Thứ Tư, 5 tháng 2, 2014

SỰ TIẾN HÓA SINH VẬT 1

(ĐC sưu tầm trên NET)

Jean-Baptiste Lamarck

Từ Wikipedia, bách khoa toàn thư miễn phí

Jean-Baptiste Lamarck
Jean-Baptiste lamarck2.jpg
Chân dung của Jean-Baptiste Lamarck

  Lamarck sinh ngày 01 tháng 8 năm 1744 - 18 tháng 12 năm 1829 tại  miền Bắc nước Pháp, là con thứ mười trong một gia đình quý tộc nghèo khổ. Theo mong muốn của cha mình, Lamarck ghi danh vào trường đại học đào tạo linh mục dòng Tên ở Amiens vào cuối năm 1750.Sau khi cha ông qua đời vào năm 1760, Lamarck gia nhập quân đội Pháp...




Lamarck bởi Charles Thevenin (c. 1802)
  Sau khi xuất ngũ, ông đã cố gắng theo học ngành y nhằm có được một nghề kiếm sống, và tự chu cấp cho việc học của mình bằng cách làm việc trong một văn phòng ngân hàng. Sau bốn năm nghiên cứu y học,  Lamarck tiếp tục nâng cao trình dộ hiểu biết khoa học theo thuyết phục anh trai của mình. Ông quan tâm đến thực vật học, đặc biệt là sau chuyến thăm của ông tới Jardin du Roi , và ông trở thành một học sinh dưới sự chỉ  dạy của Bernard de Jussieu , một nhà tự nhiên học người Pháp có tên tuổi. Theo Jussieu, đã trải qua mười năm nghiên cứu hệ thực vật Pháp...
Năm 1778, Lamarck xuất bản một số quan sát và kết quả của mình. Công việc của Lamarck được tôn trọng bởi nhiều học giả, và ông nhanh chóng trở nên nổi tiếng trong khoa học Pháp. Ngày 08 tháng 8 năm 1778, kết hôn với Marie Anne Lamarck Rosalie Delaporte. Lamarck được công nhận là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Pháp trong năm 1779. Trên danh nghĩa là ủy viên của Ủy ban Hoàng gia thực vật học, vào năm 1781, ông được mời tham quan các vườn thực vật  và viện bảo tàng ở nước ngoài
Trong hai năm du lịch của mình, Lamarck thu thập thực vật quý hiếm mà không có sẵn trong Royal Garden, và  cả những  vật sưu tầm khác, chẳng hạn như một số loại khoáng sản và quặng, mà không tìm thấy được trong các bảo tàng Pháp... 
 Ngày11 tháng 5 năm 1800, Lamarck đã trình bày một bài thuyết trình tại Bảo tàng Quốc gia d'Histoire Naturelle, trong đó lần đầu tiên nêu ý tưởng mới được phát triển của ông về sự tiến hóa.
 

Lamarck, mù lòa khi về già
Năm 1801, ông xuất bản Systeme des Animaux sans Vertebres, một tác phẩm lớn về việc phân loại không xương sống. Ông phân loại động vật da gai , nhện , động vật giáp xác và annelids , mà ông tách ra từ đơn vị phân loại cũ cho giun gọi là Vermes. Lamarck là người đầu tiên tách nhện từ côn trùng trong phân loại, và ông chuyển động vật giáp xác vào một lớp riêng biệt từ côn trùng.
Năm 1802 Lamarck công bố Hydrogéologie, và trở thành một trong những người đầu tiên sử dụng thuật ngữ sinh học theo cách hiểu hiện đại ngày nay. Năm đó, ông cũng xuất bản Tổ chức des Corps Vivant Recherches sur. Trong đó ông đã minh họa lý thuyết của ông về sự tiến hóa. Ông tin rằng tất cả cuộc sống đã được tổ chức trong một chuỗi thẳng đứng, với màu chuyển tiếp giữa các hình thức thấp nhất và các hình thức cao nhất của cuộc sống, do đó thể hiện một đường dẫn đến sự phát triển tiến bộ trong tự nhiên.Ông là người đầu tiên phát triển một lý thuyết tiến hóa thực sự chặt chẽ. Ông vạch ra lý thuyết của ông về sự tiến hóa đầu tiên trong bài giảng của mình Floreal năm 1800, và  trong ba tác phẩm được công bố sau đó.
Lamac là một trong những người đầu tiên có được những bằng chứng chứng minh các loài sinh vật có thể biến đổi dưới tác động của môi trường chứ không phải các loài là bất biến. Ông chính thức công bố học thuyết tiến hóa của mình vào năm 1809.  
Khi về già, Lamarck dần  mù lòa và mất tại Paris vào ngày 18 tháng 12 năm1829. Khi ông qua đời, gia đình ông rất nghèo. Họ phải nhờ đến sự hỗ trợ tài chính của Viện hàn lâm. Sách của Lamarck và  đồ đạc trong nhà ông đã được bán tại một cuộc đấu giá. Thi hài ông đã được chôn cất trong một hố vôi tạm thời. 
Sau khi ông chết, Cuvier sử dụng diễn đàn đọc một bài điếu văn để bôi nhọ Lamarck.

Cuvier (1769-1832) - Người khai sinh ngành cổ sinh vật học


Georges Cuvier (1769-1832)
Cuvier phát hiện rằng, ở những lớp địa tầng rất sâu, những mảnh động vật tồn dư như kỳ nhông khổng lồ, rắn bay (mà ông đặt tên là pterodactyl), voi tuyệt chủng đều khác biệt rất nhiều so với các động vật hiện thời
Hẳn nhà tự nhiên học người Pháp Buffon (1707-1788) không thể ngờ rằng hơn ba mươi năm sau khi những tập sách đầu tiên của bộ Bách khoa ‘Lịch sử tự nhiên’ của ông ra đời, những hình vẽ tuyệt đẹp cũng như các đoạn mô tả động vật lại tác động mạnh mẽ đến một cậu bé mới 15 tuổi tới mức làm cậu say mê và quyết chí tìm hiểu về động vật học. Hàng ngày cậu bé lần giở từng trang sách ngắm nghía những con hươu cao cổ, những đàn ngựa đang sả bờm tung vó tưởng chừng như chúng đang sống động trước mặt. Cậu bé đó là Cuvier.
Cuvier sinh ngày 23/8/1769 tại Montbéleard, một thành phố miền Đông nước Pháp, chỉ cách biên giới phía Tây Nam của Thụy Sỹ chừng hai mươi cây số, trong gia đình một binh sỹ thời vua Louis XIV. Tên khai sinh đầy đủ của cậu thật dài: Léopold Chrétien Frédéric Dagobert, nhưng bà mẹ còn yêu cầu đặt thêm ở đầu dòng chữ dài đó một chữ thân mật Georges, vì thế sau này, danh xưng đi vào lịch sử khoa học là Georges Cuvier. Cậu bé học tập ở nhà với một gia sư kèm cặp. Bà mẹ luôn hối thúc cậu học tập nên lúc bốn tuổi, cậu bé Cuvier đã biết đọc rành rọt và những dòng chữ cái đầu tiên cậu tập đọc là trong tập sách của Buffon. Lúc mười ba tuổi, cậu bé Cuvier đã đọc đi đọc lại đến mức thuộc lòng nhiều trang sách mô tả những thú vật, chim muông. Rồi cậu bé cùng những bạn nhỏ đồng trang lứa thành lập ‘Nhóm sưu tập thiên nhiên’ đi về các vùng ngoại vi đồng quê để thu nhặt các mẫu động vật, cây cỏ. Năm mười lăm tuổi, Georges được gia đình gửi đến học tại Viện Hàn lâm Caroline (Karlsschule), ở Stuttgart với những bảo tàng cổ xưa và một viện trường danh tiếng.

