BÀI VIẾT HAY 12
(Đại Chúng sưu tầm trên NET)
Bài 1: Bộ trưởng Quốc phòng đầu tiên và chiếc đồng hồ in hình Bác Hồ
Những chuyện chưa biết về các kỷ vật
của tướng lĩnh Việt Nam :
Lần theo dấu chân và những kỷ niệm, nhà sưu tập Trần
Thu Hằng, nhân viên Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam đã sưu tập được
hàng ngàn kỷ vật của tướng lĩnh Việt Nam.
Quân đội ta là quân đội của dân, từ nhân dân mà ra. 60
năm qua, từ trong lòng dân, đã có bao người trở thành những vị tướng.
Trên con đường trở thành những vị tướng ấy, biết bao gian khó, hy sinh.
Lần theo dấu chân và những kỷ niệm, nhà sưu tập Trần Thu Hằng, nhân viên
Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam đã sưu tập được hàng ngàn kỷ vật của
tướng lĩnh Việt Nam. Mỗi kỷ vậy mà chị thu thập chứa đựng một câu chuyện
đầy cảm động. Nhân dịp 60 năm thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam,
Tiền Phong lần lượt kể về những kỷ vật ấy...
Là một trong số những tiến sỹ luật đầu tiên của nước
ta, ông cũng là một trong số những người đầu tiên sáng lập ra tờ báo
Thanh Nghị, tiếng nói của trí thức và sinh viên yêu nước Việt Nam lúc
bấy giờ...Không một ngày qua trận mạc, nhưng ông lại được Chủ tịch Hồ
Chí Minh tin cậy, mời giao trọng trách Bộ trưởng Quốc phòng đầu tiên của
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Ông là tiến sỹ luật Phan Anh.
Từ nhà yêu nước trở thành Bộ trưởng Quốc phòng đầu tiên
Vợ ông, bà Nguyễn Hồng Chỉnh kể rằng, sinh thời, chưa
bao giờ ông nghĩ mình sẽ là Bộ trưởng Quốc phòng. Sau khi từ Pháp trở
về, đi đến đâu, ông cũng cảm nhận khí thế sục sôi của nhân dân cả nước
nổi dậy tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng Tháng Tám, đối
với giới trí thức
Ngày 2 tháng 3 năm 1946, Quốc hội khoá I, kỳ họp thứ
nhất họp tại thủ đô Hà Nội. Trước ngày đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho gọi
Phan Anh đến Bắc Bộ phủ. Chủ tịch nói: “Chúng ta cần phải thành lập
Chính phủ Liên hiệp nhằm đoàn kết nhân dân, thống nhất hành động. Để
thành lập Chính phủ Liên hiệp, Bộ Nội vụ và Bộ Quốc phòng cần giao cho
những người ở vị trí trung lập. Tôi đề cử chú nhận nhiệm vụ quan trọng
đó”. Ông xúc động nói với Chủ tịch Hồ Chí Minh rằng: “Tôi rất cảm kích
về sự gợi ý đó, nhưng để đáp ứng tinh thần của Chủ tịch, tôi xin đề cử
một trí thức có cảm tình với cách mạng, đã từng học qua trường quân sự
cao cấp Polytechnique ở Pari là ông Hoàng Xuân Hãn”. Chủ tịch Hồ Chí
Minh không tán thành và thuyết phục ông làm Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Chủ
tịch Hồ Chí Minh an ủi: “Chú đừng ngại, tuy chú đảm nhận trọng trách Bộ
trưởng Quốc phòng, nhưng không phải tập trung công việc vào chuyên môn
quân sự vì đã có chú Võ Nguyên Giáp. Nhiệm vụ của chú là tập trung vào
vấn đề chính trị, nhằm đoàn kết trong ngoài”. Thế là tiến sỹ Phan Anh
trở thành Bộ trưởng Quốc phòng đầu tiên của nước Việt Nam độc lập.
Được Bác tặng đồng hồ, vì làm việc tốt
Về công tác đối ngoại, ông nổi tiếng là người giỏi Pháp
ngữ, nên được Bác Hồ trực tiếp cử tham gia phái đoàn Chính phủ Việt Nam
Dân chủ Cộng hoà đi dự hội nghị Fontainebleau ở Pháp cuối tháng 3 đến
tháng 9 năm 1946, với tư cách Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng thuyết trình
viên chuyên về pháp luật. Ông làm Bộ trưởng Quốc phòng cho đến năm 1947
thì chuyển qua làm Bộ trưởng Bộ Kinh tế.
Ngày 13 tháng 10 năm 1954, tại Sơn Tây, trong một cuộc
họp Chính phủ trước khi về tiếp quản Thủ đô, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
tặng thưởng Huân chương Độc lập cho linh mục Phạm Bá Trực, đồng thời
tặng phần thưởng cho một số cán bộ trong Chính phủ có thành tích xuất
sắc trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Riêng Tiến sỹ Phan Anh được Bác
tặng chiếc đồng hồ Thuỵ Sỹ, hiệu Movado có hình Bác Hồ. Bác nói: “Với
những đóng góp của chú trong cuộc kháng chiến chống Pháp, nhất là trong
thời gian giữ chức vụ Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, chú đã thực hiện tinh
thần đoàn kết trong nước và quốc tế “dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Nêu cao
chính nghĩa vì độc lập, tự do của Tổ quốc... Chú xứng đáng được tặng
phần thưởng này”. Từ đó, ông đã sử dụng và giữ gìn chiếc đồng hồ như một
kỷ vật thiêng liêng trong suốt cuộc đời đi theo cách mạng. Năm 1985,
chiếc đồng hồ bị hỏng, nhân chuyến công tác tại Thuỵ Sỹ, ông đã tìm đến
tận nơi sản xuất ra chiếc đồng hồ để sửa chữa. Ông mất vào ngày 28 tháng
6 năm 1990, khi trái tim ông ngừng đập, chiếc đồng hồ dừng nhằm lúc
1h15 phút.
Hiện chiếc đồng hồ của Bác Hồ tặng cố Bộ trưởng Phan
Anh đang được lưu giữ như một kỷ vật quý hiếm tại Bảo tàng Lịch sử quân
sự Việt Nam. Chị Trần Thanh Hằng, cán bộ sưu tập tâm sự: “Rất khó khăn,
bà Nguyễn Hồng Chỉnh, vợ của cố Bộ trưởng mới trao kỷ vật đó cho chúng
tôi. Chúng tôi hiểu đây là kỷ vật vô giá của gia đình”. Để trao kỷ vật
đó, nhân ngày giỗ lần thứ 14 của ông, bà Chỉnh đã phải họp mặt toàn thể
gia đình gồm 40 con cháu, sau khi mọi người đồng ý, bà mới quyết định
trao chiếc đồng hồ này cho Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam. “Ai đã
tặng Bác Hồ chiếc đồng hồ có hình ảnh Người và vì sao Chủ tịch Hồ Chí
Minh lại tặng cố Bộ trưởng Phan Anh chiếc đồng hồ, chứ không phải là thứ
khác. Đó vẫn là điều bí ẩn?”, chị Hằng tâm sự.
Bá Kiên - Trần Dương
|
|||||
Việt Báo (Theo_Tien_Phong)
|
Bài 2 : Chiếc đài và vị tướng trở về từ “cõi chết”
Những chuyện chưa biết về các kỷ vật
của tướng lĩnh Việt Nam :
Năm 1968, khi chiến trường miền Nam bước vào thời kỳ ác
liệt nhất, Đại tá Trần Văn Trân được triệu về Bộ chỉ huy miền ở Lộc
Ninh để nhậm chức Sư đoàn trưởng Sư đoàn 1. Nhân dịp này, ông được tướng
Hoàng Văn Thái tặng chiếc radio. Chiếc đài nhỏ đã theo ông đi khắp các
chiến trường... Ngày được tin ông hy sinh, vợ ông đặt chiếc rađio lên
bàn thờ mà hương khói. Chỉ sau này bà mới biết, chính trong thời gian
đó, ông vẫn đang sống và hoạt động trong nhà tù của địch...
Thoát chết nhờ giả danh là lính thường...
Sau khi nhận chức vụ Sư đoàn trưởng Sư đoàn 1, Đại tá
Trân được lệnh cơ động xuống đồng bằng chiếm lại vùng Bẩy Núi- An Giang.
Để chuẩn bị cho trận đánh, một bộ phận từ biên giới Cămpuchia vượt sông
đi trước. Còn ông cùng mấy anh em trinh sát và một trung đội đi nghiên
cứu chiến trường, chuẩn bị cho đánh lớn. Hôm đó, địch lùng sục rất dữ.
Trên trời, máy bay rình ngó, dưới sông tàu bo bo kiểm tra gắt gao. Phía
trước, dọc sông Vĩnh Tế cách 1 km có trạm gác của bọn bảo an, mật độ gác
dày đặc. Chờ mãi, đến sẩm tối, nghe tiếng tàu bo bo thưa dần, Sư trưởng
Trân quyết định vượt kênh Vĩnh Tế. Với chiếc quần xà lỏn, ông cùng một
số anh em men ra phía bờ kênh. Không ngờ, một đại đội biệt kích Mỹ đã ém
sẵn ở đó. Ông chỉ huy anh em đánh trả nhưng quân ta ít, lại phải đối
mặt với lực lượng địch quá đông, nên hầu hết anh em hy sinh và bị
thương. Ông cũng bị thương nặng. Sư trưởng Trân quờ tay sang bên cạnh,
đồng chí y tá đi theo bị trúng đạn đã tắt thở. Ông với lấy túi thuốc của
y tá quàng lên người. Bọn địch đến gần, rà soát thấy ông còn thở, chúng
đưa ông về Cần Thơ. Chúng thu được trên người ông một khẩu CKC, một túi
y tá có cao hổ cốt, cao khỉ với giấy tờ mang tên Nguyễn Văn Thương,
Thượng sỹ đông y.
