ thời chiến tranh, lâu dần chấn thương đó khiến một bộ phận phổi bị xơ.
Khoảng hai tháng trước, ông Thanh bắt đầu bị ho nặng, sinh thiết chưa
phát hiện ung thư nhưng các dấu hiệu xơ hóa vùng phổi cộng với ho nặng
là những dấu hiệu đáng ngại của căn bệnh này.
TTO - Cự u Tổng thống Mỹ Bill Clinton sẽ tham dự
buổi lễ kỷ niệm 20 năm bình thường hóa quan hệ ngoại giao Việt – Mỹ vào
chiều tối 2-7 tại Hà Nội
|
Cựu tổng thống Mỹ Bill Clinton trò chuyện với cựu đại sứ Việt Nam tại Mỹ Lê Công Phụng năm 2010 - Ảnh: tư liệu Tuổi Trẻ |
Đại sứ Mỹ tại Việt Nam Ted Osius đã thông báo thông tin này trên trang Facebook cá nhân của mình tối 1-7.
Ông Bill Clinton là người quyết định bỏ lệnh cấm vận, tiến tới bình
thường hóa quan hệ với Việt Nam năm 1995, 20 năm sau khi chiến tranh kết
thúc.
Chuyến thăm đầu tiên của ông Bill Clinton đến Việt Nam với tư cách là Tổng thống Mỹ diễn ra vào tháng 11 năm 2000.
Sau khi rời Nhà Trắng, ông tiếp tục trở lại Việt Nam trong các cương vị khác nhau lần lượt vào năm 2006, năm 2010, và năm 2014.
Tham gia lễ kỷ niệm 20 năm bình thường hóa quan hệ Việt – Mỹ vào tối 2-7 sẽ là lần thứ năm ông Bill Clinton đến Việt Nam.
“Nhà lãnh đạo Hoa Kỳ, người đã tuyên bố quan hệ bình thường hoá, cựu
Tổng thống William J. Clinton, sẽ tham gia buổi lễ kỷ niệm ở Hà Nội vào
tối ngày mai. Ông sẽ chào mừng sự phát triển trong mối quan hệ hai nước
trong hai thập kỷ qua và tái khẳng định tầm nhìn của mình về một thế
giới mà ở đó những sự khởi đầu là có thể và sự hợp tác sẽ chiến thắng
xung đột.” - Đại sứ Ted Osius viết trên trang cá nhân.
Theo tin từ Đại sứ quán Mỹ, ngoài cựu tổng thống Bill Clinton, những
nhà ngoại giao kỳ cựu Mỹ khác có đóng góp to lớn vào bình thường hóa
quan hệ Việt - Mỹ gồm cựu đại sứ Mỹ đầu tiên ở Hà Nội sau bình thường
hóa Pete Peterson và đại biện lâm thời đầu tiên của Mỹ ở Hà Nội Desaix
Anderson cũng sẽ tham gia vào lễ kỷ niệm tối 2-7.
Mỹ-Cuba chính thức nhất trí khôi phục quan hệ ngoại giao sau 54 năm
Thứ tư, 01/07/2015 - 11:30 PM (GMT+7)
Tổng thống Mỹ Barack Obama (bên phải) phát biểu tại Vườn
hồng Nhà Trắng ngày 1-7-2015, tuyên bố Mỹ và Cuba đã nhất trí mở cửa
trở lại đại sứ quán tại thủ đô của mỗi nước. (Ảnh: AP)
NDĐT - Mỹ và Cuba ngày 1-7 đã chính thức nhất trí khôi phục quan
hệ ngoại giao vốn bị gián đoạn trong vòng 54 năm và mở cửa trở lại đại
sứ quán tại Thủ đô của mỗi nước.
Tổng thống Mỹ Barack Obama và Chủ tịch Cuba Raul Castro ngày 1-7 đã
trao đổi thư nhất trí về việc mở cửa trở lại đại sứ quán tại thủ đô của
mỗi nước mà theo phía Cuba dự kiến sẽ diễn ra vào ngày 20-7.
Bộ Ngoại giao Cuba cho biết, Trưởng Văn phòng đại diện của Mỹ tại
Cuba, Jeffrey DeLaurentis, đã chuyển lá thư từ Tổng thống Mỹ Barack
Obama tới Chủ tịch Cuba Raul Castro, trong đó “xác nhận quyết định tái
thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước và mở cửa trở lại đại sứ quán
tại mỗi nước, bắt đầu từ ngày 20-7-2015”.
