Sau nghi thức trao ấn kiếm khá đơn giản chiều
30/8/1945, hoàng đế Bảo Đại đã đọc bản Chiếu thoái vị ngay trên tầng 2
của Ngọ Môn.
Nhà thơ Cù Huy Cận tại Hội thảo ở Huế năm 2000. Ảnh: Tiến sĩ Sử học Phan Thanh Hải cung cấp.
Trong hai ngày 28-29/7/2000, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế tổ
chức hội thảo "Bảo tồn và phát huy giá trị tuồng cung đình Huế". Đây là
hội thảo rất đặc biệt của đất cố đô, vì lần đầu tiên cuộc hội thảo tại
địa phương lại quy tập được đông đảo nhà quản lý, nhà nghiên cứu về văn
hóa, sử học với những cây đại thụ như các giáo sư Trần Văn Khê, Vũ
Khiêu, Hoàng Châu Ký, Hoàng Chương, Hoàng Trinh, Nguyễn Lộc, nhà sử học
Dương Trung Quốc, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm...
Nhưng một sự kiện đặc biệt khác ở bên lề hội hội thảo đã thu hút sự
quan tâm của rất nhiều người. Đó là việc nhà thơ Cù Huy Cận, vị khách
mời danh dự, theo gợi ý của Ban tổ chức, đã mời tất cả đại biểu cùng ông
lên tầng 2 của lầu Ngũ Phụng - Ngọ Môn để ôn lại câu chuyện cách đó 55
năm - sự kiện hoàng đế Bảo Đại thoái vị và trao ấn kiếm cho đại diện của
chính phủ cách mạng lâm thời.
Ngày đó nhà thơ Cù Huy Cận đã 84 tuổi (sinh năm 1917 nhưng giấy khai
sinh đề năm 1919) và vẫn rất khỏe mạnh, minh mẫn. Ông thoăn thoắt trèo
lên tầng 2 của Ngọ Môn. Trước sự chứng kiến của đông đảo học giả, nhà
thơ đã xúc động kể lại câu chuyện mà ông đã tham gia với tư cách một
nhân chứng lịch sử, cũng là một sự kiện đặc biệt của lịch sử cách mạng
Việt Nam…
Lầu Ngũ Phụng (Ngọ Môn) nơi diễn ra lễ thoái vị của vua Bảo Đại chiều 30/8/1945. Ảnh: Nguyễn Đông.
Theo nhà thơ, với sự vận động và chuẩn bị chu đáo của phía cách mạng
thông qua vai trò của Đổng lý Ngự tiền văn phòng Phạm Khắc Hòe, hoàng đế
Bảo Đại đã hoàn toàn chấp thuận tham gia lễ thoái vị được tổ chức tại
Ngọ Môn trước đông đảo tầng lớp nhân dân.
Ngọ Môn là cổng chính của Hoàng thành Huế, đây là cổng thành to lớn và
đẹp nhất của kinh đô Huế do hoàng đế Minh Mạng cho xây dựng từ năm 1833.
Ngọ Môn cũng là nơi tổ chức các sự kiện chính trị quan trọng nhất của
triều Nguyễn như lễ đăng quang (lễ lên ngôi), lễ truyền lô (xướng danh
tân tiến sĩ), lễ đón mừng năm mới, lễ đón tiếp sứ thần các nước lân
bang…
Ngày 30/8/1945, một cuộc mít tinh và biểu dương lực lượng của hàng trăm
nghìn người thuộc các tầng lớp xã hội do chính quyền cách mạng tổ chức
tại quảng trường Ngọ Môn đã tạo nên khí thế vô cùng sôi động chưa từng
có ở Huế.
Ngay tại tầng 2 của lầu Ngũ Phụng, phái đoàn đại diện của chính quyền
cách mạng gồm các ông Nguyễn Lương Bằng, Trần Huy Liệu và Cù Huy Cận đã
thực hiện nghi thức nhận ấn, kiếm từ chính quyền vua Bảo Đại. Theo nhà
thơ Cù Huy Cận, chiếc ấn vàng của triều Nguyễn rất nặng nên ai cũng bất
ngờ khi nâng nó (đây là ấn Hoàng Đế Chi Bảo, đúc năm Minh Mạng thứ 4 -
1823, trọng lượng hơn 282 lượng vàng, tức gần 11 kg). Còn chiếc kiếm
chuôi nạm ngọc, nằm trong vỏ bằng bạc mạ vàng khi ông thử rút ra thì
thấy lưỡi thép đã có những vết hoen gỉ.
Sau nghi thức trao ấn kiếm đơn giản, hoàng đế Bảo Đại đã đọc Chiếu
thoái vị chính thức tuyên bố từ bỏ ngai vàng để trở thành công dân của
nước Việt Nam mới, dân chủ. Trong bản chiếu có câu nổi tiếng: "Trẫm
nguyện làm dân một nước tự do hơn là làm vua của một nước nô lệ". Sau
đó, nhà thơ Cù Huy Cận đã thay mặt cho chính quyền cách mạng gắn huy
hiệu công dân lên ngực áo cựu hoàng.
Ấn Hoàng Đế Chi Bảo vua Bảo Đại trao lại tại lễ thoái vị chiều 30/8/1945. Ảnh: Tiến sĩ Sử học Phan Thanh Hải cung cấp.
Có một chi tiết không nhiều người biết là trước khi diễn ra buổi lễ
này, đại diện của chính quyền cách mạng đã có buổi hội kiến trước với
hoàng đế Bảo Đại tại điện Kiến Trung. Tại buổi hội kiến này, hoàng đế
Bảo Đại không chỉ đồng ý tổ chức lễ thoái vị vào ngày 30/8 mà còn thống
nhất chuyển giao toàn bộ tài sản quý giá của vương triều cho chính quyền
cách mạng, chỉ yêu cầu được giữ lại cung An Định (là cung điện riêng do
vua Khải Định xây dựng bên bờ sông An Cựu) và các lăng tẩm của tổ tiên.
Chính vì vậy sau lễ thoái vị, phái đoàn của chính quyền cách mạng đã
cho chuyển gần 3.000 món bảo vật quý giá (bao gồm ấn tín bằng vàng bạc,
ngọc ngà, những cổ vật quý giá, những tặng phẩm ngoại giao…) ra miền
Bắc. Trải qua bao năm chiến tranh với vô vàn khó khăn gian khổ, nhưng số
bảo vật này vẫn được giữ gìn gần như nguyên vẹn. Hiện nay, số cổ vật
quý giá này đã được bàn giao cho Bảo tàng Lịch sử quốc gia để bảo quản,
trưng bày nhằm phục vụ đông đảo nhân dân.
Tròn 70 năm đã trôi qua kể từ ngày diễn ra sự kiện lịch sử, nhà thơ Huy
Cận cũng đã đi xa, nhưng những lời kể với tư cách một nhân chứng lịch
sử của ông cách đây 15 năm vẫn khiến nhiều người nhớ mãi.
Phan Thanh Hải Giám đốc Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế
VnExpress
Án mạng ở Bình Phước, chồng sát hại vợ rồi tự sát
30/08/2015 19:52
(TNO) Chiều ngày 30.8, Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Bình Phước vẫn đang
tiến nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi để điều tra làm rõ nguyên
nhân cái chết của bà Nguyễn Thị Lan (63 tuổi, ngụ ấp 5, xã Tân Khai,
huyện Hớn Quản).
Ngôi nhà nơi xảy ra vụ án
Cơ quan công an cũng đồng thời giám sát Phan Xuân Hiệu (51 tuổi,
chồng nạn nhân Lan) tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Bình Phước. Nghi can này
được cho đã sát hại vợ mình.
Theo thông tin ban đầu, bà Lan và ông Hiệu kết hôn với nhau từ năm
1992 và có chung 3 người con (trước đó, bà Lan cũng đã có 3 người con
riêng). Trong thời gian gần đây, việc làm ăn không thuận lợi nên bà Lan
và ông Hiệu thường xảy ra mâu thuẫn dẫn đến cãi vã, xô xát.
Rất nhiều người dân kéo về xem
Khoảng 17 giờ ngày 29.8, bà Lan nhờ Phan Văn B. (22 tuổi, con trai
bà Lan) đi mua bún về cho mọi người trong nhà ăn. Khi mua về nhà, anh B.
để đồ ăn trong bếp rồi bỏ sang nhà hàng xóm để uống rượu. Trong nhà lúc
này chỉ còn ông Hiệu, bà Lan và người con trai tên là Phan Văn T. (anh
ruột của B).
Đến khoảng 19 giờ 30 phút anh T. rời khỏi nhà đi làm. Đến khoảng 21
giờ, anh B. trở về nhà nhưng cổng bị khóa bên trong, điện trong nhà
cũng bị tắt nên lấy điện thoại gọi cho ông Hiệu và bà Lan nhưng đều
không liên lạc được. Ngay sau đó, anh B leo cổng vào đến cửa chính nhìn
qua cửa kính vào trong phòng khách thấy nhiều vết máu.
Nghe tiếng anh B. kêu cứu, hàng xóm chạy đến dùng búa phá cổng vào.
Lúc này anh T. cũng nhận được điện thoại nên liền cấp tốc chạy về rồi
phá cửa vào trong nhà phát hiện bà Lan đã chết trên vũng máu và ông Hiệu
bị thương nặng.
Theo thông tin ban đầu, bà Lan bị đâm nhiều nhát dao dẫn đến tử
vong, còn ông Hiệu tự cắt mạch máu tay để tự sát, hiện đang được cấp cứu
tại bệnh viện trong tình trạng nguy kịch.
Khi chiếc xe khách 25 chỗ ngồi giảm tốc độ di
chuyển chậm sát lề đường bên phải thì bất ngờ bị xe container chạy phía
sau đâm vào đuôi xe. Cú va chạm khiến chiếc container tiếp tục đâm vào
khu nhà xưởng đồ gỗ rồi lao xuống một hố sâu ven đường.
Ảnh minh họa: internet.
Vào lúc gần 14h ngày 30/8, trên Quốc lộ 10 đoạn qua địa phận thôn Trung
Thôn, xã Yên Tiến, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định đã xảy ra vụ tai nạn giữa
xe container và xe khách, khiến hành khách trên xe hoảng loạn.
Những người chứng kiến sự việc cho biết, vào thời điểm trên, chiếc xe
khách 25 chỗ ngồi mang biển kiểm soát 29U - 2505 chạy theo hướng Nam
Định-Ninh Bình, trên xe chở hơn 10 hành khách.
Khi đến khu vực thôn Trung Thôn, xã Yên Tiến, xe khách giảm tốc độ di
chuyển chậm sát lề đường bên phải thì bất ngờ bị xe container mang biển
kiểm soát 15R-034.46 chạy cùng chiều phía sau đâm vào phần đuôi xe,
khiến hành khách hoảng loạn. Trên xe khách lúc đó, không có ai ngồi ở
hàng ghế cuối cùng nên tất cả đều an toàn.
Sau khi đâm vào đuôi xe và đẩy xe khách trôi vào lề đường bên phải, xe
container tiếp tục đâm vào khu nhà xưởng đồ gỗ của gia đình anh Ngô Văn
Tùng ở bên phải Quốc lộ 10 cách đó khoảng 5m và dừng lại khi đầu xe lao
xuống một hố sâu bên cạnh nhà anh Tùng.
Vụ tai nạn đã làm tài xế xe container (chưa rõ danh tính), anh Ngô Văn
Tùng và một người đi xe máy ven đường bị xây xát nhẹ. Phần đuôi xe khách
và phần đầu, thân xe container bị hư hỏng nặng. Một gian nhà xưởng phía
ngoài của gia đình anh Tùng cùng một số tài sản giá trị bị hư hại.
Đến hơn 16 giờ cùng ngày, hiện trường vụ tai nạn vẫn chưa được giải tỏa.
Lực lượng Cảnh sát giao thông Công an tỉnh Nam Định đã có mặt tại hiện
trường phân luồng giao thông và tiến hành điều tra, làm rõ nguyên nhân
tai nạn.
Theo TTXVN/Vietnam+
Bi kịch từ kỳ vọng của phụ huynh
29/08/2015 22:00
Lỗi của cha mẹ và cả nhà trường là biến việc học tập, vốn là quá trình
khám phá đầy hứng thú, trở thành một việc khổ sai mà con em phải cắn
răng vượt qua để có được tấm bằng
Pan, 28 tuổi (hiện sống ở Toronto - Canada) đã từng là niềm tự hào
của cha mẹ cô, những người Việt định cư ở Canada từ nhiều năm trước và
nuôi dạy các con với một niềm tin về tầm quan trọng tuyệt đối của việc
thành công trong học tập. Họ gọi cô là “đứa trẻ vàng” vì cô luôn đạt
điểm tốt, giành được học bổng vào ĐH, tốt nghiệp ngành dược danh giá của
Trường ĐH Toronto và có việc làm tốt trong một phòng thí nghiệm huyết
học. Ác mộng của áp lực thành công
Nhưng tất cả chỉ là một sự dối trá. Sự thực là cô thi rớt trung học,
nói gì tới ĐH Toronto mà cô đã đóng kịch. Jenifer Pan đã nói dối cha mẹ
về những thành tích học tập của mình. Tháng giêng vừa qua, cô vừa bị
tuyên án chung thân vì đã cùng với bạn trai thuê người giết chết cha mẹ
(theo Toronto Life, Washington Post).
Cấp 1, Pan từng là học sinh đứng đầu lớp, nhưng khi lên lớp 9, cô chỉ
đạt điểm khá. Cô đã tự chế ra những bảng điểm xuất sắc cho mình bằng
cách cắt dán, photocopy. Thật ra điểm khá là bình thường nhưng trong gia
đình Pan, nó bị coi là không thể chấp nhận được, so với tiêu chuẩn khắt
khe của họ về thành tích học tập.
Cô thi rớt ĐH và giả vờ được trúng tuyển, ngày ngày khi cha mẹ cô
thấy cô đón xe bus “đến trường” thì thực ra cô tới thư viện và hẹn hò.
Vào lễ “tốt nghiệp”, cô nói sẽ rất đông người và không còn vé mời để cha
mẹ cô có thể tham dự. Họ bắt đầu nghi ngờ, cuối cùng đã tìm ra sự thật.
Với sự giúp sức của người yêu, cô lên kế hoạch giết bố mẹ. Pan đóng
vai bất lực chứng kiến kẻ cướp bắn cha mẹ. Ba kẻ được thuê đã bắn chết
mẹ cô, còn cha cô trúng đạn và bị thương rất nặng.
Mặc dù trường hợp của Pan có tính chất cực đoan và cá biệt nhưng
những trường hợp tự tử hoặc tâm thần do áp lực thi cử, học hành thì đã
xảy ra không ít ở Việt Nam. Viện Sức khỏe tâm thần quốc gia một năm khám
và điều trị cho khoảng 3.000 bệnh nhân nội trú và 36.000 bệnh nhân
ngoại trú. Trong đó, nhóm đối tượng học sinh - sinh viên đến khám và
điều trị chiếm tỉ lệ khoảng 10%. Thời điểm học sinh đến khám và điều trị
thường vào dịp tập trung ôn thi tốt nghiệp, thi ĐH.
Từ khóa “tự tử vì áp lực thi cử” cho chúng ta 13.400 kết quả tìm kiếm
trên Google trong vòng 0,5 giây! Còn bao nhiêu trường hợp khác, không
đi tới kết cục tự tử hay tâm thần nhưng đã phải sống một tuổi thơ bất
hạnh và vào đời lạc hướng chỉ vì những mong muốn cũng như kỳ vọng quá
cao của cha mẹ?
Thùy An vào ngành y trong lúc em không hề thích trở thành bác sĩ, mà
chỉ vì cha mẹ em coi đó là một nghề nghiệp danh giá và một kế mưu sinh
vững chắc cả đời. Ở tuổi 18, em không biết làm gì khác hơn là tuân theo
mong muốn của cha mẹ, học trối chết để vào được trường y và 6 năm tiếp
theo quên ăn quên ngủ để lấy được tấm bằng bác sĩ. Tới lúc ra trường
hành nghề, em không tài nào chịu đựng nổi cảnh máu me rên xiết của bệnh
nhân, cuối cùng phải bỏ đi làm nghề nhiếp ảnh - một công việc thu nhập
bấp bênh nhưng làm cô rất thích thú. Tấm bằng bác sĩ cuối cùng xếp vào
đáy tủ. Cùng với nó, cô mất đi 6 năm tuổi trẻ và cha mẹ cô thì mất một
núi tiền.