Những hình vẽ động vật của Georges Cuvier
Sau 4 năm miệt mài học phẫu tích các động vật và tìm hiểu giải phẫu học, chàng thanh niên Georges 19 tuổi rời nước Đức, trở lại vùng Normandie, đến thành phố cảng Fécamp, ở miền Bắc nước Pháp, bên bờ biển Manche. Tại đây giữa tháng 7/1789, đúng vào lúc nhân dân lao động thủ đô Paris sôi sục trong bầu không khí rực lửa đấu tranh, phá vỡ nhà ngục Bastill, lật đổ vương quyền thì Georges làm gia sư dạy dỗ đứa con trai duy nhất của gia đình bá tước Héricy. Chàng vui mừng khi được phép nghiên cứu các loài động vật biển thân mềm và không xương sống. Chiều tối và suốt đêm khuya, Georges mải mê phẫu tích, quan sát rồi ghi chép những hình thái của nhiều dạng động vật biển. Anh cũng tham gia câu lạc bộ Khoa học Biển của thành phố. Một lần, sau buổi báo cáo, Georges có dịp làm quen với A.H.Tessier, một bác sỹ trong quân đội, đồng thời là một nhà nghiên cứu nông học. Ông thầy thuốc rất ngạc nhiên về khả năng quan sát tinh tường cũng như trình độ hiểu biết của chàng thanh niên trẻ tuổi. Sau nhiều lần đọc các bản ghi chép của Georges, ông hứa sẽ giúp gửi những nhận xét khoa học đó tới những người bạn ở Viện Bảo tàng Khoa học Tự nhiên tại Paris. Một buổi sáng, Georges vừa ngạc nhiên vừa vui mừng khi nhận được một bức thư gửi từ Paris có ký tên Geoffroy Saint Hilaire. Anh vội vã tìm ông bác sỹ để đưa bức thư.
- Geoffroy là bạn tôi, hiện nay là giáo sư của Viện Bảo tàng lich sử Tự nhiên ở Paris, chuyên nghiên cứu giải phẫu học so sánh và động vật học.-Ông thầy thuốc vui vẻ cho biết.
- Trong thư, vị giáo sư có ý mời tôi đến làm việc ở đó - Georges ngập ngừng hỏi thêm - Tôi muốn xin ý kiến của ông.
- Đây là một dịp may để anh có điều kiện học hỏi và phát triển thêm. Tôi nghĩ là anh nên nhận lời.
Georges vội vã lên đường đi Paris và đây là chặng đường quyết định cho sự nghiệp khoa học của chàng trai hai mươi sáu tuổi. Nhờ sự giúp đỡ của GS. Saint Hilaire, Georges được nhận làm trợ lý ở viện bảo tàng. Từ đây bắt đầu sự cộng tác mật thiết giữa hai nhà khoa học trẻ tuổi và ít lâu sau đã ra đời một công trình nghiên cứu về phân loại động vật có vú mang tên hai tác giả Saint Hilaire và Cuvier. Tuy nhiên, ngay từ lúc này đã nảy sinh sự khác biệt trong quan điểm của hai người về động vật học: theo Cuvier, các chức năng và tập quán của một động vật quyết định hình thái giải phẫu của nó, còn Geoffroy lại có quan điểm trái ngược nghĩa là cấu trúc giải phẫu có trước và bắt buộc một kiểu sống riêng biệt của động vật. Với cương vị mới kèm nhiều điều kiện thuận lợi của viện bảo tàng, Cuvier miệt mài học tập nghiên cứu. Ngay năm sau, ông được bổ nhiệm chức vụ giảng viên trường Sư phạm Panthéon.

