Thứ Bảy, 2 tháng 5, 2015

HIỆN THỰC KỲ ẢO 69

(ĐC sưu tầm trên NET)

Người cá và những cuộc chạm trán bí ẩn khắp nơi trên thế giới

Những cuộc chạm mặt với người cá từ trước đến nay, càng khiến nhiều người tin vào sự hiện diện của nhân vật – vốn được tin rằng chỉ tồn tại trong những câu chuyện thần thoại. 

xuất hiện, người cá, Nàng Tiên Cá, chạm trán,
Bức tượng nàng tiên cá trong Nhà thờ Clonfert tại Galway, Ireland … gần nơi nàng tiên cá thực sự đã được nhìn thấy trong nhiều thế kỷ. (Ảnh minh họa Wikimedia Commons)
Một nàng tiên cá đã thực sự xuất hiện tại Israel năm 2009. Tin tức này nhanh chóng trở thành hiện tượng thu hút mạnh mẽ dư luận khắp Israel, tạo nên “cơn sốt nàng tiên cá” tại nước này vào thời điểm đó.
Nàng tiên cá dường như đã thực sự xuất hiện tại một bãi biển nhỏ ở Kiryat Yam. Người dân địa phương và khách du lịch lúc đó đã rất xúc động khi chứng kiến người cá này xuất hiện và biến mất nơi đại dương.
Người phụ nữ với chiếc đuôi cá rất đẹp, ban đầu bị nhầm là du khách đang tắm nắng. Nhưng khi nhìn gần hơn, người ta phát hiện chiếc đuôi này. Cô gái sau đó lặn mất tăm cho đến khi mặt trời khuất dạng.
Người dân địa phương biết rằng họ đã được thấy nàng tiên cá thực sự, khởi đầu “cơn sốt” tại Israel. Sau lần đó, nhiều người khác cũng tuyên bố nhìn thấy người cá này. Cô chỉ xuất hiện vào lúc hoàng hôn và dường như đang chơi trò trốn tìm với những người tò mò, bởi cô sẽ ngay lập tức biến mất trước bất kì ai đến gần.
Thị trấn Kiryat Yam đã thu hút lượng lớn khách du lịch sau “cơn sốt nàng tiên cá” này, họ thậm chí còn trao giải thưởng 1 triệu USD cho người bắt được nàng tiên cá giống như trên phim.
xuất hiện, người cá, Nàng Tiên Cá, chạm trán,
Người cá được nhìn thấy tại Israel rất đẹp và sau đó biến mất vào đại dương. (Ảnh minh họa Wikimedia Commons)
Những trường hợp xuất hiện nàng tiên cá khác
Một người kể lại việc cha cô đã thật sự nghe thấy tiếng hát của nàng tiên cá từ trong sâu thẳm đại dương. Khi đó, ông và các thủy thủ đi cùng trên một con tàu và nghe được tiếng hát quyến rũ phát ra trên những con sóng. Một số người thậm chí nhảy ra khỏi tàu trong trạng thái bị thôi miên.
Ngoài khơi bờ biển Nam Cực từng có người nhìn thấy người cá, hay theo người Nhật gọi là “Ningen”. Những sinh vật biển này có vẻ rất giống con người, nhưng nước da trắng bệch.
Trở lại với thời Trung cổ, vào thế kỷ XII người ta đánh bắt được một người cá ngoài khơi gần lâu đài Orford, Suffolk, Anh. Chủ nhân của lâu đài bắt giữ người cá này trong khoảng sáu tháng, nhưng sau đó người cá trốn thoát được và trở về đại dương. Theo câu chuyện này, người cá rất lặng lẽ, không bao giờ nói một lời nào với những người bắt cóc và chỉ ăn cá.
Ở Dyfed, mười hai người đã nhìn thấy nàng tiên cá xinh đẹp bơi lội dưới biển. Cô có cơ thể như một phụ nữ xinh đẹp nhưng nửa phía dưới lại là chiếc đuôi màu đen đang vung vẩy. Sự kiện này xảy ra vào tháng 7/1826 và vẫn được nhắc đến trong nhiều năm sau đó.
Vào năm 2002, xảy ra vụ việc liên quan đến nàng tiên cá ở Zimbabwe. Một công nhân đang làm việc tại hồ chứa bị nàng tiên cá kéo đi và không bao giờ quay trở lại. Dường như tất cả các công nhân đều khiếp sợ và không dám trở lại làm việc. Vì vậy, để giải quyết vấn đề này người ta đã nấu bia truyền thống để dâng cho các nàng tiên cá và xoa dịu họ.
xuất hiện, người cá, Nàng Tiên Cá, chạm trán,
Một công nhân đang làm việc tại hồ chứa bị nàng tiên cá kéo đi và không bao giờ quay trở lại. (Ảnh minh họa)
Tại British Columbia, Canada, một vụ chạm trán nàng tiên cá đã xảy ra vào năm 1967, khi có người nhìn thấy một người phụ nữ với chiếc đuôi cá heo. Cô có mái tóc vàng lộng lẫy, bị phát hiện khi đang ăn cá hồi. Một số khách du lịch thực sự nhìn thấy nàng tiên cá này từ vịnh Active Pass. Người dân thị trấn thả các loại hạt cho nàng tiên cá, nhưng từ đó về sau người ta không còn nhìn thấy cô nữa.
Hàng trăm năm qua, người Anh luôn bắt gặp nàng tiên cá. Một câu chuyện đặc biệt hấp dẫn từng được đăng trên báo Anh năm 1810 kể về hai em bé người cá được tìm thấy trên Isle of Man. Khi đó, hai ngư dân trong câu chuyện này nghĩ rằng họ nghe thấy âm thanh giống như tiếng chim hoặc loài động vật nào đó kêu cứu. Họ đi về phía phát ra tiếng động và tìm thấy hai em bé người cá, chỉ có một đứa trẻ còn sống nhưng bị thương. Họ đưa đứa trẻ về nhà chăm sóc. Em bé người cá có chiều dài khoảng 60 cm, mang hình hài một đứa trẻ với chiếc đuôi cá và mái tóc giống rong biển…thậm chí có màu xanh lục. Em ăn những con trai mà ngư dân cho, đôi khi uống nước hoặc sữa.
xuất hiện, người cá, Nàng Tiên Cá, chạm trán,
Hai ngư dân phát hiện em bé người cá trên Isle of Man. (Ảnh minh họa magickalgraphics.com)
Những truyền thuyết và câu chuyện về người cá
Dĩ nhiên, niềm tin vào nàng tiên cá đã tồn tại trước các bộ phim trình chiếu về họ. Và niềm tin này đã tồn tại từ hàng ngàn năm trước, không  hẳn bắt nguồn từ Israel.
Tại Ireland và một số nơi ở Scotland, nàng tiên cá được gọi là merrow. Những câu chuyện về sinh vật khó nắm bắt này xuất hiện trở lại vào thế kỷ thứ 9. Câu chuyện được kể nhằm cảnh báo người dân địa phương về sự nguy hiểm của merrow (hoặc merfolk).
Vào các thế kỷ trước, nhiều thủy thủ tin rằng sự xuất hiện nàng tiên cá báo hiệu điều khủng khiếp sắp xảy ra, có thể là một cơn bão dữ dội hay vụ đắm tàu hoặc cả hai. Đôi khi merfolk bị liên tưởng như một nhân vật phản diện, có thể chính là người gieo bão làm đắm các con tàu, hay giống như ác quỷ ăn các thủy thủ bị chết đuối. Huyền thoại nàng tiên cá hầu như khác xa với câu chuyện “Little Mermaid” mà trẻ em biết đến trong thời hiện đại. Thường thì trẻ em ở Anh, Ireland và Scotland được cảnh báo không nên đến quá gần hồ, sông ngòi, thậm chí cả giếng nước có liên quan đến cácmerrow.
xuất hiện, người cá, Nàng Tiên Cá, chạm trán,
Các thủy thủ tin rằng sự xuất hiện nàng tiên cá báo hiệu điều khủng khiếp sắp xảy ra. (Ảnh minh họa qinni.deviantart.com)
Những người nhìn thấy người cá thật sự ở Ireland và Scotland nói rằng các nữ  merrow thường rất đẹp còn nam merrow thì ngược lại. Đó là lý do nhiều người tin rằng nữ merrow sẽ rời khỏi ngôi nhà đại dương để kết hôn và sinh sống với con người. Các nàng tiên cá có mái tóc dài màu xanh lá cây, bàn tay có màng trắng. Người ta thường nhìn thấy hình ảnh họ ngồi trên tảng đá hay bờ biển và dùng tay chải vuốt mái tóc.
Siren là nàng tiên cá của Hy Lạp có tài năng lạ thường và đầy mê hoặc. Họ sống trên một hòn đảo ở biển Địa Trung Hải, họ thu hút các thủy thủ bằng tiếng hát mê hoặc của mình. Tiếng ca tuyệt vời và quyến rũ khiến các thủy thủ mất kiểm soát và con tàu đâm vào các bãi đá. Trong một số câu chuyện, không phải tất cả Siren đều là nàng tiên cá, họ có thể là một phụ nữ với đôi cánh chim. Tuy nhiên, hầu hết những câu chuyện và hình ảnh ngày nay thể hiện Siren Hy Lạp dưới dạng nàng tiên cá.
Selkie trong truyền thuyết Orkney được mô tả tương tự như một dạng của nàng tiên cá. Khi ở trong nước, họ sở hữu cơ thể người cá nhưng khi lên bờ họ có thể cởi lớp da để trở thành con người. Nhiều truyền thuyết kể về nữ Selkie, họ kết hôn với con người và chỉ rời đi sau khi nghe được tiếng gọi từ ngôi nhà trong đại dương. Truyền thuyết kể rằng nếu một người đàn ông có thể giấu hoặc phá hủy lớp da mà Selkie cởi ra thì cô ấy sẽ là vợ của anh ta. Nhưng nếu cô tìm thấy lớp da đó thì có thể cô sẽ trở về biển cả mãi mãi. Nếu một người phụ nữ muốn cưới nam Selkie thì cô phải khóc cho bảy giọt nước mắt rơi vào biển khơi và anh ta sẽ đến với cô.
Những truyền thuyết về người cá xuất hiện trong nhiều thế kỷ và không thể dự đoán được liệu họ có biến mất trong thế kỷ tới hay không. Liệu người cá có thực sự tồn tại hay đã từng tồn tại ở một thời điểm nào đó trong lịch sử? Thông thường những truyền thuyết bắt nguồn từ một phần của sự thật, hoặc cũng có thể hoàn toàn là sự thật.
Theo tinhhoa.net
Nền văn minh Sumer tiếp nhận kiến thức thiên văn từ người “ngoài hành tinh”

Năm 4000 trước Công Nguyên, sau khi cuộc cách mạng nông nghiệp lan rộng từ rìa phía bắc của Fertile Crescent, những nông dân thời Đồ Đá bắt đầu việc trồng trọt, hình thành nên nền văn minh đầu tiên của nhân loại.