Thực tế tại Việt Nam, không biết bao nhiêu người đã cố sống cố chết
học để đáp ứng mong muốn của cha mẹ và không bao giờ có cơ hội để biết
mình thực sự là ai, có khả năng gì đặc biệt, có những ước mơ như thế
nào, có thể làm được điều gì. Thay vì mơ ước, kỳ vọng…
Bi kịch của Pan đã gây chấn động truyền thông vì tính chất bi thảm
của nó, mà vì khi được chia sẻ rộng rãi trên Facebook, nó đã tạo ra một
làn sóng chia sẻ những trải nghiệm tương tự của giới trẻ . Bi kịch của
Pan rất tiêu biểu cho hiện tượng giấc mơ tương lai của người châu Á đã
biến thành ác mộng cho con cái họ như thế nào. Nó là mặt trái của huyền
thoại thành công. Có lẽ là không đúng khi ta khái quát hóa câu chuyện
của Pan để chê trách các bậc cha mẹ châu Á nhưng rõ ràng chúng ta cần
suy nghĩ lại một cách nghiêm túc về những áp lực thành công mà chúng ta
đặt ra cho con cái.
Hiển nhiên, ai trong chúng ta cũng muốn con cái học hành đỗ đạt, giàu
có và nổi tiếng, có địa vị xã hội, được thiên hạ trọng vọng. Và chúng
ta mặc định rằng học hành và bằng cấp là con đường độc đạo để giành lấy
những thành công ấy, để rồi ép buộc con em chúng ta bước vào con đường
này bất chấp cái giá phải trả.
Nhưng có hai điều cần nghĩ lại: thực ra, thế nào là thành công? Và
học hành, bằng cấp liệu có phải là cách duy nhất để đạt được nó?
Lỗi của cha mẹ và cả nhà trường là đã biến việc học tập, vốn là quá
trình khám phá đầy hứng thú, trở thành một việc khổ sai mà con em chúng
ta phải cắn răng vượt qua để giành lấy phần thưởng là tấm bằng. Hơn thế
nữa, nhà trường và rất nhiều gia đình chưa bao giờ dạy cho con em chúng
ta bài học vượt qua thất bại như thế nào, trong lúc đó mới chính là bài
học quan trọng nhất: những người thành công không phải là những người
không bao giờ thất bại, mà chính là những người đã vượt qua thất bại và
học được một cái gì đó từ những thất bại ấy.
Lẽ ra, thay vì đặt ra một kỳ vọng quá cao và áp dụng một kỷ luật
nghiêm khắc để buộc con em giành lấy thành tích học tập, chúng ta cần
nuôi dưỡng lòng khát khao hiểu biết, vốn là một nhu cầu rất tự nhiên của
con người. Thay vì mơ ước con em chúng ta phải trở thành bác sĩ, kỹ sư,
doanh nhân, chủ tịch, chúng ta hãy giúp các em tự khám phá những khả
năng và thiên hướng của mình, giúp các em phát triển bản thân và nuôi
dưỡng trong các em những giá trị tinh thần vững chắc về đạo đức, công
lý. Thành công sẽ đến như là một kết quả tự nhiên, thay vì là một mục
đích phải đạt được bằng mọi giá.
Phạm Thị LY
Hơn 800 fan bị lừa bỏ 4 tỉ đồng mua vé giả liveshow của EXO, Big Bang
30/08/2015 16:55
(TNO) Với chiêu thức rao bán vé buổi hòa nhạc của các nhóm nhạc nổi
tiếng Hàn Quốc như EXO, Big Bang tại các trang web trên mạng, một người
đàn ông họ Kim đã lừa đảo được số tiền 208 triệu won (khoảng 4 tỉ đồng)
của các fan, Allkpop đưa tin ngày 30.8.
Lợi dụng sự nhẹ dạ của người hâm mộ EXO, Big Bang, nhiều kẻ đã có hành vi lừa đảo bán vé liveshow giả để trục lợi - Ảnh: AFP
Trong 838 người liên lạc với người đàn ông 21 tuổi này để mua vé
thì đa số các nạn nhận thuộc lứa tuổi thiếu niên. Mỗi người đã chuyển
cho ông này số tiền từ 200 - 500 ngàn won (khoảng 3,8-9,5 triệu đồng),
số tiền gấp đôi so với giá trị thực của vé gốc để nhận mã xác nhận. Ông
này nói rằng nếu có mã xác nhận thì có thể nhận vé.
Từ tháng 2.2013 đến tháng 8.2015, ông Kim đã lấy các mã xác nhận từ
các bài viết của những người rao bán vé thật và cung cấp cho nạn nhân.
Nhưng thực tế, họ không thể lấy vé với mã xác nhận này.
Để tránh bị lộ thân phận, ông này đã sử dụng nhiều số điện thoại và
mở ít nhất 7 tài khoản ngân hàng để nhận thanh toán. Khi các nạn nhân
than phiền về việc không nhận được vé, ông này đe dọa: “Sẽ không có
chuyện hoàn tiền nếu báo cảnh sát". Sau đó, ông Kim tiếp tục lừa những
nạn nhân nhẹ dạ tiếp theo chuyển tiền vào tài khoản của những người đã
phàn nàn để họ “im lặng”.
Ông Kim được cho là đã “nướng” toàn bộ tiền lừa đảo được vào việc cá độ thể thao và các hoạt động bài bạc khác.
Hiện Kim đã bị cảnh sát Seoul (Hàn Quốc) bắt giữ.
Thiên Minh
Phạm Xuân Ẩn “buồn nhất là cấp trên không cho lấy vợ Mỹ“
Phạm Xuân Ẩn trong thời gian du học ở Mỹ 1957 - 1959
Ở Mỹ, hình như Phạm Xuân Ẩn có một mối tình, tất nhiên với một cô gái
Mỹ. Trong cuốn sách đã đăng ở kỳ trước, tác giả Ngọc Hải kể, có lần một
nhà báo Mỹ bạn ông hỏi "Có bao giờ ông buồn và ân hận vì đi làm cách mạng không?". Trả lời: "Có buồn chứ. Buồn nhất là lúc đó cấp trên không cho lấy vợ Mỹ”
"Sao ông bảo đất nước ông tự do cơ mà ?". "Không được, ông nội ! Vào Đảng, đã hứa rồi". Lại hỏi: "Đi làm cách mạng vậy có tiếc không?. Lại trả lời: “ Cách mạng rắc rối, quản lý chặt, không cho lấy vợ Mỹ"... Người bạn Mỹ được dịp cười bò và họ đã quen với những, chuyện vui đùa như vậy khi tiếp xúc với ông.
Trước khi giới thiệu đến gặp ông, một
cán bộ quân đội lưu ý với chúng tôi về phẩm chất chính trị và lòng trung
thành son sắc của nhà tình báo anh hùng này đối với Đảng, với cách
mạng, đặc biệt là trong thời gian ông du học ở Mỹ; rằng lúc đó ông đã
không màng đến danh lợi, kiên định tư tưởng, chủ động về nước để thực
hiện nhiệm vụ mặc dù bị đứt liên lạc; rằng tấm gương trung kiên của
người anh hùng đáng để thế hệ trẻ học tập, noi theo. Còn khi nói chuyện
với chúng tôi, ông Ấn trước sau vẫn bảo cuộc đời hoạt động của mình
“không có gì đặc biệt cả".
"Sau hai năm học báo chí, tôi phải về. Vì 3 lý do: Thứ nhất, không đủ tiền để học thêm. Thứ hai, ở nhà chiến tranh nổ
ra; ta đang tiến hành đồng khởi (Mỹ báo Việt cộng đã đánh võ trang ở
Việt Nam rồi). Thứ ba, điều quan trọng nhất là tôi đã mất liên lạc với
tổ chức từ năm 1958. Tất cả những người đã phụ trách tôi, các đồng chí
Mười Hương, Dương Minh Sơn, Nguyễn Vũ đều đã bị bắt. Em trai tôi cũng bị bắt. Tôi biết được việc này do em trai tôi khi được thả ra đã tìm cách báo tin cho tôi bằng những ám hiệu trong thư", ông
kể. Thực ra lúc đó không phải ông không có điều kiện tiếp tục học, vì
sau thời gian tập sự báo chí tại Liên Hiệp Quốc, ông có ghé lại Cơ quan
Viện trợ Mỹ.
Tại đây người Mỹ có lời mời ông ở lại
dạy tiếng Việt cho cấp sĩ quan tại một trường quân sự (mỗi tháng chỉ đến
1 lần) và họ hứa sẽ cấp học bổng mỗi tháng 350 USD trong 3 năm để tiếp
tục học thêm bất cứ ngành nào ông muốn. Đây là số tiền khá lớn so với
mức 150 USD/tháng mà ông sống suốt trong thời gian học ở Mỹ. Song ông
không về. "Là đảng viên, không thể sống rời tổ chức", ông nói câu này
một cách tự nhiên, hoàn toàn không có chút gì là do thói quen như ta
thường nghe từ miệng một số người, ông nói ra điều mà ông đã sống thật.
2. Nhưng đường dây đã bị phá, những
người phụ trách đều bị bắt, liên lạc bị đứt, nên về nước là vô cùng cam
go. Mặc dù ông tin tưởng lãnh đạo và đồng chí, nhưng bản thân mình đã bị
lộ hay chưa thì ông không thể nào biết được. Thực ra ông cũng tính đến
hai phương án nữa, nhưng đều không ổn. Một là sang châu Âu, sang Pháp,
theo đường này thì có thể "trở thành Việt kiều yêu nước" chứ không thể
bắt lại liên lạc để hoạt động. Còn phương án hai, sang phía Mỹ La tinh,
xuống Cuba (lúc ấy ông Fidel Castro đã giành được chính quyền), có thể
từ đây về miền Bắc, ông bắt đầu học tiếng Tây Ban Nha khi tính phương án
này, nhưng làm thế chẳng khác gì bỏ nhiệm vụ.
Quyết định về nước, ông tính nếu không
bị lộ thì tốt rồi, còn trường hợp bị lộ thì ông dự trù có thể xảy ra 3
tình huống: hoặc là địch sẽ bắt ngay tại sân bay, hoặc là chúng để ông
về nhà một thời gian sẽ bắt, hoặc là chúng để yên cho ông nối lại liên
lạc hoạt động trở lại sẽ hốt trọn ổ. "Cách đối phó duy nhất của tôi khi
đó là gọi điện cho má tôi đưa người quen ra sân bay đón cho đông, để lỡ
bị bắt có thể gián tiếp thông tin cho cấp trên biết được". Xuống sân bay
không có việc gì xảy ra, nhưng vẫn căng thẳng, ở nhà bữa đầu không có
gì xảy ra. Bữa thứ hai không có gì xảy ra.
Một tháng sau cũng không thấy ai đến
bắt, ông yên tâm phần nào. Nhưng phải làm gì chứ ! Phải lựa chỗ khó nhất
mà xin vô. Chỗ khó nhất là Phủ Tổng thống chứ còn đâu nữa. Nó không
cho vô tức nó nghi, còn nó cho vô thì an toàn. Từ chỗ quen biết với Trần
Kim Tuyến, trùm mật vụ của chế độ Ngô Đình Diệm, ông xin vào làm việc ở
đây. Khi có giấy gọi ông mới thở phào nhẹ nhõm. Từ đó, ông trở thành
chuyên viên cơ quan mật vụ của Phủ Tổng thống.
Cấp trên của ông đều là những người xứng
đáng với sự tin cậy của đảng, của đồng chí. Ông Mười Hương bị đày ải ở
nhà tù Chín Hầm khét tiếng của Ngô Đình Cẩn- nơi còn kinh khủng hơn địa
ngục, đã kiên trung bất khuất chịu đựng tất cả sự tra tấn tàn khốc nhất
của địch bảo toàn được tổ chức. “Làm nghề này quan trọng nhất là tư tưởng”, ông Mười Hương thường dặn dò ông.
Tận thấy kho siêu xe của ông trùm ma túy bị tịch thu
Hơn 30 chiếc siêu xe thuộc băng nhóm của trùm ma
túy Joaquin "El Chapo" Guzman bị tịch thu tại TP Culiacan, bang Sinaloa,
Mexico. Thêm vào đó, 13 thiết bị vũ khí quân sự cũng được tìm thấy
trong chiến dịch trấn áp tại địa bàn của băng đảng Sinaloa khét tiếng.
Khoảng 33 siêu xe hơi và mô tô như Dodge Viper, Jeep
Sahara, Ducati đã bị thu giữ trong chiến dịch bố ráp của chính phủ
Mexico trong vòng 1 tuần.
Thêm vào đó, 13 thiết bị vũ khí quân sự cũng được tìm
thấy trong chiến dịch trấn áp tại địa bàn của băng đảng Sinaloa khét
tiếng. Lực lượng điều tra đặc biệt về tội phạm có tổ chức (SEIDO) đã
giúp tiến hành chiến dịch trên cũng như thực hiện cuộc điều tra.
SEIDO và Hải quân Mexico đang hợp tác nhằm giảm tỉ lệ
tội phạm và tăng cường an ninh ở Culiacan, nơi thành lập của băng nhóm
tội phạm ma túy lớn và quyền lực nhất Mexico.
Theo Hải quân Mexico, ông trùm ma túy này vẫn đang
chạy trốn khỏi cuộc truy bắt của cảnh sát sau cuộc vượt ngục thành công
hồi tháng 7.
Trùm ma túy 60 tuổi này có tổng tài sản ước tính trị
giá khoảng 3 tỉ USD là một trong những tội phạm bị truy nã gắt gao nhất
thế giới sau khi lái xe thoát khỏi đường hầm được đào bên dưới nhà tù
Altiplano có an ninh nghiêm ngặt nhất tại Mexico.
Việc thu giữ trên diễn ra sau khi ông Manuel Jesus
Gutierrez –Guzman, một người em họ của ông trùm Guzman 54 tuổi, bị kết
án 16 năm tù và đang bị giam giữ tại nhà tù bang New Hampshire- Mỹ vì
tội phân phối ma túy tại Mỹ. Người này bị bắt tại Tây Ban Nha vào năm
2012 và nhận tội hồi tháng 10 năm ngoái.
Luật sư Mỹ Donald Feith cho biết Gutierrez-Guzman còn bị phạt 10.000 USD và sẽ bị trục xuất về Mexico sau khi được trả tự do.
Theo Người Lao Động
Trung Quốc 'hạ nhiệt' vấn đề Biển Đông vì khủng hoảng tài chính?
30/08/2015 10:24
(TNO) Khủng hoảng tài chính tại Trung Quốc sẽ tác động mạnh đến chính sách ngoại giao của nước này trong thời gian sắp tới, trong đó có vấn đề Biển Đông, theo tạp chí National Interest (Mỹ).
Một nhà đầu tư Trung Quốc đang theo dõi diễn biến giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Trung Quốc - Ảnh: Reuters
Trong bài viết đăng ngày 28.8, National Interest cho biết
cách đây không lâu, kinh tế Trung Quốc có vẻ như đủ sức chống chọi khủng
hoảng. Bất chấp nhiều năm tăng trưởng không cân đối, Bắc Kinh vẫn tìm
ra cách dựa vào nguồn lực đầu tư để tăng cường sức mạnh cho nền kinh tế
và giữ tốc độ tăng trưởng ở mức cao.
Khoản nợ công cao chót vót tính từ năm 2009 của Trung Quốc, xấp xỉ
gần 300% trên GDP, vốn là tỉ lệ thảm họa đối với các quốc gia có thu
nhập trên trung bình, vẫn chưa gây ra khủng hoảng tài chính.
Trong khi đó, bong bóng bất động sản của nước này, được cho là lớn
nhất thế giới nếu tính vào số lượng dự án đã hoàn thành nhưng không có
người ở, có đang xì hơi nhưng cũng chưa đến mức bị vỡ, theo National Interest.