Bìa một tác phẩm của Georges Cuvier
Năm 1797 Cuvier được giới khoa học đặc biệt chú ý khi ông tự xuất bản tập sách ‘Bảng sơ yếu về lịch sử tự nhiên các loài động vật’. Ông đã từ chối tham gia đoàn khoa học đi khảo sát ở Ai Cập (1798-1801), chỉ có Saint Hilaire lên đường. Năm sau, khi vừa tròn ba mươi tuổi, Cuvier được bổ nhiệm chứ vị giáo sư ở Collège de France thay thế Daubenton(2), trợ lý cũ của Buffon. Với tập công trình nghiên cứu ‘Ghi nhớ về các loài voi đang sống và đã hóa thạch’ (1800), Cuvier đã đưa động vật học trở lại với những thời quá khứ xa xưa và giới khoa học ngay lập tức đã xác nhận Cuvier là người khai sinh ra ngành cổ sinh vật học. Ngay sau đó, suốt 6 năm liền ông đã viết 5 tập của bộ sách ‘Giải phẫu học so sánh’ (1800-1805). Điều đó đặt ông ở vị trí hàng đầu trong số những người mở đường cho ngành khoa học mới mẻ này. Trong suốt quá trình biên soạn bộ sách, ông đã được sự giúp đỡ của A.M.C Duméril (1774-1860), thầy thuốc và là nhà khoa học tự nhiên người Pháp, (trong 2 tập đầu) và của G.L.Duvernoy (1777-1855), nhà giải phẫu học và nhà động vật học, người Pháp (trong 3 tập cuối). Chính trong bộ sách này, lần đầu tiên, Cuvie đã đưa ra nguyên tắc ‘mối tương quan giữa các bộ phận cơ thể’, đồng thời nhấn mạnh đến tầm quan trọng của những mối tương quan giữa chức năng và cấu trúc giải phẫu. Năm 1802, ông được bổ nhiệm làm giáo sư thực thụ tại Vườn cây cỏ và Thanh tra giáo dục. Đây cũng là thời gian ông chuẩn bị và cho xuất bản liên tục các tập ‘Niên giám của Bảo tàng Khoa học Tự nhiên’ (1802-1815). Cuvier được bầu làm Uỷ viên Thư ký vĩnh viễn của Viện Hàn lâm Khoa học lúc ông ba mươi tư tuổi. Từ đây, ông tập trung nghiên cứu trên ba lĩnh vực: (1) Cấu trúc và phân loại các động vật thân mềm. (2) Giải phẫu học so sánh và lịch sử tự nhiên các loài cá. (3) Các hóa thạch của động vật có vú và rắn đồng thời tìm hiểu hình thái xương của các loài đang sống thuộc cùng nhóm động vật.
Năm 1808, ông được cử vào chức vụ Cố vấn Hoàng Gia, giúp Hoàng đế Napoléon trong việc cải cách giáo dục ở Pháp. Năm 1810, Cuvier công bố ‘Bản báo cáo lịch sử về những tiến bộ của các khoa học tự nhiên từ 1789 và tình hình hiện nay’. Đây là một công trình tổng kết tình hình khoa học không chỉ ở nước Pháp mà còn đề cập tới toàn cảnh châu Âu. Năm sau, ông được phong chức ‘hiệp sỹ’ để tưởng thưởng cho những công lao đóng góp to lớn. Lúc này Cuvier bốn mươi hai tuổi.
Năm 1812 ra đời tập công trình ‘Những nghiên cứu về xương hóa thạch của loài động vật bốn chân’. Cuvier nhận thấy những khảo sát về xương hóa thạch kết hợp với những nghiên cứu giải phẫu học so sánh giúp ông biết rõ mối tương quan giữa các bộ phận của cơ thể sinh vật. Nhờ đó, ông hiểu đầy đủ về hình dạng các loại xương khác nhau, về kiểu nối gắn các cơ bắp với xương rồi sau đó, có thể hình dung toàn bộ cơ thể một sinh vật mà chỉ cần dựa vào một cái xương nhỏ riêng biệt. Ông đã tái tạo lại những bộ xương hoàn chỉnh của nhiều động vật bốn chân đã hóa thạch. Điều này chứng minh rõ rệt rằng nhiều loại động vật đã hoàn toàn bị tuyệt chủng. Trong quá trình nghiên cứu các hóa thạch, Cuvier phát hiện rằng, ở những lớp địa tầng rất sâu, những mảnh động vật tồn dư như kỳ nhông khổng lồ, rắn bay (mà ông đặt tên là pterodactyl), voi tuyệt chủng đều khác biệt rất nhiều so với các động vật hiện thời. Cũng vậy, sự hiện hiện của các động vật khổng lồ ở các núi cao và của các động vật nhỏ bé ở đồng bằng buộc Cuvier phải suy nghĩ, để cuối cùng đưa việc nghiên cứu các hóa thạch vào trong phương pháp phân loại các động vật. Cuvier đã ghi nhận: ‘...những mảnh xương rời rạc, hiện diện rải rác đó đây, thường gãy vỡ và đôi khi chỉ là những mảnh vụn, đó là những gì mà các lớp địa tầng lưu lại, đó cũng là nguồn nghiên cứu duy nhất của các nhà cổ sinh vật học...’. Nhưng cũng chín từ những mảnh vụn này đã làm nên danh tiếng của Cuvier. Ông là người khởi đầu nghệ thuật tái tạo lại toàn bộ một con vật chỉ từ một mẩu xương của nó và là một trong số những người mở đường cho ngành giải phẫu học so sánh. Cuvier đã nêu rõ một nguyên tắc:’...mỗi bộ phận trong cơ thể động vật đều tuỳ thuộc một bộ phận khác và tất cả cơ thể cũng tuỳ thuộc vào một bộ phận riêng biệt...’ Dựa trên nguyên tắc này, ông đã mô tả tái tạo lại gần bồn mươi loài thú lớn đã bị tuyệt chủng.
Năm 1814, Cuvier được cử giữ chức vụ Cố vấn Quốc gia nhưng ông vẫn dành tâm trí sức lực cho những nghiên cứu khoa học. Năm 1817, ra đời bộ sách ‘Lịch sử và giải phẫu học các động vật thân mềm’ và bộ ’Giới động vật xếp theo cấu trúc tổ chức’ gồm 4 tập. Ngay tựa đề của bộ sách ‘xếp theo cấu trúc’ đã mang ý nghĩa của một thành phần mới trong việc hệ thống hóa và phân loại. Những công trình này, chứng tỏ Cuvier đã nghiên cứu cấu tạo của những động vật khác nhau, ghi nhận những đặc điểm giống nhau và khác biệt nhau để so sánh rồi xếp loại chúng. Vào đầu thế 19, quan điểm phổ biến trong giới khoa học là các loài xếp chung trên một đường đơn độc, liên tục, không hề có đứt quãng, còn Cuvier lại quan niêm rằng giới động vật không tạo thành chỉ một hàng mà có nhiều hàng khác nhau. Quan điểm của Cuvier là những đặc điểm giải phẫu đều rất rõ rệt và cho phép phân biệt các nhóm động vật. Những nghiên cứu cổ sinh vật học đã đưa Cuvier đến gần với luận thuyết biến đổi các loài. Trong một tập sách chính ông đã đặt câu hỏi:’Tại sao các chủng hiện nay lại không phải là những biế đổi của những chủng cổ xưa mà người ta đã phát hiện trong các hóa thạch, những biến đổi ấy có lẽ đã xảy ra do những hoàn cảnh địa phương, do thay đổi khí hậu rồi chịu sự khác biệt quá mức đó liên tục suốt bao năm tháng?...’. Nhưng rồi chính ông lại trả lời: ‘nếu các loài đã thay đổi dần dần thì nhất thiết phải tìm thấy dấu vết của những biến đổi đó, giữa hệ Mastodonte (voi răng mấu) và hệ động vật hiện nay nhất thiết phải thấy các dạng trung gian, nhưng điều này chưa hề xảy ra... ‘. Và Cuvier vẫn khẳng định rằng các loài đều không thay đổi, đều bất biến từ thời Thiên tạo.
Danh tiếng Cuvier vang dội và năm 1818, ông được bầu là viện sỹ Viện Hàn lâm Khoa học Pháp, khi ông tròn bốn mươi chín tuổi. Năm 1819, ông đảm nhận chức vụ Chủ tịch hội đồng Nội vụ. Khi trình bày tại Viện Hàn lâm Khoa học bản ‘ Luận bàn về những đột biến trên Trái Đất’ (1825), Cuvier đã xác nhận quan điểm tư duy của ông về sự bất biến của các loài. Ông ghi nhận mối quan hệ giữa những dạng hóa thạch với các lớp địa tầng chữa các hóa thạch đó, Cuvier cho rằng cấu tạo của các dạng hóa thạch đều phức tạp dần theo mức chuyển tiếp từ lớp đất cổ xưa đến những lớp đất mới hiện nay. Rồi sau khi đã xếp các vật thể hóa thạch tìm thấy theo một trật tự nhất định, có thể phát hiện thấy những biến đổi tiệm tiến. Rõ ràng các hóa thạch đã phản ánh sự tiến hóa của các sinh thái. Trong quá trình tìm hiểu các mối tương quan của những loài hóa thạch với những lớp địa tầng khác nhau, Cuvier nhận thấy có bốn quần thể động vật đã cư ngụ trong những lớp địa tầng khác nhau, Cuvier đã có những nhận xét lý thú: các loài động vật đẻ trứng đã xuất hiện trước các loài đẻ con, tất cả bốn quần thể động vật đã cư ngụ trong những lớp địa tầng, quần thể đầu tiên là những loài cá và rắn quái dị, thứ hai là những loài Palaeotherim và Anoplotherium (mang nhiều mảnh vụn đã được phát hiện ở vùng đất thạch cao ngoại ô Paris) cùng với những động vật có vú sống trên cạn, thứ ba là những loài Mastodonte (voi răng mấu), Mammouth, lợn nước và tê giác, quần thể thứ tư và cuối cùng là con người với các gia súc. Nhưng rồi chính Cuvier lại có những quan điểm mâu thuẫn gay gắt với những sự kiện thu thập được. Theo Cuvier, Trái Đất đã có những tai biến lớn diễn ra theo chu kỳ, như những cơn lũ lụt, các vụ đất trồi mà ông gọi là ‘những cuộc cách mạng địa cầu’ và nạn hồng thuỷ là tai biến mới nhất vừa xảy ra. Tất cả các sinh vật đều bị tiêu diệt trong thời gian tai biến. Sau đó, trên mảnh đất hoang vu, lại hiện diện những động vật di cư từ các vùng đất còn nguyên vẹn với những dạng mới khác hẳn với những dạng đã tồn tại trong lần tai biến trước. Những sinh vật đang sống hiện nay (kể cả con người) đều được hình thành sau lần tai biến cuối cùng của Trái đất. Do uy tín của Cuvier nên về sau vẫn có nhiều nhà khoa học tin vào luận thuyết tai biến, thậm chí có người còn tính toán rằng trên trái đất từ trước đến nay đã xảy ra 27 lần tai biến như thế. Nhưng quan điểm này không giải thích được sự khác biệt và cả những đặc điểm giống nhau của các hóa thạch trong các địa tầng. Quan điểm về những tai biến trên trái đất cũng phủ nhận luôn quá trình tiến hóa của các loài.
Năm 1826, Cuvier được tặng thưởng huân chượng Bắc đẩu bội tinh. Sau gần ba mươi năm miệt mài nghiên cứu các loài cá (với sự cộng tác của A.Valenciennes), liên tục trong bốn năm (1828-1831) ông lần lượt cho ra đời các tập của bộ sách ‘Lịch sử tự nhiên các loài cá’ trong đó có liệt kê và mô tả gần 5000 loài cá. Cũng thời gian này, bộ sách ‘Giới động vật’ gồm 5 tập được xuất bản lần thứ hai. Giống như trong lần xuất bản trước, Cuvier đã xóa bỏ cách phân chia hệ động vật theo kiểu cổ xưa, nghĩa là theo hình dạng bên ngoài. Ông phân loại theo cấu trúc bên trong và ghi nhận mối liên quan tương hỗ giữa các bộ phận của cơ thể. Cấu trúc giải phẫu học của mỗi bộ phận (tạng) đều có liên quan về chức năng với tất cả các bộ phận khác trong cơ thể của động vật. Hơn nữa, những đặc điểm cấu trúc và chức năng của các bộ phận là kết quả của mối tác động tương hỗ với môi trường.
Những mẩu chuyện về tài năng quan sát cũng như tầm hiểu biết sâu rộng của Cuvier về cổ động vật học luôn được lan truyền trong các nhà khoa học trẻ ở Viện Hàn lâm. Họ kể rằng trong một cuộc đào bới vùng thạch cao Montmartre, những người khảo sát đã trình cho Cuvier những chiếc răng động vật. Nhận thấy mẫu hóa thạch này rất giống bộ phận của loài Sarigue (thú túi đuôi quấn), ông ra lệnh đào bới rộng khu vực chung quanh, quả nhiên về sau đã phát hiện nhiều mảnh xương của con Didelphes (động vật thuộc bộ có túi). Một lần khác, sau khi theo dõi cuộc đào bới khảo cổ ở vùng Montmartre, thuộc ngoại vi Bắc Paris, một cậu sinh viên đã mang đến cho thầy Cuvier, lúc đó mới là giáo sư trẻ, những chiếc răng cổ xưa. Chỉ lát sau, Cuvier lấy một tờ giấy trắng và cầm bút chì phác thảo trên giấy hình một con vật kỳ lạ, nửa ngựa, nửa voi. Cuvier đặt tên cho con vật đó là ngựa vòi cổ xưa. Cậu sinh viên ngắm nhìn tờ giấy, vừa khâm phục thầy vừa băn khoăn suy nghĩ: thật khó có con vật nào lại kỳ lạ như thế. Năm tháng trôi qua, người ta đã quên câu chuyện ngựa vòi cổ xưa và chiếc răng còn sót lại. Bỗng một hôm, các người thợ đào bới được ở trong hang thạch cao vùng Virty một bộ xương toàn vẹn của một con vật kỳ lạ dạng ngưạ có vòi. Nhóm khảo sát vội vã mang về viện bảo tàng Paris và lục lại đống hồ sơ cũa của Cuvier. Thật tài tình: bức phác thảo năm xưa chính là hình dạng bộ xương con vật vừa đào bới được.
Giới khoa học cũng lưu truyền một câu chuyện khác chứng tỏ Cuvier hiểu biết sâu sắc mối liên quan tương hỗ giữa các bộ phận trong cơ thể động vật. Một đêm, khi thầy Cuvier đang nghỉ lại trong Viện Bảo tàng, một cậu học trò, muốn đùa nghịch thầy, đã choàng lên người tấm da cừu, bước đến bên giường ngủ, kêu to giọng khàn khàn man rợ: ‘Cuvier! Cuvier! Ta sẽ ăn thịt ngươi’. Chợt tỉnh giấc, ông thầy vươn tay sờ tấm da có sừng và móng chân con vật lạ rồi bình tĩnh trả lời: ‘Có móng guốc, có sừng, đây là động vật ăn cỏ. Mi không thể ăn thịt ta được!’ Chuyện thực hư đến đâu chẳng rõ, chỉ biết rằng danh tiếng Cuvier với tầm hiều biết uyên bác đã được mọi người chấp nhận.
Ngày 20 tháng 8 năm 1830 đã đi vào lịch sử khoa học với cuộc tranh luận nổi tiếng giữa Cuvier và nhà động vật học Geoffroy Saint Hilare tại Viện hàn lâm Khoa học Pháp. Khởi thuỷ bắt đầu bằng việc giới thiệu một luận văn của hai người học trò của Saint Hilare là Laurencet và Meyraux. Họ so sánh cấu tạo cơ thể của các động vật thân mềm chân đầu với cấu trúc của các động vật có xương sống: con mực nang được đồng hóa tương tự như một động vật có xương sống mang lỗ hậu môn ở vùng đầu, còn sụn của nó lại tương tự như các xương sọ, rồi các bộ phận khác cũng được coi như các tạng của động vật có xương sống. Chính điều này đã làm Cuvier nổi giận và phản ứng kịch liệt. Ông phê phán mạnh mẽ bằng cách khẳng định rằng có sự khác biệt hoàn toàn, cơ bản giữa các bộ phận của động vật thân mềm với động vật có xương sống, nhiều tạng ở loài này hoàn toàn thiếu vắng ở loài kia. Thế là nổ ra cuộc tranh luận giữa hai nhà khoa học đầy uy tín là Cuvier và Saint Hilare nhằm trả lời câu hỏi: giải thích thế nào về sự giống nhau và cả sự khác biệt của giới động vật? Trong khi Geoffroy tin rằng tất cả các loài vật đều là những biểu hiện của chỉ một dạng thì Cuvier lại nhấn mạnh rằng 4 dạng (mà ông đã ghi nhận) đều hoàn toàn khác biệt. Trong khi Cuvier tin vào sự bất biến của các loài động vật thì Geoffroy lại chấp nhận thuyết tiến hóa các loài. Trong cuộc tranh luận này, Cuvier đã giành được thắng lợi, nhưng sau này, lịch sử khoa học tự nhiên đã đưa ra lời phán xét cuối cùng: lịch sử đã bác bỏ quan điểm của Cuvier về sự bất biến của các loài động vật và thắng lợi của Cuvier ở thời điểm đó chỉ là tạm thời, tiêu biểu cho những quan điểm siêu hình trong sinh vật học. Mãi sau này, luận thuyết Darwin vế sự tiến hóa các loài đã xác định rõ ràng hơn: các động vật giống nhau đều xuất nguồn từ những tổ tiên chung và sự khác biệt là do đã xảy ra những biến đổi di truyền. Người làm khoa học đôi khi lại mâu thuẫn với những kết quả do mình phát hiện ra. Cuvier là một điển hình. Mặc dù bản thân ông tin vào sự bất biến của các loài nhưng tất cả những kết quả nghiên cứu của Cuvier về cổ động vật học lại là những dữ kiện xác thực đặt nền tảng cho sự hình thành luận thuyết tiến hóa.
Tuy Đế chế Napoléon đã sụp đổ từ lâu (1814) nhưng dòng họ Hoàng tộc Bourbon vẫn ghi nhận công lao của Cuvier với nền khoa học của đất nước, và năm 1831, vua Louis Philippe (1773-1850) đã phong tước Công khanh và xếp ông vào hàng quý tộc rồi cử ông làm Chủ tịch hội đồng Quốc gia.
Giữa tháng 5 năm 1832, một vụ dịch tả khủng khiếp lan khắp thủ đô Paris, hơn hai mươi nghìn người chết ngay trong những ngày đầu tiên, trong đó có giáo sư Georges Cuvier, vị uỷ viên Hội đồng Nhà nước dưới thời Hoàng đế Napoléon, vị Nam tước dưới thời vua Louis XIII và công khanh của nước Pháp ở triều vua Louis Philippe dòng Bourbon Orléans. Cuộc đời dài sáu mươi ba năm đã đột ngột chấm dứt cùng với quyền uy thống trị trong ngành sinh học.