Trong khi đó, Trưởng Văn phòng đại diện quyền lợi Cuba tại
Washington, Ramon Cabanas Rodriguez, cũng đã tới Bộ Ngoại giao Mỹ chuyển
thư của Chủ tịch Raul Castro tới Tổng thống Obama, trong đó xác nhận
quyết định của Cuba tái thiết lập quan hệ ngoại giao với Mỹ, nhật báo
Granma đưa tin.
Phát biểu từ Vườn hồng Nhà trắng cùng ngày, ông Obama đã chính thức
tuyên bố Mỹ và Cuba sẽ mở cửa trở lại đại sứ quán của mỗi nước tại
Havana và Washington, đánh dấu một chương mới trong quan hệ Mỹ-Cuba sau
hơn một nửa thế kỷ đối đầu.
Ông Obama nhấn mạnh: “Đây là bước tiến lịch sử trong những nỗ lực của
chúng ta để bình thường hóa quan hệ với Chính phủ và nhân dân Cuba và
bắt đầu một chương mới với những người hàng xóm của chúng ta tại châu
Mỹ”.
“Chúng ta không muốn bị đóng khung bởi quá khứ. Nhân dân Mỹ và Cuba
đều sẵn sàng hướng về phía trước”, Tổng thống Mỹ nói tại Vườn hồng Nhà
trắng.
Trong bài phát biểu này, ông Obama cũng tái kêu gọi Quốc hội Mỹ dỡ bỏ lệnh cấm vận đối với Cuba.
Truyền hình quốc gia Cuba đã truyền hình trực tiếp bài phát biểu của ông Obama được dịch sang tiếng Tây Ban Nha.
Trong khi đó, từ Vienna, Thủ đô nước Áo, Ngoại trưởng Mỹ John Kerry
cho biết, ông sẽ tới Havana sau đó trong mùa hè này để dự lễ thượng cờ
bên ngoài đại sứ quán Mỹ tại Cuba.
Thỏa thuận mở cửa trở lại đại sứ quán tại mỗi nước đánh dấu bước đi
quan trọng trong trong tiến trình làm tan băng quan hệ Mỹ-Cuba, nhưng
những vấn đề quan trọng khác vẫn còn tồn tại khi hai nước tiến tới bình
thường hóa quan hệ.
“Như các quan chức của cả hai nước đã khẳng định, việc có được phái
bộ ngoại giao đầy đủ tại Havana và Washington chỉ là một bước trong tiến
trình dài hơn và phức tạp hơn để bình thường hóa quan hệ”, nhật báo
Granma nhấn mạnh.
Phía Cuba khẳng định, việc bình thường hóa quan hệ Mỹ-Cuba sẽ phụ
thuộc vào việc dỡ bỏ lệnh cấm vận đối với Cuba và việc rút khỏi vịnh
Guantanamo của Mỹ. Trong một thông cáo được đưa ra vào ngày 1-7, Chính
phủ Cuba cho biết, Mỹ cũng cần phải tạm ngừng phát sóng các chương trình
phát thanh và truyền hình vào Cuba và chấm dứt các chương trình “lật
đổ” tại Cuba. Thông cáo này nhất mạnh, những bước đi này là cần thiết để
hai nước có được quan hệ bình thường toàn diện một khi quan hệ ngoại
giao được khôi phục.
BÔNG MAI
(Theo Reuters, AP)
Đụng độ tại nhà tù ở Yemen: 1.200 tù nhân trốn thoát
Trung tâm Tin tức VTV24Cập nhật 14:17 ngày 01/07/2015
VTV.vn-Truyền thông Yemen đưa tin, khoảng 1.200 tù nhân, trong đó có cả
các nghi can thuộc nhóm khủng bố Al-Qaeda, đã tẩu thoát trong vụ đụng độ
tại nhà tù ở thành phố Taiz, Yemen.
Đây là vụ việc nghiêm trọng trong hàng loạt vụ vượt ngục những năm gần đây tại quốc gia này. Miền Trung
Yemen là địa điểm thường xuyên xảy ra ra các vụ giao tranh dữ dội giữa nhóm Hồi giáo dòng Sunni cực đoan và lực lượng Houthi.
Trung Quốc tuyên bố hoàn tất bồi đắp ở Trường Sa
01/07/2015 06:15
Bắc Kinh thông báo hoàn tất hoạt động bồi đắp trên
một số bãi đá thuộc Trường Sa, đồng thời lớn tiếng yêu cầu Tokyo tránh
xa vấn đề Biển Đông.
