THỰC TẠI VÀ HOANG ĐƯỜNG 11*/B(chương thêm) (Hoàn chỉnh)

PHẦN I:     CÓ MỘT CÁI GÌ ĐÓ

“Tại sao có một cái gì đó chứ không phải là không có gì?”

CHƯƠNG XI: GIẤC MỘNG NGÀN ĐỜI

                
                  "Linh hồn của con người vẫn cần lý tưởng hơn thực tế
                   Chúng ta tồn tại nhờ thực tế; nhưng chúng ta sống vì lý tưởng."
                   Victor Hugo

                   "Tôi đã thấy đủ những người chết vì một lý tưởng.
                   Tôi không tin vào chủ nghĩa anh hùng; tôi biết nó 
                  dễ dàng và tôi đã học được rằng nó có thể đẫm máu.                          
                   Điều tôi mong muốn là sống và chết cho điều tôi yêu"    
                   Albert Camus

"Cái quí nhất của con người ta là đời sống. Đời người chỉ sống có một lần, phải sống sao cho khỏi xót xa ân hận vì những năm tháng đã sống hoài sống phí, cho khỏi hổ thẹn vì dĩ vãng ti tiện và hèn đớn của mình, để đến khi nhắm mắt xuôi tay, ta có thể nói rằng: tất cả đời ta, tất cả sức ta, ta đã hiến dâng cho sự nghiệp cao đẹp nhất trên đời-sự nghiệp đấu tranh giải phóng loài người"                                                                                                                                               N. A. Ôxtơrốpxki

"Lý tưởng là ngọn đèn sáng chỉ đường. Không có lý tưởng thì không có phương hướng xác định; không có phương hướng thì không có cuộc sống".
Lev Tolstoy (Nga)
"Con người có vật chất mới có thể sinh tồn, có lý tưởng mới nói đến cuộc sống. Bạn muốn hiểu sự khác nhau giữa sinh tồn và sống? Động vật thì sinh tồn, con người thì sống".
Hugo (Pháp)
"Tuổi trẻ không có lý tưởng giống như buổi sáng không có mặt trời".
Belinsky (Nga)
"Mỗi người phải kiên trì đường đi mình đã mở ra, không bị quyền uy dọa ngã, không bị quan điểm đương thời khống chế, cũng không bị thời thượng cám dỗ".
Goethe (Đức)

 

 

Cuộc Cách mạng vô sản Nga được cho là cuộc cách mạng đầu tiên của giai cấp vô sản chống giai cấp tư sản đòi xóa bỏ bóc lột và dành được thắng lợi. 
Nhưng giai cấp là gì? Theo wikipedia thì giai cấp xã hội là đề cập đến các thứ bậc khác nhau phân biệt giữa các cá nhân hoặc các nhóm người trong các xã hội hoặc các nền văn hóa. Các sử gia và các nhà xã hội học coi giai cấp là phổ quát (là sự phổ biến), mặc dù những điều xác định giai cấp là rất khác nhau từ xã hội này đến xã hội khác. Thậm chí ngay cả trong một xã hội, các cá nhân khác nhau hoặc những nhóm người khác nhau cũng có rất nhiều ý tưởng khác nhau về những điều gì làm nên thứ bậc cao hay thấp trong trật tự xã hội.Trong tác phẩm "Sáng kiến vĩ đại", Lênin định nghĩa : “Người ta gọi giai cấp, những tập đoàn to lớn gồm những người khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với những tư liệu sản xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội, và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải xã hội ít hoặc nhiều mà họ được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người mà tập đoàn này có thể chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác do chỗ các tập đoàn đó có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định”. 
 Theo chúng ta, nên thay thuật ngữ "giai cấp" bằng thuật ngữ "tầng lớp" nghe hợp lý hơn. Theo đó, tầng lớp có tính thời đại, là gồm những tập đoàn người mà con người trong đó có phương thức làm ăn, cách thức lao động tương đối giống nhau, gần gũi nhau (như tầng lớp công nhân, tầng lớp nông dân, tầng lớp trí thức, tầng lớp buôn bán,...). Khi nói "Sĩ, nông, công, thương" thì có nghĩa đang nói về các tầng lớp lao động. Nếu gắn thêm về quyền lợi được hưởng trong xã hội (tức sự khác biệt về địa vị hay quyền lực xã hội), thì lúc đó mới có thể gọi là giai cấp. Như vậy, trong lịch sử loài người, chỉ tồn tại hai giai cấp - hai tập đoàn lớn, thống trị và bị trị. Hai tập đoàn lớn này xuất hiện cùng với quá trình hình thành nhà nước trong một xã hội đã triển khai nền sản xuất hàng hóa và chế độ cha truyền con nối (chế độ phong kiến). Tồn tại sự bóc lột ngày một nặng nề trong xã hội đó cũng là lẽ đương nhiên. Chính vì vậy, cuộc đấu tranh đầu tiên trong nội bộ loài người có lẽ là cuộc đấu tranh chống bóc lột. Hay có thể nói: đấu tranh trong nội bộ loài người là cuộc đấu tranh vĩ đại và dài lâu đến tận ngày nay, thế hệ nối tiếp thế hệ giữa tầng lớp thống trị và tầng lớp bị trị mà mục đích chủ yếu là chống áp bức, bất công và bóc lột.
Rõ ràng, chưa bao giờ có giai cấp tư sản và giai cấp vô sản mà chỉ có tầng lớp tư sản và tầng lớp vô sản. Cách mạng vô sản Nga thực chất là cách mạng của tầng lớp bị trị Nga (trong đó có cả tầng lớp tư sản Nga) chống chế độ Sa Hoàng. Nói chung, chủ trương triệt tiêu giai cấp tư sản, đập tan chế độ áp bức, cường quyền, xóa bỏ bóc lột của cách mạng vô sản là sai. Thực tế cho thấy không thể xóa được bóc lột và tầng lớp tư sản! Cách mạng Việt Nam chỉ ra, khi giành được chính quyền thì tầng lớp thống trị cũng đương nhiên đồng thời bị thủ tiêu. Chỉ có điều trong quá trình xây dựng nhà nước mới và xã hội mới, suốt một thời gian dài đã chủ quan vô tình làm manh nha hình thành một tầng lớp thao túng thống trị mới (gọi là tầng lớp tư sản đỏ). Cũng may, tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nổi lò!
N. A. Ôxtơrốpxki là người toàn tâm toàn ý, hiến dâng trọn đời mình cho Cách mạng vô sản Nga và cũng là một nhà văn nổi tiếng thời Liên bang xô-viết. Ô. sinh ngày 29-9-1904 tại làng Vilia thuộc Ucraina. cách mạng Tháng 10 Nga bùng nổ vào năm 1917. Năm đó, Ô. mới 13 tuổi nhưng đã tham gia phục vụ Cách mạng rồi tiếp theo là gia nhập Hồng Quân...Năm 1925, do trước đó từng bị thương và mắc bệnh nặng trong điều kiện sinh hoạt kham khổ nên sức khỏe của Ô. suy giảm mạnh, buộc phải đi điều trị ở Khácốp rồi sau đó, vào tháng 5-1926 thì chuyển sang một khu an dưỡng ở Crimê. Đến tháng 12-1926, bệnh tình của Ô. trở nên trầm trọng đến nỗi hầu như không còn đi lại được nữa. Tuy thế, Ô. vẫn nỗ lực học tập và hoàn thành chương trình bậc đại học vào tháng 6-1929. Bất hạnh thay, đến tháng 8-1929, không những bại liệt, Ô. còn bị mù hoàn toàn nữa. Ấy vậy mà ngay năm sau, tức năm 1930, Ô. đã bắt đầu được việc chấp bút viết tác phẩm để đời của mình-cuốn tiểu thuyết mang tựa đề: "Thép đã tôi thế đấy". Bên cạnh đó, Ô. còn thường xuyên viết bài cho các tờ báo, tạp chí cộng sản cũng như thường xuyên nói chuyện trên đài phát thanh...Tháng 10-1935 Ô. được trao Huân Chương Lênin (là huân chương tôn vinh công trạng cao quí nhất của nhà nước Liên-Xô)...Ô. qua đời trong bệnh tật ngày 2-12-1936.
     Cuộc đời Ô. tuy ngắn ngủi nhưng đã từng là một tấm gương sáng ngời về tình yêu mãnh liệt cuộc sống và nghị lực sống phi thường đối với nhiều thế hệ thanh niên trên thế giới. Cuốn "Thép đã tôi thế đấy" đã từng có tác dụng to lớn trong việc động viên tinh thần "phục vụ quên mình" đối với tuổi trẻ theo lý tưởng cộng sản, trong đó có thanh niên Việt Nam ở các thập kỷ 60, 70, 80 của thế kỷ XX...
    Tại sao trên thế giới có một thời kỳ mà Chủ nghĩa xã hội được đông đảo quần chúng cần lao rất mực ngưỡng mộ, cũng như Lý tưởng cộng sản có được sức lôi cuốn mãnh liệt con người, nhất là tầng lớp thanh thiếu niên, còn bây giờ, hầu như mọi người đều thờ ơ với chúng, thâm chí là căm ghét chúng? Phải chăng vì quần chúng và cả tầng lớp trí thức hồi đó nhận thức kém, mê muội trước một sự tuyên truyền mị dân? Có lẽ không phải! Tại sao hệ thống các nước Xã Hội Chủ Nghĩa (có nhà nước theo thiết chế "tập trung dân chủ", theo đuổi một chế độ mà trên lý thuyết, nếu xét riêng về mặt bác ái, nhân đạo, thì ai cũng phải thừa nhận là ưu việt, đáp ứng được nguyện vọng của đại bộ phận dân chúng trong xã hội, và hơn nữa, trong thực tế, số đông những người cộng sản đóng vai trò lãnh đạo ở những mức độ khác nhau trong bộ máy nhà nước vô sản vẫn là những con người có tài năng, liêm khiết, vẫn một lòng một dạ với mục đích xây dựng chế độ xã hội Xã Hội Chủ Nghĩa, vẫn tận tụy vì dân vì nước), lại chỉ tồn tại không quá nửa thế kỷ không lấy gì làm "huy hoàng" cho lắm rồi đổ sụp nhanh chóng (nói đúng hơn là tan rã và biến thái)? Phải chăng là do cái thiết chế độc đảng độc quyền lãnh đạo gây ra? Cũng không phải nốt! Cần phải tìm nguyên nhân của hiện tượng ở nơi thâm thúy hơn nhiều!
     Hiện nay trên chính trường Việt Nam đã xuất hiện cuộc đấu tranh tư tưởng xoay quanh vấn đề mà  chung qui lại là xét sự đúng-sai của chủ nghĩa Mác- Lênin, và cuộc đấu tranh này đang trở nên ngày một gay gắt. Đúng là khó lòng phủ nhận được, đời sống kinh tế-xã hội Việt Nam hiện nay đang bộc lộ ra nhiều vấn nạn trong khâu quản lý và điều hành đất nước, trong việc ngăn chặn, trừng trị tệ cường quyền, tệ tham quan lại nhũng cũng như những tệ nạn gây ảnh hưởng xấu đến khối đoàn kết dân tộc và làm suy đồi nền tảng đạo đức khác. Tất nhiên, tệ tham quan lại nhũng ở nước nào cũng có, thời nào cũng có. Song tại sao, ở Việt Nam (và nhất là ở Trung Quốc, thành trì phong kiến châu Á xưa kia, cũng là "thành trì" của chủ nghĩa cộng sản ngày nay), lại trở nên nổi trội, hoàn hành dữ dội đến như vừa qua? 

Phải chăng là do có những mặt hoạt động còn yếu kém mà chính phủ và cả Đảng cộng sản Việt Nam phải chịu trách nhiệm phần lớn khi để xảy ra những tiêu cực có thể đã không xảy ra hoặc xảy ra không đến mức trầm trọng như đã thấy? Có thể nguyên nhân sâu xa là do thể chế? Có thể, nhưng nếu từ đó đi đến qui kết cho rằng chính cái thiết chế nhà nước mang ý thức hệ cộng sản đã đóng vai trò nguyên nhân sâu xa làm xuất hiện các vấn nạn chính trị- kinh tế-xã hội hiện nay, để rồi dựa trên những chiêu bài nhân quyền, tự do, dân chủ, bình đẳng...(những khái niệm tưởng đơn giản nhưng lạ lùng là từ trước đến nay, kể cả ta lẫn tây, kể cả những triết gia được cho là "to đầu" nhất vẫn chưa thực sự tường tận, vẫn mỗi ông một phách, do đó... vẫn đang "cãi nhau chí chóe") mà đòi nằng nặc phải đa nguyên đa đảng, nghĩa là đòi gì thì gì cũng phải lập tức "cách cái mạng" thể chế "này", còn hậu họa ra sao mặc kệ, thì thật là không những nông nổi, thiển cận, bất cẩn mà còn cực đoan, duy ý chí, mang tính ngông cuồng, hận thù đầy ác ý (dù có thể chỉ vô tình!), từ cái sai này hướng đến cái sai khác, tưởng là phụng sự nhân dân nhưng lại hóa ra vô trách nhiệm trước vận  mệnh dân tộc. 
Đành rằng, về mặt cấu trúc, không phải cái thiết chế nhà nước đang hiện hành không hàm chứa những bất ổn, khuất tất trong nội tại nó, không phải cái triết thuyết xã hội làm tiền đề tồn tại cho nó đã hoàn hảo (thậm chí là đã bộc lộ ra những nghịch lý và chưa khắc phục được!). Tuy nhiên, nguyên nhân chính yếu, mang tính cốt lõi gây ra tình trạng suy thoái xã hội về cả vật chất lẫn tinh thần hiện nay, xét ở bình diện sâu xa nhất, thực chất nhất, lại không phải là tại điều đó, nghĩa là tại cái thiết chế nhà nước mang ý thức hệ cộng sản. Dù có phản bác đến mấy đi chăng nữa thì cũng phải thừa nhận rằng, qui mô nền kinh tế và kéo theo là mức sống người dân nói chung trong xã hội hiện nay, nếu đem so với thời điểm "đêm trước" đổi mới, đã ở mức phát triển vượt bậc. Không thể phủ nhận được thành tích đó, hơn nữa là thành tích to lớn, của Đảng cộng sản và Nhà nước Việt Nam khi đã tự thân phá bỏ được cái quan niệm xây dựng kinh tế theo hình mẫu Liên Xô cũ, tưởng như duy nhất đúng, tưởng như phải thế chứ không thể khác mới phù hợp với tiến bộ và văn minh nhân loại nhưng thật ra là duy ý chí, khiên cưỡng, siêu hình, chưa phù hợp với thời đại và do đó mà cũng phi lý, để đưa đất nước đang trong tình trạng lạc hậu đói nghèo, xơ xác sau chiến tranh chống Mỹ xâm lược, rồi chịu thêm tổn thất lớn về người và của bởi hai cuộc chiến tranh cục bộ do các thế lực thù địch gây ra, chịu thêm cú "tự phá phách" của thời đoạn "Đêm trước đổi mới". Bên cạnh đó còn bị siết chặt bởi nạn bao vây kinh tế của đế quốc siêu cường kinh tế Mỹ và của cả "ông anh Tàu láng giềng (chỉ chính phủ và giới lãnh đạo Đảng cộng sản Trung Quốc) tham, thâm, bẩn tính", đến được vị thế ngày hôm nay...
    Vậy, nếu thiết chế nhà nước cộng sản không phải là nguyên nhân chính yếu và cốt lõi dẫn đến tình trạng suy thoái vật chất-tinh thần xã hội thì do đâu, tại vì cái gì? Khỏi phải mất công suy luận, giải thích dài dòng chi cho mệt xác mà chỉ cần "lướt qua" lịch sử thế giới cũng phần nào suy ra được câu trả lời! Trong suốt hàng ngàn năm tồn tại thể chế quân chủ (đúng nghĩa là thể chế độc tài, toàn trị nhé!), thực trạng của một nước thịnh hay suy hoàn toàn tùy thuộc vào trí tuệ và tâm hồn của ông vua chứ chẳng cần nhờ đến bất kỳ "thứ" đảng phái hay đa nguyên, đa đảng nào. Vào thời đó, khi trong một nước bùng lên cái đòi hỏi mang bản chất đa nguyên-đa đảng thì đó là biểu hiện của tình trạng xã hội lâm vào hỗn loạn và tất yếu dẫn đến nạn cát cứ, chia năm xẻ bảy đất nước, để rồi sau một cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn, đất nước lại thống nhất dưới sự điều hành của một nhà nước theo thiết chế quân chủ y như cũ và (thường là) bước vào một quá trình đi đến thịnh vượng mới...
    Ngày nay, nếu không tất cả thì cũng hầu hết các học giả vẫn quan niệm rằng chế độ phong kiến nói chung là bất công, thống trị xã hội một cách độc đoán, hà khắc, hoàn toàn mất tự do dân chủ. Đó là một ngộ nhận! Đúng là có những giai đoạn như vậy và trở nên nổi bật vào giai đoạn tồn tại cuối cùng của thể chế quân chủ thế giới. Song, xen kẽ những giai đoạn ấy (thường gắn liền với trạng thái xã hội suy đồi) lại là những giai đoạn cởi mở, người dân thật sự được sống trong cảnh ấm no sung túc, an bình và tự do. Có rất nhiều ông vua, bà chúa được nhân dân đương thời tôn vinh, nhiều người trong số họ còn được sùng tín ngang với thần thánh. Vì sao???...Và thêm câu hỏi này nữa: nếu sự độc tài-toàn trị là phi lý, xấu xa, phản dân hại nước thì sao hình thức nhà nước với thiết chế quân chủ lại có thể tồn tại trường kỳ suốt hàng ngàn năm một cách phổ biến khắp thế giới như vậy?
    Hãy tạm "rời mắt" khỏi xã hội loài người mà nhìn vào thế giới động vật-cái nôi tự nhiên sản sinh ra giống loài người! Lối sống bầy đàn (nguồn cội của lối sống xã hội) không phải là kết quả ngẫu nhiên của thiên tạo mà là kết quả tất yếu của quá trình tiến hóa thích nghi sinh vật. Đã bầy đàn thì phải có thủ lĩnh, thường là một cá thể độc quyền. "Đoàn quân" đông hàng triệu con dê rừng thiên cư theo mùa ở châu Phi là có tính bầy đàn, chứ chưa phải là bầy đàn thực thụ theo nghĩa có liên kết nội tại tương đối ổn định, bền vững. "Đoàn quân" ấy có thủ lĩnh chỉ huy không mà răm rắp trường chinh theo "tuyến đường" duy nhất (dù rất "gian nan vất vả và đầy hy sinh", có đến một phần tư số lượng con chết dọc đường) hướng đến nơi phải đến? Có, dù là thủ lĩnh...ẩn, tưởng "vô vi " mà chỉ huy tất cả, đó chính là Thiên Nhiên vĩ đại, độc quyền và toàn trị! Thêm câu hỏi nữa bật ra: các cá thể trong "đoàn quân" thiên di ấy có tự do không? Khó mà trả lời khẳng định hay phủ định một cách dứt khoát được, vì nó thuộc khái niệm mang tính "nước đôi". Nhưng có một gợi ý thú vị: chúng không hề bị ...bóc lột - cái vấn nạn phổ biến, có tính mặc định và là "nơi" phô bày ra mọi bất công, bất hạnh, bất bình trong xã hội loài người!...
    Nhìn ở góc độ khác, đấu tranh sinh tồn là qui luật cơ bản của thế giới sinh vật. Nhờ có qui luật đóng vai trò quyết định này mà trong thế giới sinh vật mới có quá trình tiến hóa-thích nghi làm xuất hiện đa dạng giống loài sinh vật. Nói chung, tùy thuộc vào thể tạng, lối sống đã định hình trước đó và xu thế biến chuyển có tính trường kỳ của môi trường sinh thái mà hướng ưu tiên tiến hóa-thích nghi ở những giống loài khác nhau là khác nhau. (Hiển nhiên, trong các hướng ấy có hướng làm xuất hiện loài người biết tư duy trừu tượng. Đây là một ngẫu nhiên mang tính tất yếu "may mắn" hay là một tình cờ có tính định mệnh "xui xẻo" của Trái Đất!!!???). Với sự xuất hiện và tồn tại đa dạng giống loài trong thế giới sinh vật, có vẻ như quá trình tiến hóa-thích nghi không hề bị khống chế về kiểu cách biến cải cơ thể sinh vật, miễn không vi phạm các quy luật vật lý (nghĩa là trái với tự nhiên). 

Không hẳn thế! Ngoài điều kiện tiên quyết là không được vi phạm các quy luật vật lý, quá trình đó còn bị khống chế, giới hạn phạm vi hoạt động bởi ngay chính tính mục đích của nó. Mục đích tối hậu của quá trình tiến hóa-thích nghi ở mọi giống loài sinh vật là để đảm bảo và duy trì sự sống còn của chúng. Theo đó, cơ thể của chúng sẽ dần biến cải trên nguyên tắc kế thừa thực tạng cũng như lối sống sinh học đặc thù đang có nhằm đáp ứng một cách phù hợp với điều kiện sống mới do môi trường sinh thái (không phải chỉ gồm thời tiết, khí hậu, đất, nước, ..., mà bao gồm cả sự hiện diện của các giống loài sinh vật khác) đã biến đổi, thêm nữa, nhằm tăng cường cạnh tranh sinh tồn theo hướng tối ưu hóa trong khả năng có thể. Một trong những đặc trưng cơ bản của tự nhiên nói chung là sự thể hiện đa dạng trong thống nhất của nó. Thiên nhiên của Trái Đất, vì là bộ phận tương đối độc lập của tự nhiên nói chung nên phải bộc lộ đặc tính này. Lệ thuộc vào thiên nhiên đồng thời là bộ phận hợp thành của thiên nhiên, đến lượt thế giới sinh vật cũng vậy nốt...
Có thể nêu ra ngay lập tức hàng loạt dẫn chứng về sự bị khống chế trong giới hạn của quá trình tiến hóa-thích nghi bởi tính mục đích của chính nó. Chẳng hạn, tất cả động vật bậc cao trên nấc thang tiến hóa đều có bốn "chi" (hai chi trước có thể là "tay" để cầm nắm hay "cánh" để bay), trong đó, hầu hết động vật chuyên ăn rau, cỏ là có sừng, hình như chỉ loài ngựa (nhờ chạy nhanh), thỏ (nhờ thân hình nhỏ, linh động) và tương tự như thỏ là không có, còn ở động vật chuyên ăn thịt thì hoàn toàn không có sừng mà thay vào đó là có móng vuốt sắc và răng nanh. Hiện tượng phổ biến hơn nữa mà cũng gây ấn tượng rất mạnh là tuyệt đại đa số giống loài động vật kể cả trên cạn và dưới nước đều có hai mắt, không nhiều hơn mà cũng không ít hơn. Xét riêng toàn bộ lớp thú trên cạn thì đầu con vật nào cũng phải có và chỉ có hai tai, hai mắt, một mũi và một mồm, được sắp đặt tại những vị trí tương tự nhau để có những bộ mặt "na ná" nhau...
Cuối cùng, hiện tượng có lẽ chung nhất mà cũng điển hình nhất, thể hiện rõ ràng nhất về sự tiến hóa có tính đa phương trong nhất quán tuân thủ ở thế giới sinh vật, đồng thời có mối liên quan "sát sườn" đến bài viết này, đó là ngay từ buổi đầu xuất hiện sự sống, hoạt động sống của một cá thể sống (đơn bào) đã phải tuân theo nguyên tắc (dù thể hiện còn mờ nhạt) thống nhất phối hợp điều hành bởi một trung tâm chỉ huy duy nhất, và trong suốt quá trình tiến hóa sinh vật, dù theo hướng nào, cũng không  vi phạm nguyên tắc đó. Hơn nữa, qui luật đấu tranh sinh tồn đã tạo ra một xu thế tiến hóa củng cố ngày càng hoàn thiện phương thức hoạt động sống tuân theo sự thống nhất phối hợp điều hành bởi một cơ quan duy nhất đóng vai trò chỉ đạo. 
Cơ quan đó, nói nôm na, đối với thực vật gọi là "cái gốc", đối với động vật gọi là "cái đầu" (mà đối với động vật bậc cao, "chính danh" là bộ não!). Tại sao ở tất cả các giống loài động vật, mỗi cá thể đều chỉ có duy nhất nhưng phải có cái bộ phận (tạm) gọi là "cơ quan đầu não" ấy? Dù có vẻ như không tham gia trực tiếp vào bất cứ "công việc" cụ thể nào để nuôi sống cơ thể nhưng lại là cơ quan tối quan trọng của cơ thể. Mọi hoạt động duy trì cuộc sống ở mọi cá thể động vật đều nhằm ưu tiên trước hết và trên hết cho sự sống còn của cơ quan đầu não bởi không còn nó, con vật cũng không còn "hồn vía", nghĩa là không thể sống được nữa. "Nguy hiểm" cỡ đó nhưng quá trình tiến hóa vẫn tuyệt nhiên không được phép tạo ra giống loài động vật có từ hai cơ quan đầu não trở lên (với mục đích "dự phòng" chẳng hạn!) để tăng khả năng sống còn cho chúng. Tại sao vậy?
    Ở loài người biết tư duy trừu tượng cũng không khác, mỗi con người cũng chỉ có một cái đầu (gồm một bộ não với những cơ quan chức năng "dưới quyền") đảm nhận một cách (rõ ràng là) "độc tài và toàn trị" vai trò đề ra "đường lối, chính sách" cũng như trực tiếp "lãnh đạo, chỉ huy" đối với mọi hoạt động sống của cơ thể người đó? Sao tạo hóa không cho con người sở hữu chẳng hạn là ba bộ não để cơ thể được "bảo hộ" trong chế độ "đa nguyên đa đảng" hoặc chí ít cũng có được một "bộ máy lãnh đạo" theo chế độ "tam quyền phân lập", nếu đó là những cách thức làm cho hoạt động sống của cơ thể người dễ dàng hơn, lành mạnh hơn, ít phạm sai lầm hơn và do đó cũng hiệu quả hơn, so với cách thức "lãnh đạo, điều hành" kiểu "độc tài toàn trị" (đương nhiên rồi!) của một bộ não duy nhất? Rất có thể câu trả lời chỉ đơn giản thế này: tạo hóa "rất sợ" phải thấy cảnh một cuộc vận động được điều hành bởi một đầu não "trống đánh xuôi, kèn thổi ngược", hoặc cảnh một máy bay đang bay được lái đồng thời bởi hai phi công (có cách xử lý tình huống khác nhau) với hai hệ thống lái độc lập nhau!
     Dù còn phải bàn lại nhiều điều để đi đến đồng thuận về mặt triết học trong nhận thức tự nhiên-xã hội, song, về đại thể, có thể nhất trí được rằng: trước một chủ thể quan sát và tư duy (cụ thể ở đây là con người), thực tại khách quan thể hiện ra như một tổng thể "xã hội" thống nhất, được hợp thành một cách hòa quyện bởi hai "lực lượng" không thể tách rời nhau, là lý do tồn tại của nhau, nhưng đồng thời cũng tương đối độc lập nhau, đó là vật chất và tinh thần (trong đó vật chất đóng vai trò tiền đề, "vật mang"). Cũng có thể mường tượng theo một góc độ khác: thực tại khách quan chính là vũ trụ vạn vật-hiện tượng. Trong vũ trụ, vạn vật (chất) tồn tại và vận động một cách phụ thuộc lẫn nhau, có tính phối hợp nhịp nhàng (nếu không thì không thể có Vũ Trụ!), tuân thủ nghiêm ngặt theo những nguyên lý, qui luật tự nhiên, hợp thành một quần thể thống nhất (rõ ràng là) mang tính tương tự như quần thể xã hội. Thế thì những nguyên lý tự nhiên đó từ đâu mà có? Đây là câu hỏi cực khó đối với những ai không tin vào sự tồn tại của Thượng Đế (nhưng không phải là không trả lời được!). Hêghen (G. F. Hegel, 1770-1831), nhà triết học kiệt xuất thế giới, người đại diện cuối cùng của Triết học cổ điển Đức, chắc rằng trong khi phát triển tư tưởng triết học của mình đã "đụng độ" với câu hỏi sinh-tử này. Có lẽ vì chưa thấy được nguồn gốc sâu xa của sự vốn dĩ cũng như sự khác nhau giữa vốn dĩ "trần trụi" khách quan và nguyên lý "đẫm màu" chủ quan, hơn nữa là để tiếp tục tiến lên, Hêghen đã không còn cách nào khác, buộc phải thừa nhận, đồng thời cũng thực lòng tin vào sự tồn tại của cái gọi là "ý niệm tuyệt đối" hay "tinh thần tuyệt đối". Điều này đã lý giải vì sao tinh thần triết học Hêghen từ duy vật-vô thần thời kỳ đầu chuyển dần sang duy tâm khách quan. 