Khi một số anh em đi cùng còn sống quay trở lại tìm không thấy thủ trưởng đâu, nghĩ rằng Trần Văn Trân đã hy sinh, liền báo về cho đơn vị. Chính ủy sư đoàn Nguyễn Viên, cử trinh sát tiếp tục đi tìm. Nhân dân vùng đó cho biết đã chôn cất một số anh em. Theo mô tả, có một người giống như ông Trân. Đơn vị đề nghị cho khai quật mộ kiểm tra, nhưng nhân dân cho biết nếu làm như vậy, bọn địch sẽ tàn sát, phá phách vùng này, gây khó dễ cho nhân dân. Đơn vị quyết định báo lên trên. Một thời gian sau, Bí thư Trung ương Cục Phạm Hùng nhận được giấy mật báo từ cơ sở cách mạng ở Cần Thơ. Giấy viết mấy chữ nguệch ngoạc: “Hiện trong nhà tù Cần Thơ có một tù binh tên là Thương, có em là Viên, Uynh. Nghĩ mãi, cuối cùng ông Phạm Hùng cũng luận ra đó chính là Sư trưởng Trần Văn Trân, vì Viên là Chính uỷ Sư đoàn 1, Uynh là Sư đoàn phó Sư đoàn 1. “Không thể để bọn địch biết Trân là cán bộ cao cấp”, ông Hùng ra lệnh phải nghi binh bọn địch, cho đơn vị làm lễ truy điệu cho Sư trưởng Trân bình thường, đồng thời thông báo về gia đình biết và cấp chế độ liệt sỹ.
Và mưu trí
Sinh thời, ông Trân kể rằng, có lần tên Vui là nhân viên nhà tù, quê ở Bến Tre bắt ông chữa bệnh di tinh. Ông trả lời: lấy cái gì mà chữa, tôi làm gì có thuốc. Lần khác tên trung tá Mã Khắc Quy thẩm vấn ông: “Mày là Bí thư Đảng uỷ nhà tù Cần Thơ, phải không Thương?”. Ông trả lời: “Các thầy bắt tôi, giấy tờ trong người là thượng sỹ đông y còn gì”. Mã Khắc Quy thử: “Có mấy thằng Việt cộng nói với tao tiêm nước dừa, huyết gà là tốt hơn xe rom, mày nghĩ sao?”. Ông trả lời: “Tôi không thạo thuốc tây lắm nhưng đứng trước cái sống, cái chết và thiếu thốn, dùng nó là cần thiết, song có lẽ về khoa học không bằng thuốc tây, cao hổ cốt, cao khỉ. Hắn lại hỏi: “Mày nói xem, dụng cụ nấu cao gồm có gì?”. Ông đáp: “ Hai cái chảo gang, một nồi đồng, một cưa sắt và một cái môi vớt bọt”. Đó là những câu trả lời của anh em tù nhân bày cho ông. Nghĩ lại mà phát hoảng, nếu ông chỉ trả lời sai những câu hỏi “cài bẫy” của chúng, dễ gì chúng tha cho ông. Không chỉ bị giam ở Cần Thơ, sau một lần đấu tranh, toàn trại Cần Thơ tuyệt thực trước lúc bầu cử tổng thống Thiệu, 800 tù nhân bị chúng đày ra Phú Quốc, Sư trưởng Trân là thương binh nên bị đưa về nhà tù Hố Nai- Suối Máu.
Với sự mưu trí của vị Sư trưởng, bọn địch không phát
hiện được ông là cán bộ cao cấp của quân đội. Cho đến ngày18 tháng 3 năm
1973, ông được địch trao trả tại sông Thạch Hãn, Quảng Trị. Cởi bỏ quần
áo tù, ông bơi một mạch sang bờ Bắc sông Thạch Hãn, không qua trạm liên
hợp. Xe và cán bộ của Quân khu 4 đã chờ sẵn. Anh em đưa ông về Bộ tư
lệnh B5. Lúc xe chạy vụt đi, bọn địch mới phát hiện được ông là cán bộ
cao cấp, chúng biết đã trao trả nhầm nhưng đã muộn. Thế là sau 3 năm, 1
tháng 16 ngày, ông lại được mặc bộ quân phục Quân đội nhân dân Việt Nam.
Tại Bộ tư lệnh B5, ông gặp lại những người anh em thân thiết như Lê Tự
Đồng, Cao Văn Khánh, Nguyễn Hữu An, được chiêu đãi một bữa tiệc thịnh
soạn, nhưng nào ông có ăn nổi. Bát cơm chan đầy nước mắt bởi ông xúc
động trước tình cảm sâu sắc của đồng đội, người thân.
Kỷ vật một thời
Bà Võ Bích Hà, vợ tướng Trân nhớ lại: “Mùa hè năm 1970,
tôi nhận được giấy mời của Tổng cục Chính trị. Trong giấy mời chỉ ghi
tóm tắt: “Đồng chí đại tá Trần Văn Trân, Sư đoàn trưởng Sư đoàn 1, đã
anh dũng hy sinh ở chiến trường miền Đông Nam Bộ, trong lúc đang làm
nhiệm vụ”, mời gia đình ra Hà Nội dự lễ truy điệu. Đọc xong tờ giấy, tôi
bàng hoàng, sững người. Tim đau nhói, ông đi chiến trường biền biệt,
lúc mất chẳng gặp vợ con. Tôi vừa thương ông ấy, vừa thương đàn con, vừa
lo cho mình. Làm sao nuôi được các con khôn lớn, đứa bé nhất mới có 6
tuổi. “Nghĩ vậy, tôi nuốt nỗi đau, để tang thờ chồng. Ngày truy điệu ông
ấy, bà Hồ Thị Bi ở Cục Chính sách- Tổng cục Chính trị trao chiếc radio
lại cho gia đình. Tôi đặt chiếc radio, vật kỷ niệm còn lại của ông lên
bàn thờ từ đó”, bà Hà tâm sự. Năm 1973, sau khi ra tù, chiếc radio lại
theo ông suốt những ngày ra trận. “Suốt từ năm 1973, đến lúc mất năm
1997, chiếc radio ông dùng mở nghe tin tức qua Đài phát thanh tiếng nói
Việt Nam, tin tức quốc tế, trong nước, nắm tình hình phổ biến cho anh em
đơn vị, bè bạn, người thân”, bà Hà nhớ lại.
Hôm chúng tôi vào thành phố Hồ Chí Minh, đến thăm bà
cũng là để xin chiếc đài của ông về làm vật lưu niệm tại bảo tàng, chiếc
radio do Nhật sản xuất lại được bà đặt trên bàn thờ, gần với ảnh ông.
“Chỉ khác là lần này ông ra đi mãi mãi!”. Kể đến đây, bà Hà lấy khăn lau
nước mắt. Bà đưa cho chúng tôi xem lại cuốn sổ tang. Những bức ảnh,
những lời của đồng đội, người thân khắp mọi miền đất nước, ở nước bạn
đến chia buồn, khóc thương, ca ngợi ông - một vị tướng trưởng thành từ
liên lạc viên, với những trận đánh “xuất quỷ nhập thần”. Trên bàn thờ,
bức ảnh ông, vầng trán rộng, đôi mắt sáng, đầy vẻ hiên ngang. Đồng đội
viếng ông hai câu: “Sống anh dũng, thác trường tồn”...
Lặng đi một hồi, bà quay ra bàn thờ thắp nén nhang, cúi
xin ông, rồi lấy chiếc radio xuống. Bà ôm chặt nó vào lòng như muốn giữ
lại hơi ấm từ kỷ vật thiêng liêng ấy. Bà rút chiếc khăn lau mấy giọt
nước mắt lăn trên gò má nhăn nheo...Trao kỷ vật cho nhân viên bảo tàng,
bà nói: “Nếu vì việc nghĩa, các cháu đưa về bảo tàng giáo dục các thế hệ
sau, chắc ông cũng mãn nguyện”. Từ đó, chiếc radio mang ký hiệu 9350-K
1066, được trân trọng trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam
trong phần “Kỷ vật kháng chiến”.
Bá Kiên - Trần Dương
|
||||||
Việt Báo (Theo_Tien_Phong)
|
Bài 3: Bốn kỷ vật của Đại tướng Văn Tiến Dũng
Những chuyện chưa biết về các kỷ vật
của tướng lĩnh Việt Nam :
Tướng ra trận mang theo... nồi
Sinh ngày 2/5/1917, ở xã Cổ Nhuế (Hà Nội), ngoài cái
tên Văn Tiến Dũng, ông còn có bí danh Lê Hoài. Hoạt động cách mạng từ
thời còn đang là anh công nhân của Xưởng dệt Hà Nội. Sau này, có lần ông
tâm sự: “Chuyện tôi theo cách mạng cũng là chuyện tình cờ. Thời ấy, Mặt
trận Dân chủ Đông Dương (1936-1939) sôi nổi lắm, phong trào công nhân
đấu tranh đòi tự do, dân chủ càng mạnh, nó cứ hút mình vào...”. Ông trở
thành đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương khi vừa tròn 20 tuổi. Nhìn cái
vẻ thư sinh của chàng trai gốc Hà Nội, không ai nghĩ, cậu thanh niên Văn
Tiến Dũng lại là một người Cộng sản gan lì có tiếng. Trong đời hoạt
động của ông, hơn ba lần bị giặc Pháp bắt giam, từng bị chúng kết án tử
hình vắng mặt...