thiên thể, Sumer, Nibiru, người ngoài hành tinh, Nền văn minh cổ nhất, hệ mặt trời, Hành tinh X, Bài chọn lọc,
Sumer là một nền văn minh cổ và cũng là một vùng lịch sử ở phía nam Lưỡng Hà, tức là Iraq hiện nay.
Mặc dù lượng mưa trên đồng bằng rộng lớn này không đủ để cung cấp cho hoạt động nông nghiệp, nhưng vùng phía đông được tưới nước nhờ con sông Tigris và Euphrates. Babylon là một thành quốc nổi tiếng của Lưỡng Hà cổ đại (tiếng Hy Lạp có nghĩa “đất giữa những dòng sông”), nằm ở đồng bằng về phía hạ lưu, vị trí hai con sông gần như hội tụ. Babylon lần lượt mở rộng sang hai khu vực là Akkad ở phía bắc và Sumer, vùng châu thổ của hệ thống sông này ở phía nam.
thiên thể, Sumer, Nibiru, người ngoài hành tinh, Nền văn minh cổ nhất, hệ mặt trời, Hành tinh X, Bài chọn lọc,
Babylon lần lượt mở rộng sang hai khu vực là Akkad ở phía bắc và Sumer, vùng châu thổ của hệ thống sông Tigris và Euphrates ở phía nam. (Ảnh Wikipedia)
Giai đoạn từ năm 3500 – 3100 trước Công Nguyên, nền tảng thiết lập nên loại hình trật tự kinh tế và xã hội khác biệt rõ rệt với những gì được biết đến trước đây. Văn hóa hết sức phức tạp này vốn dựa trên nền tảng là các trung tâm đô thị chứ không phải đơn vị làng mạc nhỏ lẻ, đây cũng là điều khiến chúng ta liên tưởng đến sự tồn tại của một nền văn minh.
Từ Lưỡng Hà, dù có nghĩa đen là “đất giữa những dòng sông”, nhưng nó thường được dùng để chỉ toàn bộ vùng đất giữa và hai bên của con sông Tigris và Euphrates.
Vào năm 3100 trước Công Nguyên, dân số của Sumer đã tăng lên tương đương với số dân sống tại các thành phố, thậm chí phát triển vượt quá chỉ tiêu cấu thành nền văn minh. Từ những bằng chứng đầu tiên bao gồm các văn tự xuất hiện trong giai đoạn đầu của nền văn minh Sumer, đến khoảng năm 28 trước Công Nguyên, hay còn gọi là thời kỳ Protoliterate.
Tất cả các thành phố người Sumer đều tôn thờ cùng một số vị thần, bao gồm cả Anu là Thần cai quản bầu trời, Enlil là chúa tể vùng đất linh hồn, và Ishtar thần đại diện Sao Kim, tức là sao mai (phía đông) và sao hôm (phía tây).
thiên thể, Sumer, Nibiru, người ngoài hành tinh, Nền văn minh cổ nhất, hệ mặt trời, Hành tinh X, Bài chọn lọc,
Tượng một số vị thần mà người Sumer tôn thờ.
Vào thế kỷ 23 trước Công Nguyên, sức mạnh của người Sumer đã suy yếu đến mức họ không thể tự vệ trước ngoại xâm. Người cai trị Semitic là Sargon I vĩ đại (trị vì khoảng năm 2335-2279 trước Công Nguyên), đã chinh phục thành công toàn bộ vương quốc. Sargon thành lập kinh đô mới là Agade, ở cực bắc của Sumer, và biến nơi đây thành thành phố giàu mạnh nhất thế giới. Người dân miền bắc Sumer và những người xâm lược dần dần hòa hợp về mặt dân tộc và ngôn ngữ tạo nên chủng cư dân Akkadian. Vùng đất Sumer mới là sự hòa hợp giữa Sumer cổ đại và Akkad.
Văn hóa người Sumer, năm 4000 trước Công Nguyên, là văn hóa cổ xưa nhất trên Trái Đất. Thậm chí ngày nay, chúng ta vẫn sử dụng cùng một hệ thống toán học, lịch, và thời gian giống như họ.
Người Sumer đã có thể đo khoảng cách giữa các ngôi sao rất chính xác. Văn bản Sumer cổ đại chỉ ra việc một hành tinh lớn đâm vào Trái đất (“Tiamat”) khiến Địa cầu của chúng ta di chuyển vào quỹ đạo hiện tại, đồng thời hình thành nên Mặt trăng và vành đai tiểu hành tinh. Trong cuốn sách  The Twelfth Planet and The Cosmic Code (tạm dịch là Hành tinh thứ 12 và mật mã vũ trụ), Zecharia Sitchin phác thảo “trận chiến bầu trời” mà trong tiếng Babylon là Enuma elish. Hành tinh có tên là “Marduk” (theo người Sumer là “Nibiru”), đi vào hệ Mặt Trời theo hình eclip cùng chiều kim đồng hồ, đâm vào hành tinh Tiamat đang di chuyển theo quỹ đạo ngược lại.
thiên thể, Sumer, Nibiru, người ngoài hành tinh, Nền văn minh cổ nhất, hệ mặt trời, Hành tinh X, Bài chọn lọc,
Hình minh họa quỹ đạo của hành tinh “Marduk” (theo người Sumer là “Nibiru”), đi vào hệ Mặt Trời theo đường eclip cùng chiều kim đồng hồ.
Người Sumer nói rằng họ thừa hưởng kiến thức từ các vị thần vốn là những sinh mệnh từng giáng hạ xuống Trái đất.
Theo Zecharia Sitchin, người Sumer đã có kiến thức thiên văn chuyên sâu về các hành tinh trong hệ Mặt Trời của chúng ta. Theo người Sumer, họ nhận được kiến thức này từ chủng người ngoài hành tinh có tên là Anunnaki (trong văn tự Sumer, họ là “những người đến từ trời cao”; Cựu ước Hebrew, Anakeim, Nefilim, Elohim; người Ai Cập đề cập đến Neter, một nền văn minh tiên tiến đến từ hành tinh thứ 10 trong hệ mặt trời của chúng ta) vốn là vị thần trong thần thoại Sumer – Lưỡng Hà.
Sitchin lập luận, tại góc trên bên trái của một bức phù điêu, người ta thấy Mặt trời được 11 Quả Cầu khác quay quanh. Vì người cổ đại (bao gồm cả người Sumer) cho rằng Mặt Trời và Mặt Trăng là “hành tinh”, nên 11 Quả Cầu cộng với Mặt Trời sẽ thành 12 hành tinh. Một đoạn khác của cuốn sách này còn cho rằng người Sumer đã biết đến một hành tinh vượt ra khỏi cả Diêm Vương tinh.
thiên thể, Sumer, Nibiru, người ngoài hành tinh, Nền văn minh cổ nhất, hệ mặt trời, Hành tinh X, Bài chọn lọc,
Tại góc trên bên trái của một bức phù điêu, người ta thấy Mặt trời được 11 Quả Cầu khác quay quanh, và một hành tinh bên ngoài hệ mặt trời được xem là “Nibiru”.
Hành tinh tăng thêm này được coi là Nibiru theo Sitchin, một thiên thể được đề cập trong các văn tự Lưỡng Hà. Theo những chi tiết được Sitchin đưa ra, mỗi 3600 năm Nibiru sẽ đi qua hệ Mặt Trời của chúng ta, và vì vậy một số người tin vào lý thuyết của Sitchin cho rằng Nibiru sẽ sớm trở lại, và hành tinh này còn có cái tên khác là “Hành tinh X”.


Theo Ancient Visitors/Tinhhoa.net
 
Xem tiếp...

BÍ ẨN LỊCH SỬ 75

(ĐC sưu tầm trên NET)

Cuộc mất tích bí ẩn của những ''con tàu ma''

00:00:01 06/11/2012

Đằng sau chúng là sự biến mất của hàng trăm, hàng ngàn thủy thủ đoàn không một lý do…

Những chuyến hành trình dài trên biển luôn là niềm cảm hứng bất tận cho ai muốn khám phá và chinh phục thiên nhiên. Ta cũng không thể không nhắc đến những câu chuyện kể về vùng biển bị quỷ ám hay con tàu ma đã đi vào huyền thoại. Cùng điểm lại những con tàu ma nổi tiếng nhất trong lịch sử. 

1. Tàu Mary Celeste

Mary Celeste là con tàu chở rượu của các thương gia người Ý trong quá khứ. Lần cuối cùng người ta nhìn thấy nó trước khi con thuyền bị mất tích là ngày 5/11/1872.

Cuộc mất tích bí ẩn của những ''con tàu ma'' 1

Đúng 1 tháng sau, ngày 5/12/1872, con tàu được tìm thấy trong tình trạng hoàn hảo, trôi dạt trên những con sóng của eo biển Gibraltar. Tất cả hàng hóa, vật dụng cá nhân của thủy thủ và hành khách đều còn nguyên vẹn. 

Song điều lạ ở chỗ, trên tàu không có lấy một bóng người, cũng không hề có một dấu tích nào về một vụ cướp bóc hay lật tàu. Không ai biết các thủy thủ đoàn đã đi đâu, làm gì, còn sống hay đã chết.

Cuộc mất tích bí ẩn của những ''con tàu ma'' 2

Người ta đồn rằng. đây vốn là con thuyền bị ma ám có tên là Amazon. Trong quá khứ, con tàu từng khiến ba thuyền trưởng bị chết, hai thuyền trưởng khác bị thương do những vụ tai nạn kì quái, cuối cùng thì nó được chủ nhân mới tu sửa và đổi tên thành Mary Celeste. 

Năm 1885, chủ sở hữu cuối cùng của con tàu là G.C. Parker đã cố ý phá hủy con tàu để lấy tiền bảo hiểm song cũng không thành công, con tàu vẫn không hề bị chìm trong lửa đốt.
2. Tàu Carroll Deering

Trong hành trình trở về từ Rio de Janeiro, Brazil tới Norfork, Virginia, Đại úy William H. Merritt, thuyền trưởng tàu Carroll Deering đã ngã bệnh đột ngột. 

Con trai ông - một thủy thủ đoàn đã đưa ông vào bờ bằng một con thuyền nhỏ, cả hai để lại tàu Carroll Deering cho một thuyền trưởng mới - Wormell. 

Ông cùng người đồng sự McLellan phụ trách đưa thủy thủ đoàn trở về trước. Tuy nhiên, như một lời nguyền ám ảnh, hai người được ủy thác bỗng dưng có những xích mích nghiêm trọng và xảy ra một cuộc cãi lộn, “nội chiến” ngay giữa các “chiến hữu” trong lúc say rượu.

Cuộc mất tích bí ẩn của những ''con tàu ma'' 3

Kết cục thật không thể lường trước. Carroll Deering đã không bao giờ trở về được quê nhà. Người ta đã tìm thấy nó tại mũi Hatteras, Bắc California trong tình trạng trống trơn, không còn người nào cũng như của cải vật dụng. 

Các cuộc điều tra đã được tiến hành nhưng đều lâm vào bế tắc và người ta bắt đầu nghi ngờ, có vẻ như con tàu đã bị tấn công tại tam giác quỷ Bermuda trên đường trôi dạt vào đất liền.
3. Tàu SS Valencia

Cuộc mất tích bí ẩn của những ''con tàu ma'' 4

Lần cuối cùng người ta nhìn thấy SS Valencia còn nguyên vẹn đó là ngày 21/1/1906. Không ai biết duyên cớ thế nào mà các thủy thủ lại cho con tàu khởi hành vào một đêm tối. Không có những ngôi sao để định hướng, con tàu nhanh chóng mất phương hướng và bị lạc. 

Trong nỗ lực tìm kiếm eo biển Juan de Fuca, SS Valencia đã vô tình đi tới tận bờ biển phía Tây Nam Vancouver, nơi được biết đến là nghĩa địa chôn xác của những con tàu dưới lòng đại dương. Theo nhiều người kể, đây là nơi “yên nghỉ” của hơn 2.000 tàu các loại cùng với hơn 1.000 thủy thủ và khách du lịch.

Cuộc mất tích bí ẩn của những ''con tàu ma'' 5

Dĩ nhiên, SS Valencia không thoát khỏi được số phận. Nhưng điều kỳ lạ ở đây là trong số các thủy thủ, đã có những người lên được 3 chiếc thuyền cứu sinh độc nhất. Vậy mà, không hiểu sao, hai trong số đó đã lật úp, còn một chiếc biến mất hoàn toàn, bặt vô âm tín. Kết cục là toàn bộ thủy thủ của SS Valencia đã thiệt mạng trên biển.
4. Tàu MV Joyita

MV Joyita từng là một du thuyền cá nhân, một tàu chở hàng hạng nhỏ trong Chiến tranh thế giới II, mọi chuyện đều bình thường cho tới giữa những năm 1955. 

Trong một chuyến đi từ Samoa tới quần đảo Tokelau, MV Joyita đã biến mất một cách bất ngờ và chỉ được tìm thấy 5 tuần sau đó, cách điểm đến dự kiến tới 600 dặm (khoảng 960km).

Cuộc mất tích bí ẩn của những ''con tàu ma'' 6

Khi được phát hiện, do cấu tạo đặc biệt nên con tàu không bị chìm hẳn. Toàn bộ thân tàu gần như vẫn y nguyên, một phần vỏ tàu bị hỏng. 

Bên cạnh sự mất tích của tất cả thủy đoàn, các nhà khoa học cũng tìm ra nhiều mảnh giẻ thấm vết máu trên tàu. Điều này làm dấy lên nghi ngờ về một vụ cướp đẫm máu đã xảy ra trên con tàu ma mị này.
5. Tàu Baychino

Được sử dụng làm phương tiện chuyên chở và buôn bán da động vật dọc theo bờ biển Canada, tàu Baychimo không lạ lẫm gì với những loại thời tiết khắc nghiệt.

Cuộc mất tích bí ẩn của những ''con tàu ma'' 7

Con tàu này rất hay bị mắc kẹt nên các trong một lần mắc kẹt trong băng, các thủy thủ đoàn bỏ đi quá nửa. Những người còn lại tự tạo một chiếc lán bằng gỗ để cố bám trụ. Cuối cùng, họ cũng được đền đáp khi băng đã buông tha con tàu.