Công trình phi pháp của Trung Quốc ở đá Gạc Ma thuộc Trường Sa hồi giữa tháng 5.2015
- Ảnh: Mai Thanh Hải
|
Ngày 30.6, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc, Hoa Xuân Doanh
cho hay dự án bồi đắp phi pháp ở một số bãi đá trong quần đảo Trường Sa
thuộc chủ quyền VN đã được hoàn tất trong “mấy ngày gần đây”, theo
Reuters. Tuy nhiên, bà Hoa không nêu cụ thể các bãi đá nơi hoạt động bồi
đắp được hoàn tất.
Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc còn tuyên bố Bắc Kinh sẽ
tiếp tục xây dựng các cơ sở để đáp ứng nhu cầu dân sự, hỗ trợ thực hiện
“trách nhiệm và nghĩa vụ quốc tế”, đồng thời nhấn mạnh: “Chắc chắn công
trình xây dựng liên quan của chúng tôi cũng sẽ nhằm đáp ứng các nhu cầu
quân sự cần thiết”.
Bất chấp quan ngại của cộng đồng quốc tế về hoạt động phi pháp của
mình ở Biển Đông, Trung Quốc còn lên giọng với một số quốc gia mong muốn
góp phần duy trì hòa bình, ổn định trong khu vực. Cụ thể, trong cuộc
gặp gỡ phái đoàn nghị sĩ Nhật tại Bắc Kinh ngày 29.6, Chủ tịch Chính
hiệp Trung Quốc Du Chính Thanh đã yêu cầu Tokyo tránh xa các vấn đề Biển
Đông, lập luận rằng chúng “không liên quan tới Nhật”, theo Kyodo News.
Tương tự, thiếu tướng Chu Thành Hổ tại Đại học Quốc phòng Trung
Quốc tuyên bố quân đội Mỹ có thể tuần tra ở Biển Đông, nhưng “chính phủ
và người dân Trung Quốc khó chấp nhận sự hiện diện quân sự của Nhật” ở
vùng biển này, theo Đài NBC News.
Các phản ứng trên được đưa ra sau khi Tổng tham mưu trưởng Lực
lượng phòng vệ Nhật Katsutoshi Kawano tiết lộ Tokyo đang cân nhắc thực
hiện tuần tra ở Biển Đông trong cuộc trả lời phỏng vấn với tờ The Wall Street Journal
vào tuần trước. Đô đốc Kawano nhận định hoạt động xây dựng đảo nhân tạo
của Trung Quốc ở Biển Đông đã tạo ra “những quan ngại vô cùng sâu sắc”
đối với phía Nhật và đó là lý do khiến Tokyo cân nhắc tuần tra ở khu
vực.
Trong một diễn biến liên quan đến quan hệ Nhật - Trung, Cục Hải sự
Trung Quốc ngày 29.6 thông báo quân đội nước này sẽ tập trận bắn đạn
thật từ ngày 30.6 - 6.7 ở biển Hoa Đông, gần quần đảo Senkaku/Điếu Ngư
tranh chấp giữa hai nước.
Trung Quốc phản ứng “kế hoạch chiến tranh” của Nhật
Đài phát thanh quốc tế Trung Quốc (CRI) ngày 30.6 đưa
tin phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Doanh vừa lên tiếng
yêu cầu Nhật “hành động thận trọng và hợp lý” liên quan đến vấn đề an
ninh quân sự.
Bà Hoa đưa phản ứng sau khi tờ Hoàn Cầu thời báo dẫn lại thông tin từ tạp chí Shukan Gendai (Nhật)
cho hay Thủ tướng Nhật Shinzo Abe từng tiết lộ trong một cuộc gặp gỡ
riêng tư rằng ông đang chuẩn bị kế hoạch cho một cuộc chiến tranh tiềm
tàng với Trung Quốc, đồng thời nhấn mạnh Nhật cần thực hiện quyền phòng
vệ tập thể để cùng Mỹ “đánh Trung Quốc ở Biển Đông”. “Nếu thông tin này
là chính xác, phía Nhật sẽ phải giải thích và làm rõ điều đó”, bà Hoa
tuyên bố.
Chưa có thông tin về phản ứng từ Tokyo đối với phát biểu của bà Hoa cũng như bài báo của tờ Shukan Gendai.
|
Văn Khoa
Tướng Nguyễn Chí Vịnh: 'Việt - Mỹ cam kết không xâm hại lợi ích chiến lược'
Hợp
tác thực chất; không xâm hại lợi ích chiến lược, không bao giờ đem chiến
tranh đến cho nhau là những cam kết cơ bản trong Hợp tác an ninh và
quốc phòng Việt - Mỹ.
|
Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh. Ảnh: Nhật Quang
|
Nhân kỷ niệm 20 năm ngày Việt - Mỹ bình thường hóa quan hệ, VnExpress phỏng vấn Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng.