Tạp chí Mỹ cho biết nền kinh tế “có vẻ như bất khả chiến bại” kiểu
này đã khiến chính phủ Trung Quốc mạnh dạn tiến hành một chính sách
ngoại giao mới đầy tham vọng, nhưng cũng đầy rủi ro trong vài năm qua.
“Nhiều lãnh đạo cấp cao Trung Quốc cho rằng Mỹ và các nước phương Tây
đang lâm vào tình trạng suy thoái không ngừng, trong khi sự trỗi dậy
của Trung Quốc là không thể ngăn cản… Sự cao ngạo này đã khiến Bắc Kinh,
thay vì tiếp tục duy trì chính sách tránh bị chú ý, đã chuyển sang tăng
cường các mối quan hệ kinh tế ở nước ngoài và bắt đầu công khai thách
thức trật tự an ninh do Washington dẫn đầu ở Đông Á”, theo National Interest.
Đối mặt với đối thủ có trong tay một lượng dự trữ ngoại tệ lên đến
gần 4.000 tỉ USD, tất cả những gì các nước phương Tây có thể làm là lo
lắng trong lòng và công khai chỉ trích các chính sách môi trường và nhân
quyền của Bắc Kinh trong các hoạt động đầu tư ở nước ngoài.
“Bước đi táo bạo nhất mà Trung Quốc đã triển khai khi đã trở thành
siêu cường kinh tế chính là cách mà nước này xử lý các tranh chấp chủ
quyền ở Đông Á”, tạp chí Mỹ cho biết.
“Trong khi các lãnh đạo trước đây đều cố ý phớt lờ các tranh chấp khó
giải quyết và tiềm ẩn nguy cơ xung đột tại quần đảo Senkaku/Điếu Ngư
cũng như ở Biển Đông, giới cầm quyền Trung Quốc hiện tại đã triển khai
một đường lối mang đầy tính đối đầu vì cho rằng với sức mạnh kinh tế và
quân sự, Trung Quốc không cần phải tôn trọng các lợi ích và các vấn đề
nhạy cảm của Mỹ và các đồng minh trong khu vực”, theo National Interest.
Kết quả là trong vòng 2 năm qua, Trung Quốc đã gây căng thẳng trong
vùng bởi hành động đơn phương thiết lập Vùng nhận dạng phòng không
(ADIZ) trên biển Hoa Đông, bao trùm cả Senkaku/Điếu Ngư và hành động
phớt lờ luật pháp quốc tế để xây dựng phi pháp hàng loạt đảo nhân tạo
tại Biển Đông.
Tàu hải giám Trung Quốc phun nước vào tàu tuần duyên Việt
Nam để bảo vệ giàn khoan Hải Dương-981 hoạt động trái phép trong vùng
biển Việt Nam hồi tháng 5.2014 - Ảnh: Reuters
Sẽ phải "xuống thang" vì khủng hoảng kinh tế?
National Interest nhận định với việc tăng trưởng kinh tế
cuối cùng đã chững lại và các điểm yếu đang bắt đầu bị phơi bày, câu hỏi
đặt ra lúc này là liệu Trung Quốc có thể tiếp tục duy trì chính sách
ngoại giao hung hăng hay không.
“Dựa vào cách hành xử của giới lãnh đạo Trung Quốc từ trước tới nay,
có vẻ như điều tích cực duy nhất có thể phát sinh khi kinh tế nước này
bị suy thoái là họ sẽ trở nên bớt hung hăng về ngoại giao”, tạp chí Mỹ
cho hay.
Trong khi Chủ tịch Tập Cận Bình chấp nhận các rủi ro ngoại giao to
lớn, các lãnh đạo Trung Quốc thời hậu Mao Trạch Đông đều chọn cách làm
việc dựa theo chủ nghĩa thực dụng thận trọng, National Interest bình luận.
Ba vị tiền nhiệm trước ông Tập, gồm ông Đặng Tiểu Bình, Giang Trạch
Dân và Hồ Cẩm Đào, đều nhận thấy rõ chênh lệch về sức mạnh giữa Trung
Quốc và phương Tây, đặc biệt là Mỹ. Do đó, các lãnh đạo này đã có nhiều
nhượng bộ đáng kể về mặt ngoại giao khi kinh tế suy yếu buộc họ phải
tính tới chính sách ngoại giao mang tính hợp tác.
“Đơn cử là việc ông Đặng đã không để cho việc Mỹ bán vũ khí cho Đài
Loan cản trở quan hệ thương mại Trung -Mỹ phát triển. Ông Giang đã có
một sự kiềm chế đáng kể đối với vấn đề Đài Loan hồi cuối những năm 1990
để đổi lấy việc Mỹ ủng hộ Trung Quốc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế
giới (WTO)”, National Interest cho biết.
Nếu tăng trưởng kinh tế trong ngắn hạn của Trung Quốc đòi hỏi nước
này phải tăng lượng hàng xuất khẩu sang phương Tây, thì khó có thể hình
dung ra việc Bắc Kinh đạt được điều này trong khi vẫn cương quyết duy
trì các đường lối ngoại giao hung hăng tại Biển Đông, tạp chí Mỹ bình
luận.
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình - Ảnh: Reuters
Ngoài ra, việc kinh tế tăng trưởng chậm lại cũng sẽ hạn chế đáng kể
khả năng tài trợ cho các dự án kinh tế quy mô lớn, nhưng đầy rủi ro của
Trung Quốc tại các quốc gia đang phát triển.
“Điều quan trọng hơn cả là Trung Quốc sẽ buộc phải tái phân bổ các
nguồn tài chính để duy trì tốc độ tăng trưởng trong nước nếu kinh tế cứ
tiếp tục suy yếu. Do đường lối chính sách của Trung Quốc dựa vào sức
mạnh kinh tế, nên nếu Chủ tịch Tập lâm vào cảnh bị buộc phải lựa chọn
giữa danh tiếng trên trường quốc tế và sự sống còn của chính quyền, ai
cũng đều biết ông ta sẽ chọn cái nào”, National Interest kết luận.
Hoàng Uy
Điểm yếu của tiêm kích tàng hình Nga T-50
Tiêm
kích tàng hình thế hệ 5 T-50 của Moscow có khả năng bay nhanh, tác
chiến cơ động cùng hệ thống vũ khí hiện đại nhưng đang đối mặt với một
số thách thức công nghệ và tài chính.
Tiêm kích tàng hình thế hệ thứ 5 Sukhoi T-50 của Nga. Ảnh: Business Insider
Bài viết trên RT hôm 27/8 cho biết "không quân Nga sẽ sẵn
sàng đón nhận những mẫu tiêm kích tàng hình đầu tiên vào biên chế trong
năm 2016", đồng thời thêm rằng tất cả vũ khí và những đổi mới về công
nghệ, kỹ thuật dành riêng cho T-50 sẽ hoàn thiện vào năm 2020. Trong 12
mẫu tên lửa trang bị cho máy bay, một số có khả năng đạt vận tốc siêu
thanh và hầu hết được thiết kế nằm gọn trong khoang để không gây ảnh
hưởng đến chức năng tàng hình.
Chuyên gia phương Tây cho rằng chiến đấu cơ thế hệ thứ 5 T-50 sẽ sở hữu
uy lực lớn và là sự bổ sung quan trọng cho không quân Nga.
"Các phân tích về PAK-FA mà tôi từng đọc qua chỉ ra rằng chúng có thiết
kế khá tinh vi, ít nhất là ngang bằng với chiến đấu cơ thế hệ thứ 5 của
Mỹ. Một số còn nhận định nó vượt trội máy bay Mỹ", ông Dave Deptula,
cựu giám đốc tình báo không quân Mỹ, cho hay. "Nó chắc chắn có ưu thế về
độ nhanh nhẹn với sự kết hợp của hệ thống điều chỉnh vector đẩy, tất cả
bề mặt đuôi chuyển động và thiết kế khí động học tuyệt vời".
Những người am hiểu về chiếc máy bay cũng dự đoán T-50 sẽ trở thành một trong những mẫu chiến đấu cơ tốt nhất.
T-50 "ắt hẳn là muốn cạnh tranh với Raptor", một quan chức quân sự hàng
đầu nhiều kinh nghiệm về chiến đấu cơ thế hệ thứ 5 của Mỹ, nhận xét.
Song, áp lực kinh tế và thách thức công nghệ dường như là những vấn đề
đang kìm chân kế hoạch phát triển mẫu tiêm kích này, theo National Interest.
Áp lực tài chính
Theo bình luận viên Harry J. Kazianis, không thể phủ nhận T-50 là mẫu
tiêm kích giàu tiềm năng của Nga nhưng thách thức lớn nhất của nó lại
nằm ở chi phí, cũng giống vấn đề mà chiến đấu cơ thế hệ thứ 5 F-35 hay
F-22 của Mỹ gặp phải.
Thứ trưởng Quốc phòng Yuri Borisov hồi tháng ba cho biết, với điều kiện
kinh tế Nga hiện nay, có khả năng kế hoạch mua T-50 ban đầu sẽ phải
điều chỉnh. Ông cũng nhấn mạnh T-50 nên được xem xét hoãn triển khai để
dành mọi nguồn lực phát triển các mẫu chiến đấu cơ thế hệ 4+. Borisov
đang nhắc tới mẫu chiến đấu cơ đa nhiệm nhưng không thể tàng hình của
Nga là Su-30 và Su-35. Theo ông, các máy bay này sẽ lấp đầy khoảng trống
tạo ra từ việc cắt giảm T-50.
Trên lý thuyết, T-50 sẽ giữ vai trò là át chủ bài của Nga chống lại
tiêm kích F-22 và F-35 của Mỹ. Bề ngoài, chiến đấu cơ này khá mạnh mẽ.
Nó lớn, nhanh và có tầm hoạt động rộng. T-50 cũng thể hiện được tính ổn
định và cơ động tại các cuộc triển lãm hàng không.
Tuy nhiên, Nga đã cắt giảm đơn đặt hàng T-50 từ trên 50 chiếc xuống còn
12 chiếc. Giới phân tích suy đoán việc kinh tế đang gặp khó khăn trước
lệnh trừng phạt của phương Tây kết hợp với giá dầu sụt giảm là nguyên
nhân khiến Moscow đưa ra quyết định trên.
Chi phí phát triển T-50 hiện vẫn còn là bí mật. Các nhà phần tích suy
đoán con số dao động trong khoảng từ 10 - 30 tỷ USD. Ấn Độ, đối tác của
Nga, cũng bỏ ra gần 5 tỷ USD cho dự án nhưng dường như mẫu chiến đấu cơ
này vẫn tồn tại nhiều vấn đề về kỹ thuật.
Thách thức công nghệ
Theo một đơn vị thuộc tập đoàn công nghệ Rostec của Nga, T-50 sẽ trang
bị hệ thống phòng thủ tối tân, đủ sức khắc chế khả năng tàng hình của
máy bay đối phương. Ngoài ra, hệ thống điện tử hiện đại sẽ giúp nó không
bị phát hiện bởi hầu hết các loại radar hay công nghệ quang học và hồng
ngoại khác.
T-50 "ở một mức độ nào đó giống như một robbot bay, nơi phi công không
chỉ thực hiện vai trò của một người điều khiển mà thực chất trở thành
một bộ phận của máy bay", ông Vladimir Mikheyev, phó tổng giám đốc Công ty Công nghệ Radio - Điện tử(KRET) của Nga, nói.
KRET đang xây dựng cho T-50 một hệ thống định vị nội bộ tiên tiến, có
thể tự động xử lý thông tin điều hướng và hành trình bay. Cơ chế này
cũng xác định được vị trí máy bay và các thông số chuyển động trong tình
huống không có định vị vệ tinh.
Dù vậy, một số chuyên gia vẫn hoài nghi về khả năng thực sự của T-50,
đặc biệt là khi chiếc máy bay này từng thất bại trong một cuộc thử
nghiệm.
Tháng 6 năm ngoái, động cơ của một chiếc T-50 bốc cháy trong quá trình
bay thử ở phi trường Zhukovsky gần thủ đô Moscow. Các quan chức Nga nói
thiệt hại không đáng kể nhưng những bức ảnh cho thấy phần thân phi cơ
cháy đen bởi ngọn lửa lớn.
"Điều khiến người ta cảm thấy hoài nghi hơn đó là việc Nga từ chối chia
sẻ thông tin liên quan đến thất bại này. Thậm chí, một nhóm thẩm định
kỹ thuật của không quân Ấn Độ có mặt tại hiện trường còn không được phép
kiểm tra chiếc máy bay hư hại", Defense News dẫn lời Monika Chansoria từ Trung tâm nghiên cứu Chiến tranh trên bộ, trụ sở ở New Delhi, nói.
Indian Business Standard dẫn một bản báo cáo của không quân Ấn
Độ đưa ra hồi tháng 12/2013 cho hay động cơ AL-41F1 mà T-50 sử dụng
không đủ mạnh. Một tháng sau, tờ báo này tiếp tục hé lộ một tin xấu
khác. Ấn Độ muốn tham gia nhiều hơn vào dự án phát triển T-50 nhưng động
cơ máy bay vẫn chưa được như mong muốn và chi phí thì vẫn rất lớn. Bên
cạnh đó, radar của máy bay "không hợp lý", đồng thời tính năng tàng hình
còn chưa hoàn thiện. Thay vì đề xuất giải pháp cho các điểm yếu trên,
tất cả những gì Nga đưa ra tính đến đầu năm 2015 vẫn là những lời xin
lỗi và hứa hẹn.
Xét về khả năng cảm biến và hợp nhất thông tin cũng như tính ưu việt
của hệ thống điện tử, ông Deptula cho rằng F-22 hay F-35 của Mỹ và đồng
minh vẫn dẫn đầu, T-50 chưa thể sánh kịp chúng về mặt này.
Theo một quan chức quốc phòng Mỹ, T-50 có nhiều điểm tương đồng với mẫu
Boeing F/A F/A-18E/F Super Hornet hay F-16E/F Block 60 hơn là F-22 hay
F-35. "Một số người cho rằng PAK-FA là chiến đấu cơ thế hệ thứ 5 nhưng
theo tôi nó chỉ thuộc thế hệ 4,5 nếu xét theo tiêu chuẩn của Mỹ", ông
này nói.
Ông Ruslan Pukhov, giám đốc Trung tâm Phân tích Chiến lược và Công nghệ
Nga (ACT), nhận định điểm yếu của T-50 nằm ở động cơ. Các máy bay
tương tự của phương Tây hoạt động kinh tế và thân thiện với môi trường
hơn. Mặt khác, động cơ xả ít khói hơn và tiếng ồn cũng nhỏ hơn khiến máy
bay ít bị phát hiện.
Những mẫu thử T-50 hiện chạy bằng động cơ của các máy bay thế hệ cũ.
Động cơ mới dùng riêng cho T-50 đang được phát triển nhưng gặp phải khá
nhiều khó khăn.
Vũ Hoàng
Trung Quốc "sờ gáy" cựu chủ tịch tập đoàn thép Vũ Hán
Dân trí Cơ quan chống tham nhũng của Trung Quốc ngày
29/8 thông báo đã mở cuộc điều tra nhằm vào một cựu chủ tịch Tập đoàn
sắt thép Vũ Hán, một trong những tập đoàn chế tạo thép lớn nhất Trung
Quốc.
Ông Đặng Khi Lâm (Ảnh: Sina)
Ông Đặng Khi Lâm, Chủ tịch Tập đoàn sắt thép Vũ Hán cho tới tháng
6/2015, đã bị cáo buộc vi phạm kỷ luật nghiêm trọng, Ủy ban kiểm tra kỷ
luật trung ương (CCDI) của đảng Cộng sản Trung Quốc cho biết trên trang
web hôm 29/8.
"Các vi phạm kỷ luật" là cụm từ thường được giới chức Trung Quốc ám chỉ tội danh tham nhũng.
Hiện chưa có bất kỳ bình luận nào từ Tập đoàn sát thép Vũ Hán hay từ ông Đặng.
Theo CCDI, ông Đặng cũng là Tổng thư ký Hiệp hội sắt thép Trung Quốc kể từ năm 2009.
Trước đó, các quan chức từ các công ty khác trong lĩnh vực thép,
trong đó có Tập đoàn Baosteel, Tập đoàn sắt thép Guangxi Liuzhou, Hãng
thép Jiuquan, cũng bị điều tra vì vi phạm kỷ luật.