Chú thích

(1) Buffon (1707-1788): nhà Tự nhiên học, người Pháp
(2) Daubenton (1716-1800): nhà khoa học tự nhiên, người Pháp

Bản quyền

Bài viết này thuộc bản quyền tác giả của Trần Phương Hạnh và Nhà xuất bản Thanh niên, 2004. Cấm sử dụng nội dung bài viết cho các mục đích thương mại.
 
 
Xem tiếp...

Thứ Ba, 4 tháng 2, 2014

Li Jie 5

(ĐC sưu tầm trên NET)


Xem tiếp...

THE BEATLES 4 - bài hát tuyển chọn

(ĐC sưu tầm trên NET)


Xem tiếp...

THE BEATLES 3 - bài hát tuyển chọn

(ĐC sưu tầm trên NET)


Xem tiếp...

TỤC & THANH

https://encrypted-tbn0.gstatic.com/images?q=tbn:ANd9GcR0SX9Ezn47uG3kW1nxn5sJJi0T8DdFLTWq-e2yFy2aEel6C79oNQ

Ông bà xưa siêu quá
Chẳng chấp nê tục tằn
Phơi ra cười hô hố
Mà khoái, chẳng thấy tanh!

Con cháu nay bắt chước
I hệt ông bà xưa
Nhưng sao lền nhơ nhớp  
Hôn ám khắp văn thơ!

Tại kẻ tài nhỏ mọn
Đứa tố vẫn chưa rành
La ba điều bốn chuyện
Loanh quanh chửi vòng quanh?

He, he...!

Đâu phải đùa là dễ
Trên gánh xiếc tục-thanh
Đâu phải đời sạch-bẩn
Là hô hoán mà thành!

Say, cười phá...banh chành!

                                                Trần Hạnh Thu



Xem tiếp...