- Ngày 11/7/1995 Việt Nam và Mỹ chính thức bình
thường hoá quan hệ, liệu có thể nêu ra các dấu mốc nào trong hợp tác
quốc phòng 20 năm qua thưa ông?
- Rất khó phân ra các giai đoạn phát triển quan hệ hợp tác quốc phòng
Việt - Mỹ từ 1995 đến nay. Thực tế quan hệ Việt - Mỹ được phát triển một
cách vững chắc, từng bước, theo nhịp độ vừa phải và kết quả theo từng
giai đoạn đều làm hài lòng cả hai bên. Nói như vậy có nghĩa là mối quan
hệ Việt - Mỹ nói chung và trong đó có quan hệ quốc phòng hết sức đặc
biệt, nhạy cảm vì hai nước là cựu thù, chúng ta không thể xúc tiến mối
quan hệ như tất cả các nước khác. Chúng ta phải đi từng bước, từ chỗ xóa
dần mặc cảm của cuộc chiến tranh, xóa dần thái độ thù địch, rồi đi đến
những tìm hiểu, hiểu biết, từng bước xây dựng lòng tin và tăng cường hợp
tác, phát triển.
Tuy nhiên, tôi có thể dẫn ra vài thời điểm đáng nhớ. Đó là chuyến thăm
Mỹ đầu tiên của Bộ trưởng Quốc phòng Việt Nam Phạm Văn Trà vào năm 2003.
Chuyến thăm để lại dấu ấn nền tảng trong quan hệ quốc phòng hai bên.
Hai là, Việt - Mỹ ký Bản ghi nhớ hợp tác quốc phòng năm 2011, vạch ra
những khuôn khổ, mức độ, nhịp độ hợp tác và gần đây nhất là Tuyên bố chung về tầm nhìn của Bộ trưởng Quốc phòng hai nước.
- Nếu nói một cách cô đọng nhất về nguyên tắc trong quan hệ quốc phòng Việt - Mỹ, ông sẽ nói gì?
- Nguyên tắc trong quan hệ Việt – Mỹ (cũng như đối với tất cả các nước
khác) là tôn trọng độc lập, tự chủ, chủ quyền lãnh thổ, tôn trọng chế độ
chính trị, lợi ích của nhau, bình đẳng cùng có lợi, và mối quan hệ ấy
không gây phương hại, không gây quan ngại cho bất kỳ một quốc gia nào.
Hơn thế mối quan hệ đó sẽ đóng góp cho hòa bình, ổn định của khu vực
Châu Á - Thái Bình Dương. Nguyên tắc này đã được nhấn mạnh trong bản ghi
nhớ 2011. Bộ trưởng Phùng Quang Thanh và người đồng cấp Mỹ Ashton
Carter cũng đã mạnh mẽ khẳng định lại nguyên tắc này khi ký tuyên bố về
tầm nhìn quốc phòng Việt - Mỹ vừa qua.
- Quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ đang ở tầm đối tác toàn diện, vậy hợp
tác quốc phòng giữa hai nước phản ánh mối quan hệ này như thế nào?
- Tôi cho rằng, mọi sự hợp tác đều cần đến lòng tin. Không có lòng tin
thì không có hợp tác thực chất, kể cả về chính trị, kinh tế, khoa học
công nghệ... Quan hệ quốc phòng càng cần đến lòng tin. Việt Nam và Mỹ
cũng vậy, chúng ta bắt đầu bình thường hóa quan hệ từ năm 1995, nhưng
hợp tác quốc phòng đi sau, chậm hơn, thận trọng nhưng vững chắc. Có thể
nói, hai bên đã đạt được sự thống nhất không còn muốn là kẻ thù của
nhau, không xâm phạm, xâm hại những lợi ích chiến lược của nhau và đặc
biệt là cam kết không bao giờ đem chiến tranh đến cho nhau.
- Việt Nam từng là nạn nhân của những thoả hiệp giữa các nước lớn. Điều gì khiến ông tin rằng, Mỹ sẽ không xâm hại Việt Nam?