Đầu những năm 1990, một số nhân viên Bảo tàng Quân đội
đến nhà ông xin số ảnh ông chụp chung với Bác Hồ để trưng bày. Gạ mãi,
ông dẫn chúng tôi đi thăm phòng lưu giữ những kỷ vật suốt thời kỳ hoạt
động cách mạng: từ những kỷ vật thời kỳ ông làm Uỷ viên Thường vụ Uỷ Ban
Quân sự Cách mạng Bắc Kỳ (Bộ Tư lệnh Quân sự miền Bắc Đông Dương), thời
kỳ chỉ đạo vũ trang giành chính quyền ở các tỉnh Hoà Bình, Ninh Bình,
Thanh Hoá tháng 8/1945... đến những kỷ vật của thời kỳ ông là Cục trưởng
Cục Chính trị Quân đội Quốc gia Việt Nam, Phó bí thư Quân uỷ Trung
ương. Và nhất là những kỷ vật thời kỳ đầu năm 1948, khi ông được phong
quân hàm thiếu tướng, lúc mới 31 tuổi.
Mỗi kỷ vật của ông, đều gắn với một câu chuyện đời
thường nhưng đầy ý nghĩa. Chỉ tay vào hai chiếc nồi, ông kể: “Cuối năm
1974, đầu năm 1975, ăn tết xong, tôi trực tiếp đi thị sát chiến trường
Tây Nguyên, để chuẩn bị cho chuyến đi, người cần vụ mang theo hai chiếc
xoong (một xoong có cán, một không). Vào đến Quảng Bình thì người dân
tặng tôi một con gà mái làm thịt, chú cần vụ định giết thịt luôn, nhưng
tôi bảo “chú đừng thịt mà cứ mang theo”. Chú cần vụ cho gà vào lồng
xách. Trên đường vào chiến trường, lúc đi xe, khi đi bộ. Dừng chân ở đâu
thì cần vụ lại cho gà ăn, để nó đẻ trứng. Trong khẩu phần ăn ở chiến
trường hồi đó, dù mình là Đại tướng, Tư lệnh chiến dịch Hồ Chí Minh
nhưng cũng chỉ toàn lương khô và thịt hộp. Nên gà đẻ trứng nào thì cần
vụ lại hấp trứng với cơm, coi như đó là một bữa ăn tươi”. Con gà mái đẻ
ấy là nguồn sản sinh trứng bồi dưỡng cho Đại tướng trong suốt chiến dịch
Tây Nguyên.
“Tướng mũ mềm”
Những người ở gần ông thường thấy tướng Dũng gắn bó rất
chặt chẽ với chiếc mũ lưỡi trai mềm: kể cả khi đi họp, lúc ở chiến
trường...thì ông đều đội. Bởi thế, có người vẫn thân thiện gọi ông là
“Tướng mũ mềm”. Khi ông đã nghỉ, nhân viên bảo tàng đến hỏi xin chiếc mũ
mềm mà ông vẫn thường đội về trưng bày, ông bảo “đó là vật bất li thân,
làm sao cho được”. Rồi ông kể: “Năm 1965, máy bay Mỹ đánh phá miền Bắc,
ông đi thăm các đơn vị bộ đội pháo cao xạ ở Khu 4. Nắng Khu 4 cháy
bỏng, nhưng bộ đội trực chiến phải ngồi trên mâm pháo, dưới cát nóng,
trên trời nắng cháy, nhưng chiến sỹ lại phải đội trên đầu mũ sắt. Hỏi
“anh em đội mũ sắt có nóng không?”, anh em bảo cũng nóng, lại hỏi “thế
có chịu được không?”, trả lời “chịu được!”. Sau chuyến đi ấy, hình ảnh
những người lính pháo binh phải đứng giữa trời chống chọi với cái nóng
cứ ám ảnh ông mãi. “Tôi cứ day dứt, phải nghĩ ra cái gì đó bọc chiếc mũ
sắt cho anh em đỡ nóng”, ông tâm sự. Ông liên tưởng đến chiếc mũ mềm, có
lưỡi trai cứng bên ngoài của quân đội Pháp. Rồi quân đội của một số
nước cũng có chiếc mũ lưỡi trai kiểu như vậy. Nghĩ vậy, ông gọi Cục quân
trang lên hỏi: “Các anh xem có thể cải tiến được cái mũ không?”, rồi
ông gợi ý những kiểu mũ có lưỡi trai của quân đội các nước. Cục quân
trang về may một chiếc mũ cho ông đội thử, ông khen: “Thế này là tốt,
chỉ cần chỉnh sửa chút ít và gắn sao vàng phía trước là đẹp”. Đội bình
thường cái lưỡi trai có thể che nắng phía trước đỡ chói mắt, còn khi cần
chỉ cần quay lưỡi trai ra phía sau thì sẽ che nắng được sau gáy. Từ đó,
khắp các chiến dịch Tây Nguyên, Hồ Chí Minh, đi đâu ông cũng đội mũ
mềm. Tại Đại hội Anh hùng chiến sỹ thi đua toàn miền Nam 1966-1967,
chiếc mũ mềm bắt đầu được sản xuất hàng loạt cho bộ đội. Chiếc mũ được
giữ trong quân đội đến năm 1992, thì được thay bằng mũ kêpi.
Và đôi giày vạn dặm
Chị Trần Thanh Hằng, nhân viên Bảo tàng Quân đội kể rằng, trong một lần đến xin tướng Dũng những đôi giày mà
ông đã đi trong các chiến dịch Đường 9 - Nam Lào, Tây
Nguyên và chiến dịch Hồ Chí Minh về làm vật trưng bày, mới nghe được câu
chuyện khá thú vị: trong suốt những chiến dịch ấy, Đại tướng chỉ sử
dụng đúng một đôi giày, do chính ông đặt một người thợ ở Hà Nội đóng.
Hỏi vì sao? ông nói: “Vì kiểu chân tôi hơi khác loại, nên không đi được
giày theo cỡ chung mà phải đặt đóng”. Cũng chính thế, ông rất quý đôi
giày đó. Trong suốt các chiến dịch mà ông trực tiếp chỉ huy, đôi giày đã
được ông thay đế đến 5 lần. Cứ mòn đế ông lại đóng lại. “Chúng tôi phải
năn nỉ mãi, Đại tướng mới “rút ruột” mang đôi giày tặng bảo tàng”, chị
Hằng nói.
Trước khi mất, tướng Dũng còn tự tay mang tặng Bảo tàng
Quân đội khẩu súng ngắn K59, do Liên Xô viện trợ giúp Việt Nam trong
kháng chiến chống Mỹ, được Bộ Tổng tham mưu trang bị khi ông làm Tổng
tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam. Khẩu súng ấy được ông dùng
từ năm 1970 để tự vệ trên đường đi công tác tại các chiến trường. Ông
bảo: “Tuy khẩu súng được ông mang theo trong suốt các chiến dịch, nhưng
chưa khi nào ông phải dùng nó”. Một lần, nhân ngày 30-4, ông đến Bảo
tàng mang theo bộ quân phục, còn nguyên cả quân hàm Đại tướng tặng Bảo
tàng. Sau đó một năm thì ông mất...
Bá Kiên - Trần Dương
|
||||
Việt Báo (Theo_Tien_Phong)
|
Bài 4 : “Chiến lợi phẩm” của vị tướng anh hùng thu được của
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu
Những chuyện chưa biết về các kỷ vật
của tướng lĩnh Việt Nam :
Mê súng từ nhỏ, trưởng thành từ một người lính “Biệt
động Sài Gòn”, ông là một trong những người đầu tiên đặt chân vào Dinh
Độc Lập, giải phóng Sài Gòn. Được nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng
Lực lượng vũ trang nhân dân. Với mỗi chiến công, ông đều có những kỷ
vật là...súng. Ông chính là cựu Chủ tịch UBNDTP Hồ Chí Minh Võ Viết
Thanh.
“Bảo tàng” súng trong... nhà
Ngôi biệt thự số 9, đường Tú Xương, phường 7, quận 3 là
nhà ông. Cánh cửa sắt hé mở. Biết chúng tôi hẹn trước, người giúp việc
nói: “ông đang đợi trong nhà”. Mặc dầu ông đã rời nhiệm sở từ mấy năm
nay, nhưng ông vẫn khá bận rộn. Sau hai lần lỡ hẹn, lần này chúng tôi
gặp được ông, khi đó kim đồng hồ đã chỉ 21 h.
