PHẦN IV: BÁU VẬT "Dọc
đường lịch sử nhân loại, có rất nhiều báu vật bị người đời, vô tình hay hữu ý, lỡ bỏ đi hoặc đánh rơi, đã chìm
trong quên lãng. Kẻ nào muốn có ngọc, chỉ cần dò tìm lại chúng, nhặt
lên, đánh bóng..."
NTT
“Sách là nguồn của cải quý báu của thế giới và là di sản xứng đáng của các thế hệ và các quốc gia.”
Tôi bước chân vào thư viện và khép cửa lại. Như thế là tôi đã tách khỏi
tính tham lam, lòng tự ái, tệ say rượu và sự lười biếng củng tất cả
những thói hư tật xấu do cái dốt nát, sự vô công rỗi nghề và cảnh sầu tư
sinh ra. Tôi đắm mình vào cái vĩnh hằng giữa những tác giả tuyệt diệu
với một niềm tự hào, với một cảm giác thỏa mãn đến mức cảm thấy thương
hại tất cả các ông quan lớn sang trọng và giàu có nhưng không được hưởng
niềm hạnh phúc này. D. Henziut
Những
người đọc sách tuy chưa thành danh nhưng cũng đã có một tư cách cao
thượng, những người làm điều thiện, tuy không mong báo đáp nhưng tự
trong lòng khoan khoái. Ngạn ngữ Trung Quốc
Đọc sách hay cũng giống như trò truyện với các bộ óc tuyệt vời nhất của những thế kỷ đã trôi qua.
Rene Descartes
Những gì sách dạy chúng ta cũng giống như lửa. Chúng ta lấy nó từ nhà
hàng xóm, thắp nó trong nhà ta, đem nó truyền cho người khác, và nó trở
thành tài sản của tất cả mọi người.
Voltaire
Một thư viện của sự hiểu biết quý giá hơn tất cả sự giàu sang, và tất cả
mọi thứ đáng khao khát đều không thể so sánh với nó. Vì vậy bất cứ ai
nhận mình là có nhiệt tâm với sự thật, với hạnh phúc, với sự hiểu biết
hay tri thức đều phải trở thành người yêu sách.
Plato
“Khi họ đốt sách thì chính là họ cũng đang đốt cả loài người.”
“Khi
đã biết sự thực của vật thể, ta sẽ thấy rằng thật vô lý khi tôn thờ các
sản phẩm cô lập của dòng chảy không ngừng nghỉ của sự biến hóa, làm như
chúng là vĩnh cửu và đích thực. Đời sống không phải là vật thể hay dạng
của vật thể mà là một sự vận động liên tục hay chuyển hóa”
S. Radhakrishnan
“Nếu có ai hỏi di vật thuộc nền văn minh cổ xưa nào của những người anh
em ruột thịt thiểu số phương Nam của Trung Hoa là quan trọng nhất, chúng
ta có thể trả lời không do dự rằng đó chính là Trống Đồng”
Wen You
Cũng không ai phủ nhận được rằng – dù ai
đó có ý định “gây nhiễu” bằng những sự thác loạn chữ nghĩa và trí tuệ –
ghi chép về thư tịch xưa nhất về Trống đồng – đoạn ghi chép của Hậu Hán
thư Mã Viện truyện – đã bộc lộ rõ ràng một sự thực: Trống đồng Lạc Việt
ở đất Giao Chỉ.
Nguyễn duy Hinh
(Tiếp theo)
Ông
Đầu Rau là 3 hòn đất nung dùng để kê nồi lên nấu nướng. Người miền
Trung gọi là Ông Núc, người miền Bắc gọi hòn đất nung ở giữa là “Đầu rau
cái”, 2 hòn hai bên là “Đầu rau đực”, gọi chung là (Ông) Đầu Rau. Ngoài
ra, bên cạnh cái bếp còn có một hòn đất hình quả cân, được gọi là Thằng
Lốc (ngày xưa ở nông thôn chưa có diêm nên thường vào buổi chiều, người
ta phải đổ một mớ trấu bên cạnh bếp, đè hòn đất này lên đó để trấu cháy
âm ỉ đến sáng; lúc cần thì thổi lên thành lửa để dùng).
Nhưng
vì sao lại thờ cúng cái bếp? Cái bếp là vật dụng vô cùng quan trọng của
con người tiền sử, nhất là đối với một gia đình trong thời đại định cư
lấy ngũ cốc, gia súc làm nguồn sống chủ yếu và đã chuyển sang cách ăn
chín. Để nấu chín lúa gạo thì trước hết phải có cái đựng. Có thể lúc đầu
người ta đã dùng đến ống chặt ra từ cây măng, vầu… (họ tre, rỗng bên
trong) để nấu nướng, sau mới xuất hiện nồi niêu (bằng đất nung), tiện
dụng hơn nhiều. Sự xuất hiện nồi niêu sơ khai (nặn bằng đất) đòi hỏi
phải có (ít nhất) là 3 đầu rau và phải chăng việc này đã khai mở ra một
thời đại mới: thời đại đồ gốm?
Ngày
nay, thật khó hình dung trong nhà lại thiếu cái bếp huống gì xưa kia,
khi cái bếp có vai trò lớn lao, chi phối hầu hết sinh hoạt của một gia
đình cổ xưa. Ngoài công dụng nấu nướng, cái bếp còn là nguồn sáng của
gia đình vào ban đêm, là nguồn sưởi ấm vào mùa đông lạnh giá, là nơi giữ
lửa cho ngày hôm sau, là riềng mối của sự quây quần, đoàn tụ… Không có
cái bếp, cách sống đồng sức, đồng lòng “góp gạo thổi cơm chung” kiểu gia
đình sẽ trở nên lỏng lẻo, hay có thể nói rằng: tiến trình cuộc sống của
loài người làm xuất hiện gia đình (đơn vị nhỏ nhất làm nên xã hội), lối
sống gia đình sẽ dẫn đến việc tạo ra cái bếp, và cái bếp đến lượt nó,
tỏa ra sự ấm áp cho tình thương yêu thêm nồng nàn, cho sự gắn bó keo sơn
thêm bền chặt. Thật là khốn khổ và bất hạnh cho một gia đình khi cái
bếp bỗng trở nên tắt lạnh…
Cái
bếp thời cổ xưa tối quan trọng như thế nên nó cũng trở nên thiêng liêng
trong tâm thức con người và người ta thờ cúng nó cũng chính là khẩn cầu
trời - đất phù hộ cho gia đình được an ổn, sung túc. Biểu hiện của Trời
ở đây chính là lửa, đại diện cho Đất ở đây cũng chính là đầu rau. Không
có sự kết hợp Trời - Đất thì sẽ không có nồi thức ăn được nấu chín, sẽ
không có ánh sáng để sinh hoạt ban đêm và cũng sẽ không có hơi ấm để
sưởi lúc lạnh giá.