- Tôi sẽ trả lời câu hỏi này bằng một câu chuyện. Tại Đối thoại
Shangri-la năm 2010 ở Singapore, ông Sergei Ivanov, Phó Thủ tướng
Nga, đã bày tỏ quan ngại và cho rằng Nga có trách nhiệm với hòa bình, ổn
định ở Afghanistan. Các học giả đã đặt câu hỏi: "Nga có định đưa quân
trở lại Afganishtan một lần nữa không?" Ông Ivanov trả lời: "Muốn biết
điều này hãy hỏi ông Robert Gates, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ đang ngồi
phía dưới, liệu Mỹ có định bao giờ gửi quân sang Việt Nam nữa không?".
Ông Gates lúc ấy chỉ đứng lên và nói đúng một câu: "Never" (không bao
giờ). Với những gì đã trải qua trong quá khứ và những gì 2 bên đã nỗ lực
đạt được hôm nay, tôi tin Mỹ đã hiểu hậu quả và cái giá phải trả khi
đem chiến tranh đến một đất nước yêu chuộng hòa bình và có lòng yêu nước
cao độ như Việt Nam.
- Gần đây ông có nói rằng hợp tác quốc phòng Việt – Mỹ đã đi vào thực chất, cụ thể thực chất ở đây là gì?
- Hợp tác quốc phòng nói chung, đặc biệt là giữa Việt Nam và Mỹ có tính
chất tiệm tiến, nó không có bước ngoặt. Đừng nghĩ hợp tác thực chất là
hợp tác quân sự hay là về cái gì to tát mà là những nội dung hai bên tìm
được cái chung để cùng thực chất thực hiện.
Ví dụ như hợp tác về khắc phục hậu quả chiến tranh, vấn đề tìm kiếm
lính Mỹ mất tích (MIA), hay việc Mỹ cung cấp thông tin để chúng ta tìm
những chiến sĩ đã hy sinh. Vấn đề khắc phục hậu quả chất độc dioxin, bom
mìn, vật nổ còn sót lại sau chiến tranh. Ví dụ như Dự án Mỹ hợp tác với
khoản hỗ trợ 84 triệu USD để làm sạch dioxin tại Đà Nẵng, Biên Hòa...
Khắc phục hậu quả chiến tranh giữa Mỹ và Việt Nam - hai quốc gia từng
đối đầu trong quá khứ là một ví dụ rất điển hình. Các chính khách ở Quốc
hội, Chính phủ, quân đội, ngoại giao Mỹ đều nói rằng, đó là hình mẫu
trên thế giới về sự hợp tác khép lại quá khứ, hướng tới tương lai của
hai cựu thù. Hợp tác hoạt động gìn giữ hòa bình thế giới, hay nâng cao
năng lực thực thi pháp luật trên biển cũng là hoạt động thực chất. Thực
chất ở đây có nghĩa là hai bên đã nói với nhau cái gì thì làm cái đó và
làm đúng cái mà mình nói.
|
Thứ trưởng Bộ Quốc phòng, Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh. Ảnh: Nhật Quang
|
- Vì sao ông không nhắc đến việc Mỹ dỡ bỏ một phần lệnh cấm bán vũ
khí sát thương cho Việt Nam như là một minh chứng cho quan hệ thực chất?
- Tôi không cho là như thế. Mặc dù đây là động thái tích cực của Quốc
hội và Chính phủ Mỹ, nhưng tôi cũng không thể không nói rằng điều này là
quá muộn. Mỹ còn chưa dỡ bỏ toàn bộ lệnh cấm thì đó một điều bất hợp lý
trong mối quan hệ giữa hai nước. Việc Mỹ duy trì một phần còn lại lệnh
cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam chính là nhân tố "chưa thực
chất".
- Theo ông, sức mạnh quốc phòng của Việt Nam sẽ được tăng cường như thế nào sau khi Mỹ dỡ bỏ một phần lệnh cấm này?
- Nếu nói Việt Nam tăng sức mạnh vì có thể mua vũ khí của Mỹ là không
chính xác. Chúng ta có sức mạnh nếu chúng ta giữ được độc lập, tự chủ,
đồng thời chúng ta có mối hợp tác đa phương, trong đó có cả đa phương về
quốc phòng. Về trang bị vũ khí, chúng ta sẽ tự do chọn lựa những gì
chúng ta muốn, chúng ta cần. Vấn đề là chúng ta cần có một môi trường
rộng lớn hơn để lựa chọn cái chúng ta cần khi cần thiết, nhưng quan
trọng hơn, chúng ta có lòng tin rộng lớn hơn của tất cả các quốc gia,
theo như chúng ta từng tuyên bố rất nhất quán Việt Nam là bạn của tất cả
các nước. Cái đó mới là nhân tố cực kỳ quan trọng để bảo vệ đất nước,
chứ không phải là chuyện mua vũ khí.