Dù sao, cái quan niệm về sự tồn tại "tinh thần tuyệt đối" không phải là không có lý, và nếu "gột rửa" cái sắc màu huyễn hoặc, kỳ bí của nó đi thì đã rất gần với sự thực khách quan. Có thể thay "tinh thần tuyệt đối" bằng thuật ngữ "Tạo Hóa", và dù vẫn chưa biết đích xác Tạo Hóa là gì thì vẫn hoàn toàn xác đáng nếu cho rằng nó chính là nguồn gốc xuất phát của mọi nguyên lý tự nhiên. Nhưng có mấy Tạo Hóa, một, hai hay nhiều? Con người, dù giàu trí tưởng tượng đến mấy, dù hoang tưởng phiêu lưu đến mấy thì từ xưa đến nay, chưa thấy ai đề xướng ra thế giới tự nhiên có hai (chứ chưa cần nói đến nhiều) Thượng Đế, hai Đấng Tối Cao hay hai Tạo Hóa cả. Đơn giản vì "vẽ ra" như thế không thể không phát sinh mâu thuẫn nội tại. Hơn nữa, nếu Tạo Hóa toàn năng thì chỉ cần một Đấng là quá đủ! Còn nếu Tạo Hóa không toàn năng thì dù có bao nhiêu Đấng đi nữa, Vũ Trụ này cũng không thể tồn tại. Vậy, Tạo Hóa phải là toàn năng và duy nhất! Dông dài đến đây thì có được hình dung: nếu coi Vũ Trụ như một quần thể xã hội loài người, những nguyên lý tự nhiên cơ bản là hiến pháp, và tất cả qui luật triển khai ra từ những nguyên lý ấy là luật pháp thì Tạo Hóa chính là một nhà nước độc quyền toàn trị. Hình dung đó cũng đúng ở phạm vi hẹp hơn: trong cơ thể một con người, chỉ có một "cái tôi" chỉ huy theo lối độc tài và toàn trị, không bao giờ có thể tồn tại đồng thời hai "cái tôi" (con người có thể có đa nhân cách nhưng trong một thời gian chỉ có thể hiện diện một nhân cách!). Phải chăng độc quyền toàn trị là một nguyên tắc có nguồn gốc sâu xa từ tự nhiên?

     ***

  Trái với tự nhiên là không thể tồn tại. Đây là một chân lý tuyệt đối (hiểu theo nghĩa rộng)! Như vậy, sự tồn tại trường kỳ của hình thức nhà nước theo thiết chế quân chủ (triều đình) trong lịch sử rõ ràng không phải là một cái gì đó khiên cưỡng, được tạo ra bởi ý thích chủ quan và tùy tiện của con người, mà chính là do đòi hỏi bởi thực tại khách quan, dù cũng có sự lũng đoạn của chủ quan con người, và vì thế nên cũng đáp ứng phù hợp đối với thực trạng xã hội (với trình độ cuộc sống,sinh hoạt, lao động và sản xuất) ở những thời đoạn ấy. Có lẽ chính điều đó đã lý giải vì sao trong gần suốt thời gian tồn tại xã hội phong kiến, vấn đề tìm cách thay thế nhà nước quân chủ bằng một nhà nước có thể chế khác nào đó (chẳng hạn như thể chế nhà nước kiểu dân chủ hay cộng hòa đã từng xuất hiện ở Hi Lạp hay La Mã cổ đại) đã hầu như không được đặt ra. Lúc đó, sự quan tâm của các nhà tư tưởng chỉ trong phạm vi tìm kiếm biện pháp, cách thức cai trị cụ thể đối với một chính thể quân chủ, sao cho yên quốc an dân...Nói tóm lại, nhà nước là yêu cầu tất yếu của tồn tại xã hội. Vì mục đích tối thượng là điều hành, duy trì sự vững mạnh xã hội nên nhà nước, dù theo bất cứ hình thức thể chế nào, dù có "nhân quyền, dân chủ" đến cỡ nào, nếu còn muốn tồn tại, đều phải mang bản chất độc tài, toàn trị. 
Thể hiện rõ ràng nhất cho nhà nước mang bản chất ấy là nhà nước quân chủ. Tiến trình phát triển của xã hội loài người cũng là quá trình đấu tranh của tầng lớp nghèo khổ chống bóc lột bất công, chống độc tài, áp bức, bạo quyền, là quá trình đi tìm một hình thức nhà nước lý tưởng, hoạt động vì công bằng an sinh xã hội, vì hạnh phúc mọi người. Những người cộng sản, khi mơ ước xây dựng một xã hội tươi đẹp, mọi người đều sung sướng, hạnh phúc, gọi là xã hội XHCN, cũng đã hình dung ra một nhà nước kiểu mới, đó là nhà nước "của dân, do dân và vì dân", hoạt động theo nguyên tắc "tập trung dân chủ". Chúng ta cho rằng, nếu nhận thức lại  đúng đắn và tìm ra cách thức thực hiện hợp lý , thì nhà nước cộng sản (vô sản) chính là nhà nước lý tưởng của xã hội loài người! Về khái niệm "tập trung dân chủ", thì theo Wikipedia, Hồ Chí Minh có viết: "Nhân dân là ông chủ nắm chính quyền. Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thi hành chính quyền ấy. Thế là dân chủ. Các cơ quan chính quyền là thống nhất, tập trung. Từ Hội đồng nhân dân và Ủy ban kháng chiến hành chính xã đến Quốc hội và Chính phủ Trung ương, số ít phải phục tùng số nhiều, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng trung ương, thế là vừa dân chủ, vừa tập trung." (Dân chủ tập trung, Báo Cứu quốc số 2329, 4/5/1953). Còn về nguồn gốc của khái niệm này thì Wikipedia viết: "Nguyên tắc tập trung dân chủ được Lenin phát triển trong tác phẩm "Làm gì?" (1901/1902), mà dựa vào đảng SPD ở Đế chế Đức. Lenin đòi hỏi trong cuốn sách này:
  1. Một mặt tập trung hóa bộ máy đảng, có nghĩa là, cấp dưới phải tuân theo cấp trên (cấp trên có quyền ra lệnh cho cấp dưới),
  2. Mặt khác những người lãnh đạo phải chịu trách nhiệm trước cử tri, và cử tri phải có quyền hạ bệ giới lãnh đạo.
  3. Một kỷ luật đảng nghiêm túc, tại mọi cấp theo đó thiểu số phải tuân theo đa số.
Cấu trúc của đảng theo Lenin được viết chính xác hơn trong tác phẩm "Ein Schritt vorwärts, zwei Schritte zurück" (Một bước tiến, hai bước lùi) (1904). Trong đó Lenin viết, cấu trúc đảng thì có một phần nào quan liêu, bởi vì nó được tổ chức từ trên xuống dưới.
Đường lối chính trị tập trung này được gọi là dân chủ, vì các cấp cao hơn được bầu từ các cấp dưới, và phải chịu trách nhiệm trước cấp dưới và như vậy đại diện cho quyết định của đa số đảng viên, trong khi cấp dưới chỉ đại diện cho một số đảng viên mà thôi. Do sự bầu cử và hạ bệ do bầu cử mà có thể xảy ra vào bất cứ lúc nào, nó tránh được tình trạng lợi dụng quyền lực.
Việc kiểm soát này tuy nhiên bị các nguyên tắc khác cản trở: mặc dù Lenin cho mỗi người có quyền chỉ trích, nhưng lại cấm hình thành các nhóm. Điều này gây lợi thế cho người đang có quyền lãnh đạo đối với người đối lập và cuối cùng đưa tới việc lựa chọn những người ứng cử theo ý người lãnh đạo đảng.
Ý tưởng của đường lối tập trung dân chủ, mà được bàn thảo tại đại hội thứ 2 đảng Công nhân Dân chủ Xã hội Nga vào 30 tháng 7 năm 1903 tại London, có lẽ đã góp phần đưa tới việc phân chia ra thành nhóm Bolshevik (Đa số), mà ủng hộ, và Menshevik (thiểu số), chống lại học thuyết Lenin. Theo thời gian học thuyết không thỏa hiệp và quá khích này đã lôi cuốn rất nhiều người theo nhóm Bolshevik. Đặc biệt Rosa Luxemburg 1918 (và sau này cả Lev Davidovich Trotsky) đã chỉ trích việc lợi dụng từ tập trung dân chủ. Theo bà Lenin và Trotsky đã loại trừ dân chủ, làm cho chế độ trở thành chế độ độc tài của một vài chính trị gia.
Tại Cộng hòa Weimar 1919 những cuộc thảo luận về tập trung dân chủ cũng góp phần đưa tới việc tách rời khỏi Đảng Cộng sản Đức và thành lập Đảng Công nhân Cộng sản Đức, phát triển thành chủ nghĩa Cộng sản Hội đồng Công nhân.
Dưới sự tham dự của Lenin tại hội nghị thứ hai của Đệ tam Quốc tế 1920, đường lối tập trung dân chủ được chấp thuận là nguyên tắc tổ chức đảng và có hiệu lực cho tất cả các đảng cộng sản."

   Do có sự tác động liên tục của tổng hợp nhiều yếu tố khách quan lẫn chủ quan (nếu xét cho đến cùng thì đều là tự nhiên), mà xã hội loài người không ngừng biến đổi theo xu thế (qui ước gọi, quen gọi là) phát triển về trình độ sống, chất lượng sinh hoạt cũng như trình độ sản xuất. Châu Âu, với những đặc thù tự nhiên-xã hội của nó, đã có bước phát triển đột khởi về khoa học-kỹ thuật, kéo theo sự phát triển đột khởi về trình độ sản xuất, làm xuất hiện hình thức sản xuất công nghiệp tập trung có qui mô ngày một lớn, mở đường cho nền kinh tế lấy cạnh tranh tự do làm lẽ sống còn ra đời mà về sau được gọi là nền kinh tế Tư bản chủ nghĩa. Quá trình đó làm nảy sinh trong xã hội những đòi hỏi ngày càng gay gắt và quyết liệt về những vấn đề liên quan đến những khái niệm (mà ngày nay đã đóng vai trò là những yếu tố hợp thành xuất phát điểm của mọi luận thuyết chính trị, của mọi hiến pháp): tự do, dân chủ, nhân quyền, công bằng, bình đẳng...,tạo tiền đề "truất phế" thiết chế nhà nước quân chủ (đã trở nên lạc hậu, không còn phù hợp với đời sống kinh tế xã hội), dựng nên một nhà nước mang hình thức mới, có thiết chế tương phản với thiết chế quân chủ, gọi là nhà nước  (cộng hòa) tư sản.
       Sự xuất hiện nền kinh tế Tư bản chủ nghĩa trong xã hội của giống loài sống theo lý trí trên nền tảng bản năng, là một tất yếu, mà nếu xét về phương diện đạo đức (được xây dựng nên từ cốt lõi là tình yêu thương đồng loại) thì cũng chẳng ưu việt gì hơn nền kinh tế nông nghiệp, sản xuất phân tán trong xã hội phong kiến, nghĩa là danh lợi vẫn là tiêu chuẩn chủ yếu trong việc xác định phẩm giá con người. Hơn nữa, trong xã hội tư bản thời kỳ đầu, dưới sự bảo hộ của nhà nước tư sản- một nhà nước thực chất là đại diện cho quyền lợi của tầng lớp tư sản giàu có mà phần đông trong số họ thoát thai ra từ giới quí tộc, tăng lữ phong kiến thời mạt vận, suy đồi, với bản chất sống khoa trương, đạo đức giả nhưng đầy vị kỷ và tàn nhẫn-, cuộc cạnh tranh tự do mang tính chất cá nhân, tư hữu được đẩy lên cao trào, tỏa rộng cũng như len lỏi đến mọi ngóc ngách của nền kinh tế, để rồi làm cho cái tinh thần vị kỷ đến mức nhẫn tâm vốn có nổi bật lên, bao trùm đời sống xã hội và ngày càng "dữ tợn", lấy "mạnh vì gạo bạo vì tiền", "sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi" làm phương châm sống. Chính cái tinh thần ấy đã thúc đẩy các nhà nước tư sản châu Âu ở thời kỳ đầu tồn tại xã hội tư bản đua nhau xua quân ồ ạt đi xâm lược mọi miền đất trên thế giới để chiếm làm thuộc địa, chà đạp lên mọi ý niệm về quyền sống cơ bản của con người do chính xã hội tư bản nêu ra và cũng là những yếu tố tạo thành lý do tồn tại của bản thân thể chế nhà nước tư sản.
Nhà nước pháp quyền tư sản ra đời nhằm đảm bảo cho nền kinh tế tư bản chủ nghĩa tồn tại và phát triển. Thuở ban đầu, cạnh tranh tự do là động lực hoạt động cơ bản của nền kinh tế ấy, cho nên đảm bảo quyền cạnh tranh tự do đối với mọi cá thể trong xã hội cũng là mục đích đầu tiên của nhà nước tư sản. Như vậy, nhà nước tư sản, chí ít là vào thời kỳ đầu xuất hiện, không hề "đả động" gì tới đời sống của quần chúng cần lao, tới "những người khốn khổ", nghĩa là không có một biểu hiện có ý chí tự giác và trực tiếp nào thực sự hướng tới "vì dân". Theo chúng ta, có hai câu nổi tiếng trong lịch sử đóng vai trò hợp thành luận điểm khởi xuất ra hiến pháp của một nước có thể chế nhà nước tư sản. Câu thứ nhất trong Tuyên ngôn Độc Lập của nước Mỹ năm 1776: "Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc", và câu thứ hai trong Bản tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Cách mạng tư sản Pháp năm 1791: "Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi". Từ trước đến nay, ai cũng thừa nhận hai câu nổi tiếng đó là vô cùng chí lý. Thật ra, nếu bình tâm  suy xét kỹ thì chúng là những câu không những tối nghĩa, chứa đựng mâu thuẫn nội tại về mặt nhận thức triết học, mà hơn nữa còn hàm chứa tiềm tàng sự vô cảm, vị kỷ, nhẫn tâm (tức là sự vô đạo đức, xét ở góc độ tình yêu thương đồng loại). Có như thế là vì những khái niệm cơ bản được nêu ra từ hai câu đó, đến tận ngày nay, vẫn chưa được hiểu rõ ràng và đồng thuận, quan trọng hơn, vẫn chưa được định nghĩa trên cơ sở tình yêu thương đồng loại. Chẳng hạn, như thế nào gọi là "quyền được sống", một người có đủ "quyền được sống" chưa khi do hoàn cảnh khách quan gây ra phải sống đói khổ và không được đoái hoài tới, trong lúc người xung quanh sống sung túc, dư dả?...Vì những lẽ đó mà hai câu nêu trên trong thực tế hóa ra lại chỉ là một thứ vũ khí bảo vệ hữu hiệu cho sự cạnh tranh có tính tự phát, mù quáng, vô tổ chức trong hoạt động kinh tế, cho quyền tự do tư hữu (đến vô hạn độ) những gì thu được từ cuộc cạnh tranh đó, và qua đó đồng thời cũng (vô tình) dung túng cho lối sống (biểu hiện nổi trội ở động vật hoang dã) "mạnh được yếu thua", "cá lớn nuốt cá bé", "được làm vua thua làm giặc", mà thực chất là bảo vệ đắc lực cho quyền lợi của tầng lớp giàu có, tạo lối sống tôn vinh đồng tiền trong xã hội: "Đồng tiền đi trước/ làng nước theo sau", "Tay ôm bị bạc kè kè/ Nói bậy nói bạ người ta nghe rần rần", cái gì không mua được bằng tiền thì sẽ mua được bằng nhiều tiền!... Tinh thần sống thực dụng đầy vị kỷ và tham lam đến nhẫn tâm kiểu "đồng bạc đâm toạc tờ giấy", trở thành như một đặc tính của tầng lớp tư sản giàu có thời kỳ đầu, cũng từ đó mà ra.
     Ở đâu có sản xuất hàng hóa thì ở đó có lao động thặng dư. Nhưng bóc lột giá trị lao động thặng dư đặc biệt nổi trội trong thời kỳ đầu tư bản chủ nghĩa. Lịch sử đã ghi nhận sự quá ư tàn nhẫn của chủ nghĩa tư bản (của các nhà nước tư sản) trong thời kỳ đầu tồn tại của nó. Việc áp bức, bóc lột sức lao động của quần chúng cần lao chính quốc bởi các chủ tư bản và nhất là việc xâm chiếm, giết chóc, cướp phá trắng trợn, tàn bạo các lãnh thổ để làm thuộc địa bởi các nhà nước tư sản thời đó là những sự thực không thể chối cãi được. Theo C. Mác, cha đẻ của học thuyết triết học duy vật biện chứng thì: "Việc tìm thấy những vùng có mỏ vàng và mỏ bạc ở châu Mỹ, việc tuyệt diệt người bản xứ, bắt họ làm nô lệ và chôn vùi họ trong các hầm mỏ, việc bắt đầu đi chinh phục và cướp bóc miền Đông Ấn, Việc biến châu Phi thành khu cấm để săn bắt, buôn bán người da đen-đó là buổi bình minh của thời đại sản xuất tư bản chủ nghĩa", "Những kho tàng trực tiếp chiếm đoạt được ở ngoài châu Âu bằng cướp bóc nô dịch người địa phương, bằng giết người cướp của, được dồn về chính quốc và trở thành tư bản ở đó", và như vậy, quá trình tích lũy ban đầu, dù dưới hình thức nào cũng "được thực hiện với một sự phá phách tàn nhẫn nhất và dưới sự thúc đẩy của những dục vọng thấp hèn nhất, bẩn thỉu nhất và đáng ghét nhất", do đó "nếu tiền, theo lời của Ôgiê: "ra đời với một vết máu ở bên má" thì tư bản mới ra đời lại có máu và bùn nhơ rỉ ra ở tất cả các lỗ chân lông, từ đầu đến chân".