Hồi tháng 4, Phó tổng giám đốc của Tập đoàn sắt thép Vũ Hán, Sun
Wendong, cũng bị giới chức bắt giữ vì tình nghi liên quan tới nhận hối
lộ, công ty cho biết.
Tập đoàn sắt thép Vũ Hán là nhà sản xuất thép lớn thứ 4 của Trung
Quốc và nằm trong số các công ty đang kêu gọi sự hỗ trợ lớn hơn của
chính phủ để mở rộng hoạt động ở nước ngoài trong bối cảnh giá thép sụt
giảm và năng lực dư thừa.
Trung Quốc đã tiến hành hàng loạt các cuộc điều tra tham nhũng nhằm
vào các quan chức chính trị cấp cao, các quan chức quân đội và các nhân
vật hàng đầu tại các doanh nghiệp nhà nước trong chiến dịch chống tham
nhũng quy mô lớn do Chủ tịch Trung Quốc khởi xướng kể từ khi lên năm
quyền 3 năm trước.
Ông Tập nói rằng tham nhũng là mối đe dọa đối với sự sống còn của
đảng Cộng sản Trung Quốc và cam kết diệt tận gốc “cả hổ lẫn ruồi” .
An Bình
Theo Sina
Đàn piano huyền thoại của ABBA giá hàng chục tỷ đồng
Cây đàn piano từng xuất hiện bên ban nhạc ABBA sắp được đem ra đấu giá và được kỳ vọng sẽ đạt mức giá cao “ngất ngưởng”.
Thành
viên chuyên chơi cây đàn piano này trong nhóm ABBA - Benny Andersson -
đã từng ngồi bên cây đàn xuất hiện trong hầu hết các MV ca nhạc nổi
tiếng của nhóm hồi thập niên 1970. Cùng với tay ghita Bjorn Ulvaeus, họ
đã cùng đệm đàn cho những bản hit đình đám của ABBA. Giờ đây, cây đàn
piano huyền thoại ấy sẽ được đem rao bán đấu giá vào cuối tháng 9 này.
Cây đàn này được bảo
đảm về xuất xứ với các giấy tờ xác thực, thậm chí còn có cả chữ ký chứng
nhận của cựu thành viên ABBA - Benny Andersson - người đã rất gắn bó
với cây đàn.
Cây đàn piano của ban nhạc ABBA.
Cây piano này đã được
sử dụng để ABBA thể hiện những nhạc phẩm nổi tiếng như Dancing Queen,
Mamma Mia, Waterloo, hay Knowing Me, Knowing You.
Thành viên Benny
Andersson năm nay 68 tuổi, ông đã từng gắn bó với cây đàn piano này
trong thời kỳ hoàng kim của nhóm ABBA, đối với ông, cây đàn đã từng là
nguồn cảm hứng lớn mỗi khi biểu diễn.
Cây piano này đã trở
thành một nhạc cụ trứ danh gắn liền với hình ảnh của nhóm ABBA và gần
như xuất hiện trong tất cả các MV ca nhạc của nhóm. Đây cũng chính là
cây đàn piano được sử dụng trong quá trình ghi âm 5 album đầu tiên của
nhóm từ năm 1973-1977.
Cựu
thành viên ban nhạc ABBA - Benny Andersson (ngoài cùng bên phải) - đã
gắn bó với cây đàn piano này trong suốt quá trình biểu diễn với ban nhạc
hồi thập niên 1970.
Cây đàn được thiết kế
bởi tên tuổi nổi danh trong lĩnh vực chế tạo nhạc cụ ở Thụy Điển - Georg
Bolin. Ban đầu, cây đàn để dành cho nghệ sĩ dương cầm nhạc jazz người
Mỹ Bill Evans và từng được Evans ngợi khen là một trong những nhạc cụ
tuyệt vời nhất mà ông từng sử dụng trong sự nghiệp của mình.
Những chuyên gia sành
về đàn piano đều hiểu rằng bản thân cây đàn piano này đã rất quý giá,
với những thanh âm từng chinh phục biết bao thế hệ người yêu nhạc và
song hành cùng những nghệ sĩ, những nhạc phẩm kinh điển.
Bản thân cây đàn đã là
một nhạc cụ đặc biệt, cùng với danh tiếng của ban nhạc ABBA, nó trở
thành một nhạc cụ chứa đựng nhiều giá trị và được kỳ vọng sẽ đạt mức giá
cao.
Cây đàn piano này là một vật phẩm quan trọng đầu tiên gắn liền với tên tuổi ban nhạc ABBA từng được đem ra bán đấu giá.
Trong lịch sử đấu giá
những cây đàn piano huyền thoại, gắn liền với những ngôi sao ca nhạc,
đỉnh cao thuộc về cây đàn mà John Lennon từng sử dụng để thể hiện nhạc
phẩm “Imagine”. Cây đàn này được bán hồi năm 2000 với giá 1,67 triệu
bảng (57 tỉ đồng)./.
Они сражались за Родину - Họ đã chiến đấu vì Tổ Quốc
Nước SX: Liên Xô cũ
Năm sản xuất: 1975
Đạo diễn: Sergey Bondarchuck
Loại hình: Kịch, Chiến tranh, Lịch sử
IMDb: 7.7/10
Diễn viên: Vassily Shukshin, Vyacheslav Tikhonov, Sergey Bondarchuk, Geogry Burkov, Yuri Nikulin, Nikolai Gubenko …
Giới thiệu : Tháng Bảy năm 1942, ở một vùng ngoại ô phía xa thành
Stalingrad, một Trung đội Hồng quân thiếu thốn trang bị phải vất vả
chống chọi với một binh đoàn tăng thiết giáp hùng hậu có máy bay tiêm
kích yểm trợ của bọn phát xít Đức. Được đánh giá là một trong những tác
phẩm điện ảnh xuất sắc nhất về đề tài chiến tranh Vệ quốc, nhà Đạo diễn
tài năng Sergey Bondarchuk đã chuyển thể thành công một tác phẩm văn học
cũng thuộc loại xuất sắc nhất về đề tài chiến tranh Vệ quốc thành bộ
phim màn ảnh rộng mà vẫn giữ được hầu hết các nguyên tắc quan trọng
phong cách sử thi Sholokhov, đó là : không có ai là nhân vật anh hùng,
chỉ có những người lính bình dị, khiêm nhường, thậm chí hễ nhắc đến
"chiến tranh" là run bắn mình mẩy. Chỉ có Sergey Bondarchuk, bằng khả
năng sáng tạo và tư duy nghệ thuật nhạy bén đã dàn dựng được một không
gian chiến trường với đủ mọi gam màu chết chóc, khói lửa, thế mà giữa
những làn đạn giằng xé sự sống còn vẫn lấp lánh tinh thần lạc quan người
chiến sĩ và không thể thiếu chất trữ tình thiên nhiên trong sự hùng vĩ
của những đồng cỏ trải rộng ven sông Đông, những người nông dân Kozak
hồn hậu, cứng cỏi và cuộc sống khốn khó giữa hai chiến tuyến của họ.
Được chuyển thể từ một tiểu thuyết còn chưa kịp hoàn thành của Mikhail
Sholokhov, bộ phim tập hợp những gương mặt ưu tú nhất của màn ảnh Soviet
thập niên 60 - 70 thế kỷ XX (4 nghệ sĩ Nhân dân, và 2 công huân… ngay
tại thời điểm dựng phim), những tên tuổi lừng lẫy như Vasily Shukshin,
Vyacheslav Tikhonov, Yuri Nikulin hay Sergey Bondarchuk chắc gì đã bị
quên lãng theo thời gian ? Một sự kiện đau buồn đã xảy ra trong quá
trình làm phim, đó là sự ra đi đột ngột của nhà điện ảnh - nhà văn
Vasily Kravchukovich Shukshin giữa lúc sự nghiệp còn dang dở.
Giải thưởng: Giải thưởng LHP Quốc tế Karlovy Vary (1976) - Giải thưởng
của Liên minh chống phát xít và máy bay chiến đấu Tiệp Khắc, Giải thưởng
Đạo diễn xuất sắc nhất (Sergey Bondarchuk) và Diễn viên xuất sắc nhất -
LHP Panama (1976).
Với bộ truyện “Họ đã chiến đấu vì Tố quốc” của Sholokhov, tập 1 ông hoàn
thành ngay trong chiến tranh, tập 2 ông viết trong vòng 20 năm, thỉnh
thoảng lại đăng trên tạp chí một đoạn, nhưng rồi mãi vẫn không thể hoàn
thành. Tập thứ hai của tác phẩm gây nhiều tranh cãi. Nghe nói sau khi
Tổng bí thư Liên xô lúc bấy giờ mời Sholockhov lên nói chuyện về tập 2,
trở về ông đã đốt tập bản thảo của tập 2 bộ tiểu thuyết và bộ tiểu
thuyết không bao giờ có tập 2.
Đồi
Thịt Băm (Hamburger hill) hoặc cao điểm 937 theo cách gọi của người Mỹ
và đỉnh A Bia của người dân địa phương thu hút mọi người bởi câu chuyện
liên quan đến chiến tranh, cả trong lịch sử lẫn huyền thoại.
Từ
xã Hồng Bắc, huyện A Lưới đã đầu tư một tuyến đường khá rộng dẫn đến
chân núi. Từ đây, chinh phục 853 bậc cấp với chiều dài 1.567m sẽ lên đến
đỉnh. Tuy nhiên nhóm khảo sát đã thống nhất cách chinh phục ngọn đồi
bằng đường rừng.
Câu chuyện núi rừng
Bắt
đầu từ thôn A Hưa, xã Nhâm, chúng tôi được già làng Pa Long Ku Xe cùng
bốn chàng trai người Tà Ôi dẫn đường. Đã 76 tuổi nhưng già Pa Long Ku Xe
vẫn thoăn thoắt đôi chân, tay cầm dao phát dẫn đầu đoàn người. Ba ngọn
đồi cà phê của người dân cùng hai con dốc toàn lau lách mở đầu cuộc
chinh phục như thử sức từng người xem có thể tiếp tục quãng đường rất
gian khó trước mặt. Băng qua sáu ngọn đồi nối tiếp nữa, cảnh vật hiện ra
đẹp như tranh với hàng hàng lớp lớp rẫy lúa cạn của bà con thiểu số.
Ngày
10-5-1969, sư đoàn không vận 101 nổi tiếng của Mỹ tấn công các vị trí
của miền Bắc VN dọc đường biên giới với Lào. Đó là đồi 937. Quả đồi này
đã được ghi vào lịch sử quân đội Mỹ như một nỗi khổ nhục với biệt danh
đồi Thịt Băm. Các bác sĩ bệnh viện di động của quân đội Mỹ nói họ chưa
bao giờ thấy nhiều người bị thương đến vậy trong một thời gian
ngắn...Trong mười ngày chiến trận ở đồi Thịt Băm, nhà xác vùng 1 chiến
thuật lúc nào cũng đầy xác lính Mỹ. “Cuộc hành quân ở đồi Thịt Băm là
cuộc hành quân điên rồ và vô trách nhiệm”, thượng nghị sĩ Kennedy đã bày
tỏ sự thất vọng hoàn toàn và ông cũng không thể tìm lời nào gay gắt hơn
những lời này.
(Trích
từ phim Unknown imagine the Vietnam war (Cuộc chiến tranh VN, những
hình ảnh chưa được biết đến) của tác giả Daniel Costelle)
Theo
già Pa Long Ku Xe, những giống lúa này được truyền lại từ “mấy trăm đời
trước”, kể cả cách trỉa hạt và chăm sóc. Đó là các giống lúa radư, lúa
rẫy và các loại nếp đen, nếp than, gạo đỏ... mà nhiều nhà nông học ở
miền xuôi đang trong quá trình tiếp cận nghiên cứu nhằm bảo tồn nguồn
giống.
Hết
những rẫy lúa bạt ngàn, chúng tôi bắt đầu vào cánh rừng già theo con
đường mòn nhỏ. Dốc nối tiếp dốc, 22 thành viên lần lượt chia thành ba...
“đẳng cấp”. Tốp đầu tiên do già Pa Long Ku Xe dẫn đầu, vừa đi vừa phát
những cành cây, chùm lá bỏ lại trên mặt đường, vừa để thoáng lối vừa làm
dấu hiệu cho những nhóm sau.
“Hồi
chiến tranh ở đây bom đạn ác liệt lắm. Mình lúc đó là bộ đội Cụ Hồ,
đóng ở ngọn núi xa bên kia. Còn ngọn A Bia thì quân giặc chiếm đóng. Hắn
đổ bộ bằng máy bay mà người dày đặc. Pháo dập qua chỗ mình dữ lắm. Cả
làng cả bản phải dạt sang tận Lào sinh sống, lánh đạn, năm 1973 mới về
lại”. Những câu chuyện về núi rừng, về muông thú, về sự khốc liệt của
chiến tranh theo lời kể của già Pa Long Ku Xe cứ thế làm mọi người quên
bớt mỏi mệt...
Càng
đi sâu vào rừng già, những con dốc càng lúc càng nhiều, ngoằn ngoèo và
độ dốc càng khủng khiếp. Mọi người bắt đầu đi bằng “ba chân” với cây gậy
được vót một đầu nhọn cắm níu vào lòng đất. Khoảng thời gian nghỉ chờ
đợi tốp sau lên đến gần nửa giờ. Tiếng chim muông, ve rừng tranh đua
vang rền, mọi người cũng biết thêm rất nhiều loại lá, vỏ cây với những
công dụng rất đặc biệt qua sự hướng dẫn của già Pa Long Ku Xe...
Phút chiêm nghiệm
Chưa
đầy 6km đường rừng nhưng mất đến ba giờ đồng hồ. Mệt nhừ, mồ hôi tuôn
như tắm nhưng rồi tất cả đều rất phấn khích khi chinh phục được đỉnh đồi
huyền thoại.
Tại
khu vực đỉnh đồi, địa điểm sân bay trực thăng A Bia cũ đã được dựng một
nhà bia tưởng niệm. Còn tất cả đều là rừng già. Ở góc đông nhà bia vài
người phát hiện điểm vọng cảnh lý tưởng. Từ đây có thể phóng tầm mắt
xuống thị trấn A Lưới, nằm trên đường mòn Hồ Chí Minh, bao bọc bởi trùng
điệp núi rừng. Chợt nhận ra lý do tồn tại cái tên đồi Thịt Băm và vị
trí chiến lược của nó trong chiến tranh...
Không ai bảo ai mọi người đều dừng lại, ngả mũ nín lặng. Mấy điếu thuốc được đốt cắm lên bát nhang đặt dưới chân bia.
Chứng kiến hàng ngàn người dân, du khách đổ về trong ngày hội mới thấy hết cái không khí náo nức, cởi mở của những nụ cười.
Đang băn khoăn không biết nghỉ lễ đi chơi đâu thì PGS.TS Trần Xuân Bình –
Trưởng khoa Xã hội học, Giám đốc Trung tâm KHXH&NV, trường Đại học
Khoa học Huế gợi ý rằng; ‘Trung tâm KHXH&NV đang thực hiện Dự án
giúp đỡ người khuyết tật ở các dân tộc ít người do Cục Phát triển Quốc
tế Hoa Kỳ (USAID – US Agency for International Development) tài trợ.
Ngày mai có Ngày hội Văn hóa các Dân tộc huyện A Lưới năm 2015’…
Thật là tuyệt khi được về thăm mảnh đất nổi tiếng thời chiến tranh
với Thung lũng A Sầu, Đồi Abiah năm nào! Càng thú vị hơn nữa là được
chứng kiến một trong những nơi đã và đang hội tụ sự hòa giải về văn hóa
sau 40 năm chiến tranh của nhiều dân tộc, cộng đồng…
A Lưới cách thành phố Huế 70 km về phía Tây, có lẽ là một trong những
huyện miền núi đặc biệt nhất cả nước: Trong số 46.000 cư dân, người Pa
Cô và Tà Ôi chiếm đến 77%. Ba dân tộc “ít người” còn lại là Cơ Tu, Pa
Hy, Kinh thì người Kinh chỉ có 9,63%!