- Vây còn giá trị của hợp tác Việt Nam và Mỹ trên khía cạnh thực thi pháp luật trên biển?
- Hợp tác giữa cảnh sát biển Việt Nam và Mỹ đang tiến hành tốt, phía Mỹ
cùng chia sẻ những kinh nghiệm để thực thi pháp luật trên biển, hỗ trợ
chúng ta một số trang bị như xuồng cao tốc, các khóa đào tạo về luật
pháp quốc tế, về luật biển, đây là những cái Mỹ có nhiều kinh nghiệm.
Chúng ta hợp tác với Mỹ về thực thi pháp luật trên biển trên cơ sở
chính sách nhất quán của chúng ta, là đảm bảo rằng lãnh hải cũng như
thềm lục địa 200 hải lý của Việt Nam là vùng an toàn cho các hoạt động
tự do hàng hải và luôn được kiểm soát theo đúng pháp luật của Việt Nam,
luật pháp quốc tế.
Vùng biển Việt Nam không có cướp biển, có chăng là cướp biển ở vùng
khác chạy vào chúng ta bắt được và giao trả lại. Cái đó không phải tự
nhiên mà có, mà phải là do sức mạnh của chính chúng ta, chúng ta quan
tâm đến bảo vệ an toàn không chỉ cho tàu bè của mình, ngư dân mình, mà
còn đảm bảo an toàn cho đường vận tải hàng hải quốc tế.
- Việc hợp tác này có ý nghĩa thế nào với việc bảo đảm chủ quyền trên biển của Việt Nam thưa ông?
- Việc bảo đảm an toàn trên vùng biển của chúng ta vừa thể hiện trách
nhiệm quốc tế của ta và đồng thời cũng khẳng định đây là vùng biển của
Việt Nam. Quốc tế tôn trọng sự quản lý, quyền tài phán của chúng ta,
trên các vùng biển của Việt Nam. Việc bảo vệ an toàn, an ninh hàng hải,
tự do thương mại, tự do đi lại trên các vùng biển của các quốc gia, vừa
là quyền lợi vừa là trách nhiệm của mọi quốc gia.
- Từ những diễn biến thực tế có thể nhận định, tình hình phức tạp trên Biển Đông chính là chất xúc tác đẩy mạnh hợp tác Việt - Mỹ. Ông nghĩ sao?
- Nếu nói Việt Nam tăng cường quan hệ với Mỹ vì tình hình căng
thẳng ở Biển Đông thì không đúng. Diễn biến trên Biển Đông không phức
tạp thì chúng ta vẫn sẽ hợp tác như thế. Nhưng điều kiện khách quan đẩy
mối quan hệ đến mức nào thì không tùy thuộc vào ý chí của chúng ta. Có
những cái không có quan hệ mà lại là đồng quan điểm, không bàn bạc gì
với nhau nhưng lại cùng lợi ích, thì những cái "đồng" đó tạo ra một mối
quan hệ có tính chất tự nhiên hơn.
Vì sao Mỹ lại can dự vào tình hình Biển Đông như thế? Trước hết là vì
chính lợi ích chiến lược của Mỹ. Mỹ đã tốn rất nhiều công sức để bảo vệ
tự do thương mại trên các vùng biển quốc tế, trên cơ sở luật pháp quốc
tế vì nền kinh tế của họ phụ thuộc vào điều đó, đó là chưa kể các hoạt
động của lực lượng quân sự Mỹ trên toàn cầu, trên không, trên biển...
Việt Nam, cũng như Mỹ và đa số các quốc gia khác trên thế giới đều dựa
vào luật pháp quốc tế để bảo vệ tự do thương mại, tự do hàng hải trên
biển, trên không, đồng nghĩa với việc bảo vệ thềm lục địa 200 hải lý của
các nước. Cái đó là cái đồng tự nhiên, chứ Mỹ, Việt Nam hay rất nhiều
nước khác không bàn để cùng lên tiếng về việc đó. Chúng ta đã nói nhiều
lần, Việt Nam ủng hộ Mỹ và các quốc gia khác tăng cường can dự ở khu vực
nếu điều đó phù hợp với mục tiêu bảo đảm hòa bình, ổn định của khu vực,
trên cơ sở luật pháp quốc tế.