Thứ Hai, 3 tháng 2, 2014

Buồn ơi, về đây với cô hồn! 19 (qua cơn mê, đêm bơ vơ)

(ĐC sưu tầm trên NET)


Xem tiếp...

catherine zeta jones belly dancing on arabic music 7

(ĐC sưu tầm trên NET)


Xem tiếp...

LEONARDO DA VINCI

(ĐC sưu tầm trên NET)

Bức tranh thất lạc của Leonardo da Vinci được tìm thấy ở ngân hàng Thụy Sĩ

(TNO) Một bức tranh của Leonardo da Vinci được cho là bị thất lạc nhiều thế kỷ, thậm chí nhiều người cho đó chỉ là bức tranh không thật sự tồn tại, lại được tìm thấy ở ngân hàng Thụy Sĩ.

 
Bức tranh vừa được tìm thấy (phải) được cho là bản hoàn thiện cho bản
phác thảo bằng bút chì được cho là của Leonardo da Vinci - Ảnh: Telegraph
Bí ẩn về bức tranh 500 năm tuổi này đã được vén màn ngày 4.10. Theo trang Telegragh, người ta tìm thấy bức tranh được cho là của Leonardo da Vinci tại hầm lưu giữ ở ngân hàng Thụy Sĩ.
Bức tranh mô tả phụ nữ quý tộc thời kì Phục hưng, bà Isabella d’Este, được tìm thấy trong bộ sưu tập cá nhân với hơn 400 tác phẩm được lưu giữ tại ngân hàng Thụy Sĩ bởi một gia đình người Ý.
Bức tranh gần như hoàn thiện cho phiên bản phác thảo bằng bút chì của Leonardo da Vinci vẽ tại thành phố Matua (Ý) năm 1499. Bức phác thảo khá rõ ràng để tạo ra tác phẩm được tìm thấy mới đây, treo ở Bảo tàng Louvre (Pháp).
Sau khi kiểm tra bức tranh này, người ta thấy sắc tố và các lớp sơn bức chân dung giống với các bức tranh khác mà Da Vinci đã sử dụng. Hơn nữa, việc kiểm tra cho thấy tác phẩm này đã được vẽ giữa những năm 1460 - 1650.
Đáng chú ý là tác phẩm này tương tự với phác thảo tại bảo tàng Louvre vì tư thế, trang phục và kiểu tóc gần như giống hệt nhau. Những người yêu thích tác phẩm Mona Lisa cũng có thể nhận ra nụ cười bí ẩn trên tác phẩm này.
Giáo sư Martin Kemp, ở ĐH Oxford, chuyên nghiên cứu về Da Vinci cho rằng nếu xác thực là bức tranh của De Vinci thì bức tranh bí ẩn này sẽ có giá trị hàng chục bảng Anh vì chỉ có 15 - 20 tác phẩm được xác định là của Da Vinci đang tồn tại.
Nhiều thế kỷ qua, người ta vẫn tranh cãi về việc Leonardo có thực sự phát triển bức chân dung từ bản phác thảo này hay không.
Khám phá ra bức phác thảo được cho là tác phẩm bị thất lạc của Leonardo da Vinci ở ngân hàng Thụy Sĩ đã tạo nên cuộc thảo luận cho các nhà lịch sử.
Hoàng Quyên

Leonardo da Vinci: Nhà khoa học giải phẫu




Leonardo da Vinci nổi danh với những bức họa độc đáo và vô giá trên thế giới. Tuy nhiên, ông còn được biết đến qua những bức vẽ giải phẫu học tỉ mỉ, hiếm hoi và vô cùng chính xác ở thời kỳ đó.
18 bản vẽ trong bộ sưu tập hơn 240 bức vẽ giải phẫu học của ông được tập trung lại và trưng bày tại Cung điện Holyrood ở Edinburgh. Đây cũng là lần đầu tiên một số lượng lớn như vậy các bức họa giải phẫu học của họa sĩ tài danh được giới thiệu tới công chúng.
Bắt đầu từ năm 1507, sau cuộc trò chuyện với một ông già sắp trút hơi thở cuối cùng trên giường bệnh, danh họa nảy ra ý muốn tìm hiểu điều gì trong cơ thể tạo ra cái chết, sự sống… thông qua giải phẫu thi thể. Ông từng thú nhận trong một vài ghi chép, rằng mình bị ám ảnh bởi các cấu trúc cơ thể con người. Họa sĩ đã tự mình thực hiện khoảng 30 cuộc giải phẫu như thế trên xác người, và ghi lại bằng những bức phác thảo vô cùng tỉ mỉ và chính xác. Khoảng 240 phác thảo như thế đã hình thành, kèm theo đó là mô tả cụ thể dài tổng cộng khoảng 13 nghìn từ.
Chân dung Leonardo cùng với phác thảo cơ và xương người
Chân dung Leonardo da Vinci cùng với phác thảo cơ và xương người
Người tổ chức trưng bày này, Martin Clayton nhận xét: “Chúng là những bản minh họa đẹp nhất, đặc biệt so với khoa giải phẫu học ngày nay”. Điều đặc biệt của triển lãm này là những bản phác thảo của danh họa được trưng bày đồng thời với những bản quét, chụp cắt lớp bằng các thiết bị hiện đại ngày nay, để so sánh và thấy được khả năng mô tả vô cùng chính xác của Leonardo da Vinci.
Trước đó, từ cuối những năm 1480, Leonardo đã bắt đầu chú ý tới giải phẫu cơ thể người. Cuốn sổ ghi ghép dày 44 trang của ông vào năm 1489 có một số hình vẽ hộp sọ người rất đẹp. Nhưng khoảng thời gian sau đó, họa sĩ bị phân tâm bởi những mối quan tâm khác, và ông cảm thấy không đủ sức làm hết. Ông nhận vẽ trang trí tranh tường khổ lớn, trong đó có các bức “Bữa tối cuối cùng”, “Trận chiến Anghiari”.
Niềm ham thích vẽ giải phẫu học trở lại với họa sĩ vào khoảng năm 1504. Clayton phân tích: “Ông luôn muốn tìm hiểu sâu về cơ thể con người, ban đầu là lớp cơ trên bề mặt, rồi sau đó là các lớp cơ sâu bên trong. Những điều này đưa ông trở lại với các nghiên cứu về giải phẫu học”. Lúc này, với uy tín và tên tuổi của mình, Leonardo hoàn toàn có điều kiện để tiến hành giải phẫu tử thi, thường là của các tội phạm bị hành quyết. Clayton nhận xét: “Trong 12 năm cuối đời, ông đã chuyển từ một họa sĩ thành một nhà khoa học, nhưng ông thực hiện công việc nghiên cứu bằng năng khiếu nghệ thuật tuyệt vời của mình”.
Những bức vẽ được trưng bày ở Cung điện Edinburgh có niên đại khoảng năm 1510-1511, khi Leonardo hợp tác với các nhà giải phẫu học Verona tại trường Y thuộc Đại học Pavia (Milan). Trong suốt thời kỳ Phục hưng, nhiều người coi giải phẫu học là rùng rợn, thậm chí là hoạt động bất hợp pháp, liên quan đến chiêu hồn. Thậm chí có người còn cho rằng việc bóc tách cơ thể người là trái với quy định của Giáo hội. Tuy nhiên, vào thế kỷ 15, 16, ngành giải phẫu học đã được nhìn nhận khác, được tôn trọng hơn, và không gặp vấn đề gì với Giáo hội. Đó cũng là thời điểm ngành giải phẫu học phát triển bùng nổ.
Mặc dù không phải Leonardo là họa sĩ duy nhất quan tâm đến giải phẫu học vào thời kỳ đó, tuy nhiên, điều làm nghiên cứu của ông khác biệt so với tất cả những người khác là những mô tả chính xác vả tỉ mỉ thông qua sự quan sát sắc bén và tinh tế. Clayton cho biết: “Leonardo đặc biệt chú ý đến vai trò và hoạt động của van tim, thậm chí ông đã tự dựng một mô hình van tim mô phỏng hoạt động bơm máu của tim. Đây là điều chúng ta chưa hề được biết cho đến tận thế kỷ 20, mà danh họa đã nghiên cứu và làm từ năm 1513”.
Ý đồ của Martin Clayton là tập trung và kỹ thuật hình ảnh trong những bản vẽ của Leonardo. Clayton mô tả, Leonardo đã sử dụng các quy tắc trong kiến trúc và kỹ thuật để mô tả các cấu trúc cơ thể người, vì thế những bản vẽ của ông trở nên sống động, tinh tế và rất chính xác. “Chỉ cho đến ngày nay, với sự hỗ trợ của máy tính, chúng ta mới thấy được những nỗ lực phi thường của danh họa”, Clayton nói.
Leonardo da Vinci: Nhà khoa học giải phẫu
Phác thảo hộp sọ người
Bi kịch đối với những bức vẽ này là Leonardo không bao giờ được công bố chúng. Cái chết đột ngột do bệnh dịch hạch của cộng sự thân thiết Marcantonio della Torre năm 1511, cùng với những bất ổn chính trị và việc Pháp chiếm Milan năm 1499, đã khiến cho họa sĩ tài ba rất khó khăn để hoàn thành dự án của mình. Ông lui về ở ẩn trong biệt thự của học trò và thư ký Francesco Melzi cách thành phố Milan 15 dặm (khoảng hơn 30km).
Với quỹ thời gian và tư liệu thu thập trong từng ấy năm, lẽ ra Leonardo hoàn toàn có thể hoàn thành nốt nghiên cứu của mình, nhưng thay vào đó, ông dành thời gian cho việc vẽ phong cảnh, thiết kế, nghiên cứu phôi, các van của tim.
Năm 1519, khi danh họa qua đời, khoảng 6.500 giấy tờ, tài liệu bản vẽ của ông bị phân tán. Năm 1690, gần hết các giấy tờ này được tập trung lại tại Phòng sưu tập hoàng gia, tuy nhiên chúng không được phân tích và hệ thống lại, cho đến tận cuối thế kỷ 19. Đó là lý do tại sao các nghiên cứu vượt thời gian của ông không thể tác động được đến y học hay khoa học.
Clayton nói: “Chúng tôi chỉ làm thay ông ấy phần việc cuối cùng: công bố từng phần các bản vẽ giải phẫu học. Leonardo đã đẩy sự hiểu biết về cơ thể người xa hơn bất kỳ ai khác trong thời kỳ Phục hưng”.