Dáng cao gầy, đi lại nhanh nhẹn, vầng trán rộng trên
khuôn mặt cương nghị. Ông nói vừa mới từ Tây Nguyên về, rồi sáng mai lại
phải đi tiếp Cần Thơ. Công việc quá bận nên lỡ hẹn, mong chúng tôi
thông cảm vì sự chậm trễ. Ông đưa chúng tôi lên căn phòng lưu niệm của
gia đình. Ông cho biết, vật gì ở đây cũng gắn với ông, với những kỷ niệm
về các trận đánh, về đồng đội, người thân, trong đó người còn, người
mất. Chúng tôi ngạc nhiên vì ý thức giữ gìn và sự cẩn thận, tỷ mỷ của
gia chủ.
Điều gây chú ý với chúng tôi là bộ sưu tập vũ khí cá
nhân treo trên tường, trưng bày trong tủ. Toàn súng là...súng. Như đoán
được ý nghĩ đó, ông lấy ra từng khẩu rồi kể: “Đây là Khẩu M-79 mang số
hiệu A-90951, chiến lợi phẩm tôi thu được của bọn Mỹ năm 1963, khi chúng
càn quét công xưởng ở Cồn Rừng, xã Thanh Phong, huyện Thanh Phú. Đây là
khẩu AK kiểu báng gập Liên Xô sản xuất, mang số súng 61 K2615, do Xưởng
sản xuất vũ khí của tỉnh đội Bến Tre trang bị cho, khi tôi là đại đội
phó của xưởng năm 1964. Đây là khẩu súng ngắn K-59 do Liên Xô sản xuất
mang số súng 6237, tỉnh đội Bến Tre trang bị năm 1968... “Tất cả các
loại súng này là vật bất ly thân, lúc nào tôi cũng mang theo sử dụng khi
chiến đấu”, ông tâm sự. Khẩu AK dùng khi bắn thẳng, khẩu M-79 dùng bắn
cầu vồng, khẩu K-59 dùng tự vệ hoặc khi chỉ huy bộ đội chiến đấu. Với
các loại vũ khí này, ông đã cùng đồng đội chiến đấu nhiều trận, diệt hơn
180 tên Mỹ Ngụy, bắn hỏng một tàu chiến, bắn rơi và phá huỷ 5 máy bay
lên thẳng của địch, góp phần bảo vệ căn cứ, đảm bảo an toàn cho xưởng
sản xuất vũ khí từ năm 1964 đến khi tiến hành chiến dịch Hồ Chí Minh.
Và khẩu súng bắn tỉa của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu
Đứa con mồ côi trở thành Trung Tướng-anh hùng
Ông sinh ra trên quê hương Bến tre, rợp bóng dừa. Tuổi
thơ theo cha vào xưởng quân giới học chữ, học nghề lúc mới tròn 7 tuổi.
Những năm tháng sống cùng cha ở Xưởng quân giới, “máu” thích súng đã
ngấm trong ông. Lớn lên, tham gia Đội võ trang tuyên truyền. Năm 1959,
cha mẹ ông đều bị địch bắt giam tại nhà tù Phú Lợi. Ngày 26 tháng 8 năm
1962, chúng giết hại, ném xác cha, mẹ xuống sông. Chuyện này ba năm sau
ông mới được biết qua bà Ba Định, nguyên Phó tư lệnh quân giải phóng
miền Nam. Từ đó, lòng căm thù nguỵ quyền sôi sục trong ông. Rồi ông tham
gia Đội biệt động, bị địch bắt. Ra tù, lại về binh công xưởng, được đề
bạt làm Phó giám đốc công trường Bến Tre, chuyên sửa chữa vũ khí, làm
mìn thuỷ lôi. Ông đã cùng đồng đội chiến đấu dũng cảm tiêu diệt nhiều
phương tiện địch. Ông được Nhà nước tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ
trang nhân dân ngày 5 tháng 9 năm 1970.
Từ một cậu bé con mê súng, anh lính “biệt động”, ông
trở thành Anh hùng, được thăng tới quân hàm Trung tướng. Ông từng làm
đến chức Thứ trưởng Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an), kiêm Tổng cục trưởng
Tổng cục An Ninh. Trước khi nghỉ hưu, ông là Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân
thành phố Hồ Chí Minh. Mặc dầu rất yêu quý những kỷ vật của mình, nhưng
ông đã trao tặng cả bốn khẩu súng đó (ông đều có giấy phép sử dụng-TG)
cho Bảo tàng lịch sử quân sự, trong đó có cả khẩu súng bắn tỉa thu được
của Nguyễn Văn Thiệu. “Vì mỗi người dân cần phải có nhiệm vụ đóng góp
hiện vật cho Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam, nhằm tuyên truyền, giáo
dục truyền thống của Quân đội nhân dân Việt Nam cho các thế hệ sau, nhất
là thế hệ trẻ”, ông nói.
Bá Kiên - Trần Dương
|
|||||
Việt Báo (Theo_Tien_Phong)
|
Bài 5: Tấm bản đồ chỉ đường cho Thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu
Những chuyện chưa biết về các kỷ vật của tướng lĩnh Việt Nam 5
Thượng tướng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Nguyễn Huy Hiệu
có lần kể rằng, trong cuộc đời “binh nghiệp” của mình, ông không bao giờ
quên được hình ảnh má Sáu Ngẫu. Hình ảnh bà má miền Nam này đã in đậm
trong tâm trí của những người lính Trung đoàn 27 (do ông làm Trung đoàn
trưởng), kể từ cái đêm má mở cửa cho ông cùng đồng đội vào nhà, rồi má
lục đục lấy ra tấm bản đồ chỉ nơi đồn trú của địch...
Má Sáu Ngẫu và tấm bản đồ
Lúc này đã sẩm tối. Đội hình hành quân của Trung đoàn
27 tạm dừng ở một vạt cao su bên lộ. Trung đoàn trưởng Nguyễn Huy Hiệu
ra lệnh cho mọi người tản ra theo đội hình chiến đấu, cử trinh sát đi
kiểm tra khu vực tạm dừng, rồi triệu tập đồng chí Trịnh Văn Thư, Chính
uỷ Trung đoàn, và tổ trinh sát hội ý. Ngồi phệt xuống bãi cỏ nghỉ chờ
mọi người đến, Trung đoàn trưởng Nguyễn Huy Hiệu cau mày suy nghĩ. Anh
tỏ vẻ lo lắng: Ngày mai Trung đoàn sẽ tiến công cửa Lái Thiêu để tiến
vào Sài Gòn, vậy mà giờ này đơn vị vẫn chưa nắm được tình hình địch ở
Lái Thiêu và tuyến tử thủ Sài Gòn. Trán ông lấm tấm mồ hôi, có giọt chảy
rớt vào mắt làm cay xè...
Theo lệnh của Sư đoàn, Trung đoàn của Nguyễn Huy Hiệu
có nhiệm vụ là mũi tiến công, thọc sâu vào mở cửa Lái Thiêu. Dưới sự chỉ
huy của Phó tư lệnh Sư đoàn Lê Quang Thuý, Trung đoàn theo đường Tân
Uyên - Tân Ba vào đánh chiếm Lái Thiêu, bảo đảm thông đường đúng thời
gian quy định. “Khó khăn lớn nhất đối với Trung đoàn lúc này là chưa nắm
được địch và tình hình khu vực. Vậy mà chỉ có đêm nay nữa thôi, mọi
việc phải quyết định rồi”, Chính ủy Trịnh Văn Thư nhớ lại.
Đêm đó, trời bỗng đổ mưa rào. Con đường vào quận lỵ
chìm trong bóng tối và nước mưa. Tổ trinh sát đội mưa, lặn lội vượt qua
bãi tha ma, bám theo hàng cây ven đường vào quận lỵ. Đến ngôi nhà nhỏ le
lói ánh sáng đèn, Trung đoàn trưởng Hiệu, Chính uỷ Thư dừng lại phía
ngoài, trinh sát vào nhà gõ cửa. Tiếng một bà già hỏi vọng ra: “Ai gọi
gì đó!?”. Trinh sát trả lời: “Chúng tôi là Quân giải phóng, là bộ đội Cụ
Hồ!”. Nghe đến tên Cụ Hồ, bà má mạnh dạn ra mở cửa, giơ cao ngọn đèn,
nhìn kỹ từng chiến sỹ. Nhận ra là người của ta, má khẽ reo lên: “Hồ Chí
Minh!”. Nhận được “mật khẩu”, biết chắc chắn đây là cơ sở cách mạng của
ta, đồng chí trinh sát đáp lại mật khẩu: “Muôn năm!”. Má mừng quýnh lên,
cầm tay từng chiến sỹ kéo vào nhà rồi khép cửa lại. Má kể, chồng má là
ông Hai Nhượng trước đây hoạt động cách mạng bị địch bắt và giết hại hồi
Tết Mậu Thân. Trong nhà hiện có con gái tên Phước 17 tuổi và cậu Đức 13
tuổi. Má cùng hai con tham gia hoạt động ở đây. Má đề nghị Trung đoàn
trưởng có yêu cầu gì cần giúp thì cứ nói. Trung đoàn trưởng Hiệu đề nghị
má cho biết tình hình địch và địa hình, đường đi vào quận lỵ Lái Thiêu.