Chúng ta cần làm cho thế giới hiểu rằng Việt Nam minh bạch trong quan
hệ quốc phòng với các nước, trong đó có Mỹ. Chúng ta đã nói là làm,
không chỉ riêng với Mỹ, mà với tất cả các nước. Nếu hợp tác mà không
bình đẳng, không có lợi và không tôn trọng nhau thì không hợp tác. Hợp
tác mà phương hại đến một quốc gia nào thì chúng ta cũng sẽ không làm.
Đây là lập trường của chúng ta. Minh bạch, không mập mờ.
Việt Anh
Thương lái Trung Quốc ngừng mua: Vải Lục Ngạn rớt thảm còn 4.000 đồng/kg
Tới Lục Ngạn vào thời điểm cuối giờ trưa, nắng gần 40 độ C
nhưng xung quanh các điểm cân vải vẫn tắc, do người trồng vải lo lắng trong những
ngày tới giá vải tiếp tục xuống thấp nên vẫn cố gắng xếp hàng chờ tới lượt cân
để bán.
Giá mỗi kg vải hiện tại
rớt thê thảm, chỉ còn 4.000 đồng/kg
“Giá rẻ quá chú ạ, cùng thời điểm này vào cuối vụ vải năm
ngoái cứ bán hôm trước thì hôm sau lại tăng thêm mấy giá, có dịp cuối vụ còn
bán được tới 29.000 – 30.000 đồng/kg nhưng năm nay thì ngược lại, giảm theo từng
ngày. Cách đây 3 ngày, giá cao nhất vẫn bán được 26.000 đồng/kg vải loại 1 để
xuất khẩu sang Trung Quốc nhưng ngày hôm nay tìm tới hầu hết các điểm cân cũng
chỉ đưa ra giá cao nhất 14.000 đồng/kg. Vải loại 2 chỉ 10.000 đồng/kg và loại 3
chỉ có 4.000 đồng/1kg”, ông Trần Văn Tĩnh nhà ở phố Kim (Lục Ngạn) chua xót.
Theo ông Tĩnh, với sản lượng 10 tấn vải, gia đình ông mỗi
ngày bán khoảng 3-5 tạ từ thời điểm còn được giá 18 – 20.000 đồng/kg nên đến thời
điểm này chỉ còn ít, tính trung bình giá được 10.000 đồng/kg nên vẫn có doanh
thu khoảng 100 triệu trong vụ vải này.
Không được may mắn như ông Tĩnh, ông Lê Văn Thìn ở xã Đông Hưng buồn rầu cho
biết, gia đình ông có khoảng 8 tấn vải nhưng tới thời điểm này mới bán được 1 tấn
thì giá vải lại đột ngột giảm giá “không phanh”. Nguyên nhân chính là do phụ
thuộc quá nhiều vào thị trường Trung Quốc mà hiện thương lái không thu mua nên
người trồng vải gặp khó khăn.
“Thời tiết thì nắng nóng, vải cũng tới thời điểm chín rộ nên
không thể giữ mãi trên cây được nữa. Càng để lâu vải càng rụng xuống gốc. Mang
ra chợ bán với giá hiện chỉ từ 5.000- 7.000 đồng/kg, loại xấu chỉ có 4.000 đồng/kg.
Nếu tính ra công chăm bón có khi còn lỗ vốn”, ông Thìn nói.
Nông dân Lục Ngạn xếp hàng chờ cân vải trước cái nắng gay gắt,
dù giá vải giảm mạnh.
Bà Nguyễn Thị Nga là một trong những thương lái đang thu mua
vải tại phố Lim (Lục Ngạn) cho biết: “Không biết lý do gì mà phía Trung Quốc từ
3 hôm nay đã về gần hết, không bán được cho đối tác nên chúng tôi chỉ cân chủ yếu
vải loại bình thường về để sấy. Tùy từng loại mẫu mã, quả to hay bé tôi đang
cân cho người dân cao nhất là 7.000 đồng/kg và thấp nhất là 4.000 đồng/kg, tính
trung bình giá khoảng 6.000 đồng/kg. Mà 4kg mới được 1kg sấy khô, vận chuyển
lên tới Đồng Đăng, cả đóng gói cũng đã lên tới 40.000 đồng/kg vải khô rồi. Giờ
họ không thu mua vải tươi thì chỉ còn cách sấy khô đem lên cửa khẩu chờ bán
nhưng sấy rồi họ không thu mua thì cũng ế hàng. Làm hàng hoa quả cũng như “đánh
bạc”, phụ thuộc vào thị trường Trung Quốc”, bà Nga nói.
