Thứ Ba, 28 tháng 1, 2014
CÂU CHUYỆN VỀ RƯỢU 6/b (tửu sầu)
(ĐC sưu tầm trên NET)
Rượu chè cờ bạc lu bù
Hết tiền đã có mẹ cu bán hàng
***
Rượu ngon cái cặn cũng ngon
Thương em chẳng luận chồng con mấy đờị
***
Rượu men tẩn mẩn tê mê
Mảng theo con đĩ bỏ bê việc nhà
***
Rượu nằm trong nhạo chờ nem
Qua nằm thuyền vắng chờ em một mình
***
Rượu nào là rượu chẳng nồng
Gái nào là gái chẳng vì chồng hay ghen?
***
Rượu nào là rượu chẳng nồng
Trai nào chẳng khoái Lan, Hồng, Cúc, Mai ?
***
Rượu nào rượu lại say người
Bớ người say rượu chớ cười rượu say
***
Rượu ngon bất luận be sành
Rách mà khéo vá hơn lành vụng may
***
Rượu ngon bất luận ve chai
Thương em bất luận sợ ai chê cười
***
Rượu ngon trong hũ rót ra
Để lâu cũng nhạt nữa là duyên em
***
Rượu nhạt uống lắm cũng say
Người khôn nói lắm dẫu hay cũng nhàm
***
Rượu say vì bởi men nồng
Vợ mà biết ở ắt chồng phải theo
***
Rượu song chung rót đãi đôi đàng
Đền ơn cha mẹ các bạn vàng thay anh
***
Rượu tăm thịt chó nướng vàng
Mời đi đánh chén cách làng cũng đi
” St ”
Trong một quán bia, vị khách ngồi một mình lẩm bẩm: “À, hôm nay chú mày đã đến đây thì cứ ở đây với tớ, hai ta cùng lai rai”.
Người phục vụ thấy thế, nghĩ chắc khách đã rất say bèn tiến lại hỏi:
- Thưa ngài, ngài đang nói với ai đấy ạ?
- Với con ruồi trong cốc bia này này!
!!!!!
“…Vô tửu như kỳ vô phong”
Nhậu cho đáng mặt đàn ông mới tài
Tám giờ gài độ lai rai
Mười giờ say xỉn lăn quay góc tường
Sá chi cuối hẻm, đầu đường
Miễn là có chỗ “sương sương” đỡ buồn
Một ly, giọng nói à uông
Mười ly là lúc ọe nôn bầy hầy
Lúc say, nói chuyện bằng… tay
Hỏi qua, đáp lại, mặt mày vêu vao
Mặc cho vợ khóc, con gào
Rượu đưa cứ uống nháo nhào hả hê!
Lảm nhảm như kẻ ngủ mê
Ngồi lên đứng dậy tê tê lại… tè
Nước tuôn xối xả đầu hè
Rủ nhau “cho chó ăn chè” mà kinh
Chồng ơi! Ta gọi là mình
Mình nhậu như thế kẻ khinh người nhờn
Em xin nhắn nhủ thiệt hơn
Nếu không bỏ nhậu là đờn đứt dây!
Chị Dậu
( Theo Phụ nữ )
Khi buồn đối bóng nâng ly
Khi vui bè bạn ly bì cuộc say
Thăng quan nhờ chén rượu này
Hẳn khi xuống chức vì mày rượu ơi!
Tân hôn pháo nổ rượu vui
Tang ma kèn trống rượu khơi thảm sầu
Lâng lâng tâm sự bạn bầu
Chừng khi quá chén buông câu quấy càn.
Uống say phá phố quậy làng
Tỉnh ra nuối tiếc muộn màng còn chi!
Vợ buồn bởi thói rượu ni
Chỉ cô bán rượu quắc mi chuốc cười.
Mánh mung thua – được – lỗ – lời
Vẫn dàn trận rượu tơi bời ngả nghiêng…
Danh nhân văn sĩ dân hiền
Đều qua chén rượu giải phiền mua vui.
Làm sao hiểu hết rượu ơi
Vui buồn âu cũng đầy vơi với mày!
( Theo Lục bát )
Cắm sào giữa vũng hồn ta
Thuyền cô đơn đợi trăng ngà đêm nay
Rượu vài chén, dễ gì say?
Đêm chưa chịu đến bởi ngày chưa đi!
Dăm chén nữa, chả thấm chi
Thiếu vắng tri kỷ có gì vui đâu!
Ừ cũng uống chứ nhịn sao?
Tránh buồn vô cớ lẻn vào nhiễu ta!
Bầu rượu cạn, chợt nhìn ra
Trời đen như mực, thế là không Trăng!
Đứng dậy, chuếnh choáng ngã lăn
Lầm bầm chửi rủa: Cha thằng nào xô!
” St “
Chú Cuội ngồi gốc cây đa
Túi thơ hũ rượu khề khà cho vui
Say rồi Cuội bảo Nga ơi!
Cùng nhau hạ thế vui đời say sưa
Rượu nếp pha với nước dừa
Đó là loại rượu thượng thừa miền tây
Cuội ơi hãy ghé vào đây
Cùng ta say xỉn cho ngày trôi qua
Ôm chi cái gốc đa già
Nghìn năm chẳng biết gì là thú say
Khi say nghe thấy hay hay
Tản Đà mới nói đỏ ray ông trời
Rượu vào thơ mới ra lời
Không rượu thì chịu một lời cũng không
” St “
Rể: dạ con có chuyện muốn thưa với ba
Bố vợ, rót một ly và nói: Uống nói mới tin mày, lát nữa say nói hết trúng, tao không nghe đâu
Rể nốc một hơi nghe cái trót và nói: Thưa ba, cháu ngoại của ba mới là thật, chứ chưa chắc là cháu nội của ông già con.
Bố vợ: Mày nói có lý đấy, xuống bếp đi con!
Rể: Để làm gì hả ba, lấy mồi à!
Bố vợ: Xuống bếp nói với bà già vợ mày đó, vì vợ mày cũng chưa chắc con tao, cha con mình cùng "hoàn cảnh" con ạ!
Rể suy nghĩ: thôi khỏi, nói sau vậy, xin phép ba cho con uống cái vụ cùng hoàn cảnh với
Thế rồi cả hai cùng uống đến gần xỉn.
Bố vợ: lè nhè- giờ xin phép con cho ba qua một tua
Rể: Ba nói sao làm gì có chuyện uống có 2 thằng cũng đòi qua tua, ông qua tua tui cũng qua tua, rồi thằng nào uống.
Bố vợ: Êh!!! đừng ăn nói lôn xộn vô lễ nghe mày, dù sao mày lấy con gái tao, tao là ba mày nghe chưa!
Rể: Cái đó tui công nhận nhưng uống rượu thì khác, thằng nào thua phải làm con thằng thắng
Bố vợ!!!
* Chồng nhậu về đứng trước cửa nhà say đến nỗi không nhớ tên vợ, cứ gọi
“Ấy ơi, ấy ơi!”. Vợ trong nhà nghe giọng say rượu, lại không gọi rõ tên nên không thèm mở cửa. Bí quá, chàng ta rút “alô” gọi cho bố vợ:
- Alô, bố đấy à? Bố cho con hỏi vợ con nó tên gì ấy nhỉ?
- Mày làm gì mà quên cả tên vợ mày thế hả?
- Con đi uống rượu về say quá nên quên mất. Bây giờ vợ con nó không mở cửa cho vào nhà.
- Thế à? Đến tên mẹ vợ mày tao còn chẳng nhớ nữa là tên vợ mày. Đang đứng ngoài đường à? Tao cũng thế thôi!
* Khách khứa ra về hết, trong buồng chỉ còn đôi vợ chồng trẻ. Cùng nhau uống ly rượu hợp cẩn, nhìn nhau say đắm, chú rể hăng hái giục: “Thôi, ta vào việc đi em!”.
Cô dâu bẽn lẽn: “Vội thế. Còn sớm mà anh!” .
Chú rể nôn nóng: “Sớm gì nữa, 10h rồi đấy”.
Cô dâu lại bẽn lẽn: “Nhỡ ai gọi cửa thì phiền”.
Chú rể càng nôn nóng: “Không ai quấy rầy chúng mình nữa đâu. Thôi, nhanh lên em! Anh chịu không nổi rồi”.
Cô dâu rụt rè: “… Thế anh tắt đèn đi vậy. Xấu hổ lắm”.
Chú rể trố mắt: “Sao lại phải tắt đèn? Tắt đèn thì làm sao… đếm tiền
Ca dao về Rượu
Hết tiền đã có mẹ cu bán hàng
***
Rượu ngon cái cặn cũng ngon
Thương em chẳng luận chồng con mấy đờị
***
Rượu men tẩn mẩn tê mê
Mảng theo con đĩ bỏ bê việc nhà
***
Rượu nằm trong nhạo chờ nem
Qua nằm thuyền vắng chờ em một mình
***
Rượu nào là rượu chẳng nồng
Gái nào là gái chẳng vì chồng hay ghen?
***
Rượu nào là rượu chẳng nồng
Trai nào chẳng khoái Lan, Hồng, Cúc, Mai ?
***
Rượu nào rượu lại say người
Bớ người say rượu chớ cười rượu say
***
Rượu ngon bất luận be sành
Rách mà khéo vá hơn lành vụng may
***
Rượu ngon bất luận ve chai
Thương em bất luận sợ ai chê cười
***
Rượu ngon trong hũ rót ra
Để lâu cũng nhạt nữa là duyên em
***
Rượu nhạt uống lắm cũng say
Người khôn nói lắm dẫu hay cũng nhàm
***
Rượu say vì bởi men nồng
Vợ mà biết ở ắt chồng phải theo
***
Rượu song chung rót đãi đôi đàng
Đền ơn cha mẹ các bạn vàng thay anh
***
Rượu tăm thịt chó nướng vàng
Mời đi đánh chén cách làng cũng đi
” St ”
Bạn nhậu
Người phục vụ thấy thế, nghĩ chắc khách đã rất say bèn tiến lại hỏi:
- Thưa ngài, ngài đang nói với ai đấy ạ?
- Với con ruồi trong cốc bia này này!
!!!!!
Chồng nhậu
Nhậu cho đáng mặt đàn ông mới tài
Tám giờ gài độ lai rai
Mười giờ say xỉn lăn quay góc tường
Sá chi cuối hẻm, đầu đường
Miễn là có chỗ “sương sương” đỡ buồn
Một ly, giọng nói à uông
Mười ly là lúc ọe nôn bầy hầy
Lúc say, nói chuyện bằng… tay
Hỏi qua, đáp lại, mặt mày vêu vao
Mặc cho vợ khóc, con gào
Rượu đưa cứ uống nháo nhào hả hê!
Lảm nhảm như kẻ ngủ mê
Ngồi lên đứng dậy tê tê lại… tè
Nước tuôn xối xả đầu hè
Rủ nhau “cho chó ăn chè” mà kinh
Chồng ơi! Ta gọi là mình
Mình nhậu như thế kẻ khinh người nhờn
Em xin nhắn nhủ thiệt hơn
Nếu không bỏ nhậu là đờn đứt dây!
Chị Dậu
( Theo Phụ nữ )
Rượu ơi !
Khi vui bè bạn ly bì cuộc say
Thăng quan nhờ chén rượu này
Hẳn khi xuống chức vì mày rượu ơi!
Tân hôn pháo nổ rượu vui
Tang ma kèn trống rượu khơi thảm sầu
Lâng lâng tâm sự bạn bầu
Chừng khi quá chén buông câu quấy càn.
Uống say phá phố quậy làng
Tỉnh ra nuối tiếc muộn màng còn chi!
Vợ buồn bởi thói rượu ni
Chỉ cô bán rượu quắc mi chuốc cười.
Mánh mung thua – được – lỗ – lời
Vẫn dàn trận rượu tơi bời ngả nghiêng…
Danh nhân văn sĩ dân hiền
Đều qua chén rượu giải phiền mua vui.
Làm sao hiểu hết rượu ơi
Vui buồn âu cũng đầy vơi với mày!
( Theo Lục bát )
Thơ… say
Thuyền cô đơn đợi trăng ngà đêm nay
Rượu vài chén, dễ gì say?
Đêm chưa chịu đến bởi ngày chưa đi!
Dăm chén nữa, chả thấm chi
Thiếu vắng tri kỷ có gì vui đâu!
Ừ cũng uống chứ nhịn sao?
Tránh buồn vô cớ lẻn vào nhiễu ta!
Bầu rượu cạn, chợt nhìn ra
Trời đen như mực, thế là không Trăng!
Đứng dậy, chuếnh choáng ngã lăn
Lầm bầm chửi rủa: Cha thằng nào xô!
” St “
Uống rượu đêm trăng.
Túi thơ hũ rượu khề khà cho vui
Say rồi Cuội bảo Nga ơi!
Cùng nhau hạ thế vui đời say sưa
Rượu nếp pha với nước dừa
Đó là loại rượu thượng thừa miền tây
Cuội ơi hãy ghé vào đây
Cùng ta say xỉn cho ngày trôi qua
Ôm chi cái gốc đa già
Nghìn năm chẳng biết gì là thú say
Khi say nghe thấy hay hay
Tản Đà mới nói đỏ ray ông trời
Rượu vào thơ mới ra lời
Không rượu thì chịu một lời cũng không
” St “
Chuyện cười về rượu
* Một hôm thằng rể nhậu ngà ngà về nhà vợ còn ôm theo một lít đế, đang lúc ông già vợ cũng ngồi uống Rượu suông một mình, thấy thằng rể về ông hỏi: làm gì hôm nay về còn mang rượu, có chuyện gì à!Rể: dạ con có chuyện muốn thưa với ba
Bố vợ, rót một ly và nói: Uống nói mới tin mày, lát nữa say nói hết trúng, tao không nghe đâu
Rể nốc một hơi nghe cái trót và nói: Thưa ba, cháu ngoại của ba mới là thật, chứ chưa chắc là cháu nội của ông già con.