Rồi ông trải tấm bản đồ lên bàn, đối chiếu với lời má kể. Má khêu to
ngọn đèn, nhìn tấm bản đồ rồi nói: “Bản đồ này má không quen, để má lấy
bản đồ của má!”. Nói rồi, má vào nhà lấy tấm bản đồ đô thành Sài Gòn đưa
cho chúng tôi. Má chỉ cho chúng tôi các trục đường, các vị trí đóng
quân của địch và cho biết tình hình. Vừa nói, má vừa đánh dấu các vị
trí: Hôm qua, địch đưa một tiểu đoàn bảo an từ Sài Gòn ra và hai khẩu
pháo 175 từ Bình Dương về tăng cường cho Lái Thiêu. Từ trục lộ 13 vào
Sài Gòn vấp trại Trung tâm huấn luyện Huỳnh Văn Lương. ở đây có khoảng
2.000 tên, có 2 chi đoàn xe tăng, 1 tiểu đoàn pháo. Ngoài ra còn có một
số tàn quân từ nơi khác chạy về. Các vị trí trong khu vực được cấu trúc
kiên cố liên hoàn, ngoài có nhiều lớp dây thép gai, xen kẽ chướng ngại
vật. Ban đêm địch thiết quân luật. Cầu Vĩnh Bình địch gài mìn, chất đầy
chướng ngại vật, cầu Lái Thiêu mới làm lại, hẹp, xe tăng ta khó qua
được...
“Chúng con hứa sẽ trả thù cho má !”
Trung đoàn trưởng Hiệu và Chính ủy Thư cùng các trinh
sát xin phép má lên đường. Má “xin” trực tiếp dẫn đường cho đơn vị. Thấy
má đã ngoài 60 tuổi, lại đêm hôm mưa gió, Chính uỷ Thư động viên má và
hứa: “Anh em trong đơn vị sẽ quét sạch bọn địch ở Lái Thiêu, trả thù cho
má và bà con cô bác”.
Có bản đồ, nắm được tình hình địch, Chính uỷ Thư và
Trung đoàn trưởng Hiệu nhận định: Địch tuy đông, phòng thủ có chiều sâu,
nhưng tổ chức ô hợp. Tàn binh chạy về gây tâm lý hoang mang. Trận đánh
qua Lái Thiêu đập tan tuyến tử thủ Sài Gòn là hết sức quan trọng, có ý
nghĩa quyết định đến việc hoàn thành nhiệm vụ của Sư đoàn. Trung đoàn 27
đánh nhanh hay chậm đều ảnh hưởng trực tiếp đến thời gian thọc sâu của
Sư đoàn trong việc đánh chiếm mục tiêu. Vì vậy, bằng giá nào cũng phải
tiến công đánh qua Lái Thiêu và tuyến tử thủ Sài Gòn theo đúng kế hoạch,
thời gian. Quyết tâm của Trung đoàn là: “Nhanh chóng tiêu diệt địch ở
chi khu và quận lỵ Lái Thiêu, bao vây chia cắt cô lập và bức hàng trung
tâm huấn luyện của địch. Đồng thời nhanh chóng đánh chiếm cầu Bình
Phước, cầu Vĩnh Bình và cầu Lái Thiêu, tạo điều kiện thuận lợi cho Sư
đoàn thọc sâu, đánh vào các mục tiêu chủ yếu trong Sài Gòn”.
Nắm được tình hình địch, Trung đoàn lên phương án tác
chiến và bắt đầu tiến công Lái Thiêu lúc 4h15’ sáng 30/4/1975. Sau 2 giờ
liên tục chiến đấu, Trung đoàn 27 đã hoàn toàn làm chủ Lái Thiêu. Cánh
cửa Bắc Sài Gòn đã mở nhưng quân địch ở cầu Vĩnh Bình vẫn chống cự ác
liệt. Đánh chiếm cầu Vĩnh Bình, ngoài Trung đoàn 27 có Đại đội xe tăng
của tiểu đoàn 66 tăng cường. Dưới sự chỉ huy dũng cảm mưu trí của đại
đội trưởng Hoàng Thọ Mạc, đại đội đã phát huy tối đa sức đột phá của xe
tăng. Đồng chí Hoàng Thọ Mạc nhảy xuống xe chỉ huy bộ đội chiến đấu,
tiêu diệt địch giành giật với chúng từng mét đường để quân ta tiến qua
cầu. Hoàng Thọ Mạc đã anh dũng hy sinh trước lúc quân ta làm chủ cầu
Vĩnh Bình. (Sau chiến dịch này, Hoàng Thọ Mạc đã được Nhà nước truy tặng
danh hiệu Anh hùng LLVTND).
Hoàn thành nhiệm vụ mở đường, Trung đoàn liên lạc với
lực lượng địa phương do đồng chí Sáu Châu và nữ đồng chí Hai Mỹ dẫn
đường cho Trung đoàn vào Sài Gòn đánh chiếm 13 mục tiêu của địch ở Gò
Vấp.
“Trận đánh qua Lái Thiêu, đập tan tuyến tử thủ Sài Gòn
đánh chiếm các mục tiêu thắng lợi của Trung đoàn 27 có sự đóng góp của
má Sáu Ngẫu. Với tấm bản đồ nội đô Sài Gòn do má Sáu Ngẫu cung cấp,
Trung đoàn 27 cùng với các đơn vị trong Sư đoàn tiến đánh các mục tiêu
chính xác, làm giảm rất nhiều thương vong cho Trung đoàn”, cựu Chính uỷ
Thư khẳng định.
Sau trận đánh này, tấm bản đồ được Trung đoàn trưởng
Nguyễn Huy Hiệu giữ lại làm kỷ niệm. Sau này, cứ đến ngày kỷ niệm 30
tháng 4, chiến sỹ các thế hệ Trung đoàn 27 lại truyền nhau câu chuyện
năm xưa về má Sáu Ngẫu với cái tên rất đỗi thân thương trìu mến “Bà má
tham mưu” của Trung đoàn. Với sự tích đó nhạc sỹ Văn Thành Nho sau này
đã viết bài hát “Tấm bản đồ má trao”. Tấm bản đồ và bài hát đã đi vào
truyền thống Trung đoàn.
Nguyễn Huy Hiệu được Nhà nước tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân năm 1973. Bây giờ ông là Thượng tướng, ủy viên Trung ương Đảng, ủy viên thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng.
Mới đây, đơn vị đã trao tặng Bảo tàng Lịch sử Quân sự
Việt Nam tấm bản đồ Sài Gòn và bức ảnh chụp tại nhà má Sáu Ngẫu. Tấm bản
đồ đã trải qua chiến đấu, nhiều năm tháng nó không còn được nguyên vẹn
nhưng nó vẫn là một kỷ niệm sâu sắc gắn với cuộc đời chiến đấu và ký ức
của những người lính Trung đoàn 27, Trung đoàn Triệu Hải Anh hùng. Chị
Trần Thanh Hằng, nhân viên Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam cho biết:
“Tấm bản đồ, bức ảnh giờ trở thành hiện vật của Bảo tàng. Nó sẽ được
trưng bày trân trọng tại Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam nhân kỷ niệm
30 năm ngày hoàn toàn giải phóng miền Nam”.
Bá Kiên - Trần Dương
|
|||||
Việt Báo (Theo_Tien_Phong)
|
Bài 6: Tám huy hiệu của Bác Hồ tặng Thượng tướng Phạm Thanh Ngân
Những chuyện chưa biết về các kỷ vật của các tướng lĩnh Việt Nam
Trong cuộc đời binh nghiệp của tướng Phạm Thanh Ngân,
có một điều khá thú vị là phần lớn những kỷ vật của ông đều gắn với
những kỷ niệm về Bác Hồ: Ông được Bác Hồ tặng tám chiếc huy hiệu, vì tám
lần bắn rơi tám chiếc máy bay. Ông cũng là một trong những Anh hùng
không quân được trực tiếp gặp Bác Hồ, được Bác tặng chiếc đồng hồ có
khắc chữ ở mặt sau “Bác Hồ tặng Phạm Thanh Ngân, tháng 12 năm 1968”...
Ông khệ nệ mang chiếc cặp đựng những kỷ vật của mình ra
tìm chọn những thứ trao cho nhân viên bảo tàng. “Đây là 8 chiếc Huy
hiệu Bác Hồ tặng sau mỗi lần bắn rơi máy bay Mỹ. Còn đây là chiếc đồng
hồ do Liên Xô sản xuất, mặt sau khắc chữ” Bác Hồ tặng Phạm Thanh Ngân,
tháng 12 năm 1968”. Còn đây là bức ảnh Bác Hồ chụp với Anh hùng chiến sỹ
thi đua tiêu biểu hai miền Nam Bắc tại Phủ Chủ tịch ngày 20 tháng 7 năm
1968...”, Tướng Ngân bắt đầu câu chuyện với chúng tôi bằng những kỷ vật
mà cả cuộc đời chinh chiến trận mạc ông gắn bó.
Ông kể: “Dạo đó đang là đầu mùa thu, 15 Anh hùng, chiến
sỹ thi đua, thanh niên xung phong, du kích tiêu biểu, có nhiều thành
tích chiến đấu và phục vụ chiến đấu xuất sắc ở hai miền Nam Bắc được mời
đến Phủ Chủ tịch gặp Bác. Nhận được giấy triệu tậm của Quân chủng, tôi
mừng lắm. Chỉ mong sao cho đến ngày được gặp Cụ, thế rồi ngày đó cũng
đến”.