A Lưới là huyện duy nhất có địa danh cùng tên với bộ phim về chiến tranh nổi tiếng của Hollywood, Hamburger Hill – Đồi thịt băm,
tức Đồi Abiah nằm trong thung lũng A Sầu (Ashou). Trận chiến từ ngày 10
đến 20.5.1969 giữa sư đoàn Không vận 101 Mỹ và 2 tiểu đoàn quân chủ lực
của ta đã được phản ánh khá chân thực – đặc biệt là lột trần sự thất bại, vô nghĩa
của quân đội Mỹ khi tiến hành cuộc chiến tranh phi nghĩa ở Việt Nam.
Không phải ngẫu nhiên mà trong năm 2014, đã có đến 70 đoàn du lịch nước
ngoài – chủ yếu là người Mỹ, “trở lại chiến trường xưa”.
Ba anh hùng LLVT: Từ phải sang: Hồ A Nun, Hồ Vai, Kan Lịch.
Cũng cần nhấn mạnh rằng Hollywood có “truyền thống” làm những bộ phim về những trận đánh mà thường là quân đội Mỹ... thất bại, để rút ra những bài học cần thiết: Khác với nhiều nước là chỉ làm phim để ca ngợi chiến thắng! Ngày hội Văn hóa được tổ chức ngoài trời ở làng Việt Tiến,
xã Hồng Kim. Sự ra đời của làng Việt Tiến khá đặc biệt: Ông Nguyễn Xuân
Trường, nguyên Tổng Giám đốc Công ty Việt Tiến là cựu chiến binh đã từng
có mặt ở Đồi thịt băm năm nào, năm 2008 đã ủng hộ một số tiền
lớn để xây 21 ngôi nhà sàn – xi măng đầu tiên cho làng, trị giá hiện
nay, chỉ tính riêng phần gỗ tốt cho mỗi căn nhà đã có giá đến hàng trăm
triệu đồng!
Chứng kiến hàng ngàn người dân, du khách đổ về trong ngày hội mới
thấy hết cái không khí náo nức, cởi mở của những nụ cười. Khi được hỏi
chị cảm thấy gì trong ngày hôm nay, nữ Anh hùng Lực lượng vũ trang Kan
Lịch cười rất tươi và trả lời rằng “Kỷ niệm 40 năm mà ai cũng vui là vui
nhất rồi”.
Ngày hội Văn hóa và Lễ khởi công Khu Du lịch sinh thái thác Anôr được
tổ chức ngắn gọn, giản dị chứ không rườm rà như nhiều lễ hội ở miền
xuôi. Ngắn gọn, mộc mạc và thực tế là thông điệp của núi rừng.
Du khách được tham quan, chứng kiến trình diễn điêu khắc gỗ, dệt thổ cẩm
Dzèng, đan lát mây tre và được xem cuộc thi nấu ăn giữa các dân tộc với
nhiều món đặc sản như Lạp, K’leng, A ật y Boh... cũng như thưởng thức
món rượu được pha chế từ cây Đoác rừng...
Cảm động nhất là khi đến thăm gian hàng trưng bày sản phẩm thủ công của Hội người mù do USAID tài trợ.
A Lưới có lẽ là địa phương cấp huyện có nhiều người bị nạn nhân chiến
tranh nhất nước. Hơn 10% dân số bị phơi nhiễm chất độc màu da cam
(4.780 nạn nhân), trong đó có 1.494 người khuyết tật – 1/5 những người
khuyết tật là người khiếm thị (350 người).
Sự tình cờ do quả đất không hề méo đã cho tôi gặp lại Nguyễn Văn Duy,
người mà cách đây 10 năm tôi đã chấm thi và viết bài đăng ở báo Thanh
niên: Chấm thi đại học người khuyết tật. Sau khi tốt nghiệp cử nhân luật, nay Duy là Chủ tịch Hội người mù A Lưới.
PGS.TS Trần Xuân Bình cho biết Dự án của USAID có nhiều phần, nhiều
công đoạn; trong đó trước mắt là hỗ trợ việc làm, vốn để tạo ra sản
phẩm, tiến tới quảng bá và tìm đầu ra cho sản phẩm của người mù. Nếu
thực hiện tốt và được người tiêu dùng trong nước – kể cả nước ngoài quan
tâm, thì sẽ tạo nên sự đổi thay đáng kể với hàng trăm người mù nói
riêng, hàng ngàn nạn nhân chiến tranh nói chung...
Ông Lê Văn Trừ (người Pa Cô), Bí thư huyện ủy huyện A Lưới cho biết
thêm, nhiều năm nay, A Lưới nhận được sự quan tâm chu đáo của Trung
ương, tỉnh và nhiều tổ chức nước ngoài. Chẳng hạn, chính phủ Đức đã tài
trợ 71 tỷ đồng để rà phá bom mìn, Hội Cựu chiến binh TPHCM tài trợ hàng
trăm triệu đồng để trồng cây xanh dọc hai bên tuyến đường Hồ Chí Minh đi
qua huyện dài hơn 100km...
Chia tay A Lưới, cứ ngẫm mãi về những nụ cười trên mảnh đất đã từng là nơi ác liệt nhất,đẫm máu nhất trong chiến tranh: Sự kiện Đồi thịt băm khốc liệt với 73 lính Mỹ chết và hàng trăm bị thương tháng 5.1969 được các nhà sử học Mỹ coi là một trong những sự kiện tạo nên bước ngoặt chống chiến tranh của nhân dân Mỹ.
Người A Lưới đã phải chịu bao mất mát, hy sinh nhưng hôm nay, cứ rạng
rỡ và đẹp mãi những nụ cười bởi sự bao dung, thứ tha từ nhiều phía. Nụ
cười của ba anh hùng LLVT Hồ A Nun, Hồ Vai, Kan Lịch mà tôi mới gặp,
dường như là câu trả lời giản dị và rõ nhất về cái màu xanh tươi mát
chân chất của núi rừng...
Danh xưng "Nam Tư" trong tiếng Việt là giản xưng của Nam Tư Lạp Phu
(南斯拉夫, Nánsīlāfū), dịch danh Trung văn của quốc hiệu Nam Tư, trong đó
"Nam" là dịch nghĩa từ "jugo" trong tiếng Serbi/Croatia trong tên hiệu
(Jugoslavija), "Tư Lạp Phu" là phiên âm của từ Slav.
Bối cảnh
Ý tưởng về một nhà nước duy nhất cho mọi thực thể Nam Slav xuất hiện hồi cuối thế kỷ 17 và bắt đầu được quan tâm ở thế kỷ 19 trong Phong trào Illyrian nhưng chưa bao giờ thành hình.
Giai đoạn đầu Thế chiến thứ nhất, một số nhân vật chính trị có ảnh hưởng tại các vùng Nam Slavơ thuộc HabsburgĐế chế Áo-Hung đã bỏ chạy tới Luân Đôn, nơi họ bắt đầu thành lập Ủy ban Nam Tư để đại diện cho những thực thể Nam Slavơ thuộc Áo-Hung. Những thực thể "Nam Tư" này gồm người Serbia, người Croatia và người Slovenia
những người tự cho mình thuộc phong trào vì mục tiêu một nhà nước Nam
Tư duy nhất hay nhà nước Nam Slavơ và mục tiêu căn bản của ủy ban là sự
thống nhất các vùng đất Nam Slavơ với Vương quốc Serbia (đang có độc lập dù đã bị Áo-Hung xâm chiếm ở thời điểm ấy).
Với thất bại của Phe Liên minh Trung tâm
trong Thế chiến thứ nhất và sự tan rã của Đế chế Áo-Hung sau chiến
tranh, nhiều lãnh thổ Nam Slavơ nhanh chóng tập hợp với nhau để hình
thành Vương quốc của người Serbia, người Croatia và người Slovenia, được
tuyên bố ngày 1 tháng 12 năm 1918 ở Beograd.
Vương quốc mới được hình thành từ các vương quốc từng có độc lập trước kia gồm Serbia và Montenegro (đã thống nhất với nhau trong tháng trước đó), cũng như một số vùng lãnh thổ trước kia thuộc Áo-Hung, Nhà nước của người Slovenia, Croatia và Serbia. Những vùng đất trước kia thuộc Áo-Hung đã hình thành nên nhà nước mới gồm Croatia, Slavonia và Vojvodina từ Hungary một phần của Đế chế, Carniola, một phần của Styria và đa phần Dalmatia từ Áo, và tỉnh hoàng gia (crown province) Bosna và Hercegovina.
Vương quốc của người Serbia, Croatia và Slovenia
1918-1928
Bản đồ Nam Tư năm 1919 thể hiện các biên giới tạm thời thời hậu Thế chiến I trước các hiệp ước Neuilly, Trianon và Rapallo
Vua Alexander I
đã cấm các đảng chính trị quốc gia năm 1929, nắm quyền hành pháp và đổi
tên nước thành Nam Tư. Ông hy vọng kìm chế các khuynh hướng ly khai và
giảm bớt các phong trào quốc gia. Tuy nhiên, các chính sách của
Alexander nhanh chóng gặp phải sự chống đối từ các cường quốc Châu Âu nổi lên nhờ sự phát triển tại Ý và Đức, nơi những người theo chủ nghĩa Phát xít và Đảng quốc xã nổi lên nắm quyền lực, và Liên bang Xô viết, nơi Stalin
đã trở thành lãnh tụ tuyệt đối. Không một chế độ nào ở trên tán thành
chính sách của Alexander I. Trên thực tế, Ý và Đức muốn khôi phục các
hiệp ước quốc tế được ký kết sau Thế chiến thứ nhất, và người Xô viết
quyết tâm giành lại vị trí của mình ở châu Âu và theo đuổi một chính
sách quốc tế tích cực hơn.
Alexander đã tìm cách tạo lập một nhà nước Nam Tư đích thực. Ông
quyết định xóa bỏ các vùng lịch sử Nam Tư, và các biên giới mới bên
trong được vẽ lại cho các tỉnh hay các banovina. Các banovina được đặt
tên theo các con sông. Nhiều chính trị gia bị bỏ tù hay bị quản thúc
chặt chẽ. Hiệu ứng của sự cầm quyền độc tài của Alexander càng khiến
những người không phải người Serbia căm ghét ý tưởng thống nhất.
Nhà vua bị ám sát tại Marseille trong một chuyến thăm chính thức tới Pháp năm 1934 bởi một tay thiện xạ thuộc Tổ chức Cách mạng Nội địa Macedonia của Ivan Mihailov cùng sự phối hợp của Ustaše, một tổ chức ly khai Croatia. Người con trai 11 tuổi của Alexsander Peter II lên nối ngôi với một hội đồng nhiếp chính đứng đầu bởi người chú là Hoàng tử Paul.
Nam Tư những năm 1930
Bối cảnh chính trị quốc tế hồi cuối thập niên 1930 đáng chú ý bởi
tính không khoan nhượng ngày càng lớn giữa các nhân vật chính trị chủ
chốt, bởi quan điểm gây hấn của các chế độ độc tài
và bởi sự chắc chắn mà sự trật tự được thiết lập sau Thế chiến thứ nhất
đã mất đi những thành trì và những người tham gia đã mất đi sức mạnh.
Được ủng hộ và gây áp lực bởi Phát xít Ý và Phát xít Đức, nhà lãnh đạo người Croatia Vlatko Maček cùng đảng của mình đã tìm cách thành lập Banovina Croatia
(tỉnh hành chính) năm 1939. Thỏa thuận chỉ rõ rằng Croatia vẫn là một
phần của Nam Tư, nhưng thực thể này nhanh chóng xây dựng một vị thế
chính trị độc lập trong các mối quan hệ quốc tế.
Hoàng tử Paul lùi bước trước sức ép của phe Phát xít và đã ký Hiệp ước Tripartite tại Viên ngày 25 tháng 3 năm 1941,
hy vọng giữ được Nam Tư đứng bên ngoài cuộc chiến tranh. Nhưng hành
động này đã khiến sự ủng hộ của dân chúng dành cho nhiếp chính Paul mất
đi. Các quan chức quân sự cao cấp cũng phản đối hiệp ước này và tiến
hành một cuộc đảo chính khi nhà vua quay trở về ngày 27 tháng 3. Vị tướng quân đội Dušan Simović lên nắm quyền và bắt giữ đoàn đại biểu Wien, trục xuất Paul, và chấm dứt chế độ nhiếp chính, trao toàn bộ quyền lực cho Vua Peter khi ấy 17 tuổi.
Lúc 5:12 sáng ngày 6 tháng 4 năm 1941, các lực lượng Đức, Ý, Hungary và Bulgaria tấn công Nam Tư. Không quân Đức (Luftwaffe) ném bom Belgrade và các thành phố chính khác của Nam Tư. Ngày 17 tháng 4,
các đại diện từ nhiều vùng của Nam Tư đã ký một thỏa thuận đình chiến
với Đức tại Belgrade, chấm dứt 11 ngày kháng chiến chống quân xâm lược
Đức (Wehrmacht Heer). Hơn ba trăm ngàn sĩ quan và binh lính Nam Tư bị bắt.
Các nước phe Trục chiếm Nam Tư và chia nhỏ nó. Nhà nước Độc lập Croatia được thành lập như một nhà nước bù nhìn của Phát xít, do một nhóm du kích phát xít được gọi là Ustaše, bắt đầu xuất hiện từ năm 1929 nắm quyền, nhưng chỉ hoạt động hạn chế cho tới năm 1941. Quân đội Đức chiếm Bosna và Hercegovina cũng như một phần của Serbia và Slovenia,
trong khi những phần khác của nước này bị Bulgaria, Hungary và Ý chiếm.
Trong thời gian này Nhà nước Độc lập Croatia đã lập ra các trại tập
trung cho những người chống phát xít, cộng sản, người Serbia, Gypsy và người Do Thái. Một trong những trại đó là Jasenovac. Một số lớn nam giới, phụ nữ và trẻ em, chủ yếu là người Serbia, đã bị hành quyết tại các trại này.
Các phong trào kháng chiến
Những người Nam Tư phản đối Phát xít đã tổ chức một phong trào kháng chiến. Họ có khuynh hướng ủng hộ Vương quốc Nam Tư cũ gia nhập Quân đội Nam Tư tại Tổ quốc, cũng được gọi là đội quân du kích trung thành Chetniks, Serbia do Dragoljub "Draža" Mihailović lãnh đạo. Những người ủng hộ Đảng Cộng sản (Komunistička partija), và chống lại nhà Vua, gia nhập Quân đội Giải phóng Quốc gia Nam Tư (Narodno Oslobodilačka Vojska hay NOV), do Josip Broz Tito,
một người Croatia theo chủ nghĩa quốc gia lãnh đạo. Chetniks là đồng
minh của Hoa Kỳ tại Châu Âu và họ đã cứu thoát hơn 150 phi công Mỹ trong
Chiến dịch: "Vazdušni Most".
Quân đội Giải phóng Quốc gia Nam Tư đã tung ra một chiến dịch chiến tranh du kích
được phát triển thành đội quân kháng chiến lớn nhất trên lãnh thổ Đông
và Trung Âu bị chiếm đóng. Ban đầu Chetniks tung ra những cuộc tấn công
đáng chú ý và được ủng hộ bởi chính phủ hoàng gia lưu vong cũng như Đồng Minh, nhưng nhanh chóng phải giảm bớt quy mô hành động bởi những cuộc trả đũa vào dân thường Serbia của Đức.
Với mỗi lính thiệt mạng, quân Đức sẽ hành quyết 100 thường dân, và
với mỗi lính bị thương, họ giết 50 người. Vì cái giá nhân mạng quá đắt,
Chetniks đã phải chấm dứt các hoạt động chống Đức và Đồng Minh chuyển
sang ủng hộ Quân đội Giải phóng Quốc gia Nam Tư.
Tuy nhiên, Quân đội Giải phóng Quốc gia Nam Tư vẫn tiến hành cuộc chiến tranh du kích của mình. Thiệt hại nhân mạng được Vladimir Zerjavic và Bogoljub Kočović, ước tính là 1.027.000 người, con số này được Liên hiệp quốc chấp nhận, trong khi cơ quan chức năng Nam Tư cho rằng có 1.700.000 người chết. Chủ yếu là người Serbia sống tại Bosna và Croatia, cũng như người Do Thái và các cộng đồng thiểu số Roma cao hơn nhiều so với những sắc dân bất hợp tác.