Bố vợ: Mày nói có lý đấy, xuống bếp đi con!
Rể: Để làm gì hả ba, lấy mồi à!
Bố vợ: Xuống bếp nói với bà già vợ mày đó, vì vợ mày cũng chưa chắc con tao, cha con mình cùng "hoàn cảnh" con ạ!
Rể suy nghĩ: thôi khỏi, nói sau vậy, xin phép ba cho con uống cái vụ cùng hoàn cảnh với
Thế rồi cả hai cùng uống đến gần xỉn.
Bố vợ: lè nhè- giờ xin phép con cho ba qua một tua
Rể: Ba nói sao làm gì có chuyện uống có 2 thằng cũng đòi qua tua, ông qua tua tui cũng qua tua, rồi thằng nào uống.
Bố vợ: Êh!!! đừng ăn nói lôn xộn vô lễ nghe mày, dù sao mày lấy con gái tao, tao là ba mày nghe chưa!
Rể: Cái đó tui công nhận nhưng uống rượu thì khác, thằng nào thua phải làm con thằng thắng
Bố vợ!!!
* Chồng nhậu về đứng trước cửa nhà say đến nỗi không nhớ tên vợ, cứ gọi
“Ấy ơi, ấy ơi!”. Vợ trong nhà nghe giọng say rượu, lại không gọi rõ tên nên không thèm mở cửa. Bí quá, chàng ta rút “alô” gọi cho bố vợ:
- Alô, bố đấy à? Bố cho con hỏi vợ con nó tên gì ấy nhỉ?
- Mày làm gì mà quên cả tên vợ mày thế hả?
- Con đi uống rượu về say quá nên quên mất. Bây giờ vợ con nó không mở cửa cho vào nhà.
- Thế à? Đến tên mẹ vợ mày tao còn chẳng nhớ nữa là tên vợ mày. Đang đứng ngoài đường à? Tao cũng thế thôi!
* Khách khứa ra về hết, trong buồng chỉ còn đôi vợ chồng trẻ. Cùng nhau uống ly rượu hợp cẩn, nhìn nhau say đắm, chú rể hăng hái giục: “Thôi, ta vào việc đi em!”.
Cô dâu bẽn lẽn: “Vội thế. Còn sớm mà anh!” .
Chú rể nôn nóng: “Sớm gì nữa, 10h rồi đấy”.
Cô dâu lại bẽn lẽn: “Nhỡ ai gọi cửa thì phiền”.
Chú rể càng nôn nóng: “Không ai quấy rầy chúng mình nữa đâu. Thôi, nhanh lên em! Anh chịu không nổi rồi”.
Cô dâu rụt rè: “… Thế anh tắt đèn đi vậy. Xấu hổ lắm”.
Chú rể trố mắt: “Sao lại phải tắt đèn? Tắt đèn thì làm sao… đếm tiền
D3PLUS.COM(st)
CÂU CHUYỆN VỀ RƯỢU 6/a (tửu hậu)
(ĐC sưu tầm trên NET)
Truyện cười, câu nói, thơ hài hước về rượu bia
Tỉnh táo
Sun, 07/31/2011 - 14:42 — Trang
Vừa
xong bữa nhậu đầu năm với bạn bè, anh chồng ngất ngư đi về nhà. Để vợ
không đoán được là mình uống rượu quá mức, anh ta quyết định đi thẳng
vào phòng và ngồi đọc sách, hy vọng vợ trông thấy sẽ nghĩ là mình tỉnh
táo...Vài phút sau, cô vợ vào và hỏi:
- Anh đang làm gì vậy?
- Đọc sách.
- Vợ anh ta thét lên: Đồ điên! Đóng vali lại và ngủ đi!
Khi ra trường là bỏ rượu
Mà bỏ rượu là tợp bia
Mình chỉ uống bia hơi
Ai thảnh thơi mà tợp rượu
Ta kĩ sư tiền triệu
Phải bỏ rượu, tợp bia.
Thơ vui về rượu bia - P1
Trăm năm Kiều vẫn là Kiều
Uống Rượu say cũng là điều tất nhiên
Say rồi cũng giống thằng điên
Thế nhưng ai cũng muốn điên dài dài.
Rượu là Gạo
Rượu cũng từ gạo mà ra
Ta đây uống rượu cũng là ăn cơm
Thơ vui về rượu bia - P2
Làm trai cho đáng nên trai
Đi đâu cũng phải có vài chai trong người
Thơ vui về rượu bia - P3
Thân xác ở trong chai
Tam hồn ở ngoài chai
Muốn nên sự nghiệp lớn
Mỗi ngày phải vài chai
Thơ vui về rượu bia - P4
Quê hương anh gái đẹp rượu ngon.
Làng tôi à, bán mồi ngay cạnh đó.
Tôi với anh 2 người xa lạ.
Tự nhiên buồn, wánh lộn quen luôn !!
Chén bên chén mồi kế bên mồi.
Đêm uống chung ly thành đôi sâu rượu.
Đồng tửu !!! Ruộng nương anh gán nợ bạn cày.
Gian nhà tranh mặc kệ gió ...tung bay.
Giếng nước gốc đa nhớ người ra ... quán.
Tôi với anh biết từng cơn chuếnh choáng.
Rét co vòi , quần áo đẫm rượu tây.
Áo anh rách vai.
Quần jeans tôi xé 2 miếng.
Nụ cười buốt giá.
Chân không giày.
Thương nhau tay nắm lấy cổ chai.
Thơ vui về rượu bia - P5
Rượu làm ta say ta lại tỉnh
Ta tỉnh rồi rượu chết với ta
Thơ vui về rượu bia - P6
Mỗi năm tết có một lần
Mời em ly rượu tay nâng ngang mày
Vợ cười chưa uống đã say
Ngọt ngào thì nổi đắng cay thì chìm
Gót chân ăn vẹt bậc thềm
Quanh năm tất bật đi tìm ngày xuân
Tóc loay hoay bạc bạc dần
Mỗi năm tết có một lần thôi em.
Thơ vui về rượu bia - P7
Một xị là mở mang trí tuệ
Hai xị là giải phá cơn sầu
Ba xị có thấm tháp vào đâu
Bốn xị mới chảy mép râu
Năm xị nằm đâu ngủ đó
Sáu xị cho chó ăn chè
Bảy xị để đem về cạo gió
Thơ vui về rượu bia - P7
Một ly, nói chuyện đàng hoàng
Hai ly, nói đía, nói quàng, nói xiên
Ba ly, nói ngả nói nghiêng
Bốn ly, miệng lưỡi huyên thuyên nói xằng
Năm ly, toàn nói lăng nhăng
Sáu ly, khật khưỡng nói trăng nói trời
Bảy ly, nói lẫn khóc cười
Tám ly, nói lộn tiếng người, tiếng ma
Chín ly, nói lại nôn ra
Mười ly, chẳng biết là ta nói gì
Thơ vui về rượu bia - P8
Lỡ nhậu một hôm có làm sao?
Ăn chơi một bữa ,đến nổi nào?
Vui vẻ lấy đà cày suốt tháng...
Một ''chai'' hai ''xị'' đáng là bao ?
Không nhậu làm sao có bạn bè
Người mà không nhậu,nói ai nghe ?
Không bè,không bạn làm sao sống?
Vợ ơi thông cảm ...đừng khắt khe !
Thơ vui về rượu bia - P9
Rượu sầu mặn đắng bờ môi
Dẫu rằng uống mãi chẳng phai nỗi niềm
Sầu ai ly biệt nợ duyên
Dẫu cho uống cạn truân chuyên vẫn còn
- Anh đang làm gì vậy?
- Đọc sách.
- Vợ anh ta thét lên: Đồ điên! Đóng vali lại và ngủ đi!
Khi ra trường là bỏ rượu
Mà bỏ rượu là tợp bia
Mình chỉ uống bia hơi
Ai thảnh thơi mà tợp rượu
Ta kĩ sư tiền triệu
Phải bỏ rượu, tợp bia.
Thơ vui về rượu bia - P1
Trăm năm Kiều vẫn là Kiều
Uống Rượu say cũng là điều tất nhiên
Say rồi cũng giống thằng điên
Thế nhưng ai cũng muốn điên dài dài.
Rượu là Gạo
Rượu cũng từ gạo mà ra
Ta đây uống rượu cũng là ăn cơm
Thơ vui về rượu bia - P2
Làm trai cho đáng nên trai
Đi đâu cũng phải có vài chai trong người
Thơ vui về rượu bia - P3
Thân xác ở trong chai
Tam hồn ở ngoài chai
Muốn nên sự nghiệp lớn
Mỗi ngày phải vài chai
Thơ vui về rượu bia - P4
Quê hương anh gái đẹp rượu ngon.
Làng tôi à, bán mồi ngay cạnh đó.
Tôi với anh 2 người xa lạ.
Tự nhiên buồn, wánh lộn quen luôn !!
Chén bên chén mồi kế bên mồi.
Đêm uống chung ly thành đôi sâu rượu.
Đồng tửu !!! Ruộng nương anh gán nợ bạn cày.
Gian nhà tranh mặc kệ gió ...tung bay.
Giếng nước gốc đa nhớ người ra ... quán.
Tôi với anh biết từng cơn chuếnh choáng.
Rét co vòi , quần áo đẫm rượu tây.
Áo anh rách vai.
Quần jeans tôi xé 2 miếng.
Nụ cười buốt giá.
Chân không giày.
Thương nhau tay nắm lấy cổ chai.
Thơ vui về rượu bia - P5
Rượu làm ta say ta lại tỉnh
Ta tỉnh rồi rượu chết với ta
Thơ vui về rượu bia - P6
Mỗi năm tết có một lần
Mời em ly rượu tay nâng ngang mày
Vợ cười chưa uống đã say
Ngọt ngào thì nổi đắng cay thì chìm
Gót chân ăn vẹt bậc thềm
Quanh năm tất bật đi tìm ngày xuân
Tóc loay hoay bạc bạc dần
Mỗi năm tết có một lần thôi em.
Thơ vui về rượu bia - P7
Một xị là mở mang trí tuệ
Hai xị là giải phá cơn sầu
Ba xị có thấm tháp vào đâu
Bốn xị mới chảy mép râu
Năm xị nằm đâu ngủ đó
Sáu xị cho chó ăn chè
Bảy xị để đem về cạo gió
Thơ vui về rượu bia - P7
Một ly, nói chuyện đàng hoàng
Hai ly, nói đía, nói quàng, nói xiên
Ba ly, nói ngả nói nghiêng
Bốn ly, miệng lưỡi huyên thuyên nói xằng
Năm ly, toàn nói lăng nhăng
Sáu ly, khật khưỡng nói trăng nói trời
Bảy ly, nói lẫn khóc cười
Tám ly, nói lộn tiếng người, tiếng ma
Chín ly, nói lại nôn ra
Mười ly, chẳng biết là ta nói gì
Thơ vui về rượu bia - P8
Lỡ nhậu một hôm có làm sao?
Ăn chơi một bữa ,đến nổi nào?
Vui vẻ lấy đà cày suốt tháng...
Một ''chai'' hai ''xị'' đáng là bao ?
Không nhậu làm sao có bạn bè
Người mà không nhậu,nói ai nghe ?
Không bè,không bạn làm sao sống?
Vợ ơi thông cảm ...đừng khắt khe !
Thơ vui về rượu bia - P9
Rượu sầu mặn đắng bờ môi
Dẫu rằng uống mãi chẳng phai nỗi niềm
Sầu ai ly biệt nợ duyên
Dẫu cho uống cạn truân chuyên vẫn còn
Truyện cười, câu nói, thơ hài hước về rượu bia
1. Rượu và người
- Người cầm chiếc li lắc lư trong tay run vì say rượu, bạn biết họ uống cái gì không ? Họ uống nước mắt, máu huyết, đời sống của vợ con họ đấy.
- Sóng nước mắt người đàn bà đẹp bao giờ cũng có tác dụng như một ly rượu ngon mà người đàn ông là kẻ bợm rượu
- Còn bạc còn tiền còn đệ tử, hết cơm hết rượu hết ông tôi
- Người chết đuối trong ly rượu đông hơn người chết đuối dưới sông
2. Thơ về rượu
Một trà, một rượu, một đàn bà
Ba cái lăng nhăng nó quậy ta
Chừa được cái gì hay cái nấy
Có chăng chừa rượu với chừa trà .
Tay cầm bầu rượu nắm nem
Màng vui quên hết lời em dặn dò
Còn trời còn nước còn non
Còn cô bán rượu anh còn say sưa .