Trong “Mùa xuân và phong tục Việt nam”, tác giả Trần Quốc Vượng (và…) có nhận định thế này:
“Về
triết lý, cái bộ ba, một thần linh tính nữ và hai thần linh tính nam
trong toàn miền Nam Á là biểu tượng của tổ tiên, dù là tổ tiên tô tem
giáo, anh hùng văn hóa, tổ tiên huyền thoại hay tổ tiên thực sự theo
quan hệ quyến thuộc của ngày sau. Dân tộc học cho chúng ra biết ở người
Khmú (Tây Bắc), ba đầu bếp (đầu rau) được gọi là “tại gia”, nghĩa là ông
bà, tổ tiên. Dù sau này đã có kiềng sắt thì người Mường vẫn để một hòn
đá cạnh kiềng làm biểu tượng Ông Núc tổ tiên. Và chủ nhân văn hóa Hòa
Bình trước đây một vạn năm rõ ràng làm ba đầu rau bằng ba tảng đá cuội.
Các di tích đầu thời đại sắt Việt Nam (2.300 năm cách ngày nay) như
Đường Mây (Hà Nội), Nội Cẩm (Bắc Ninh) đã tìm thấy đầu rau bếp bằng đất
nung không khác gì ngày nay. Tục thờ đá chuyển hóa thành tục thờ ông Táo
rõ ràng là có sự can thiệp của Đạo Giáo”.
Có
khá nhiều câu chuyện về sự tích Ông Đầu Rau. Tuy nhiên chúng na ná
nhau. Có thể chúng là “hậu duệ” của một câu chuyện nguyên thủy đã có từ
thời còn chế độ mẫu hệ - mẫu quyền. Nếu lược bỏ, những “hệ lụy” của thời
đại sau đó thì câu chuyện nguyên thủy có thể là như sau:
Xưa
kia, có hai vợ chồng nhà nọ. Chồng thường đi làm ở xa, thỉnh thoảng mới
mang lương thực thực phẩm làm được về nhà. Một chuyến, ông đi biệt khá
lâu, không tin tức gì cả. Người vợ chờ mãi vẫn bặt vô tín. Sau đó người
vợ mới nối duyên với một người đàn ông khác chuyên nghề săn bắt và làm
ruộng. Người đó có vợ chết sớm, nuôi một đứa con tên là Lốc. Một hôm,
trong khi người chồng mới cùng đứa con đi săn vắng thì tự nhiên người
chồng cũ trở về. Hóa ra là ông bị lạc trong rừng núi hết sức khổ ải.
Người vợ dọn cơm cho ăn. Khi chồng mới sắp về, người phụ nữ đưa chồng cũ
ra ngoài đống rơm, tạm trốn vào đó. Người chồng mới cùng đứa con tên
Lốc trở về mang theo một con thú săn được và hí hửng làm thịt. Trong khi
người vợ ra vườn hái rau thì Lốc lấy rơm để thui con thú, không may lửa
bén cháy cả đống rơm làm chết người đàn ông đang ngủ trong đó. Người vợ
từ vườn chạy đến, thấy thế, đau đớn quá, nhảy vào đống lửa chết theo.
Người chồng mới nhảy vào cứu, cũng bị lửa thiêu chết. Thằng Lốc, quá hối
hận cũng nhảy luôn vào chịu chết nốt. Ông Trời thấy tình cảnh đáng
thương bèn hóa 3 người thành ba ông đầu rau để đoàn tụ mãi mãi. Còn
thằng Lốc được hóa thành cục đè không cho trấu bùng cháy, được đặt ở bên
cạnh.
Có
thể phỏng đoán rằng sự tích Ông Đầu Rau dạng nguyên thủy đã xuất hiện
ít ra là vào đầu thời đại Hùng Vương và tập tục thờ cúng Ông Đầu Rau ít
ra là đã xuất hiện vào thời Âu - Lạc (Âu Cơ - Lạc Long Quân). Trong cổ
ngữ Việt Mường, tiếng “táo” có nghĩa gốc là “tá”, dùng để chỉ các vị
thần thuộc dòng lửa như Tá Cần, Tá Cái… Có thể thấy “tá” đồng nghĩa với
“hỏa” (lửa) trong thành ngữ “Tá hỏa tam tinh” mà ngày nay người Việt vẫn
còn dùng, hay có thể còn có nghĩa là “cháy”.
Vậy
tập tục thờ Thổ Công có xuất xứ từ tập tục thờ Ông Đầu Rau. Còn tập tục
thờ Ông Đầu Rau lại từ tập tục thờ Ông Tá mà ra. Rất có thể Ông Đầu Rau
ở Việt Nam và Ông Táo ở Trung Quốc là hai anh em “cùng huyết thống”,
cùng là hậu duệ trực tiếp của Ông Táo, đều có nghĩa là Ông Núc Bếp (ngày nay trong dân gian vẫn hay nói: "chuyện bếp núc...", đó là di tích còn sót lại của thời xa xưa chăng?). Sau
này, khi “gặp nhau” trên đất Việt Nam, Táo Quân và Thổ Công đã hòa hợp
với nhau thành Ông Táo Việt gọi là Táo Công và do chưa đủ thời gian
chuyển hóa nên “trong” Ông Táo này, ngày nay vẫn còn thấy những khiên
cưỡng, mâu thuẫn nội tại?
Thế còn Ông Tá? Theo nghĩa ngôn từ thì rõ ràng Ông Tá là Ông Lửa - gọi một cách linh hóa là Thần Lửa.
Từ
xa xưa tối cổ, lửa đã trở thành bạn đồng hành không thể thiếu được của
bầy đàn người nguyên thủy trên bước đường tiến hóa lên lối sống quần cư
xã hội, lấy trồng trọt chăn nuôi làm phương kế sinh nhai chủ yếu. Không
có lửa, chắc chắn sẽ không có đồ gốm, đồ đồng cũng như cả nền văn minh
ngày nay. Hơn thế nữa, nếu không có lửa, thì thậm chí là nền nông nghiệp
lúa nước cũng không thể có nốt. Có thể nói lửa đóng vai trò như một
động lực mạnh mẽ thúc đẩy loài người tiến nhanh lên văn minh theo lý trí
mà cũng là định mệnh của họ. Biểu tượng lửa trong văn hóa Ấn Độ
Agni là vị thần tiêu biểu nhất bởi đây là vị thần cai quản cõi người.