Khoảng 70.000 Hồng quân Xô viết và Quân đội nhân dân Nam Tư đã được trao
huy chương này khi tham gia giải phóng Belgrade từ 19 tháng 6 năm 1945.
Trong cuộc chiến, quân du kích do những người cộng sản lãnh đạo trên thực tế cầm quyền tại các lãnh thổ giải phóng, và các hội đồng nhân dân
do Quân đội Giải phóng Quốc gia Nam Tư lập ra hoạt động như những cơ
quan quản lý dân sự. Mùa thu năm 1941, quân du kích thành lập Cộng hoà Užice tại lãnh thổ giải phóng ở phía tây Serbia. Tháng 11 năm 1941, quân đội Đức chiếm lại lãnh thổ này, trong khi đa số các lực lượng du kích phải bỏ chạy về phía Bosna.
Ngày 25 tháng 11 năm 1942, Hội đồng Chống Phát xít của Phong trào Giải phóng Quốc gia Nam Tư (Antifašističko Vijeće Narodnog Oslobođenja Jugoslavije) được nhóm họp tại Bihać, Bosna. Hội đồng tái họp ngày 29 tháng 11 năm 1943, tại Jajce,
cũng thuộc Bosna và lập ra các căn bản cho việc tổ chức đất nước thời
hậu chiến, thành lập một liên bang (ngày nay sau chiến tranh đã được gọi
là Ngày Cộng hoà).
Giải phóng Nam Tư
Quân đội Giải phóng Quốc gia Nam Tư đẩy lùi được Phe trục ra khỏi Serbia năm 1944 và phần còn lại của Nam Tư năm 1945. Hồng quân giúp giải phóng Belgrade
và một số lãnh thổ khác, nhưng đã rút lui sau khi chiến tranh chấm dứt.
Tháng 5 năm 1945, Quân đội Giải phóng Quốc gia Nam Tư gặp các lực lượng
Đồng Minh bên ngoài các biên giới cũ của Nam Tư, sau khi chiếm Trieste và nhiều vùng thuộc các tỉnh Styria và Carinthia phía nam nước Áo. Đây là vùng lãnh thổ có đa số dân là người Ý và người Slovenia. Tuy nhiên, Quân đội Giải phóng Quốc gia Nam Tư đã phải rút khỏi Trieste trong cùng năm ấy.
Những nỗ lực của phương Tây nhằm thống nhất các nhóm du kích, họ từ chối quyền lãnh đạo của chính phủ cũ của Vương quốc Nam Tư, và sự hồi hương của vị vua, dẫn tới Thỏa thuận Tito-Šubašić
vào tháng 6 năm 1944, tuy nhiên Tito được các công dân coi là một anh
hùng quốc gia, vì thế ông giành được quyền lãnh đạo ở nhà nước cộng sản độc lập thời hậu chiến, bắt đầu với chức vụ thủ tướng.
Nam Tư thứ hai
Bản đồ đánh số các nước cộng hòa và các tỉnh Nam Tư
Ngày 31 tháng 1 năm 1946, hiến pháp mới của Liên bang Cộng hòa Nhân dân Nam Tư, theo hình thức hiến pháp Liên bang Xô viết,
thành lập sáu nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa, một Tỉnh Xã hội Chủ nghĩa
Tự trị và một Quận Xã hội Chủ nghĩa Tự trị từng là một phần của Cộng
hòa Xã hội Chủ nghĩa Serbia. Thủ đô liên bang đặt tại Belgrade. Các nước
Cộng hòa và các Tỉnh gồm (theo thứ tự chữ cái):
(* hiện là Podgorica)
Năm 1974, hai tỉnh Vojvodina và Kosovo-Metohija (tỉnh sau khi ấy đã
được nâng cấp lên vị thế một tỉnh), cũng như các nước cộng hoà Bosna và
Hercegovina và Montenegro, được trao quyền tự trị lớn hơn tới mức tiếng Albania và tiếng Hungary đã được chính thức công nhận là các ngôn ngữ thiểu số và tiếng Serbo-Croat
của Bosna và Montenegro đã biến đổi thành một hình thức dựa trên kiểu
nói của người dân địa phương mà không phải là các ngôn ngữ tiêu chuẩn
của Zagreb và Belgrade. Vojvodina và Kosovo-Metohija là một phần của nước Cộng hòa Serbia. Nước này đã giữ khoảng cách với Liên bang Xô viết năm 1948 (cf. Cominform và Informbiro) và đã bắt đầu con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội của riêng mình dưới sự lãnh đạo chặt chẽ của Josip Broz Tito. Nhà nước này chỉ trích cả Khối phương Đông và các quốc gia NATO, và đã cùng các nước khác lập ra Phong trào không liên kết năm 1961, và liên tục là thành viên của tổ chức này cho tới khi bị giải tán.
Nhân khẩu
Nam Tư luôn có sự đa dạng về dân cư, không chỉ trên mặt sắc tộc, mà
còn ở khía cạnh tôn giáo. Hồi giáo, Công giáo La Mã, Do Thái giáo và Tin
Lãnh cùng nhiều đức tin Kitô giáo Đông phương hiện diện tại Nam Tư, tổn cộng có 40 tôn giáo. Nhân khẩu các tôn giáo tại Nam Tư đã thay đổi nhiều kể từ Chiến tranh thế giới thứ hai.
Các cuộc điều tra dân số được thực hiện vào năm 1921 và năm 1948 cho
thấy rằng 99% dân cư tham gia sâu vào việc hành đạo. Cùng với các chương
trình hiện đại hóa và đô thị hóa của chính phủ sau chiến tranh, tỉ lệ
tín hữu các tôn giáo đã sụt giảm đáng kể. Kết nối giữa niềm tin tôn giáo
và sắc tộc đã đặt ra một mối đe dọa nghiêm trọng cho các chính sách hậu
chiến của chính phủ cộng sản.[2]
Sau khi trở thành một quốc gia cộng sản, một cuộc khảo sát vào năm
1964 đã cho thấy rằng chỉ có hơn 70% tổng dân số Nam Tư tự xem mình là
tín đồ của một tôn giáo. Những nơi có tính tôn giáo mạnh nhất là Kosovo với 91% và Bosna và Hercegovina với 83,8%. Những nơi có tính tôn giáo thấp nhất là Slovenia 65,4%, Serbia với 63,7% và Croatia với 63,6%. Khác biệt tôn giáo giữa người Serbia theo Chính Thống giáo, người Croatia theo Công giáo, và người Bosnia theo Hồi giáo và sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc đã góp phần vào sự sụp đổ của Nam Tư năm 1991.
Chính phủ
Ngày 7 tháng 4 năm 1963 nước này đổi tên chính thức thành Cộng hoà Liên bang Xã hội chủ nghĩa Nam Tư và Tito được phong làm Tổng thống trọn đời.
Tại Cộng hoà Liên bang Xã hội chủ nghĩa Nam Tư, mỗi nước cộng hoà và
tỉnh có hiến pháp, toà án tối cao, nghị viện, tổng thống và thủ tướng
riêng. Lãnh đạo tối cao của chính phủ Nam Tư là Tổng thống (Tito), Thủ
tướng liên bang và Nghị viện liên bang (một chức vụ Tổng thống tập thể
được lập ra sau khi Tito chết năm 1980).
Các chức vụ quan trọng khác là các tổng thư ký Đảng Cộng sản tại mỗi nước cộng hoà và mỗi tỉnh, và tổng thư ký Uỷ ban Trung ương Đảng Cộng sản.
Josip Broz Tito là nhân vật quyền lực nhất đất nước, tiếp theo là các
chủ tịch và thủ tướng nước cộng hoà và tỉnh, và các chủ tịch Đảng Cộng
sản. Rất nhiều người đã phải khốn khổ khi bị ông ghét. Slobodan Penezić
Krcun, lãnh đạo cảnh sát mật của Tito tại Serbia, trở thành nạn nhân của
một vụ tai nạn giao thông đáng ngờ khi ông ta bắt đầu phàn nàn về chính
sách của Tito. Bộ trưởng nội vụ Aleksandar Ranković
bị tước toàn bộ danh hiệu và quyền lợi sau khi bất đồng với Tito về
đường lối chính trị đất nước. Thỉnh thoảng, các vị bộ trưởng trong chính
phủ, như Edvard Kardelj hay Stane Dolanc, còn quan trọng hơn thủ tướng.
Sự đàn áp bất đồng leo thang với cái gọi là Mùa xuân Croatia năm 1970-1971, khi sinh viên tại Zagreb tổ chức các cuộc tuần hành đòi quyền tự do dân sự lớn hơn và quyền tự trị cao hơn cho Croatia.
Chính quyền đàn áp cuộc phản kháng và tống giam những người lãnh đạo,
nhưng nhiều nhân vật đại diện quan trọng của Croatia trong Đảng bí mật
ủng hộ cuộc đấu tranh này, vì thế một hiến pháp mới đã được phê chuẩn năm 1974 trao thêm nhiều quyền cho các nước cộng hoà tại Nam Tư và các tỉnh tại Serbia.
Căng thẳng sắc tộc và khủng hoảng kinh tế
Nam Tư thời hậu Thế chiến thứ hai
ở nhiều mặt là một hình mẫu tìm kiếm cách xây dựng một nhà nước đa quốc
gia. Liên bang được xây dựng trên một nền tảng kép: một nhà nước Nam Tư
thời giữa hai cuộc chiến với ưu thế của tầng lớp cầm quyền người Serbia;
và một sự phân chia quốc gia thời chiến, khi Ý và Đức Phát xít phân
chia nước này và ủng hộ một phái quốc gia Croatia cực đoan được gọi là Ustashe
nắm quyền và đã thực hiện thảm sát chống lại người Serbia. Một số nhân
vật quốc gia Bosna đã gia nhập các lực lượng phe Trục và tấn công người
Serbia. Để trả đũa, những người Serbia quốc gia cực đoan tung ra những
cuộc tấn công trả thù và người Bosna và người Croatia.
Bạo lực sắc tộc chỉ chấm dứt khi đội quân Du kích Nam Tư
đa sắc tộc kiểm soát đất nước thời hậu chiến và cấm ủng hộ chủ nghĩa
quốc gia. Sự hoà bình bên ngoài được giữ trong suốt thời cầm quyền của
Tito, dù những cuộc phản kháng mang tính chất quốc gia vẫn diễn ra,
nhưng chúng nhanh chóng bị đàn áp và những người lãnh đạo bị bỏ tù hay
bị hành quyết. Tuy nhiên, một cuộc phản kháng đã xảy ra tại Croatia
trong thập niên 1970, được gọi là "Mùa xuân Croatia"
với sự ủng hộ của phần đông người Croat cho rằng nam Tư là một sự bá
quyền của người Serbia và yêu cầu giảm bớt quyền lực của Serbia. Tito,
vốn là người Croatia, lo ngại về sự ổn định của đất nước và đã hành động
theo hướng xoa dịu cả người Croatia và người Serbia, ông ra lệnh bắt
giữ những người Croatia phản kháng, trong khi chấp nhận một số yêu cầu
của họ. Năm 1974, ảnh hưởng của Serbia trong liên bang đã bị giảm bớt
khá nhiều khi các tỉnh tự trị được thành lập tại vùng Kosovo với đa số người Albania và Vojvodina
với các sắc tộc pha trộn. Các tỉnh tự trị này có quyền bỏ phiếu như các
nước cộng hoà nhưng không như những nước cộng hoà, họ không được phép
ly khai khỏi Nam Tư. Sự lùi bước này làm Croatia và Slovenia hài lòng,
nhưng tại Serbia và tại tỉnh tự trị Kosovo mới thành lập, sự phản ứng
khác biệt nhau. Người Serbia coi hiến pháp mới là sự thua cuộc trước
người Croatia và những người quốc gia Albania. Người Albania tại Kosovo
coi việc thành lập tỉnh tự trị là chưa đủ, và yêu cầu Kosovo phải trở
thành một nhà nước cộng hoà với quyền ly khai khỏi Nam Tư. Việc này
khiến căng thẳng trong giới lãnh đạo cộng sản gia tăng, đặc biệt trong
số các quan chức người Serbia vốn bực tức vì cho rằng hiến pháp năm 1974
làm suy yếu ảnh hưởng của Serbia và làm tổn hại tới sự thống nhất quốc
gia khi cho các nước cộng hoà quyền ly khai.
Một cuộc khủng hoảng kinh tế bùng phát trong thập niên 1970 là sản
phẩm của những sai lầm nghiêm trọng của các chính phủ Nam Tư, như vay
mượn các khoản tín dụng khổng lồ từ phương Tây nhằm thúc đẩy phát triển
qua xuất khẩu. Các nền kinh tế Châu Âu lúc ấy đang ở giai đoạn giảm
phát, làm xuất khẩu của Nam Tư ngưng trệ và tạo ra các khoản nợ lớn.
Chính phủ Nam Tư khi ấy phải chấp nhận các điều kiện của Quỹ Tiền tệ Quốc tế nhằm xoa dịu gánh nặng khủng hoảng với tầng lớp lao động. Đồng thời, các nhóm xã hội mạnh xuất hiện bên trong Đảng Cộng sản Nam Tư, liên minh với các nhóm lợi ích kinh doanh, ngân hàng và nhà nước phương tây và bắt đầu thúc đẩy chủ nghĩa tân tự do, với sự ủng hộ của Hoa Kỳ. Chính chính quyền Reagan, vào năm 1984, đã thông qua một đề xuất "Liệu pháp sốc" để thúc đẩy Nam Tư theo hướng phục hồi tư bản.
Năm 1989 Jeffrey Sachs tới Nam Tư để giúp chính phủ liên bang của Ante Marković chuẩn bị gói "Liệu pháp Sốc" của IMF/Ngân hàng Thế giới, sau đó được đưa ra năm 1990 ngay ở thời điểm các cuộc bầu cử nghị viện đang được tổ chức ở nhiều nước cộng hoà.
Chương trình "Liệu pháp sốc" dành Nam Tư vừa là duy nhất trong vùng
vừa có tầm ảnh hưởng chính trị quan trọng trong giai đoạn 1989-90. Luật
phá sản để thanh lý các doanh nghiệp nhà nước có hiệu lực từ Luật các
Hoạt động Tài chính năm 1989 yêu cầu rằng nếu một doanh nghiệp không trả
được nợ trong 30 ngày liên tiếp, hay trong 30 ngày của một giai đoạn 45
ngày, nó phải đàm phán với các chủ nợ hoặc phải trao quyền sở hữu cho
họ hay sẽ bị thanh lý, trong trường hợp đó các công nhân sẽ bị sa thải,
thông thường không được nhận tiền công.
Năm 1989, theo các nguồn tin chính thức, 248 công ty tuyên bố phá sản
hay bị thanh lý và 89.400 công nhân bị sa thải. Trong chín tháng đầu
năm 1990 sau khi chương trình của IMF được thông qua, 889 doanh nghiệp
khác với 525.000 công nhân phải chịu chung số phận. Nói theo cách khác,
trong vòng chưa tới hai năm "cơ cấu khởi động" (theo Đạo luật các Hoạt
động Tài chính) hơn 600.000 công nhân trong tổng số 2.7 triệu công nhân
trong lĩnh vực công nghiệp đã bị sa thải. Thêm khoảng 20% nguồn nhân
lực, hay một nửa triệu người không được trả lương trong những tháng đầu
năm 1990 khi cách doanh nghiệp phải tìm cách tránh phá sản. Nơi tập
trung đông nhất các doanh nghiệp phá sản và sa thải công nhân là Serbia, Bosna và Hercegovina, Macedonia và Kosovo.
Thu nhập thực tế rơi tự do, các chương trình xã hội đã sụp đổ tạo nên
một không khí bất mãn xã hội và vô hi vọng. Đây là một điểm chuyển đổi
quan trọng dẫn tới những sự kiện diễn ra tiếp theo.
Mùa xuân năm 1990, Marković vẫn là chính trị gia có nhiều ảnh hưởng
nhất, không chỉ với toàn bộ Nam Tư, mà cả ở mỗi nước cộng hòa tạo thành
liên bang này. Đúng ra ông đã phải tổ chức những cuộc tuần hành dân
chúng ủng hộ nhà nước Nam Tư chống lại những nhân vật quốc gia như Milošević tại Serbia hay Tuđman tại Croatia
và ông đã có thể nhờ cậy vào sự trung thành của các lực lượng vũ trang.