Tay tiên rót chén rượu đào
Đổ đi thì tiếc uống vào thì say
3. Tục ngữ về rượu
Nam vô tửu như kỳ vô phong (Đàn ông không rượu như cờ không gió)
Tửu nhập tâm như hổ nhập lâm (Rượu vào lòng như cọp vào rừng)
Tửu nhập ngôn xuất (Rượu vào lời ra)
4. Rựợu bất tử
Vua Ngũ Đế ở thời nhà Hán có lần được biếu một bình rượu bất tử. Một quan đại thần đã uống trộm một ít. Nhà vua bắt được và nổi giận sai lính đem đại thần đi chém đầu. Nhưng viên quan đại thần liền nói:
- Muôn tâu bệ hạ, thứ rượu mà kẻ hạ thần uống là thứ rượu bất tử. Bởi vậy không thể giết được kẻ đại thần. Còn nếu như thần bị giết chết thì đó sẽ là bằng chứng nói lên rằng thứ rượu bất tử này là rượu rởm.
5. Ngạn ngữ về rượu
Ngạn ngữ Anh: Rượu là kẻ phản bội: trước là bạn sau là thù
Ngạn ngữ Hy Lạp: Trong rượu có sự thật
Ngạn ngữ Hung Ga Ri: Điên, nghèo và say rượu, ba thứ này chẳng có thứ khăn nào che được
Ngạn ngữ An Độ: Hãy đứng xa con voi bảy bước, cách con trâu mười bước và cách thằng say ba mươi bước
Ngạn ngữ Tây Ban Nha: Thêm nước vào rượu, ta làm hư rượu, không thêm nước vào rượu, ta làm hư ta.
Ngạn ngữ Nhật Bản:
Chén rượu thứ nhất: Người uống rượu
Chén rượu thứ hai: Rượu uống rượu
Chén rượu thứ ba: Rượu uống người
Kẻ uống, không biết tác hại của rượu, người không uống, chẳng biết cái lợi của rượu.
Ngạn ngữ Nga: Đối với người say rượu, nước biển chỉ cao tới đầu gối
Ngạn ngữ Thổ Nhĩ Kỳ: Rượu ngon và gái đẹp là hai thứ thuốc độc hoà hợp với nhau.
6. Rượu vang dở (kém chất lượng)
Hai anh bạn ngồi tâm sự, anh này hỏi anh kia:
- Này cậu, cậu có thấy một số nhà văn bình thường đã trở thành nhà phê bình nổi tiếng không ?
Anh kia đáp:
- Đúng đấy! Tớ có biết chuyện đó. Theo tớ điều đó là bình thường vì đôi khi rượu vang dở, kém chất lượng lại làm được thành dấm rất ngon.
7. Rượu làm bay hơi nhân cách
Trong lớp học môn hoá học, thầy giáo hỏi một học trò:
- Em hãy cho thầy biết tính chất hoá học của rượu êtylic?
Học trò đáp:
- Thưa thầy! Rượu là một chất không màu, nhưng làm đỏ mặt người. Nó không tự cháy nhưng làm cháy túi tiền, khi tác dụng với món “mộc tồn” (thịt chó) tạo chất hung hăng và làm bay hơi nhân cách ạ.
8. Điều cần biết về rượu
Trong lớp bồi dưỡng các học viên tư vấn hôn nhân gia đình, thầy giáo nói về tác hại của rượu:
- Các anh nên nhớ, rượu là nguyên nhân dẫn đến sự chia ly của biết bao cặp vợ chồng....
Một học viên hỏi:
- Thưa thầy ! Xin thầy cho biết cụ thể hơn, rằng cần phải uống bao nhiêu rượu để có được sự chia ly này !
9. Đố vui
Trong buổi liên hoan cuối năm của một cơ quan nọ, có tiết mục "đố vui", một anh chàng nhận được câu hỏi:
"Anh hãy kể tên những chất có trong những sản phẩm gây kích thích làm cho con người ta có cảm giác từ khoái phát triển thành nghiện. Anh hãy liên hệ với câu thơ của Tú Xương nói về tác hại của trà, rượu... ".
Anh chàng suy nghĩ một lúc rồi trả lời:
- Những chất có trong những sản phẩm gây kích thích làm cho con người ta có cảm giác từ khoái phát triển thành nghiện đó là: chất Andehit có trong rượu, nicotin có trong thuốc lá, tanin có trong chè (trà), cafein có trong cà phê, heroin và mocfin có trong thuốc phiện...
- Câu thơ của Tú Xương nói về tác hại của trà, rượu ... là:
"Một trà một rượu, một đàn bàBa cái lăng nhăng nó hại ta
Trừ được thứ nào hay thứ đó
Họa chăng chỉ trừ được rượu và trà"
Cả hội trường vỗ tay rào rào vì câu trả lời đúng và hay quá... Chàng trai được Ban tổ chức thưởng cho một chiếc áo sơ mi rất đẹp.
Phạm Đình Điểu (Sưu tầm và biên soạn)
Thứ Hai, 27 tháng 1, 2014
Michelangelo
(ĐC sưu tầm trên NET)
Michelangelo di Lodovico Buonarroti Simoni[1] (6 tháng 3 năm 1475 – 18 tháng 2 năm 1564), thường được gọi là Michelangelo, là một hoạ sĩ, nhà điêu khắc, kiến trúc sư, nhà thơ và kỹ sư thời kỳ Phục hưng Ý.
Dù ít có những đột phá bên ngoài nghệ thuật, sự uyên bác của ông trong
các lĩnh vực đạt tới tầm mức khiến ông được coi là một người xứng đáng
với danh hiệu nhân vật thời Phục hưng, cùng với đối thủ cũng là người bạn là Leonardo da Vinci.
Khả năng sáng tạo của Michelangelo trong mọi lĩnh vực ông tham gia trong suốt cuộc đời dài của mình rất phi thường; khi tính cả các thư từ, phác thảo, ký sự còn lại, ông là nghệ sĩ được ghi chép đầy đủ nhất về cuộc đời ở thế kỷ 16. Hai trong số các tác phẩm nổi tiếng nhất của ông Đức Mẹ Sầu Bi và Vua David, được thực hiện trước khi ông sang tuổi 30. Dù ông không được đánh giá nhiều trong hội hoạ, Michelangelo cũng đã tạo ra hai trong các tác phẩm có ảnh hưởng lớn nhất thuộc thể loại bích hoạ trong lịch sử Nghệ thuật phương Tây: Cảnh Thiên Chúa sáng thế trên trần Nhà nguyện Sistine và Sự phán xét cuối cùng trên bức tường bệ án thờ Nhà nguyện Sistine ở Roma. Là một kiến trúc sư, Michelangelo là người tiên phong trong phong cách Mannerist tại Thư viện Laurentian. Ở tuổi 74, ông kế tục Antonio da Sangallo Trẻ trở thành kiến trúc sư của Vương cung thánh đường Thánh Phêrô. Michelangelo đã thay đổi đồ án, góc phía tây được hoàn thiện theo thiết kế của Michelangelo, mái vòm được hoàn thành sau khi ông mất với một số sửa đổi.
Một ví dụ khác về vị trí độc nhất của Michelangelo: ông là nghệ sĩ phương Tây đầu tiên có tiểu sử được xuất bản khi đang còn sống.[2] Hai cuốn tiểu sử đã được xuất bản trong khi ông đang sống; một trong số đó bởi Giorgio Vasari, cho rằng ông là động cơ của mọi thành tựu nghệ thuật từ khi bắt đầu thời kỳ Phục hưng, một quan điểm vẫn tiếp tục được ủng hộ trong lịch sử nghệ thuật trong nhiều thế kỷ. Trong đời mình, ông cũng thường được gọi là Il Divino ("người siêu phàm").[3] Một trong những phẩm chất của ông được những người đương thời ngưỡng mộ nhất là terribilità, một cảm giác kính sợ trước sự vĩ đại, và các nỗ lực của những nghệ sĩ thời sau học theo phong cách say mê và rất cá nhân của ông đã dẫn tới Mannerism, phong trào lớn tiếp sau trong nghệ thuật phương Tây sau thời Đỉnh cao Phục hưng.
Khi mới là một chú bé, cha của Michelangelo đã gửi ông theo học văn phạm tới người theo chủ nghĩa nhân đạo là Francesco da Urbino in Florence.[4][7][b] Tuy nhiên, nhà nghệ sĩ nhỏ không thể hiện sự quan tâm tới trường học, mà thích copy lại các bức tranh từ các nhà thờ và tìm kiếm những người bạn có cùng sở thích hội hoạ.[7] Lúc mười ba tuổi, Michelangelo được nhận vào học việc với hoạ sĩ Domenico Ghirlandaio.[1][8] Khi Michelangelo 14 tuổi, cha ông thuyết phục Ghirlandaio trả tiền học việc ở mức một nghệ sĩ cho ông, đây là một điều rất hiếm ở thời kỳ đó.[9] Khi vào năm 1489 Lorenzo de' Medici, nhà cai trị trên thực tế của Florence, yêu cầu Ghirlandaio những đồ đệ xuất sắc nhất của ông, Ghirlandaio đã gửi Michelangelo và Francesco Granacci.[10] Từ năm 1490 tới năm 1492, Michelangelo tham gia hội Nhân văn mà Medici đã lập ra cùng với các quy tắc Tân Platon. Michelangelo học điêu khắc với Bertoldo di Giovanni. Tại học viện, cả quan điểm và nghệ thuật của Michelangelo đều bị ảnh hưởng bởi các nhà triết học và tác gia nổi tiếng nhất thời ấy gồm Marsilio Ficino, Pico della Mirandola và Angelo Poliziano.[11] Khi ấy Michelangelo đã thực hiện các bức phù điêu nổi thấp Madonna of the Steps (1490–1492) và Battle of the Centaurs (1491–1492). Tác phẩm sau này dựa trên một chủ đề do Poliziano đề nghị và do Lorenzo de Medici đặt hàng.[12] Khi cả hai đều đang tập việc với Bertoldo di Giovanni, Pietro Torrigiano đấm vào mũi người bạn 17 tuổi của mình, và vì thế gây ra một sự biến dạng rất dễ thấy trên mọi bức chân dung Michelangelo.[13]
Cùng năm ấy, nhà Medici bị trục xuất khỏi Florence vì sự nổi lên của nhà Savonarola. Michelangelo rời thành phố trước khi quyền lực chính trị thay đổi, đi tới Venice và sau đó tới Bologna.[14] Tại Bologna ông được đặt hàng hoàn thành việc tạc những nhân vật nhỏ cuối cùng tại Điện thờ thánh Dominic, trong nhà thờ dành cho vị thánh này. Tới cuối năm 1494, tình hình chính trị tại Florence lắng dịu hơn. Tuy nhiên thành phố, trước kia nằm dưới sự đe doạ từ phía Pháp, không còn là một nơi nguy hiểm nữa khi Charles VIII bị đánh bại. Michelangelo quay trở lại Florence nhưng không nhận được đơn hàng nào từ chính phủ mới của thành phố thuộc nhà Savonarola. Ông quay lại làm việc cho nhà Medici.[16] Trong nửa năm ở tại Florence ông thực hiện hai bức tượng nhỏ một Thánh John Người rửa tội trẻ em và một tượng Cupid ngủ. Theo Condivi, Lorenzo di Pierfrancesco de' Medici, người mà Michelangelo thực hiện tượng Thánh John Người rửa tội cho, đã yêu cầu rằng Michelangelo "làm sao để nó trông giống như đã bị chôn lấp" để ông ta có thể "gửi nó tới Rome…tiêu thụ [nó đi] như một tác phẩm nghệ thuật cổ và…bán dễ hơn." Cả Lorenzo và Michelangelo đều không biết về việc lừa dối về giá trị thực của bức tượng bởi một người trung gain. Hồng y Raffaele Riario, người mua bức tượng từ Lorenzo, phát hiện ra rằng nó là đồ giả, nhưng thấy ấn tượng với giá trị điêu khắc tới mức ông đã mời nghệ sĩ tới Rome.[17] [d] Thành công rõ ràng này trong việc bán tác phẩm điêu khắc của ông ở nước ngoài cũng như tình hình thận trọng tại Florentine có thể đã khuyến khích Michelangelo chấp nhận lời mời.[16]
Tháng 11 năm 1497, đại sứ Pháp tại Toà Thánh đặt hàng một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của ông, tác phẩm điêu khắc Pietà và hợp đồng được đồng ý vào tháng 8 năm sau đó. Ý kiến thời ấy về tác phẩm này — "một sự phát lộ mọi tiềm năng và xung lực của nghệ thuật điêu khắc" — đã được tóm tắt bởi Vasari: "Chắn chắn đó là một điều thần diệu mà một khối đá có thể được tạc thành một sự hoàn hảo mà thiên nhiên không thể tạo ra trong đó." (It is certainly a miracle that a formless block of stone could ever have been reduced to a perfection that nature is scarcely able to create in the flesh)
Tại Rome, Michelangelo sống gần nhà thờ Santa Maria di Loreto. Ở đây, theo truyền thuyết, ông yêu Vittoria Colonna, nữ hầu tước Pescara và cũng là một nhà thơ.[cần dẫn nguồn] Căn nhà của ông bị phá huỷ năm 1874, và các yếu tố kiến trúc còn lại được những người chủ mới giữ lại đã bị phá huỷ năm 1930. Ngày nay một bản sao phục dựng hiện đại ngôi nhà của Michelangelo có thể được thấy trên đồi Gianicolo. Cũng trong giai đoạn này có những hoài nghi phát sinh khi Michelangelo thực hiện tác phẩm điêu khắc Laocoön và các con trai tại Vatican[19].