Leonardo da Vinci

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Leonardo da Vinci

Chân dung tự họa khoảng 1512-1515
Sinh Leonardo di ser Piero da Vinci
15 tháng 4, 1452
Vinci, Cộng hòa Fiorentina (Ý ngày nay)
Mất 2 tháng 5, 1519 (67 tuổi)
Amboise, Pháp
Quốc gia Ý
Nổi tiếng vì Nhiều lĩnh vực khoa học và nghệ thuật
Tác phẩm Mona Lisa, Bữa ăn tối cuối cùng, Người Vitruvius
Loại Phục Hưng
Chữ ký
Leonardo di ser Piero da Vinci (phát âm tiếng Ý: [leoˈnardo da ˈvintʃi] ; phiên âm tiếng Việt phổ biến là Lê-ô-na đờ Vanh-xi theo cách đọc của tiếng Pháp) (sinh ngày 15 tháng 4 năm 1452 - 23 tháng 4 theo lịch Gregory hiện nay - tại Anchiano, Ý, mất ngày 2 tháng 5 - 11 tháng 5 theo lịch Gregory hiện nay - năm 1519 tại Amboise, Pháp) là một họa sĩ, nhà điêu khắc, kiến trúc sư, nhạc sĩ, bác sĩ, kỹ sư, nhà giải phẫu, nhà sáng tạo và triết học tự nhiên.
Ông được coi là một thiên tài toàn năng người Ý. Tên gọi của thành phố Vinci là nơi sinh của ông, nằm trong lãnh thổ của tỉnh Firenze, cách thành phố Firenze 30 km về phía Tây gần Empoli, cũng là họ của ông. Người ta gọi ông ngắn gọn là Leonardo vì "da Vinci" có nghĩa là "đến từ Vinci", không phải là họ thật của ông. Tên khai sinh là Leonardo di ser Piero da Vinci có nghĩa là "Leonardo, con của Ser Piero, đến từ Vinci". Ông là tác giả của những bức hoạ nổi tiếng như bức Mona Lisa, bức Bữa ăn tối cuối cùng.
Ông là người có những ý tưởng vượt trước thời đại của mình, đặc biệt là khái niệm về máy bay trực thăng, xe tăng, dù nhảy, sự sử dụng hội tụ năng lượng mặt trời, máy tính, sơ thảo lý thuyết kiến tạo địa hình, tàu đáy kép, cùng nhiều sáng chế khác. Một vài thiết kế của ông đã được thực hiện và khả thi trong lúc ông còn sống. Ứng dụng khoa học trong chế biến kim loại và trong kỹ thuật ở thời đại Phục Hưng còn đang ở trong thời kỳ trứng nước. Thêm vào đó, ông có đóng góp rất lớn vào kiến thức và sự hiểu biết trong giải phẫu học, thiên văn học, xây dựng dân dụng, quang học và nghiên cứu về thủy lực. Những sản phẩm lưu lại trong cuộc đời ông chỉ còn lại vài bức hoạ, cùng với một vài quyển sổ nháp tay (rơi vãi trong nhiều bộ sưu tập khác nhau các sáng tác của ông), bên trong chứa đựng các ký hoạ, minh hoạ về khoa học và bút ký.

Cuộc đời

Ấu thơ

Photo of a building of rough stone with small windows, surrounded by olive trees.
Căn nhà của Leonardo thuở nhỏ tại Anchiano
 Pen drawing of a landscape with mountains, a river in a deep valley, and a small castle.
Bức họa sớm nhất của Leonardo, Thung lũng Arno (1473), Uffizi
Leonardo sinh ngày 15 tháng 4 năm 1452 (lịch cũ), "lúc 3 giờ khi màn đêm buông xuống" ở thị trấn Vinci vùng Tuscan, thuộc thung lũng hạ lưu sông Arno vùng lãnh thổ thuộc quyền cai trị của Medici-cộng hòa Florence. Leonardo là người con ngoài giá thú của công chứng viên Ser Piero (lúc bấy giờ 25 tuổi) và người con gái nông dân 22 tuổi Catarina.[1][3][nb 2] Leonardo công có họ trong ngữ cảnh hiện đại, "da Vinci" chỉ đơn giản là "của Vinci": tên khai sinh đầy đủ của ông là "Lionardo di ser Piero da Vinci", nghĩa là "Leonardo, (con trai) của (Mes)ser Piero from Vinci".
Quan hệ của Catarina với Ser Piero dường như chấm dứt ngay sau khi bà sinh người con trai. Sau đó ít lâu bà kết hôn với người chủ một lò gốm, Accattabriga di Píaero del Vacca từ Vinci, và có thêm 5 người con. Sau khi chia tay với Catarina, Ser Piero nhận nuôi dưỡng Leonardo. Ông kết hôn 4 lần, có thêm 9 người con trai và 2 người con gái với hai người vợ cuối của ông. Ser Piero là công chứng viên của nhiều gia đình danh tiếng trong thành phố và là người thành công trong nghề nghiệp. Thân chủ của ông bao gồm không những gia đình Medici mà còn gồm cả chính phủ thành phố (signoria) hay hội đồng quốc gia.