                                              ***

       Như đã nói, triết học duy tâm khách quan của Hêghen đã là một bước dài đưa loài người đến gần hơn trong việc nhận chân thực tại khách quan. Trên cơ sở kế thừa có phê phán và sáng tạo triết học cổ điển Đức mà nòng cốt là triết học Hêghen, Mác đã xây dựng nên triết học duy vật biện chứng và qua đó lại giúp loài người nhận thức xác đáng hơn nữa về tự nhiên (tuy vậy, theo tôi, tương tự như cơ học Niutơn trong vật lý học, triết học Mác phải cần đến một bước tiến có tính đột phá, cải cách triệt để mới đến được với chân dung đích thực của thực tại khách quan!). Trên cơ sở triết thuyết về tự nhiên của mình cũng như kế thừa được tinh hoa của các học thuyết xã hội trước đó và đương thời, cùng với khả năng quan sát, phân tích xuất sắc, Mác đã chỉ ra tương đối chính xác bản chất của hiện thực thời đại mình và trong bối cảnh đó, đề xướng ra học thuyết xã hội mang tên "chủ nghĩa cộng sản". Dù ngày nay thời thế đã đổi thay, có thể phải xem xét và nhận thức lại không ít luận điểm của chủ nghĩa cộng sản, thì cũng không thể nói khác được rằng, học thuyết này đã hoàn toàn phù hợp với hoàn cảnh ra đời của nó, không những đã phản ánh đúng cái hiện thực bi thương của "những người khốn khổ" có nguyên nhân từ sự thống trị vô lương tâm của nhà nước tư sản đã bị thao túng bởi thế lực đồng tiền, mà còn chỉ ra con đường duy nhất đúng cho quần chúng cần lao đi đòi lại quyền sống cơ bản và thích đáng cho mình. Hơn nữa, học thuyết ấy, về mặt lý thuyết, đã phác thảo ra một cách có lý luận hình mẫu một xã hội (gọi là xã hội "Xã Hội Chủ Nghĩa") tương phản với xã hội tư bản đầy rẫy bất công thời bấy giờ. Trong xã hội ấy, nhà nước tư sản được thay thế bằng nhà nước chuyên chính vô sản (đảng cộng sản độc quyền lãnh đạo), một nhà nước (được coi là) đại diện cho quyền lợi của dân chúng trong xã hội, đứng về phía nhân dân lao động nghèo khổ, chống áp bức, bóc lột, bạo quyền.
     Hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa tan rã là do, không thể nói khác được, đại chúng ở những nước đó đã không còn thiết tha với nhà nước theo thể chế cộng sản nữa. Điều đó có nghĩa nền kinh tế tập trung, bao cấp, thực hiện kế hoạch theo mệnh lệnh (bất chấp qui luật cung-cầu, qui luật cơ bản của nền kinh tế hàng hóa (tạm gọi là) phi kế hoạch) cùng với chế độ công hữu về tư liệu sản xuất của các nhà lý luận mác-xít, đã không phù hợp với đời sống thực tế xã hội đương đại. Như thế, tất nhiên phải dẫn đến nghi vấn rằng nhiều khả năng học thuyết Mác-Lê (gồm triết học Mác và những phát triển làm sâu rộng thêm của Lê-nin) có ẩn chứa "vướng mắc" trong hệ thống lý luận của nó. Có lẽ vì thế mà ngày nay học thuyết Mác-Lê đã và đang phải chịu nhiều phản biện triết học dù chưa hẳn xác đáng về mặt nhận thức nhưng cũng không hẳn là vô lý, thậm chí rất cần phải có những nghiên cứu nghiêm túc, chuyên sâu. Nhưng nếu phản biện học thuyết đó một cách khích bác, phủ nhận sạch trơn tính chân lý của nó, thậm chí còn buộc tội nó chống nhân loại thì thật là đáng lên án, bởi vì như thế không những sai hoàn toàn mà còn rất bạc bẽo nữa. Không thể phủ nhận được công lao của Mác (và Ănghen) đối với nhân loại! Nhờ sự xuất hiện của triết học Mác mà phong trào đấu tranh đòi quyền sống cơ bản và thích đáng của quần chúng cần lao trở nên sâu rộng hơn, tập trung hơn, mạnh mẽ hơn trong lòng xã hội tư bản. Qua đó, làm cho xã hội tư bản phải tích cực chuyển biến nhanh hơn từ nhẫn tâm hơn, bạo ngược hơn sang "biết điều" hơn, ôn hòa hơn. Nếu không có Liên bang Xô-viết đóng vai trò tiên phong và quyết định đánh tan bè lũ phát-xít cường bạo thì không biết thế giới  có thoát khỏi vòng nô dịch của "phe Trục" không, có được chất lượng cuộc sống như ngày nay không? Nếu không có hệ thống xã hội chủ nghĩa tồn tại ngót 50 năm như một thế lực phản diện đáng gờm thì liệu xã hội tư bản có nhanh chóng chuyển biến để đạt mức độ tương đối hòa dịu như đang thấy không? Cần phải khẳng định rằng học thuyết Mác-Lê đã đóng trọn vai trò cứu cánh một thời của quần chúng cần lao và đã hoàn thành xuất sắc sứ mạng cao đẹp của nó đối với nhân loại.  
   Do bị khống chế bởi trình độ nhận thức khoa học nói chung của thời đại về tự nhiên mà dù mang danh là "biện chứng" thì triết học Mác ít nhiều vẫn còn hàm chứa tính bao biện, hình thức, siêu hình (chưa thực sự khách quan). Sinh ra và tồn tại trên nền tảng triết học đó nên tất nhiên hình mẫu xã hội và nhà nước do Mác phác thảo cũng hàm chứa không nhiều thì ít sự khiên cưỡng, chủ quan duy ý chí (dù cũng bởi hạn chế nhận thức thời đại mà rất khó phân tích để thấu tỏ được đích xác vấn đề!). Tuy nhiên, dù có thế thì về mặt lý thuyết, hình mẫu xã hội của Mác đã trưng ra một hoạt cảnh xã hội đầy nhân ái mà cũng đậm nét hiện thực nhất từ xưa đến nay. Tính nhân ái và hiện thực của hình mẫu xã hội ấy "mạnh" đến nỗi làm cho nó trong suốt một thời gian dài kể từ lúc xuất hiện, trở thành niềm khát vọng của quần chúng cần lao, đồng thời cũng là một chân lý bất di bất dịch, là mục tiêu cần phấn đấu đạt tới của phong trào cách mạng vô sản toàn thế giới.  (Chúng ta cho rằng dù hiện nay hình mẫu xã hội Xã Hội Chủ Nghĩa đã bộc lộ không ít khuất tất cả về mặt thực tiễn lẫn lý luận nhưng không phải là hoàn toàn phi lý. Hơn nữa những khuất tất ấy rất có thể là do những hạn chế nhận thức có tính thời đại gây ra. Đến một thời đại nào đó trong tương lai, khi trình độ nhận thức tự nhiên cũng như trình độ sản xuất xã hội của loài người đạt đến trạng thái thích hợp gọi là chín muồi, thì hình mẫu xã hội của Mác, sau khi đã được điều chỉnh, sẽ trở thành một hiện thực hiển nhiên. Trong thời đại ngày nay, dù hình thái xã hội mà Mác mơ ước chưa thực sự xuất hiện, thì do cái tinh thần thấm đẫm tình yêu thương đồng loại của nó, nó vẫn đóng vai trò là một xã hội lý tưởng tuyệt đẹp của con người. Chúng ta tin chắc rằng nếu các nhà chính trị, tư tưởng, kinh tế trên thế giới có lòng hướng tới lý tưởng ấy một cách sáng suốt, thành tâm và thiết thực trong hoạt động thực tiễn của mình, họ sẽ góp phần đích đáng làm giảm thiểu đến mức tối đa những bất công, những nhẫn tâm đang hàng ngày hàng giờ gây ra biết bao nhiêu khốn khổ, đau thương trong xã hội).     
    Độc quyền lãnh đạo là một đòi hỏi hợp lý, có tính tự nhiên. Dù ý chí con người có muốn hay không muốn, tự giác hay không tự giác, dù cơ cấu nhà nước có hình thức như thế nào đi nữa thì cũng phải tuân theo nguyên tắc ấy, nếu  muốn hoạt động nhà nước không bị rối loạn và có hiệu quả. (Điều đó đã từng thể hiện rất rõ trong chiến tranh thế giới lần thứ hai, xảy ra vào khoảng thời gian nửa đầu thế kỷ XX: nếu không tất cả thì cũng hầu hết nguyên thủ các quốc gia tham chiến đồng thời cũng là tổng tư lệnh quân đội, có quyền uy tối hậu duy nhất). Chính cái nguyên tắc độc quyền lãnh đạo có tính tự nhiên nêu trên đã chỉ ra rằng, nhà nước nói chung mang bản chất độc tài toàn trị. Một nhà nước, dù là theo thể chế nào, trong suốt quá trình tồn tại và hoạt động của nó, đều thể hiện ra cái bản chất ấy dù dưới hình thức này hay hình thức khác. Có hai hình thức độc tài toàn trị là độc tài toàn trị có tính cá nhân và độc tài toàn trị có tính tập thể. Về mặt triết học, đó là hai hình thức có mối quan hệ biện chứng, có thể chuyển biến từ cái này sang cái kia và ngược lại, nghĩa là trong chúng đều hàm chứa "hình bóng" của nhau với những "mức độ đậm nhạt" khác nhau tùy thuộc vào thực trạng cụ thể xã hội và cả nhận thức chủ quan của con người. Trong thực tế hoạt động chính trị, trên phương diện lý thuyết, có thể phân biệt tương đối được hai hình thức đó theo loại hình thể chế nhà nước. Như vậy, nếu nhà nước quân chủ thống trị xã hội theo cách thức độc tài toàn trị cá nhân thì nhà nước tư sản thống trị xã hội theo cách thức độc tài toàn trị tập thể. Cái cấu trúc "tam quyền phân lập" xuất hiện là do ý chí chủ quan tạo ra với mong muốn đảm bảo cho bộ máy độc tài toàn trị tập thể hoạt động một cách "đúng đắn" nhất có thể  mà thôi chứ thực ra chả "đả động" gì tới tính thiện-ác của bộ máy ấy. Trong thực tế, cái cấu trúc ấy cũng gây ra không ít nhiêu khê!
     Sẽ rất khiên cưỡng nếu so sánh sự xấu hơn hay tốt hơn giữa hai kiểu nhà nước ấy, vì đơn giản, sự xuất hiện hay tiêu vong của chúng là có tính tự nhiên, do đòi hỏi khách quan của tiến trình vận động xã hội và sự tồn tại của chúng chỉ phụ thuộc vào điều kiện phù hợp hay không phù hợp với trình độ hoạt động của cuộc sống xã hội mà thôi. Mặt khác, nếu xét về phương diện đạo đức, tức là về thái độ và hành động đối với quần chúng nhân dân (đối tượng thống trị của nhà nước), thì mức độ tốt-xấu hay hiền-ác của một nhà nước không phải do thiết chế của nhà nước đó qui định, thậm chí không có liên quan gì tới thiết chế nhà nước. Lịch sử vẫn còn tươi rói: nhà nước tư sản thời kỳ đầu (tạm qui ước là từ cuộc Cách mạng tư sản Anh đến cuộc Cách mạng Tháng Tám giành độc lập ở Việt Nam - đánh dấu sự cáo chung của chủ nghĩa thực dân) và nhà nước tư sản thời kỳ sau (tính cho đến nay), xét ra là cùng một thiết chế, thế nhưng nhà nước tư sản hiện nay đã tốt và hiền hơn nhiều (dù không phải không còn xấu và ác, nhất là tính vụ lợi một cách vô cảm và hiếu chiến thì hình như giảm chưa được bao nhiêu) so với nhà nước tư sản "hồi đó". Tại sao vậy? Phải chăng sự chuyển biến đó là kết quả hợp thành từ những nguyên nhân: phong trào đấu tranh chống áp bức, bóc lột của quần chúng cần lao, cuộc đấu tranh tư tưởng quyết liệt đến một mất một còn mà chủ nghĩa Mác đã đóng vai phản biện đầy sức thuyết phục, sự hiện diện "sừng sững" Liên bang Xô-viết (nước có thiết chế nhà nước tương phản với thiết chế của nhà nước tư sản và được đông đảo quần chúng đương thời trên thế giới ngưỡng mộ), khủng hoảng kinh tế xảy ra có tính định kỳ, trình độ sản xuất của nhân loại ngày một nâng cao, quá trình tự nhận thức lại bản thân của nhà nước tư sản...?
Trên thế giới hiện nay chỉ còn "lèo tèo" vài ba nước tự nhận là Xã Hội Chủ Nghĩa và vẫn duy trì thiết chế nhà nước với đảng cộng sản độc quyền lãnh đạo. Nếu cho rằng hiện nay, nhà nước cộng sản tiêu biểu là nhà nước Trung Quốc và nhà nước tư sản tiêu biểu là nhà nước Mỹ thì hai nhà nước ấy giống và khác nhau ở chỗ nào? Dễ thấy rằng hai nhà nước ấy đều thuộc loại độc quyền toàn trị tập thể và nếu nhìn vào bề ngoài thực trạng kinh tế- xã hội của hai nước ấy thì rất khó phân biệt sự khác nhau giữa chúng, thậm chí là không thể phân biệt được. Nói cách khác, hai nhà nước ấy trong thực tế đã không còn khác nhau về bản chất mà chỉ khác nhau một cách hình thức ở khâu cơ cấu tổ chức. Cũng có thể nhận xét theo một góc độ khác. Đó là hai nhà nước cùng thuộc loại độc quyền toàn trị tập thể, đều bảo hộ quyền bình đẳng trong kinh doanh mà thực chất  vẫn là ưu tiên cho các thế lực giàu có, có tư bản mạnh. Sự khác nhau giữa hai nhà nước ấy mang  tính lịch sử, có nguyên nhân từ tình thế ra đời của chúng, đó là: nếu nhà nước Mỹ giương cao ngọn cờ tự do thì nhà nước Trung Quốc giương cao ngọn cờ dân chủ. Tuy nhiên, sự khác nhau ấy giờ đây chỉ còn là hình thức thuần túy. Sự hạn chế nhận thức có tính thời đại đã dẫn đến cách hiểu siêu hình (nên cũng chưa xác đáng) về hai khái niệm "tự do" và "dân chủ", để rồi cũng xuất hiện quan niệm: thực thi tự do trước hết và trên hết là ưu tiên đảm bảo nhân quyền (có tính cá nhân), còn thực thi dân chủ thì trước hết và trên hết là ưu tiên đảm bảo dân quyền (có tính cộng đồng xã hội). Nếu sự tàn bạo của chế độ tư bản thời kỳ đầu làm cho nó bị lên án và khơi dậy phong trào đấu tranh chống áp bức bóc lột của quần chúng cần lao, thì sự bảo thủ chuyên quyền, sẵn sàng đàn áp không thương tiếc bằng bạo lực của chế độ tư bản chính là nguyên nhân sâu xa đưa phong trào đấu tranh ấy hướng đến mục tiêu quyết liệt hơn: thủ tiêu nhà nước chuyên chính tư sản, thiết lập nên nhà nước chuyên chính vô sản với khẩu hiệu "vì dân". Thuở ban đầu, về mặt lý thuyết và theo quan niệm của triết học Mác - Lê, đó là hai nhà nước đối lập nhau về bản chất, đối kháng nhau về mục đích hoạt động. Ngày nay đã có đủ điều kiện để bình tâm nhìn lại và thấy rằng, thực ra hai "loại" nhà nước ấy chính là hai thể hiện mặt còn khiếm khuyết của nhau.  Sự xuất hiện của nhà nước vô sản, với mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung (dù còn nhiều khiên cưỡng duy ý chí nên cũng chưa phù hợp với tâm lý sống đời thường (nói chung) của con người cũng như với trình độ sản xuất của thời đại) đã tạo ra hai "lực lượng nhà nước" tương phản nhau ở mức đối kháng trên thế giới, tác động nhau quyết liệt đến một mất một còn và nếu muốn sống còn thì đồng thời cũng phải tự chuyển hóa theo hướng duy nhất là tiếp cận lẫn nhau (cũng có nghĩa là theo hướng hợp lòng đại chúng hơn!). Các nước trong phe tư bản chủ nghĩa, có sự vận động xã hội thoát thai ra từ yêu cầu tự nhiên hơn nên uyển chuyển hơn và do đó cũng dễ dàng chuyển hóa hơn. (Chính điều đó đã giải thích vì sao mà các đảng cộng sản ở các nước đó nói chung là đều mất dần "sức chiến đấu"). Sự cực đoan duy ý chí bởi hạn chế nhận thức của thời đại đã làm cho hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa trở nên "cứng dòn", không chuyển hóa kịp thời và hợp lý được, đành sụp đổ, dẫn đến đại đa số nhà nước cộng sản biến thái thành nhà nước tư sản, và trong số còn lại thì một vài nhà nước,tiêu biểu là nhà nước Trung Quốc, dù vẫn mang danh cộng sản thì chỉ là hình thức, là sự gắn nhãn mác chứ thực chất cũng có "phong thái" tư sản nốt.
    Nói thêm,cần nhận thức rằng thực hiện đảm bảo về nhân quyền thì cũng đồng thời đảm bảo ở mức độ nào đó về dân quyền, và thực hiện đảm bảo về dân quyền thì đồng thời cũng đảm bảo ở mức độ nào đó về nhân quyền, vì thực ra nhân quyền và dân quyền chỉ là hai khía cạnh của một vấn đề thống nhất hữu cơ.  Một nhà nước chuẩn mực là nhà nước trước tiên phải hiểu cho đúng vấn đề để "biết cách" đảm bảo được thỏa đáng đồng thời hai quyền ấy trong thực tế, và khi "làm được" như thế thì nhà nước sẽ được toàn thể quần chúng (cả người giàu lẫn người nghèo) ủng hộ và tôn vinh, vì nó đã mang bản chất thực sự do dân và vì dân. Và như thế, có lẽ trong một tương lai không xa, vấn đề xét một nhà nước là tư sản hay cộng sản sẽ không còn cần thiết phải đặt ra nữa, mà chỉ là vấn đề nhà nước đó thiện hay ác đối với quần chúng của nó-cái lực lượng tiềm ẩn sức mạnh vô địch nhưng lành tính, cưu mang nó và tin tưởng ủy thác sinh mạng của mình cho nó - ở mức độ nào mà thôi.
    Tiến trình vận động của xã hội loài người, do có sự lũng đoạn bởi hành động chủ quan, duy ý chí của chính con người mà thấy có lúc nhanh lúc trì trệ, đầy quanh co khúc khuỷu, nhưng thực ra vẫn luôn theo đúng chiều của nó. Nếu sự xuất hiện chủ nghĩa tư bản là tất yếu thì sự xuất hiện phong trào đấu tranh giành quyền sống cơ bản của quần chúng cần lao thế giới mà phong trào đấu tranh giải phóng đòi độc lập dân tộc của nhân dân các nước thuộc địa là bộ phận hợp thành của nó, cũng là một tất yếu. Để có thể đối đầu được trước một binh lực tập trung và cường bạo của nền thống trị chuyên chính tư sản, thì yêu cầu bức bách tự nhiên nảy sinh ra đối với phong trào đấu tranh đó là phải có một sự lãnh đạo tập trung , nhất quán về cương lĩnh nhằm thống nhất hành động. Học thuyết Mác ra đời trong bối cảnh đó và các đảng cộng sản được thành lập để đóng vai trò tiên phong lãnh đạo phong trào cũng là vì lẽ đó...Cuộc sống của con người hiện nay trên thế giới, nói chung, "dễ thở" hơn nhiều về mặt tinh thần so với cách đây hơn một thế kỷ, không phải là sự "tình nguyện phục vụ" của chủ nghĩa tư bản. Hãy nhận thức cho công tâm để biết nhớ ơn sự xả thân của lực lượng cần lao, trong đó có hàng triệu triệu con người cộng sản mà điển hình là nhân vật chính trong "Thép đã tôi thế đấy" thuộc một thời đoạn lịch sử đã qua!

                               ***

   Xét riêng trường hợp Việt Nam. Năm 1858, thực dân Pháp nã pháo vào Đà Nẵng, mở màn cuộc chiến tranh xâm lược nước ta. Ngay từ đầu, triều đình Huế, đứng đầu là ông vua nhát cáy, tham sống sợ chết Tự Đức, đã không có lòng quyết chiến, và càng về sau càng tỏ ra khiếp hãi, bạc nhược trước đội quân xâm lược không đông nhưng tinh nhuệ hơn và có hỏa lực áp đảo. Trong khi đó, trái lại, tinh thần chống xâm lăng của quần chúng ngày một dâng cao, làm xuất hiện phong trào tự phát vũ trang, đứng lên bảo vệ tổ quốc mà đứng đầu là những sĩ phu, nhà nho yêu nước. Dù tự phát và có tính manh mún thì phong trào ấy (lúc đầu nổ ra ở Nam Kỳ-Lục tỉnh, sau là Bắc Kỳ và Trung Kỳ) không những làm cho thực dân Pháp gặp rất nhiều khốn đốn với những tổn thất không nhỏ, mà còn không chỉ một hoặc hai lần đưa cuộc xâm lược của chúng vào tình trạng tiến thoái lưỡng nan, thậm chí là có khả năng bị thất bại hoàn toàn. 
Chính cái tư tưởng cầu hòa, chủ bại đầy bạc nhược của triều đình Huế đã làm cho những cơ hội hiếm hoi ấy trôi qua, không trở thành hiện thực được. Đó là một tội rất lớn đối với dân tộc Việt (gồm dân tộc Kinh và mọi dân tộc khác sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam). Nếu xét về trách nhiệm cá nhân thì kẻ gây ra tội ác đó, không ai khác là đích danh Tự Đức - một ông vua giỏi văn chương, thơ phú nhưng bản chất là nhẫn tâm, yếu hèn, đạo đức giả, trong thời trị vì trước khi Pháp xâm lược đã từng bị thần dân của mình nguyền rủa, chẳng hạn: "Bao giờ Tự Đức chết đi / Thiên hạ bình thì mới dễ làm ăn". Vì quá khiếp nhược trước thực dân Pháp, lại coi nhân dân không ra gì và chỉ mong toàn mạng mà Tự Đức đã không hề đếm xỉa đến vận mệnh dân tộc, trở nên phản động, bán dần đất nước, không những tích cực cản trở, ngăn chặn, mà còn đồng thời trực tiếp làm tay sai cho Pháp trong việc đàn áp phong trào đấu tranh vũ trang chống xâm lược của dân tộc Việt. Vì thế mà triều đình Huế nói chung và Tự Đức nói riêng cũng phải chịu trách nhiệm là nguyên nhân sâu xa gây nên hàng loạt cái chết uất ức (nhưng tiết liệt) của nhiều quan lại, sĩ phu yêu nước đương thời đó như: Nguyễn Tri Phương, Hoàng Diệu, Võ Duy Ninh, Phan Thanh Giản, Thủ khoa Huân, Nguyễn Trung Trực...Có đủ bằng chứng lịch sử để nói rằng, triều đình Huế thời Tự Đức là triều đình "dở hơi" và phản động nhất trong lịch sử Việt Nam, và Tự Đức là ông vua "sợ dân hơn sợ giặc", mức độ đê hèn may ra chỉ "thua" sự ươn hèn của Lê Chiêu Thống, kẻ mang danh vua nhưng chưa từng được làm vua có thực quyền, thực lực và được cai quản cả một đất nước như Tự Đức. Hơn nữa, nếu tiền bối Gia Long là kẻ mở ra "công cuộc" rước voi về dày mả tổ thì hậu duệ Tự Đức là kẻ đã hoàn thành "suất sắc" cái  "công cuộc" ấy!

Tự Đức
嗣德

Hoàng đế Đại Nam (chi tiết...)
Vua Tu Duc.jpg
Chân dung thông dụng của vua Tự Đức
Early Nguyen Dynasty Flag.svg Hoàng đế thứ tư của Nhà Nguyễn
Trị vì 18471883

      Về danh nghĩa, có thể coi ngày ký hiệp ước Patơnốt (6-6-1884) là ngày thực dân Pháp hoàn thành cuộc xâm lược toàn cõi Việt Nam, nhưng trong thực tế phải coi ngày Hoàng Hoa Thám bị sát hại (10-2-1913) mới là ngày thực dân Pháp dập tắt được hoàn toàn phong trào đấu tranh vũ trang thời kỳ đầu của dân tộc ta chống sự xâm lược của chúng. Hiệp ước Patơnốt đã giúp Pháp nhanh chóng hoàn chỉnh, củng cố vững vàng bộ máy thống trị dưới danh nghĩa bảo hộ, tồn tại "bên cạnh" triều đình Huế, một nhà nước "hữu danh vô thực" mà thực chất là làm tay sai đắc lực cho chúng. (Ở đây, cần nhấn mạnh rằng, dù đã bán nước thì không phải vì thế mà triều đình Huế vẫn tồn tại được. Nó được tiếp tục tồn tại là nhờ dã tâm "cáo già" của thực dân Pháp cho phép!). Tình hình đó và ít nhiều có cả sự góp phần của cái ý thức hệ nho giáo còn hằn sâu trong tâm trí người Việt, đã làm suy giảm hẳn khả năng qui tụ lực lượng, tổ chức vũ trang khởi nghĩa với khẩu hiệu chống xâm lược một cách đơn thuần như thời kỳ đầu. Đây là một trong số ít những nguyên nhân chủ yếu làm cho xã hội Việt Nam lắng dịu hẳn xuống kể từ sau phong trào đấu tranh Cần Vương (có thể cho là vào năm 1895 với sự thất bại của cuộc khởi nghĩa An Khê do Phan Đình Phùng lãnh đạo) đến ít ra là hết thời kỳ "Khai thác thuộc địa lần thứ nhất" của thực dân Pháp (đến năm 1918). Nghĩa là nói chung, không còn hình thức đấu tranh vũ trang nữa mà chỉ còn hình thức đấu tranh chính trị dưới dạng "ngấm ngầm", mà cũng rất manh mún, gói gọn ở một số ít chí sĩ yêu nước và hoạt động tuyên truyền chủ yếu trong giới trí thức, học sinh.
 
Phan Bội Châu
PhanBoiChau.jpg
Tên: Phan Bội Châu
Hán-Nôm: 潘佩珠
Ngày sinh: 26 tháng 12 năm 1867
Ngày mất: 29 tháng 10, 1940 (72 tuổi)

        Phong trào tự phát khởi nghĩa đấu tranh vũ trang, đối đầu trực diện với thực dân Pháp trong thời kỳ đầu, có động lực thuần túy từ lòng yêu nước nồng nàn, được hun đúc thành truyền thống qua hàng ngàn năm chống quân xâm lược phương bắc của dân tộc ta. Mục tiêu duy nhất của phong trào đó đơn thuần là chống thực dân Pháp xâm lược. Sau năm 1895, do tình hình xã hội Việt Nam đã thay đổi nên mục tiêu đấu tranh chống xâm lược đơn thuần không còn phù hợp nữa, làm cho cuộc đấu tranh yêu nước thời kỳ đó cũng lâm vào trạng thái hoang mang, mất phương hướng chủ đạo. Lịch sử đã cho thấy rằng buổi đầu cuộc đấu tranh chính trị chống ách đô hộ của thực dân Pháp với sự tiếp tay và "ăn theo" của triều đình Huế thối nát, cũng đồng thời là cuộc tự đấu tranh tư tưởng để xác định đường lối khả dĩ nhất cho hành động. Cuộc đấu tranh tư tưởng đó làm xuất hiện nhiều trào lưu cách mạng, nhưng bị "rào cản" của nhận thức đương đại mà chung qui lại, không ảo tưởng (Phan Bội Châu), cải lương (Phan Chu Trinh) thì cũng phiêu lưu manh động (Nguyễn Thái Học), và đều đi đến bế tắc. Biểu hiện chung nhất của phong trào đấu tranh chính trị thời kỳ này là tản mạn, không lôi kéo được đông đảo quần chúng cần lao tham gia. Có như thế là vì một mặt, không có trào lưu cách mạng nào có được một cơ sở lý luận đủ sức thuyết phục, mặt khác là trong đời sống xã hội chưa xuất hiện hoặc nếu xuất hiện thì chưa rõ rệt  một tình thế có lợi cho cách mạng phát triển.
 
Phan Châu Trinh
Phan Chau Trinh.jpg
Sinh Phan Châu Trinh
phủ Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam
Mất Sài Gòn, Đông Dương thuộc Pháp
Nơi an nghỉ Sài Gòn

         Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, Pháp tuy là nước thắng trận nhưng do bị tàn phá nặng nề nên đời sống kinh tế-xã hội cũng trở nên tiêu điều. Để khắc phục hậu quả chiến tranh, chính phủ Pháp chủ trương tăng cường khai thác không thương tiếc các nước thuộc địa. Ở Việt Nam, chủ trương đó được hiện thực hóa bằng cuộc "Khai thác thuộc địa lần thứ hai". Qui mô và sự tàn bạo của cuộc bóc lột này làm cho tầng lớp làm công ăn lương (công nhân) tăng lên nhanh chóng về số lượng đồng thời làm cho họ cũng nhanh chóng lâm vào cuộc sống rất cơ cực. Đây là khâu trọng yếu làm xuất hiện tình thế cách mạng mà chính thực dân Pháp với bản chất ăn cướp trắng trợn đã tự gây ra. Tuy nhiên, tình thế cách mạnh chỉ có thể kích thích phong trào cách mạng vốn đang tản mạn về đường lối và lúng túng về lý luận lên mức độ hoạt động nào đó sôi nổi hơn, thậm chí là quyết liệt hơn (để dễ dẫn đến đổ vỡ đau thương hơn?!), chứ không thể đột nhiên làm cho phong trào ấy biến thành một cuộc cánh mạng đấu tranh giải phóng duy nhất, có cơ sở lý luận vững chắc, có tiêu chí và mục đích nhất quán, rõ ràng, cụ thể, thuyết phục và lôi cuốn được đại bộ phận quần chúng cần lao vì cũng thỏa mãn được niềm mong ước của họ.

 
Nguyễn Thái Học (chữ Hán: 阮太學; 1902 – 1930)
 là một nhà cách mạng Việt Nam chủ trương dùng vũ
 lực lật đổ chính quyền thực dân Pháp, giành độc lập 
cho Việt Nam. Ông là một trong số những người sáng
 lập Việt Nam Quốc dân đảng và lãnh đạo cuộc khởi 
nghĩa Yên Bái năm 1930. Cuộc khởi nghĩa thất bại,
 ông bị thực dân Pháp bắt và chém đầu ngày 17 tháng 6
 năm 1930 tại Yên Bái.
 
          Ngày nay, dù vẫn còn là vấn đề bí ẩn đối với khoa học, thì hiện tượng tâm linh đã được thừa nhận rộng rãi. (Từ đó mà nảy sinh luận điểm: một triết thuyết về thực tại khách quan, muốn xác đáng thì không được hàm chứa mâu thuẫn nội tại và đồng thời phải thực sự biện chứng, nhưng muốn thực sự biện chứng thì trước hết không được chối bỏ hiện tượng tâm linh (chứ không phải mê tín dị đoan) mà phải coi đó là biểu hiện một phương thức vận động của tự nhiên. Triết học Mác chưa thỏa mãn được yêu cầu đó!). Xét ở góc độ con người sinh học thì sự xuất hiện Hồ Chí Minh là một ngẫu nhiên, nhưng xét ở góc độ tâm linh thì sự xuất hiện đó là một linh ứng. Có thể nói tinh thần Hồ Chí Minh là kết quả được hun đúc nên từ tinh hoa khí thiêng sông núi Việt, từ nguyện vọng được sống độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc hết mực thiết tha, nung nấu thường trực trong tâm hồn dân tộc Việt, từ nỗi uất ức còn đọng lại thành khối và thấu đến trời xanh của những anh hùng, nghĩa sĩ đã bất khuất chọn cái chết chứ không đầu hàng trong thời kỳ đầu chống thực dân Pháp xâm lược. Đã là con người thì không thể là thần thánh, nhưng có thể là sự ủy thác của thần thánh và ở mức độ nào đó nhận được sự mách bảo của thần thánh qua con đường linh cảm linh tri. Vì thế mà cuộc đời Hồ Chí Minh là một chuỗi những quyết định và hành động phi thường chỉ có thể có ở những bậc vĩ nhân. Ngay ở tuổi thiếu thời, dù kính trọng lớp cha anh là Phan Bội Châu, thì Hồ Chí Minh vẫn không theo tư tưởng cách mạng của Phan Bội Châu. Bước vào tuổi thanh niên, Hồ Chí Minh đã tự thân quyết định ra đi tìm đường cứu nước với hai bàn tay trắng. Rồi lúc ở Pháp tiếp xúc với bậc yêu nước lão thành Phan Chu Trinh, dù vẫn kính trọng tiền bối nhưng cũng không theo tư tưởng cách mạng của tiền bối mà lại hướng về cách mạng vô sản. Chỉ riêng từng đó thôi, vào thời buổi ấy, có thanh niên hay nói chung là người Việt yêu nước nào có đủ bản lĩnh và sáng suốt làm được như Hồ Chí Minh? Không ai cả! Hồ Chí Minh chính là người được sinh ra để gánh trên vai trọng trách đưa đất nước và dân tộc Việt thoát khỏi vòng đô hộ và nô dịch của ngoại bang và bè lũ ngụy quyền tay sai. Ông đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ vô cùng khó khăn mà tổ quốc Việt Nam giao phó và do đó ông cũng hiển nhiên trở thành vị anh hùng dân tộc trong thời đại mình.
         Phong trào cách mạng Việt Nam đang trong "cơn bĩ cực" về tư tưởng và đường lối thì được cuộc khởi nghĩa thắng lợi của cách mạng vô sản Nga (cách mạng Tháng mười Nga, năm 1917) cùng với học thuyết Mác-Lê soi rọi tới. Những năm đầu thập niên hai mươi của thế kỷ XX là khoảng thời gian rộ lên một cách tích cực sự chuyển biến về tư tưởng và đường lối đấu tranh yêu nước, giành độc lập dân tộc trong hàng ngũ các chí sĩ, những trí thức cấp tiến của phong trào cách mạng Việt Nam. Cuộc chuyển biến có tính nhất quán ở chỗ xác định kẻ thù chính (không thể thỏa hiệp) của dân tộc là thực dân Pháp, do đó mục tiêu trọng yếu và trực tiếp của cách mạng là trước sau gì cũng phải đối đầu trực diện, kiên quyết đánh đuổi chúng đi. Lịch sử cho thấy quá trình chuyển biến tư tưởng ấy có xu hướng qui dần đến lựa chọn học thuyết xã hội Mác-Lê và cách mạng vô sản. Phan Bội Châu vào những năm tháng cuối đời (khoảng thời gian bị quản thúc ở Huế) đã hết lời ca ngợi chủ nghĩa xã hội. Phạm Tuấn Tài là người cùng Nguyễn Thái Học sáng lập Việt Nam quốc dân Đảng, tổ chức chính trị tiêu biểu cho xu hướng cách mạng dân chủ tư sản. Sau khi Việt Nam quốc dân Đảng tan rã, trước lúc mất vì bệnh, Phạm Tấn Tài đúc kết: "...Chủ nghĩa quốc gia hiện đã trái mùa, cả đến chủ nghĩa xã hội dân chủ (tư sản-NV) hay chủ nghĩa tam dân cũng chỉ là những cách mệnh cải lương không công hiệu. Nói rõ hơn, chỉ có chủ nghĩa Mác-Lênin mới có thể đánh đổ được chủ nghĩa đế quốc mà giải phóng cho các dân tộc yếu hơn, chỉ có chủ nghĩa Mác-Lênin mới phá tan được xã hội giai cấp mà dẫn nhân loại tới thế giới đại đồng". Theo Lê Duẩn ("Một vài đặc điểm của cách mạng Việt Nam", NXB Sự Thật, Hà Nội, năm 1967) thì: "Từ năm 1930, trên dải đất Việt Nam, phong trào chống đế quốc giành độc lập, giải phóng dân tộc, chỉ là những phong trào do giai cấp công nhân lãnh đạo". Như vậy, tương tự như phong trào cách mạng Nga, sự hướng tới thực hiện cách mạng vô sản dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản đối với phong trào cách mạng Việt Nam chính là lựa chọn có tính tự nhiên của thời cuộc, cũng tức là có hàm chứa tính tất yếu.
         Không đếm xỉa nhưng cũng chấp luôn cả đám mang lòng thù hận cộng sản điên cuồng đến mức hoàn toàn mù lòa và bệnh hoạn, mở miệng ra, không chửi bới thô lỗ cũng trơ tráo đặt điều vu khống trắng trợn, chắc rằng không một ai có thể trưng ra bằng chứng đích đáng và đủ lý lẽ phản biện để phủ nhận được vai trò tiên phong và quyết định của Đảng cộng sản Việt Nam trong việc lãnh đạo, dẫn dắt dân tộc ta giành lại độc lập, chủ quyền đất nước, đập tan ý đồ nô dịch nước ta lần thứ hai của thực dân Pháp bằng thắng lợi sau chín năm kháng chiến trường kỳ, đuổi đế quốc Mỹ ra khỏi bờ cõi, đánh đổ ngụy quyền tay sai, thống nhất nước nhà sau ngót hai mươi năm kháng chiến thần thánh và đại thắng. Trong lịch sử nhân loại thời hiện đại chỉ duy nhất có dân tộc Việt Nam, trong suốt cuộc đấu tranh gan góc và bền bỉ nhằm giành lại quyền sống cơ bản và chính đáng của mình trước thực dân, đế quốc, luôn được nhân dân thế giới, trong đó có cả nhân dân Mỹ không những đồng tình ủng hộ mà còn cảm phục và hết lời ngợi ca. Đó chính là niềm tự hào dân tộc của mọi con dân Việt Nam! Và trong niềm tự hào ấy, tất nhiên phải hiện lên rõ nét hình ảnh sống động của Đảng cộng sản Việt Nam quang vinh cùng với những con người tiêu biểu cho tinh thần bất khuất, quả cảm vô song, cho trí tuệ minh triết của dân tộc trong thời đại mới, như: Hồ Chí Minh, Trần Phú, Hoàng Văn Thụ, Nguyễn Thị Minh Khai, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh, Lê Duẩn, Võ Văn Kiệt...Như đã nói, con người không phải là thần thánh và dù là thần thánh thì khi hành động đôi khi cũng vẫn phạm sai lầm cá nhân, thậm chí là sai lầm lớn. Song, không phải vì thế mà chê bai có ý đồ mạt sát, bôi nhọ tài năng và đức độ những con người tiêu biểu đã đi vào lịch sử ấy-những con người là cha anh của thế hệ hôm nay, nhất là phủ nhận công lao thực sự to lớn của họ đối với đất nước, dân tộc. "Người quân tử (trong khi hành hiệp) đôi khi phạm phải điều bất nhân, nhưng chưa từng thấy kẻ tiểu nhân làm được điều nhân nghĩa". Đó là lời của Khổng Tử và ngẫm nghĩ thấy...cũng chí lý! Nếu đặt các vị có trình độ giáo sư, tiến sĩ hiện nay đang lớn tiếng chê khinh sự "ít học" của những con người tiêu biểu nêu trên, vào thời cuộc ấy và ở ngay những vị trí của họ, chắc gì các vị đã lập được một "góc nhỏ" công trạng cho đất nước như họ và phạm sai lầm ít hơn họ?