Cũng trong giai đoạn này, Michelangelo vẽ bức tranh Holy Family and St John, cũng được gọi là Doni Tondo hay Holy Family of the Tribune: nó được đặt hàng cho hôn lễ của Angelo Doni và Maddalena Strozzi và vào thế kỷ 17 được treo trong căn phòng gọi là Tribune ở Uffizi. Ông cũng có thể đã vẽ bức Madonna and Child with John the Baptist, được gọi là Manchester Madonna và hiện ở tại National Gallery, London.
Cũng trong giai đoạn này, Michelangelo nhận yêu cầu vẽ trần Nhà nguyện Sistine, mất gần bốn năm để hoàn thành (1508–1512). Theo lời kể của Michelangelo, Bramante và Raphael đã thuyết phục Giáo hoàng đặt hàng Michelangelo thực hiện một lĩnh vực ông không mấy quen thuộc. Điều này để Michelangelo sẽ gặp phải những so sánh bất lợi với đối thủ là Raphael, người khi ấy đang ở đỉnh cao sự nghiệp với tư cách nghệ sĩ sáng tác tranh tường. Tuy nhiên, câu chuyện này bị nhiều nhà sử học hiện đại bác bỏ với những bằng chứng ở thời điểm đó, và có thể chỉ đơn giản là một sự phản ánh quan điểm riêng của nghệ sĩ.
Michelangelo ban đầu được đặt hàng vẽ 12 Thánh tông đồ trên một nền cảnh bầu trời sao, nhưng hai bên có những hình ảnh phối hợp khác biệt và phức tạp, thể hiện sự thành tạo thế gới, Sự suy đồi của Con người và Lời hứa Cứu rỗi thông qua các nhà tiên tri và Bảng phả hệ của Chúa Jesus. Tác phẩm là một phần của một bối cảnh trang trí lớn hơn bên trong nhà nguyện thể hiện đa phần học thuyết của Nhà thờ Cơ đốc giáo.
Cuối cùng bố cục có hơn 300 nhân vật và có chín tình tiết trung tâm từ Sách Khải huyền, được chia thành ba nhóm: Sự sáng tạo Thế giới của Chúa; Chúa tạo ra Loài người và việc họ mất ân huệ của Chúa; và cuối cùng, tình trạng của nhân loại như được thể hiện bởi Noah và gia đình ông. Trên các vòm tam giác đỡ mái được vẽ mười hai người đàn ông và phụ nữ đã tiên đoán sự xuất hiện của Chúa Jesus. Họ gồm bảy nhà tiên tri Israel và năm Bà đồng, các phụ nữ tiên tri của Thế giới Cổ đại.
Trong số những bức hoạ nổi tiếng nhất trên trần có Chúa tạo ra Adam, Adam và Eve trong Vườn địa đàng, Đại hồng thuỷ, nhà tiên tri Isaiah và Bà đồng Cumaean. Quanh các cửa sổ được vẽ các tổ tiên của Chúa Jesus.
Rõ ràng không bực tức với sự việc này, nhà Medici sau đó quay lại với Michelangelo với một đề xuất lớn khác, lần này là một nhà nguyện trong nghĩa trang gia đình tại La Mã pháp đình San Lorenzo. May mắn cho các thế hệ tiếp sau, dự án này, chiếm hầu hết thời gian của người nghệ sĩ trong thập niên 1520 và 1530, được thực hiện đầy đủ. Dù vẫn chưa hoàn thành, nó là ví dụ tốt nhất về sự tích hợp tầm nhìn về điêu khắc và kiến trúc của nghệ sĩ, bởi Michelangelo đã tạo ra cả những tác phẩm điêu khắc chính và sơ đồ nội thất. Trớ trêu thay, những hầm mộ nổi bật nhất là những hầm mộ của hai thành viên gia đình Medici chết trẻ, một người con trai và một người cháu trai của Lorenzo. Chính Il Magnifico được chôn trong một hầm mộ chưa được hoàn thành và hoàn toàn không đáng chú ý ở một trong những bức tường bên của nhà nguyện, không có được một đài kỷ niệm nhỏ, như dự định ban đầu.
Năm 1527, các công dân Florentine, được khuyến khích bởi vụ cướp bóc Rome, lật đổ gia đình Medici và tái lập nền cộng hoà. Một cuộc phong toả thành phố diễn ra sau đó, và Michelangelo phục vụ cho thành phố Florence yêu quý của mình bằng cách làm việc tại các pháo đài của nó từ năm 1528 đến năm 1529. Thành phố sụp đổ năm 1530 và nhà Medici được tái lập quyền lực. Hoàn toàn không có thiện cảm với chế độ cai trị đàn áp của công tước Medici, Michelangelo rời Florence giữa thập niên 1530, chỉ để lại các phụ tá để hoàn thiện nhà nguyện Medici. Nhiều năm sau thi hài ông được mang trở lại từ Rome để mai táng tại Basilica di Santa Croce, thực hiện ước nguyện cuối cùng của người nghệ sĩ được chôn cất tại thành phố Tuscany ông yêu quý.
Khi hoàn thành, những sự thể hiện những người khoả thân trong nhà nguyện của Giáo hoàng bị coi là tục tĩu và báng bổ, và Hồng y Carafa và Monsignor Sernini (đại sứ của Mantua) đã kêu gọi kiểm duyệt và xoá bỏ bức tranh, nhưng Giáo hoàng phản đối. Sau khi Michelangelo chết, mọi người quyết định che đi các bộ phận sinh dục ("Pictura in Cappella Ap.ca coopriantur"). Vì vậy Daniele da Volterra, một học trò của Michelangelo, được trao trách nhiệm che chúng đi, phần thân thể được giữ nguyên. Khi tác phẩm được phục chế năm 1993, những nhà bảo tồn quyết định không loại bỏ tất cả các perizoma của Daniele, để lại một số chúng như một tài liệu lịch sử, và bởi một số công việc của Michelangelo trước đó đã bị loại bỏ bởi các nghệ sĩ sửa sang lại cho “lịch sự” cho kiệt tác. Một bản copy trung thành với bản gốc không bị kiểm duyệt, của Marcello Venusti, có thể được thấy tại Bảo tàng Capodimonte ở Naples.
Sự kiểm duyệt luôn đi cùng Michelangelo, từng được miêu tả là "inventor delle porcherie" ("nhà phát minh những sự tục tĩu", trong tiếng Italia nguyên gốc chỉ "những thứ bẩn thỉu"). "Chiến dịch lá sung" đáng hổ thẹn của Phản Cải cách, nhắm tới việc che phủ mọi sự thể hiện các bộ phận sinh dục của con người trong các tác phẩm hội hoạ và điêu khắc, bắt đầu với các tác phẩm của Michelangelo. Hai ví dụ, bức tượng đá mable Cristo della Minerva (nhà thờ Santa Maria sopra Minerva, Rome) được che đi bằng cách cho thêm một tấp drap, như nó vẫn hiện diện ngày nay, và tượng Jesus cởi truồng khi vẫn còn là một đứa trẻ Madonna of Bruges (Church of Our Lady tại Bruges, Bỉ) bị che phủ đi trong nhiều thập kỷ. Tương tự, bản copy thạch cao của tượng David tại Cast Courts (Bảo tàng Victoria và Albert) ở London, có một lá sung trong một cái hộp phía sau lưng bức tượng. Nó ở đó để được đặt lên các bộ phận sinh dục của tượng để nó sẽ không làm phiền những nữ khách hoàng gia viếng thăm.
Năm 1546, Michelangelo được chỉ định làm kiến trúc sư Vương cung thánh đường Thánh Peter tại Vatican, và thiết kế mái vòm của nó. Khi công trình tiến triển có lo ngại rằng Michelangelo sẽ qua đời trước khi mái vòm được hoàn thành. Tuy nhiên, khi công trình bắt đầu tới phần thấp của mái vòm, vòng đỡ, thiết kế đã hoàn thành.
Nhiều giai thoại nói về tài năng của Michelangelo, đặc biệt trong điêu khắc, rất được tôn sùng ở thời đại ông. Một Lorenzo de Medici khác muốn sử dụng Michelangelo để kiếm ít tiền. Ông đặt hàng Michelangelo tạc một tượng Cupid trông có vẻ mòn và cổ. Lorenzo trả Michelangelo 30 ducat, nhưng bán bức tượng với giá 200 ducat. Hồng y Raffaele Riario nghi ngờ và cử một người đi điều tra. Người này đặt Michelangelo thực hiện một phác hoạ Cupid cho ông, và sau đó nói với Michelangelo rằng trong khi ông chỉ nhận được 30 ducat, Lorenzo đã bán lại tượng Cupid với giá trị của một đồ cổ và kiếm 200 ducat. Michelangelo sau đó xác nhận rằng ông đã tạc tượng Cupid, nhưng không hề nghĩ rằng mình đã bị lừa. Sau khi sự thật bị khám phá, Hồng y sau này coi đó làm bằng chứng về khả năng của ông và đặt ông thực hiện tác phẩm Bacchus. Một giai thoại được biết đến nhiều khác cho rằng khi hoàn thành the Moses (San Pietro tại Vincoli, Rome), Michelangelo đã đập mạnh búa vào đầu gối của tượng, kêu lên, "Sao mày không nói chuyện với tao?"[cần dẫn nguồn]
Trong đời sống cá nhân, Michelangelo rất đạm bạc. Ông nói với người học việc của mình là Ascanio Condivi: "Dù tôi có thể giàu có thế nào nữa, tôi đã luôn sống như một người nghèo khổ."[21] Condivi nói ông không thích thức ăn và đồ uống, ăn "vì cần thiết hơn là vì niềm vui"[21] và rằng ông "thường ngủ trong đám quần áo và... giày của mình."[21] Những thói quen đó có thể đã khiến ông không được ưa thích. Người viết tiểu sử ông Paolo Giovio nói, "Bản chất của ông quá mạnh mẽ và vụng về khiến các thói quen ở gia đình của ông rất bần tiện, and deprived posterity of any pupils who might have followed him."[22] Có thể ông không chủ tâm, bởi theo bản chất ông là một người cô độc và u sầu. Ông có một danh tiếng về bizzarro e fantastico bởi ông "rút mình khỏi tình bằng hữu của loài người." [23]
Những sự thể hiện của nhà điêu khắc về tình yêu đã được đặc trưng hoá như là cả Tân Platonic và đồng tính; giới học giả gần đây tìm kiếm một sự giải thích tôn trọng cả hai điều đó, tuy nhiên vẫn thận trọng trong việc đưa ra những kết luận tuyệt đối.[cần dẫn nguồn] Một ví dụ về vấn đề là Cecchino dei Bracci, cái chết của người này, chỉ một năm sau khi họ gặp năm 1543, đã gây cảm hứng cho việc viết 48 bài thơ trào phúng tang lễ, mà theo một số lời kể ám chỉ tới một mối quan hệ không chỉ lãng mạn mà cả về thể xác:
Sự thể hiện bằng chữ lớn nhất về tình yêu của ông được trao cho Tommaso dei Cavalieri (khoảng 1509–1587), người 23 tuổi khi Michelangelo gặp anh ta năm 1532, ở tuổi 57. Cavalieri rộng mở với sự yêu mến của ông già: Tôi thề sẽ đáp trả tình yêu của ông. Chưa bao giờ tôi yêu quý một người đàn ông nào như tôi yêu ông, chưa bao giờ tôi ước muốn một tình bạn như tôi muốn có với ông. Cavalieri vẫn trung thành với Michelangelo cho tới khi ông mất.
Michelangelo đã dành tặng cho anh ta ba trăm bài sonnet và thơ trữ tình, là tập hợp những bài thơ lớn nhất của ông. Một số nhà bình luận hiện đại cho rằng mối quan hệ đơn giản chỉ là một cảm giác yêu mến kiểu Platon, thậm chí cho rằng Michelangelo tìm kiếm một người con trai đại diện.[27] Tuy nhiên, tình trạng đồng tính của họ đã được ghi nhận từ thời ấy, vì thế một sự che đậy đoan trang đã được dựng lên giữa họ bởi cháu họ của ông, Michelangelo Trẻ, người xuất bản một tập thơ năm 1623 với các đại từ chỉ giới đã được thay đổi. John Addington Symonds, nhà hoạt động đồng tính từ thời kỳ đầu của Anh, đã đảo ngược sự thay đổi này bằng cách dịch các bài sonnet nguyên bản sang tiếng Anh và viết một cuốn tiểu sử hai tập, xuất bản năm 1893.
Các bài sonnet là tập thơ lớn đầu tiên ở mọi ngôn ngữ hiện đại được một người đàn ông đề tặng cho một người đàn ông khác, trước cả những bài sonnet của Shakespeare gửi cho người bạn trẻ của ông với khoảng cách 50 tuổi.
Cuối đời mình ông nuôi dưỡng một tình yêu lớn với nhà thơ và là một người đàn bà quý tộc goá là Vittoria Colonna,
người ông gặp tại Rome năm 1536 hay 1538 người khi ấy đang ở độ tuổi
gần 50. Họ đã viết các bài sonnet cho nhau và thường xuyên liên lạc tới
khi bà mất.
Không thể hiểu chắc liệu Michelangelo có các quan hệ thể xác (Condivi được gán cho ông một "kẻ trinh bạch như nhà sư"),[28] nhưng qua thơ và nghệ thuật của ông chúng ta ít nhất có thể thoáng hiểu phạm vi tưởng tượng của ông.[29]
Bộ phim năm 1965 The Agony and the Ecstasy đề cập tới câu chuyện của Michelangelo và công việc sáng tác hội hoạ của ông tại Nhà nguyện Sistine. Ông được thể hiện trong phim bởi Charlton Heston.