Trong kinh Veda, thần lửa Agni là người có vị trí quan trọng chỉ đứng
sau thần sấm sét Indra ( người anh song sinh của thần Agni). Agni là
thần lửa, vị thần tượng trưng cho sự hiến sinh. Bởi lửa là luôn sáng
mãi, lửa ít khi lụi tàn mà luôn bất tử nên Agni được coi là vị thần “trẻ
mãi không già”. Agni là thần cai quản hạ giới cùng với thần Vayu (thần
cai quản không trung) và thần Mặt Trời Suarya ( thần cai quản Thiên
giới) được coi là ba ngôi vị tối linh trong kinh Veda. Thần Agni chính
là bản chất chung của cả ba ngôi vị ấy vì dù ở thiên đường, hạ giới hay
giữa không trung thì nơi đâu cũng cần có hơi ấm của thần lửa Agni để tồn
tại, sinh sôi và phát triển.
Trong kinh Veda, thần Agni được miêu tả là vị thần có thân hình màu đỏ
đậm hoặc vàng, có hai đầu ( hai mặt) được bôi bơ, người Ấn Độ tin rằng
đó là hai mặt thiện và ác của người, có một đôi mắt đen tuyền giống như
mái tóc của người, có ba chân, bảy cánh tay ( một tay cầm rìu, một tay
cầm đuốc, một tay cầm ngọn giáo lửa, một tay cầm chuỗi hạt) và bảy lưỡi
lửa mài nhọn ( dùng để liếm bơ trong các buổi lễ), răng màu vàng. Trên
đầu người thường mang những cái sừng của một con bò và có một cái đuôi
giống đuôi ngựa ở phía dưới, có bảy tia sáng phát ra từ cơ thể. Vật cưỡi
(havana) của người thường là một con cừu ngồi trên một cỗ xe có bảy con
ngựa lửa kéo hoặc là bảy con vẹt trong đó khói là cờ, gió là bánh xe.
Đôi khi vật cưỡi cũng có thể là một con dê.
Sau khi chia lửa, mọi người cùng nhảy múa, đánh chiêng quanh ngọn lửa thiêng
“Hỡi thần Lửa linh thiêng…! Khắp bốn phương Ngài đang ở đâu?...Chúng con
đang làm lễ cúng Ngài - Tre nứa chúng con để sẵn - Đá thiêng chúng con
để sẵn - Củi rơm chúng con để sẵn - Chờ Ngài cho lửa - Ngọn lửa sẽ giúp
xua đi màn đêm tăm tối - Đem ánh sáng và may mắn về cho buôn làng…”. Sau
lời khấn, già làng dùng máu con vật hiến sinh bôi lên những ngọn đuốc
và cọ hai thanh tre vào nhau để phát ra ngọn lửa. Lửa từ tay người già
truyền cho một chàng trai trẻ khỏe mạnh và giỏi giang. Ngọn lửa được
chia về với từng bếp lửa cộng đồng…
Bước đi thản nhiên qua đống lửa đỏ rực - Ảnh: sưu tầm
Hòa mình vào lửa đỏ - Ảnh: sưu tầm
Khảo
cổ học cho thấy thời cổ đại, hầu hết các tộc người trên thế giới đều có
tục thờ Lửa. Theo Kinh Vêda, 4.000 năm TCN, những tù trưởng Lạtma ở
phía bắc Tây Tạng đã thờ Thần Lửa mà họ gọi là Agni. Đối với người cổ
đại, những dịp dâng cúng Thần Lửa có tính lễ hội vừa thiêng liêng, vừa
cuồng nhiệt, họ nhảy múa thích thú bên đống lửa, thực hiện nhiều trò
“vui chơi” với lửa như đi trên than đang cháy, nhảy qua lửa, rước đuốc…
mà ngày nay còn thấy.
Ngày
nay, phần lớn các tộc người ở Việt Nam vẫn còn giữ được tục lệ thờ Thần
Lửa của thời sơ khai ấy. Chẳng hạn tộc người Dao ở Hà Giang mở đầu cho
ngày Tết âm lịch của mình bằng nghi lễ cúng Thần Lửa. Người ta chuẩn bị
đầy đủ đồ cúng tế và thức ăn, một đống củi to trước bàn cúng tế. Sau khi
ông chủ lễ (với trang phục màu đỏ), đọc xong bài cúng tế, cầu mong mưa
thuận gió hòa, mọi người khỏe mạnh; mời Thần Lửa về cùng vui lễ hội,
dùng gióng vầu (hay tre) xin quẻ âm dương xong thì đến phần “tắm lửa”:
các chàng trai đi trên than đỏ rực, rồi nhảy, rồi lăn trên than nóng một
cách cuồng nhiệt, người đứng xem, nhất là các cô gái cũng rừng rực, say
mê.
Người
Pà Thẻn ở Tuyên Quang cũng có tục nhảy lửa vào tháng giêng. Dân làng
mang gạo thịt và củi đến một bãi đất rộng vào ban đêm và đốt lên ở đó
một đống lửa rất to. Thầy cúng vừa gõ nhạc cụ vừa đọc bài cúng xin Thổ
Địa cho phép nhảy lửa và mời các ma trên trời xuống nhập vào các thanh
niên đang ngồi chờ. Các thanh niên này lần lượt rung lên, người lắc lư,
đi vào lửa như bị ma nhập. Họ đi trên than hồng, bốc than và tro nóng
xoa lên mặt mà không bị bỏng…
Thần lửa trong ngày Tết ở Việt Nam
Lửa
là một trong những nhân tố cấu thành vũ trụ và có một vai trò rất lớn
đối với con người. Thời cổ đại, hầu hết các dân tộc trên thế giới đều có
tục thờ thần lửa. Ngày nay, phần lớn các dân tộc ở Việt Nam vẫn còn giữ
tục lệ đó nhưng cách thức thể hiện và mức độ có khác nhau. Có những dân
tộc thờ lửa quanh năm nhưng không có lễ cúng riêng dành cho thần lửa
vào dịp Tết. Trong khi ở các dân tộc khác thì Lễ, Tết luôn gắn liền với
nghi thức thờ thần lửa.
Nghi lễ cúng thần lửa.
Dân
tộc Dao ở Hà Giang mở đầu cho ngày Tết âm lịch của mình bằng nghi lễ
cúng thần lửa. Từ nhiều ngày trước, người ta đã chuẩn bị đầy đủ các đồ
cúng tế và thức ăn cho thời gian dự hội. Một đống củi to được đốt lên
trước bàn cúng tế. Ông chủ lễ, với trang phục màu đỏ như lửa, bắt đầu
bài cúng thần lửa, cầu mong cho mưa thuận gió hòa, mọi người khỏe mạnh
và mời thần lửa về vui cùng lễ hội để mang lại hơi ấm mùa xuân cho dân
làng. Sau đó, ông dùng gióng vầu (hay tre) gieo quẻ xin âm dương. Nếu
gióng vầu cho ra một ngửa, một sấp thì phải cúng tế lại cho đến khi thần
lửa đồng ý. Những người muốn tham gia hội nhảy lửa thì phải hầu lễ, đến
khi chủ lễ gieo quẻ âm dương thấy thần lửa đồng ý nhảy thì từng đôi một
bước vào lửa. Lễ hội “tắm lửa” bắt đầu, những chàng trai được thần linh
ban cho sức mạnh diệu kỳ, đi chân trần trên đống than đỏ rực, họ nhảy,
họ lăn trên than nóng một cách cuồng nhiệt, dũng cảm. Nhìn các chàng
trai nhảy, các cô gái cũng rừng rực say mê, ánh mắt đượm lửa yêu đương.