Ông được 83% dân số Croatia, 81% dân số Serbia và 59% dân số Slovenia
cùng 79% dân số trong toàn bộ Nam Tư ủng hộ. Mức độ ủng hộ này cho thấy
người dân Nam Tư vẫn kiên quyết duy trì quốc gia như thế nào.
Nhưng Marković đã gắn liền Chủ nghĩa Nam Tư của mình với chương trình "Liệu pháp Sốc"
có điều kiện của IMF và EU và việc này đã khiến những người theo chủ
nghĩa ly khai ở Tây Bắc và những người theo chủ nghĩa quốc gia ở Serbia
có cơ hội trỗi dậy. Những người theo chủ nghia ly khai tại Slovenia
và Croatia kêu gọi các cử tri bác bỏ chương trình kinh tế khổ hạnh của
Marković-IMF và bằng cách đó sẽ giúp những nước cộng hòa của họ chuẩn bị
rời bỏ Nam Tư và "gia nhập Châu Âu". Lời kêu gọi của Milošević tại
Serbia dựa trên ý tưởng rằng phương Tây đang hành động chống lại những
lợi ích của người Serbia. Những lời kêu gọi mang tính chủ nghĩa quốc gia
đó cuối cùng đã thành công: ở tất cả các nước cộng hoà, bắt đầu bằng
Slovenia và Croatia vào mùa xuân, các chính phủ bỏ qua các quy định giới
hạn tièn tệ của chương trình ổn định của Marković để giành lấy số phiếu
bầu.
Chính phủ cấp vùng mới được bầu ra sau đó tập trung nỗ lực vào việc
phá vỡ đất nước. Họ được chính phủ Hoa Kỳ ủng hộ bằng lập trường muốn
phá bỏ kết cấu quốc gia Nam Tư nhằm đẩy nhanh hơn nữa chương trình "Liệu
pháp Sốc". Một số ít quốc gia Châu Âu có các lợi ích chiến lược tại Nam
Tư có ý muốn thúc đẩy sự tan rã.
Cũng có một số thiếu sót, đặc biệt là trong cơ cấu của Nam Tư khiến
việc sụp đổ diễn ra nhanh chóng hơn. Ví dụ, nhiều người cho rằng[cần dẫn nguồn]
sự phi tập trung hóa Thị trường Chủ nghĩa xã hội là một thí nghiệm sai
lầm cho tình hình địa chính trị của nhà nước Nam Tư. Hiến pháp năm 1974
dù tốt hơn cho người Albani tại Kosovo, đã khiến các nước cộng hòa có
nhiều quyền lực hơn, vì thế làm ảnh hưởng tới quyền lực thể chế và hữu
hình của chính phủ liên bang. Chính quyền Tito đã thay đổi sự suy yếu
này cho tới tận khi ông qua đời năm 1980, sau đó nhà nước và Đảng Cộng sản dần tê liệt và rơi vào khủng hoảng.
Tan vỡ
Sau cái chết của Tito ngày 4 tháng 5 năm 1980, căng thẳngsắc tộc gia tăng ở Nam Tư. Di sản của Hiến pháp năm 1974
đã được dùng để đưa hệ thống ra quyết định thành một nhà nước tê liệt,
khiến toàn bộ rơi vào tình trạng vô vọng khi xung đột lợi ích đã trở nên
không thể hòa giải. Khủng hoảng hiến pháp không thể tránh khỏi diễn ra
sau đó đã dẫn tới sự trỗi dậy của chủ nghĩa quốc gia tại tất cả các nước
cộng hoà: Slovenia và Croatia đưa ra những yêu cầu nới lỏng quan hệ bên
trong liên bang, sắc tộc người Albania đa số tại Kosovo yêu cầu được
trở thành một nước cộng hoà, Serbia tìm cách có được quyền kiểm soát
tuyệt đối với Nam Tư. Thêm vào đó, hành trình tìm kiếm độc lập của người
Croatia khiến các cộng đồng người Serbia lớn bên trong Croatia nổi dậy
và tìm cách ly khai khỏi nước cộng hòa Croatia.
Năm 1986, Viện hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Serbia phác thảo một bản ghi nhớ đề cập tới một số vấn đề quan trọng liên quan tới vị thế của người Serbia
là nhóm người đông đảo nhất tại Nam Tư. Nước cộng hòa lớn nhất về lãnh
thổ và dân số trong Liên bang Nam Tư là Serbia với các ảnh hưởng trên
các vùng Kosovo và Vojvodina đã bị giảm bớt trong Hiến pháp năm 1974. Vì
hai tỉnh tự trị của họ trên thực tế có đặc quyền như những nước cộng
hòa đầy đủ, Serbia thấy rằng họ đã bị trói tay trước các chính phủ tại
các nước cộng hòa trong việc đưa ra và thực hiện các quyết định đối với
những vùng này. Bởi các tỉnh có phiếu bầu bên trong Hội đồng Tổng thống
Liên bang (một hội đồng có tám thành viên gồm các đại diện từ sáu nước
cộng hòa và hai tỉnh tự trị), họ thỉnh thoảng còn thậm chí tham gia vào
liên minh với các nước cộng hòa khác, vì vậy lấn át được Serbia. Sự bất
lực chính trị của Serbia khiến các nước cộng hòa có thể gây áp lực với 2
triệu người Serbia (20% tổng dân số Serbia) sống bên ngoài nước cộng
hòa này.
Lãnh đạo cộng sản của Serbia Slobodan Milošević
tìm cách tái lập chủ quyền Serbia như hồi trước năm 1974. Các nước cộng
hòa khác, đặc biệt là Slovenia và Croatia, bác bỏ động thái này coi đó
là sự phục hồi của chủ nghía bá chủ Serbia. Milošević đã thành công trong việc giảm bớt quyền tự trị của Vojvodina và Kosovo và Metohija,
nhưng cả hai thực thể này vẫn giữ được một phiếu bầu bên trong Hội đồng
Tổng thống Nam Tư. Công cụ đã được sử dụng để giảm bớt ảnh hưởng của
Serbia thì nay lại được dùng để tăng ảnh hưởng đó: trong hội đồng tám
thành viên, Serbia khi ấy ít nhất đã có bốn phiếu bầu - của Serbia, sau
đó của thực thể trung thành Montenegro, và Vojvodina và Kosovo.
Như một hậu quả của những sự kiện đó, người thiểu số Albania tại Kosovo
tổ chức những cuộc biểu tình, phát triển lên thành cuộc xung đột sắc
tộc giữa người Albania và những người không phải Albania ở tỉnh này. Với
tỷ lệ 87% dân số Kosovo trong thập niên 1980, sắc tộc Albania chiếm đa số dân. Số lượng người Slav
tại Kosovo (chủ yếu là người Serbia) nhanh chóng giảm sút vì nhiều lý
do, trong số đó có lý do từ những căng thẳng sắc tộc gia tăng và cuộc di
cư diễn ra sau đó khỏi vùng này. Tới năm 1999 người Slav chỉ còn chiếm
10% số dân tại Kosovo.
Trong lúc ấy Slovenia, dưới sự lãnh đạo của Milan Kučan, và Croatia ủng hộ người thiểu số Albania và cuộc đấu tranh đòi được công nhận chính thức của họ[cần dẫn nguồn].
Những cuộc đình công ban đầu đã trở thành các cuộc tuần hành rộng lớn
yêu cầu thành lập một nhà nước Kosovo. Điều này làm giới lãnh đạo Serbia
bực tức theo đuổi biện pháp vũ lực, và dẫn tới sự kiện sau đó khi Quân đội Liên bang được gửi tới tỉnh này theo lệnh của Hội đồng Tổng thống Nam Tư với đa số của người Serbia.
Tháng 1 năm 1990, Đại hội bất thường lần thứ 14 của Liên đoàn Cộng sản Nam Tư
được nhóm họp. Trong hầu hết thời gian, các đại biểu người Slovenia và
người Serbia tranh luận với nhau về tương lai Liên đoàn Cộng sản Nam Tư.
Đoàn đại biểu Serbia, dưới sự lãnh đạo của Milošević, nhấn mạnh vào một
chính sách "một người, một phiếu", sẽ làm tăng quyền lực cho sắc dân
chiếm đa số, người Serbia. Trái lại, người Slovenia, được người Croatia
hậu thuẫn, tìm cách sửa đổi Nam Tư bằng cách trao thêm quyền cho các
nước cộng hoà, nhưng đều bị bỏ phiếu bác bỏ. Vì thế, phái đoàn Slovenia,
và cuối cùng cả phái đoàn Croatia rời bỏ Đại hội, và Đảng cộng sản toàn
Nam Tư bị giải tán.
Sau sự sụp đổ của chủ nghĩa cộng sản tại những phần còn lại của Đông Âu,
mỗi nước cộng hòa đều tổ chức các cuộc tuyển cử đa đảng năm 1990.
Slovenia và Croatia tổ chức bầu cử vào tháng 4 bởi các đảng cộng sản của
họ tìm cách rút lui khỏi quyền lực một cách hòa bình. Các nước cộng hòa
khác thuộc Nam Tư - đặc biệt là Serbia - ít nhiều bất bình với quá
trình dân chủ hóa tại hai nước cộng hòa kia và đề xuất các biện pháp
trừng phạt khác nhau (ví dụ "thuế hải quan" của Serbia với các sản phẩm
của Slovenia) chống lại hai nước kia nhưng khi thời gian trôi qua các
đảng cộng sản tại các nước cộng hòa khác thấy quá trình dân chủ hóa là
không thể tránh khỏi và vào tháng 12 khi thành viên cuối cùng của liên
bang - Serbia tổ chức cuộc bầu cử nghị viện xác nhận sự cầm quyền của
những người cộng sản tại nước cộng hòa này. Tuy nhiên, các vấn đề chưa
được giải quyết vẫn tồn tại. Đặc biệt, Slovenia và Croatia bầu ra các
chính phủ với khuynh hướng các nước cộng hòa tự trị lớn hơn (dưới sự
lãnh đạo của Milan Kučan và Franjo Tuđman),
bởi mọi việc đã trở nên rõ ràng rằng các nỗ lực duy trì thống trị của
Serbia và các mức độ tiêu chuẩn dân chủ khác nhau đang ngày càng không
còn thích hợp. Serbia và Montenegro lựa chọn các ứng cử viên ủng hộ sự
thống nhất của Nam Tư. Người Seriba tại Croatia không chấp nhận một tình
trạng thiểu số trong một nhà nước Croatia có chủ quyền, bởi điều này
làm họ mất vị thế và giảm bớt quyền lực tại nhà nước Croatia.
Cuộc chiến
Chiến tranh bùng nổ khi những chính quyền mới tìm cách thay thế các
lực lượng quân sự và dân sự của Nam Tư bằng những lực lượng ủng hộ ly
khai. Vào tháng 8 năm 1990 khi Croatia tìm cách thay thế cảnh sát tại
vùng Croat Krajina có đông người Serbia sinh sống bằng vũ lực, ban đầu
dân chúng tại đó đi tới trốn tránh trong những doanh trại Quân đội Liên
bang Nam Tư, trong khi quân đội vẫn thờ ơ. Sau đó dân chúng tổ chức các
đội kháng chiến vũ trang. Những cuộc xung đột vũ trang giữa các lực
lượng Croatia ("cảnh sát") và dân thường đã đánh dấu sự khởi đầu của
chiến tranh Nam Tư làm ảnh hưởng cả vùng. Tương tự, nỗ lực thay thế cảnh
sát biên phòng của Nam Tư bằng cảnh sát Slovenia đã gây ra những cuộc
xung đột vũ trang địa phương và kết thúc với số lượng nạn nhân tối
thiểu. Một nỗ lực tương tự tại Bosna và Hercegovina đã dẫn tới một cuộc
chiến chỉ chấm dứt sau hơn 3 năm (xem bên dưới). Kết quả của những cuộc
xung đột đó là sự di cư của hầu như toàn bộ người Serbia khỏi cả ba vùng
đó, những cuộc di dân lớn tại Bosna và Hercegovina và sự thành lập ba
nước độc lập mới. Sự ly khai khỏi Cộng hòa Nam Tư của Macedonia diễn ra
trong hòa bình.
Những cuộc nổi dậy của người Serbia tại Croatia bắt đầu vào tháng8
năm 1990 bằng hành động phong tỏa đường xá từ bờ biển Dalmatian vào
trong lục địa hầu như đã diễn ra một năm trước khi giới lãnh đạo Croatia
có bất kỳ hành động hướng tới độc lập nào. Những cuộc nổi dậy ấy được
ủng hộ công khai hay bí mật của Quân đội Liên bang Nam Tư (JNA). Người
Serbia tuyên bố sự xuất hiện của các Vùng Tự trị Serbia (sau này được
gọi là Cộng hoà Serb Krajina)
tại Croatia. Quân đội Liên bang tìm cách giải giới các lực lượng phòng
vệ lãnh thổ của các nước cộng hoà Slovenia (các nước cộng hòa có các lực
lượng phòng vệ địa phương riêng tương tự như Home guard)
vào năm 1990 nhưng không hoàn toàn thành công. Slovenia bắt đầu nhập
khẩu vũ khí để tăng cường sức mạnh của mình. Croatia cũng tham gia các
hoạt động nhập lậu vũ khí, (sau khi lực lượng vũ trang các nước cộng hòa
bị Quân đội Liên bang giải giới), chủ yếu từ Hungary, và đã bị phát hiện khi Cơ quan Phản gián Nam Tư (KOS, Kontra-obavještajna Služba) trưng ra một băng video về một cuộc gặp gỡ bí mật
giữa Bộ trường Quốc phòng Croatia Martin Špegelj và hai người đàn ông.
Špegelj thông báo họ đang ở tình trạng chiến tranh với quân đội và ra
các chỉ thị về việc buôn lậu vũ khí cũng như các biện pháp đối đầu với
các quan chức quân đội Nam Tư đồn trú tại các thành phố Croatia. Serbia
và quân đội Liên bang đã sử dụng bắng chứng tái vũ trang này của Croatia
cho các mục đích tuyên truyền.
Tháng 3 năm 1990, trong những cuộc tuần hành tại Split, Croatia, một lính trẻ người Nam Tư đã bỏ chạy khỏi xe tăng sau khi lao vào một đám đông[cần dẫn nguồn]. Tương tự, súng đã nổ tại các căn cứ quân sự trên khắp Croatia. Ở những nơi khác, căng thẳng cũng leo thang.
Cùng trong tháng ấy, Quân đội Nhân dân Nam Tư (Jugoslovenska Narodna Armija, JNA) gặp gỡ ban lãnh đạo Nam Tư trong một nỗ lực nhằm buộc họ tuyên bố tình trạng khẩn cấp
cho phép quân đội nắm quyền kiểm soát đất nước. Ở thời điểm ấy quân đội
bị coi là một lực lượng của Serbia nên các nước cộng hòa khác sợ rằng
họ sẽ bị thống trị của Serbia trong liên minh. Các đại diện của Serbia, Montenegro, Kosovo và Metohija và Vojvodina bỏ phiếu ủng hộ, trong khi tất cả các nước cộng hòa khác, Croatia (Stipe Mesić), Slovenia (Janez Drnovšek), Macedonia (Vasil Tupurkovski) và Bosna và Hercegovina (Bogić Bogićević), bỏ phiếu chống. Mối quan hệ vẫn giữ cho những sự xung đột chưa leo thang, nhưng không kéo dài.
Sau những kết quả của cuộc bầu cử đa đảng đầu tiên, vào mùa thu năm
1990, các nước cộng hoà Slovenia và Croatia đề nghị chuyển đổi Nam Tư
sang hình thức một nhà nước liên bang lỏng lẻo hơn với sáu nước cộng hoà. Bằng đề nghị này các nước cộng hòa sẽ có quyền tự quyết. Tuy nhiên Milošević
phản đối mọi đề nghị như vậy, cho rằng giống như người Slovenia và
người Croatia, người Serbia (nên nhớ là có người Serbia tại Croatia)
cũng phải có quyền tự quyết.