Tuy nhiên, lần cuối cùng có người nhìn thấy Baychimo là vào năm 1969 tại bờ biển Alaska, sau đó thì không ai biết tin tức gì về nó nữa. Có thể nó đã chìm, hoặc bị mắc kẹt, hoặc đang lênh đênh tại một nơi vô định nào đó trên đại dương. Không ai có thể trả lời.
 
Theo
Việt Anh / MASK Online

Vụ đắm tàu ghê rợn nhất vùng "Tam giác Rồng" Nhật Bản

14:00:01 10/01/2012

Nguyên nhân làm biến mất chiếc tàu cực kì đáng sợ...

Từ những năm 40 của thế kỉ trước, vô số tàu biển cỡ lớn đã bị mất tích trên vùng biển cách thành phố Okinawa (Nhật Bản) 200 hải lí (khoảng 370km). Nếu đánh dấu phạm vi của vùng biển nguy hiểm này trên bản đồ thế giới, ta thấy nó là một khu vực hình tam giác rất giống với vùng Tam giác quỷ Bermuda. Nơi đây được gọi là Tam giác Rồng (Dragon Triangle) nằm trên vùng biển của Nhật Bản. Sự kiện mất tích một cách bí ẩn diễn ra liên tục đối với những chiếc tàu biển lớn khiến mọi người đều lấy làm lạ. Các nhà khoa học Nhật Bản và thế giới bắt đầu tiến hành khám phá, cố gắng tìm cho ra sự thật của vùng biển ma quỷ này bằng việc phân tích vụ tai nạn của con tàu De Baishar - một trong những vụ đắm tàu gây thiệt hại lớn nhất trên vùng biển này.


Vùng Tam giác Rồng Nhật Bản.


Con tàu xấu số

Ngày 8/9/1980, con tàu biển khổng lồ De Baishar lớn gấp đôi con tàu Titanic, chở 150 ngàn tấn quặng sắt đang chạy tại nơi cách bờ biển Okinawa khoảng 370km thì bỗng nhiên gặp một trận bão mạnh. Tuy nhiên, vị thuyền trưởng hết sức chủ quan bởi trong mắt ông thì De Baishar là con tàu chở hàng khổng lồ được thiết kế hết sức chính xác, sẽ chẳng hề hấn gì trước những trận siêu bão như thế này.

Nhưng sau khi Trung tâm chỉ huy trên bờ nhận được đoạn thông tin cuối cùng của thuyền trưởng “Chúng tôi đang gặp phải trận bão với sức gió 100km/h và những đợt sóng lừng (*) cao tới 9m" thì con tàu De Baishar cũng bặt vô âm tín.

(*): Sóng lừng là hiện tượng đột ngột xuất hiện một bức tường nước khổng lồ có thể cao tới hơn 10m khi mặt biển đang phẳng lặng.



Hình ảnh mô tả một con sóng lừng.

Đây là một vụ tai nạn rất lớn, nhưng không phải là một tai nạn ngẫu nhiên. Trong thời gian diễn ra Chiến tranh Thế giới II (1939-1945), nhiều tàu ngầm của cả hai bên tham chiến cũng từng gặp những tai nạn tương tự. Theo số liệu thống kê của Hải quân Mỹ, trong số tàu ngầm của họ làm nhiệm vụ hoặc đi qua vùng biển chết chóc này, đã có 1/5 số tàu mất tích bởi những yếu tố “phi chiến đấu” như thiên tai, động đất... với tổng số 52 chiếc.

Vào tháng 5/1945, nhằm giành ưu thế trên biển, hạm đội đặc biệt thứ 38 của Hải quân Mỹ bao gồm cả tàu sân bay và các tàu khu trục oanh kích dữ dội đội biệt kích thần phong của Nhật Bản liên tục suốt ba ngày đêm, sau đó tạm ngừng để bổ sung nhiên liệu chuẩn bị cho đợt tiến công tiếp theo. Bỗng nhiên, cả hạm đội phải gồng mình chống chọi sống còn với một thảm họa thiên tai khốc liệt ngay tại vùng biển này. Do bất ngờ rơi vào một cơn bão cực lớn với sức gió giật trên cấp 12 và sóng bạc đầu xô cao trên 18m, 16 chiếc chiến hạm đã bị hư hại nặng, hơn 200 chiếc chiến đấu cơ bị quét khỏi mặt boong tàu sân bay cùng 765 thủy thủ chết và mất tích. Đây là thảm họa thiên nhiên lớn nhất mà Hải quân Mỹ phải hứng chịu trong Chiến tranh thế giới Thứ II.

Hành trình kiếm tìm đáp án

Ngày 23/9/1952, một nhóm các nhà khoa học đáp một chiếc tàu nghiên cứu biển của Nhật Bản tới vùng biển Tam giác Rồng này nhằm khám phá ra bí ẩn các sự cố chìm tàu trước đó. Sau khi nhổ neo rời cảng, con tàu luôn duy trì tốc độ rẽ sóng ổn định. Theo lí thuyết chỉ mất khoảng 1 ngày là tiếp cận được mục tiêu nhưng 3 ngày sau khi xuất phát, trung tâm mất liên lạc hoàn toàn với các nhà khoa học. Mấy ngày sau, khi đến được vùng biển nơi con tàu gặp nạn, các nhân viên của tàu cứu hộ không hề tìm kiếm được dấu vết gì. Và tất nhiên, chẳng còn ai được cho là sống sót trên chuyến tàu đó cả.

Hình ảnh mô phỏng con sóng lừng đang nhấn chìm con tàu trên Tam giác Rồng Nhật Bản.

Sự việc cũng dần trôi vào lãng quên. Cho tới hơn 40 năm sau, vào tháng 9/1994, đội thám hiểm đại dương do Tiến sĩ David Mone, chuyên gia tìm kiếm cứu hộ trên biển giàu kinh nghiệm của Mỹ, chỉ huy đã tiến thẳng vào vùng biển ma quỷ này để khám phá ra sự thật. Đội thám hiểm dùng máy quét dò âm thanh mặt phẳng, robot lặn sâu… dò tìm trong một thời gian khá lâu, cuối cùng tại một địa điểm đáy biển sâu 4.000m người ta đã phát hiện cả một “núi” sắt thép đã biến dạng; tiếp đó, tại vùng đáy biển gần đó có khá nhiều quặng sắt phát sáng. Bởi họ đã biết, nhiều năm trước, khi bị đắm, con tàu De Baishar từng chở quặng sắt nên thông qua manh mối này mà người ta suy đoán rằng núi sắt vụn phát hiện ra dưới đáy biển kia chính là xác con tàu khổng lồ De Baishar - mục tiêu đang cần phải tìm.

Thông qua phân tích hình ảnh do camera thăm dò quan sát truyền về Trung tâm nghiên cứu, các nhà nghiên cứu đã tìm ra nguyên do chìm tàu năm xưa: Khi gặp một trận bão mạnh, thường thì với một con tàu biển khổng lồ như De Baishar, nó sẽ dễ dàng chống chọi, an toàn vượt qua giông bão. Nhưng bất ngờ thay, một đợt sóng lừng cực lớn xuất hiện, đã “bốc” toàn bộ con tàu lên không trung rồi quật xuống, tạo nên sức ép khủng khiếp, bẻ gãy thân tàu làm 3 đoạn tách rời nhau. Và thế là, chiếc tàu hàng khổng lồ “lớn gấp đôi con tàu Titanic” nhanh chóng chìm xuống đáy biển sâu. Toàn bộ thủy thủ đoàn không ai kịp thoát ra khỏi khoang tàu để nổi lên mặt nước. Bên cạnh đó, trong quá trình chìm dần, các khoang rỗng của con tàu còn bị chịu áp lực lớn dần của nước (cứ xuống sâu thêm 10m thì áp suất nước tăng thêm 1kg/cm2) thế nên khi rơi xuống độ sâu 4.000m, toàn bộ con tàu bị bóp bẹp, trong tích tắc đã biến thành một đống sắt vụn.



Vậy đâu là đáp án cho những hiện tượng bất thường xảy ra ở vùng Tam giác Rồng này? Đó vẫn là một câu hỏi còn để ngỏ làm đau đầu biết bao nhà nghiên cứu của Nhật Bản và thế giới.
Theo
Quang Khải / Quang Khải

Tam giác quỷ Bermuda - bí ẩn nối tiếp truyền thuyết

00:01:00 14/10/2011

Tại đây, la bàn sẽ không chỉ đúng về hướng Bắc...

Tam giác quỷ Bermuda là một khu vực tọa lạc ở phía Tây Bắc Đại Tây Dương, bao quanh bờ biển phía Đông bang Florida (Mỹ) và Puerto Rico. Bên cạnh đó, một phần của tam giác này còn kéo dài tới khu vực lân cận bang South Carolina (Mỹ). Sở dĩ, vùng biển này có tên Bermuda do nó được đô đốc người Tây Ban Nha lần đầu tiên tìm thấy vào năm 1503.

Nhìn chung, Tam giác quỷ Bermuda là một khu vực đầy nắng, gió, không có các mùa phân chia rõ rệt. Đây là một trong hai địa điểm trên Trái đất mà la bàn sẽ không chỉ đúng về hướng Bắc. Rất nhiều người còn nói, các quy luật vật lý cũng không còn đúng ở nơi này.


Christopher Columbus, nhà thám hiểm nổi tiếng đã tìm ra châu Mỹ, từng ghi lại những dòng nhật ký rợn tóc gáy về cuộc hành trình của ông qua khu vực này vào năm 1492. Columbus đề cập đến sự lệch hướng dị thường của các công cụ điều hướng, cho đến những ánh đèn chiếu sáng lạ lùng ở đường chân trời. Trong cuốn sổ ghi chép, ông còn mô tả về "một ngọn lửa khổng lồ" lao từ trên cao xuống biển.

Một sự cố lạ thường khác cũng xảy ra tại Tam giác quỷ Bermuda vào năm 1872. Sử sách ghi lại rằng, tàu Mary Celeste rời Genoa (Ý) vào ngày 7/11/1872. Đến ngày 4/12/1872, các thủy thủ trên tàu Gratia Dei nhìn thấy tàu Mary Celeste đang trôi nổi một cách ngẫu nhiên trên biển. Khi đến gần Mary Celeste, họ phát hiện con tàu này hoàn toàn trống trơn, không một bóng người. Ngay cả các xuồng cứu hộ cũng không được tìm thấy dù “con tàu ma" nhìn chung vẫn trong tình trạng chạy tốt.




Câu chuyện nổi tiếng nhất được ghi chép cẩn thận và đầy đủ về sự cố ở Tam giác quỷ Bermuda chính là sự cố "Chuyến bay số 19”.

“Chuyến bay số 19” là sự kiện 5 chiếc máy bay TBM Avenger của Hải quân Mỹ bị biến mất trong quá trình bay huấn luyện ngày 5/12/1945 từ căn cứ Không lực Hải quân Ft. Lauderdale, bang Florida (Mỹ).

Trước khi biến mất, Trung úy Charles Taylor - chỉ huy “Chuyến bay số 19” đã gửi các thông điệp radio về căn cứ chỉ huy, báo cáo về những ảnh hưởng thị giác bất thường như: lạc đường, sự xuất hiện của vùng nước màu trắng, đại dương "nhìn không giống mọi khi" và la bàn xoay không kiểm soát.

Một thủy phi cơ Martin Mariner thuộc đội tìm kiếm được cử đến cũng phát nổ chỉ trong 23 phút sau khi cất cánh, đưa tổng số người được coi là tử vong lên con số 33, bao gồm tất cả 14 thành viên đội bay thuộc "Chuyến bay số 19" và 13 thành viên đội cứu hộ. Tất cả các tín hiệu nhận được đều nằm ở khu vực giáp ranh Tam giác quỷ Bermuda.


Ngày 8/4/1952, tàu chở hàng Laifudan của Nhật chở đầy lúa mạch, đang chạy trên khu vực này cũng đột ngột mất tích. Năm 1997, một tàu thủy hạng trung đi vào vùng này ngay lập tức rơi vào tình trạng mất kiểm soát, hoàn toàn mất định hướng rồi lật xuống biển. Hơn 300 người trên tàu đều thiệt mạng.