Để rồi khi lễ hội kết thúc, nhiều mối tình bén rễ, thành vợ chồng, rồi
Tết năm sau họ lại địu con đến lễ hội lửa để xin thần luôn giữ cho họ
hơi ấm của tình yêu hạnh phúc gia đình.
Người Ê đê và Mnông xem lửa là vị thần may mắn luôn bảo
vệ con người. Bởi vậy, lửa đóng một vai trò quan trọng trong ngày lễ hội
của dân tộc. Người ta lấy ngọn lửa thiêng từ bàn thờ nhà Chung (nhà
Rông), già làng khấn vái xin được phép đốt. Người châm lửa phải là người
tốt, có uy tín trong dân làng. Ngọn lửa thiêng được thắp suốt mùa lễ
hội để truyền hơi ấm và sức mạnh cho dân làng. Người Xê đăng thường tổ
chức lễ lấy lửa trùng với lễ máng nước vào mùa xuân. Người ta dùng nước
tinh khiết hoặc cát sạch để dập tắt tất cả lửa cũ trong các bếp và lấy
lửa nguyên thủy từ nhà rông. Phương pháp tạo lửa là dùng đá cọ xát nhau
hoặc siết sợi dây thật mảnh vào khúc tre để đốt cháy bùi nhùi. Lửa được
rước từ nhà rông về từng gia đình. Chủ nhà hiến sinh một con gà trống
với lời khấn: “Xin lửa hãy ở yên trong bếp… hãy nhận và ăn hết những gì
người thích tại đây… đừng ăn ở nơi khác trong nhà hay ngoài kho…”. Người
Kơ Ho cũng có lễ tục cúng thần lửa vào đầu năm mới. Sau lời khấn Yang
của già làng, người ta cọ hai thanh tre vào nhau cho phát lửa và chia
lửa cho các nhà, ngọn lửa thiêng ấy được giữ gìn suốt năm.
Ở
nhiều nơi trên thế giới, người ta thờ thần lửa nói chung chứ không
riêng gì vua Bếp nhưng người Việt xưa nay thờ thần lửa gắn liền với thờ
ông Táo. Ở phương Tây, hình tượng của lửa gắn liền với truyền thuyết
Promethee ăn cắp lửa thiêng của thần thánh đem về cho con người để rồi
chàng phải chịu một hình phạt đau đớn. Hình tượng đó mang dấu ấn đậm nét
trong văn hóa nghệ thuật phương Tây. Còn ở Việt Nam, hình tượng ông Táo
cũng in dấu ấn đậm nét trong văn hóa nghệ thuật. Cứ mỗi dịp Tết đến,
hàng loạt dịch vụ văn hóa ăn theo ông Táo: làm đồ mã, vẽ tranh, dựng
kịch, sáng tác thơ văn…Báo viết, truyền hình, phát thanh…cũng đưa hàng
loạt tin bài liên quan tới ông Táo. Thần lửa có một vị trí rất quan
trọng trong đời sống tâm linh của người Việt.
Đốt đống lửa lớn để chuẩn bị buổi lễ - Ảnh: sưu tầm
Khi thầy mo gõ vào đàn và làm lễ cúng, từng thanh niên sẽ ngồi đối
diện với thầy mo. Đó chính là lúc “nhập đồng” cho người nhảy lửa. Sau đó
anh ta nhảy vào đống lửa mà không có cảm giác bỏng rát hay sợ hãi gì.
Trong lúc thầy cúng làm lễ, các thanh niên chuẩn bị nhảy lửa người lắc rất mạnh - Ảnh: sưu tầm
Những ai chưa vào nhảy lửa trong lúc thầy cúng làm lễ người bị rung lên rất mạnh - Ảnh: sưu tầm
Thầy cúng cũng vào nhảy lửa - Ảnh: sưu tầm
Mỗi
người thường nhảy lửa trong vòng 3-4 phút, sau đó tiếp tục làm lễ “nhập
đồng”. Một người có thể tham gia nhảy nhiều lần, qua đó thể hiện sức
mạnh, sự khéo léo và nhanh nhẹn của mình. Nhảy lửa chỉ dành cho nam giới
và những chàng tai này luôn nhận được sự thán phục, ngưỡng mộ của mọi
người.
Nhiều thanh niên Pà Thẻn bắt đầu tuj tập xung
quanh thầy mo và lần lượt thay nhau ngồi lên đầu chiếc ghế dài. Trong
phút chốc, họ rung bần bật, người cúi xuống v à bắt đầu nhảy lên từng
lần một, cùng lúc bằng cả hai chân. Họ bắt đầu từ việc đưa tay vào bới
đống lửa.
Nhảy múa với lửa - Ảnh: sưu tầm
Bất
ngờ hơn nữa, họ đã nhảy hẳn vào đống lửa và lại nhảy ra trong tiếng hò
reo cuồng nhiệt của mọi người. Than đỏ văng tứ tung. Ngọn lửa lại bốc
cao ngùn ngụt bởi những tàn than đỏ đang bay lên. Cụ Hoa Văn Tải, 80
tuổi người Pà Thẻn cho biết: Chỉ có nam giới mới được tham gia nhảy lửa,
còn phụ nữ thì không.
Các
tộc người ở Tây Nguyên cũng rất tôn sùng Thần Lửa. Người Ca Dong xem
Thần Lửa như người chăm lo cho sự sống gia đình mình. Người Êđê và Mnông
xem lửa là vị thần may mắn, luôn bảo vệ con người. Trong ngày lễ hội,
họ lấy ngọn lửa được cho là thiêng liêng từ bàn thờ nhà chung (nhà
rông), già làng đứng ra khấn vái xin được phép đốt, người châm lửa phải
là người tốt, có uy tín trong dân làng. Ngọn lửa thiêng được thắp cháy
suốt mùa lễ hội. Còn người Xêđăng thì thường tổ chức lễ lấy lửa trùng
với lễ máng nước vào mùa xuân. Họ dùng nước sạch hoặc cát sạch để dập
tắt tất cả lửa cũ trong các bếp và lấy lửa thiêng từ nhà rông về. Chủ
nhà lúc đó sẽ hiến sinh một con gà trống và khấn: “Xin Lửa hãy ở yên
trong bếp… hãy nhận và ăn hết những gì Người thích tại đây… đừng ăn ở
nơi khác trong nhà hay ngoài kho…”. Người Kơho cũng có lễ tục cúng Thần
Lửa vào đầu năm mới. Sau lời khấn của già làng, họ cọ hai thanh tre vào
nhau để tạo ra lửa rồi chia lửa cho các nhà, ngọn lửa thiêng ấy được giữ
gìn suốt năm.