Ngày 9 tháng 3 năm 1991, những cuộc tuần hành phản đối Slobodan Milošević được tổ chức ở Belgrade,
nhưng cảnh sát và quân đội đã được triển khai trên các đường phố để giữ
gìn trật tự, giết hại hai người. Cuối tháng 3 năm 1991, Vụ việc Plitvice Lakes là một trong những tia lửa đầu tiên nhóm lên cuộc chiến tại Croatia. Quân đội Nhân dân Nam Tư
(JNA), với các tướng lĩnh cao cấp chủ yếu là người Seriba, duy trì lập
trường trung lập, nhưng khi thời gian trôi đi, họ ngày càng can thiệp
sâu vào chính trị trong nước.
Ngày 25 tháng 6 năm 1991, Slovenia và Croatia trở thành hai nước cộng hòa đầu tiên tuyên bố độc lập
khỏi Nam Tư. Các quan chức hải quan liên bang tại Slovenia trên vùng
biên giới với Ý, Áo và Hungary chủ yếu chỉ thay đổi đồng phục bởi đa số
họ là người Slovenia địa phương. Cảnh sát biên giới cũng đã là người
Slovenia trước khi nước này tuyên bố độc lập. Ngày hôm sau (26 tháng 6),
Hội đồng Hành pháp Liên bang ra lệnh đặc biệt cho quân đội nắm quyền
kiểm soát "các đường biên giới đã được quốc tế công nhận". Xem Cuộc chiến mười ngày.
Các lực lượng Quân đội Nhân dân Nam Tư,
dựa vào các đơn vị đồn trú tại Slovenia và Croatia, muốn thực hiện
nhiệm vụ này trong vòng 48 giờ sau đó. Tuy nhiên, vì Quân đội Nam Tư
thông tin sai lệnh nên Liên bang nằm dưới sự tấn công của các lực lượng
nước ngoài, và trên thực tế đa số họ không muốn tham gia vào một cuộc
chiến trên bộ nơi họ đang làm nhiệm vụ, các lực lượng phòng vệ Slovenia
nhanh chóng giành lại hầu hết các vị trí trong vòng vài ngày với tổn
thất nhân sự nhỏ nhất cho cả hai phía. Có một vụ việc bị coi là một tội
ác chiến tranh, khi kênh ORF TV station của Áo phát sóng đoạn phim tư liệu
về ba binh lính Quân đội Nam Tư đầu hàng lực lượng phòng vệ, trước khi
có tiếng súng và những người lính ngã xuống. Tuy nhiên, không ai thiệt
mạng trong vụ việc này. Tuy vậy đã có những vụ việc phá hủy tài sản và
sinh mạng cá nhân bởi Quân đội Nhân dân Nam Tư - các ngôi nhà, một nhà
thờ, sân bay dân sự đã bị ném bom, các tài xế xe tải trên đường
Ljubljana - Zagreb và các nhà báo Áo tại Sân bay Ljubljana đã bị thiệt
mạng. Lúc ấy thỏa thuận ngừng bắn được đưa ra. Theo Thỏa thuận Brioni,
được công nhận bởi tất cả các đại diện của các nước cộng hoà, cộng đồng
quốc tế gây áp lực với Slovenia và Croatia để đặt ra một thời hạn trì hoãn
ba tháng tuyên bố độc lập của họ. Trong ba tháng này, Quân đội Nam Tư
đã hoàn thành việc rút khỏi Slovenia, nhưng tại Croatia, một cuộc chiến tranh bùng phát vào mùa thu năm 1991. Sắc tộc Serbia, đã tạo ra quốc gia Cộng hòa Serbian Krajina
của riêng họ tại các vùng có đa số người Serbia sinh sống chống lại các
lực lượng của Cộng hòa Croatia đang tìm cách đưa vùng ly khai này trở
lại dưới quyền cai quản của Croatia. Tại một số vùng chiến lược, Quân
đội Nam Tư hành động như một vùng đệm, ở hầu hết những nơi khác quân đội
bảo vệ hay giúp đỡ những người Serbia bằng các nguồn lực và cả nhân lực
trong cuộc chiến của họ với quân đội và cảnh sát Croatia.
Chiến tranh tại Nam Tư cũ
Các nước thuộc Nam Tư cũ
Tháng 9 năm 1991, Cộng hòa Macedonia
cũng tuyên bố độc lập, trở thành nước cộng hòa cũ duy nhất giành được
chủ quyền mà không gặp phải sự chống đối của chính quyền Nam Tư tại
Belgrade. Năm trăm binh sĩ Mỹ sau đó đã được triển khai dưới danh nghĩa
Liên hiệp quốc để giám sát các biên giới phía bắc của Marcedonia với
Cộng hòa Serbia, Nam Tư. Tổng thống đầu tiên của Macedonia, Kiro Gligorov,
vẫn duy trì được quan hệ tốt với Belgrade và các nước cộng hòa ly khai
khác và tới thời điểm ấy vẫn không hề có vấn đề gì giữa Macedonian và
cảnh sát biên giới Serbia thậm chí với cả các vùng nhỏ là Kosovo và Preševo
là nơi lịch sử được biết là Macedonia, điều có thể gây ra tranh cãi
biên giới khi những người Macedonia theo chủ nghĩa quốc gia có thể đặt
lại vấn đề (xem IMORO).
Vì cuộc xung đột này, Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc đã đơn phương thông au Nghị quyết số 721 của Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc ngày 27 tháng 11 năm 1991, tạo đường cho sự thành lập các chiến dịch gìn giữ hòa bình tại Nam Tư[3].
Tại Bosna và Hercegovina
tháng 11 năm 1991, người Serbia tại Bosna đã tổ chức một cuộc trưng cầu
dân ý với đại đa số ủng hộ thành lập cộng hòa Serbia trong các biên
giới của Bosna và Hercegovina và ở trong một nhà nước chung với Serbia và Montenegro. Ngày 9 tháng 1 năm 1992,
quốc hội của nước Serbia Bosna tự phong tuyên bố một nước "Cộng hòa của
người Serbia tại Bosna và Hercegovina" riêng biệt. Cuộc trưng cầu dân ý
và việc thành lập SARs được tuyên bố một cách bất hợp hiến
bởi chính phủ Bosna và Hercegovina, và không hợp pháp cũng như không có
giá trị. Tuy nhiên, vào tháng 2 và tháng 3 năm 1992 chính phủ đã tổ
chức một cuộc trưng cầu dân ý quốc gia về nền độc lập của Bosna khỏi Nam
Tư. Cuộc trưng cầu dân ý này cũng được tuyên bố trái ngược với BiH và
hiến pháp Liên bang của Tòa án hiến pháp liên bang tại Belgrade và chính
phủ mới được thành lập của Serbia Bosna. Cuộc trưng cầu này bị tẩy chay
mạnh mẽ bởi người Serbia tại Bosna. Đáng chú ý là Tòa án Liên bang tại
Belgrade không quyết định về vấn đề trưng cầu dân ý của người Serbia tại
Bosna. Kết quả là khoảng 64-67% trong 98% người tham gia ủng hộ độc
lập. Không rõ rằng hai phần ba số phiếu cần thiết trên thực tế có ý
nghĩa không và kết quả có đạt yêu cầu này không[cần dẫn nguồn]. Chính phủ nước cộng hòa tuyên bố nền độc lập của mình ngày 5 tháng 4, và người Serbia ngay lập tức tuyên bố nền độc lập của Cộng hoà Srpska. Cuộc chiến tại Bosna bùng nổ ngay sau đó.
Sự chấm dứt của Nam Tư thứ hai
Nhiều ngày được coi là ngày chấm dứt của Liên bang Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Nam Tư:
8 tháng 10 năm 1991, khi lệnh đình hoãn sự ly khai của Slovenia và Croatia ngày 9 tháng 7
chấm dứt và Croatia tái khởi động quá trình giành độc lập tại Nghị viện
Croatia (ngày này được kỳ niệm là Ngày Độc lập tại Croatia)
15 tháng 1 năm 1992, khi Slovenia và Croatia được hầu hết các quốc gia Châu Âu công nhận.
Cộng hòa Liên bang Nam Tư gồm Serbia và Montenegro
Cộng hòa Liên bang Nam Tư (FRY) được thành lập ngày 28 tháng 4 năm 1992,
gồm nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Serbia và Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa
Montenegro cũ. Hiến pháp mới của Nam Tư được các đại biểu quốc hội, được
bầu trong cuộc tuyển cử một đảng năm 1986 bỏ phiếu thông qua.
Cuộc chiến ở những vùng phía tây Nam Tư cũ chấm dứt năm 1995 với những cuộc đàm phán hòa bình được Hoa Kỳ bảo trợ tại Dayton, Ohio, dẫn tới cái gọi là Thỏa thuận Dayton.
Tại Kosovo,
trong suốt thập niên 1990, giới lãnh đạo sắc tộc Albania đã theo đuổi
các chiến thuật phản kháng phi bạo lực nhằm giành độc lập cho tỉnh này.
Năm 1996, người Albania thành lập Quân đội Giải phóng Kosovo.
Phản ứng của Nam Tư là sự sử dụng vũ lực bừa bãi chống lại dân thường,
và buộc nhiều sắc tộc Albania phải bỏ chạy khỏi nhà cửa. Sau vụ Racak và sự bất thành của Thỏa thuận Rambouillet
trong những tháng đầu năm 1999, NATO ném bom Serbia và Montenegro trong
thời gian hơn hai tháng, cho tới khi một thỏa thuận đạt được giữa NATO
và chính phủ Milošević, với sự trung gian của Nga. Nam Tư rút các lực
lượng của mình khỏi Kosovo, đổi lại NATO rút lại yêu cầu ở trước cuộc
chiến đòi các lực lượng NATO vào Serbia, khiến 250.000 người Serbia và
các sắc tộc không Albania khác rơi vào cảnh tị nạn. Xem Chiến tranh Kosovo để biết thêm thông tin. Từ tháng 6 năm 1999, tỉnh này thuộc quyền quản lý của các lực lượng gìn giữ hòa bình NATO và Nga, dù tất cả các bên tiếp tục công nhận nó là một phần của Serbia.
Việc Milošević từ chối các tuyên bố thắng cử trong vòng đầu tiên của
phe đối lập trong cuộc bầu cử tổng thống liên bang vào tháng 9 năm 2000
đã dẫn tới những cuộc tuần thành lớn ở Belgrade ngày 5 tháng 10 và sự
sụp đổ của chính quyền. Ứng cử viên đối lập, Vojislav Koštunica lên nắm quyền tổng thống Nam Tư ngày 6 tháng 10 năm 2000.
Thứ bảy ngày 31 tháng 3 năm 2001,
Milošević đầu hàng các lực lượng an ninh của chính quyền tại nhà ở
Belgrade, với một lệnh bắt mới được ban hành về các trách nhiệm lạm dụng
quyền lực và tham nhũng. Ngày 28 tháng 6 ông bị đưa tới biên giới Nam Tư-Bosna và ngay lập tức sau đó bị đặt dưới sự giám sát của các quan chức SFOR, và tiếp tục bị gửi ra trước Tòa án Tội phạm Quốc tế về Nam Tư cũ của Liên hiệp quốc. Phiên tòa xử ông về các trách nhiệm trong cuộc thảm sát tại Bosna và những tội ác chiến tranh tại Croatia và tại Kosovo cùng Metohija bắt đầu tại The Hague ngày 12 tháng 2 năm 2002, ông qua đời tại đó ngày 11 tháng 3 năm 2006, khi phiên tòa vẫn đang diễn ra. Ngày 11 tháng 4 năm 2002,
nghị viện Nam Tư thông qua một điều luật cho phép trục xuất tất cả
những người bị Tòa án Tội phạm Quốc tế buộc các tội ác chiến tranh.
Tháng 3 năm 2002, chính phủ Serbia và Montenegro đồng ý cải cách Cộng
hòa Liên bang Nam Tư thành một hình thức liên minh mới, lỏng lẻo hơn,
được gọi là Serbia và Montenegro. Theo nghị quyết của Nghị viện Liên bang Nam Tư ngày 4 tháng 2 năm 2003,
Nam Tư, ít nhất trên hình thức, đã ngừng tồn tại. Một chính phủ Liên
bang vẫn tồn tại ở Belgrade nhưng chủ yếu chỉ có quyền lực nghi thức.
Các chính phủ riêng của Serbia và của Montenegro tiến hành các công việc
riêng của mình như thể đó là hai nước cộng hòa độc lập. Hơn nữa, các
hình thức hải quan đã được thiết lập dọc theo biên giới cũ giữa hai nước
cộng hoà.
Ngày 21 tháng 5 năm 2006,
86% người dân Montenegro đã tham gia một cuộc trưng cầu dân ý đặc biệt
về nền độc lập của Montenegro ra khỏi liên minh với Serbia. 55.5% đã bỏ
phiếu giành độc lập, được công nhận là trên 55% ngưỡng giới hạn do Liên minh Châu Âu đặt ra để chính thức công nhận nền độc lập của Montenegro. Ngày 3 tháng 6 năm 2006,
Montenegro chính thức tuyên bố độc lập, Serbia cũng tuyên bố hai ngày
sau đó, chính thức giải tán di sản cuối cùng của Nam Tư cũ.
Kosovo tuyên bố độc lập vào tháng 2 năm 2008, nhưng nó vẫn chưa phải
là một thành viên của Liên hiệp Quốc và chỉ được 41 chính phủ công nhận.
Di sản
Các quốc gia mới
Các quốc gia ngày nay được thành lập từ những phần cũ của Nam Tư gồm:
cũng như nhà nước Kosovo được công nhận một phần.
Nước cộng hòa đầu tiên thuộc Nam Tư cũ gia nhập Liên minh Châu Âu
là Slovenia, nộp đơn năm 1996 và trở thành một thành viên năm 2004.
Croatia đã nộp đơn xin gia nhập năm 2003, và trở thành thành viên tháng 7
năm 2013. Cộng hòa Macedonia nộp đơn năm 2004, và có thể gia nhập trong
giai đoạn 2010–2015. Bốn nước cộng hòa còn lại còn chưa nộp đơn gia
nhập nên nói chung họ khó có thể trở thành thành viên trước năm 2015.
Các quốc gia này tham gia nhiều thỏa thuận đối tác với Liên minh Châu
Âu. Từ ngày 1 tháng 1 năm 2007, các nước này cùng Albania đã bị bao quanh bởi các quốc gia thành viên EU. Xem thêm: Mở rộng Liên minh Châu Âu.
Cờ của Liên bang Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Nam Tư và các nước mới được công nhận
Liên bang Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Nam Tư
Bosna và Hercegovina
Croatia
Cộng hòa Macedonia
Montenegro
Serbia
Slovenia
Kosovo
Các mối liên hệ văn hóa và sắc tộc còn lại
Sự tương đồng của các ngôn ngữ và lịch sử liên kết dài lâu đã để lại
nhiều mối quan hệ trong các dân tộc của các quốc gia mới, thậm chí khi
các chính sách riêng của các quốc gia mới thành lập muốn tạo lập sự khác
biệt, đặc biệt trong ngôn ngữ. Tiếng Serbo-Croatian
về mặt ngôn ngữ học là một ngôn ngữ duy nhất, với nhiều biến thể nói và
viết và cũng từng là phương tiện giao tiếp tại những nơi khi các ngôn
ngữ khác chiếm ưu thế (Slovenia, Macedonia). Hiện tại các tiêu chuẩn ngôn ngữ khác nhau đang tồn tại cho tiếng Bosna, tiếng Croatia và tiếng Serbia.
Về mặt kỹ thuật Liên bang Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Nam Tư có ba ngôn
ngữ chính thức, cùng với các ngôn ngữ nhỏ được sử dụng chính thức tại
các cộng đồng đó, nhưng tại các cơ quan liên bang chỉ tiếng
Serbo-Croatian được sử dụng.
Ký ức về thời cùng sống chung và những khía cạnh tốt đẹp của thời gian ấy được gọi là Yugonostalgy
(Jugonostalgija). Rất nhiều khía cạnh của Yugonostalgia liên quan tới
hệ thống xã hội chủ nghĩa và cảm giác an toàn an sinh xã hội được cung
cấp và những sự trì trệ của nó.