Bước chân vào Phủ Chủ tịch, một dãy bàn dài phủ khăn
trắng, dưới vòm cây xanh mát, quanh vườn tràn ngập hương hoa ngọc lan và
tiếng chim ríu rít. Bác ngồi giữa bàn, hai bên là hai chiến sỹ gái ở
miền Nam mới ra. ở dãy đối diện có bác Phạm Văn Đồng. Đứng dưới gốc cây
là nhà báo Bớc-sét. Chúng tôi kế tiếp nhau ngồi quanh hai bác. Trên bàn
bày hoa, nước. Bác đã chuẩn bị sẵn mời chúng tôi. Bác hỏi thăm sức khoẻ
của bộ đội và du kích, hỏi những khó khăn trong sinh hoạt và chiến đấu.
Mỗi người đều được Bác hỏi chuyện. “Khi đến lượt tôi, Bác hỏi: “ Cháu kể
chuyện đi?”. Tôi bẽn lẽn: “Thưa Bác, cháu kể chuyện về không quân ạ !”.
Tôi lần lượt kể cho Bác nghe những trận chiến đấu của mình...
Phạm Thanh Ngân bắt đầu tham gia chiến đấu từ tháng 6 năm 1966, khi địch đánh kho xăng Đức Giang ( Hà Nội) và Thượng Lý (Hải Phòng)…mở đầu bước leo thang mới đánh phá hệ thống xăng dầu và Thủ đô Hà Nội. Lúc đầu Phạm Thanh Ngân rất bỡ ngỡ, vì ngay cả ở dưới mặt đất còn chưa đánh địch bao giờ huống chi đánh chúng ở trên trời. Được đồng chí Trần Hanh truyền đạt cho một số kinh nghiệm, nhưng khi gặp địch trận đầu, địch rất đông, gấp hàng chục lần máy bay của ta, lần đầu tiên tham gia chiến đấu, Ngân không bắn rơi được máy bay Mỹ nào. Đến khoảng tháng 10, tháng 11 năm 1967, Phạm Thanh Ngân tham gia các trận chiến đấu dồn dập hơn. Lại được Nguyễn Văn Cốc bay cùng. Hai người thường bay yểm hộ cho nhau.
Nghe tôi báo cáo xong, Bác Hồ căn dặn: “Các chú phải
chăm học tập, rèn luyện hơn nữa, càng học tập, càng tiến bộ, càng tiến
bộ thì đánh địch càng giành thắng lợi”. Tôi nhìn Bác lòng dâng trào cảm
động.
Ông lấy từng kỷ vật. Chiếc đồng hồ đeo tay nhìn như còn
mới. Ông nói: “đây là chiếc đồng hồ của Bác Hồ tặng cho những người bắn
rơi nhiều máy bay Mỹ khi Người đến thăm Quân chủng Phòng không-Không
quân. Tôi giữ nguyên trong hộp làm kỷ niệm từ đó đến giờ. Chợt nhớ ra
điều gì, ông chạy vào buồng lấy ra chiếc mũ bay. Ông nói: “Còn đây nữa,
chiếc mũ này cùng tôi lập chiến công bắn rơi 8 máy bay Mỹ từ năm
1966-1969. Tất cả những gì quý nhất trong cuộc đời chiến đấu, tôi trao
cho bảo tàng để góp phần giáo dục truyền thống cho thế hệ trẻ Bộ đội Cụ
Hồ.
Bá Kiên - Trần Dương
|
|||||||
Việt Báo (Theo_Tien_Phong)
|
Bài 7 : Khẩu thần công dưới nhà Đại tướng Chu Huy Mân
Những chuyện chưa biết về các kỷ vật của tướng lĩnh Việt Nam
Súng thần công dưới nhà Đại tướng
Từ cái đận, nhà văn Chu Lai cho ra đời tác phẩm “Hà Nội
Phố”, người dân Hà Nội vẫn thường gọi phố Lý Nam Đế là “phố nhà binh”.
Nhiều năm nay, Đại tướng Chu Huy Mân và gia đình đã sống với cái vui,
cái buồn của con phố nhỏ này. Nhà ông ở số 36, Lý Nam Đế.
Năm 2001, gia đình ông đang sửa nhà để chuẩn bị cho lễ
mừng thọ lần thứ 90 của vị tướng già. Buổi sáng ngày 25 tháng 5, tốp thợ
đào đường ống cũ sau nhà, đến độ sâu 80 cm, phát hiện một vật gì rất
rắn, họ lấy xà beng chọc xuống không nhầm nhò gì. Họ càng đào, càng thấy
vật này khá dài bèn báo với gia đình.
Tốp thợ tiếp tục đào rộng ra. Đến khi chiếc hố đào rộng
ra, chu vi dễ gần đến 2 mét, thì vị tướng già phát hiện đó là một khẩu
thần công. “Tôi gọi anh tổ trưởng, tổ chức hơn 10 người dùng chão, ròng
rọc đưa lên khỏi mặt đất rồi khênh ra đây, rửa sạch. Tôi loay hoay tìm
trên súng có đặc điểm gì không? không thấy chữ gì, lâu quá, súng han gỉ,
không còn nhìn ra chữ gì nữa...”, Đại tướng nhớ lại.
Người dân Lý Nam Đế biết chuyện ai cũng ngỡ ngàng: súng thần công của các bậc tiền bối
Còn con trai ông, dự định sẽ rửa sạch khẩu thần công,
xây một bệ đá thật đẹp ở trước cửa rồi đặt khẩu thần công lên đó, để mọi
người đến đây có thể chiêm ngưỡng nó. “Nhưng buổi trưa ăn cơm xong, tôi
bật ti vi xem bản tin thời sự của Đài truyền hình Việt Nam thấy Quốc
hội đang thảo luận về Luật Di sản Văn hoá. Tôi nghĩ đây là tài sản quốc
gia, mọi người dân phải có trách nhiệm đóng góp hiện vật cho bảo tàng,
để giữ gìn, bảo quản được lâu dài, phát huy tác dụng trong công tác
nghiên cứu và giáo dục. Tôi nghĩ ngay đến chuyện phải chuyển ngay khẩu
súng thần công này đến Bảo tàng Quân đội (nay là Bảo tàng Lịch sử Quân
sự Việt Nam) theo Luật di sản. Đầu giờ buổi chiều, tôi lập tức gọi điện
cho anh Lê Mã Lương, Giám đốc bảo tàng, để anh ấy cử cán bộ tới chuyển
về bảo tàng trưng bày”, đại tướng nói.
Chị Trần Thanh Hằng, nhân viên được Bảo tàng cử đến
nhận khẩu súng thần công kể: “Chiều đó, ông đưa chúng tôi tới góc vườn,
nơi khẩu súng thần công đã được đưa lên khỏi mặt đất và được rửa sạch
bùn đất. 15 giờ 30 phút cùng ngày, khẩu súng thần công được cẩu lên xe
chuyển về bảo tàng, được đặt trưng bày dưới chân kỳ đài Hà Nội.
Trước khi đưa ra trưng bày, Bảo tàng mời các chuyên gia
về súng thần công của Bảo tàng Lịch sử và Viện Khảo cổ học đến xác định
niên đại. Các nhà nghiên cứu căn cứ vào hình dáng cấu tạo, chất liệu,
cỡ nòng, độ dài đưa ra kết luận: Súng thần công được chế tạo từ thời
Nguyễn có niên đại khoảng cuối nửa thế kỷ XIX. Khẩu thần công này có khả
năng các cụ xưa dùng bảo vệ thành Hà Nội.Sau đó ít lâu, Tổng Bí thư
Nông Đức Mạnh và Đại tướng Chu Huy Mân đến thăm Bảo tàng Lịch sử Quân sự
Việt Nam đã chụp ảnh lưu niệm cạnh khẩu thần công này.
Và chiếc đồng hồ Bác tặng
Với vóc dáng đậm, nhanh nhẹn, vầng trán rộng, nước da
hồng hào, nét mặt cương nghị, khó ai đoán được ông đã ở tuổi ngoài 90. ở
ông toát lên một phẩm chất đặc biệt, một tính cách mạnh mẽ. Ngoài khẩu
súng thần công, ông đã hiến tặng bảo tàng 5 kỷ vật quý giá của cuộc đời
quân ngũ, cuộc đời của vị tướng cầm quân đánh giặc gan góc, lừng lẫy một
thời ở chiến trường Khu 5.
Trong số kỷ vật đó có chiếc đồng hồ Wyler do Chủ tịch
Hồ Chí Minh tặng ông tháng 5 năm 1957. Hỏi vì sao Bác Hồ lại tặng đồng
hồ cho ông, ông bảo: “Hồi đó ông Cụ chỉ nói ngắn gọn “Bác tặng đồng hồ
cho chú vì chú có thành tích giúp Đảng, nhân dân cách mạng Lào xây dựng
lực lượng vũ trang trong kháng chiến chống Pháp”. Mặt sau chiếc đồng hồ
khắc chữ Hồ Chí Minh bằng chữ Hán. Đây là một trong ba chiếc đồng hồ,
Chủ tịch Hồ Chí Minh tặng cho ba cán bộ quân đội có đóng góp công lao to
lớn trong cuộc kháng chiến chống Pháp (Đại tướng Chu Huy Mân, đồng chí
Nguyễn Chánh- Tổng cục trưởng Tổng cục Cán bộ và đồng chí Nguyễn Bá
Phát- Cục trưởng Cục bờ biển).