                                             ***

  Hiện nay đã hình thành một bộ phận phản biện xã hội đối với đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Bộ phận này tập hợp không ít những nhà trí thức lớn tuổi, có học hàm học vị chuyên môn cao, có tiếng tăm, nên cũng lôi kéo được một số ít người trong giới trí thức trẻ. Phản biện không xấu, phản biện đến mức gay gắt cũng không xấu, thậm chí lại cần thiết, miễn thực tâm muốn xây dựng, bất vụ lợi, biết lắng nghe và tiếp thu lại ý kiến từ phản biện của phản biện, cũng như biết tự phản biện. Thực tế thời gian qua cho thấy có nhiều những ý kiến phản biện xã hội rất chí lý, rất sâu sắc và cũng rất kịp thời (còn chính phủ có nhìn nhận ra điều đó không lại là chuyện khác!). Nhưng dần dà, nhất là trong thời gian gần đây, có thể là do quá bức xúc trước những hiện tượng lợi dụng pháp luật, quyền lực để trục lợi, làm điều trái ngang, thất đức trong xã hội, cũng có thể là do nhà nước thực sự lúng túng, kém năng lực trong việc triệt phá tham nhũng, tiêu trừ nạn hoạnh họe bắt chẹt người dân để "ăn tiền" một cách vô sỉ, nhẫn tâm của nhiều kẻ hành nghề y, nhà giáo, của các nhân viên công lực, tồn tại "nhan nhản" hầu như "bô bô, việc gì mà xấu hổ" ở các cơ quan công quyền tầng địa phương từ tỉnh đến phường xã, nhất là nạn dựa vào luật để "mãi lộ" của lực lượng cảnh sát giao thông trên mọi tuyến quốc lộ, phổ biến đến mức "ai cũng biết"..., lại suy diễn sa đà ra thành chuyện chính trị trong khi trình độ nhận thức triết học còn hạn chế, thiếu tính biện chứng lịch sử, dựa trên những luận cứ mơ hồ, hàm chứa lầm lạc, cho nên bộ phận trí thức phản biện đã đưa ra không ít những nhận định, chỉ trích có phần "quá lố" kiểu "vơ đũa cả nắm", "chụp mũ", "đổ vấy" toàn bộ trách nhiệm cho cái thiết chế cộng sản với Đảng độc quyền lãnh đạo của nhà nước Việt Nam, từ đó nêu ra luận điểm trước mắt phải loại bỏ sự độc quyền lãnh đạo của Đảng rồi tiếp đến là xây dựng một chế độ đa nguyên đa đảng có thiết chế nhà nước kiểu dân chủ hay cộng hòa nào đó coppy (tất nhiên rồi!) từ phương tây. Theo ý chí đó thì cũng coi như mặc nhiên "trở cờ", gia nhập đám nuôi lòng hận thù thâm căn cố đế đến tận xương tủy, đến ngu muội cái khái niệm "cộng sản" mà giờ đây chỉ còn như một thuật ngữ thuần túy hình thức, một nhãn mác "đã gần" mất hết nội dung, thậm chí mù quáng đóng luôn cái vai trò "đội quân tiên phong" trên mặt trận lý luận của đám ấy, vì ít ra, ở mức độ nhất định, đã cùng chung một mục đích với đám ấy, và hơn nữa (vô hình dung) là đồng lòng với đám ấy: kết tội Đảng cộng sản Việt Nam và qua đó, đồng thời cũng hòng bôi xóa  niềm tự hào của dân tộc Việt Nam mà nhân dân thế giới đã thừa nhận. Làm như thế đã có thể gọi là phản động, vong ân bội nghĩa được chưa? Bây giờ mà hỏi bất cứ con dân Việt Nam nào chỉ cần biết sơ bộ về lịch sử nước nhà rằng có khinh ghét những hạng người như Trấn Di Ái, Trần Ích Tắc, Lê Chiêu Thống, Tự Đức, ...không(?), thì có lẽ trăm người như một đều trả lời khẳng định. Ấy vậy mà vẫn có những nhà trí thức yêu nước trong số đó đang trên bước đường theo vết xe đổ mà không hay biết, thế mới lạ kỳ! 
    Phải thừa nhận rằng, thực sự tồn tại trong một thời gian dài cho đến tận hiện nay, hiện tượng lạm dụng chức quyền, lợi dụng chủ trương, chính sách, qui định (phần nhiều là đúng nếu công tâm thực thi) của chính phủ để "tham quan lại nhũng", "móc ngoặc tư lợi" đã ở mức độ là vấn nạn của xã hội Việt Nam. Chính vấn nạn này đã trực tiếp vừa làm cho "dân nghèo nước yếu ", vừa bao che, dung túng, hơn nữa là làm nảy sinh thêm những vụ việc, những hoạch định (nhất là trong những lĩnh vực liên quan đến xây dựng cơ bản, đến đất đai) "núp bóng" dưới danh nghĩa phục vụ lợi ích cộng đồng nhưng thực chất chỉ nhằm "bày ra" với mưu đồ đục khoét, thâu tóm, kiếm lợi để tư hữu một cách bất chính, cho nên cũng phơi bày ra nhiều tàn nhẫn, bất công đối với dân chúng, và thêm nữa, nguy hiểm hơn, đóng vai trò "đầu têu", "khuyến khích", làm tăng tốc độ tích tụ tư bản, tăng tốc độ giãn cách giàu nghèo, đồng thời cũng làm tăng tốc độ băng hoại về đạo đức đang lan rộng trong xã hội.
         Vấn nạn đó có ai biết không? Có! Dù có thể nhiều người chưa thấy hết được nguồn gốc sâu xa phát sinh ra nó cũng như tầm tác hại (ngấm ngầm nhưng) ghê gớm của nó trong không gian và thời gian, thì  người dân Việt Nam nào cũng biết. Vậy thì tại sao quần chúng cần lao, đối tượng đầu tiên và cũng là cuối cùng bị xâm hại quyền lợi bởi vấn nạn đó vẫn tỏ ra im lặng, nhẫn nhịn? Phải chăng là vì họ còn thiếu một đội ngũ tiên phong lãnh đạo? Hoàn toàn không phải! Đảng cộng sản và nhà nước Việt Nam đã thấy, đã rất trăn trở, đã công khai nói ra vấn nạn đó và không hề thờ ơ, vẫn đang nỗ lực suy tư lý luận đồng thời với việc đề ra những biện pháp (được cho là khả dĩ) tiêu trừ vấn nạn đó, làm trong sạch bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương (dù hiệu quả cho đến nay vẫn chưa được như ý muốn!). Không phải chỉ có một động thái đó, nhưng với một động thái đó thôi cũng chứng tỏ được nhiều điều làm cho quần chúng nhân dân nói chung vẫn yên tâm làm ăn, vẫn yên lòng chờ đợi. Thực tế hiện nay cho thấy bộ phận trí thức phản biện theo hướng cực đoan, duy ý chí, tưởng giải quyết vấn nạn nêu trên bằng cách thay đổi thể chế nhà nước hiện hành là chí lý, đã ra sức tuyên truyền, hô hào, lôi kéo đến "rã bọt mép" mà đại chúng hầu như chẳng ai chịu theo, vẫn "hồn nhiên" sống với những hồ hởi, lo toan "sát sườn" của họ, với những vui buồn thường nhật của đời người. Vài trí thức hãnh tiến thái quá trong bộ phận phản biện quá khích, thấy vậy bức bối đổ thừa dân chúng Việt Nam là "ngu lâu dốt bền", là "thùng rác". Phán thế chẳng khác nào chửi dân tộc, dòng giống tổ tiên, ông cha mình. Thật hỗn xược! Nhưng thôi, không nên chấp nê làm gì vì chỉ là chuyện nhỏ. Đây mới là chuyện lớn đầy đau buồn: chỉ vì nhận thức triết học về xã hội còn hạn chế (đây là "lỗi" của thời đại chứ không phải của riêng ai!!!), lại thêm nỗi bức xúc đến độ mất bình tĩnh bởi sự tác động của những hiện tượng tiêu cực, bất nhẫn xảy ra không ít trong xã hội, nên cũng có cái nhìn lệch lạc dần về chính trị mà bộ phận phản biện quá khích, từ những ý kiến đưa ra lúc đầu có tính xây dựng tích cực, hữu ích và cũng đích đáng trong chừng mực, tiến dần đến những ý kiến bài bác, đả phá đầy ác ý toàn bộ chế độ mà ngộ nhận, đinh ninh như thế là đúng, là vì dân. Sự thái quá đó, rất "bất cập", vừa làm giảm tác dụng tích cực của phản biện, vừa làm xã hội phần nào rối loạn thêm. Nhưng dù sao, nói cho cùng thì hầu hết những nhân sĩ, trí thức thuộc bộ phận ấy, nhất là những bậc lớn tuổi, cũng xuất phát từ lòng yêu nước thương dân, thành tâm mong sao cho dân giàu nước mạnh. Xét về mặt nhân cách cá nhân thì các vị nhân sĩ trí thức lớn tuổi ấy cũng là những con người khả kính, đức độ, có lối sống lành mạnh và thực sự là những tài năng đất nước trong chuyên môn của họ. Vô cùng tiếc khi họ tự làm suy giảm thanh danh của mình trước hậu bối, đến nỗi bị bộ phận phản biện của phản biện gọi là "rận chủ, chấy thức". Dù sao thì cũng không nên gọi toàn bộ họ như thế, vì gọi như thế là "đánh đồng", "phủ nhận sạch trơn", thiếu mã thượng và cũng chính là một biểu hiện của sự quá khích, ít nhiều làm sứt mẻ tinh thần tôn sư trọng đạo, làm yếu đi khả năng hòa giải hòa hợp dân tộc. Bài học lớn rút ra từ sự ứng xử sai lầm của Đảng cộng sản Việt nam trong quá khứ vẫn còn đây: trong tình thế "nước sôi lửa bỏng" việc kiên quyết trấn áp lực lượng phản cách mạng nhằm giữ vững chính quyền, củng cố sức mạnh bạo lực để tiếp tục công cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc là đương nhiên và cũng tối cần thiết, nhưng do nhận thức thiếu tự chủ, cực đoan, duy ý chí, siêu hình về chuyên chính vô sản, về vấn đề giai cấp cũng như về phân biệt bạn-thù, ta-địch mà phần nào đã (vô tình) xa rời truyền thống nhân hậu, vị tha của dân tộc, vì vậy, trong hành động đã tỏ ra có phần quá quắt, bất nhẫn, gây ra không ít oan sai, uất ức và qua đó không nhiều thì ít gây ảnh hưởng trái chiều đối với tinh thần, chủ trương hết sức đúng đắn và sáng suốt được lãnh tụ Hồ Chí Minh nêu ra cũng như đã thực hiện ngay từ buổi đầu giành chính quyền, đó là trấn áp đi liền với vấn an trên nền tảng hòa giải hòa hợp, đại đoàn kết dân tộc, nghĩa là lấy giáo dục, khuyên răn, thuyết phục trên tinh thần đồng cảm làm biện pháp chủ yếu, trừng trị chỉ là biện pháp bất đắc dĩ cuối cùng. 
Hiện nay trên mạng Internet đã hình thành tương đối rõ nét sự đấu tranh nội bộ (vì cùng chung một mục đích duy nhất và tối hậu là tìm cách chấn hưng đời sống kinh tế-xã hội, làm cho dân giàu (chứ không phải quan giàu!) nước mạnh(chứ không phải nhóm lợi ích mạnh!)) giữa hai lực lượng biện hộ xã hội và phản biện xã hội, dưới dạng "khẩu chiến", "bút chiến", nghĩa là đã có tính căng thẳng. Nói chung, như thế cũng tốt, thậm chí là rất tốt cho Đảng và Nhà nước, vì từ đó đã và đang xuất hiện những đánh giá tình hình, những góp ý xây dựng có tính lý luận cao, rất sâu sắc, rất thiết thực (không phải chỉ do những bậc trí giả có tiếng tăm mà cả do những "thất phu hữu trách", những "con dân tha hương" đề xuất). Tuy nhiên, dù có căng thẳng và gay gắt đến mấy thì mọi người, những ai tham gia "cuộc chơi" đó nên "thấm thía" và "thấm thía" hơn nữa lời nhắn nhủ chí lý chí tình của tổ tiên ông bà: "Bầu ơi thương lấy bí cùng/ Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn", "Nhiễu điều phủ lấy giá gương/ Người trong một nước phải thương nhau cùng"...      
         Nhắc lại, "Đấu tranh sinh tồn" là qui luật tự nhiên cơ bản của thế giới sinh vật, trong đó gồm cả xã hội loài người. Đóng vai trò như một hệ quả rút ra từ qui luật này nhưng chỉ thể hiện rõ rệt trong đời sống xã hội loài người nên cũng mang màu sắc đặc thù coi như chỉ ở loài người mới có, đó là nguyên tắc có tính phổ biến: ở đâu có bất công, bóc lột, áp bức, ở đó có bất bình, phản kháng, đấu tranh. Quần chúng nhân dân là nền tảng của một xã hội, là căn bản của một đất nước. Đó là lực lượng to lớn, tiềm ẩn sức mạnh vô địch, nhưng lành tính, ít bị biến động, khích động trước ảnh hưởng của các hiện tượng, sự cố thông thường xảy ra trong xã hội (tương tự như đại dương với những biến cố cục bộ xảy ra trong lòng nó). Lịch sử nhân loại cho phép nhận định rằng dù ở thời nào và ở nước nào cũng vậy, yêu cầu tối hậu duy nhất mà cũng giản dị  của quần chúng nhân dân là được sống trong no đủ nhờ yên ổn làm ăn. Vì thế mà nói chung, dân chúng không mấy quan tâm đến chính trị. Đối với họ, sống dưới thể chế nhà nước nào cũng được, miễn cái yêu cầu sát sườn có tính sống còn ấy được đáp ứng, đảm bảo. Khi cái yêu cầu sát sườn có tính sống còn và đồng thời cũng chính là quyền sống cơ bản ấy đã không được thỏa mãn mà còn bị ngăn trở, bị xâm phạm ngày một nặng nề (nghĩa là bị áp bức bóc lột ngày một thậm tệ), uy hiếp rõ rệt đến khả năng sống còn thì cái khối nền tảng, đại dương quần chúng ấy mới ầm ì dậy sóng, mới phản ứng theo trình tự từ ôn hòa (khiếu kiện, nhờ pháp luật giải quyết) đến quyết liệt (chống người thi hành công vụ, chống chính quyền), từ tự phát lẻ tẻ đến tự giác rộng khắp. Đó là quá trình vạn bất đắc dĩ phải tự thân đứng lên hành động của người dân "thấp cổ bé họng" nhằm bảo vệ quyền sống cơ bản, phúc lợi được hưởng từ thành quả lao động chính đáng của mình (nên cũng chứa đựng ở mức độ nhất định tính "có lý"), thế thôi chứ hành động tự thân đó chẳng hề có một mục đích chính trị nào (như nhiều người lầm tưởng hoặc cố ý gán ghép, thổi phồng). Sự hình thành và phát triển cái quá trình bất mãn, đi đòi được đảm bảo quyền sống cơ bản đó đồng thời cũng là quá trình tự phát xuất hiện những con người, những bộ phận thuộc tầng lớp nhân sĩ trí thức có trình độ lý luận nhất định, trên tinh thần yêu thương đồng loại, đứng về phía những người dân "bị xử ép" công khai phản biện, trưng ra những yêu sách (dù có thể hợp lý hay chưa hợp lý, dù thậm chí là sai lầm) nhằm giải quyết bất công, làm hình thành một lực lượng phản biện với nhà nước. Đối với một nhà nước không những không giải quyết rốt ráo và hợp tình cuộc đi đòi quyền sống cơ bản đó theo hướng ưu tiên vì dân, mà còn bảo thủ, thực thi pháp luật thiếu uyển chuyển, thiếu nhân đạo (nên nhớ: luật pháp bao giờ cũng siêu hình và luôn bị kẻ xấu lợi dụng tính siêu hình ấy, và ở đời, mấy ai được như Bao Công???), tệ hơn nữa, lại chọn cách sử dụng bạo lực, lấy "phạt vạ", cưỡng chế, trấn áp làm phương thức giải quyết chủ yếu và thường xuyên, thì sớm muộn gì nó cũng sẽ làm hình thành nên một đội ngũ tập trung những con người ưu tú của quần chúng gồm phần lớn là nhân sĩ trí thức tình nguyện xả thân, dần  đồng thuận về tư tưởng, thống nhất về mục đích hành động, đóng vai trò tiên phong làm cách mạng, dẫn dắt quần chúng lên đường tranh đấu với nó (đảng cộng sản đã từng thoát thai ra như thế!). Lúc đó cũng chính là lúc phong trào đấu tranh đòi quyền sống cơ bản có tính thuần túy dân sự bắt đầu chuyển biến lên  thành cuộc đấu tranh chính trị, đòi "cải tổ" và ở mức cao hơn là đòi "giải tán" nhà nước cũ, xây dựng nhà nước mới "biết điều" hơn (hơn nữa,ở mức đòi hỏi cao nhất của ý chí về chính trị thì nhà nước mới cũng có thể được thành lập theo một thiết chế mới, dù chưa chắc hoàn hảo hơn, hay hơn thiết chế cũ!). Hoạt cảnh phổ biến dễ nảy sinh ra từ mối quan hệ giữa thống trị và bị trị, đồng thời cũng là bài học chung nhất, cơ bản nhất đối với mọi nhà nước trong công cuộc "trị vì" sao cho quốc thái dân an, rút ra từ lịch sử nhân loại, có lẽ là như vậy. (Và nếu đúng như vậy thì phải quan niệm lại vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa cộng sản!)
        Nhận định một cách khách quan nhất thì nhà nước nào, theo thiết chế nào, dù "thích" hay không "thích", trực tiếp hay gián tiếp, tự giác hay không tự giác, mức độ nhiều hay ít, nếu muốn duy trì sự tồn tại của bản thân nó, thì trong hoạt động cai trị của nó phải "chừa đường sống" cho quần chúng cần lao. Nghĩa là một nhà nước dù có bạc bẽo đến mấy, ác độc đến mấy, tham tàn đến mấy thì cũng hàm chứa một cách tất yếu trong mục tiêu cai trị của nó tính "vì dân". Bởi vì quần chúng cần lao là nguồn gốc phát sinh ra nhà nước, là bệ đỡ cho nhà nước tồn tại và đồng thời là môi trường dung dưỡng nhà nước. (Một nhà nước, nếu muốn, có thể làm tiêu vong nhân dân của một nước khác nhưng dứt khoát không dám, mà cũng không thể trực tiếp ra tay làm tiêu vong nhân dân của nó!). Cho nên tiêu chí cơ bản, chính yếu và đích đáng để xét một nhà nước là tốt hay xấu, là thiện hay ác đối với nhân dân - lực lượng nền tảng cưu mang nó đồng thời cũng là đối tượng cai trị của nó - không phải là ở chỗ nó có hình thức thiết chế nào mà là tính vì dân của nó được thể hiện ra như thế nào, không phải là ở chỗ nó mang nhãn mác "tư bản" hay "cộng sản" có hoạt động vì dân hay không,  mà ở chỗ mức độ và hiệu quả hoạt động "vì dân" của nó đạt đến mức độ nào trong thực tế. Nói thêm, một nhà nước chủ trương vì dân nhưng trong thực tiễn hoạt động vì dân không hiệu quả thì vẫn chưa thể đánh giá là "nhà nước vì dân" được!
        Xã hội Xã Hội Chủ Nghĩa là hình mẫu xã hội được hình dung bởi các nhà lý luận mác-xít hàng đầu. Trong xã hội ấy, với sự điều hành của nhà nước cộng sản (hay còn gọi là nhà nước Xã Hội Chủ Nghĩa và hiển nhiên nhà nước này như tiêu chí ban đầu trên lý thuyết cách mạng của nó, chỉ có mục đích và hành động duy nhất, trực tiếp vì dân, cũng như toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân) sẽ không còn hiện tượng người áp bức bóc lột người và hơn nữa, ai cũng được "làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu", được sống hồn nhiên trong một cộng đồng đầy lòng nhân ái (các nhà mác-xít có phân biệt hai hình thức là xã hội xã hội chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa, nhưng thực ra, chúng chỉ khác nhau về trình độ sống chứ bản chất thì như nhau!). Hình mẫu đó không phải là kết quả của sự mộng mơ có tính viển vông vô lối và tùy tiện mà là kết quả suy tư logic của những bộ não tư duy triết học thuộc hàng kiệt xuất của nhân loại, nghĩa là hình mẫu đó được "bảo hộ" bởi một hệ thống lý luận vững chắc đến độ ngày nay khó có ai có thể trên phương diện lý thuyết và xét về mặt triết học, phản bác được một cách "gãy gọn", rành mạch và có hệ thống. Thế thì tại sao cái hình mẫu quả thực là tươi đẹp và "rất sát" với thực tiễn nói trên (sát sườn hơn Đạo Phật nhiều!) lại không trở thành hiện thực được sau ngót 50 năm ra sức xây đắp của Liên-xô, nước đầu đàn có tiềm lực kinh tế mạnh nhất trong phe xã hội chủ nghĩa? Rất nhiều nhà tư tưởng đã đề cập đến vấn đề này, đã đưa ra nhiều luận giải, đúng có, sai có, nhưng mới chỉ "bó hẹp" trong những phạm vi, mức độ, lĩnh vực nhất định và có lẽ cũng mới chỉ xem xét ở những tầng nấc chưa đủ sâu, còn thuộc phần (tạm gọi là) "bề nổi". Chúng ta cho rằng dứt khoát phải có một nguyên nhân, đóng vai trò là nguyên nhân của mọi  nguyên nhân, như kiểu "gót chân asin", dẫn đến việc trong thời đại ngày nay, như đã thấy, xã hội xã hội chủ nghĩa chỉ mới tồn tại dưới dạng hình mẫu lý tưởng chứ chưa thể triển khai thành hiện thực được (có lẽ phải đợi đến chí ít là ba thế kỷ nữa, tức là hiện thực chủ nghĩa xã hội chỉ có thể xuất hiện, trong trường hợp sớm nhất, đâu đó ở thế kỷ XXIV!).
       Nghiên cứu để thấu tỏ cái nguyên nhân cốt lõi ấy là cả một đề tài rộng lớn, tốn nhiều thời gian và cũng đòi hỏi nhiều công phu, vì phải bắt đầu lại ngay từ những khái niệm cơ bản nhất, những quan niệm nền tảng nhất, đóng vai trò là những viên gạch đầu tiên xây dựng nên hệ thống lý luận của chủ nghĩa cộng sản. Vì khả năng có giới hạn nên chúng ta cũng không có tham vọng thực hiện công việc đầy khó khăn đó mà xin nhường lại cho các nhà tư tưởng, các nhà triết học trẻ thế hệ sau! Tuy nhiên, người viết cũng mạo muội nêu ra đây vài ý kiến sơ lược nhằm (may ra) góp ích gọi là chút ít gì đó cho việc định hướng nghiên cứu, nhưng quan trọng hơn là trưng ra một phản biện xây dựng nữa, của một "thất phu hữu trách" nữa, cho Tổ Quốc yêu thương, cho Nhà nước Việt Nam hiện hành, một nhà nước, nói theo lời Nguyễn Trãi: "Tuấn kiệt như sao buổi sớm, nhân tài như lá mùa thu"!
                                           ***