Điều khó hiểu hơn là vào năm 1970, máy bay chở khách cỡ lớn của Mỹ lúc đi qua vùng biển này cũng đột nhiên mất liên lạc với đài chỉ huy ở sân bay. Máy bay biến mất trên màn hình radar theo dõi trong 10 phút, sau đó lại hiện ra và đáp xuống. Tất cả các đồng hồ trên máy bay đều chạy chậm 10 phút.

Theo thống kê, từ đầu thế kỷ 20 đến nay, có 30 máy bay, 100 tàu và khoảng 1.000 người đã biến mất tại khu vực Tam giác quỷ. Tất cả xác tàu bè, máy bay đều không tìm thấy, trong đó có cả chiếc tàu vận tải khổng lồ USS Cyclops của Mỹ (mất tích không để lại dấu vết cùng 306 thành viên thủy thủ đoàn và hành khách).


Những lời đồn đoán về Tam giác quỷ cũng từ đó mà ra. Theo truyền thuyết, có người cho rằng đây là khu vực bị yểm bùa của những thổ dân châu Mỹ nhằm tránh sự xâm chiếm của người ngoài. Có người lại cho rằng đây là một trận đồ bát quái chưa được phá bỏ. Hay như tác giả của truyện Đôrêmon đã dành hẳn một tập truyện dài về khu vực này (tập truyện “Lâu đài dưới đáy biển”), cho rằng đây là căn cứ của một thế lực siêu nhiên nào đó.

Các nhà khoa học trên thế giới cũng từng đưa ra nhiều lời lý giải cho sự biến mất bí ẩn của tàu thuyền và máy bay trên khu vực Tam giác quỷ.

Một số nhà khoa học về địa chất từ Nhật, Đức và Mỹ đã tìm thấy trữ lượng khí mê-tan rất lớn trong vùng Tam giác quỷ Bermuda. Họ cho rằng: trong độ sâu từ 500 đến 2.000m, băng mê-tan (methane hydrate) có thể hình thành nếu trữ lượng mê-tan lớn và nhiệt độ cho phép. Nếu áp suất và nhiệt độ thay đổi theo thời gian, khí mê-tan sẽ dần dần thoát ra khỏi các “tảng gần giống như băng” này.

Khi có thay đổi đột ngột, ví dụ như xảy ra động đất dưới đáy biển hay chuyển dịch kiến tạo mảng, một phần lớn của băng mê-tan này có thể bị phân rã ra thành các thành phần cấu tạo (nước và mê-tan). Mê-tan dạng khí nổi lên trong bọt khí, làm giảm tỉ trọng của nước. Lực đẩy của tàu thủy và tàu ngầm giảm đi nhanh chóng, mạnh đến mức khiến chúng bị nhấn chìm xuống mặt nước hoặc đến tận đáy biển.


Ngoài ra, hiện tượng này còn hình thành điện tích khi bọt khí nổi lên, ma sát với nước, từ đó tạo nên một dòng điện, giải thích cho việc những thiết bị, dụng cụ từ trường và điện không hoạt động được nữa.

Tuy vậy, những lý giải trên đều chưa có cơ sở khoa học chắc chắn và còn nhiều điểm chưa thật hợp lý. Và do vậy, Tam giác quỷ Bermuda đến nay vẫn là một khu vực đầy kỳ bí với chúng ta.
Theo
Chuột Bi / Chuột Bi
Xem tiếp...

Thứ Sáu, 1 tháng 5, 2015

KHÔNG LỜI 1

(ĐC sưu tầm trên NET)


Xem tiếp...

CÂU CHUYỆN LICH SỬ 54/B (Đức Quốc Xã)

(ĐC sưu tầm trên NET)

Xem tiếp...

CÂU CHUYỆN LICH SỬ 54/A (Đức Quốc Xã)

(ĐC sưu tầm trên NET)


Xem tiếp...

CÂU CHUYỆN TÍNH BÁO 45

(ĐC sưu tầm trên NET)

Điệp viên thế kỷ XX: Vụ án Powers

VietnamDefence - Thế giới lần đầu tiên được nghe nói đến máy bay do thám U-2 và phi công Powers vào mùa xuân năm 1960. Đây là một thất bại đã kéo theo những hậu quả chính trị tai hại và cay đắng đối với nước Mỹ và tác động tiêu cực đến tình tình thế giới.
Máy bay trinh sát chiến lược

Nhưng một nhóm người cụ thể, trong đó có Allen Dulles (Allen Welsh Dulles (1893-1969), nhà ngoại giao và chỉ huy tình báo Mỹ, Giám đốc CIA từ năm 1953-1961 - ND), được biết chiếc máy bay này trước những người khác từ nhiều năm trước khi sự kiện xảy ra. Vào cuối tháng 2 năm 1956, tại vùng Tây Bắc Washington, trên tầng hai của toà nhà 2430 ở trên phố E, trong phòng làm việc của Dulles đã tề tựu mấy người: Tướng bốn sao Nathan F. Twining, quân nhân cao cấp thứ hai trong lực lượng vũ trang Mỹ, tham mưu trưởng Không quân Mỹ; Trung tá Hemlock, đại diện viện nghiên cứu khoa học của Không quân Mỹ và đại tá về hưu Prewitt, thành viên hội đồng tư vấn của Cơ quan Hàng không vũ trụ Mỹ NASA. Dulles tuyên bố hoạt động tình báo bằng các quả bóng bay trên lãnh thổ “khối phương Đông” đã thất bại hoàn toàn, mà các máy bay trinh sát hiện có thì không đáp ứng yêu cầu, bởi vậy cần phải có những phương tiện trinh sát mới. Sau đó, vị Giám đốc CIA đã giới thiệu đại tá Prewitt và đề nghị ông ta đưa cho những người có mặt xem những bản vẽ của mình.

Prewitt lôi từ trong cặp ra những bản vẽ và ảnh của một máy bay có hình thù kỳ dị. Máy bay có chiều dài chỉ 14,6 m, nhưng lại có sải cách 29 m; diện tích cánh lên tới 62 m2. Bộ cánh thăng bằng - Prewitt giải thích - đơn giản và có dạng hình thang giống như cánh máy bay. Trong thân, phía sau có bố trí động cơ tuabin quạt kiểu Pratt & Witney J-57....

Các vị khách chăm chú theo dõi câu chuyện của Prewitt và ngắm nghía mô hình máy bay. Chưa một ai từng nhìn thấy máy bay nào giống như thế, một dạng lai ghép máy bay tiêm kích với tàu lượn. Nhưng tất cả điều biết câu chuyện đang nói về cái gì - đó là về một loại máy bay trinh sát chiến lược. Prewitt nêu các tính năng kỹ thuật của máy bay: thân làm bằng kim loại bởi vì khi bay với tốc độ gần âm thì thân làm bằng các vật liệu nhân tạo không thích hợp. Nhưng thân máy bay sẽ được phủ một lớp men đặc biệt làm cho radar không thể hoặc ít ra là khó phát hiện được máy bay. Các nhà thiết kế đã giải quyết được một bài toán khác: máy bay có thể bay ở độ cao hơn 21 km, độ cao hoàn toàn an toàn trên thực tế vì nằm ngoài tầm với của tên lửa và máy bay tiêm kích. Ngoài ra, lượng nhiên liệu tiêu thụ khi bay ở độ cao này sẽ ít hơn nhiều vì lực cản không khí nhỏ. Máy bay do công trình sư trưởng của hãng Lockheed Clarence Johnson thiết kế và tất nhiên là được chế tạo tại các nhà máy của hãng này. Tiếp đó, Dulles lại lên tiếng, đề nghị phối hợp hoạt động. Trong phạm vi CIA, phòng 10-10 phụ trách việc chuẩn vị các phi vụ trinh sát mới, ông ta thông báo. Máy bay có tên gọi U-2.

Sau cuộc họp ở Washington, công tác nghiên cứu phát triển bắt đầu được tiến hành ráo riết. Hằng sáng, các nhà thiết kế và kỹ thuật viên từ California bay tới khu vực thiết kế được bảo vệ cẩn mật hệt như trung tâm nguyên tử ở Los Alamos mười năm trước đây, để làm việc dưới sự chỉ đạo của Johnson. Máy bay đã được hoàn thành trong một thời hạn ngắn kỷ lục.

Và bây giờ thì trước Dulles lại nảy sinh vấn đề làm thế nào để bảo mật. Giữ việc này bí mật tuyệt đối là không thể vì khi máy bay tiến hành bay thử thì dù muốn hay không muốn cũng đã có nhiều người nhìn thấy nó. Cuối cùng nảy ra quyết định đăng ký máy bay này tại phòng đăng ký sáng chế là máy bay nghiên cứu khoa học với ký hiệu của NASA. Nhằm đánh lạc hướng, người ta đã cho đăng trên báo một tin giả - tin ngắn về việc “Máy bay U-2 đã chụp ảnh được cơn bão trên biển Caribê”. Một loạt các tờ báo đã đăng tin này trong mục khoa học, một số báo khác thì đăng tin lẫn các tin ngắn khác.

Vào tháng 6 năm 1959, tạp chí Science e Vie của Thuỵ Sĩ đã đăng một bài tổng hợp về các lực lượng chiến lược Mỹ, trong đó có viết: “Các máy bay U-2 đang bay một cách có hệ thống trên lãnh thổ Liên Xô. Nhờ các máy ảnh lập thể của mình, người Mỹ đã có thể lập được tại một trong các căn cứ ở Schwarzwald một bản đồ địa hình lớn”.

Ngày 24 tháng 9 năm 1959, cách Tokyo 65 km, một chiếc máy bay U-2 đã phải hạ cánh bắt buộc xuống sân bay giành cho tàu lượn của Nhật. Lúc đó, hoạt động trên sân bay đang hết sức náo nhiệt. Các vận động viên thể thao khi chạy lại gần máy bay đã nhìn thấy viên phi công được vũ trang bằng súng ngắn và anh ta từ chối mở nắp cabin (Anh ta được lệnh hành động như thế trong những tình huống tương tự). Máy bay vừa trở về sau chuyến bay do thám bí mật trên vùng trời Siberia, những cuộn phim bí mật đến mức viên phi công cũng không có quyền lấy chúng khỏi máy. Mười lăm phút sau, một trực thăng và một chiếc xe jeep của Mỹ hú còi cầm ĩ chở một số nhân vật dân sự chạy tới. Họ chĩa súng hăm doạ để đuổi các vận động viên Nhật rời xa máy bay. Nhưng một vận động viên kiêm nhà báo đã kịp nhận thấy điều gì đó thú vị: máy bay sử dụng động cơ tuabin chỉ để lấy độ cao, còn sau đó thì tắt động cơ và bay như tàu lượn. “Không còn nghi ngờ gì nữa, đây là máy bay dùng để nghiên cứu khí tượng, - anh ta thận trọng viết trên báo, - nhưng sẽ thật là ngu ngốc nếu nghĩ rằng không thể dùng nó cho cả mục đích do thám khi nó đang bay nghiên cứu điều kiện khí quyển”.

Một nhân chứng khác trong giây phút cuối cùng đã kịp chụp ảnh chiếc máy bay bí hiểm kia. Khi in ra ảnh, anh ta phát hiện trên mũi máy bay có một cửa sổ nhỏ mà từ trước đến nay chỉ thấy có ở các máy bay do thám. Anh ta lập tức hiểu rằng, phía sau cửa đó có bố trí các máy ảnh. Ngoài ra, máy bay còn được sơn màu đen để hấp thụ sóng radar... Và bức ảnh với những lời bình luận kèm theo đã xuất hiện trên các tờ báo Nhật.

Tất nhiên là Liên Xô cũng biết là có các chuyến bay của U-2. Và không phải qua báo chí phương Tây. Các phi công U-2, sau khi trở về sân bay, theo quy định phải báo về chuyến bay vừa hoàn thành. Họ báo cáo là đã bị phát hiện từ mặt đất và các khí tài trên máy bay đã chứng tỏ điều đó. Nhưng một lần, họ cảm thấy có một quả tên lửa nổ đâu đó khoảng 3 km dưới máy bay. “Ngài biết những phi vụ gián điệp như thế được tiến hành trên lãnh thổ của các ngài từ bao giờ?” - một phóng viên của hãng thông tấn Laifa hỏi Bộ trưởng Ngoại giao Liên Xô Gromyko (Andrey Andreyevich Gromyko (1909-1989), Bộ trưởng Ngoại giao (1957-1985) và Chủ tịch Xôviết Tối cao Liên Xô (1985-1988) - ND) vào tháng 5 năm 1960 tại một cuộc họp báo ở Moskva. Gromyko trả lời rằng, từ 2-3 năm trước, Liên Xô đã nhiều lần lên tiếng phản đối về vấn đề này.