'Phải chăng tác phẩm "Ranh giới giữa Ánh Sáng và Bóng Đêm" chính là lời minh chứng cho sự xung đột kéo dài hàng thập kỉ giữa khoa học và tôn giáo?...'
Tiến sĩ Douglas bổ sung thêm: "Có lẽ ý nghĩa của Nhà nguyện Sistine không chỉ đơn giản là sự ban phát trí tuệ của Chúa cho Adam mà còn để thể hiện lí tưởng có thể được liên hệ trực tiếp với Người mà không phải thông qua Giáo Hội'.
Michelangelo với tuyệt tác trên vòm nhà nguyện Sistine
Chúng ta
hầu như ai cũng thấy loáng thoáng đâu đó hình ảnh vòm nhà nguyện với
những hình vẽ đẹp tuyệt trần và vô cùng hoành tráng này. Nhưng có lẽ, ít
người biết, đây là tác phẩm của chỉ một Michelangelo (1475-1564), người
được biết đến như một trong ba (1) người “khổng lồ” của thời đại Phục Hưng.(2)
Dưới đây, tôi xin lược trích bài của sử gia nghệ thuật E.H. Gombrich trong sách “The story of Art”
giới thiệu đôi nét về Michelangelo và tuyệt tác hội họa của ông trên
vòm nhà nguyện Sistine ở Rome này-một tác phẩm vĩ đại và có tầm ảnh
hưởng lớn không chỉ trong lịch sử nghệ thuật Công Giáo.
Nguyên Hưng
“Michelangelo theo học trong xưởng
họa của Ghirlandaio. Tuy nhiên, cậu không theo phong cách dễ dãi của
thầy mình. Cậu có quan niệm nghệ thuật riêng, và hứng thú nghiên cứu tác
phẩm của các bậc thầy đi trước như Giotto, Masaccio, Donatello và
những điêu khắc gia Hy Lạp trong bộ sưu tập của nhà Medici.”
”Cậu cố gắng thâm nhập vào những bí
thuật của các điêu khắc gia cổ đại, những người biết cách miêu tả vẻ đẹp
cơ thể đẹp đẽ của con người khi chuyển động, với tất cả cơ bắp và gân
cốt của nó. Giống Leonardo, cậu không hài lòng với việc học hỏi các định
luật của cơ thể học một cách gián tiếp từ nghệ thuật cổ xưa. Cậu thực
hiện cho riêng mình những nghiên cứu về cơ thể học, mổ xẻ xác người, và
học hỏi từ các người mẫu, cho tới khi thân thể con người không còn gì là
bí mật đối với cậu. Nhưng, khác với Leonardo coi con người chỉ là một
trong nhiều câu đố hấp dẫn của thiên nhiên, Michelangelo phấn đấu chỉ
với một mục đích là thấu hiểu chỉ một vấn đề này, và thấu hiểu toàn
diện. Sức tập trung và trí nhớ của cậu xuất chúng đến nỗi chẳng mấy chốc
không còn môt tư thế nào hay một chuyển động nào là khó vẽ đối với cậu.
Khó khăn như chỉ càng thu hút cậu. Những dáng điệu hay góc cạnh có thể
khiến nhiều họa sĩ nổi danh thế kỷ muời lăm ngần ngại không muốn đưa vào
tranh của mình vì sơ không diễn tả chúng cho đủ thuyêt phục, lại chỉ có
tác dụng kích thích tham vọng nghệ thuật của cậu, và không bao lâu
người ta đồn rằng chàng nghệ sĩ trẻ này không chỉ sánh ngang các bậc
thầy tài danh thời cổ điển mà thực sự còn tài giỏi hơn họ…”
”Nói chung là vào lúc ba mươi tuổi,
Michelangelo đã được công nhận là một bậc thầy xuất chúng của thời ấy,
sánh ngang thiên tài Leonardo theo cách riêng của ông”
”Đức Giáo Hoàng Julius II muốn chàng
tớiRomeđể xây cho Ngài một ngôi mộ xứng với địa vị người cầm quyền tối
cao của thế giới Kitô Giáo. [...] Được Giáo Hoàng cho phép, chàng lập
tức tìm tới những mỏ đá cẩm thạch nổi tiếng nhất ở Carraca để tuyển lựa
những tảng đá dùng cho một lăng mộ khổng lồ. Chàng nghệ sĩ trẻ choáng
ngợp trước hình dạng của những khối đá cẩm thạch này, chúng như đang chờ
chiếc đục của chàng biến chúng thành những bức tượng mà thế giới chưa
bao giờ được thấy. Chàng ở lại các mỏ đá hơn sáu tháng, mua, chọn và
loại bỏ, tâm trí sôi sục những hình ảnh. Chàng muốn phóng thích các nhân
vật ra khỏi những tảng đá, nơi chúng đang yên ngủ. Nhưng khi trở về và
bắt tay vào việc, chàng sớm nhận ra rằng nhiệt tình của vị Giáo Hoàng
đối với công trình vĩ đại này đã ra nguội lạnh. Ngày nay ta biết một
trong những lý do khiến Đức Giáo Hoành lúng túng là dự án xây mồ của
Ngài đã đụng chạm tới một dự án khác còn thiết thân hơn trong tâm tư
Ngài: dự án xây một đền thờ Thánh Peter mới. Vì ngôi mộ lúc đầu được dự
tính sẽ đặt trong ngôi đền thờ cũ, và nếu đền thờ này bị dỡ bỏ, thì ngôi
mộ kia sẽ đặt ở đâu? Michelangelo trong cơn bất mãn tràn bờ, đã tưởng
tượng những lý do khác. Chàng ngửi thấy một âm mưu, và còn sợ rằng các
đối thủ của chàng, nhất là Bramante, kiến trúc sư của ngôi đền Thánh
Peter mới, muốn đầu độc chàng. Trong một cơn sợ hãi và cuồng nộ, chàng
bỏRomevềFlorence, và viết cho Đức Giáo Hoàng một lá thư với những lời lẽ
nặng nề, nói rằng nếu Ngài cần chàng thì cứ đi mà tìm…”
“Điều đáng ghi nhận ở đây là Đức Giáo
Hoàng đã không hề nổi giận, nhưng bắt đầu một cuộc thương lượng chính
thức với người đứng đầu thành Florence để thuyết phục chàng nghệ sĩ điêu
khắc trẻ trở lại. Tất cả những người quan tâm đều như đồng ý rằng mọi
di chuyển và dự định của chàng cũng quan trọng ngang với những vấn đề
khó khăn của nhà nướcFlorence. thậm chí ngườiFlorencecòn sợ rằng Giáo
Hoàng sẽ trở mặt nếu họ tiếp tục chứa chấp chàng. Do đó người lãnh đạo
thành Florence khuyên chàng trở lại phục vụ Đức Julius II, và viết một
lá thư tiến dẫn chàng, nói rằng nghệ thuật của chàng là khôn sánh trong
khắp nước Ý, thậm chí có thể khắp thế giới, và nếu được đối xử nhân hậu,
“chàng sẽ làm nên những điều khiến cả thế giới phải kinh ngạc”. Lá thư
ngoại giao này đã nói lên sự thật. Khi trở lạiRome, Đức Giáo Hoàng
thuyết phục chàng nhận một công việc khác. Có một tiểu nguyện đường
trong điện Vatican do Đức Giáo Hoàng Sixtus IV xây cất, và do đó được
gọi là nguyện đường Sistine. Các bức tường của nguyện đường này đã được
trang hoàng bởi những họa sĩ nổi tiếng của thế hệ trước, bởi
Botticenlli, Ghirlandaio và những người khác. Nhưng vòm trần vẫn còn
trống. Đức Thánh Cha đề nghị Michelangelo trang trí nó. Chàng làm hết
cách để thoái thác nhiệm vụ này. Chàng bảo mình thật sự là thợ điêu khắc
chứ không phải họa sĩ. Chàng tin rằng công trình khó khăn này được đặt
lên vai chàng do âm mưu của các đối thủ. Khi Đức Giáo Hoàng tỏ ra cương
quyết, chàng khởi sự với một phác thảo khiêm tốn miêu tả mười hai Tông
Đồ đứng trên mười hai khám thờ, và tuyển mộ các thợ phụ từFlorence.
Nhưng bất ngờ chàng nhốt mình trong nhà nguyện, không cho ai lại gần,
một mình bắt đầu một công trình thực sự sẽ còn tiếp tục “làm kinh ngạc
cả thế giới” kể từ giây phút xuất hiện trước công chúng.”
“Thật khó mà hình dung làm sao một con
người có thể đạt được những điều Michelangelo đã thực hiện suốt bốn năm
lao động đơn độc trên giàn giáo trong nguyện đường của Giáo Hoàng. Chỉ
nguyên cái nổ lực thể lý để vẽ bức bích họa khổng lồ này trên trần nhà
nguyện, để chuẩn bị và phác họa cảnh quan trong từng chi tiết rồi đưa
chúng lên mặt tường, cũng đủ làm ta thán phục. Michelangelo nằm ngửa để
vẽ. Và ông trở nên quá quen với tư thế gò bó này đến nổi khi nhận một lá
thư trong thời ký ấy, ông phải đưa nó lên trán và ngửa đầu ra
sau để đọc. Nhưng sức mạnh thể lý của con người một mình vẽ đầy khoảng
trống bao la này chẳng là gì nếu so sánh với những thành tựu nghệ thuật
và trí tuệ. Sự dồi dào những khám phá luôn mới mẻ, kỹ thuật xử lý điêu
luyện trong từng chi tiết, và trên tất cả là vẻ hoành tráng của những
cảnh ảo mà Michenlangelo mở ra cho những người đi sau ông, đã đem lại
cho nhân loại một ý tưởng hoàn toàn mới về năng lực của thiên tài.”
“Người ta thường xem những hình ảnh chi
tiết của tác phẩm khổng lồ này và không bao giờ có thể nhìn ngắm cho
thỏa. Nhưng cái ấn tượng bởi tổng thể, khi bước vào nguyện đường, vẫn
rất khác với toàn bộ những ảnh chụp ta từng thấy. Ngôi nhà nguyện giống
một hội nghị sảnh đường rất rộng lớn và cao, với vòm trần hơi lõm. Phía
trên các bức tường là một dãy những bức họa kể về Moses và Đức Kitô theo
phong cách cổ truyền của những người di trước Michelangelo. Nhưng khi
ngước lên, ta như nhìn vào một thế giới khác. Đó là thế giới của những
chiều kích ngoài tầm với của con người. Trên những khung vòm vươn lên
giữa năm cửa sổ ở mỗi bên nguyện đường là hình ảnh khổng lồ của các tiên
tri Cựu Ước, nhữg ngườ đã nói với dân Do Thái về Đấng Cứu Thế sẽ đến,
xen kẽ với hình ảnh các nữ tiên tri ngoại giáo, những kẻ theo truyền
tụng cổ xưa đã tiên báo cho người ngoại đạo biết sự xuất hiện của Đấng
Cứu Thế. Michelangelo đã vẽ họ như những nam nhân và phụ nữ rất mạnh mẽ,
ngồi đắm mình trong suy tư, đọc, viết, tranh luận, hay như đang lắng
nghe một tiếng nói từ nội tâm. Giữa những nhân vật lớn quá khổ này, ngay
giữa vòm trần, ông vẽ câu chuyện Sáng Thế và truyện Noah. Nhưng dường
như phần việc lớn lao này không thoả mãn nổi cái thôi thúc sáng tạo
những hình tượng luôn mới mẻ. Ông đã chen giữa những câu chuyện này bằng
hàng đoàn lũ các hình ảnh khác, một số giống những bức tượng, số khác
giống những thanh niên sinh động đẹp phi phàm, đang giữ những giải băng
và huy chương lớn mà trên đó cũng lại là những câu chuyện. Thế mà đây
chỉ là mảng trung tâm. Chung quanh đó là một đám rước vô tận những đàn
ông và đàn bà đủ mọi kiểu dáng-các tổ tiên vô số của Đức Kitô theo Kinh
Thánh.”
“Khi nhìn vào nguồn hình tượng phong
phú vô tận này nơi các ảnh chụp, có thể ta nghĩ rằng toàn bộ trần nhà sẽ
chen chúc và không cân đối. Nhưng quả là một ngạc nhiên lớn lao khi
bước vào nguyện đường Sistine và thấy vòm trần thật đơn giản và hài hoà
biết bao nếu chỉ coi nó như một mảng trang trí tuyệt mỹ. Cách phối hợp
màu sắc mới nhuần nhuyễn và đơn giản làm sao, và toàn thể bố cục rõ ràng
biết chừng nào. Những gì ta thấy ở hình ảnh chỉ là một phần nhỏ của cả
tác phẩm, một khu vực hình vòng cung uốn ngang qua trần nhà. Ở một bên
là tiên tri Daniel đang giữ một quyển sách khổng lồ trên đầu gối, được
một chú bé đưa lưng chống đỡ, và ông đang quay sang để ghi chú điều vừa
đọc. Bên đối diện là một nữ tiên tri ngoại giáo xứ Ba Tư, một phụ nữ
tuổi tác trong y phục Đông Phương, đang đưa sách lên sát mắt, cũng đắm
mình như thế vào bản văn Thánh.