Thêm một vài ý nghĩ rời rạc, "không giống ai":
         Một trong những biểu hiện phổ biến nhất, được rút ra từ vận động vật chất trong thực tại khách quan là tính tương tự. Ví dụ: hầu như tất cả các hệ thống vĩ mô tồn tại độc lập tương đối trong Vũ Trụ đều có dạng dẹt, vận động nội tại theo phương thức xoáy, nghĩa là có một thực thể "đầu đàn" đóng vai trò làm trung tâm cho các thực thể còn lại (gọi là những hành tinh) quay quanh nó (trên (xấp xỉ!) cùng một mặt phẳng quĩ đạo). Người ta gọi đó là những hệ hành tinh mà Hệ Mặt Trời là một trong số đó. Trong thế giới vô cùng nhỏ cũng tương tự như vậy. Điển hình là các nguyên tử: nội tại của chúng gồm hạt nhân (hợp thành từ các nuclêon) đóng vai trò trung tâm và "quay" quanh nó là các điện tử (đóng vai trò là những hành tinh). Dù sự "quay" của các điện tử quanh hạt nhân, do ở tầng không gian vi mô bị hạn chế về số lượng phương chiều và hơn nữa, tính ơclít đã bị vi phạm (đây là ý riêng, suy đoán rút ra từ "báo cáo" của các kết quả thí nghiệm vật lý vi mô, chứ vật lý hiện đại chưa chính thức khẳng định!) nên  không còn thể hiện xác định tính quĩ đạo và đồng thời cũng không thể hiện sự tồn tại mặt phẳng quĩ đạo chung, thì trong một khuôn khổ qui ước mở rộng nhất định, vẫn có thể gọi nguyên tử nào đó là một hệ hành tinh (đúng nghĩa)...Xét về tính lý tưởng thì chủ nghĩa cộng sản cũng tương tự con lắc toán học (đừng vội phì cười vì trong hình học tôpô sự so sánh tương tự còn khập khiễng hơn nhiều nhưng...đố ai cười được!). Nếu lực ma sát đã là nguyên nhân cơ bản "cấm" con lắc toán học xuất hiện trong hiện thực, thì "lực cản" nào đã cấm hình mẫu xã hội cộng sản trở thành hiện thực? Có thể tạo ra trong hiện thực một con lắc (con lắc vật lý) hoạt động điều hòa như con lắc toán học bằng cách bù lực hợp lý cho nó. Vậy, cần phải bổ sung một cách hợp lý cái gì để một xã hội có cấu trúc như hình mẫu xã hội theo lý tưởng cộng sản hoạt động được suông sẻ và lâu bền trong hiện thực?
          Nhớ lại, Liên bang cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô Viết đang là một quốc gia hùng cường (thực sự) nhất nhì thế giới thì bỗng "đùng một cái" tan rã nhanh chóng và dễ dàng đến nỗi không một ai, kể cả những nhà phân tích tình hình sắc sảo nhất của đương thời đó có thể ngờ được. Nhưng rõ ràng đó không thể là biến cố thuần túy ngẫu nhiên, mà là kết quả của cả một quá trình tích tụ ngày càng lớn những mâu thuẫn không dung hòa được và cũng không khắc phục được giữa ý chí tạo dựng xã hội xã hội chủ nghĩa trong hiện thực và những vấn nạn nảy sinh, phát tác dai dẳng trong thực tại đời sống xã hội như một căn bệnh không có thuốc đặc trị. Từ ngày Nhà nước (cộng sản) Liên Xô tiêu vong cho tới nay, đã có nhiều công trình lý luận nghiệm túc mổ xẻ, nghiên cứu tỉ mỉ nhằm tìm ra câu trả lời xác đáng nhất vì sao sự sụp đổ đó lại có thể xảy ra và xảy ra theo cái cách "oái oăm" như thế. Trên báo Nhân Dân (điện tử) có bài viết mang tựa đề: "Những bài học từ sự sụp đổ của Đảng cộng sản Liên Xô". Có lẽ đó là "bản tổng kết" có hệ thống, đầy đủ và súc tích nhất của các nhà mácxít Việt Nam về những nguyên nhân dẫn đến sự tiêu vong nhà nước cộng sản đầu tiên trên thế giới. Cụ thể, bài viết đó chỉ ra 4 nguyên nhân cơ bản (tôi tóm lược lại) sau đây:
               *Vi phạm nguyên tắc cơ bản là "Tập trung dân chủ" trong xây dựng đảng và hoạt động của đảng.
               *Phạm sai lầm trong nhận định chính trị-kinh tế dẫn đến sai lầm trong hoạch định đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở từng thời kỳ nhất định theo như học thuyết Mác-Lê chỉ ra.
               *Sự tồn tại tầng lớp cộng sản chóp bu được hưởng đặc quyền đặc lợi, nạn tham nhũng, tha hóa đạo đức trong nội bộ đảng, trong bộ máy công quyền làm giảm mạnh lòng tin của nhân dân vào chế độ. 
               *Sự công phá của các thế lực thù địch từ bên ngoài bằng con đường gọi là "diễn biến hòa bình".
          Quan sát từ góc độ khác, bốn cái gọi là nguyên nhân nói trên cũng chính là những tồn tại có tác động trực tiếp làm lung lạc tinh thần của đại chúng Liên-Xô,  làm cho đại chúng Liên-Xô dần trở nên ngày càng chán nản, bất mãn, mất niềm tin vào chế độ trước một thực trạng xã hội đầy ảm đạm đồng thời chứa chấp nhiều khiên cưỡng, khắc kỷ, trái khoáy, bộc lộ ra những hiện tượng phi lý, bất công đến mức độ thành vấn nạn xã hội.Từ đó tất yếu phải nảy sinh trong lòng xã hội Liên-Xô mà chủ yếu là trong tầng lớp nhân sĩ, trí thức, kể cả trong guồng máy lãnh đạo cấp cao, sự nung nấu chín muồi dần về một cuộc cải cách toàn diện xã hội. Mầm mống tạo nên tiền đề của sự nung nấu ấy nếu không xuất hiện từ thời Lênin thì cũng vào thời Xtalin, trong giai đoạn trước chiến tranh thế giới thứ 2. (Cuộc chiến tranh vệ quốc đã xóa nhòa tất cả những mầm mống đã bắt đầu phát lộ ấy!...). Nhưng câu hỏi đặt ra là cải cách toàn diện xã hội theo hướng nào và như thế nào? Quá trình mấy chục năm xây dựng một xã hội theo hình mẫu của chủ nghĩa cộng sản và thực trạng đời sống vật chất- tinh thần xã hội mà công cuộc xây dựng đó đạt được, đã phô bày ra mâu thuẫn lớn, vô hình dung, làm cho lý tưởng cộng sản dần trở thành như một thứ giáo điều mà bộ phận lãnh đạo chóp bu của Đảng cộng sản Liên-Xô hợp thành như một giáo hội độc đoán, chuyên quyền, được điều hành bởi những kẻ đạo đức giả, luôn hô hào, rao giảng những tín điều của thứ giáo điều ấy cho đại chúng sống đạm bạc,  trong khi vẫn giành cho mình những đặc quyền, đặc lợi, cuộc sống trong nhung lụa, vinh hoa phú quí. Chính điều đó đã làm cho đại chúng Liên-Xô không những chán ghét Đảng cộng sản Liên-Xô mà còn mất hết niềm tin vào chủ nghĩa xã hội, đồng thời lại thấy ở xã hội tư bản phương Tây những điều mà họ mơ ước. Trong bài viết trên báo Nhân Dân (điện tử) đã nêu ở trên, có đề cập đến một sự kiện, đó là trước khi Đảng cộng sản Liên-Xô (chính thức!) tan rã, đã có một cuộc điều tra dân ý với câu hỏi: "Đảng cộng sản Liên-Xô đại diện cho ai?", và kết quả tổng hợp câu trả lời là:
                                       -Đại diện cho công nhân : 4%
                                       -Đại diện cho nhân dân Liên-Xô : 7%
                                       -Đại diện cho toàn thể đảng viên : 14%
                                       -Đại diện cho quan chức, cán bộ và nhân viên nhà nước : 75%
      Như vậy, có thể thấy chính quá trình vận động trong thực tế mấy chục năm của xã hội Liên-Xô đã làm hình thành nên trong tinh thần của đại chúng Liên-Xô nỗi bức xúc ngày càng gay gắt đòi hỏi phải có một cuộc cải tổ xã hội (hoặc có thể dùng thuật ngữ "đổi mới") sâu rộng có tính căn cơ và tất nhiên là theo xu hướng khắc phục tình trạng bao biện, chủ quan duy ý chí, độc đoán, lộng quyền trong sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Liên-Xô, cũng như tình trạng quan liêu, giáo điều, khiên cưỡng, bảo thủ, cửa quyền trong sự điều hành của Nhà nước Liên-Xô. Đến đây, có thể rút ra nhận định rằng, sự xuất hiện M. Goorbachốp và B. Enxin, hai cá nhân chủ yếu và nổi bật trong việc trực tiếp làm tan rã Đảng cộng sản Liên-Xô cũng như làm sụp đổ nhanh chóng nhà nước Liên-Xô, vừa là một ngẫu nhiên "xui xẻo", vừa là một tất nhiên về mặt tư tưởng, được hun đúc nên từ chính những suy tư, trăn trở trong suốt gần nửa thế kỷ  thực hiện công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội (không thành công) của Đảng cộng sản và Nhà nước Liên-Xô. 
Nói cách khác, cải cách theo hướng "cởi mở" là yêu cầu bức thiết và cũng (sẽ) là "bước đi" mang tính tất yếu trong sự vận động của xã hội Liên-Xô (và cả hệ thống xã hội chủ nghĩa nói chung!). M. Goorbachốp là người thức thời nhận biết được yêu cầu đó và cũng là người được đại chúng Liên-Xô kỳ vọng, giao cho trọng trách trực tiếp thực hiện yêu cầu đó trong thực tiễn. Tuy nhiên, do bị hạn chế bởi nhận thức có tính thời đại (chưa thấy hoặc thấy chưa xáng đáng trong nhận định những sai lầm cả khách quan lẫn chủ quan của học thuyết Mác-Lênin) và có thể là cả sự lũng đoạn của bầu không khí chính trị đã bị "ngộ độc" ở Liên-Xô, mà Goorbachốp đã không có đủ lý trí để thấu tỏ được bài học quí báu của lịch sử, đã không tỉnh táo để cảm nhận được cái đẹp bản chất của chủ nghĩa xã hội và cái xấu bản chất của chủ nghĩa tư bản, đã không hiểu rằng những hiện tượng tiêu cực, suy đồi đạo đức là có tính phổ biến của xã hội loài người chứ không phải là riêng có của xã hội theo thiết chế nhà nước cộng sản, do đó đã "buông lơi" chuyên chính (thứ mà nhà nước theo thiết chế nào cũng phải chú trọng duy trì để bảo vệ chế độ), "thả rông" tự do, dân chủ quá trớn (những thứ mà nhà nước theo thiết chế nào cũng phải khống chế chúng trong một phạm vi, mức độ hạn định bằng chuyên chính, nếu muốn xã hội ổn định, không xảy ra hỗn loạn, và hơn nữa, có được tự do, dân chủ đúng nghĩa, đích thực!), cho nên đã thực thi "cởi mở" một cách vô lối, "tuốt tuồn tuột" đến độ...vô chính phủ, làm tan rã nhanh chóng Liên-Xô, tạo điều kiện thuận lợi có một không hai cho toàn xã hội Liên-Xô trở lại sống dưới chế độ tư bản chủ nghĩa - cái chế độ (cho đến nay về cơ bản vẫn vậy)  mặc nhiên ưu tiên đãi ngộ, đảm bảo quyền lợi cho cá nhân (nhân quyền), nhất là đối với những chủ tư bản mạnh, hơn hẳn sự đãi ngộ, đảm bảo quyền lợi cho cộng đồng (dân quyền), nhất là đối với những kẻ nghèo hèn, nghĩa là "hô hào" bình đẳng, bác ái nhưng trong thực thi vẫn dựa trên cơ sở...thiếu bình đẳng, thiếu bác ái (nên cũng tạo ra tâm lý xã hội tôn thờ đồng tiền thái quá, coi đồng tiền là chìa khóa vạn năng (mà nhận thức không nghiền ngẫm kỹ thì thấy đúng thế thật!) giải quyết mọi mưu cầu, mọi vấn đề mắc mứu trong xã hội, từ đó kích thích lòng tham-sân-si của con người lên cao độ (nhiều khi đến mù quáng) và như thế, cũng coi như dung túng tiềm tàng nhiều mầm mống bất công, nhẫn tâm luôn "nảy lộc vươn chồi " ra mọi lúc, mọi nơi), đó là cái chế độ mà nhân dân Liên-Xô đã từng trải nghiệm nên đã tin theo Đảng cộng sản Liên-Xô, tốn biết bao công sức, máu xương chối bỏ nó và xây dựng xã hội theo chế độ cộng sản (có bản chất hoạt động lý thuyết là chủ đích và trực tiếp vì quyền lợi của toàn dân (dân quyền) rồi thông qua đó mà (gián tiếp) cũng vì nhân quyền). Qua đó mà thấy, Goorbachốp đã không những không thỏa mãn được kỳ vọng của đại chúng Liên-Xô để có cơ may là "nhà cải tổ vĩ đại" như ông ta từng "tự sướng", mà còn trở thành tội đồ phá tan mọi thành quả tốt đẹp đã đạt được trong thực tế (dù còn nhiều hạn chế phải khắc phục!) của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội (dù chưa thành). Nếu giả sử rằng, Goorbachốp là Lênin, hoặc thấu tỏ được cái ẩn chứa sâu xa có ý nghĩa như một nguyên tắc cơ bản (có tên gọi là "Chủ nghĩa tư bản nhà nước") trong chủ trương "Chính sách kinh tế mới" (gọi tắt là "NEP") của Lênin kiệt xuất (vì chỉ có kiệt xuất mới đủ trí lực hiểu được ý kiến còn khái lược trước đó của thiện tài (của Mác) và đưa ra chủ trương ấy, trong thời buổi bấy giờ!) để lấy đó làm cơ sở vận dụng, đề ra nội dung cải tổ trong tình hình mới, thì sự thể chắc là sẽ rất khác hiện nay, theo hướng tốt đẹp hơn nhiều. Nhưng...than ôi!
            Sau đây là nhận định trong "Lịch sử thế giới hiện đại" (NXB Giáo Dục-2006, Nguyễn An Thái chủ biên):
     "Với những biện pháp của Chính sách kinh tế mới, Lênin đã chỉ ra sự cần thiết phải thay đổi về căn bản các nhận thức, quan niệm trước đây về chủ nghĩa xã hội. Đó là sự chuyển hướng chiến lược từ quá độ trực tiếp sang quá độ gián tiếp, từ từ, từng bước một, kiên trì tìm tòi những bước đi thích hợp, vừa tầm đi tới chủ nghĩa xã hội. Lênin đòi hỏi phải áp dụng những biện pháp cần thiết là thỏa hiệp với nông dân, tự do buôn bán, mở rộng thị trường, sử dụng quan hệ hàng hóa-tiền tệ...vì lợi ích của chủ nghĩa xã hội. Phát triển sức sản xuất, chuyển từ ảo tưởng "kế hoạch hóa tập trung, phân phối trực tiếp bằng hiện vật" sang thực thi kinh tế hàng hóa-thị trường, phát triển dân chủ và củng cố vai trò chính trị của Đảng...". (Những chữ in đậm là tôi nhấn mạnh-nv). Ngày nay nhìn lại, chính Lênin là người đầu tiên nêu lên một cách cụ thể ý tưởng "xây dựng và phát triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa". Tiếc rằng Lênin mất quá sớm, và Xtalin đã không thấm nhuần được tư tưởng đúng đắn đó của ông.
            Như đã nói, bốn nguyên nhân cơ bản nêu trên (có lẽ gọi là bốn duyên cớ trực tiếp nghe hợp lý hơn?) cũng là bốn tồn tại hủy hoại tinh thần xã hội dẫn đến sự sụp đổ của nhà nước Liên-Xô. Theo nguyên lý nhân quả thì bốn tồn tại đó phải có nguyên nhân tạo ra chúng. Trong bốn tồn tại đó, tồn tại thứ tư (tác động "diễn biến hòa bình") có nguyên nhân ngoại lai và thứ yếu (vì đối với một "cơ thể xã hội" lành mạnh thì tác động đó không thể gây nguy hại gì), nên không cần chú ý đến. Ba tồn tại còn lại rõ ràng có nguyên nhân phát sinh ngay trong nội tại xã hội mà chủ yếu là trong nội bộ ban lãnh đạo Đảng cộng sản và Nhà nước Liên-Xô, Dễ thấy ngay, tồn tại thứ nhất do ý chí cá nhân độc chiếm độc tôn quyền lực lãnh đạo gây ra. Tồn tại thứ hai một phần do tồn tại thứ nhất, phần lớn hơn do chưa nhận thức được luận điểm đóng vai trò là một nguyên lý cơ bản về xây dựng chủ nghĩa xã hội nêu trên của Lênin. Tồn tại thứ ba do ý chí củng cố, tự vệ quyền lực cá nhân, đồng thời với nạn tham quyền cố vị, thèm khát danh lợi gây ra. Như vậy, chung qui lại, cả ba tồn tại, xét cho cùng, đều do ý chí chủ quan của con người, hay nói chính xác hơn, do lý trí bị đầu độc đến mê quáng bởi bản tính tham-sân-si (có nguồn gốc từ tự nhiên, "thường trú" một cách (gần như!) cố hữu trong tâm hồn con người) gây ra.
            Nói thêm và ngắn gọn về tham-sân-si. Bản năng sinh tồn được nhào nặn trong quá trình thịnh-suy xã hội làm xuất hiện tính tham gần như tự phát trong tư duy. Tính tham đã biểu hiện với mức độ mờ-tỏ nào đó ở các giống loài sinh vật chưa có tư duy, và rõ nhất là ở những động vật có thần kinh bậc cao. Ở loài động vật có tư duy trừu tượng (loài người), sự hồi ức và suy diễn làm cho tính tham trở nên đặc biệt sâu sắc và (tạm gọi là) cuồng nhiệt, "đeo đẳng" dai dẳng trong tâm hồn con người và luôn hối thúc "cái tôi" thỏa mãn nó. Có thể dùng thuật ngữ "thèm khát danh lợi" để nói về cái tham đặc thù, được hình thành nên từ sự "kết hợp" giữa bản năng với ý thức, có gốc tồn tại sâu trong tiềm thức và do đó, chỉ ở loài người mới có. Vì có cái tham và ý chí thỏa mãn cái tham ấy mà cũng "dễ bề" xuất hiện cái "sân" (ích kỷ, ghen ghét, ganh đua, tranh dành...) ở mỗi con người, và mọi bất công, đau thương, khốn khổ do con người gây ra cho con người trong xã hội ( nghĩa là trong cả tình cảm máu mủ ruột thịt, trong cả tình yêu lứa đôi) đều từ đó mà ra cả. Vì tham-sân "dính líu" đến bản năng (có tính tự phát, lý trí mù quáng) nên không thể tiệt trừ tuyệt đối được, nhưng vì "dính líu" đến cả ý thức (có tính tự giác, tỏ tường) nên có thể tiêu trừ tương đối được. Tuy nhiên, muốn tiêu trừ tham-sân hoặc chế ngự tham-sân ở mức độ (nào đó được qui ước là) hợp lý thì ý thức phải thực sự thông tuệ, thực sự thấu suốt về nhân tình thế thái (cực khó để đạt được như thế đấy nhé!!!), mà trong Đạo Phật trạng thái ý thức ấy được gọi là "giác ngộ", hơn nữa là "đại ngộ". Ý thức khó  đạt đến chí lý, chí tình được là vì sự ngăn cản, "quậy phá" (ngay từ đầu!) của hai yếu tố chính yếu: trình độ nhận thức về tự nhiên-xã hội-nhân sinh và chính cái tham cố hữu trong lòng người do lịch sử vận động dài lâu trong xã hội hun đúc nên. Một ý thức chưa thực sự giác ngộ thì có nghĩa vẫn còn mê muội, lầm lạc, hay nói như Đạo Phật là còn bị "si". Vậy thì cái si cũng là vốn có ở mỗi con người nhưng nó ở trạng thái "yếu" hay "mạnh" lại là do tình thế cuộc sống và tinh thần xã hội chi phối. Chẳng hạn, trong xã hội có năng lực chế tác to lớn, tự do sản xuất hàng hóa (xã hội tư bản), tất yếu dẫn đến cạnh tranh thị trường với mọi thủ đoạn có thể để tiêu thụ mà phương thức cơ bản nhất, chính yếu nhất là kích thích tiêu dùng, nghĩa là khuyến dụ ý thức đã si càng...si hơn nữa (!) bằng quảng cáo (quảng cáo tràn lan rõ ràng là lợi bất cập hại!). Ý thức như thế nào thì ý chí (chủ đích tự giác của trí não về chân lý, về đúng-sai, muốn đạt tới) như thế. Nếu quan niệm lý trí là tư duy đã đạt đến thuần túy khách quan (nghĩa là chí lý) thì ý chí là lý trí vẫn còn bị lũng đoạn bởi nhận thức còn hạn chế bởi cảm tính chủ quan, "vướng víu" bản năng đầy bảo thủ của con người. Mức độ si của ý thức qui định mức độ tham-sân và khi ý thức lạc đến si cuồng thì tham-sân sẽ bùng phát vô lối đến cao độ, thậm chí đến...vô độ lượng. Lúc đó, ý chí sẵn sàng bất chấp luân thường đạo lý, "đẻ" ra mọi ngụy biện, sẵn sàngbiện minh và thực hiện mọi thủ đoạn đê hèn cũng như độc ác nhất. Và một khi ý chí ấy ở địa vị lãnh đạo (nghĩa là nắm được quyền lực nhất định) thì...thôi rồi!!! Như vậy, qui kết lại, con người gây ra khốn khổ, đau thương cho đồng loại trong xã hội là tại tham-sân-si thái quá với vai trò "đầu tàu" là "đồng chí" si - sự mê muội, lầm lạc, và sự mê lầm này rốt cuộc, theo Đức Phật là do vô minh (không biết, chưa "đốn ngộ"). 
            Theo truyền thuyết, có lần một người hỏi Đức Phật Thích Ca về nguồn gốc của vô minh, ngài đã im lặng, không trả lời. Lúc đó ngài biết nhưng không muốn trả lời hay thực ra là ngài cũng không biết? Nghi vấn đó còn tồn tại đến ngày nay. Không nên hiểu khái niệm vô minh của Đức Phật chỉ theo nghĩa hẹp như là sự ngu dốt, thiển cận thông thường mà phải hiểu như là sự hạn chế về khả năng nhận thức nói chung, có tính phổ biến của con người về tự nhiên-xã hội-nhân sinh, và khả năng nhận thức này là có tính thời đại, tùy thuộc vào mức độ tri thức của xã hội ở từng thời đại. Phải chăng vì chưa thấu tỏ được nguồn gốc của sự vô minh về cõi nhân sinh, về bản chất chung của con người cho nên lý tưởng của Phật Giáo về một xã hội không còn tham- sân- si, nghĩa là mọi khổ đau cũng không còn, dù có vẻ rất đẹp đẽ và giàu tình nhân ái, vẫn chỉ là ảo tưởng hão huyền? Và tương tự, cũng vì lý do đó mà dù vạch ra con đường chủ động hơn, sát thực hơn thì lý tưởng cộng sản cùng với hình mẫu xã hội xã hội chủ nghĩa của nó cũng chưa thể thành hiện thực được trong thời đại ngày nay, thậm chí là trong một tương lai không gần (không có nghĩa là xa!)? Nhưng không phải vì thế mà chối bỏ lý tưởng cộng sản trong việc định hướng xây dựng và phát triển xã hội!!!
             Tiền đề lý luận của chủ nghĩa cộng sản là triết học duy vật lịch sử và học thuyết về giá trị thặng dư của Mác. Nếu cho rằng có một nguyên nhân sâu xa duy nhất- nguyên nhân tối hậu của mọi nguyên nhân- làm cho hình mẫu xã hội cộng sản còn lâu nữa mới có cơ may trở thành hiện thực được, và muốn phát hiện ra nó, thì khả năng duy nhất là phải xem xét kỹ lại hai luận thuyết đó, mà bước đầu tiên tất nhiên là phải xác định lại tính thỏa đáng (mức độ đúng-sai) của những khái niệm, quan niệm nền tảng như: nhà nước, giai cấp, bóc lột thặng dư sức lao động...Dưới đây là vài suy lý phản biện (nêu ra làm thí dụ để tham khảo chứ chưa chắc đã đúng!).
               Một trong những nguyên lý cơ bản nhất của tự nhiên là nguyên lý nhân-quả. Nội dung của nguyên lý này nôm na là, không gì có thể xuất hiện ra được từ sự không có gì (!), nghĩa là cái gì đó sinh ra sau bao giờ cũng là thành tạo thông qua quá trình vận động, tương tác, chuyển hóa, đúc kết của những cái có liên quan và đã được sinh ra trước đó. Xét về mặt vật chất và vận động thì "máu thịt" và "sự sống" của cái mới chỉ có thể là sự "tích hợp", "cấu thành" nào đó từ "máu thịt" và "sự sống" của những cái cũ. Chính vì thế mà quá trình nhân-quả cũng đồng thời là quá trình mang tính kế thừa-tân tạo (gọi chung là sáng tạo cho gọn!): kế thừa để sáng tạo và sáng tạo trên cơ sở kế thừa. Quá trình nhân-quả là quá trình tự nhiên (dù có nhân tạo đến mấy thì xét cho cùng tận vẫn là thiên tạo!!!), xét ở góc độ khách quan nhất là không phát triển mà cũng không suy tàn. Chỉ khi qua tư duy nhận thức và chủ quan qui ước dựa trên một cơ sở nhất định nào đó mới có thể đánh giá một quá trình nhân-quả nào đó là đúng hay sai, tốt hay xấu, phát triển hay suy tàn (mà thực ra cũng tương đối thôi chứ không thể dứt khoát được!). Suy ra từ luận đề đó sẽ có nhận định: lịch sử xã hội loài người là một quá trình luôn đổi mới trên cơ sở kế thừa, và sự đổi mới ấy cho đến nay là luôn trong xu thế phát triển nếu xét về trình độ nhận thức, năng lực chế tác cũng như mức độ tinh vi của những thành quả nhân tạo ( còn nếu xét về mặt tiến hóa sinh học hay về mức độ đày đọa, giết chóc lẫn nhau trong nội bộ loài...thì chắc gì đã phát triển(?), thậm chí nhiều khi chỉ có thể nói không suy tàn thì cũng...suy đồi!). Mác là người trên cơ sở kế thừa và sáng tạo quan niệm về tự nhiên của Hêghen, đã đề xướng ra ba qui luật cơ bản của vận động vật chất (qui luật lượng đổi thì chất đổi và ngược lại, qui luật mâu thuẫn, qui luật phủ định của phủ định) và cho rằng mọi quá trình nhân- quả đều vận động tuân theo ba qui luật này. Trong ba qui luật đó, qui luật mâu thuẫn (hay còn gọi là qui luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập) đóng vai trò "xương sống", nòng cốt. Theo Hêghen, mâu thuẫn là một tồn tại vốn dĩ (sẵn có "từ trước"), đóng vai trò là nguồn gốc bên trong của sự vận động và phát triển. Ông khẳng định: "Mâu thuẫn là cái làm cho thế giới vận động", "là nguyên tắc của mọi sự tự thân vận động", hơn nữa, "một cái gì đó là có sự sống, chỉ bởi vì và chỉ trong chừng mực cái đó chứa mâu thuẫn trong bản thân nó, đồng thời, nó là một lực lượng có khả năng can thiệp vào mâu thuẫn đó trong bản thân nó, và có khả năng chịu đựng cũng như vượt qua mâu thuẫn đó". Nếu thừa nhận rằng (và không thể không thừa nhận được!), mọi quá trình vận động (được thấy!) có khởi đầu và kết thúc đều phải tuân theo nguyên lý nhân-quả, và ngược lại, sự qui định của nguyên lý nhân-quả làm cho mọi tồn tại (được thấy!) xuất hiện (trong Vũ Trụ) trước sau gì cũng phải tiêu vong, thì cũng phải thừa nhận rằng, quan niệm nêu trên của Hêghen là chưa thỏa đáng, thậm chí là hoàn toàn sai lầm, vì đã vi phạm nguyên lý nhân- quả. Nếu quả thực đó là sai lầm thì khả năng chủ yếu là vì Hêghen đã không vượt qua được phạm vi nhận thức khoa học còn hạn chế của thời đại mình, và đã rút ra kết luận từ sự quan sát, suy diễn mang nặng cảm tính trực giác, kinh nghiệm chủ quan, dẫn đến quan niệm siêu hình, ẩn chứa mâu thuẫn logic. Cụ thể ở đây, Hêghen đã ngộ nhận, "đề cao" vận động tự thân của sự vật đến mức tuyệt đối. Thực ra, ngoại trừ bản thân Vũ Trụ, còn lại không thể có bất cứ một sự vật nào có thể vận động tự thân một cách tuyệt đối được. Bởi vì nếu có tự thân vận động tuyệt đối thì cũng phải có tự thân xuất hiện tuyệt đối và tự thân mất đi tuyệt đối, và như thế không những là vi phạm nguyên lý nhân-quả mà còn "dẫn đến" triệt tiêu tuyệt đối mâu thuẫn - cái đóng vai trò là tiền đề làm nên sự (tự thân) vận động. Khi nói  một vật nào đó tự thân vận động thì nên hiểu rằng sự tự thân ấy chỉ là tương đối, trong một phạm vi nhất định, theo một mức độ qui ước hạn định mà thôi. Ngay cả sự suy nghĩ của một con người cũng vậy! Rất dễ thấy rằng vận động nội tại của một vật là có tính tự thân. Nhưng đồng thời (dù khó thấy), vận động nội tại ấy cũng có mối quan hệ tương tác thường xuyên liên tục với môi trường bên ngoài. Có thể nói, sự vận động nội tại của một vật quyết định sự tồn tại của vật đó, tính tự thân của vận động này thể hiện ra (tạm coi như là) làm cho nội tại vật có xu thế "trở về" trạng thái cân bằng tĩnh tại (bất động, chết), còn tác động của môi trường thì thể hiện ra ở chỗ (cũng tạm coi như là) làm cho vận động  nội tại vật được duy trì lâu dài ở (những) trạng thái cân bằng động nào đó mà (sự biến đổi của) môi trường qui định. Chung qui thì tùy thuộc vào cách thức, mức độ, sự biến đổi tác động của môi trường đối với vận động nội tại của một vật mà vật đó có thể được duy trì, tăng cường hơn, suy yếu đi, hay thậm chí là bị chấm dứt đột ngột sự tồn tại của nó. (Nói ngoài lề: phải chăng đó cũng là căn nguyên sâu xa nhất về sự tồn-vong tất yếu của vạn vật vô sinh cũng như về sự sống-chết định mệnh trong giới hữu sinh???)...Đến đây, có thể khẳng định, nếu nguyên lý nhân-quả đích thực là chân lý, thì qui luật mâu thuẫn phải là "phiếm chân lý" (từ dùng của Hêghen) và do đó chắc chắn hai qui luật về tự nhiên còn lại của Mác nhiều ít gì cũng "phiếm chân lý"... 
      Rõ ràng một quá trình xảy ra trong tự nhiên chỉ là...một quá trình đơn thuần là kế thừa và biến đổi, có (những) mặt này mặt khác hay toàn bộ được thêm vào hay bớt đi về lượng vật chất, thế thôi, chứ không thể "khơi khơi" cho rằng đó là quá trình (tổng thể hoặc bộ phận) phát triển hay suy tàn, là tốt hơn hay xấu hơn, nếu không dựa vào tiêu chí qui ước nào, nghĩa là chỉ sau khi có sự đánh giá trên cơ sở nào đó của tư duy nhận thức, mà cũng...chưa chắc đã đúng thực. Hơn nữa, không thể duy ý chí (nghĩa là cực đoan) cải tạo xã hội bằng cách xóa bỏ "ngay lập tức" tất cả những tồn tại thực tế đang vận động để thay vào đó những tồn tại còn trên lý thuyết (những tồn tại ảo!). Không thể có xã hội lý tưởng mà chỉ có thể có xã hội gần lý tưởng. Không thể xây dựng được xã hội gần lý tưởng nếu trước hết không tạo ra được những con người lý tưởng hay gần lý tưởng đến mức "sát sườn" hợp thành một khối lãnh đạo gần lý tưởng đến mức sát sườn...