Làm trong xưởng vẽ Verrocchio

Leonardo lớn lên trong gia đình của cha ông và sống phần lớn thời gian thời thiếu niên tại thành phố Firenze. Trong số những đam mê của ông, Leonardo yêu thích nhất là âm nhạc, vẽ và tạo hình. Cha của Leonardo đưa một vài tranh vẽ của ông cho một người quen xem, Andrea del Verocchio, người ngay lập tức nhận ra được tài năng về nghệ thuật của Leonardo và được Ser Piero chọn làm thầy cho Leonardo.
Mặc dầu không phải là một tài năng phát minh hay sáng tạo lớn trong nghệ thuật đương thời ở Firenze nhưng Verocchio cũng là một nghệ nhân hàng đầu trong nghề kim hoàn, điêu khắc và trong hội họa. Đặc biệt ông là một người thầy tài năng. Leonardo làm việc nhiều năm (khoảng 1470-1477) trong xưởng vẽ của ông cùng với Lorenzo di CrediPietro Perugino.
Năm 1476 ông bị buộc tội cùng với 3 người đàn ông khác đã có quan hệ tình dục với một người đàn ông làm mẫu 17 tuổi, Jacopo Saltarelli, là một người đàn ông mại dâm được nhiều người biết. Sau 2 tháng trong tù ông được tuyên bố vô tội vì không có người làm chứng.
Chẳng bao lâu ông đã học hết tất cả những gì Verrocchio có thể dạy hay là còn nhiều hơn thế nữa, nếu như có thể tin vào những câu chuyện thường được kể lại về các hình ảnh hay tượng được cho là do những người học trò của Verrocchio sáng tác. Giorgio Vasari, kiến trúc sư, họa sĩ và cũng là một nhà tiên phong trong số những người biên niên sử nghệ thuật cùng thời với Leonardo cũng đã tường thuật tương tự.

Một trong những bức tranh đầu tiên của Leonardo: Thánh mẫu Benois (1478)
Bức tranh Rửa tội Christi do Verrocchio phác thảo cho các nhà tu của Vallombrosa hiện có thể được xem tại Viện hàn lâm Firenze. Theo Vasari thì thiên thần quỳ bên trái là do Leonardo thêm vào. Khi Verrocchio nhìn thấy, ông đã nhận ra được tính nghệ thuật hơn hẳn so với phần còn lại của chính tác phẩm của ông và người ta kể rằng từ đấy ông tuyên bố vĩnh viễn từ bỏ hội họa. Bức tranh được vẽ nguyên thủy bằng màu keo (tempera) này đã bị vẽ dầu chồng lên nhiều lần nên việc kết luận có sơ sở hiện nay là rất khó khăn. Một số ý kiến đáng tin cậy thiên về việc công nhận không những có bàn tay của Leonardo trên khuôn mặt của thiên thần mà còn trong nhiều phần về y phục và phong cảnh phía sau mang tính đặc trưng và có thể nhận thấy được trong các tác phẩm khác của ông. Tác phẩm này được hoàn thành vào khoảng năm 1470, khi Leonardo 18 tuổi.
Vào khoảng năm 1472 tên của ông có trong danh sách của phường hội họa sĩ thành phố Firenze. Ông sống và làm việc tại đây thêm 10 hay 11 năm và cho đến năm 1477 vẫn còn được gọi là học trò của Verrocchio. Thế nhưng trong năm này dường như ông đã được Lorenzo de Medici nâng đỡ và làm việc như là một nghệ sĩ độc lập dưới sự bảo trợ của Lorenzo de Medici từ 1482 cho đến 1483.
Thông qua lời giới thiệu của Lorenzo de Medici cho công tước Ludovico Sforza, người muốn đặt một tượng đài kỵ sĩ tôn vinh Francesco I Sforza, người khởi đầu cho triều đại Sforza tại Milano, Leonardo rời Firenze đến Milano vào khoảng năm 1483.

Milano

Bằng chứng đầu tiên được ghi lại cho thời gian làm việc của Leonardo tại Milano được xác định là năm 1487. Một vài nhà viết tiểu sử phỏng đoán là thời gian từ 1483 đến 1487 hay ít nhất là một phần của thời gian này được dùng cho những chuyến đi du lịch phương Đông, thế nhưng từ tất cả những người cùng thời với Leonardo đều không để lại một dấu vết nào về chuyến đi của Leonardo về phương Đông.
Trong những năm đầu tiên sau khi tiếm quyền, Ludovico bị tấn công dữ dội, đặc biệt là từ những người theo phái của chị dâu của ông, Bona của Savoie, mẹ của công tước trẻ tuổi Gian Galeazzo Sforza, người cầm quyền chính thống. Để chống lại những tấn công này, Ludovico đã dùng hằng loạt thi sĩ và nghệ sĩ thông qua các diễn văn công cộng, kịch nghệ, hình ảnh và khẩu hiệu để ca ngợi sự sáng suốt và tính tốt đẹp của sự giám hộ đồng thời truyền bá tính xấu xa của những người chống lại ông. Các ghi chép và dự án trong những bản viết tay của Leonardo là bằng chứng cho thấy ông cũng thuộc về số người nghệ sĩ này. Nhiều bức vẽ phác thảo như vậy hiện nay đang nằm trong Christ Church tại Oxford, một bức phác thảo vẽ một nữ phù thủy có sừng hay nữ quỷ đang xua chó tấn công Milano. Bức phác thảo này gần như chắc chắn ám chỉ việc người của nữ công tước Bona ám sát Ludovico không thành vào năm 1484.
Dịch hạch tại Milano trong thời gian 1484-1485 là dịp cho Leonardo trình nhiều dự án của ông lên Ludovico nhằm chia lại thành phố và tái xây dựng theo các nguyên tắc vệ sinh tốt hơn. Thời gian 1485-1486 dường như cũng là thời gian khởi đầu cho kế hoạch làm đẹp và củng cố pháo đài của ông, mặc dầu không được toại nguyện. Sau đó là các kế hoạch và mô hình của ông trong dịp thi đua được công bố giữa các kiến trúc sư người Ý và người Đức để hoàn thành nhà thờ lớn của Milano. Văn kiện trả tiền cho ông vẫn còn tồn tại nằm trong khoảng thời gian từ tháng 8 năm 1487 đến tháng 5 năm 1490. Cuối cùng thì không một dự án nào được tiến hành.
Bức tượng kỵ sĩ cao 7 mét, nhiệm vụ chính của Leonardo khi đến Milano được hoàn thành vào cuối năm 1493, vào lúc người do hoàng đế Maximilian I cử đến hộ tống cô dâu Bianca Maria Sforza về làm lễ cưới. Theo tường thuật thời bấy giờ thì đây là một công trình vĩ đại, nhưng các tường thuật này lại thiếu chính xác đến mức không thể kết luận được là tượng đài này phù hợp với phác thảo nào trong số nhiều bản vẽ phác thảo còn tồn tại cho đến ngày nay.
Trong khoảng thời gian từ 1495 đến 1497 Leonardo vẽ một trong những bức tranh nổi tiếng nhất của ông, bức bích họa Bữa ăn tối cuối cùng trong nhà thờ Santa Maria delle Grazie, theo yêu cầu của Ludovico Sforza. Năm 1980 nhà thờ cùng với bức tranh đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới. Vua Louis XII của Pháp, sau khi chiếm được Milano, đã đích thân đến tận nhà thờ để chiêm ngưỡng bức tranh và đã hỏi là có thể tháo gỡ ra khỏi tường nhằm mang về Pháp. Hai tháng sau khi vua Louis XII chiếm Milano, trong tháng 12 năm 1499, Leonardo cùng người bạn là Luca Pacioli rời thành phố Milano.