Ông cười hiền hậu và nói với chúng tôi, đã có lúc nghĩ
lại, tôi muốn đề nghị bảo tàng cho mượn lại chiếc đồng hồ, tôi sẽ đặt
làm một chiếc hộp sơn son thếp vàng thật đẹp đặt trên bàn thờ gia đình,
để tôi luôn được nhớ lại những kỷ niệm của những năm tháng đánh giặc
dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự dìu dắt của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Khi
tôi đi theo Bác Hồ, gia đình sẽ gửi lại bảo tàng. “Nghĩ vậy, nhưng làm
sao mình phạm Luật di sản văn hoá được.
Hiện vật bảo tàng là tài sản vô giá của quốc gia, của
dân tộc, nó có những nguyên tắc riêng. Hiện vật được lưu giữ và trưng
bày ở bảo tàng có tác dụng giáo dục lòng yêu nước và những tình cảm cách
mạng trong sáng cho các thế hệ đặc biệt là thế hệ trẻ là tốt lắm”, ông
tâm sự.
Bá Kiên - Trần Dương
|
||||||||
Việt Báo (Theo_Tien_Phong)
|
Bài 8 : Vị đại tướng đầu tiên và những kỷ vật vô giá
Những chuyện chưa biết về các kỷ vật của tướng lĩnh Việt Nam
Đại tướng tuổi 37
Những năm gần đây, Đại tướng Võ Nguyên Giáp trao cho
bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam khá nhiều hiện vật lịch sử gắn với ông
và quân đội trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, Mỹ và công cuộc bảo
vệ Tổ quốc. Trong số đó có bộ quân phục đại lễ ông mặc trong lễ phong
quân hàm cấp tướng của quân đội ta và bức ảnh Bác Hồ, cùng các lãnh đạo
Đảng, Nhà nước chụp với các đồng chí được phong quân hàm cấp tướng năm
1958, tại Bộ Quốc phòng ở Hà Nội. Các tướng lĩnh được phong trong bức
ảnh hồi đó còn rất trẻ, nhiều người sau này trở thành Bộ trưởng Bộ Quốc
phòng, Tổng tham mưu trưởng, Tư lệnh các mặt trận, Quân khu…những vị
tướng lừng danh đến kẻ thù khi nghe tên cũng phải nể trọng.
Cầm bức ảnh trên tay, vị tướng già bồi hồi nhớ lại kỷ
niệm sâu sắc nhất suốt cuộc đời mình, một lễ phong quân hàm cấp tướng
diễn ra trước sự kiện trong tấm ảnh 10 năm trời. “Đó là vào một buổi
chiều ngày 25 tháng 1 năm 1948, ở Việt Bắc, tôi vinh dự được dự lễ phong
quân hàm cấp tướng. Dưới vòm lá xum xuê của cây rừng, ven dòng suối
nhỏ, một hội trường mới được dựng lên, trên lợp bằng phên nứa. Trong hội
trường, hai bên tường là hai hàng khẩu hiệu cắt bằng giấy: “Trường kỳ
kháng chiến nhất định thắng lợi; thống nhất độc lập nhất định thành
công”. Dưới lá cờ đỏ sao vàng, là bàn thờ Tổ quốc. Bác Hồ và cụ Bùi Bằng
Đoàn, Trưởng ban Thường trực Quốc hội đứng hai bên. Hàng ghế trên cùng
là các vị trong Hội đồng Chính phủ, phía sau là các đại biểu quân, dân,
chính, đảng. Bác Hồ đọc Sắc lệnh 111/ SL, ngày 20 tháng 1 năm 1948,
phong quân hàm cấp đại tướng cho tôi khi đó giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc
phòng, kiêm Tổng tư lệnh Quân đội quốc gia và nhiều đồng chí khác như:
phong quân hàm trung tướng cho đồng chí Nguyễn Bình- Khu trưởng chiến
khu 7, kiêm uỷ viên Quân sự Nam bộ; phong quân hàm thiếu tướng cho các
đồng chí Hoàng Văn Thái- Tổng tham mưu trưởng Quân đội Quốc gia Việt
Nam, Nguyễn Sơn- Khu trưởng khu 4, Chu Văn Tấn- Khu trưởng khu 1, Huỳnh
Phan Hộ- Khu trưởng chiến khu 9, Trần Tử Bình- Trưởng phòng Kiểm tra cán
bộ, Văn Tiến Dũng- Cục trưởng Cục Chính trị, Lê Hiến Mai- Chính trị
viên chiến khu 2, Trần Đại Nghĩa- Quân giới cục trưởng, truy phong thiếu
tướng cho đồng chí Dương Văn Dương- Khu phó chiến khu 7 hy sinh năm
1946.
Kể đến đây, ông xúc động: “Cứ nhớ lại ngày ấy, tôi lại hồi hộp, mình còn quá trẻ, mới 37 tuổi nhận quân hàm đại tướng... Không thể diễn tả hết nỗi xúc động của lòng mình lúc bấy giờ, tôi phát biểu cảm tưởng với những ý nghĩ chân thành tận đáy lòng thương tiếc, biết ơn các liệt sỹ đã hy sinh vì Tổ quốc, biết ơn sự dìu dắt của Bác, sự quan tâm của Đảng, Quốc hội và Chính phủ đã dành cho tôi vinh dự cao cả này. Tôi nói: “Nhận trọng trách lớn lao mà Đảng, Bác giao cho, tôi hứa sẽ đem hết tinh thần, nghị lực làm tròn nhiệm vụ phục sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, đóng góp cống hiến nhỏ của mình vào sự nghiệp cách mạng vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân, vì lý tưởng xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa”.
Sau buổi lễ, vị Đại tướng trẻ đầu tiên của nước Việt
Nam Dân chủ cộng hoà và mọi người ngồi quây quần quanh Bác. Bác nhìn
tướng Giáp căn dặn: “Việc phong tướng cho chú Giáp và các chú khác hôm
nay là kết quả biết bao hy sinh chiến đấu của đồng bào, đồng chí.... Các
thế hệ đi trước chiến đấu cho độc lập mà sự nghiệp không thành, nhắm
mắt mà còn chưa thấy độc lập, tự do. Chúng ta ngày nay may mắn hơn,
nhưng trước mắt còn nhiều khó khăn. Nghĩ tới hàng nghìn, hàng vạn người
ngã xuống cho ngày hôm nay, chúng ta càng phải cố gắng giành cho được
độc lập, tự do để thoả mãn vong linh những người đã khuất”. Kể đến đây,
giọng ông lặng đi: “Những lời nói tuy mộc mạc của Bác như người cha đối
với những đứa con, cho đến giờ tôi vẫn thấm từng lời căn dặn của Người”.
Và tấm Huân chương Sao vàng
Còn đây là Huân chương Quân công hạng nhất, đây là Huân
chương Hồ Chí Minh, tôi được Chủ tịch Hồ Chí Minh trao tặng năm 1954.
Đây là Huân chương Sao vàng, tôi được Nhà nước trao tặng dịp sinh nhật
lần thứ 80. Đại tướng chậm rãi kể lại: “Sau khi nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà ra đời được hai năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh xét rằng những người
có công với nước phải được Chính phủ và Quốc dân nhớ ơn. Hội đồng Chính
phủ đã ra Sắc lệnh số 58 –SL đặt ra 3 thứ huân chương: Huân chương Sao
vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Độc lập. Những loại huân
chương này để dùng thưởng hoặc truy tặng cho đoàn thể hay những người có
công với nước với dân, cũng có thể dùng tặng các nhân vật ngoại quốc đã
có công với nước Việt Nam. Ba loại huân chương này đều do Chủ tịch nước
Việt Nam dân chủ cộng hoà tặng. Trong đó, Huân chương “Sao vàng” là
huân chương quý nhất của nước ta.
Đây là tấm Huân chương Sao vàng, ông chỉ tay lên ngực,
lặng lẽ cúi xuống tháo huân chương trao cho nhân viên bảo tàng, ông kể
lại: “Chiều ngày 20 tháng 8 năm 1992, tại Phủ chủ tịch, Hội đồng Nhà
nước nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã tổ chức lễ trao Huân
chương Sao vàng cho tôi nhân dịp sinh nhật lần thứ 80. Chiều hôm đó, tôi
đến Phủ chủ tịch sớm hơn giờ trong giấy mời. Đến nơi, tôi đã thấy đông
đủ các đồng chí: Đỗ Mười, Tổng Bí thư, Ban chấp hành Trung ương Đảng;
Phạm Văn Đồng, Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng; Võ Văn Kiệt, Uỷ
viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng; Lê Quang Đạo, Chủ tịch
Quốc hội, Phó chủ tịch Hội đồng Nhà nước. Ngoài ra còn nhiều đồng chí
trong Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng, Hội đồng Nhà nước, Mặt
trận Tổ quốc. Sau lời tuyên dương công trạng về những thành tích đặc
biệt xuất sắc trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và trong
công cuộc bảo vệ Tổ quốc, đồng chí Nguyễn Việt Dũng, Tổng thư ký Hội
đồng Nhà nước đọc quyết định tặng thưởng của Hội đồng Nhà nước. Chủ tịch
Hội đồng Nhà nước Võ Chí Công thay mặt Hội đồng Nhà nước gắn Huân
chương Sao vàng lên ngực cho tôi”.