                                               ***

      Trên đây là quan niệm và ý kiến xây dựng của chúng ta mà chúng ta đã rút ra từ tâm can gan ruột mình gửi đến những con người đang phụng sự cho dân giàu nước mạnh, đến những con người đang trăn trở với nặng lòng yêu thương Tổ Quốc, và cả đến những con người đã lầm lạc đặt tình cảm của họ trong thường trực oán ghét, hận thù Đảng cộng sản Việt Nam quang vinh, cũng như mang ác ý khi "gán" tất cả hiện tượng xấu xa xảy ra trong xã hội cho sự tồn tại của đảng ấy.
Thay cho lời kết luận, tôi lại trích dẫn lời của N. A. Ôxtơrốpxki ở đầu chương: "Cái quí nhất của con người ta là đời sống. Đời người chỉ sống có một lần, phải sống sao cho khỏi xót xa ân hận vì những năm tháng đã sống hoài sống phí, cho khỏi hổ thẹn vì dĩ vãng ti tiện và hèn đớn của mình, để đến khi nhắm mắt xuôi tay, ta có thể nói rằng: tất cả đời ta, tất cả sức ta, ta đã hiến dâng cho sự nghiệp cao đẹp nhất trên đời-sự nghiệp đấu tranh giải phóng loài người", và xin nhắn nhủ thêm rằng nên hiểu mở rộng ý nghĩa của "...sự nghiệp đấu tranh giải phóng loài người" ở câu nói trên là sự nghiệp hành động vì một xã hội chân-thiện-mỹ đích thực nói chung, chứ không chỉ vì xã hội XHCN nói riêng!...

  ***


Kể về chủ nghĩa cộng sản, chúng ta lại nhớ đến ông A, người bạn vong niên. Ngày xưa, khi còn ở nhà, chưa làm cuộc hành trình này, chúng ta vẫn thường xuyên qua nhà ông A nhậu. Cũng nhờ những lần nhậu ấy mà chúng ta vỡ lẽ, học hỏi được nhiều điều về chủ nghĩa cộng sản. Theo chúng ta, nếu những điều mà ông A nói về chủ nghĩa cộng sản là đúng, thì ông A phải là người thực sự uyên bác. Không thể nói khác được! Thật là nhớ ông A! Nhớ nhất ở ông là cách sống. Ông A có lối sống xuề xòa giản dị và đầy lòng nhân hậu. Giờ này ông A làm gì nhỉ? Chắc là...đang nhậu! Nghĩ đến đây, ký ức những buổi nhậu nhà ông A lại ùa về, rõ mồn một...


Cách đây hơn 10 năm, ông A quen T, cô gái sống bằng "nghề ngồi bàn" kiếm tiền "bo" của khách nhậu ở quán X. Ngày xưa chắc T xinh lắm, vì hồi đó, dù đã hơn 40 t rồi mà vóc dáng vẫn tròn trịa, săn chắc, khuôn mặt vẫn đầy nét xuân xanh. Từ ngày về hưu, hết mục đích cuộc đời, ông A chỉ còn gầy nhậu ở nhà, hay rủ T đến nói chuyện "Nam Tào, Bắc Đẩu", chuyện "thanh thanh, tục tục" cho vui. Thế mà vợ ông A chả hứ hé gì, thật lạ! Có lần ông A nói như phân bua với bạn nhậu: "Tự dưng thấy thương thương...Tính nó cũng nhu mỳ, nhan sắc có, thế mà chưa chồng con gì, chắc ở vậy quá! Kiếm tiền hơn ăn xin bố thí một chút từ những "anh già" dại gái đã "tưng tưng"...Kể cũng tội, đáng thương thật...Coi như em gái vậy mà!" Chắc T cũng mến ông A thực lòng, vì ai hỏi: "Là gì của ông A?", nó đều nói: "Là em...kết nghĩa!".

Một lần T đến, dù hơi muộn, cuộc nhậu có lẽ đã đi được nửa đường. Nghe rục rịch, tiếng chó sực ngoài cổng, ông A phán:

-Chắc T nó đến đấy! - Rồi quay sang chúng ta - Mày ra mở cổng cho nó vào cái!

Đúng là cô nàng thật! Vừa mở cổng, đã nghe T nói:

-Quán ế khách, ngồi buồn quá! Về đây nhậu với mấy anh cho vui.

Có thể nêu thành qui luật: bất cứ cuộc "rượu" đang ỉu xìu nào, đội nhiên có sự xuất hiện của "sắc", thì cũng "bừng tỉnh", ồn ã trở lại. Buổi nhậu "khí thế" lên thật. Trong khi T sửa soạn chỗ ngồi thì ông A đi lấy chén đũa mới, ông B rót rượu, còn chúng ta thì lấy đũa tém lại các đĩa "mồi" cho tươm tất lại, dễ coi một chút.

Sau khi T đã làm đúng thủ tục "vào ba ra bảy" của giới nhậu, thì ông A lên tiếng:

-Đang buồn... Cái T đến đúng lúc quá!...Đúng là ông Trời có mắt!...

-Sống đến ngần này tuổi rồi mà thú thực tôi vẫn chưa biết có định mệnh không nữa? -Ông B nói.

-Theo duy vật là không có! -Ông C trả lời.

-Sao tôi cứ ngờ ngợ. Nếu tổng kết các sự kiện xảy ra trong đời thì thấy có vẻ như đều chỉ thị đến sự sắp bày huyền linh nào đó. -Ông B lại lên tiếng.

T cũng bắt đầu tham gia câu chuyện:

-Định mệnh là có thật đấy các anh ạ! Mẹ em bảo...

Chúng ta cắt ngang:

-Chả biết thế nào!...Lúc thì như có, lúc lại như không, không thể trả lời dứt khoát được. Có ai trả lời dứt khoát được không?

Ông C vừa tháo kính ra lau, vừa nói:

-Tôi tin theo cách giải thích duy vật. Tôi không tin có định mệnh. Đời người phải diễn tiến theo ba quy luật tự nhiên của Mác, không thể khác được!

Ông A nãy giờ ngồi rít thuốc, nhả khói mịt mùng, nét mặt tỏ vẻ đăm chiêu, lúc này mới từ từ nói:

-Nếu coi định mệnh như một chương trình vạch sẵn, không còn điều chỉnh, sửa đổi được của mỗi đời người thì không có định mệnh, nhưng nếu coi định mệnh như là một chương trình tuân theo luật nhân quả, có thể điều chỉnh, thay đổi được một cách ngẫu nhiên hoặc bằng ý chí thì là có. Tin cực đoan theo duy vật biện chứng cũng chưa chắc đúng, vì bản thân nó quan niệm nhiều cái còn chưa sáng tỏ.

Ông C dãy nảy như bị chọc tiết:

-Không đúng là thế nào? Triết học Mác-Lê đã được thừa nhận là có tính khoa học cao độ, là đỉnh cao của trí tuệ loài người, là...

Ông C định..."thuyết trình" , nhưng ông A đã chặn ngang:

-Là vẫn còn nhiều điều chưa sáng tỏ! Ví dụ điển hình: khoa học vật lý thời Niutơn tưởng đã là chân lý tuyệt đối, nhưng đến nay, có thể cho rằng nó đã sai, và sự nhìn nhận thế giới theo thuyết tương đối (hẹp lẫn rộng) của Anhxtanh mà loài người đang ngưỡng mộ có giấu hiệu cũng sai nốt, chỉ gần đúng thôi...

-Nói thế, anh cho rằng ba quy luật cơ bản về tự nhiên của chủ nghĩa Mác là sai à? -Ông C hỏi lại ông A.

Đến lượt ông B lên tiếng, chĩa vào ông A:

-Đừng phán lung tung! Trên thế giới, các nhà triết học uyên bác còn chưa giám xác định đúng-sai, ngồi đây mà dóc tướng...

-Biết đâu đấy!...Sở dĩ nhận thức của loài người tiến lên được là nhờ sự hoài nghi. Phải chăng Mác chưa phải là người cuối cùng thấy được chân lý? -Ông A cười.

-Triết học duy vật biện chứng lập luận phải nói là rất lôgic. Vì thế mà tôi tin là nó đúng. Còn anh A không tin, vẫn hoài nghi, thì phải đặt ra những câu hỏi phản bác đi! -Ông C đã hơi gay gắt.

T hình như chẳng quan tâm đến câu chuyện. Vào sau, có lẽ đói bụng, cô nàng ngồi ăn "mồi" tỳ tỳ. Ông A rót rượu cho cả bàn xong, uống cạn ly của mình, "khà" một tiếng rồi mới chậm rãi nói:

-Ừ thì đúng là lôgic. Nhưng biết đâu chừng nó sai, hoặc chưa triệt để ngay từ lúc đặt vấn đề thì sao? Đây này, triết học Mác cũng thừa nhận sự tốn tại của thế giới khách quan và cho rằng, bản chất của thế giới là vật chất, thế giới thống nhất ở tính vật chất. Quan niệm như vậy đã đúng, đã triệt để chưa? Và tồn tại là gì, vật chất là gì? Thật khó! Không dễ dàng gì trả lời? Nếu trả lời xác đáng được các câu hỏi này, có lẽ phải xem xét lại ba quy luật về tự nhiên của triết học Mác. Các nhà theo triết học duy vật biện chứng chúa là bao biện. Để "chạy làng" những bế tắc mà người đời dồn ép, các vị lại đổ thừa cho thiên hạ là không biện chứng, chỉ các vị mới biết biện chứng thôi...

Đúng thật, chúng ta cũng chúa ghét những nhà lý luận kiểu đó. Tại sao họ gàn bướng đến như thế nhỉ?

-Nội dung ba quy luật đó là như thế nào hả quí vị? -Ông C vừa hỏi vừa dò trong laptop.

-Cái T phá mồi quá xá! -Chúng ta nói ghẹo, làm dịu cuộc nói chuyện đã có phần khô cứng.

T che miệng cười "hi hi":

-Thì không làm được "chiết ra", nên đành phải "chiết vô" thôi!

Bỗng ông C reo lên làm cho tôi hơi giật mình:

-Đây rồi! Wikipedia nói thế này:

"Ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật trong triết học Mác - Lênin là các quy luật cơ bản trong phương pháp luận của triết học Mác - Lênin và được áp dụng để giải thích về sự phát triển của sư vật, hiện tượng, ba quy luật này hợp thành nguyên lý về sự phát triển. Ba quy luật cơ bản có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong phép duy vật biện chứng của triết học Mác-Lênin, nó là một trong những nền tảng, cơ bản cấu thành phép biện chứng duy vật cũng như một trong những nội dung quan trọng của toàn bộ triết học Mác-Lenin.

Chủ nghĩa duy vật biện chứng bao gồm hai nguyên lý cơ bản là nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến thể hiện qua sáu cặp phạm trù được sử dụng là Cái chung và cái riêng, Bản chất và hiện tượng, Nội dung và hình thức, Tất nhiên và ngẫu nhiên, Nguyên nhân và kết quả, Khả năng và hiện thực.

Nguyên lý về sự phát triển bao gồm: Quy luật mâu thuẫn, quy luật lượng - chất và quy luật phủ định. Trong đó:

Quy luật mâu thuẫn chỉ ra nguồn gốc của sự phát triển
Quy luật lượng - chất chỉ ra cách thức, hình thức của sự phát triển
Quy luật phủ định chỉ ra khuynh hướng của sự phát triển.

Ba quy luật cơ bản này còn có ý nghĩa trong nhận thức và hành động. Những kết luận về mặt phương pháp luận của nó luôn được coi là "kim chỉ nam" cho hoạt động cách mạng của những người cộng sản.

(...)

Các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật chỉ ra hình thức chung nhất của sự vận động, phát triển của thế giới vật chất và nhận thức của con người về thế giới đó, đồng thời các quy luật này cũng tạo cơ sở cho phương pháp chung nhất của tư duy biện chứng.

Trong phép biện chứng duy vật, nếu quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập chỉ ra nguyên nhân và động lực bên trong của sự vận động, quy luật chuyển hoá từ những biến đổi về lượng dẫn đến những biến đổi về chất và ngược lại chỉ ra cách thức và tính chất của sự phát triển thì quy luật phủ định của phủ định chỉ ra khuynh hướng, hình thức và kết quả của sự phát triển đó.

Các quy luật này định hướng cho việc nghiên cứu của những quy luật đặc thù và đến lượt mình, những quy luật cơ bản về sự phát triển của thế giới, của nhận thức và những hình thức cụ thể của chúng chỉ có tác dụng trên cơ sở và trong sự gắn bó với những quy luật đặc thù.

Theo triết học Mác-Lênin thì mối quan hệ qua lại giữa các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật với các quy luật đặc thù của các khoa học chuyên ngành tạo nên cơ sở khách quan của mối liên hệ giữa chủ nghĩa duy vật biện chứng với các khoa học chuyên ngành..."

Đọc xong, ông B với bộ mặt chưa thỏa mãn, nói:

-Tìm khắp vẫn không thấy định nghĩa rõ ràng về khái niệm "tồn tại". Trong ba quy luật thì quy luật thứ ba, quy luật phủ định, có vẻ dễ hiểu nhất, còn hai quy luật kia có vẻ khó hiểu quá xá!..

-Nếu sự vật phát triển không tuân theo ba quy luật đó, -Ông A nói xen - thì đương nhiên ba quy luật đó sai và phải xem xét lại triết học Mác. Đúng không nào? Đối với khái niệm "vật chất", thì theo Lênin: " vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác", và theo Ăng-ghen thì: Cần phân biệt các dạng tồn tại khách quan của vật chất và khái niệm về vật chất. Vật chất với tư cách là một phạm trù triết học không có tồn tại cảm tính. Khác với các đối tượng vật chất cụ thể, "Những từ như vật chất và vận động chỉ là sự tóm tắt trong đó chúng ta tập hợp theo những thuộc tính của chúng, rất nhiều sự vật khác nhau có thể cảm biết được bằng giác quan" . Engels nhấn mạnh rằng cần phân biệt các dạng tồn tại khách quan của vật chất và khái niệm về vật chất. Vật chất với tư cách là một phạm trù triết học không có tồn tại cảm tính, trong đó Ph.Ăng-ghen đặc biệt nhấn mạnh phê phán quan điểm đem quy vật chất về nguyên tử, về những hạt nhỏ đồng nhất hoàn toàn giống nhau về chất, chỉ khác nhau về lượng, ông coi đó là siêu hình, mang tính cơ giới, qua đó ông nêu lên tính vô hạn và vô tận, tính không thể sáng tạo và không thể tiêu diệt được của vật chất và các hình thức tồn tại của nó là không gian và thời gian. Như vậy, theo tôi, quan niệm của Mác về vật chất chưa thỏa đáng! Quan niệm như thế dễ lầm tưởng rằng năng lượng toàn phần của một vật cũng là vật chất, thời gian và không gian cũng là vật chất. Nhưng theo quan niệm của triết học duy tồn thì chỉ có không gian là vật chất "đích thực" hay nói chính xác hơn, là "tiền vật chất" mà thôi, còn hai thứ kia là phản ánh vận động của vật chất. Phải chăng, vật chất chính là tồn tại được nhìn thấy "ngoài" thời gian? Còn khái niệm "tồn tại", theo tôi hiểu, có ngoại diên rộng lớn hơn vật chất và là sự "hiện diện" của vật chất cũng như sự phản ánh vận động của vật chất, dù con người có cảm giác được hay không. Vậy thì câu hỏi đầu tiên của triết học là "Tồn tại hay không tồn tại?" chứ không phải "vật chất và ý thức, cái nào có trước?", vì hiển nhiên ý thức, là một dạng phản ánh của vật chất, phải có sau. Có lẽ cả Duyring và Ăngghen đều đúng "một nửa" khi Duyrinh cho rằng thế giới thống nhất vì nó tồn tại, còn Ăngghen thì nói: "Tính thống nhất của thế giới không phải ở sự tồn tại của nó, mặc dù tồn tại là tiền đề của sự thống nhất của nó, vì khi thế giới có thể là một thể thống nhất thì trước hết thế giới phải tồn tại đã". Rốt cuộc, phải cho rằng tồn tại vốn dĩ vừa thống nhất vừa không thống nhất. Một đặc tính cơ bản của tồn tại là "cố gắng tồn tại". Thế giới tồn tại là tuyệt đối, vừa thống nhất, vừa không thống nhất. Tồn tại không ở dạng này thì ở dạng khác, chứ không thể có cái không tồn tại tuyệt đối (Hư Vô)! Nếu xét ở phương diện thực thể, thì mọi thực thể đều cố gắng tồn tại, đều "đấu tranh", đều "thỏa thuận" để tồn tại. Chính vì thế, Vũ Trụ hay thế giới phải tuân theo duy nhất một nguyên lý về tồn tại mà triết học duy tồn đã gọi là "Nguyên lý Tự Nhiên" - nguyên lý đầu tiên và duy nhất,có nội dung ngắn gọn là "vật chất phải vận động nhằm đảm bảo tồn tại", và có vai trò là nguồn gốc xuất phát của mọi nguyên lý, quy luật của vận động!...

Ông A nói một lèo thật là "điếc con ráy". Nếu ông C không chặn ngang thì có lẽ ông A còn nói nữa:

-Thôi, mệt đầu quá! Mình nói sang chuyện khác cho vui chút rồi về ngủ. Có gì mai nói tiếp. T, em có đồng ý thế không?

Khỏi phải nói, T gật đầu lia lịa:

-Hoan hô anh C! Anh A nói toàn chuyện trên Trời, chẳng vui tý nào!

Ông B gật gù:

-Cũng hay, cũng hấp dẫn! Biết đâu chừng anh A nói đúng. Nhưng thôi, để mai tiếp đi anh A. Có cái T ở đây, nói chuyện triết học, e không hợp.


***


Hôm sau, khi đã có mặt đông đủ nhưng ông A chưa kịp bày rượu ra, ông B đã hối:

-Tiếp chuyện hôm qua đi anh A. Những điều anh nói chưa chắc đã đúng, nhưng mới toanh, rất đáng để nghe. Theo anh, không gian là "đích thực" vât chất. Anh có thể nói rõ hơn không?

Ông C lại soạn laptop. tôi thì vừa bày ly, rót rượu, vừa nói:

-Ừ! Bác B nói phải lắm. Em cũng thích nghe, dù không hiểu gì mấy. Nói tiếp đi bác A.

Ông A cười "khà, khà" nhìn ông C:

-Anh C chịu tôi nói tiếp không?

-Thì nói đi! -Ông C sẵng giọng.

Thế là ông A bắt đầu nói:

-Từ cảm giác mà chúng ta nhận thức thế giới. Đúng không nào, quí vị? Điều đầu tiên chúng ta nhận biết được thế giới nhờ cảm giác, là gì? Là không gian, là bề dài, bề rộng, bề sâu. Vì không gian tồn tại như một mặc định, nên chúng ta thường quên cảm giác này như chúng ta thường quên không khí vậy. Nhìn đâu cũng thấy không gian. Mở mắt ra là thấy không gian! Khi không có gì trong một khỏang không, chúng ta nói: "Không thấy gì!", nhưng thực ra chúng ta vẫn thấy không gian hay khoảng không gian, một bộ phận của nó. Vậy không gian phải là "thực tại", là thực sự tồn tại. Nghĩa là khi nói đến tồn tại là nói đến không gian. Nhưng không gian là thể hiện của vật chất và vận động vật chất, mà vật chất lại là cái có trước, nên không thể nào không thừa nhận không gian trước hết phải là vật chất theo đúng nghĩa vật lý. Vì không gian, như ta cảm giác, có thể tích vô cùng to lớn, nên nó phải là sự hợp thành của những đơn vị nào đó có bản chất thể tích ở phía vô cùng nhỏ, nhưng phải hữu hạn, vì không thể tưởng tượng được một khối thể tích vô cùng lớn lại có thể hình thành được từ những cái nhỏ vô hạn độ (coi như bằng 0). Vậy, phải nhận thức không gian là vật chất, chất không gian là nguồn cội của tất cả các chất khác có trong tự nhiên. Nói cách khác, mọi chất trong Vũ Trụ đều là sự "nhào nặn ra" từ chất không gian...

-Rồi, cứ giả sử không gian là vật chất đi, rồi sao nữa? Nói về các quy luật đi anh! -Ông B nâng ly lên tính cụng và nói có vẻ sốt ruột.

-Ừ thì nói! Trước hết, ta nói về quy luật lượng-chất, quy luật chỉ ra cách thức, hình thức của sự phát triển. Theo triết học Mác định nghĩa thì:

+Lượng là phạm trù triêt học dùng để chỉ tính qui định vốn có của sự vật về mặt số lượng, qui mô, nhịp điệu của sự vận động và phát triển cũng như các thuộc tính của sự vật.

+Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính qui định khách quan vốn có của sự vật, là sự thống nhất hữu cơ của những thuộc tính làm cho sự vật là nó chứ không phải là cái khác.

+Độ là phạm trò triết học dùng để chỉ khoảnh giới hạn trong đó sự thay đổi về lượng của sự vật chưa làm thay đổi căn bản chất của sự vật ấy.

+Điểm nút là phạm trù triết học dùng để chỉ thời điểm mà tại đó sự thay đổi về lượng đã đủ làm thay đổi về chất của sự vật.

+Chất của sự vật thay đổi do lượng của nó thay đổi trước đó gây ra gọi là bước nhảy. Vậy bước nhảy là phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hóa về chất của sự vật do sự thay đổi về lượng của sự vật trước đó gây nên.

+ Nội dung quy luật: Mọi sự vật đều là sự thống nhất giữa lượng và chất, sự thay đổi dần dần về lượng trong khuôn khổ của độ tới điểm nút sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất của sự vật thông qua bước nhảy, chất mới ra đời tác động trở lại sự thay đổi của lượng mới. Quá trình tác động đó diễn ra liên tục làm cho sự vật không ngừng phát triển, biến đổi.

Đó là toàn bộ quy luật lượng-chất. Nó đúng không? Tôi cho rằng nó sai hoàn toàn! Thứ nhất, không có một vật nào tự thân chuyển hóa lượng-chất. Thứ hai, khi có tác động của môi trường, lượng và chất có thể biến đổi, nhưng phải có giới hạn. Chẳng hạn, không thể biến nước thành vàng được, hoặc bằng cách nào đó biến một kẻ ngu xuẩn thành thiên tài được. Hay khi ta dùng đèn khò nung một thỏi vàng, nung cỡ nào thì vàng vẫn là vàng. Có thể dùng quy luật lượng-chất giải thích hiện tượng và tưởng rằng đúng. Tuy vậy, không thể dùng quy luật ấy giải thích được hiện tượng: khi nấu gạo với nước (biến đổi lượng), sẽ thành cơm, nhưng khi cho cơm nguội và khô đi (cũng biến đổi lượng, nhưng ngược chiều ban đầu), cơm không thể biến lại thành gạo! Thứ ba, chất của một vật, dù có biến đổi cỡ nào, nếu không có sự tương tác với môi trường (chứa nó), thì cũng không làm biến đổi (khối) lượng của nó. Thứ tư, cục thịt bò vẫn là cục thịt bò (chất không đổi) nếu tăng khối lượng (thêm lượng vào!) cho nó. -Ông A ngừng "diễn thuyết", tự tay rót tràn ly rượu rồi uống cạn như tự thưởng và thỏa mãn ra mặt. -Tôi nói cũng chí lý đấy chứ, anh C? Hay nói như vậy là không biện chứng?

Ông C bĩu môi chưa kịp nói thì ông B đã lên tiếng:

-Kể ra cũng có lý đấy. Cũng đáng nghe lắm! Nói sang quy luật khác đi, anh A!

-Cũng có thể quy luật lượng-chất vẫn đúng nhưng chỉ đúng trong phạm vi hạn hẹp nào đó, và như vậy, dứt khoát nó không phải là quy luật tự nhiên phổ biến, như triết học Mác đã chỉ ra. -Ông A nói như được động viên, an ủi ông C, nhưng sau đó lại tiếp tục "lên đồng". - Bây giờ tôi nói đến quy luật mâu thuẫn, là quy luật chỉ ra nguồn gốc của sự phát triển. Theo triết học Mác quan niệm thì tất cả các sự vật, hiện tượng trên thế giới đều chức đựng những mặt trái ngược nhau. Sau đây ta tìm hiểu khái niệm và nội dung quy luật:

+Mặt đối lập là những mặt có những đặc điểm, những thuộc tính, những qui định có khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau tồn tại một cách khách quan trong tự nhiên, xã hội và tư duy. Các mặt đối lập nằm trong sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau tạo thành mâu thuẫn biện chứng. Hai mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn biện chứng tồn tại trong sự thống nhất với nhau.

+ Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa lẫn nhau, tồn tại không tách rời nhau giữa các mặt đối lập, sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tốn tại của mặt kia làm tiền đề.

+Các mặt đối lập tồn tại không tách rời nhau nên giữa chúng bao giờ cũng có những nhân tố giống nhau. Những nhân tố giống nhau đó gọi là "sự đồng nhất".

+ Nội dung quy luật: Mọi sự vật, hiện tượng đều chứa đựng những mặt, những khuynh hướng đối lập tạo thành những mâu thuẫn trong bản thân nó, sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là nguồn gốc của sự vận động và phát triển, làm cho cái cũ mất đi và cái mới ra đời thay thế.