Ông Lê Bá Thành – Phó chủ tịch UBND huyện Lục Ngạn cho biết,
nhiệt độ cao, nhu cầu tiêu thụ vải thiều giảm cùng với việc thương nhân Trung
Quốc rút về nước, giảm thu mua vải thiều là nguyên nhân chính dẫn tới giá vải
giảm mạnh vào cuối vụ.
Lượng vải thiều ở Lục Ngạn hiện vẫn còn khoảng 15% sản lượng
chưa tiêu thụ. Số vải này chủ yếu chỉ tiêu thụ ở các tỉnh lân cận xung quanh Bắc
Giang và một số vải được thương lái thu mua đưa vào để sấy khô.
Theo Thanh Xuân
Dân Việt
Thủ tướng: Phát triển cơ sở sửa chữa, sản xuất linh kiện máy bay tại Việt Nam
Dân trí Chiều 1/7/2015, tại trụ sở Chính phủ, Thủ
tướng Nguyễn Tấn Dũng đã tiếp Tổng Giám đốc Tập đoàn Airbus Thomas
Enders đang có chuyến làm việc tại Việt Nam và dự Lễ tiếp nhận máy bay
thế hệ mới A350-900 XWB (do Airbus sản xuất) của Hãng Hàng không Quốc
gia Việt Nam (VNA).
Thủ tướng tiếp Tổng Giám đốc Tập đoàn Airbus Thomas Enders tại Chính phủ.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đánh giá cao hợp tác giữa Tập đoàn Airbus
với VNA và các hãng hàng không khác của Việt Nam. Thủ tướng cho rằng
kết quả hợp tác thời gian qua là tích cực và triển vọng mở rộng hợp tác
giữa hai bên còn lớn.
Thủ tướng đề nghị hai bên cần nghiêm túc thực hiện các cam kết hợp
đồng trong việc bàn giao đúng kế hoạch và tiến độ các dòng máy bay dân
dụng cho các hãng hàng không của Việt Nam, trong đó có có hợp đồng 10
máy bay thân rộng, hiện đại A350-900 XWB đến năm 2019 giữa Airbus và VNA
nhằm phát triển và hiện đại hóa đội bay của các hãng hàng không Việt
Nam. Ngoài ra, hai bên cần xây dựng chiến lược hợp tác lâu dài, theo đó,
Airbus tiếp tục hỗ trợ Việt Nam đào tạo nguồn nhân lực; phát triển cơ
sở hậu cần kỹ thuật, trong đó có các cơ sở bảo dưỡng, sửa chữa và tiến
tới là các cơ sở sản xuất một số linh kiện máy bay tại Việt Nam. Ngoài
ra, phía Việt Nam cũng sẵn sàng thảo luận và xúc tiến việc hợp tác với
Airbus trong các lĩnh vực không gian, kỹ thuật quân sự, trong đó có các
dòng máy bay vận tải và thiết bị phục vụ quốc phòng.
Tại buổi tiếp, Tổng giám đốc Tập đoàn Airbus Thomas Enders khẳng định
Airbus coi trọng thị trường cũng như sự hợp tác chiến lược, lâu dài với
Việt Nam; cam kết hỗ trợ các hãng hàng không Việt Nam phát triển đội
bay hiện đại cũng như hỗ trợ hậu cần kỹ thuật, nhân lực để khai thác
thành công các dòng máy bay Airbus tại Việt Nam.
Đối với dòng máy bay Airbus A350-900 XWB, ông Thomas Enders cho biết
Việt Nam là khách hàng đầu tiên ở châu Á và thứ 2 trên thế giới mua và
khai thác loại dòng máy bay thân rộng hiện đại này, giúp nâng cao năng
lực cạnh tranh toàn cầu của VNA. Airbus cam kết sẽ hỗ trợ tối đa về nhân
lực, kỹ thuật để VNA khai thác hiệu quả và thành công loại máy bay này
và đảm bảo tiến độ bàn giao máy bay cho VNA theo hợp đồng đã ký kết.
Ngoài hợp tác trong lĩnh vực máy bay dân dụng, ông Thomas Enders cho
biết Airbus mong muốn và sẵn sàng hợp tác với Việt Nam trong lĩnh vực
máy bay quân sự, hợp tác trong lĩnh vực không gian vũ trụ. Airbus cũng
sẵn sàng hỗ trợ và hợp tác lâu dài với Việt Nam để xây dựng và vận hành
các cơ sở bảo dưỡng, sửa chữa máy bay hàng đầu tại khu vực và từng bước
tiến tới việc xem xét xây dựng các cơ sở chế tạo linh kiện máy bay tại
Việt Nam trong tương lai.
P.Thảo