Dân
tộc Việt (người Kinh) đã chuyển hóa tục thờ Thần Lửa thành tục thờ Thổ
Công - Ông Táo. Ngày xưa, từ mồng một Tết trở đi, mọi người dùng lửa mới
và giữ lửa cẩn thận, không cho ai xin lửa trong suốt tháng Giêng. Ngoài
ra có nhiều qui định nữa xung quanh việc thờ Ông Táo như không được
bước qua bếp lửa, không được gõ đũa lên Ông Táo, không được nói những
chuyện bậy bạ bên Ông Táo…
TTO
- Bộ Y tế tối 27-6 cho biết trong 6 giờ qua cả nước có 197 ca mắc
COVID-19, trong đó có 188 ca ghi nhận trong nước tại 9 tỉnh, thành.
TP.HCM chiếm 95 ca, ...
Bộ
Y tế hôm qua (27.6) chính thức có văn bản hướng dẫn cách ly y tế tại
nhà đối với các đối tượng thuộc diện F1 để UBND TP.HCM xem xét, áp dụng
thí điểm ...
Ở
Trung Quốc, có thể nói không ai là không biết cái tên Kiều Tứ, trùm
băng đảng xã hội đen thống trị vùng đông bắc những năm 1980. Kiều Tứ
ngông nghênh ...
TTO
- Một bộ trưởng nội các Anh cho biết Bộ Y tế Anh sẽ mở cuộc điều tra
bằng cách nào video Bộ trưởng Y tế Anh Matt Hancock ôm hôn trợ lý bị rò
rỉ. Trước đó ...
HÀ
NỘI, Việt Nam (NV) – Hôm 26 Tháng Sáu, một số báo ở Việt Nam tiếp tục
hé lộ tình tiết trong vụ ông Nguyễn Duy Linh, 50 tuổi, cựu phó tổng cục
trưởng ...
Yakov
Serebryansky chỉ đạo nhiều nhiệm vụ tình báo chấn động thế giới, nhưng
lại bị cáo buộc làm gián điệp cho nước ngoài và qua đời trong tù. -
VnExpress.
La
Mã, Mông Cổ, Ottoman, Inca... từng là những đế quốc hùng mạnh bậc nhất
lịch sử nhân loại. Cùng điểm qua nguyên nhân chính khiến các đế quốc này
sụp ...
Hệ
thống lăng mộ này đã ứng dụng kiểu thiết kế chống trộm độc đáo "mộ
chồng mộ". Theo đó, các lăng đều chôn rất sâu dưới lớp đá cứng, lăng sâu
nhất tới 15 ...
Cảnh
sát giao thông (CSGT) TPHCM đang vào cuộc xác minh, làm rõ đoạn clip
ghi lại cảnh đoàn xe ben chạy tốc độ cao, vượt đèn đỏ làm náo loạn trên
đại lộ ...
Không
chỉ chạm số điểm kỷ lục ở phần thi Khởi động, Đỗ Hồng Liên (Trường THPT
Mê Linh - Hà Nội) còn trở thành thí sinh nữ có điểm số cao nhất lịch sử
21 ...
PHẦN IV: BÁU VẬT "Dọc
đường lịch sử nhân loại, có rất nhiều báu vật bị người đời, vô tình hay hữu ý, lỡ bỏ đi hoặc đánh rơi, đã chìm
trong quên lãng. Kẻ nào muốn có ngọc, chỉ cần dò tìm lại chúng, nhặt
lên, đánh bóng..."
NTT
“Sách là nguồn của cải quý báu của thế giới và là di sản xứng đáng của các thế hệ và các quốc gia.”
Tôi bước chân vào thư viện và khép cửa lại. Như thế là tôi đã tách khỏi
tính tham lam, lòng tự ái, tệ say rượu và sự lười biếng củng tất cả
những thói hư tật xấu do cái dốt nát, sự vô công rỗi nghề và cảnh sầu tư
sinh ra. Tôi đắm mình vào cái vĩnh hằng giữa những tác giả tuyệt diệu
với một niềm tự hào, với một cảm giác thỏa mãn đến mức cảm thấy thương
hại tất cả các ông quan lớn sang trọng và giàu có nhưng không được hưởng
niềm hạnh phúc này. D. Henziut
Những
người đọc sách tuy chưa thành danh nhưng cũng đã có một tư cách cao
thượng, những người làm điều thiện, tuy không mong báo đáp nhưng tự
trong lòng khoan khoái. Ngạn ngữ Trung Quốc
Đọc sách hay cũng giống như trò truyện với các bộ óc tuyệt vời nhất của những thế kỷ đã trôi qua.
Rene Descartes
Những gì sách dạy chúng ta cũng giống như lửa. Chúng ta lấy nó từ nhà
hàng xóm, thắp nó trong nhà ta, đem nó truyền cho người khác, và nó trở
thành tài sản của tất cả mọi người.
Voltaire
Một thư viện của sự hiểu biết quý giá hơn tất cả sự giàu sang, và tất cả
mọi thứ đáng khao khát đều không thể so sánh với nó. Vì vậy bất cứ ai
nhận mình là có nhiệt tâm với sự thật, với hạnh phúc, với sự hiểu biết
hay tri thức đều phải trở thành người yêu sách.
Plato
“Khi họ đốt sách thì chính là họ cũng đang đốt cả loài người.”
“Khi
đã biết sự thực của vật thể, ta sẽ thấy rằng thật vô lý khi tôn thờ các
sản phẩm cô lập của dòng chảy không ngừng nghỉ của sự biến hóa, làm như
chúng là vĩnh cửu và đích thực. Đời sống không phải là vật thể hay dạng
của vật thể mà là một sự vận động liên tục hay chuyển hóa”
S. Radhakrishnan
“Nếu có ai hỏi di vật thuộc nền văn minh cổ xưa nào của những người anh
em ruột thịt thiểu số phương Nam của Trung Hoa là quan trọng nhất, chúng
ta có thể trả lời không do dự rằng đó chính là Trống Đồng”
Wen You
Cũng không ai phủ nhận được rằng – dù ai
đó có ý định “gây nhiễu” bằng những sự thác loạn chữ nghĩa và trí tuệ –
ghi chép về thư tịch xưa nhất về Trống đồng – đoạn ghi chép của Hậu Hán
thư Mã Viện truyện – đã bộc lộ rõ ràng một sự thực: Trống đồng Lạc Việt
ở đất Giao Chỉ.