Những chiếc ghế cẩm thạch họ ngồi được
trang trí bằng tượng các trẻ em đang chơi đùa, và phía trên chúng, ở mỗi
bên, là hai thanh niên khỏa thân vui tươi đang sắp sửa buộc những huy
chương lớn vào trần nhà. Những nhân vật lạ lùng này cho thấy
Michelangelo quán triệt cách vẽ cơ thể con người ở mọi vị trí và góc độ.
Đó là những vận động viên trẻ với các cơ bắp thật tuyệt vời, vặn mình
và xoay người theo mọi hướng có thể, nhưng luôn cố sao cho vẫn còn duyên
dáng. Có ít là hai mươi trong số những nhân vật này ở trên nóc trần,
mỗi nhân vật lại được diễn tả khéo léo hơn nhân vật trước đó, và chừng
như những ý tưởng mà lẽ ra đã chào đời từ những tảng đá cẩm thạch ờ
Carraca giờ đây choáng hết tâm tư Michenlangelo khi ông vẽ vòm trần điện
Sistine. Nguời ta có thể cảm thấy ông thích thú ra sao với tài nghệ
choáng ngợp của mình, và nỗi bực bội cũng như giận dữ vì không được tiếp
tục làm việc với những vật liệu ưa thích đã thôi thúc ông nỗ lực hơn
nữa để cho kẻ thù của ông, dù có thật hay tưởng tượng, thấy rằng nếu họ
buộc ông vẽ-được, ông cho xem!”
“Ta biết Michelangelo đã nghiên cứu tỉ
mỉ ra sao mọi chi tiết, và chuẩn bị từng nhân vật kỹ lưỡng đến mức nào
trong các bản vẽ của ông. (Nhìn một) tờ trong tập phác thảo, trên đó ông
nghiên cứu một người mẫu để vẽ một trong các nữ tiên tri ngoại giáo. Ta
nhìn thấy sự tương tác của các cơ bắp mà chưa ai từng thấy hay từng
diễn tả kể từ thời các bậc thầy Hy Lạp.”
“Nhưng, nếu ông đã chứng
tỏ mình là một tài năng bậc thầy khôn sánh nơi “những hình tượng khỏa
thân” nổi tiếng này, ông còn chứng minh là mình hơn thế rất nhiều nơi
những minh họa về các chủ đề Kinh Thánh ở trung tâm tác phẩm. Ở đó ta
thấy Thiên Chúa bằng những cử chỉ quyền uy đang tạo nên thảo mộc, các
thiên thể, muông thú và con người. Chẳng có gì là cường điệu khi nói
rằng hình tượng về Chúa Cha-như vẫn tồn tại trong tâm trí của hết thế hệ
này sang thế hệ khác, không chỉ nơi các nghệ sĩ mà cả nơi những người
tầm thường, những kẻ có lẽ chẳng bao giờ biết đến cái tên
Michelangelo-đã được tạo hình và khuôn đúc qua ảnh hưởng trực tiếp hay
gián tiếp của những cảnh quan vĩ đại này, được Michelangelo dùng để minh
họa công việc Sáng Thế. Có lẽ nổi tiếng nhất và lôi cuốn nhất trong tất
cả những minh họa này là cảnh tạo dựng Adam trên một trong những khoảng
rộng. Các họa sĩ trước Michelangelo đã từng vẽ Adam nằm trên mặt đất và
đang được gọi vào sự sống chỉ bằng một cái chạm tay của Thiên Chúa,
nhưng chưa một ai diễn đạt được sự lớn lao của màu nhiệm sáng tạo này
bằng vẻ đơn giản và mạnh mẽ như thế. Trong tranh không hề có gì làm ta
sao lãng chủ đề chính. Adam nằm trên mặt đất với tất cả sức mạnh và vẻ
đẹp xứng đáng với con người đầu tiên; Chúa Cha đang tiến lại từ một phía
khác, được đỡ nâng bởi các Thiên Thần của Người, quấn một tấm áo choàng
rộng và oai nghi bung ra như một cánh buồm vì gió thổi, gợi lên sự thỏa
mái và tốc độ khi Người lướt đi trong khoảng không. Lúc Người đưa bàn
tay ra, dù không chạm vào ngón tay của Adam, ta như thấy con người đầu
tiên trỗi dậy, như từ trong một giấc ngủ miệt mài, và nhìn vào khuôn mặt
chan chứa tình phụ tử của Đấng Tạo Dựng mình. Cách Michenlange sắp xếp
để cái chạm tay Thần Linh trở thành trung tâm và điểm hội tụ của bức
tranh, và cách ông làm ta nhận ra sự toàn năng qua vẻ nhàn hạ và uy lực
của cử chỉ sáng tạo này quả là một trong những phép lạ lớn nhất của nghệ
thuật.”
“Michelangelo vất vả hoàn tất tác phẩm
vĩ đại trên trần điện Sistine năm 1512, và hăm hở quay lại với những
tảng đá cẩm thạch của mình để tiếp tục xây hầm mộ Đức Julius II…”
E.H. Gombrich
Bản dịch tiếng Việt của Lê Sỹ Tuấn
(1) Hai người còn lại là Leonardo da Vinci (Leonardo: 1452-1519) và Raffaello Santi (Raphael: 1483-1520)
(2) Về Michelangelo trên wikipedia: http://vi.wikipedia.org/wiki/Michelangelo
Một số trích đoạn:
Michelangelo
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Xin xem các mục từ khác có tên tương tự ở Michelangelo (định hướng).
Michelangelo | |
---|---|
Chân dung Michelangelo vẽ bằng phấn của Daniele da Volterra |
|
Tên khai sinh | Michelangelo di Lodovico Buonarroti Simoni |
Sinh | 6 tháng 3, 1475 gần Arezzo, tại Caprese, Tuscany |
Mất | 18 tháng 2, 1564 (88 tuổi) Rôma |
Quốc tịch | Ý |
Lĩnh vực hoạt động | nhà điêu khắc, hoạ sĩ, kiến trúc sư và nhà thơ |
Đào tạo | Tập sự với Domenico Ghirlandaio [1] |
Trào lưu | Thời kỳ đỉnh cao Phục hưng |
Tác phẩm | Vua David (điêu khắc), Cuộc sáng tạo Adam (tranh vẽ), Đức Mẹ Sầu Bi (điêu khắc) |
Khả năng sáng tạo của Michelangelo trong mọi lĩnh vực ông tham gia trong suốt cuộc đời dài của mình rất phi thường; khi tính cả các thư từ, phác thảo, ký sự còn lại, ông là nghệ sĩ được ghi chép đầy đủ nhất về cuộc đời ở thế kỷ 16. Hai trong số các tác phẩm nổi tiếng nhất của ông Đức Mẹ Sầu Bi và Vua David, được thực hiện trước khi ông sang tuổi 30. Dù ông không được đánh giá nhiều trong hội hoạ, Michelangelo cũng đã tạo ra hai trong các tác phẩm có ảnh hưởng lớn nhất thuộc thể loại bích hoạ trong lịch sử Nghệ thuật phương Tây: Cảnh Thiên Chúa sáng thế trên trần Nhà nguyện Sistine và Sự phán xét cuối cùng trên bức tường bệ án thờ Nhà nguyện Sistine ở Roma. Là một kiến trúc sư, Michelangelo là người tiên phong trong phong cách Mannerist tại Thư viện Laurentian. Ở tuổi 74, ông kế tục Antonio da Sangallo Trẻ trở thành kiến trúc sư của Vương cung thánh đường Thánh Phêrô. Michelangelo đã thay đổi đồ án, góc phía tây được hoàn thiện theo thiết kế của Michelangelo, mái vòm được hoàn thành sau khi ông mất với một số sửa đổi.
Một ví dụ khác về vị trí độc nhất của Michelangelo: ông là nghệ sĩ phương Tây đầu tiên có tiểu sử được xuất bản khi đang còn sống.[2] Hai cuốn tiểu sử đã được xuất bản trong khi ông đang sống; một trong số đó bởi Giorgio Vasari, cho rằng ông là động cơ của mọi thành tựu nghệ thuật từ khi bắt đầu thời kỳ Phục hưng, một quan điểm vẫn tiếp tục được ủng hộ trong lịch sử nghệ thuật trong nhiều thế kỷ. Trong đời mình, ông cũng thường được gọi là Il Divino ("người siêu phàm").[3] Một trong những phẩm chất của ông được những người đương thời ngưỡng mộ nhất là terribilità, một cảm giác kính sợ trước sự vĩ đại, và các nỗ lực của những nghệ sĩ thời sau học theo phong cách say mê và rất cá nhân của ông đã dẫn tới Mannerism, phong trào lớn tiếp sau trong nghệ thuật phương Tây sau thời Đỉnh cao Phục hưng.
Tiểu sử
Tuổi trẻ
Michelangelo sinh ngày 6 tháng 3 năm 1475[a] tại Caprese gần Arezzo, Tuscany.[4] Gia đình ông từ nhiều thế hệ đã là các chủ nhà băng nhỏ tại Florence nhưng cha ông, Lodovico di Leonardo di Buonarroti di Simoni, đã không thể duy trì được tình hình tài chính của ngân hàng, và giữ các vị trí tạm thời trong chính phủ.[2] Khi Michelangelo ra đời, cha ông là nhân viên pháp lý tại thị trấn nhỏ Caprese và nhân viên địa phương của Chiusi. Mẹ của Michelangelo là Francesca di Neri del Miniato di Siena.[5] Những người nhà Buonarroti tuyên bố mình là hậu duệ của Nữ bá tước Mathilde of Canossa; tuyên bố này vẫn chưa được chứng mình, tuy nhiên chính Michelangelo tin vào điều này.[6] Nhiều tháng sau khi Michelangelo ra đời, gia đình ông quay trở lại Florence và Michelangelo lớn lên tại đây. Ở những thời điểm sau này, trong những thời kỳ ốm yếu kéo dài và sau khi mẹ ông mất khi ông lên bảy tuổi, Michelangelo sống với một người thợ đá và vợ ông cùng gia đình ở thị trấn Settignano nơi cha ông có một mỏ đá mable và một nông trại nhỏ.[5] Giorgio Vasari trích dẫn Michelangelo nói, "Nếu có thứ gì tốt đẹp ở trong tôi, nó bởi tôi đã sinh ra trong một không khí tinh tế tại Arezzo. Cùng với dòng sữa của người vú tôi đã nhận được sở trường sử dụng đục và búa, và tôi đã làm ra những ngón tay mình bằng chúng."[4]Khi mới là một chú bé, cha của Michelangelo đã gửi ông theo học văn phạm tới người theo chủ nghĩa nhân đạo là Francesco da Urbino in Florence.[4][7][b] Tuy nhiên, nhà nghệ sĩ nhỏ không thể hiện sự quan tâm tới trường học, mà thích copy lại các bức tranh từ các nhà thờ và tìm kiếm những người bạn có cùng sở thích hội hoạ.[7] Lúc mười ba tuổi, Michelangelo được nhận vào học việc với hoạ sĩ Domenico Ghirlandaio.[1][8] Khi Michelangelo 14 tuổi, cha ông thuyết phục Ghirlandaio trả tiền học việc ở mức một nghệ sĩ cho ông, đây là một điều rất hiếm ở thời kỳ đó.[9] Khi vào năm 1489 Lorenzo de' Medici, nhà cai trị trên thực tế của Florence, yêu cầu Ghirlandaio những đồ đệ xuất sắc nhất của ông, Ghirlandaio đã gửi Michelangelo và Francesco Granacci.[10] Từ năm 1490 tới năm 1492, Michelangelo tham gia hội Nhân văn mà Medici đã lập ra cùng với các quy tắc Tân Platon. Michelangelo học điêu khắc với Bertoldo di Giovanni. Tại học viện, cả quan điểm và nghệ thuật của Michelangelo đều bị ảnh hưởng bởi các nhà triết học và tác gia nổi tiếng nhất thời ấy gồm Marsilio Ficino, Pico della Mirandola và Angelo Poliziano.[11] Khi ấy Michelangelo đã thực hiện các bức phù điêu nổi thấp Madonna of the Steps (1490–1492) và Battle of the Centaurs (1491–1492). Tác phẩm sau này dựa trên một chủ đề do Poliziano đề nghị và do Lorenzo de Medici đặt hàng.[12] Khi cả hai đều đang tập việc với Bertoldo di Giovanni, Pietro Torrigiano đấm vào mũi người bạn 17 tuổi của mình, và vì thế gây ra một sự biến dạng rất dễ thấy trên mọi bức chân dung Michelangelo.[13]
Bắt đầu trưởng thành