Có lẽ dùng từ "mâu thuẫn" chưa thật chuẩn, phải dùng từ "tương phản" xác đáng hơn. Theo triết học duy tồn, muốn tồn tại thì phải thể hiện, đặc tính "sống còn"của tồn tại là phải thể hiện. Vì Tự Nhiên Tồn Tại là đầy đủ và cân bằng (động), mọi tồn tại đều cố gắng thể hiện để tồn tại, nên gây ra hiện tượng tương phản cân bằng nhau, từ đó mà làm hình thành nên hai lực lượng tương phản cân bằng nhau trong một thực thể nhờ môi trường, làm thực thể tồn tại được trong thế cân bằng động. Sự cân bằng động của một thực thể luôn thay đổi trạng thái trong sự tác động thường xuyên của môi trường chứa nó. Lấy thí dụ: một vật chuyển động với vận tốc đều \mathbf {v} _{AB} trên một đường thẳng. Có thể phân tích vận tốc \mathbf {v} _{AB} thành hai thành phần \mathbf {v} _{AB} và \mathbf {v} _{CB}, khác phương chiều của \mathbf {v} _{AB}, sao cho \mathbf {v} _{AB}=\mathbf {v} _{AC}+\mathbf {v} _{CB}. Rõ ràng vật đó đang tồn tại trong một trạng thái cân bằng động theo môi trường với hai vận tốc tương phản nhau là \mathbf {v} _{AB} và \mathbf {v} _{CB}. Từ tương phản, bản thân nó đã hàm chứa nghĩa "mâu thuẫn" và "đồng nhất". Hai vận tốc \mathbf {v} _{AB} và \mathbf {v} _{CB} là đồng nhất khi chúng cùng phương chiều và cùng gốc tọa độ (trọng tâm vật), và mâu thuẫn khi chúng đồng phương, ngược chiều, cùng gốc tọa độ. Nếu giữ nguyên trạng thái cân bằng động đó thì vật chuyển động đều vĩnh viễn (không phát triển, dù mâu thuẫn vẫn có trong nội tại nó!!!). Muốn cho vật thay đổi trạng thái chuyển động (nghĩa là phát triển!) thì phải có tác động từ biên ngoài (của môi trường). Nếu tác động của môi trường làm cho sự tương phản của hai vận tốc đạt đến mâu thuẫn đối kháng (triệt tiêu sự đồng nhất!) thì nếu theo qui ước vật không tồn tại khi vận tốc bằng 0, thì có thể vật ngừng phát triển, chấm dứt tồn tại (Thực ra vật vẫn tồn tại ở dạng khác).Vậy, vật không thể tự thân vận động nhờ mâu thuẫn nội tại mà phải có sự tham gia của môi trường phù hợp với nguyên lý nhân-quả, suy ra quy luật mâu thuẫn phải sai.

Bàn nhậu im phăng phắc. Ông C tỏ vẻ như đang đọc laptop nhưng chắc chắn là đang lắng nghe, vì lúc này có quái gì trong đó hấp dẫn hơn để đọc đâu? Ông B cứ hít hà như ăn phải ớt. Còn tôi thì há mồm ra nghe. Ông A ghê thật, dám đương đầu với Mác!

-Còn quy luật cuối cùng, "làm thịt" nốt đi bác! -Tôi thúc ông A.

-Ừ thì nốt! -Ông A vừa nói vừa bật "quẹt" mồi thuốc, rồi rít một hơi thật dài, nhả ra mù mịt khói đầy mãn nguyện. - Nhưng trước mắt hãy nghe laptop (tức Wikipedia) của anh C nói: "Quy luật phủ định hay quy luật phủ định của phủ định là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật trong triết học Mác - Lênin, chỉ ra khuynh hướng của sự phát triển, theo đó sự phát triển của sự vật, hiện tượng có xu hướng, khuynh hướng lặp lại giai đoạn đầu nhưng ở trình độ cao hơn, phát triển theo hình xoắn trôn ốc.

"Phủ định cái phủ định là gì? Là một quy luật vô cùng phổ biến và chính vì vậy mà có tầm quan trọng và có tác dụng vô cùng to lớn về sự phát triển của tự nhiên, của lịch sử và của tư duy"

 Ph.Ăng-ghen

Triết học Mác - Lênin cho rằng bất cứ sự vật, hiện tượng nào trong thế giới đều trải qua quá trình sinh ra, tồn tại, phát triển và diệt vong. Sự vật cũ mất đi được thay thế bằng sự vật mới. Sự thay thế đó là tất yếu trong quá trình vận động và phát triển của sự vật. Không như vậy sự vật không phát triển được. Sự thay thế đó được triết học gọi là sự phủ định.

Theo quan điểm duy vật biện chứng, sự chuyển hoá từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất, sự đấu tranh thường xuyên của các mặt đối lập làm cho mâu thuẫn được giải quyết, từ đó dẫn đến sự vật cũ mất đi sự vật mới ra đời thay thế. Sự thay thế diễn ra liên tục tạo nên sự vận động và phát triển không ngừng của sự vật. Sự vật mới ra đời là kết quả của sự phủ định sự vật cũ. Điều đó cũng có nghĩa là sự phủ định là tiền đề, điều kiện cho sự phát triển liên tục, cho sự ra đời của cái mới thay thế cái cũ. Đó là phủ định biện chứng.

Phủ định biện chứng là phạm trù triết học dùng để chỉ sự phủ định tự thân, sự phát triển tự thân, là mắt khâu trong quá trình dẫn tới sự ra đời sự vật mới, tiến bộ hơn sự vật cũ. Tuy nhiên có sự phủ định chỉ là phá hủy cái cũ, không tạo tiền đề cho sự tiến lên và lực lượng phủ định được đưa từ ngoài vào kết cấu của sự vật, tức là sự tự phủ định, là sự phủ định tạo tiền đề cho sự phát triển tiếp theo, cho cái mới ra đời thay cái cũ.

Phủ định biện chứng có các đặc trưng cơ bản là tính khách quan và tính kế thừa.

Tính khách quan: vì nguyên nhân của sự phủ định nằm ngay trong bản thân sự vật. Đó chính là giải quyết những mâu thuẫn bên trong sự vật. Nhờ việc giải quyết những mâu thuẫn mà sự vật luôn luôn phát triển. Mỗi sự vật có phương thức phủ định riêng tuỳ thuộc vào sự giải quyết mâu thuẫn của bản thân chúng. Điều đó cũng có nghĩa, phủ định biện chứng không phụ thuộc vào ý muốn, ý chí của con người. Con người chỉ có thể tác động làm cho quá trình phủ định ấy diễn ra nhanh hay chậm trên cơ sở nắm vững quy luật phát triển của sự vật.

Kế thừa: vì phủ định biện chứng là kết quả của sự phát triển tự thân của sự vật, nên nó không thể là sự thủ tiêu, sự phá huỷ hoàn toàn cái cũ. Cái mới chỉ có thể ra đời trên nền tảng cái cũ. Cái mới ra đời không xóa bỏ hoàn toàn cái cũ mà có chọn lọc, giữ lại và cải tạo những mặt còn thích hợp, những mặt tích cực, nó chỉ gạt bỏ ở cái cũ những mặt tiêu cực, lỗi thời, lạc hậu, gây cản trở cho sự phát triển. Do vậy, phủ định biện chứng đồng thời cũng là khẳng định.

Cái mới trong phủ định biện chứng là cái biểu hiện sự phát triển phù hợp quy luật của sự vật, hiện tượng, là biểu hiện sự chuyển hóa từ giai đoạn thấp đến giai đoạn cao trong quá trình phát triển.
Nội dung quy luật: Sự ra đời và tồn tại của sự vật đã khẳng định chính nó. Trong quá trình vận động của sự vật, những nhân tố mới xuất hiện sẽ thay thế những nhân tố cũ, sự phủ định biện chứng diễn ra. Sự vật đó không còn nữa và bị thay thế bởi sự vật mới, trong đó có những nhân tố tích cực được giữ lại. Song sự vật mới này sẽ lại bị phủ định bởi sự vật mới khác. Sự vật mới khác ấy dường như là sự vật đã tồn tại, song không phải là sự trùng lặp hoàn toàn, mà nó có được bổ sung những nhân tố mới và chỉ bảo tồn những nhân tố tích cực, thích hợp với sự phát triển tiếp tục của nó. Sau khi sự phủ định diễn ra 2 lần thì sự phủ định của phủ định được thực hiện, sự vật mới hoàn thành một chu kỳ phát triển. Sự phát triển biện chứng thông qua những lần phủ định biện chứng như trên là sự thống nhất hữu cơ giữa lọc bỏ, bảo tồn và bổ sung thêm những nhân tố tích cực mới. Do vậy, thông qua những lần phủ định biện chứng của bản thân, sự vật sẽ ngày càng phát triển.
Phạm trù phủ định biện chứng mới nói lên một giai đoạn, một mắt khâu, một nấc thang trong quá trình phát triển nhất định. Với tư cách là cái phủ định (lần thứ 1), cái mới cũng chứa đựng trong mình xu hướng dẫn tới sự phủ định lần thứ 2 (phủ định của phủ định).

Trong sự vận động vĩnh viễn của thế giới vật chất, dây chuyền của những lần phủ định biện chứng là vô tận, cái mới phủ định cái cũ, nhưng rồi cái mới lại trở nên cũ và lại bị cái mới sau phủ định. Cứ như vậy, sự phát triển của sự vật, hiện tượng diễn ra theo khuynh hướng phủ định của phủ định từ thấp đến cao một cách vô tận theo đường "xoáy ốc" hay "vòng xoáy trôn ốc". Sau mỗi chu kỳ phủ định của phủ định, cái mới được ra đời dường như lặp lại cái cũ nhưng trên cơ sở cao hơn.

Sự phát triển theo đường "xoáy ốc" là sự biểu thị rõ ràng, đầy đủ các đặc trưng của quá trình phát triển biện chứng của sự vật: tính kế thừa, tính lặp lại, tính tiến lên. Mỗi vòng của đường "xoáy ốc" dường như thể hiện sự lặp lại nhưng cao hơn, thể hiện trình độ cao hơn của sự phát triển.

Quy luật phủ định của phủ định biểu hiện sự phát triển của sự vật là do mâu thuẫn trong bản thân sự vật quyết định. Mỗi lần phủ định là kết quả đấu tranh và chuyển hoá giữa các mặt đối lập trong bản thân sự vật - giữa mặt khẳng định và mặt phủ định. Sự phủ định lần thứ nhất diễn ra làm cho sự vật cũ chuyển thành cái đối lập với cái khẳng định ban đầu. Sự phủ định lần thứ hai, sự vật mới với tư cách là cái phủ định của phủ định đối lập với cái phủ định và dường như trở lại cái ban đầu nhưng không giống nguyên như cũ mà trên cơ sở cao hơn.

Phủ định của phủ định là sự thống nhất biện chứng của cái khẳng định và phủ định, là kết quả của sự tổng hợp tất cả nhân tố tích cực của cái khẳng định ban đầu và cái phủ định lần thứ nhất, cũng như các giai đoạn trước đó. Cái tổng hợp này là sự lọc bỏ những giai đoạn đã qua, vì vậy, nó có nội dung phong phú hơn, toàn diện hơn. Kết quả của sự phủ định của phủ định là điểm kết thúc của một chu kỳ phát triển và cũng là điểm khởi đầu cho kỳ phát triển tiếp theo. Sự vật lại tiếp tục biện chứng chính mình để phát triển. Cứ như vậy sự vật mới ngày càng mới hơn. Theo triết học Mác-Lênin thì quy luật phủ định của phủ định là quy luật phổ biến của sự phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy..."

Trong thí dụ đã nêu ở phía trên, chẳng thấy ảnh hưởng của quy luật phủ định ở đâu cả. Vật không thể tự thân vận động theo quy luật phủ định để có vận tốc lớn hơn được(!). Hay lấy ngay ví dụ "hạt lúa-cây lúa" của Mác để phản bác. Khi hạt lúa mới nảy mầm, đã có cây lúa đâu mà phủ định hạt lúa, và khi đã hình thành cây lúa rồi thì còn đâu hạt lúa nữa để mà phủ định? Hạt lúa không tự thân phát triển được mà phải nhờ môi trường, tùy môi trường định đoại số phận(có thể không nảy mầm thành cây lúa mà cháy thành than!). Trong điều kiện bình thường, hạt lúa sẽ phát triển thành cây lúa nhưng dứt khoát không phải vì nguyên nhân là cây lúa đã phủ định nó. Hơn nữa, hạt lúa chỉ phát triển hoặc không phát triển thành cây lúa được thôi chứ không thể thành cây khác được là do nội tại nó đã quy định sẵn cho nó từ trước rồi, từ khi chưa có cây lúa...

Theo như đã trình bày thì đối với tôi, cả ba quy luật cơ bản về thế giới tự nhiên khách quan đều sai. Các "ngài" có đồng tình với tôi không?

     ***

Từ bữa ông A phản bác ba quy luật tự nhiên của Mác, chúng ta lại càng nể phục ông về tài hiểu biết. Hồi đó, thật là lạ lùng, những điều ông A nói ra mới quá, chúng ta chưa từng nghe đến bao giờ. Có đúng không? Chúng ta không giám quyết định ngay lập tức! Nhưng chúng ta nghĩ rất nhiều. Và đến giờ này, chúng ta đã bắt đầu ngờ ngợ. Biết đâu đấy! Nếu ông A nói đúng, thì chắc chắn sẽ là người đầu tiên khơi mào ra cuộc cách mạng mới về nhận thức thế giới khách quan của loài người, và triết học Mác-lênin có nguy cơ phải rút lui khỏi vũ đài chính trị. Không biết ông B, ông C hồi đó có nghĩ như chúng ta bây giờ không nhỉ? Hoang mang quá!

Một chiều, cúng cô hồn tháng bảy, vợ chúng ta mua đồ cúng và hai con vịt quay, cho chúng ta một con để nhậu.

-Gìà hết rồi, mấy lão có ăn được đâu mà cho nhiều thế? Chỉ cần mấy cái đầu cổ cánh là tốt rồi! -Chúng ta nói.

-Thôi, có là bao...Ăn nhậu ở nhà người ta cả năm...Ông A kể cũng tốt!...Mang sang hết đi! -Vợ tôi ngún ngoảy.

Thế là chúng ta khệ nệ bưng sang nhà ông A một dĩa "tổ bố", đầy ú ụ thịt vịt quay đã chặt.

Vừa đến cổng nhà ông A, ông A đã oang oang:

-Gì vậy mày, Thu?

-Hôm nay nhà chúng em cúng cô hồn, có ít vịt quay, mang sang nhậu chơi! -Chúng ta trả lời.

Ông A nhăn mặt:

-Trời ơi, chỉ cần "xí quách" là được rồi, để nhà cho vợ con mày nó ăn. Lấy chi mà nhiều dữ vậy?

-Lâu mới có dịp mà bác!...Chẳng có gì đâu! -Chúng ta cười.

Ai nói "Thảo nhất là dân nhậu!", đúng thật!

Bàn nhậu bày xong thì ông B và ông C cũng vừa đến. Thấy bàn nhậu hôm nay có vẻ "phè phỡn", ông B vừa ngồi vừa nói;

-Hôm nay anh A có gì vui mà đãi đằng thế? Định cho chúng tôi mập thêm vài ký nữa à?

Ông A dãy nảy:

-Đâu có đâu! Thịt vịt của thằng Thu mang sang đấy.

-Mang sang để thưởng cho bác A về vụ phá vỡ ba quy luật thành công. -Chúng ta nói cho vui.

Ông C nói theo vẻ bất bình:

-Đã chắc đúng đâu mà thành công với chả thất bại? Đừng xiêu lòng nhanh thế chứ Thu!


Biết đụng tự ái ông C rồi nên chúng ta im thin thít. Còn ông B lại nói:

-Đến bây giờ tôi mới biết các nhà theo triết thuyết Mác-lênin, miệng nói phải biện chứng, nhưng thực ra họ là những nhà bảo thủ nhất thế giới. Những điều anh A nói, tôi cũng thừa nhận không thể tin ngay được, nhưng suy nghĩ kỹ thấy nó cũng...hay. Trong khoa học thường thì các quy luật, định luật ngoài phát biểu định tính, phải có các biểu thức toán học, như là những phát biểu định lượng đi kèm với chúng mới đáng tin. Ba quy luật của Mác có thể là chung quá, nên cũng mông lung quá, khó lòng mà tin tưởng tuyệt đối được. Câu hỏi lớn ở đây là có thể lập được cách phát biểu định lượng cho ba quy luật đó không?

-Theo em, có lẽ không! Trong khoa học, hình như chưa có biểu thức định lượng nào chỉ thị đến ba quy luật đó. Điều đó có nói lên rằng chúng có khả năng đã sai không? Chưa chắc, vì cũng thường thấy nhiều nguyên lý, qui luật nói về cái chung, cái tổng quát, phổ biến,thì không thể định lượng. Chẳng hạn như nguyên lý nhân-quả, qui luật đấu tranh sinh tồn... -Chúng ta được thể, nêu luôn định kiến của mình.

Ông A loay hoay mãi vói cái chân vịt, bây giờ mới động thủ, quên, động mồm:

-Uống vui đi anh em! Rượu thịt còn ê hề này...

-Bác C chưa biết à? Những điều bác A nói đều dựa theo quan niệm của triết học duy tồn đấy. Nó...- Chúng ta quay sang chưa kịp nói hết với ông C.

-Tôi đã tìm khắp. Sao trên mạng không thấy nói về triết học duy tồn ở đâu cả nhỉ? -Ông C hỏi ngang.

-Lần đầu tiên tôi nghe. Chắc là con đẻ của anh A. Anh A bịa ra nó chứ gì? -Ông B bắt đầu ngạc nhiên.

-Không phải! Trời Đất mách bảo! -Ông A nói chắc nịch.

Tôi tròn mắt kinh ngạc:

-Không thể như thế được!

-Tôi tin rằng triết học duy tồn nếu không phải là chân lý thì cũng gần chân lý hơn triết học Mác. Mà một triết học như thế thì tôi làm sao có tài năng để sáng tạo ra nó được? -Ông A nói tiếp, tỉnh queo.

-Sáng tạo hay không sáng tạo, có thể là do mách bảo của Trời Đất, nhưng vì anh là người đầu tiên sở hữu nó, thì coi như anh vẫn là người sáng tạo ra nó. Không đúng sao? -Ông B lớn tiếng như kết luận.

Ông A ngửng cổ cười "ha, ha":

-Nếu thế, thật tự hào quá! Vô cùng biết ơn Tạo Hóa! Ha, ha, ...ha!...Đừng nói quá thế chứ anh B. Tôi làm sao mà tư hữu được chân lý. Đã là chân lý khách quan thì may ra chỉ có Tự Nhiên Tồn Tại là sở hữu được thôi!

Ông C tỏ vẻ bực mình, bĩu môi:

-Phởn chí quá đấy! Một anh quèn, vô danh tiểu tốt mà đòi hơn Mác, tôi không tin! Hệ thống quan niệm về thế giới mà Mác đã nêu ra hơn một thế kỷ nay hầu như vẫn chưa có hệ thống nào thay thế được. Tự nhiên có một thằng cha căng chú kiết nào đẻ ra một hệ thống đòi thay thế nó. Tiếu lâm không chịu được! Không bằng sợi lông chân của ông Duyrinh mà đòi...

Ông A rít thuốc, phà hơi liên tục, mặt không lộ vẻ cảm xúc gì:

-Anh C nói đúng! làm gì có học thuyết triết học duy tồn, vì theo tôi biết, nó đang ở dạng manh nha. Nhưng tôi tin học thuyết triết học ấy sẽ xuất hiện một ngày không xa. Có điều, không có những quan niệm về thế giới của triết học Mác, Đạo Lão, ý niệm của Parmenides, ..., sẽ không có triết học duy tồn.

Theo triết học duy tồn thì thế giới này là một Tự Nhiên Tồn Tại vĩ đại và vô thủy vô chung. Quan niệm về tự Nhiên Tồn Tại nhận ý niệm về thế giới của hiền triết Parmenides làm nền tảng cơ bản.  Wikipedia chép: "Parmenides thành Elea (sinh và mất đầu thế kỷ 5 TCN) là một triết gia Hy Lạp cổ đại, ông sinh tại Elea, một thành phố của Hy Lạp ở bờ biển phía nam của Ý. Ông là người đã sáng lập ra trường phái Aleatic. Tác phẩm duy nhất được biết đến của ông là một bài thơ, tựa đề Bàn về tự nhiên, hiện chỉ còn một phần bài thơ tồn tại cho đến ngày nay. Trong bài thơ này, Parmenides nêu ra hai quan điểm về thực tại. Trong "Con đường của chân lý" ("the way of truth"), ông giải thích thực tại là đơn nhất, thay đổi không thể xảy ra, sự tồn tại là vĩnh viễn, đồng nhất, cần thiết và không thay đổi. Trong "Con đường luận lý" ("the way of opinion"), ông giải thích hình dạng của thế giới, trong đó các chức năng cảm giác dẫn đến những nhận thức sai lầm và lừa dối. Những ý tưởng này đã có ảnh hưởng sâu sắc đối với triết học phương Tây, nổi bật nhất có lẽ là ảnh hưởng lên Plato"."Dựa vào tư tưởng của các nhà triết học tiền bối, Parmenides đưa ra ba quan điểm về chủ yếu về tồn tại và bình luận về chúng.
  • Có tồn tại và không tồn tại (quan điểm của trường phái Pythagoras).
  • Tồn tại và không tồn tại đồng nhất với nhau (quan điểm của Heraclitus).
  • Chỉ có tồn tại, không có không tồn tại.
Parmenides cho rằng hai quan niệm đầu tiên cho thấy sự không nhất nguyên về lập trường triết học. Thậm chí, ông còn gọi Heraclitus là nhà triết học "hai đầu". Parmenides viết:
Còn đối với quan điểm thứ ba, Parmenides tỏ rõ sự đồng tình. Theo nhà triết học cổ đại này, tất cả các sự vật được ta nhận định được vì chúng có tồn tại. Chúng ta không thể hình dung sự không tồn tại, không hình dụng được là không có. Đây là đoạn thơ của Parmenides nói về sự tồn tại:
Đoạn thơ trên có thể được diễn giải như sau: Tồn tại là cái duy nhất, bất biến và đồng nhất vì thế giới không có cái gì nằm ngoài sự tồn tại. Giới hạn cuối cùng của tồn tại, giống giới hạn của một quả địa cầu, tất cả các điểm trên đường tròn đều cách tâm những khoảng bằng nhau. Bởi tồn tại là cái duy nhất nên nó không cần sự cứu cánh. Tồn tại là chính bản thân nó nên không thể xuất hiện vì không có chỗ để xuất hiện. Nó cũng không xuất hiện từ hư vô bởi bản thân hư vô là không có. Nó cũng không thể xuất hiện từ tồn tại khác vì chỉ có một sự tồn tại. Tồn tại không phải là cái hiện có chứ không phải là cái đã có và cái sẽ cố. Với phần diễn giải trên, có thể nêu lên ba đặc điểm của sự tồn tại như sau:
  • Duy nhất, bất biến, đồng nhất.
  • Tư bản thân, không sinh ra, không mất đi
  • Quy định sự hiện hữu của những thứ khác.
Quan niệm về tồn tại của Parmenides mang tính siêu hinh, nhưng nó lại là đóng góp lớn của ông. Ông phê phán các bậc tiền bối của mình đã chọn nhiều thứ vật chất cụ thể làm khởi nguyên của thế giới một cách tùy tiện, làm "mất đi tính chất thông thái của triết học", tạo ra những tranh luận không càn thiết. Tồn tại, với Parmenides, đã trở thành một phạm trù triết học khái quát. Đó thực sự là nền móng của tư duy. Có lẽ câu nói của chính người thầy Xenophanes sẽ là câu nói phù hợp với trường hợp này: "Để trở thành người thông thái thì trước hết phải biết lựa chọn các biểu hiện của thông thái". "Parmenides đã đưa ra một luận điểm nổi tiếng là "Tư duy và cái tư duy là một. Tư duy và tồn tại là đồng nhất.". Theo ông, tồn tại không chỉ thuần túy là vật chất và tinh thần. Đó còn là việc con người tư duy về cái gì đó. Vì vậy, không có tư duy thuần túy, tư duy phi tồn tại và không có tồn tại không được tư duy bởi con người. Có thể thấy ở đây Parmenides là người nhận thấy quan hệ không tách rời giữa chủ thể và khách thể khi nhận thức theo quan điểm duy tâm chủ quan. Chính vì vậy, các nhà hiện tượng học coi ông là vị tiền bối". "Đối với Parmenides, không gian có giới hạn và bất biến bởi vi nó chứa tồn tai mà cái tồn tại này không lớn lên hay nhỏ đi ("không thể lớn lên một chút nào và cũng không thể nhỏ đi một chút nào"). Còn thời gian thì lại là cái ngưng đọng, không xuất hiện hay mất đi nhưng lại vô hạn".


Parmenides.jpg
Parmenides
Sinhc. 515 / 545 TCN

Thời kỳTriết học tiền Socrates
VùngTriết học phương Tây
Trường pháiTrường phái Eleatic
Đối tượng chính
Siêu hình, Bản thể học
Tư tưởng nổi bật
Thuyết quyết định, Ultimate reality


























Tôi cho rằng những quan niệm về thế giới mà triết học Mác nêu ra có thể đã đầy đủ, nhưng chưa đích đáng, cần phải phê phán. Chính vì trên cơ sở phê phán sự đúng-sai những quan niệm của triết học Mác và những triết học trước đây mà triết học duy tồn hình thành. Chúng ta sắp xuống lỗ cả rồi, sẽ không thấy được sự thật ấy đâu! Ở đây chỉ nói tào lao cho vui thôi! Sao anh C có vẻ hơi mạt sát nhau thế?

Có lẽ sợ to chuyện, ông B mới lên tiếng:

-Vấn đề triết học không thể nói là tào lao được. Anh A nói sai rồi! Tranh luận triết học bao giờ cũng hấp dẫn tôi. Thôi nào, sẵn laptop của anh C đây, dựa vào những quan niệm của Mác, anh A thử trình bày quan niệm của anh về thế giới xem sao.

-Xin lỗi, vì tôi thấy anh A chủ quan quá, nói có vẻ xấc xược về Mác. Nên nhớ, Mác là con người vĩ đại! Thôi, anh A nói đi! -Ông C đã có vẻ dịu lại.

-Nói cái gì? -Ông A hỏi

-Trước tiên, hãy nói về xã hội và tự nhiên. Tôn kính thì đúng rồi. Nhưng tôn kính đến mất tự chủ thì dễ sa đà vào tín ngưỡng, lại lạc sang tệ sùng bái cá nhân đấy, anh C ạ! -Ông B nói.

Ông C làm như không nghe, vội bấm laptop, rồi nói:

-Đây, triết học Mác nói đại loại thế này: Tự nhiên, theo nghĩa rộng là toàn bộ thế giới vật chất vô cùng, vô tận. Quá trình phát triển của tự nhiên đã sản sinh ra sự sống và theo quy luật tiến hóa, trong những điều kiện nhất định, con ngưới đã xuất hiện từ động vật. Lao động và ngôn ngữ là hai sức kích thích chủ yếu của sự chuyển biến bộ não của loài vật thành bộ não của con người, tâm lý động vật thành ý thức. Sự hình thành con người gắn liền với sự hình thành các quan hệ giữa người với người, quá trình chuyển biến từ động vật thành người cũng là quá trình chuyển biến từ cộng đồng mang tính bầy đàn, hành động theo bản năng thành một cộng đồng mới khác hẳn về chất, ta gọi là xã hội. Có thể nói, xã hội là hình thái quần thể cao nhất của vật chất. Hình thái quần thể này lấy con người và sự tác động lẫn nhau giữa người với người làm nền tảng. Vậy, xã hội là một bộ phận đặc thù của tự nhiên...Đó là quan niệm tóm tắt của triết học duy vật biện chứng về tự nhiên và xã hội. Còn theo ý anh thì sao, anh A?