Nguyễn duy Hinh
(Tiếp theo)
***
Coi
như chúng ta đã vừa làm xong lễ cúng đưa Táo Công về Trời. Bây giờ phải
quay ngay sang thực hiện cho xong công việc lo Tết còn dở dang. Vào
những ngày này, nhà nào cũng bề bộn công chuyện, trăm thứ bà dằn phải lo
toan. Trước mắt gia chủ ngày xưa còn phải hoàn thành nhiều chuyện, nào là Lễ tiễn ông bà ông vải,
biếu thầy lang, đi Tết (con nợ và chủ nợ), gửi Tết, biếu Tết, rồi treo
câu đối Tết, sắm tranh Tết… Ôi thôi, kể hết ra cũng đủ bở hơi tai huống
chi là làm! Chỉ xin kể hai công việc làm chúng ta chú ý hơn cả là gói
bánh - giã giò và trồng cây nêu.
Tết xưa, thiếu gì thì thiếu chứ không thể thiếu được:
Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ
Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh.
(Ngày
nay vẫn thế, chỉ có “tràng pháo” là im hơi bặt tiếng. Người ta cho rằng
đó là món ăn tinh thần gây lãng phí, một trò chơi gây nhiều nguy hiểm.
Không quản lý được thì cứ cấm tiệt là tiện nhất! Dù sao, kể cũng tiếc,
nhất là vào đêm Giao thừa và sáng mồng một Tết!).
Bắt
đầu từ 26, 27 tháng Chạp, các nhà đã rục rịch nấu bánh chưng (hoặc bánh
tét trong Nam), bánh dày. Đi trên đường làng, ngõ xóm vào những ngày
này sẽ thấy người này người kia mang lá dong, lá chuối ra ao, chuôm rửa
và lau lá; sẽ nghe tiếng giã giò đan xen nhau, văng vẳng từ một số sân
nhà.
Có
lẽ từ đời nào đến giờ, bánh chưng, bánh dày và giò lụa chỉ xuất hiện
trong Tết của dân tộc Việt chứ không thấy ở bất cứ Tết âm lịch của bất
cứ nước nào khác. Điều đặc biệt là bánh chưng, bánh dày chắc chắn đã có
từ rất lâu rồi và có cả một sự tích về chúng.
Trước
hết, về giò, chúng ta trích lời cụ Líu, nghệ nhân giã giò trong “Cảnh sắc và hương vị đất nước” của nhà văn Nguyễn Tuân:
“…
Cái bánh giò sỡ dĩ có hương vị bánh giò vì nó được chân quyện trong mùi
thơm lá chuối luộc cho bằng chín tới đấy. Giò lụa thơm đậm vì mùi thịt
tươi luộc cộng với mùi thơm chát ngậy của lá chuối tươi luộc chín”.
Và:
“Có
phải thịt lợn nào cũng giã được giò lụa đâu. Thịt mà ướp tủ lạnh thì
giời mới giã nổi. Nó phải tươi, để tay vào còn ấm, lúc thái ra miếng
thịt còn phải như nhảy trên thớt, không cẩn thận thì thái vào ngón tay
mình đấy… Đâu lại có cái kiểu nện chày chủng chẳng tiếng đực tiếng cái
tiếng mẹ tiếng con như thế. Cái kiểu giã cho hết giờ ấy thật phí cả yến
(10 kg) thịt tươi ấm. Ngày xưa, tôi giã giò làm gì có quạt máy, cứ mồ
hôi trên mồ hôi dưới, hai tay nện vô hồi kỳ trận, muỗi nhặng đốt mép đốt
mặt cũng kệ, cứ giã đều… Giã mạnh quá cũng không cần, nhưng cốt là giã
đều và bền sức. Nghe nó đều đều như dây cung bật bông đệm… Này, nghe
tiếng giã giò, có thể đoán được mẻ giò lụa là được hoặc là bỏ”.
Hay:
“…
Cụ tổ nghề chúng tôi truyền nghề cho, không rõ từ thời vua nào, nhưng
đền thờ tổ là phải có đôi chày gỗ mít sơn son thiếp vàng dài hai, ba
thước ta… Giã giò mà nhịp chày kép không đặm, đều, tôi nói thật cho ông
biết, nó sẽ không khác gì cái thằng đổ bê tông móng cầu chậm chạp lóng
ngóng làm ôi xi măng đấy”.
Còn về sự tích bánh chưng, bánh dày là thế này:
Ngày
xưa, Hùng Vương đã già, muốn tìm người xứng đáng nhất trong 22 người
con để truyền ngôi, bèn gọi tất cả các hoàng tử về bảo: “Cha biết mình
đã gần đất xa trời, muốn truyền ngôi. Bây giờ, mỗi con cố kiếm hoặc làm
một món ăn lạ để cúng tổ tiên. Ai có món ngon, vừa ý ta thì ta sẽ chọn
người đó”.
Nghe vua cha nói vậy, các hoàng tử đều cố gắng cho người đi khắp thiên hạ để tìm tòi thức ngon miếng quí để dâng lên vua cha.
Trong
số đó, có hoàng tử thứ 18 tên là Lang Liêu. Liêu thuở nhỏ mồ côi mẹ,
quen sống đời dân dã. Chàng chẳng nghĩ ra được món nào đặc sắc để dâng
gửi lên Hùng Vương. Chỉ còn 3 ngày nữa là hội thi diễn ra mà Liêu vẫn
chưa chuẩn bị được gì.
Sự tích bánh chưng bánh dày đã có từ đời vua Hùng vương thứ 6
Đêm ấy, Liêu nằm nghĩ mãi về lễ hội và ngủ quên lúc nào không biết. Một vị nữ thần từ trên trời bay xuống bảo:
-
To lớn nhất là trời và đất, quí báu nhất trần gian là gạo. Vậy, hãy làm
hai cái bánh bằng gạo nếp. Một bánh là tượng trưng cho đất, hình vuông,
có màu xanh của cây cỏ, núi rừng, ở giữa là thịt, đỗ để biểu thị muôn
vật. Đem thứ nếp đó đồ lên cho dẻo, giã nhuyễn, rồi nặn thành cái bánh,
nấu chín, tượng trưng cho Trời: trắng, tròn, khum khum như vòm trời.
Choàng tỉnh giấc, Liêu quyết định thực hiện điều trong mơ.
Đúng
vào lúc mặt trời mọc thì Vua Hùng cùng tùy tùng đến làm lễ gia tiên.