Ngày 9 tháng 4 năm 1960, thêm một chiếc U-2 khác xâm nhập không phận Liên Xô. Phi vụ tiếp theo được dự định vào ngày 1 tháng 5. Nó sẽ phải bay trên lãnh thổ Liên Xô đường bay dài hơn phi vụ trước. Theo dự tính, U-2 bắt đầu phi vụ từ sân bay ở Pesawar (Pakistan) và tiếp đó bay theo đường bay định sẵn trên bản đồ đến khu vực Sverdlovsk. Phi công được chọn là Francis Powers Gary Powers, phi công U-2 sừng sỏ nhất lúc đó. Như thường lệ, anh ta được cung cấp một túi chứa đồ “mua chuộc”, trong đó có 7.500 rúp, một số ngoại tệ như lia, franc, mác Tây Đức, hai cặp đồng hồ vàng và hai chiếc nhẫn vàng cho phụ nữ. Đại tá Shelton đưa cho anh ta một chiếc hộp nhỏ đựng một vật nữa - đó là chiếc kim đầu tẩm độc - giành cho tình huống “tối hậu”.

Chiếc U-2 mà Powers bay đã được lắp động cơ cải tiến. Mặc dù trên máy bay làm bằng titan nhẹ này đã được lắp thêm cả thiết bị hấp thụ sóng radar mới, và thiết bị phát hiện bức xạ hồng ngoại mới nhưng máy bay chỉ có trọng lượng bằng một nửa so với máy bay tiêm kích hiện đại. Máy bay nhanh chóng lấy độ cao và vào lúc 5 giờ 56 phút đã bay tới biên giới Liên Xô, sau đó phi công không được phép dùng vô tuyến điện nữa. Trong thân máy bay, máy ảnh và các máy ghi băng từ tự động đang làm việc không tiếng động. Máy bay bay qua biển Aral và nhằm hướng Sverdlovsk bay tới. Máy bay bay ở độ cao tối đa. Khi đến Sverdlovsk, phi công hạ độ cao để chụp một trong các mục tiêu quân sự ở khu vực này.

Vào lúc 8 giờ 55 phút, giờ Moskva, viên sĩ quan trực ban của đơn vị tên lửa phòng không tại khu vực Sverdlovsk đã nhận được lệnh bật máy tự động. Một chớp sáng loé lên trên màn hình radar, tên lửa đã bắn trúng mục tiêu. Năm phút sau, viên thiếu tá tiến đến điện thoại vô tuyến và báo cáo: “Gửi chỉ huy 92851. Báo cáo: mệnh lệnh đã được hoàn thành. Máy bay bị tiêu diệt. Mục tiêu xuất hiện ở độ cao 20 km đã bị diệt bằng một quả đạn tên lửa. Radar đã ghi nhận được tên lửa bắn trúng đích. Tôi vừa được báo cáo: phi công đã nhảy dù. Tôi đã ra lệnh tìm kiếm hắn”.

Mạng sống của Powers đang ngàn cân treo sợi tóc. Quả đạn tên lửa có sức công phá mạnh đã nổ tung gần máy bay, nhưng chỉ làm hư hại nặng phần đuôi máy bay mà không làm hư hại gì cabin. Trong quá trình điều tra, Powers khai: “Tôi bất ngờ nghe thấy một tiếng nổ trầm đục nào đó và thấy ánh sáng màu da cam. Máy bay lập tức rơi xuống và tôi hiểu rằng cánh và đuôi máy bay sẽ văng ra ngay bây giờ. Có lẽ tên lửa đã không bắn trúng trực tiếp vào máy bay mà chỉ nổ gần, nhưng sóng xung kích và mảnh tên lửa vẫn làm hư hỏng máy bay... Điều đó xảy ra ở độ cao 68.000 bộ, cách Đông Bắc Sverdlovsk khoảng 25-30 dặm. Trước đó, tôi vẫn giữ đúng đường bay quy định trên bản đồ của tôi. Khi máy bay bắt đầu rơi, tôi bị ép chặt vào bảng đồng hồ ở giữa...
Francis Gary Powers
Tôi hiểu không thể sử dụng ghế phóng ở độ cao 30.000 bộ. Tôi mở nắp buồng lái và tháo dây lưng. Lực hướng tâm ép nửa người tôi vào bảng đồng hồ, còn nửa người kia thì đã lơ lửng bên ngoài. Thì ra tôi đã quên tháo dây dẫn mặt nạ ôxy nên chúng đã làm tôi bị vướng. Một lúc sau thì tôi cũng thoát được khỏi mấy cái dây dẫn. Dù mở ngay khi tôi rời khỏi máy bay. Lúc này tôi đã ở độ cao 14.000 bộ”.

Bằng máy móc của mình, chiếc máy bay lúc này đã không còn người lái vẫn vòng lượn và hạ cánh. Nhiều bộ phận nhỏ như nắp buồng lái, các contenơ đặc biệt và những mẩu kim loại bị bung khỏi thân và cánh do tên lửa nổ thì rơi xuống đất. Máy bay hạ xuống thửa ruộng cày, trượt một đoạn bằng bụng, sau đó phần dưới máy bay bị vỡ. Các lá cánh của tuabin nén của động cơ đã tắt ngấm bị bẻ gập ra sau. Phần trên máy bay không bị tổn hại khi hạ cánh.

Các cuộc họp ráo riết bắt đầu ở Washington. Tại cuộc họp của Hội đồng An ninh Quốc gia Mỹ, người ta đi đến kết luận là máy bay đã bị tiêu diệt và phi công thiệt mạng. Người ta cũng đưa ra quyết định: chờ trong 5 ngày, sau đó thì công bố “câu chuyện nguỵ trang” làm vỏ bọc đã được chuẩn bị sẵn cho mục đích này. Trong cuộc họp báo chính thức vào ngày 5 tháng 5, đại diện Bộ Ngoại giao Mỹ đã tuyên bố rằng, chiếc máy bay U-2 của Mỹ khi đang bay gần biên giới Liên Xô-Thổ Nhĩ Kỹ để nghiên cứu khí tượng ở tầng trên của khí quyển đã bị rơi do hệ thống cấp ôxy cho phi công bị trục trặc. Tiếp đó, tuyên bố còn nói phi công đã bị ngất và máy bay được điều khiển bằng cơ cấu lái tự động đã bay vào không phận Liên Xô, máy bay này không thuộc biên chế Không quân Mỹ mà là tài sản của NASA.

Tiếp đó, ban giám đốc NASA cũng tuyên bố: “Một trong những máy bay U-2 vốn đã bay nghiên cứu khoa học trên các tầng cao của khí quyển, nghiên cứu các điều kiện khí tượng và hướng gió từ năm 1956, đã bị mất tích trong khi bay trên lãnh thổ Thổ Nhĩ Kỳ bên trên hồ Wan sau khi phi công thông báo qua vô tuyến điện là anh ta bị thiếu ôxy”. Tiếp đó, tuyên bố nêu rõ các thông số chính xác về chuyến bay của máy bay này trên lãnh thổ Thổ Nhĩ Kỳ, về trang thiết bị đặc biệt của máy bay để lấy mẫu không khí và thu thập thông tin về bức xạ vũ trụ.

Ngày 7 tháng 5, một tin choáng váng đã bay tới Washington, “Trong phiên họp của Xôviết Tối cao Liên Xô, Chính phủ Liên Xô đã ra tuyên bố rằng, phi công của chiếc máy bay bị bắn rơi đang ở Moskva, anh ta đã khai báo và trong tay nhà chức trách Liên Xô có các vật chứng chứng tỏ tính chất gián điệp của chuyến bay này”.

Theo báo New York Times, chưa bao giờ trong lịch sử ngoại giao, chính phủ Mỹ lại lâm vào hoàn cảnh khó xử đến như thế.

Trong hai ngày Washington chìm trong hỗn loạn. Bộ Ngoại giao Mỹ sau khi im lặng một thời gian dài đã quay ngoắt 180 độ và đưa ra lời tuyên bố mới: Vâng, đúng là Mỹ đang tiếp tục tiến hành các chuyến bay do thám vì tổng thống Mỹ khi phát biểu nhậm chức đã chỉ thị sử dụng mọi phương tiện có thể, kể cả cho máy bay Mỹ xâm nhập không phận Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác, để thu thập thông tin quân sự. Tuyên bố chính thức này được đưa ra chỉ một tuần trước khi cuộc gặp cấp cao đã dự định giữa tổng thống Mỹ và chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô đã làm cho cuộc gặp này trở nên không thể thực hiện được. Tuy vậy, Chính phủ Mỹ đã tuyên bố chấm dứt hoàn toàn và vĩnh viễn các chuyến bay do thám của máy bay U-2 trên lãnh thổ Liên Xô.

Ngày 17 tháng 8 năm 1960, tại đại sảnh Toà nhà Công đoàn ở Moskva đã diễn ra phiên toà xét xử Powers. Vào lúc 10 giờ sáng, bị can bị dẫn vào. Đó là người đàn ông cao trung bình, khoẻ mạnh, rám nắng, trạng thái tinh thần tốt và như các bác sĩ tiết lộ, anh ta còn tăng cân. Anh ta mặc bộ đồ xanh xẫm, sơ mi trắng, cà vạt xám.

Chủ toạ phiên toà thông qua người phiên dịch thông báo cho bị can biết vụ án của anh ta sẽ được toà xử theo Bộ luật hình sự của Liên Xô. Đáp lại những câu hỏi của chủ toạ phiên toà, Powers khai báo: là công dân Hoa Kỳ, sinh năm 1929 ở bang Kentucky, cha mẹ vẫn còn sống, cha là thợ giày, mẹ làm nội trợ ở nhà. Đã có vợ nhưng chưa có con. Lúc này, các thành viên gia đình anh ta và một số người Mỹ khác cũng có mặt tại phiên toà. Tại đó có mặt cha mẹ, vợ và mẹ vợ của anh ta cùng với hai bác sĩ, ba luật sư và những bạn thân nhất của gia đình, cũng như các phóng viên và nhà ngoại giao. “Các thân nhân của Powers trước đây vốn thù ghét nhau - chúng tôi đọc thấy trên tạp chí Spiegel - đã hoà hoãn với nhau khi ăn sáng tại sứ quán Mỹ ở Moskva và họ không giấu nổi vui mừng được nhận visa Liên Xô...”

Báo chí Mỹ vốn ưa những chuyện giật gân liền lập tức đã tìm hiểu gia đình Powers. Ta hãy xem một tạp chí xuất bản ở Hamburg viết về việc này như thế nào: “Người đàn ông trung tuổi, vụng về, mặc đồ nâu gỡ cặp kính để lau nước mắt. Ông ngồi bối rối trong tiền sảnh khách sạn Sovietskaya ở Moskva và bị hàng trăm nhà báo tấn công. Ông thợ giày 55 tuổi Oliver W. Powers này đến từ Norton (bang Virginia) đang định tổ chức một cuộc họp báo. Trong khi đó, những giọt lệ lăn dài từ đôi mắt đã đem lại không ít lợi lộc cho các tạp chí Life và Time có số lượng phát hành hàng triệu bản, những tạp chí này đã được cha mẹ của Powers bán cho quyền ưu tiên sử dụng những tình cảm của họ phục vụ quyền lợi của công chúng.

Và tiếp đó: “Người vợ 25 tuổi Barbara của Powers đã xuất hiện ở Moskva trước tạp chí Newsweek - đối thủ cạnh tranh của tạp chí Time. Tạp chí này đã đăng lại nguyên văn từng câu từng chữ những lá thư mà cô Powers được chồng gửi từ nhà tù ở Moskva”.

Chủ toạ phiên toà, sau khi phổ biến các quyền giành cho bị can cho Powers, đã nói rằng, Powers có thể khai bằng tiếng Anh, đặt câu hỏi cho các nhân chứng và chuyên gia, nhận xét đối với biên bản và các lời khai, trình toà những bằng chứng mới và được có đại diện của mình tại phiên toà.