Florence

Leonardo và Luca Pacioli dừng chân tại Mantua, nơi Leonardo được nữ công tước Isabella Gonzage tiếp đón nồng hậu. Khi nghe tin Ludovico kết cuộc đã bị lật đổ, hai người bạn từ bỏ kế hoạch trở về Milano và tiếp tục đi đến Firenze, thành phố đang bị sức ép từ nhiều vấn đề nội bộ và từ cuộc chiến tranh chống lại Pisa không có kết quả. Tại đây Leonardo nhận vẽ một bức tranh thờ cho nhà thờ Annunziata. Filippino Lippi, người thật ra đã nhận lời yêu cầu vẽ, đã nhường lại cho Leonardo. Mãi đến tháng 4 năm 1501 Leonardo mới hoàn thành bản phác thảo trên giấy. Mặc dù nhận được nhiều lời khen ngợi cho bản vẽ trên giấy, Leonardo đã không hoàn thành bức tranh này và các tu sĩ Annunziata cuối cùng lại phải chuyển lời yêu cầu đến Filippino Lippi.
Trong mùa xuân năm 1502 ông bất ngờ về làm việc cho công tước Cesare Borgias. Trong khoảng thời gian từ tháng 5 năm 1502 cho đến tháng 3 năm 1503 Leonardo, với tư cách là kĩ sư quân sự có quyền cao nhất, đã đi du hành qua một phần lớn miền trung nước Ý. Hai tháng sau khi Vito Luzza, một người dưới quyền của Cesare và là bạn của Leonardo, bị Cesare giết chết, Leonardo trở về Firenze. Ông đã để lại rất nhiều ghi chú và bản vẽ có ghi ngày tháng cũng như 6 tấm bản đồ lớn do ông tự vẽ bao gồm các vùng đất Maremma, ToscanaUmbria.
Trở về Firenze, ông được ủy nhiệm vẽ một bức bích họa trang trí cho một trong những bức tường của đại sảnh nhà hội đồng thành phố. Michelangelo được trao nhiệm vụ vẽ một bức bích họa khác cũng trong cùng căn phòng. Ông hoàn thành phác thảo trên giấy trong vòng 2 năm (1504-1505) nhưng do có nhiều khó khăn về kĩ thuật trong lúc vẽ trên tường nên bức bích họa không được hoàn thành.
Trong thời gian này (1503-1506), theo một số nguồn khác là 1510-1515, Leonardo hoàn thành bức họa Mona Lisa (hay còn gọi là La Gioconda) mà theo Vasari thì đây là bức chân dung của Lisa del Giocondo, vợ của một người buôn bán tơ lụa tại Firenze. Lúc đương thời Leonardo đã không thể rời bức tranh, ông mang bức họa này đi theo trên khắp các chặn đường đời sau đó. Sau khi Leonardo qua đời, vua François I của Pháp đã mua bức tranh này với giá là 4.000 đồng Florin vàng. Người ta nói là cho đến ngày nay chưa có ai có thể sao chép lại được nụ cười trong bức tranh này.

Milano

Trong mùa xuân 1506, Leonardo chấp nhận lời mời khẩn thiết của Charles d'Amboise, thống đốc vùng Lombardia của vua Pháp, trở về lại Milano. Vua Pháp Louis XII gửi tin yêu cầu Leonardo hãy đợi ông đến Milano vì ông đã xem được một bức tranh Đức Mẹ nhỏ của Leonardo ở Pháp và hy vọng sẽ nhận được từ Leonardo các tác phẩm như vậy và ngoài ra có thể là một bức chân dung.

Hình vẽ của Leonardo: Một bào thai trong tử cung, khoảng 1510-1512
Tháng 9 cùng năm ông phải trở về Firenze vì việc riêng tư không vui. Cha Leonardo qua đời vào năm 1504 dường như không để lại di chúc. Sau đó Leonardo đã có tranh tụng với 7 người em trai cùng cha khác mẹ về việc thừa kế gia tài của cha ông và sau đó là của một người chú bác. Việc kiện tụng kéo dài nhiều năm và bắt buộc Leonardo phải nhiều lần tạm ngưng công việc ở Milano để về Firenze, mặc dù đã có nhiều thư của Charles d'Ambois, vua Louis XII, của những người thân quen và đỡ đầu có thế lực khác để thúc đẩy sớm kết thúc việc kiện tụng này. Trong một bức thư gửi Charles d'Amboise vào năm 1511, Leonardo đã nhắc đến việc kiện tụng sẽ sắp chấm dứt và viết về hai bức tranh Đức Mẹ mà ông sẽ mang về Milano. Người ta tin rằng một trong 2 bức tranh đó là bức Madonna Litta mà hiện nay một bản sao được trưng bày trong Viện bảo tàng Hermitage (Cung điện mùa Đông).
Vào tháng 5 năm 1507 vua Louis XII đến Milano và Leonardo chính thức chuyển sang phục vụ cho Louis XII với chức danh là họa sĩ triều đình và kĩ sư. Theo những ghi chép còn tồn tại, trong thời gian 7 năm Leonardo ở tại Milano (1506-1513) ông làm việc rất ít trong lãnh vực hội họa và kiến trúc. Ông đã cùng nghiên cứu về giải phẫu học với giáo sư Marcantonio della Torre. Bức chân dung tự họa bằng phấn đỏ hiện đang ở trong Biblioteca Reale tại Torino có thể được vẽ vào khoảng thời gian này khi ông gần 60 tuổi.

Florence

Tháng 6 năm 1512 triều đại Sforza trở lại nắm quyền lực ở Milano. Chỉ trong vòng vài tháng sau đó Leonardo và các học trò của ông rời Milano đi đến Florence phục vụ cho gia đình Medici. Nhờ ảnh hưởng của Giuliano de Medici, một người bạn của Leonardo và là người em trai trẻ tuổi nhất của giáo hoàng, Leonardo được cư ngụ trong Tòa thánh Vatican và có một xưởng vẽ riêng. Theo các nguồn tài liệu đáng tin cậy còn tồn tại trong thời gian này Leonardo chỉ vẽ hai bức tranh panel nhỏ cho một viên chức trong tòa thánh. Qua nhiều công trình nghiên cứu về giải phẫu học Leonardo đã khám phá ra chứng xơ cứng động mạch ở người già. Thế nhưng các ghi chép của ông về đề tài này chưa từng được công bố và đã mất tích hằng trăm năm trước khi tái xuất hiện. Sau khi ở tại Roma gần 2 năm Leonardo chấp nhận lời mời của vua François I của Pháp đi đến nước Pháp.

Pháp

Trong thời gian hơn 2 năm còn lại của cuộc đời Leonardo sống trong lâu đài Clos Lucé gần Amboise. Ông đã vẽ nhiều bức tranh như Leda và thiên nga (hiện chỉ còn lại bản sao), phiên bản thứ hai của bức tranh Đức mẹ đồng trinh trong hang đá. Leonardo mất ngày 2 tháng 5 năm 1519.
Trong suốt cuộc đời của Leonardo, tài năng sáng tạo đặc biệt của ông và cũng như tất cả các các khía cạnh khác của cuộc sống của ông, luôn thu hút sự tò mò của người khác . Một trong những khía cạnh của ông là tôn trọng cuộc sống, thể hiện bằng việc ăn chay trường trên cơ sở đạo đức Kitô giáo và thói quen của ông, theo Vasari, mua lồng chim và thả chúng tự do
Leonardo đã có nhiều bạn bè là người nổi tiếng trong các lĩnh vực của họ hoặc có ý nghĩa lịch sử, bao gồm các nhà toán học Luca Pacioli, mà ông đã cộng tác trong một cuốn sách trong thời 1490, cũng như Franchinus GaffuriusIsabella d'Este. Leonardo đã không có quan hệ gần gũi với phụ nữ, ngoại trừ cho tình bạn của ông với hai chị em Este, Beatrice và Isabella . Ông đã vẽ một bức chân dung của cô trên cuộc hành trình xuyên qua Mantua, bây giờ bức tranh này bị thất lạc.
Ngoài tình bạn, Leonardo giữ bí mật cuộc sống riêng tư của mình. Cuộc sống tình dục của ông đã là chủ đề bị phân tích, châm biếm, và đầu cơ. Xu hướng này bắt đầu vào giữa thế kỷ 16 và đã được hồi sinh trong thế kỷ 19 và 20, đáng chú ý nhất qua Sigmund Freud . Mối quan hệ thân mật nhất của ông có lẽ với các học trò của mình Salai và Melzi. Melzi, khi viết thư để thông báo cho anh em của Leonardo về cái chết của ông, đã mô tả cảm xúc của Leonardo cho học sinh của mình là cả hai yêu thương và đam mê. Nó đã được khẳng định từ thế kỷ 16 rằng các mối quan hệ này có thể có tính chất tình dục hoặc khiêu dâm. Hồ sơ của tòa án năm 1476, khi ông được 24 tuổi, cho thấy Leonardo và ba người đàn ông trẻ khác bị buộc tội trong một sự cố liên quan đến một mại dâm nam nổi tiếng, nhưng nghi vấn buộc tội đã bị bác bỏ vì thiếu bằng chứng . Kể từ đó ngày càng có nhiều giả thuyết viết về khuynh hướng đồng tính luyến ái giả định và vai trò của nó trong nghệ thuật của ông, đặc biệt là trong một số bản vẽ khiêu dâm.
Xem tiếp...

THE BEATLES 2 - bài hát tuyển chọn

(ĐC sưu tầm trên NET)


Xem tiếp...