Chiêng, trống, cờ, quạt tưng bừng. Bao nhiêu của ngon vật lạ, bao nhiêu
món “nem công, chả phượng, tay gấu, gan tê” của các hoàng tử đều được
dâng lên. Nhìn cỗ dâng lên vua cha của chàng Liêu, nhiều người chạnh
lòng vì sự biểu hiện hết sức quê mùa, đơn sơ của nó.
Ấy vậy mà quá trưa hôm ấy, Hùng Vương phán rằng sẽ truyền ngôi cho hoàng tử thứ 18 (tức chàng Liêu). Vua nói đại ý:
-
Đó là những thứ bình thường nhưng hương thơm khác thường, chẳng những
ngon mà còn mang ý nghĩa trọng đại: Con tôn thờ cha mẹ như trời - đất.
Không những thế, nó còn chứa đầy tình quê hương, ruộng đồng. Và hơn nữa
nó rất dễ làm vì chỉ bằng những hạt gạo quê nhà, ai cũng có thể thực
hiện được. Phải là người có tài mới làm ra được hai loại bánh đó.
Sau khi vua cha mất, Lang Liêu lên ngôi, hiệu là Tiết Liêu Vương, tức là đời Hùng Vương thứ 7.
Các
hoàng tử khác ganh ghét, ác cảm với Lang Liêu. Họ, người nào người nấy
làm hàng rào gỗ giữ chặt lấy đất đai của mình, có ý cố thủ, cát cứ,
chống lại Tiết Liêu Vương.
Tuy
nhiên cũng từ ngày lễ hội dâng vua đó mà thành tục lệ: hàng năm, cứ mỗi
độ Tết đến, mọi nhà đều làm hai thứ bánh đó, gọi là bánh chưng, bánh
dày để bày lên bàn thờ, cúng gia tiên quốc tổ.
Sự
tích bánh chưng, bánh dày là thế. Thật là một câu chuyện hay vì chúng
ta có cảm giác như nó vẫn lưu giữ được khá rõ những hiện thực lịch sử.
Hình như hơi thở của thời đại quá vãng xa xôi đó vẫn còn phảng phất đâu
đây.
Có
thể khi bước vào đời Hùng Vương thứ 7, nước Văn Lang đã phải chịu một
cuộc phân tranh, huynh đệ tương tàn, xã hội can qua ly loạn. Đó là
khoảng thời gian chuyển biến hình thái xã hội từ liên minh các bộ lạc
sang liên bang nguyên thủy (thể chế này có thể không hẳn là phong kiến
phân quyền và hơi giống với thể chế liên bang ngày nay: thủ lĩnh các
bang cũng theo lệ cha truyền con nối, cũng được xác định cương vực lãnh
thổ riêng, có quân đội riêng (như địa phương quân) nhưng vẫn thuộc quyền
sở hữu chung của nước Văn Lang, nằm trong thể chế ràng buộc chung mà
quyền lực tối thượng là Nhà nước Văn Lang, đứng đầu là Hùng Vương)?
Trong
sự tích bánh chưng, bánh dày có một chi tiết lạ gây cho chúng ta sự chú
ý đặc biệt, đó là có một nữ thần từ trời xuống báo mộng cho Lang Liêu.
Hỏi rằng vị nữ thần này chức danh là gì? Dù trong tín ngưỡng nhất thần
hay đa thần thì con người cổ đại cũng không để cho vị thần linh nào bị
khuyết danh. Có thể nào danh tính của vị nữ thần này đã bị “thất lạc”
qua bề dày thời gian và từ đó đến nay đã từng có nhiều người cất công
kiếm tìm nhưng chưa ra? Hay đơn giản, trong sự tích ấy, thuở đầu tiên
chỉ có việc Lang Liêu mộng thấy bánh chưng, bánh dày, chứ chẳng có sự
mách bảo của vị thần linh nào cả và mãi về sau mới có người nào đó thêm
vào cho “long trọng”? Nhưng nếu thế thì sao không thêm vào thần Kim Qui,
rất tiện mà cũng đáng tin hơn? Câu hỏi này tất nhiên dẫn đến câu hỏi
nữa: Vậy thì thần Kim Qui ra đời trong trí não người Việt cổ vào khi
nào? Và thêm nghi vấn: phải chăng vào thời câu chuyện bánh chưng, bánh
dày ra đời, chưa có thần Kim Qui (động vật linh hóa) mà chỉ có các vị
thần siêu hình như: thần Lửa, thần Nước, thần Sấm Sét, thần Đất… và thần
của các thần là thần Mặt Trời, và vị nữ thần kia chính là thần Mặt
Trời?
Tại
sao thần Mặt Trời lại mang tính nữ trong khi ngày nay chúng ta gọi là
Ông Mặt Trời (và cả Ông Trời)? Tại vì thần Mặt Trời ra đời trong chế độ
Mẫu hệ - Mẫu quyền (chúng ta cho rằng chế độ này tồn tại rất lâu trong
lịch sử loài người và được duy trì, nói riêng tại Việt Nam, đến tận thời
đại Âu - Lạc). Có thể rằng đến cuối thời đại Âu - Lạc, đầu thời đại
Hùng Vương, người Việt cổ vẫn gọi thần Mặt Trời là Bà Trời hay Bà Mặt
Trời. Khi sang chế độ phụ quyền, Bà Mặt Trời phải “chuyển đổi giới tính”
theo để thành Ông Mặt Trời.
Thần
Mặt trời Huitzilopchtli chính là thần tối cao của người Aztec cổ đại.
Theo những tài liệu cổ về nền văn minh này ghi chép, thần Mặt trời khi
mới sinh ra đã vô cùng tàn bạo, hay giận dữ. Thần đã giết chị ruột của
mình Coyolxauhqui, treo đầu lên trời tạo thành Mặt trăng, tàn sát những
anh chị em còn lại và treo đầu họ thành các vì sao trên bầu trời.
Không
chỉ dừng lại ở đó, giống như mọi vị thần Aztec khác, thần mặt trời luôn
luôn đòi người Aztec phải tế lễ và món đồ lễ của thần phải là thịt
người
. Vì thế, mỗi
ngày, những đồ tế sống sẽ được chọn là moi tim trước đền thờ, dâng lên
Huitzilopchtli để tránh khỏi sự trừng phạt bất cứ lúc nào của thần.
Bức tượng thần mặt trời vĩ đại được coi là biểu tượng cho nền văn minh Hy Lạp cổ đại.
Người
Nhật gọi thần Mặt Trời là Amaterasu O Mikami (Thiên chiếu đại thần,
Thái dương thần nữ). Về mặt âm thanh nó gợi cho chúng ta nhớ về tiếng
A-U-M thiêng liêng đã từng vang vọng trên miền đất Ấn Độ từ thuở xa vời,
đồng thời cả tiếng ÂU trong Âu - Lạc (Âu - Cơ). Khẩu khí của chúng xuất
phát trực tiếp từ cùng một gốc, thậm chí, một trong hai tiếng là gốc
của tiếng kia.