Hôm đó, cũng như lần nhận Huân chương Quân công hạng
nhất, Huân chương Hồ Chí Minh, tôi thực sự xúc động nhớ tới Bác Hồ, các
vị tiền bối cách mạng, đồng bào chiến sỹ, các bà mẹ Việt Nam trên cả
nước đã hy sinh chiến đấu cho dân tộc để có ngày hôm nay. Công lao của
cá nhân dù quan trọng mấy cũng chỉ là giọt nước trong biển cả. Những tấm
huân chương cao quý đó vị tướng già luôn đeo trên ngực, nơi trái tim
mình để luôn nhớ tới lời dạy của Bác Hồ: “Người cách mạng phải có đạo
đức, không có đạo đức thì người tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được
nhân dân”.
Ông nắm tay nhân viên Bảo tàng lịch sử Quân sự, căn
dặn: “Những kỷ vật quý giá nhất của cuộc đời tôi trao cho bảo tàng để
góp phần giáo dục truyền thống dựng nước và giữ nước của dân tộc ta cho
thế hệ trẻ. Tôi tin tưởng rằng lớp con cháu chúng ta sẽ làm sáng mãi
phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”.
Bá Kiên - Trần Dương
|
||||||
Việt Báo (Theo_Tien_Phong)
|
Bài 9: cây “đèn thần” của tướng Nguyễn Ngọc Doanh
Những chuyện chưa biết vềcác kỷ vật của tướng lĩnh Việt Nam
Trong cư xá Bình Thạnh, mỗi khi đêm về ngắm nhìn thành
phố sáng ánh điện, bất giác thiếu tướng Nguyễn Ngọc Doanh lại nghĩ về
ánh đèn dầu leo lét dưới hầm trong những đêm mưa lạnh giữa cánh rừng cao
su bạt ngàn thời chiến tranh ở miền Đông Nam bộ.
Khi đó, vị tướng già lại mang cây đèn ra ngắm nghía,
như để nhớ về những người đồng đội đã vĩnh viễn ra đi sau những trận
chiến...ở chiến trường miền Đông Nam bộ trong những năm đánh Mỹ, chẳng
ai bảo ai, mỗi chiến sỹ Trung đoàn 141 đều tìm cách làm cho mình một
chiếc đèn dầu để thắp sáng mỗi khi màn đêm phủ xuống cánh rừng. Đèn dầu
được chiến sỹ làm bằng đủ các chất liệu: lọ dầu thuỷ tinh, hộp dầu lau
súng, vỏ đạn M-79…Sau mỗi trận đánh, mỗi người về góc hầm nhỏ chìm sâu
dưới lòng đất hay nửa chìm, nửa nổi, nằm bò ra, căng mắt, ngấu nghiến
đọc thư nhà, làm thơ, viết thư cho người yêu, vá lại miếng áo rách trên
vai, lau vết thương dẫu bằng chút ánh sáng đèn chỉ đủ toả sáng cho riêng
mìmh. ánh sáng ngọn đèn là nơi người lính gửi gắm nỗi niềm tâm sự riêng
về quê hương, người thân, hoặc thả hồn theo những dòng kỷ niệm.
Có nhiều chiến sỹ khéo tay, dưới ánh sáng đèn còn chịu
khó, tỉ mẩn cắt, gò giũa từ những mảnh xác máy bay, xe bọc thép, vỏ đạn
M-79 những thứ vũ khí giết người của địch làm thành những chiếc lược
chải tóc, ấm đựng nước, khay, chén… xinh xắn và tinh xảo để làm kỷ niệm.
Trên mỗi sản phẩm, người chiến sỹ còn khắc ghi tên của mình, tên người
yêu, một mái nhà có rặng dừa, cánh cò thấp thoáng, một tháp rùa giữa hồ
Hoàn Kiếm, gợi nhớ tới một miền quê xa. Cảm xúc thể hiện trên mỗi đồ vật
chính là tình yêu quê hương, đất nước, một giấc mơ đẹp của người lính
giữa chiến trường miền Đông.
Trong rất nhiều trận đánh mà tướng Nguyễn Ngọc Doanh và
đồng đội của ông đã trải qua, trận đánh trên đường 13 để lại trong ông
kỷ niệm sâu sắc nhất. Năm 1972, ta mở chiến dịch Nguyễn Huệ. Chiến dịch
tiến công giải phóng miền Đông Nam bộ đánh vào một bộ phận quân đội Sài
Gòn ở các tỉnh Bình Long, Phước Long, Tây Ninh, Bình Dương, nhằm giải
phóng tỉnh Bình Long (cửa ngõ phía Bắc Sài Gòn), khôi phục và mở rộng
địa bàn “đứng chân” ở miền Đông Nam Bộ. Trung đoàn 141 trong đội hình Sư
đoàn 7 được giao nhiệm vụ chốt chặn địch trên đường số 13, đoạn đường
kéo dài 25 km từ thị xã Bình Long đến Chơn Thành. Đây là khu vực địa
hình rất trống trải. Để chốt chặn đoạn đường này, Trung đoàn và các đơn
vị trong sư đoàn phải xây dựng nhiều cụm trận địa chốt liên hoàn, tổ
chức lực lượng giữ chốt và cơ động.
Để đảm bảo bí mật, lệnh của Trung đoàn tuyệt đối không
để lộ một chút ánh sáng dù là đèn pin hay đèn dầu. Trong hoàn cảnh ấy dù
khó mấy, người lính vẫn có cách để có ánh sáng, có lửa. Những ngọn đèn
dầu tự tạo kia vẫn toả sáng dưới chiến hào, đủ để những mái đầu chụm lại
xác định vị trí trên bản đồ tác chiến, phổ biến nghị quyết lãnh đạo của
Trung đoàn. Một chút ánh sáng trong đêm diễn ra những cuộc giằng co một
mất, một còn, giữa làn phi pháo địch đối với người lính được ghi nhớ
như một kỷ niệm khó quên. Trong những phút căng thẳng, chờ đợi giữa hai
trận đánh, cây đèn làm cho những người lính nhớ lại thời thơ bé, ngọn
đèn dầu giữa mâm cơm, cả nhà quây quần, tiếng gà lên chuồng, tiếng chó
sủa vườn sau và bóng mẹ quấn vào làn khói bếp chiều mưa….
Sau mấy tháng chốt chặn và vận động tiến công, Trung
đoàn đã góp phần đánh thiệt hại nặng sư đoàn 21, và sư đoàn 25 ngụy,
trung đoàn 9 thiết giáp bị tiêu diệt, thị xã Bình Long tiếp tục bị quân
ta bao vây. Đường số 13 trở thành con đường “sấm sét” đối với quân ngụy.
Để ghi nhớ trận đánh này, những người lính Trung đoàn 141 đã nhặt những
mảnh xe bọc thép bị cháy của địch rồi gọt giũa, làm thành cây đèn dầu
tặng Trung đoàn trưởng Nguyễn Ngọc Doanh, cũng là quà mừng trận thắng
Trung đoàn 9 Thiết giáp của Nguỵ trên đường 13 năm 1972.
Cây đèn được làm rất công phu, cách trang trí mỹ thuật
trên đèn có chủ đề định trước: thân đèn hình trụ tròn, có nắp xoắn đóng
mở, một vỏ đạn con con được làm thành ống bấc. Trên thân đèn khắc ghi
dòng chữ: Ba Vì-Quyết thắng. Kỷ niệm chiến trường miền Đông. Kính tặng
Thủ trưởng Nguyễn Ngọc Doanh.Cây đèn đã từng thao thức trong đêm, theo
ông đi khắp mọi nẻo đường, nhưng vinh dự nhất là nó đã thắp sáng cho ông
theo dõi bản đồ những đêm hành quân thần tốc trong đội hình Quân đoàn
4, tiến theo hướng đông, phát triển theo trục đường 1 đánh tiêu diệt chi
khu Trảng Bom, Hố Nai trong chiến dịch Hồ Chí Minh.
Sống giữa đời thường khi chiến tranh đã lùi xa, cuộc
sống hiện tại cũng khá tươm tất, ít ai còn giữ lại những cái không dùng
đến. Nhưng với thiếu tướng Nguyễn Ngọc Doanh, thì từ cái thời ông làm
Trung đoàn trưởng Trung đoàn 141, cho đến khi được thăng quân hàm thiếu
tướng, Phó tư lệnh Quân đoàn 4 thì gia tài của người lính năm xưa, tất
cả vẫn còn nguyên vẹn trong chiếc ba lô trận mạc. Thỉnh thoảng ông lại
mở kho gia tài ấy của mình ra ngắm nghía lại từng thứ. Ông bảo: “để nghĩ
lại chuyện xưa”.
Câu chuyện chiếc đèn và ánh sáng kỳ diệu của nó chính
là “cây đèn thần” soi đường cho người lính đi đánh giặc năm nào bỗng
hiện ra trước mắt. Ký ức về một thời đã qua như vẫn còn hừng hực cháy
trong lòng ông. Trao bộ đèn dầu cho Bảo tàng Lịch sử Quân sự, ông tâm
sự: “Tôi mong không chỉ thế hệ mình biết về những câu chuyện xưa mà phải
để ánh sáng của ngọn đèn này mãi toả sáng trong lòng những người lính
các thế hệ”. Ông bộc bạch, đó cũng là lý do khiến ông tự nguyện trao cho
bảo tàng.
Bá Kiên - Trần Dương
|
|||
Việt Báo (Theo_Tien_Phong)
|
Nhận xét
Đăng nhận xét