Cuộc thẩm vấn bắt đầu. Công tố viên trưởng Rudenko đặt ra những câu hỏi để làm rõ mục đích của chuyến bay do thám. Powers khai: vào những ngày cuối của tháng 4, anh ta cùng khoảng 20 người nữa đứng đầu là đại tá Shelton, trưởng phòng 10-10 đã bay bằng chiếc máy bay vận tải đặc biệt từ sân bay Adan ở Thổ Nhĩ Kỳ tới sân bay Pesawar ở Pakistan. Hai giờ trước khi cất cánh, anh ta đã được truyền đạt đại tá Shelton các chỉ thị cần thiết và sau đó qua khâu chuẩn bị đặc biệt, gồm cả thổi ôxy. Chiếc máy bay U-2 được một phi công khác đưa tới sân bay Pesawar. Đáp lại câu hỏi của công tố viên trưởng, Powers khai là anh ta không biết máy bay này có thuộc về một đơn vị quân đội nào không. Phòng 10-10 lúc đó đặt dưới sự chỉ huy của quân đội, nhưng trong phòng còn có nhiều nhân viên dân sự”. Tiếp đó, anh ta nói không thấy các ký hiệu nhận biết trên máy bay mặc dù anh ta có trông thấy những ký hiệu đó trên các máy bay đỗ tại sân bay Adan. Powers tuyên bố: chỉ huy đơn vị đã trấn an anh ta có thể bay tuyệt đối an toàn ở độ cao 68.000 bộ vì phòng không Liên Xô không với tới được.

Khi bay theo đường bay đã định, anh ta phải bật máy móc quan sát của máy bay tại những điểm quy định sẵn trên tấm bản đồ hiện đang được sử dụng như một vật chứng. Anh ta kể trong khi bay, anh ta còn tự đánh dấu một số điểm trên bản đồ. Tiếp đó, anh ta đọc các chỉ thị trong sổ ghi chép trên máy bay: trong trường hợp có điều gì xảy ra mà máy bay không thể bay đến được sân bay Bodje (Nauy) nơi các nhân viên phòng 10-10 chờ đón anh ta thì anh ta phải lập tức rời khỏi lãnh thổ Liên Xô. Đại tá Shellton nói có thể hạ cánh được ở sân bay bất kỳ nằm ngoài biên giới Liên Xô.

Sau đó, viên phi công khai: anh ta bay được gần 1.200-13.00 dặm trên lãnh thổ Liên Xô, ban đầu ở độ cao gần 60.000 bộ, còn sau đó dần leo lên độ cao 68.000 bộ.

- Anh cảm thấy thế nào khi bay ở độ cao lớn? - công tố viên hỏi anh ta.

- Về thể chất thì không sao, nhưng căng thẳng và sợ.

- Sợ cái gì? - Rudenko hỏi.

- Sợ là tôi đang bay trên lãnh thổ Liên Xô - bị can trả lời.

“Không phải ngày nào trong đời người cũng có chuyện như thế” - Powers tiếp tục, còn sau đó thì quả quyết anh ta đã cố hoàn thành những nhiệm vụ đặt ra cho mình bằng cách tốt nhất, theo hết khả năng của mình.

Khi trả lời những câu hỏi tiếp theo của công tố viên, anh ta khai là khi bay đã tiến hành quan sát bằng mắt khi mây không dày lắm.

Trên bản đồ, anh ta đánh dấu ba mục tiêu: sân bay, kho nhiên liệu và một khu dân cư lớn.

Khi công tố viên hỏi anh ta tại sao đánh dấu trên bản đồ những mục tiêu này, Powers nói: “Theo thói quen thông thường thì phi công hay đánh dấu những mục tiêu mới nhìn thấy. Tôi cũng đã làm đúng như vậy nếu như tôi bay trên đất Mỹ...”

Nhưng công tố viên trưởng đã phản đối điều này: “Nhưng đây là anh bay trên lãnh thổ Liên Xô và đây là sự xâm nhập vào lãnh thổ nước khác được vạch ra nhằm mục đích do thám”.

- Vâng, đúng là như vậy, - Powers trả lời.

Khi công tố viên Rudenko hỏi anh ta có biết là xâm phạm không phận là một tội hay không thì Powers trả lời phủ định. Nhưng anh ta thú nhận là chuyến bay của anh ta nhằm mục đích gián điệp. Powers khẳng định anh ta không hình dung ra thiết bị này hay thiết bị khác hoạt động như thế nào và đơn thuần là bật và tắt những nút bấm nào đó.

- Vậy là với thành công như vậy anh đã có thể thả cả một quả bom nguyên tử vì việc đó cũng chỉ đòi hỏi gạt một công tắc thôi mà - công tố viên nhận xét.

- Đúng là có thể làm được điều đó, nhưng U-2 không mang bom nguyên tử. Trên các máy bay ném bom mới có các cơ cấu treo bom đặc biệt - Powers trả lời.

- Nhưng máy bay của anh xâm nhập không phận Liên Xô ở độ cao gần 20.000 m. Trên độ cao đó, từ phía dưới anh không thể xác định được là máy bay mang cái gì: bom nguyên tử hay là cái gì nữa, - Rudenko phản bác anh ta.

Trong quá trình thẩm vấn, Powers đã kể lại chi tiết việc máy bay của anh ta đã bị bắn hạ như thế nào. Sau đó, anh ta thừa nhận là đã có chỉ thị huỷ diệt máy bay ngay lập tức nếu có sự cố và bí mật đi đến đường biên giới gần nhất.

Anh ta khẳng định số tiền Liên Xô và ngoại tệ tìm thấy trong người anh ta là một phần “các phương tiện cho tình huống không may”. Vàng và các đồng rúp sẽ được dùng để mua chuộc người dân Liên Xô.

- Tại sao trong người anh còn có cả súng ngắn và nhiều đạn như vậy? - công tố viên Rudenko hỏi.

- Để tôi có thể săn bắn, Powers giải thích.

- Anh phải cần tới 250 viên đạn cho mục đích đó ư? Thế thì tại sao anh không theo súng săn? - Rudenko tiếp tục.

- Bởi vì khó mang súng săn trên máy bay.

- Nhất là trên máy bay do thám, - công tố viên nhận xét.

Powers kể rằng, chiếc kim tẩm độc mà anh ta nhận từ tay đại tá Shelton là dùng để tự sát trong trường hợp bị bắt không chịu nổi tra tấn.

- Người ta cho tôi quyền quyết định có sử dụng kim hay không, - anh ta bổ sung.

- Người ta nói với anh là nếu bị bắt ở Liên Xô thì anh sẽ bị tra tấn ư? Rudenko hỏi.

- Tôi không nhớ người ta có nói không nhưng tôi chờ đợi điều đó.

- Và điều ấy có chứ? Anh đã bị tra tấn chứ?

- Không.

- Các cơ quan điều tra đối xử với anh thế nào?

- Rất tốt.

Powers kể tỉ mỉ anh ta đã gia nhập phòng 10-10 như thế nào. Các đại diện của CIA đã hứa những ưu đãi vật chất rất tốt nên anh ta đã nhận lời làm công việc này.

“Mặc dù tôi rất mù mờ về điều gì đã xảy ra sau ngày 1 tháng 5, nhưng tôi biết vì chuyến bay này mà cuộc gặp cấp cao giữa những người đứng đầu chính phủ Mỹ và Liên Xô, cũng như chuyến thăm Liên Xô của tổng thống Mỹ Eisenhower đã không diễn ra và tình hình thế giới thêm phần căng thẳng. Tôi rất tiếc vì tôi là một người tham gia vào những sự kiện này”, - anh ta nói trong lời phát biểu cuối cùng của mình.

Trong ngày thứ ba của phiên toà, bản án đã được tuyên như sau: tước quyền tự do trong 10 năm, trong đó 3 năm đầu Powers phải ngồi tù. (Bên công tố đề nghị 15 năm tước quyền tự do). Tuy nhiên, chỉ nửa năm sau, Powers đã được ân xá và ngày 10 tháng 2 năm 1962, người ta đã đổi anh ta lấy đại tá tình báo Liên Xô Abel. Powers đã không được phép phát biểu trước công chúng. CIA thẩm vấn cặn kẽ anh ta trong mấy tuần liền trên đảo Wellops (bang Virginia). Một vài nhân vật lãnh đạo của CIA đã đề nghị đưa Powers ra toà vì anh ta đã không sử dụng kim tẩm độc và “anh ta đã nói quá nhiều” tại phiên toà. Nhưng cuối cùng thì người ta cũng không khởi tố chống lại anh ta. Powers trở về với người vợ của mình, cô này đã bán hồi ký của mình cho một nhà xuất bản Mỹ lấy 250.000 đô la. Mười tháng sau, anh ta đã ly dị vợ vì chị ta đã từ chối chia xẻ nhuận bút với Powers, và sau đó đã cưới Claudia 'Sue' Edwards, một nhà tâm lý học của CIA.

Xác chiếc U-2 của Francis Gary Powers tại Viện bảo tàng Trung ương quân đội Nga ở Moskva


Mười ba năm im lặng
Sau phiên toà xử Francis Garry Powers, cựu phi công Không quân Mỹ và phi công đánh thuê của CIA, trên báo chí Liên Xô đã xuất hiện mẩu tin gây tò mò nói rằng, sau khi trở về Mỹ, cha của Powers đã nhắc lại với các phóng viên nhừng lời nói mà con trai ông đã nói: “Cha đừng có tin là con bị tên lửa bắn rơi. Bắn hạ con là một máy bay, con đã chính mắt nhìn thấy nó...” Trong phần bình luận của toà soạn có nói cha của viên phi công đã đưa ra tuyên bố này có lẽ là do áp lực của các cơ quan tình báo Mỹ.

Còn viên phi công lái chiếc máy bay mà Powers đã “chính mắt trông thấy” thì lại đang chờ giấy triệu tập của toà án. Nhưng phiên toà đã không diễn ra do yêu cầu của tình hình chính trị bởi vì N.S. Khrushchev (Nikita Sergeyevich Khrushchev (1894-1971), Bí thư thứ nhất Đảng Cộng sản Liên Xô (1953-1964), kiêm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô (1958-1964), người nổi tiếng hâm mộ thái quá đối với vũ khí tên lửa - ND) được báo cáo rằng, chiếc máy bay gián điệp Mỹ U-2 bị bắn rơi bằng quả tên lửa đầu tiên.

Trung thành với lời hứa của mình, viên phi công Igor Andreevich Mentyukov, người đã bắn hạ chiếc U-2, đã phải im lặng hơn 13 năm trời.

Ông không đưa ký giấy cam kết không tiết lộ mà chỉ hứa im lặng. Người ta đã tin lời viên sĩ quan. Bây giờ thì không cần phải im lặng về những sự kiện của ngày 1 tháng 5 năm 1960 nữa.

Igor Mentyukov sinh năm 1932 ở Novoznamensk, ở tỉnh Tambov. Vào năm 1946, anh chuyển đến Tambov, tốt nghiệp trường trung cấp kỹ thuật đường sắt, sau đó vào học trường “bay” Chernigov, được điều tới Frunze và sau khi tốt nghiệp trường cao đẳng quân sự Frunze năm 1954, anh về công tác tại Savostleika tỉnh Gorky. Anh đã phục vụ tốt và tuy không được cho đi học ở học viện, nhưng nói chung mọi chuyện vẫn xuôn xẻ.

Vậy thì điều gì đã thực sự diễn ra trên bầu trời gần Sverdlovsk? Các sách báo thời đó đã có viết về những chuyến bay đơn lẻ qua lãnh thổ Liên Xô của các máy bay trinh sát Mỹ. Thực ra không phải như thế. Không phận Liên Xô năm 60 thật chẳng khác gì tấm áo thủng lỗ chỗ và người Mỹ cứ việc thoải mái bay ngang bay dọc tuỳ ý. Ví dụ như chiếc máy bay U-2 nổi tiếng vào ngày 9 tháng 4 đã bay nghênh ngang và an toàn vô sự trên lãnh thổ Liên Xô từ Nauy đến Iran. Nó đã chụp ảnh các căn cứ Kapustin Yar, Baikonur và một trường thử tên lửa khác. Chẳng ai biết được người ta đã vãi bao nhiêu tên lửa một cách vô ích lên bầu trời trong xanh - đó cũng là điều bí mật vĩ đại. Sau đó, Khrushchev nổi điên lên: “Tao sẽ tống cổ tất cả, sẽ cắt đầu tất cả nếu như điều này còn lặp lại!”

Bộ tư lệnh phòng không Liên Xô đã quyết định chuẩn bị kỹ lưỡng hơn cho khả năng lặp lại các chuyến bay do thám của Mỹ. Và người ta đã cấp tốc huấn luyện chuyển loại cho sáu phi công, trong đó có cả anh, đại uý I. Mentyukov, để lái máy bay tiêm kích đánh chặn tầng cao, siêu âm, tầm siêu xa Su-9. Khi đó máy bay này được gọi là T-3. Mấy ngày trước ngày 9 tháng 4, anh đã cùng N. Sushko (đã mất) bay hai chiếc Su-9 từ nhà máy ở gần Ryazan xa lên phía Bắc, quá Murmansk, đến gần biên giới Nauy. Họ đã trực chiến ở đó năm ngày và sau đó bay về nhà ở Savostleika.