Cái chết của Lorenzo de' Medici ngày 8 tháng 4 1492 dẫn tới một sự đảo ngược các hoàn cảnh của Michelangelo.[14] Michelangelo rời triều đình Medici với đầy đủ sự đảm bảo và quay trở về ngôi nhà của người cha. Trong những tháng sau đó ông đã tạc một thập tự giá bằng gỗ (1493), như một món quà gửi cha tu viện trưởng nhà thờ Florentine Santo Spirito, người đã cho phép ông thực hiện một số nghiên cứu giải phẫu trên các thi thể của bệnh viện nhà thờ.[15] Từ năm 1493 tới năm 1494 ông đã mua một khối đá mable để thực hiện một bức tượng Hercules có kích thước lớn hơn người thật, tượng được gửi tới Pháp và sau này biến mất trong khoảng những năm 1700.[12][c] Ngày 20 tháng 1 năm 1494, sau những trận tuyết rơi dày, người thừa kế của Lorenzo, Piero de Medici đặt hàng một bức tượng bằng tuyết, và Michelangelo một lần nữa lại vào triều đình Medici.Cùng năm ấy, nhà Medici bị trục xuất khỏi Florence vì sự nổi lên của nhà Savonarola. Michelangelo rời thành phố trước khi quyền lực chính trị thay đổi, đi tới Venice và sau đó tới Bologna.[14] Tại Bologna ông được đặt hàng hoàn thành việc tạc những nhân vật nhỏ cuối cùng tại Điện thờ thánh Dominic, trong nhà thờ dành cho vị thánh này. Tới cuối năm 1494, tình hình chính trị tại Florence lắng dịu hơn. Tuy nhiên thành phố, trước kia nằm dưới sự đe doạ từ phía Pháp, không còn là một nơi nguy hiểm nữa khi Charles VIII bị đánh bại. Michelangelo quay trở lại Florence nhưng không nhận được đơn hàng nào từ chính phủ mới của thành phố thuộc nhà Savonarola. Ông quay lại làm việc cho nhà Medici.[16] Trong nửa năm ở tại Florence ông thực hiện hai bức tượng nhỏ một Thánh John Người rửa tội trẻ em và một tượng Cupid ngủ. Theo Condivi, Lorenzo di Pierfrancesco de' Medici, người mà Michelangelo thực hiện tượng Thánh John Người rửa tội cho, đã yêu cầu rằng Michelangelo "làm sao để nó trông giống như đã bị chôn lấp" để ông ta có thể "gửi nó tới Rome…tiêu thụ [nó đi] như một tác phẩm nghệ thuật cổ và…bán dễ hơn." Cả Lorenzo và Michelangelo đều không biết về việc lừa dối về giá trị thực của bức tượng bởi một người trung gain. Hồng y Raffaele Riario, người mua bức tượng từ Lorenzo, phát hiện ra rằng nó là đồ giả, nhưng thấy ấn tượng với giá trị điêu khắc tới mức ông đã mời nghệ sĩ tới Rome.[17] [d] Thành công rõ ràng này trong việc bán tác phẩm điêu khắc của ông ở nước ngoài cũng như tình hình thận trọng tại Florentine có thể đã khuyến khích Michelangelo chấp nhận lời mời.[16]
Rome
Michelangelo tới Rome ngày 25 tháng 6 năm 1496[18] ở tuổi 21. Ngày 4 tháng 7 cùng năm ấy, ông bắt đầu làm việc cho một đặt hàng của Hồng y Raffaele Riario, một bức tượng theo kích thước thực của vị thần rượu La Mã, Bacchus. Tuy nhiên, ngay khi hoàn thành, bức tượng bị Hồng y từ chối, và sau đó được đưa vào bộ sưu tập của người chủ ngân hàng Jacopo Galli, đặt trong vườn nhà ông.Tháng 11 năm 1497, đại sứ Pháp tại Toà Thánh đặt hàng một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của ông, tác phẩm điêu khắc Pietà và hợp đồng được đồng ý vào tháng 8 năm sau đó. Ý kiến thời ấy về tác phẩm này — "một sự phát lộ mọi tiềm năng và xung lực của nghệ thuật điêu khắc" — đã được tóm tắt bởi Vasari: "Chắn chắn đó là một điều thần diệu mà một khối đá có thể được tạc thành một sự hoàn hảo mà thiên nhiên không thể tạo ra trong đó." (It is certainly a miracle that a formless block of stone could ever have been reduced to a perfection that nature is scarcely able to create in the flesh)
Tại Rome, Michelangelo sống gần nhà thờ Santa Maria di Loreto. Ở đây, theo truyền thuyết, ông yêu Vittoria Colonna, nữ hầu tước Pescara và cũng là một nhà thơ.[cần dẫn nguồn] Căn nhà của ông bị phá huỷ năm 1874, và các yếu tố kiến trúc còn lại được những người chủ mới giữ lại đã bị phá huỷ năm 1930. Ngày nay một bản sao phục dựng hiện đại ngôi nhà của Michelangelo có thể được thấy trên đồi Gianicolo. Cũng trong giai đoạn này có những hoài nghi phát sinh khi Michelangelo thực hiện tác phẩm điêu khắc Laocoön và các con trai tại Vatican[19].
Tác phẩm
- Xem thêm: Danh sách tác phẩm của Michelangelo
Tượng David
- Bài chi tiết: David (Michelangelo)
Cũng trong giai đoạn này, Michelangelo vẽ bức tranh Holy Family and St John, cũng được gọi là Doni Tondo hay Holy Family of the Tribune: nó được đặt hàng cho hôn lễ của Angelo Doni và Maddalena Strozzi và vào thế kỷ 17 được treo trong căn phòng gọi là Tribune ở Uffizi. Ông cũng có thể đã vẽ bức Madonna and Child with John the Baptist, được gọi là Manchester Madonna và hiện ở tại National Gallery, London.
Trần Nhà nguyện Sistine
- Bài chi tiết: Trần Nhà nguyện Sistine
Cũng trong giai đoạn này, Michelangelo nhận yêu cầu vẽ trần Nhà nguyện Sistine, mất gần bốn năm để hoàn thành (1508–1512). Theo lời kể của Michelangelo, Bramante và Raphael đã thuyết phục Giáo hoàng đặt hàng Michelangelo thực hiện một lĩnh vực ông không mấy quen thuộc. Điều này để Michelangelo sẽ gặp phải những so sánh bất lợi với đối thủ là Raphael, người khi ấy đang ở đỉnh cao sự nghiệp với tư cách nghệ sĩ sáng tác tranh tường. Tuy nhiên, câu chuyện này bị nhiều nhà sử học hiện đại bác bỏ với những bằng chứng ở thời điểm đó, và có thể chỉ đơn giản là một sự phản ánh quan điểm riêng của nghệ sĩ.
Michelangelo ban đầu được đặt hàng vẽ 12 Thánh tông đồ trên một nền cảnh bầu trời sao, nhưng hai bên có những hình ảnh phối hợp khác biệt và phức tạp, thể hiện sự thành tạo thế gới, Sự suy đồi của Con người và Lời hứa Cứu rỗi thông qua các nhà tiên tri và Bảng phả hệ của Chúa Jesus. Tác phẩm là một phần của một bối cảnh trang trí lớn hơn bên trong nhà nguyện thể hiện đa phần học thuyết của Nhà thờ Cơ đốc giáo.
Cuối cùng bố cục có hơn 300 nhân vật và có chín tình tiết trung tâm từ Sách Khải huyền, được chia thành ba nhóm: Sự sáng tạo Thế giới của Chúa; Chúa tạo ra Loài người và việc họ mất ân huệ của Chúa; và cuối cùng, tình trạng của nhân loại như được thể hiện bởi Noah và gia đình ông. Trên các vòm tam giác đỡ mái được vẽ mười hai người đàn ông và phụ nữ đã tiên đoán sự xuất hiện của Chúa Jesus. Họ gồm bảy nhà tiên tri Israel và năm Bà đồng, các phụ nữ tiên tri của Thế giới Cổ đại.
Trong số những bức hoạ nổi tiếng nhất trên trần có Chúa tạo ra Adam, Adam và Eve trong Vườn địa đàng, Đại hồng thuỷ, nhà tiên tri Isaiah và Bà đồng Cumaean. Quanh các cửa sổ được vẽ các tổ tiên của Chúa Jesus.
Dưới thời các Giáo hoàng Medici ở Florence
Năm 1513 Giáo hoàng Julius II qua đời và người kế tục ông Giáo hoàng Leo X, một thành viên gia đình Medici, đặt hàng Michelangelo xây dựng lại mặt tiền của La Mã pháp đình San Lorenzo tại Florence và trang trí nó bằng những tác phẩm điêu khắc. Michelangelo miễn cưỡng đồng ý. Ba năm ông dành cho việc sáng tạo các bức hoạ và các mô hình cho mặt tiền, cũng như nỗ lực mở một mỏ đá mable mới tại Pietrasanta phục vụ riêng cho dự án này, là những năm tháng chán nản nhất trong sự nghiệp của ông, bởi công việc bất thần bị huỷ bỏ do sự thiếu hụt tài chính của những người bảo trợ trước khi có bất kỳ tiến triển nào diễn ra. La Mã pháp đình cho tới tận ngày nay vẫn không có mặt tiền.Rõ ràng không bực tức với sự việc này, nhà Medici sau đó quay lại với Michelangelo với một đề xuất lớn khác, lần này là một nhà nguyện trong nghĩa trang gia đình tại La Mã pháp đình San Lorenzo. May mắn cho các thế hệ tiếp sau, dự án này, chiếm hầu hết thời gian của người nghệ sĩ trong thập niên 1520 và 1530, được thực hiện đầy đủ. Dù vẫn chưa hoàn thành, nó là ví dụ tốt nhất về sự tích hợp tầm nhìn về điêu khắc và kiến trúc của nghệ sĩ, bởi Michelangelo đã tạo ra cả những tác phẩm điêu khắc chính và sơ đồ nội thất. Trớ trêu thay, những hầm mộ nổi bật nhất là những hầm mộ của hai thành viên gia đình Medici chết trẻ, một người con trai và một người cháu trai của Lorenzo. Chính Il Magnifico được chôn trong một hầm mộ chưa được hoàn thành và hoàn toàn không đáng chú ý ở một trong những bức tường bên của nhà nguyện, không có được một đài kỷ niệm nhỏ, như dự định ban đầu.
Năm 1527, các công dân Florentine, được khuyến khích bởi vụ cướp bóc Rome, lật đổ gia đình Medici và tái lập nền cộng hoà. Một cuộc phong toả thành phố diễn ra sau đó, và Michelangelo phục vụ cho thành phố Florence yêu quý của mình bằng cách làm việc tại các pháo đài của nó từ năm 1528 đến năm 1529. Thành phố sụp đổ năm 1530 và nhà Medici được tái lập quyền lực. Hoàn toàn không có thiện cảm với chế độ cai trị đàn áp của công tước Medici, Michelangelo rời Florence giữa thập niên 1530, chỉ để lại các phụ tá để hoàn thiện nhà nguyện Medici. Nhiều năm sau thi hài ông được mang trở lại từ Rome để mai táng tại Basilica di Santa Croce, thực hiện ước nguyện cuối cùng của người nghệ sĩ được chôn cất tại thành phố Tuscany ông yêu quý.
Các tác phẩm cuối cùng ở Rome
Bích hoạ Sự phán xét cuối cùng trên tường án thờ Nhà nguyện Sistine được Giáo hoàng Clement VII, người chết ngay sau khi giao việc, đặt hàng. Paul III là nhân vật quan trọng trong việc để cho Michelangelo bắt đầu và hoàn thành dự án. Michelangelo làm việc tại dự án này từ năm 1534 tới tháng 10 năm 1541. Công việc rất nhiều và mở ra toàn bộ bức tường phía sau án thờ của Nhà nguyện Sistine. Sự phán xét cuối cùng là sự thể hiện lần xuất hiện thứ hai của Chúa Jesus và ngày tận thế; nơi các linh hồn con người mọc lên và được trao các số phận khác nhau, như được Chúa phán xét, bao quanh là các Thánh.Khi hoàn thành, những sự thể hiện những người khoả thân trong nhà nguyện của Giáo hoàng bị coi là tục tĩu và báng bổ, và Hồng y Carafa và Monsignor Sernini (đại sứ của Mantua) đã kêu gọi kiểm duyệt và xoá bỏ bức tranh, nhưng Giáo hoàng phản đối. Sau khi Michelangelo chết, mọi người quyết định che đi các bộ phận sinh dục ("Pictura in Cappella Ap.ca coopriantur"). Vì vậy Daniele da Volterra, một học trò của Michelangelo, được trao trách nhiệm che chúng đi, phần thân thể được giữ nguyên. Khi tác phẩm được phục chế năm 1993, những nhà bảo tồn quyết định không loại bỏ tất cả các perizoma của Daniele, để lại một số chúng như một tài liệu lịch sử, và bởi một số công việc của Michelangelo trước đó đã bị loại bỏ bởi các nghệ sĩ sửa sang lại cho “lịch sự” cho kiệt tác. Một bản copy trung thành với bản gốc không bị kiểm duyệt, của Marcello Venusti, có thể được thấy tại Bảo tàng Capodimonte ở Naples.
Sự kiểm duyệt luôn đi cùng Michelangelo, từng được miêu tả là "inventor delle porcherie" ("nhà phát minh những sự tục tĩu", trong tiếng Italia nguyên gốc chỉ "những thứ bẩn thỉu"). "Chiến dịch lá sung" đáng hổ thẹn của Phản Cải cách, nhắm tới việc che phủ mọi sự thể hiện các bộ phận sinh dục của con người trong các tác phẩm hội hoạ và điêu khắc, bắt đầu với các tác phẩm của Michelangelo. Hai ví dụ, bức tượng đá mable Cristo della Minerva (nhà thờ Santa Maria sopra Minerva, Rome) được che đi bằng cách cho thêm một tấp drap, như nó vẫn hiện diện ngày nay, và tượng Jesus cởi truồng khi vẫn còn là một đứa trẻ Madonna of Bruges (Church of Our Lady tại Bruges, Bỉ) bị che phủ đi trong nhiều thập kỷ. Tương tự, bản copy thạch cao của tượng David tại Cast Courts (Bảo tàng Victoria và Albert) ở London, có một lá sung trong một cái hộp phía sau lưng bức tượng. Nó ở đó để được đặt lên các bộ phận sinh dục của tượng để nó sẽ không làm phiền những nữ khách hoàng gia viếng thăm.