Theo
các hiền triết của Ấn Độ cổ đại thì AUM là một âm thanh thiêng liêng và
huyền bí. Đó là biểu hiện của Brahman (Vũ Trụ) ở cả hai trạng thái thể
hiện và không thể hiện. Trong Katha Upanishad có câu chuyện về
Nicheketas và Yama (Tử Thần). Nicheketas, con một tín đồ Bà La Môn nghèo
nhưng sùng đạo. Chàng được Yama thương tình cho phép thỏa mãn 3 điều
ước. Chàng bèn ước điều thứ nhất là được sống sót trở về với phụ thân,
điều thứ hai là biết cách hưởng phúc thiên đàng và điều thứ ba là xin
được giảng dạy về đời sống của linh hồn sau khi chết. Về điều ước thứ
ba, Yama nói: “Ngay cả đến các thần linh cũng còn ngờ vực về chuyện ấy.
Quả thật điều đó không dễ gì mà hiểu được vì chân lý này tinh tế quá.
Hỡi Nicheketas, con hãy chọn một điều ước khác…”. Nhưng chàng trai vẫn
cứ tha thiết khẩn cầu và cuối cùng, Yama nhượng bộ: “Tiếng nói mà mọi
kinh Vêđa đều phát biểu, mọi công cuộc tu trì đều tuyên dương, tiếng mà
những ai sống cuộc đời tu học đều mong ước thực hiện, ta nói cho con
nghe: đó là AUM. Tiếng ấy chính là tinh thần hằng cữu; tiếng ấy chính là
cứu cánh cùng tột. Người nào thấu triệt được tiếng ấy thì muốn gì cũng
sẽ thực hiện được. Trụ cột này hoàn hảo nhất. Trụ cột này là cái tối
cao. Biết được trụ cột ấy, con người sẽ sáng danh trong cõi Phạm Thiên
(Vũ trụ). Tiếng ấy khi được phát ra từ Tự Ngã, nó trở thành âm thanh vô
cảm, vô hình, vô vị, vô hương, vô thủy vô chung hơn cái lớn nhất. Nhận
biết được điều ấy, con sẽ thoát khỏi tử thần.”
Tiếng
AUM đúng là quá ư thiêng liêng và huyền bí! Nó thiêng liêng là nhờ có
sự giảng giải của các bậc hiền triết Ấn Độ cổ đại. Nó huyền bí là vì
không biết từ đâu và từ bao giờ, nó nghiễm nhiên xuất hiện trong Kinh
Vêđa, phát ra từ miệng của các vị chủ tế trong những buổi lễ xướng ca,
xưng tụng thành kính.
Có
một linh cảm sâu xa, thầm thì mách bảo cho chúng ta biết (hay chính cái
nỗi niềm tha thiết yêu thương xứ sở và các bậc tiên tổ của mình đã làm
chúng ta nghĩ ngợi mê man?!), rằng tiếng ÂU cũng thiêng liêng cùng tột
như AUM. Thế nhưng tiếng ÂU không lạnh lùng, huyền bí mà nghe thật gần
gũi, dung dị và cả tự nhiên như vốn dĩ thế. Trong tất cả các bảng chữ
cái có mẫu tự Latinh thì đứng đầu tiên là nguyên âm A. Sắp xếp thế thôi
chứ A không phải là tiếng đầu tiên được phát ra từ thanh quản của con
người để đóng vai trò như xuất phát điểm trong quá trình hình thành ngôn
ngữ. Ngôn ngữ ngày nay chắc rằng đã kế thừa từ một dạng ngôn ngữ sơ
khai chưa có phụ âm và phải kết hợp chặt chẽ (lệ thuộc) với “chỉ trỏ”,
với điệu bộ các bộ phận thân thể mới có thể làm người “nghe” hiểu được.
Trên bước đường tiến hóa thích nghi, đến một giai đoạn nào đấy, do sự
bức thiết phải trao đổi với nhau bằng âm thanh phát ra từ thanh quản
(với cấu trúc răng, hàm, lưỡi, môi… đã định hình và đặc thù hóa ở
người), mà xuất hiện một tập hợp những âm thanh có tính hệ thống và hàm
chứa khái niệm. Tiếng đầu tiên của hệ thống ngôn ngữ “ú a ú ớ” ấy, phát
ra khi môi mở ở trạng thái tự nhiên nhất nhằm cố gây sự chú ý hoặc biểu
lộ sự thảng thốt, có lẽ là tiếng Ơ, mạnh hơn nữa là tiếng Â. Thời nguyên
thủy, để hú gọi nhau, tiếng  phải cao vang dài, miệng mở to hơn, rồi
sau đó hạ thấp dần xuống (hết hơi), độ mở của miệng cũng nhỏ lại, môi
hơi chu và như thế, tiếng  biến thái thành tiếng ÂU (ẤU, ẦU), còn nếu
ngậm luôn môi lại thì sẽ là ÂUM. Phải chăng tiếng ÂUM chính là tiếng AUM
thiêng liêng và huyền bí về sau đã xuất hiện trong thánh kinh Vêđa của
Ấn Độ cổ đại? Còn tiếng ÂU? Có thể coi nó là hợp âm kế tiếp nhau của
tiếng Ơ và U và cùng với tiếng Ơ và U hợp thành bộ ba ngôn từ cơ sở làm
nên hệ thống ngôn ngữ “ú a ú ớ” nguyên thủy của người Việt tối cổ.
Với tạo hình ấn tượng này, một lần nữa nữ ca sĩ chinh phục khán giả ở hình ảnh đấy biến hóa của mình.
Không
ngừng sáng tạo và khai thác triệt để lợi thế về hình thể và biểu cảm,
Hương Giang Idol luôn mang đến hình ảnh mới mẻ dành cho khán giả yêu
mến.
Người đẹp chọn cho mình hình ảnh của một nữ thần ấn tượng từ tạo hình, trang phục, trang điểm đến biểu cảm gương mặt.
Gợi cảm đầy tinh tế mang đến vẻ đẹp “thoát tục” chính là hình ảnh của Hương Giang hướng đến trong tạo hình lần này của mình.
Nữ ca sĩ chọn cho mình những thiết kế gợi cảm, khéo léo khoe vòng 1 “căng tràn” cùng những đường cong nóng bỏng.
Hương
Giang còn chứng minh sức hút của mình ở khả năng tạo dáng, khai thác
hình thể cùng biểu cảm không thua kém gì người mẫu chuyên nghiệp.
Hương Giang quyến rũ tái hiện hình ảnh 'nữ thần mặt trời' trên Remix New Generation bên trai đẹp sáu múi
...được cho là "mượn ý tưởng" từ hình ảnh của Beyoncé