Theo kế hoạch, người ta phải cho bay chuyển sân các máy bay mới Su-9 sang phía Tây, đến thành phố Baranovich ở Belorussia và đưa chúng vào trực chiến. I. Mentyukov đã tiếp nhận máy bay mới nhưng tất nhiên là thiếu hệ thống vũ khí gồm 4 quả tên lửa không đối không. Và buổi chiều, ngay trước lễ 1 tháng 5, anh hạ cánh xuống một sân bay trung chuyển gần Sverdlovsk. Anh cần phải tiếp thêm dầu, chờ một chiếc máy bay vận tải nhỏ bay ngay sau chiếc Su-9 chở theo đội kỹ thuật và thiết bị.

Buổi sáng, anh bị khẩn cấp gọi đến sân bay và nhận lệnh “Sẵn sàng cấp 1”. Viên phi công ngồi vào ghế trong buồng lái và tướng Vovk, tư lệnh tập đoàn quân không quân Sverdlovsk bắt liên lạc với anh và phát mệnh lệnh của “Con rồng” - bằng mọi cách phải tiêu diệt được mục tiêu tầm cao. “Con rồng” hạ lệnh lao thẳng máy bay vào mục tiêu. “Con rồng” là mật danh của tư lệnh bộ đội không quân của Quân chủng Phòng không Liên Xô, tướng Savitsky (sau này là nguyên soái), người đã ra mệnh lệnh ấy tất nhiên cũng biết là máy bay không có vũ khí. Một khi lao máy bay vào mục tiêu thì không còn cơ hội sống sót nữa. Phi công có quyền từ chối: lúc này không phải thời chiến để mà bắt người ta tay không húc đầu vào xe tăng. Nhưng anh không biết kẻ địch đang bay với cái gì. Thế nhỡ hắn mang bom thì sao? Hy sinh một mạng sống hay để hàng trăm ngàn người phải chết?

I. Mentyukov cương quyết nói: “Xin dẫn đường cho tôi. Yêu cầu duy nhất của tôi là hãy chăm sóc cho vợ và mẹ tôi”. Vợ anh lúc này đang chờ sinh con. Còn sau đó thì không còn chỗ cho tình cảm nữa. Hai phi công trực chiến đã cố chặn mấy chiếc Su-9 của bên mình, nhưng một người chỉ bám đuôi được cách xa hơn 15 km, còn người thứ hai thì tụt về sau hơn một kilômet nữa. Họ nghiêng cánh và bay đi. Chỉ có Igor Mentyukov lên được độ cao 20 km. Khi còn bay MiG-19, anh đã cố bay kịch trần bay. Anh đã mấy lần đạt tới độ cao bay 17.300 m. Còn các máy bay trinh sát Mỹ luôn bay ở độ cao 19.000 m. Thế thì anh làm quái gì được?! Bắn cũng vô ích.

Thực ra tôi vẫn còn nhớ có một lần, phi công Liên Xô Filyushkin đã không giữ được bình tĩnh nên nã đạn từ cả ba khẩu pháo, dĩ nhiên là chả ăn thua gì, sau đó chán nản đành bỏ cuộc. Mà để đạt “trần bay” thì cần phải giữ tốc độ tối đa hoặc gần tối đa. Mà Su-9 thì lại có những tính năng tốc độ chưa từng có vào thời đó, hơn nữa nó lại nhẹ vì không có tên lửa. Hơn nữa, chế độ nhiệt độ lại thích hợp, bởi vậy nên Mentyukov với Su-9 đã lên đến độ cao 20 km. Các máy bay bắt đầu xích lại gần nhau. Chiếc U-2 vòng ngoặt, sau đó thì không ai hiểu. Vào lúc đó, trong tai nghe vang lên mệnh lệnh: “Mục tiêu đang ngoặt phải”. Nhưng phi công vẫn chẳng thấy gì. Các máy bay tiếp cận với tốc độ 550 m/s không hơn không kém! Chiếc Su-9 lao vọt qua bên trên chiếc U-2.

Điều gì đã xảy ra? Bản thân Powers trong quá trình điều tra và tại toà đã nói anh ta nghe thấy tiếng lốp bốp và phía trước anh ta có ngọn lửa màu da cam bay vụt qua. Lốp bốp là tiếng động thường xảy ra trong các chuyến bay của các máy bay siêu âm. Khi đó thì kính cửa sổ của nhà thường bị rung lên. Còn ngọn lửa mà anh ta trông thấy chính là luồng phụt của động cơ. Tóm lại, chiếc máy bay của Powers lọt vào luồng khí xả của chiếc Su-9. Không khí trong luồng khí xả đó có tốc độ tới 180 m/s, cộng với mômen quay đã làm cho anh chàng phi công Mỹ xoay tròn, cánh chiếc máy bay Mỹ bị gãy tung. Và chiếc U-2 bắt đầu rơi xuống. Tất nhiên, đây là sự ngẫu nhiên may mắn. Thế mà người ta lại báo cáo cho Khrushchev là Powers bị một quả tên lửa bắn rơi. Nếu một quả tên lửa bắn vào chiếc U-2 của anh ta, nếu đúng là thế thì nó đã phải vỡ tan ra từng mảnh mà rơi xuống đất. Và phi công cũng đã phải toi đời cùng máy bay. Tại toà, Powers không thể nào giải thích được là cái gì đã xảy đến với máy bay của anh ta. Không có vụ nổ, chỉ có tiếng cót két rồi chiếc U-2 nổ tan ra nhiều mảnh.

Trong nhiều năm qua, người ta đã cho rằng, các chiến sĩ tên lửa anh hùng đã bắn rơi Powers bởi vì tình huống đã được dàn xếp rất chu đáo cho ý tưởng sai lầm của Khrushchev là một khi đã có tên lửa thì chẳng cần không quân nữa, có chăng chỉ cần để tham gia diễu binh hoặc hộ tống danh dự. Bởi vậy, bản thân sự kiện Powers tiếp đất trong khu vực hoạt động của tiểu đoàn thuộc quyền đại uý

N. Voronov đã được lập luận theo cách bảo vệ ý tưởng của Nikita Sergeyevich Khrushchev. Mà khi đó thì bản thân Voronoc cũng không biết báo cáo thế nào. Những nông trang viên đã tưởng Powers là “nhà du hành vũ trụ” và dẫn hắn đến cho bộ đội tên lửa và họ liền biết ngay là mình không bắn rơi máy bay Mỹ. Voronov giữ “im lặng” trong nửa giờ đồng hồ, đó là một chuyện mà mãi sau này anh ta mới báo cáo. Khi đó thì các chuyên gia đã hiểu bộ đội tên lửa cũng chẳng có lỗi gì trong chuyện này và hiển nhiên chả ai có đủ dũng càm để báo cáo điều đó với Khrushchev. Thế là xuất hiện một truyền thuyết về Powers bị tên lửa bắn rơi, còn cái thời gian nửa giờ mà Voronov chưa báo cáo về “nhà du hành vũ trụ” là vì toàn bộ thời gian đó người ta vẫn cho là mục tiêu chưa bị diệt, và họ đang quyết liệt săn đuổi máy bay của Mentyukov như một máy bay địch. Trong lúc nhốn nháo, người ta đã quên thay đổi mã nhận dạng, do đó các máy bay Liên Xô bị xem là máy bay lạ, là mục tiêu. Điều đó lý giải vì sao các tiểu đoàn của đại uý Voronov và thiếu tá Sheludko đã bắn dữ dội vào chiếc Su-9 trong vùng bảo vệ của họ. Mentyukov buộc phải cơ động tránh đạn tên lửa. Đã có mấy quả tên lửa được bắn vào chiếc Su-9, ba quả nữa được bắn vào các phi công Aivazyan và Sofronov đang bay trên các máy bay MiG-19 đi chặn đánh các máy bay “địch”, kể cả máy bay của Mentyukov vì chiếc Su-9 của anh vẫn bay với mã nhận dạng cũ nên dưới đất đã nhận nhầm là máy bay địch! Kết quả là Sergey Sofronov bị bắn rơi... Mentyukov trông thấy thời điểm đó và sau đó còn trông thấy cả những mảnh xác máy bay của anh ấy - đúng là vụn như cám! Hãy thử tưởng tượng điều gì đã xảy ra với máy bay của Powers, tên lửa diệt được máy bay của hắn chăng? Mà chiếc U-2 rơi thành “từng miếng to”: cánh, thân...

Nhưng may mắn là chiến dịch đã kết thúc và phi công đã yên ổn trên mặt đất. Người ta nói với Mentyukov là ngày mai sẽ có ôtô đón anh ta đến nói chuyện với Savitsky, người tất nhiên đã biết rõ không phải bộ đội tên lửa bắn rơi Powers. Tất cả, tất cả đều hiểu vì họ đều là những người trong nghề và thuần tuý đó là chuyện của lương tâm. Savitsky hỏi han về sức khoẻ Mentyukov, anh đã bay ở độ cao vài chục kilômet gần giống như lúc mới được mẹ sinh ra - chẳng có mũ bay đặc biệt lần bộ đồ bay kháng áp. Nhưng dù xương cốt đau như gãy rời anh vẫn nói là mọi chuyện đều tốt. Và lập tức Savitsky nói một câu cho thấy ông hiểu tất cả. Còn ông thì nói như sau: “Cảm ơn. Không có anh thì hắn đã chạy thoát mất rồi”.

Sau đó, Mentyukov được điều sang Belorussia. Anh đã có cuộc nói chuyện với Moskva, sau đó anh chờ được gọi đến thẩm vấn. Powers trong lúc đó đang bị hỏi cung. Nhưng toà án đã không cần đến anh phi công - họ phải giữ thể diện cho bộ đội tên lửa chúng ta mà. Anh chờ lệnh triệu đến toà mà mãi không có. Anh nhận được phần thưởng là chiếc đồng hồ đeo tay Saturn và mệnh lệnh im lặng. Và chỉ mười ba sau, đã xuất hiện những bái báo đầu tiên kể về phi công Mentyukov. Những năm tiếp đó không có gì khác thường xảy ra với Mentyukov, anh đã phục vụ tốt. Là một phi công lái SU-11 sừng sỏ, anh đã từng là giáo viên riêng của nguyên soái Evgheny Yakovlevich Savitsky. Chính cái người trước đây đã ra cá mệnh lệnh mà thực ra đã đặt Mentyukov vào cái chết chắc chắn, nếu như không có sự ngẫu nhiên ấy. Anh kết thúc cuộc đời quân ngũ với quân hàm trung tá, hoa tiêu trung đoàn. Anh còn từng là một phó chỉ huy và tham mưu trưởng một sư đoàn không quân...

Anh về hưu lúc 45 tuổi và làm nhân viên điều phái tại Zhulyany, một sân bay gần Kiev, cho đến hơn 60 tuổi. Còn sau đó là cảnh thất nghiệp, người ra nói là “Đủ rồi, ông già, ông làm đã đủ rồi”. Và Igor Andreevich Mentyukov trở về quê hương ở Tambov.

Vì cống hiến cho Tổ quốc, Igor Mentyukov được tặng thưởng hai Huân chương Cờ Đỏ và các huy chương vì công lao khai thác vũ khí mới là các máy bay Su-9 và Su-15. Trong các phần thưởng đó không có phần thưởng đã vào tay người khác, và không có được sự nổi tiếng, mà như người ta trước đây từng nói, toàn liên bang. Mặt khác, vấn đề không phải là ở chỗ sự nổi tiếng, không phải chuyện vinh quang, mà là sự công bằng sơ đẳng. Là ở sự thật. Ơn Chúa là thời gian đã tạo ra cơ hội để khôi phục nó.

Francis Gary Powers con bên xác máy bay U-2 của cha tại Viện bảo tàng Trung ương quân đội Nga ở Moskva năm 2010
Xem tiếp...

BẠN BIẾT CHƯA? 14

(ĐC sưu tầm trên NET)


Điểm danh 5 loại quả chứa nhiều hóa chất nhất


Lê, cam, xoài, nho và táo là 5 loại quả chứa nhiều hóa chất độc hại nhất, gây ảnh hưởng xấu đến sức khỏe của người tiêu dùng.