Năm 1546, Michelangelo được chỉ định làm kiến trúc sư Vương cung thánh đường Thánh Peter tại Vatican, và thiết kế mái vòm của nó. Khi công trình tiến triển có lo ngại rằng Michelangelo sẽ qua đời trước khi mái vòm được hoàn thành. Tuy nhiên, khi công trình bắt đầu tới phần thấp của mái vòm, vòng đỡ, thiết kế đã hoàn thành.
Bức phác hoạ cuối cùng được tìm thấy
Ngày 7 tháng 12 năm 2007, bản phác hoạ bằng phấn đỏ của Michelangelo cho mái vòm Nhà thờ thánh Peter, bức phác hoạ cuối cùng của ông trước khi ông mất năm 1564, đã được phát hiện trong thư khố của Vatican. Nó rất hiếm, bởi ông đã tiêu huỷ các thiết kế của mình lúc cuối đời. Bức phác hoạ là một sơ đồ một phần cho một trong những cột xuyên tâm của trống tang vòm của Nhà thờ thánh Peter.[20]Sự nghiệp kiến trúc sư
Michelangelo đã làm việc ở nhiều dự án do những người khác khởi đầu, đáng chú ý nhất là công việc của ông tại Nhà thờ thánh Peter, Rome. Campidoglio, được thiết kế bởi Michelangelo cũng trong giai đoạn này, được điều chỉnh cấu trúc và không gian phù hợp với Capitoline Hill của Rome. Hình dáng của nó, kiểu giống hình chữ nhật lệch hơn là hình vuông, được dự định để trung hoà với những hiệu ứng của phong cảnh. Các dự án kiến trúc lớn của Florentine do Michelangelo tiến hành là mặt tiền chưa được thi công cho La Mã pháp đình San Lorenzo, Florence và Nhà nguyện Medici (Capella Medicea) và Thư viện Laurentian, và các pháo đài của Florence. Các dự án La Mã lớn là Nhà thờ thánh St. Peter, Palazzo Farnese, San Giovanni dei Fiorentini, Nhà nguyện Sforza (Capella Sforza) tại Basilica di Santa Maria Maggiore, Porta Pia và Santa Maria degli Angeli.Thư viện Laurentian
Khoảng năm 1530 Michelangelo thiết kế Thư viện Laurentian tại Florence, một công trình phụ của nhà thờ San Lorenzo. Ông đã tạo ra các phong cách mới như các trụ bổ tường thon nhỏ hơn ở bên dưới, và một cầu thang gác với các hình dạng tam giác và cong.Nhà nguyện Medici
- Bài chi tiết: Nhà nguyện Medici
Nhân cách
Michelangelo thường ngạo mạn với những người khác và luôn không hài lòng với chính mình, coi nghệ thuật có nguồn gốc từ cảm hứng bên trong và từ văn hoá. Trái ngược với những ý tưởng của đối thủ của ông, Leonardo da Vinci, Michelangelo coi tự nhiên là một kẻ thù và phải vượt qua nó. Các nhân vật ông đã tạo ra mạnh mẽ và năng động, mỗi nhân vật ở trong không gian riêng của mình tách biệt với thế giới bên ngoài. Với Michelangelo, công việc của nhà điêu khắc hoàn toàn tự do khỏi các hình thức vốn đã ở trong phiến đá. Ông tin rằng mọi phiến đá có một sự điêu khắc bên trong nó, và rằng công việc điêu khắc đơn giản là việc tẩy bỏ tất cả những thứ không phải là một phần của bức tượng.[cần dẫn nguồn]Nhiều giai thoại nói về tài năng của Michelangelo, đặc biệt trong điêu khắc, rất được tôn sùng ở thời đại ông. Một Lorenzo de Medici khác muốn sử dụng Michelangelo để kiếm ít tiền. Ông đặt hàng Michelangelo tạc một tượng Cupid trông có vẻ mòn và cổ. Lorenzo trả Michelangelo 30 ducat, nhưng bán bức tượng với giá 200 ducat. Hồng y Raffaele Riario nghi ngờ và cử một người đi điều tra. Người này đặt Michelangelo thực hiện một phác hoạ Cupid cho ông, và sau đó nói với Michelangelo rằng trong khi ông chỉ nhận được 30 ducat, Lorenzo đã bán lại tượng Cupid với giá trị của một đồ cổ và kiếm 200 ducat. Michelangelo sau đó xác nhận rằng ông đã tạc tượng Cupid, nhưng không hề nghĩ rằng mình đã bị lừa. Sau khi sự thật bị khám phá, Hồng y sau này coi đó làm bằng chứng về khả năng của ông và đặt ông thực hiện tác phẩm Bacchus. Một giai thoại được biết đến nhiều khác cho rằng khi hoàn thành the Moses (San Pietro tại Vincoli, Rome), Michelangelo đã đập mạnh búa vào đầu gối của tượng, kêu lên, "Sao mày không nói chuyện với tao?"[cần dẫn nguồn]
Trong đời sống cá nhân, Michelangelo rất đạm bạc. Ông nói với người học việc của mình là Ascanio Condivi: "Dù tôi có thể giàu có thế nào nữa, tôi đã luôn sống như một người nghèo khổ."[21] Condivi nói ông không thích thức ăn và đồ uống, ăn "vì cần thiết hơn là vì niềm vui"[21] và rằng ông "thường ngủ trong đám quần áo và... giày của mình."[21] Những thói quen đó có thể đã khiến ông không được ưa thích. Người viết tiểu sử ông Paolo Giovio nói, "Bản chất của ông quá mạnh mẽ và vụng về khiến các thói quen ở gia đình của ông rất bần tiện, and deprived posterity of any pupils who might have followed him."[22] Có thể ông không chủ tâm, bởi theo bản chất ông là một người cô độc và u sầu. Ông có một danh tiếng về bizzarro e fantastico bởi ông "rút mình khỏi tình bằng hữu của loài người." [23]
Giới tính
Tính nền tảng trong nghệ thuật của Michelangelo là vẻ đẹp của nam giới, hấp dẫn ông cả về thẩm mỹ và cảm xúc. Một phần, đó là một sự thể hiện sự lý tưởng hoá nam tính thời Phục hưng. Nhưng trong nghệ thuật của Michelangelo có một cảm giác xác thịt với tính thẩm mỹ đó.[24]Những sự thể hiện của nhà điêu khắc về tình yêu đã được đặc trưng hoá như là cả Tân Platonic và đồng tính; giới học giả gần đây tìm kiếm một sự giải thích tôn trọng cả hai điều đó, tuy nhiên vẫn thận trọng trong việc đưa ra những kết luận tuyệt đối.[cần dẫn nguồn] Một ví dụ về vấn đề là Cecchino dei Bracci, cái chết của người này, chỉ một năm sau khi họ gặp năm 1543, đã gây cảm hứng cho việc viết 48 bài thơ trào phúng tang lễ, mà theo một số lời kể ám chỉ tới một mối quan hệ không chỉ lãng mạn mà cả về thể xác:
- La carne terra, e qui l'ossa mia, prive
de' lor begli occhi, e del leggiadro aspetto
fan fede a quel ch'i' fu grazia nel letto,
che abbracciava, e' n che l'anima vive.[25]Xác thịt giờ giờ là đất, và đây xương tôi,
Bị tước đi những đôi mắt đẹp, và không khí vui nhộn,
Sự trung thành vẫn dành cho anh ta người tôi đã cùng vui vẻ giường,
Người tôi ôm hôn, người linh hồn tôi hiện đang sống ở.
Sự thể hiện bằng chữ lớn nhất về tình yêu của ông được trao cho Tommaso dei Cavalieri (khoảng 1509–1587), người 23 tuổi khi Michelangelo gặp anh ta năm 1532, ở tuổi 57. Cavalieri rộng mở với sự yêu mến của ông già: Tôi thề sẽ đáp trả tình yêu của ông. Chưa bao giờ tôi yêu quý một người đàn ông nào như tôi yêu ông, chưa bao giờ tôi ước muốn một tình bạn như tôi muốn có với ông. Cavalieri vẫn trung thành với Michelangelo cho tới khi ông mất.
Michelangelo đã dành tặng cho anh ta ba trăm bài sonnet và thơ trữ tình, là tập hợp những bài thơ lớn nhất của ông. Một số nhà bình luận hiện đại cho rằng mối quan hệ đơn giản chỉ là một cảm giác yêu mến kiểu Platon, thậm chí cho rằng Michelangelo tìm kiếm một người con trai đại diện.[27] Tuy nhiên, tình trạng đồng tính của họ đã được ghi nhận từ thời ấy, vì thế một sự che đậy đoan trang đã được dựng lên giữa họ bởi cháu họ của ông, Michelangelo Trẻ, người xuất bản một tập thơ năm 1623 với các đại từ chỉ giới đã được thay đổi. John Addington Symonds, nhà hoạt động đồng tính từ thời kỳ đầu của Anh, đã đảo ngược sự thay đổi này bằng cách dịch các bài sonnet nguyên bản sang tiếng Anh và viết một cuốn tiểu sử hai tập, xuất bản năm 1893.
Các bài sonnet là tập thơ lớn đầu tiên ở mọi ngôn ngữ hiện đại được một người đàn ông đề tặng cho một người đàn ông khác, trước cả những bài sonnet của Shakespeare gửi cho người bạn trẻ của ông với khoảng cách 50 tuổi.
I feel as lit by fire a cold countenance
That burns me from afar and keeps itself ice-chill; A strength I feel two shapely arms to fill Which without motion moves every balance.
|
Không thể hiểu chắc liệu Michelangelo có các quan hệ thể xác (Condivi được gán cho ông một "kẻ trinh bạch như nhà sư"),[28] nhưng qua thơ và nghệ thuật của ông chúng ta ít nhất có thể thoáng hiểu phạm vi tưởng tượng của ông.[29]
Xem thêm
- Danh sách tác phẩm của Michelangelo
- Hiện tượng Michelangelo
- Hội hoạ Phục hưng
- Khôi phục các bức tranh tường Nhà nguyện Sistine
Bộ phim năm 1965 The Agony and the Ecstasy đề cập tới câu chuyện của Michelangelo và công việc sáng tác hội hoạ của ông tại Nhà nguyện Sistine. Ông được thể hiện trong phim bởi Charlton Heston.
"Mật mã" Michelangelo: đối thủ ngang tài với "mật mã Da Vinci"
Theo PLXHĐược coi là đối thủ "ngang sức ngang tài" với Da Vinci, hoạ sĩ-nhà điêu khắc- kiến trúc sư Michelangelo quả nhiên không hề chịu kém cạnh. Những tác phẩm của ông không những mang đầy tính nghệ thuật mà còn chứa đựng trong đó rất nhiều bí ẩn.
Mới đây, hai nhà khoa học người Mĩ là Ian Suk và Rafael Tamargo đã tuyên bố những phát hiện mới nhất của họ về những bí ẩn nằm trong những tác phẩm của nhà điêu khắc đại tài- Michelangelo-đó là sự mô tả một cách chính xác đáng kinh ngạc về những bộ phận trên cơ thể người là tủy sống và thân não trong tác phẩm "Nhà Nguyện Sistine".
Tác phẩm này được Michelangelo vẽ từ năm 1508 đến năm 1512 được coi là một trong những công trình vĩ đại nhất của họa sĩ kiêm kiến trúc sư thiên tài này.
Ngoài ra, những nhà khoa học từ trường Đại Học Dược Johns Hopkins ở Baltimore còn phát hiện thêm rằng hình vẽ về cổ họng và ngực của Chúa Trời ở bức tranh "Ranh giới giữa Ánh Sáng và Bóng Đêm"
hoàn toàn không tuân theo những quy luật thông thường, và khác hẳn với
những bức tranh cạnh đó. Trong khi hầu hết chúng ánh sáng được vẽ chiếu
từ phía bên trái từ dưới lên, thì ở những hình vẽ này, ánh sáng lại được
chiếu thẳng xuống, từ phải sang.
Tuy vậy đây không phải là những trường hợp phát hiện đầu tiên về những điều bất bình thường trong những tác phẩm của Michelangelo.
Vào năm 1990, một nhà vật lí tên là Frank Meshberger cũng đã nhận thấy rằng những điểm bất thường ở bức tranh "Chúa tạo ra Adam" chính là hình minh họa hoàn hảo cho não người theo mặt cắt nằm ngang.
Vậy thực sự ý nghĩa của những thông điệp này là gì? Tiến Sĩ R. Douglas Fields thuộc Đại học Maryland đã đưa ra một số nhận định để làm sáng tỏ điều này.
Vậy thực sự ý nghĩa của những thông điệp này là gì? Tiến Sĩ R. Douglas Fields thuộc Đại học Maryland đã đưa ra một số nhận định để làm sáng tỏ điều này.
'Phải chăng tác phẩm "Ranh giới giữa Ánh Sáng và Bóng Đêm" chính là lời minh chứng cho sự xung đột kéo dài hàng thập kỉ giữa khoa học và tôn giáo?...'
Tiến sĩ Douglas bổ sung thêm: "Có lẽ ý nghĩa của Nhà nguyện Sistine không chỉ đơn giản là sự ban phát trí tuệ của Chúa cho Adam mà còn để thể hiện lí tưởng có thể được liên hệ trực tiếp với Người mà không phải thông qua Giáo Hội'.
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)