Điểm danh 5 loại quả chứa nhiều hóa chất nhất Táo là một trong những loại quả ít an toàn


Hiện nay, hoa quả là một trong những mặt hàng chứa nhiều chất độc hại, gây hoang mang lo ngại cho người tiêu dùng. Việc sử dụng chất bảo quản, thuốc trừ sâu, các hóa chất kích thích chín ép… ở các loại quả hiện nay đã và đang ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của chúng ta.
Rất khó để bạn có thể phát hiện đâu là quả sạch hay quả chứa nhiều hóa chất. Sau đây sẽ là những yếu tố cơ bản giúp người tiêu dùng dễ dàng nhận diện được 5 loại quả chứa nhiều hóa chất nhất hiện nay.

Nho

Nho là loại quả chủ yếu có nguồn gốc từ Trung Quốc với mẫu mã đẹp nhưng chất lượng không được đảm bảo. Hiện nay nho Trung Quốc thường được gắn mác thành nho Việt Nam, nho Mỹ gây khó khăn cho người tiêu dùng lựa chọn chính xác.
Điểm danh 5 loại quả chứa nhiều hóa chất nhất - Ảnh 1 
Nho Trung Quốc (trái) có màu sắc bắt mắt
Bạn có thể nhận diện nho ngậm hóa chất có xuất xứ từ Trung Quốc dựa vào một số đặc điểm  như: Nho Trung Quốc có vị ngọt gắt, kích thước to gấp đôi nho Việt Nam, màu đỏ nhạt xen lốm đốm trắng, các chùm thường rời rạc, không khít vào nhau…

Táo

Trong thời gian gần đây, liên tục có những thông tin về táo Trung Quốc có phản ứng dương tính với vi khuẩn E.coli gây nên bệnh tiêu chảy cấp, hay sử dụng các hóa chất bảo quản độc hại có thể gây ung thư, mất khả năng sinh sản… gây hoang mang trong dư luận. Chính vì vậy, người tiêu dùng cần hết sức thận trọng khi mua loại trái cây này.
Điểm danh 5 loại quả chứa nhiều hóa chất nhất - Ảnh 2
Bạn không nên lựa chọn những quả táo khi bóc lưới xốp ra, có nhiều hạt trắng mịn đọng trên vỏ quả, đấy chính là chất bảo quản đã bị bay hơi. Ngoài ra, táo Trung Quốc thường xốp và bở, không có vị ngọt đậm, mùi thơm không đặc trưng, có mùi hắc của hóa chất.

Trong một số mẫu lê nhập khẩu từ Trung Quốc, người ta đã tìm thấy hóa chất Endosulfan, là loại thuốc trừ sâu có độc tính cao, tích tụ nhiều trong cơ thể có thể gây vô sinh hay phá vỡ hệ nội tiết. Ngoài ra, lê còn chứa nhiều hóa chất độc hại khác, ảnh hưởng đến sức khỏe con người, là trái cây độc hại nhất trên thị trường Việt Nam hiện nay.
Điểm danh 5 loại quả chứa nhiều hóa chất nhất - Ảnh 3
Lê Trung Quốc thường có vỏ nhẵn mịn, da căng sáng bóng, hình thức bắt mắt, tuy nhiên ruột thường bị thâm đen, lỗ chỗ như kim châm, vị nhạt, không thanh chua, dịu mát như lê Việt Nam. Lê độc hại thường có mùi vị lạ hoặc hôi, không có hương vị đặc trưng riêng.
Xoài
Nhiều người thường sử dụng vôi để đắp lên quả xoài còn xanh, khiến cho vỏ xoài căng mịn, màu vàng bắt mắt nhưng ăn không thấy vị xoài. Xoài cũng là loại trái cây thường xuyên bị sử dụng chất bảo quản, khi ăn nhiều sẽ khiến cơ thể bị mắc một số bệnh như ngộ độc, trụy tim mạch, suy hô hấp
Điểm danh 5 loại quả chứa nhiều hóa chất nhất - Ảnh 4
Bạn không nên chọn những quả xoài có màu vàng nhưng lại lấm tấm đen ở cuống. Những quả xoài có vỏ màu xanh nhưng bên trong lại chín vàng, vị nhạt nhẽo thì đó thường là xoài tẩm nhiều hóa chất độc hại.
Cam
Bạn không nên lựa chọn mua cam vàng, loại quả có kích cỡ rất to, bọc trong lưới, màu vàng bắt mắt thường bị đánh bóng và tẩm ướp hóa chất. Phần lớn những loại cam này là hàng nhập lậu từ Trung Quốc. Bạn chỉ nên mua cam xanh, vỏ dày, sần sùi và luôn có hạt, vị ngọt thanh mát của Việt Nam để đảm bảo sức khỏe.
Theo Sức khoẻ & Đời sống

Những cách giải độc rượu hiệu quả

Health+ | Một số cách giải độc rượu hiệu quả dưới đây sẽ giúp bạn “thoát” khỏi trạng thái lơ tơ mơ vì say rượu và giúp gan thải bớt độc tố của rượu.

Những cách giải độc rượu hiệu quả Nước ép cà chua có tác dụng giải độc rượu hiệu quả
Sinh tố trái cây: Sau khi say rượu bạn nên uống sinh tố trái cây, để  thải bớt độc tố, bù nước, bù các chất dinh dưỡng, làm mát gan... Cả hai loại sinh tố trái cây dều có đường fructose, một loại đường có khả năng giúp cơ thể tiêu hóa chất rượu nhanh hơn. Nếu uống vào sáng hôm sau khi tỉnh dậy, bạn sẽ thấy tỉnh táo và đỡ khát nước. Đặc biệt trong cam có chứa acid giúp bạn giảm các tác hại từ rượu rất hiệu quả.
Đậu đen: Khi ngộ độc rượu bạn có thể uống nước sắc đậu đen. Ninh đậu đen cho nhừ rồi uống liên tục từng chén một sẽ có tác dụng giảm nguy cơ ngộ độc rượu.
Những cách giải độc rượu hiệu quả - Ảnh 1 
Nước đậu đen ninh có thể giảm nguy cơ ngộ độc rượu
Gừng tươi: Thái một củ gừng tươi thành từng lát mỏng sau đó đem sắc nước uống. Vị gừng nóng có tác dụng chống say rượu, vì gừng làm cho các mạch máu lưu thông tốt hơn, từ đó hóa giải nhanh chất cồn trong cơ thể. Có thể cho thêm vào nước gừng nóng một thìa mật ông để hấp thụ nhanh và giúp giải say rượu.
Giấm: Nấu một bát canh chua từ giấm hoặc uống một ly giấm nhỏ khoảng 20 - 25ml và uống từ từ. Một cách giải rượu nhanh khác đó là dùng củ cải trắng trộn đều với giấm, cho thêm chút đường sẽ rất hiệu quả.
Cà chua: Cà chua cũng giải rượu. Uống rượu say bị nôn không chỉ gây mệt mỏi mà còn làm cho cơ thể mất đi một lượng lớn các nguyên tố kali, calci, natri... Cách giải ngộ độc rượu đơn giản, dễ làm nhất là uống một cốc nước ép cà chua chín. Trong cà chua có nhiều nguyên tố nói trên sẽ kịp thời bổ sung cho cơ thể.
Ăn chuối: Uống rượu quá nhiều có thể sẽ gây ra ngộ độc rượu, người bị ngộ độc nhẹ có thể lập tức ăn 3 - 5 quả chuối, như thế vừa giúp thanh lọc máu vừa nhuận phổi giải rượu.
Những cách giải độc rượu hiệu quả - Ảnh 2 
Thái chỉ gừng tươi đem sắc uống giúp giảm tác hại từ rượu
Nước lọc: Cách đơn giản nhất để giải bia, rượu là uống nhiều nước vì nước sẽ giúp pha loãng nồng độ cồn trong máu.
Dưa hấu: Một trong những cách giải độc rượu hiệu quả đó là ăn dưa hấu.
Muối: Nước muối ấm sẽ giúp làm giảm cơn tức ngực khi uống quá nhiều rượu.
Đỗ xanh: Đỗ xanh cũng là một cách giải rượu nhanh. Bạn có thể lấy một lượng đỗ xanh thích hợp, rửa sạch bằng nước ấm, xay nhuyễn, cho thêm nước sôi để uống hoặc nấu canh ăn.
Khoai lang: Một cách giải rượu nhanh khác đó là sử dụng khoai lang xay nhuyễn, có thể cho thêm chút đường, trộn đều lên ăn.
Nước cơm: Người say rượu có thể ăn nước cơm đặc hoặc cháo để giải rượu, trong nước cơm đặc hàm chứa nhiều loại đường và vitamin B, có tác dụng giải độc tỉnh rượu, thêm vào một chút đường trắng để ăn, hiệu quả sẽ tốt hơn.
Mật ong: Mật ong sẽ giúp bảo vệ gan và đào thải độc tố rất hiệu quả.
Bia pha với nước ngọt có thể dễ uống nhưng tác hại khôn lường

Đường chứa rất nhiều trong nước ngọt có thể trở thành tội đồ. Trong dạng thuốc xi rô, đường là chất dẫn rất tốt, giúp nhiều loại thuốc có tác dụng nhanh hơn và tốt hơn. Đường có trong rượu bia pha nước ngọt làm rượu trong bia (tức cồn tuyệt đối với hàm lượng thường là 2 - 4%) phân tán nhanh khắp nơi trong cơ thể người uống, đặc biệt là hệ thần kinh, do đó làm người ta dễ say xỉn nhanh và nhiều hơn.
Theo PGS. TS Nguyễn Hữu, nước ngọt đây là nước giải khát có đường (sucrose). Có người thích pha rượu bia với ngước ngọt tăng lực vì thích ngoài vị ngọt còn muốn sự “tăng lực” hỗ trợ cho bia. Có người thích pha rượu bia với nước ngọt trong suốt như nước giải khát “7 up” để người khác không biết mình đã pha bia với nước ngọt và vị của sự pha này cũng khá là ngon (đặc biệt đối với người mới bắt đầu uống rượu bia chưa quen với bia nguyên chất).
Khi nước ngọt có gas được pha vào bia, thành phần carbon dioxide trong nước ngọt sẽ thúc đẩy lượng cồn trong bia hấp thu vào niêm mạc đường ruột nhanh hơn. Do đó khi uống hỗn hợp “bia pha nước ngọt” sẽ khiến bạn chóng say và mệt mỏi hơn, đặc biệt khi đói bụng.
Rượu bia pha ngọt, sướng miệng giết thân - Ảnh 1Uống rượu bia pha nước ngọt quá nhiều dễ bị thừa cân béo phì
Thêm vào đó, vị ngọt của nước ngọt sẽ làm cho vị giác của bạn không thấy vị đắng của bia, rượu, sẽ làm cho bạn uống bia, rượu dễ dàng hơn, uống nhiều hơn. Điều này hoàn toàn không tốt cho sức khỏe.
Đối với người không uống rượu bia thường xuyên, lâu lâu mới uống và uống không nhiều thì việc pha ngọt cho rượu bia không có gì đáng lo ngại. Nhưng nếu uống thường xuyên như vậy chính vị ngọt khoái khẩu làm cho số lượng uống nhiều thì hệ lụy xấu sẽ xảy ra.
Nếu uống rượu bia pha nước ngọt quá nhiều dễ bị thừa cân béo phì. Đặc biệt, nếu người đó đã bị rối loạn - gọi là hội chứng chuyển hóa - hoặc đã bị tiền đái tháo đường sẽ dẫn đến đái tháo đường type 2 thật sự.
Rượu bia pha ngọt, sướng miệng giết thân - Ảnh 4Để hỗ trợ sức khỏe, giảm các tác hại của rượu đối với cơ thể, bạn có thể sử dụng các sản phẩm hỗ trợ giải độc rượu, bảo vệ gan như LiverSogel - với các thành phần thảo dược thiên nhiên, giúp đào thải độc tố do rượu, tăng cường chức năng gan, bảo vệ tế bào gan. Sản phẩm thích hợp dùng cho người phải thường xuyên sử dụng rượu bia.
Thực phẩm chức năng LiverSogyl bảo vệ gan từ tế bào công nghệ nano; Hỗ trợ điều trị viêm gan virus; Hỗ trợ giải độc thực phẩm rượu, bia; Tăng cường chức năng gan, bảo vệ tế bào gan.

* sản phẩm này không phải là thuốc, không có tác dụng thay thế thuốc chữa bệnh.
** Thông tin sản phẩm do nhà sản xuất/nhà phân phối công bố và chịu trách nhiệm.
Đình Phong H+ (TH)

 

Xem tiếp...