Ông A đang gặm dở cục xương, nghe hỏi, vội để cục xương xuống bàn, lấy giấy lau miệng:

-Vịt quay Thu mua ở đâu mà dai nhách à! -Vừa nói, ông A vừa rút điếu thuốc trong bao thuốc để trên bàn để mồi, rồi nói tiếp. -Tôi cũng theo quan niệm ấy, nhưng chỉ thêm đôi điều mà không phá đi những ý chính. Thứ nhất, nếu thế giới tự nhiên của Mác là thế giới chỉ bao gồm vật chất, thì theo tôi, để cho đầy đủ, phải nói là bao gồm vật chất, vận động vật chất và những phản ánh vận động của vật chất (tinh thần), mà tôi đã gọi chung qui lại là Tự Nhiên Tồn Tại (TNTT). Phải nói không gian vừa là vật chất nền tảng cội rễ của các loại vật chất, các thực thể vật chất, vừa là môi trường dung dưỡng toàn bộ vật chất của TNTT. Nó cực kỳ to lớn nhưng không phải là vô tận. Không thể tưởng tượng được một khối thể tích vĩ đại lại được hợp thành từ những cái nhỏ vô tận (một tỷ tỷ số 0 cộng lại cũng bằng 0!) nên phải thừa nhận không gian được hợp thành từ những đơn vị nhỏ tuyệt đối, nghĩa là không còn gì nhỏ hơn được nữa nhưng không bằng không. Với quan niệm như thế thì linh hồn, ma, vong cũng có thể tồn tại, là phản ánh hình thái vận động vật chất nào đó mà khoa học chưa khám phá ra. Thứ hai, thời gian là một phản ánh của vận động, không có vận động thì không có thời gian. Thứ ba, xã hội cũng là TNTT, là bộ phận đặc thù của TNTT. Do đó, xã hội cũng phải hoạt động tuân theo duy nhất nguyên lý Tự Nhiên, hay tuân theo những nguyên lý, quy luật suy ra từ nguyên lý Tự Nhiên. Vì hoạt động xã hội cũng được thấy như hoạt động có ý thức chủ quan của con người nên những nguyên lý, quy luật tự nhiên khách quan mà nó phải tuân theo cũng bị lũng đoạn bởi tính chủ quan của con người và tôi gọi đó là những quy luật xã hội. Cần nhấn mạnh rằng, ý chí chủ quan của con người có thể lũng đoạn có mức độ đến hoạt động xã hội, nhưng không thể xóa nhòa được xu thế tất yếu của nó. Ví dụ, một xã hội muốn tồn tại thì phải có nhà nước. Cho nên nhiệm vụ đầu tiên, đương nhiên của nhà nước là giúp cho quần chúng hợp thành xã hội đó sống còn an ổn, hơn nữa phải "dân giàu, nước mạnh" để chống thiên tai địch họa. Vậy "của dân, do dân và vì dân" là bản chất tự nhiên của hoạt động nhà nước khi chưa bị ý chí chủ quan của con người lũng đoạn và cũng chính là bản chất nhà nước cuối cùng mà vận động xã hội hướng đạt tới dù nhanh hay chậm. Vậy, sự xuất hiện nhà nước "của dân, do dân và vì dân" là do xã hội đòi hỏi chứ không do bất cứ nguyên nhân nào khác...

Bàn nhậu im phăng phắc. Ông C ngồi ngoẹo đầu trên ghế, há mồm ngủ ngon lành. Chỉ còn chúng ta và ông B ngồi chăm chú nghe. Phải nói Ông A nói hay thật! Những điều ông A nói thật sự lay động lòng chúng ta. Không hiểu có đúng không nhỉ?Chúng ta định rót rượu nhưng đã hết tự lúc nào, chỉ còn chai không. Ông B hình như vẫn muốn nghe tiếp, ngó nhìn đồng hồ trên tường. Thấy vậy, ông A cười nói:

-Thôi, để dành khi khác, cũng khuya rồi! Vả lại, nói mà ông C không nghe thì ...hơi uổng!


                                                ***


Chiều khác, nhậu không có ông B, thấy thiêu thiếu ai đó. Trước đó, ông A có gọi điện rồi thông báo:-Lão B bận công chuyện rồi, không đến được đâu! Bầy bàn ra đi Thu ơi! Chúng mình nhậu thôi!

-Sắp đến Nô-en rồi mà trời nực quá! Mày có thấy thế không, Thu? -Ông C cất lời.

-Năm nay nước mình chịu ảnh hưởng của Elninô nên khí hậu nóng hơn. -Ông C tay rót rượu, miệng nói.


-Elninô là gì nhỉ? -Chúng ta buột miệng hỏi. -Bác C xem hộ em, trên Wiki. nói gì?

Ông C lôi laptop ra và bắt đầu bấm phím. Thế giới ngày nay hiện đại thật! Muốn tìm hiểu điều gì, chỉ cần bấm cái là có ngay. Đây:

"El Niño trong tiếng Tây Ban Nha có nghĩa là "Đứa trẻ", có ý nói đến Chúa Giêsu Hài đồng. Cứ trung bình 3-10 năm, ngư dân vùng biển tại Peru phát hiện ra nước biển ấm dần lên vào mùa đông, khoảng vài tuần trước Lễ Giáng Sinh. Đây chính là một nghịch lý, nhưng nó vẫn tồn tại có chu kì và kéo theo hiện tượng hơi nước ở biển bốc lên nhiều hơn, tạo ra những cơn mưa như thác đổ. Và ngư dân đã gọi hiện tượng này là El Niño để đánh dấu thời điểm xuất phát của nó là gần Giáng Sinh.Trong khí tượng học người ta còn gọi hiện tượng El Nino là Dao động phương Nam (Southern oscillation). Ngày nay, khoa học đã chứng minh được rằng hiện tượng El Nino có ảnh hưởng trên phạm vi toàn cầu và thuật ngữ El Nino dùng để chỉ hiện tượng nước biển nóng lên.".

"Mưa bão, lụt lội, đó là các hiện tượng dễ thấy nhất của El Nino. Lý do là dòng nước ấm ở phía đông Thái Bình Dương chạy dọc theo các nước Chile, Peru... đã đẩy vào không khí một lượng hơi nước rất lớn. Hậu quả là các quốc gia ở Nam Mỹ phải hứng chịu một lượng mưa bất thường, có khi lượng mưa lên đến 15 cm mỗi ngày. Điều bất ngờ là những cơn gió ở Thái Bình Dương tự dưng đổi hướng vào thời điểm có El Nino. Chúng thổi ngược về phía đông thay vì phía tây như thời tiết mỗi năm. Những cơn gió này có El Nino không phải là hiện tượng do con người tạo ra, mà chính là thiên nhiên. Vì sao lại xuất hiện dòng nước ấm đột ngột ở phía đông Thái Bình Dương để khởi đầu hiện tượng El Nino? Một trong những nguyên nhân lớn gây ra hiện tượng El Nino là sự thay đổi hướng gió, tuy nhiên đến nay các nhà khoa học vẫn chưa có lời giải đáp hoàn toàn thống nhất. Những nguyên nhân khác bao gồm sự thay đổi áp suất không khí, Trái Đất nóng dần lên, hay cả các cơn động đất dưới đáy biển.khả năng đưa mây vượt qua Nam Mỹ, đến tận România, Bulgaria, hoặc bờ biển Đen của Nga. Như vậy, một vùng rộng lớn của tây bán cầu bị El Nino khống chế. Năm 1997, toàn vùng này bị thiệt hại ước tính 96 tỷ USD do mưa bão, lũ lụt từ El Nino gây ra. Ngược lai, hiện tượng khô hạn lại xảy ra trên các quốc gia thuộc đông bán cầu. Do mây tập trung vào một khu vực có mật độ quá cao, do đó, phần còn lại của thế giới phải hứng chịu đợt hạn hán nghiêm trọng. Các nước thường xuyên chịu ảnh hưởng khô hạn do El Nino gây ra có thể kể: Úc, Philippines, Indonesia, Thái Lan, Việt Nam... Đợt hạn hán gần đây nhất ở Úc đã làm hàng triệu con kangaroo, cừu, bò... chết vì khát. Bang New South Wales suốt chín tháng không có mưa, hồ nước ngọt Hinze (bang Queensland) cạn kiệt. Tại Thái Lan, hơn một triệu gia đình bị thiếu nước trầm trọng."

"El Nino không phải là hiện tượng do con người tạo ra, mà chính là thiên nhiên. Vì sao lại xuất hiện dòng nước ấm đột ngột ở phía đông Thái Bình Dương để khởi đầu hiện tượng El Nino? Một trong những nguyên nhân lớn gây ra hiện tượng El Nino là sự thay đổi hướng gió, tuy nhiên đến nay các nhà khoa học vẫn chưa có lời giải đáp hoàn toàn thống nhất. Những nguyên nhân khác bao gồm sự thay đổi áp suất không khí, Trái Đất nóng dần lên, hay cả các cơn động đất dưới đáy biển."

"Không phải El Nino lúc nào cũng gây tai họa cho con người. Cách đây hơn 5000 năm, khi mà hiện tượng này mới được ngư dân Peru phát hiện thì El Nino đồng nghĩa với "tin mừng". Vì nước biển lúc ấy tăng lên đủ ấm để vi sinh vật phát triển. Chúng là thức ăn cho cá biển. Nhờ thế nền đánh bắt cá của các nước ven biển Nam Mỹ phát triển mạnh. Nếu năm nào mà hiện tượng El Nino không làm cho nhiệt độ nước biển tăng lên quá cao thì năm đó sẽ có mùa cá bội thu. Ngoài ra, El Nino còn làm cho một số hoang mạc khô cằn nhất thế giới như Antacama (Nam Mỹ) có những cơn mưa lớn giúp cho thực vật tại nơi đây phát triển đáng kinh ngạc. Tiêu biểu là vào năm 2015, hoa đã nở rộ khắp Hoang mạc Antacama."

-Laptop của anh C có ích thật! Nói cho ngay, nó đã cho chúng tôi biết được nhiếu điều mà trước đây, khoảng 5 năm về trước, khó lòng mà biết được. -Ông A xem xong, thổ lộ. -Anh C chính là người tay hòm chìa khóa, mang tri thức nhân loại đến cho anh em chúng tôi đấy. Đúng không mày, Thu?

-Đúng đấy! -Chúng ta xác nhận ngay lập tức. -Trong tương lai, có lẽ nhiều môn học trong chương trình giáo dục sẽ chỉ còn đại cương. Ai muốn tìm hiểu sâu hơn, rộng hơn thì đã có máy vi tính (và đây có thể là một hướng cần chú ý để cải cách giáo dục!), chẳng hạn những môn như: địa lý, lịch sử, à, cả những môn về khoa học xã hội nữa chứ.

-Và học sinh lúc đó sẽ không làm toán được nữa nếu không có máy vi tính bên cạnh.

-Nói gì đến tương lai xa xôi. Ngay bây giờ, nếu đưa ra một phép tính đơn giản thôi, ối người phải bó tay, không làm được! -Ông C góp chuyện. -Vừa mới hôm kia, để giải một phương trình bậc hai một ẩn đơn giản, tôi nhờ con tôi lập biểu thức Delta, nó chịu chết. Ấy vậy mà nó đang làm kế toán trưởng giỏi của một công ty đấy.

Ông A gật gù:

-Thật là lạ kỳ! Hình như hoạt động xã hội có tác động hai chiều, loài người càng tiến lên văn minh thì tư duy con người càng thoái hóa đi, và đến lúc con người chỉ biết bấm nút? Nghĩ vậy nhưng tôi không tin!Có lý nào con người đi máy bay lại có bộ não của một con heo!? Nhờ có học hỏi, truyền thụ và kế thừa, con người sẽ bảo tồn được những nhận thức đúng đắn về tự nhiên mà mình đã khám phá ra được, văn minh đã đạt được của loài người vẫn được bảo tồn.

-Đúng thế đấy! -Ông C đồng tình. -Tôi còn cho rằng, rồi đây, con người còn có thể chế ngự được những hiện tượng thiên nhiên gây bất lợi cho con người như: bão tố, động đất, núi lửa phun trào...

Ông A nói tiếp, có vẻ chưa thỏa:

-Nhưng chỉ chế ngự được nhất thời và cục bộ. Vì thiên nhiên trên Trái Đất là bộ phận của tự nhiên vĩ đại (là môi trường cho hoạt động xã hội triển khai) nên tất yếu cũng phải tuân theo những quy luật tự nhiên đặc thù. Con người chỉ có thể làm biến đổi được tính đặc thù của các quy luật tự nhiên, chứ không thể phá vỡ được tính chung, tính khách quan các quy luật của tự nhiên! Chẳng hạn, nước chảy chỗ trũng là quy luật tự nhiên, sông thường chảy ra biển là đặc thù. Có thể làm cho dòng sông ấy tự nhiên chảy đi chỗ khác nhưng không thể làm cho dòng sông ấy tự nhiên không chảy về chỗ trũng. Hoặc có thể chế ngự được núi lửa này, núi lửa kia, chỗ này chỗ kia, nhưng không thể tiêu diệt được toàn bộ hiện tượng phun trào núi lửa.Con người có thể làm mình tự do tương đối được, và phải bằng lòng với thứ tự do ấy, chứ làm sao mà tự do tuyệt đối được, khi không khắc phục được sức hấp dẫn? Muốn hiểu tự do tương đối thì trước hết phải hiểu sự rơi....tự do! Tuân theo nguyên lý tự nhiên, con người sinh ra cũng cố gắng tồn tại. Muốn tồn tại, phải kiếm ăn. Lúc đầu, con người cũng chỉ đi kiếm ăn đơn thuần như loài vật. 
Quá trình gian khổ trong kiếm ăn, tuân theo quy luật đấu tranh sinh tồn, tuân theo quy luật tiến hóa, con người được hun đúc nên tư duy trừu tượng. Đặc tính quan trọng bậc nhất của tư duy trừu tượng là tích cực suy nghĩ sáng tạo. Suy nghĩ sáng tạo sẽ tất nhiên dẫn tới hành động sáng tạo. Từ đó, loài người vừa tích cực mở rộng chủng loại thức ăn có sẵn trong thiên nhiên vừa tích cực tác động vào thiên nhiên để tạo ra những nguồn thức ăn dồi dào mới (và cả những vật phẩm tiêu dùng phi lương thực mới). Do hối thúc của nhiều yếu tố, trong đó yếu tố chủ yếu có thể là tăng trưởng dân số lạm phát qua từng thời kỳ, đã làm xuất hiện hình thái xã hội trong lối sống loài người và sự sản xuất trong việc kiếm ăn để sinh tồn của loài người. Theo quan niệm của triết học Mác, sản xuất là hoạt động đặc trưng của con người và xã hội loài người. Sản xuất xã hội bao gồm: sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần và sản xuất ra bản thân con người. Ba quá trình đó gắn bó chặt chẽ với nhau, tác động qua lại với nhau. Trong đó, sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng công cụ lao động tác động vào tự nhiên, nhằm cải biến các dạng vật chất của tự nhiên, để tạo ra của cải vật chất thỏa mãn nhu cầu tồn tại, phát triển của con người. Vì trong thế giới sinh vật, kiếm ăn để sống còn là yêu cầu cơ bản và tất yếu của tồn tại, nên trong xã hội, hoạt động sản xuất cũng là hoạt động cơ bản và tất yếu của loài người. Nhưng muốn sản xuất được, loài người phải có một lực lượng xã hội, gọi là lực lượng lao động (mà Mác gọi là lực lượng sản xuất). Vậy lực lượng lao động là năng lực thực tiễn của con người trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất. Lực lượng lao động bao gồm người lao động với kỹ năng lao động của họ và tư liệu lao động, trước hết là công cụ lao động. Trong quá trình sản xuất, sức lao động của con người và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động, kết hợp với nhau tạo thành lực lượng sản xuất. Nhu cầu tiêu dùng (thực phẩm và phi thực phẩm) ngày một tăng đòi hỏi lực lượng sản xuất phải tăng theo cả về số lượng lẫn chất lượng. Và để tăng năng lực sản xuất thì trong hai thành phần hợp thành lực lượng sản xuất, phát triển công cụ lao động vẫn là cơ bản. Phải nói, quá trình sản xuất cũng là quá trình phát triển trình độ của lực lượng sản xuất từ thấp lên cao, và theo tôi, cũng là quá trình làm sâu sắc những cảm giác sinh tồn để hình thành nên thứ gọi là tình càm, và đồng thời cũng hình thành nên mối quan hệ trong sản xuất. Cũng theo Mác thì quan hệ trong sản xuất (hay còn gọi là quan hệ sản xuất) là quan hệ giữa người với người (trong sản xuất và tái sản xuất xã hội), gồm ba quan hệ thành phần: quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức lao động sản xuất, quan hệ phân phối sản phẩm lao động. Trong đó, quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất là quan hệ xuất phát, quan hệ cơ bản, đặc trưng cho quan hệ sản xuất trong từng xã hội. Cuối cùng, lực lượng sản xuất cùng với quan hệ sản xuất hợp thành phương thức sản xuất và phương thức sản xuất là yếu tố hợp thành chủ yếu của hình thái kinh tế-xã hội. Lịch sử xã hội loài người cho đến nay, Mác cho rằng, đã trải qua bốn hình thái kinh tế-xã hội từ thấp đến cao:

■ Hình thái KTXH cộng sản nguyên thủy (công xã nguyên thủy)

■ Hình thái KTXH chiếm hữu nô lệ

■ Hình thái KTXH phong kiến

■ Hình thái KTXH tư bản chủ nghĩa,

và sẽ đạt đến trạng thái cuối cùng là hình thái KTXH cộng sản chủ nghĩa.

-Từ nãy giờ anh hầu như toàn nói theo quan niệm của triết học Mác. Tôi muốn nghe quan niệm của chính anh cơ! -Ông C nói cắt ngang.

-Tôi đã nói rồi, triết học Mác nói chung có nhiều quan niệm đúng. Chỉ cần điều chỉnh, bổ sung cho nó đích đáng thêm thôi. Ở đây, quan niệm về hình thái kinh tế-xã hội có lẽ cũng đúng. Tôi thừa nhận!

-Nói tiếp đi bác A! -Chúng ta dục. -Cho em hỏi, nguyên nhân nào dẫn đến sự chuyển hóa từ hình thái KTXH này sang hình thái KTXH khác? Hiện nay, từ hình thái KTXH tư bản chủ nghĩa có thể chuyển sang hình thái KTXH phong kiến được không?

-Cái thằng Thu này!... Từ từ! -Ông A nói tiếp. -Mác cho rằng loài người đã trải qua bốn hình thái KTXH, còn tôi cho rằng sau hình thái KTXH cộng sản nguyên thủy phải đến hình thái KTXH tư bản nguyên thủy, nghĩa là có năm hình thái KTXH mà loài người đã trải qua. Theo Mác, sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là một quy luật. Lực lượng sản xuất phát triển thì quan hệ sản xuất biến đổi theo phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. Sự phù hợp đó làm cho lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển. Khi tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất phát triển đến mức nào đó sẽ mâu thuẫn với quan hệ sản xuất hiện có, đòi hỏi xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ để hình thành quan hệ sản xuất mới phù hợp với lực lượng sản xuất đang phát triển, làm phương thức sản xuất cũ mất đi, phương thức sản xuất mới xuất hiện…Sự phát triển của lực lượng sản xuất từ thấp đến cao qua các thời kỳ lịch sử khác nhau đã quyết định sự thay thế quan hệ sản xuất cũ bằng quan hệ sản xuất mới cao hơn, đưa loài người trải qua nhiều hình thái kinh tế – xã hội khác nhau từ thấp lên cao, với những kiểu quan hệ sản xuất khác nhau. Như vậy, sự phát triển của xã hội loài người là sự chuyển hóa hình thái KTXH từ thấp đến cao, với trình độ của lực lượng sản xuất ngày càng cao, chứ không thể ngược lại. Theo Mác, hình thái KTXH đầu tiên của loài người là công xã nguyên thủy. Ở hình thái này, con người chưa có khái niệm sở hữu. Tiếp đến, tôi cho rằng, hình thái KTXH phải là tư bản nguyên thủy, con người đã có ý niệm rõ rệt về sở hữu tư nhân, về riêng-chung, về lao động-hưởng thụ...Vào thời kỳ này, đã dần hoàn chỉnh thực thể nhà nước, đã hình thành cặp khái niệm thống trị-bị trị, con người đã biết đến chiến tranh, cướp bóc, tàn sát, coi chiến tranh xâm lược như là một hình thức kiếm ăn đương nhiên khi sự sống còn bị đe dọa, tình cảm con người đã trở nên khá sâu sắc, trở thành một thứ cảm xúc sinh vật đặc thù gọi là nhân tính, chỉ có ở con người. Có lẽ chính chiến tranh đã đưa xã hội loài người từ hình thái KTXH tư bản nguyên thủy lên hình thái KTXH chiếm hữu nô lệ. Như vậy quan niệm về nguồn gốc chiến tranh của tôi gần giống với của Học giả người Anh Thomas Robert Malthus, và khác với của triết học Mác. Trên Wikipedia (đọc từ laptop của anh C!) thấy viết thế này: "Nguyên nhân của chiến tranh thường do mâu thuẫn giữa các giai cấp, dân tộc, tôn giáo phát triển đến mức gay gắt nhất hoặc do mâu thuẫn trong nội bộ một dân tộc, tôn giáo(...) Nói tóm lại, chiến tranh là sự xung đột do từ mâu thuẫn ý thức giữa các tư tưởng khác nhau. Nguyên nhân của những mâu thuẫn nầy xuất phát từ tham vọng riêng của từng thực thể con người. Khi những tham vọng này đối chọi nhau đến mức độ căng thẳng cao độ thì chiến tranh xảy ra (...). Hậu quả của chiến tranh không chỉ có sự hoang tàn mà còn có cả sự tiến bộ. Chiến tranh là thành phần không thể thiếu trong quá trình tiến hóa của tất cả các sinh vật, đoàn thể, tổ chức hầu đạt được mục tiêu sống còn và phát triển.", "Những người theo thuyết lịch sử chú ý đến khía cạnh bất khả kháng của chiến tranh, họ cho rằng nó ngẫu nhiên nó như là một tai nạn giao thông(...)
Thomas Malthus

nhà kinh tế học
Sinh 13 tháng 2, 1766
Mất 23 tháng 12, 1834 (68 tuổi)
Bath Abbey,Anh
Nơi cư trú Anh
Ngành kinh tế
Alma mater Đại học Cambridge
Nổi tiếng vì thông qua Thuyết dân số của ông


Theo thuyết này chiến tranh xuất phát từ tâm lý của con người, cho rằng đó là "bản năng xâm lược" của con người, là "hành vi" của con người. Các đại diện của thuyết này như E.F.M. Durban và John Bowlby cho rằng loài người đặc biệt là đàn ông sinh ra đã có thói quen xung đột(...).", "Học thuyết nhân khẩu có 2 nhóm: những người theo thuyết Malthus và những người theo thuyết bùng nổ dân số trẻ. Theo thuyết Malthus thì sự mất cân bằng giữa việc tăng dân số và tăng thức ăn là nguồn gốc của xung đột. Nghĩa là trong khi dân số tăng theo cấp số nhân thì nguồn tài nguyên, của cải lại tăng theo cấp số cộng tạo ra sự mất cân đối dẫn đến chiến tranh. Lý thuyết bùng nổ dân số trẻ lại quan niệm do sự mất cân đối giữa những lực lượng trẻ được đào tạo, đến tuổi trưởng thành, cần có việc làm và số lượng những vị trí có thể cho họ trong xã hội là nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự nổi loạn trong xã hội (bao gồm cả chiến tranh)(...). Học giả người Anh Thomas Robert Malthus (1766 - 1834) cho rằng dân số luôn tăng tận khi chúng bị hạn chế bởi chiến tranh, bệnh tật và đói kém. Đây là lý thuyết được tính toán với xã hội trước đây khi mà nền sản xuất chưa phát triển và tỷ lệ tăng dân số không điều khiển được.". Còn theo triết học Mác thì: "Chiến tranh là một hiện tượng chính trị xã hội mang tính lịch sử, là hoạt động đấu tranh giữa các giai cấp, các nhà nước, các lực lượng chính trị có địa vị, lợi ích đối lập nhau trong một nước hoặc giữa các nước nhằm đạt được mục đích chính trị nhất định.", "Chiến tranh có nguồn gốc từ chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất và đối kháng giai cấp không thể điều hoà. Trong đó, chế độ chiếm hữu tư nhân là nguồn gốc kinh tế - nguồn gốc sâu xa; đối kháng giai cấp là nguồn gốc xã hội - nguồn gốc trực tiếp của chiến tranh". Xã hội loài người tiếp tục phát triển, đòi hỏi phải phát triển lực lượng sản xuất (chủ yếu là giải phóng nô lệ). Từ đó mà hình thành hình thái KTXH phong kiến. Cuối thời phong kiến, ở châu Âu, lực lượng sản xuất (chủ yếu là trình độ văn minh của công cụ lao động!) có những bước phát triển mạnh mẽ, dẫn đến đòi hỏi về cạnh tranh tự do trong sản xuất-thương mại phải được giải quyết. Đó là nguyên nhân nổ ra các cuộc cách mạng tư sản và hình thái KTXH tư bản chủ nghĩa cùng với loại nhà nước theo thể chế cộng hòa ra đời. Trong thời tư bản, làm công ăn lương trở thành hình thức kiếm ăn chủ yếu thứ hai (hình thức thứ nhất là tác động vào thiên nhiên), và tích lũy tư bản trở thành như mục đích của sản xuất, như một yếu tố phát triển lực lượng sản xuất. Tình hình đó đương nhiên dẫn đến áp bức bất công, chiếm đoạt quá mức lao động thặng dư (bóc lột) đối với công nhân, của tầng lớp tư sản thời kỳ đầu, gây ra cuộc đấu tranh quyết liệt của tầng lớp vô sản như lịch sử thế giới đã từng...

-Làm tợp rượu cho thêm sung rồi nói tiếp, bác A! -Chúng ta dơ ly rượu đầy tràn của mình ra, chờ cụng. Phải thừa nhận, ông A nói hay thật!

-Ờ, kể cũng dễ nể! -Ông C nói. -Nhưng niềm tin của tôi về triết học Mác vẫn không thay đổi! Các ý niệm vừa nói của anh A dù sao vẫn chưa được kiểm chứng.

Thật kỳ lạ, đạo Phật ra đời chỉ vì mong muốn khắc khoải là xoa dịu nỗi niềm đau khổ ở con người, dẫn đến "diệt khổ". Nhưng quan niệm về thế giới của nó chứa đựng biết bao mù quáng không thể khắc phục được. Ấy vậy mà người ta vẫn tin đến sái cổ! Những người thấm nhuần triết học Mác thường bảo thủ như thế! Đáng buồn thay! Như một tôn giáo, khi đã gieo được đức tin (dù phi lý) vào lòng người thì khó mà giũ bỏ. Tối nay, nhìn ông C, tôi mường tượng đến một lô cốt mộ đạo kiên cố!...

Ông A uống cạn ly rượu cụng rồi nói, cười cười, giọng khoan hòa:

-Tôi nói rồi. Đây chỉ là cuộc trà dư tửu hậu cho vui thôi! thắng thua mà được gì? Thôi, tối nay chúng mình nhậu đến đây thôi nhé anh em, say mất đất rồi!... -Và như để kết luận cuộc trò chuyện, ông A thêm. -Câu nói của Gallilê khi ra khỏi tòa án dị giáo La Mã vẫn nóng hôi hổi: "Dù sao thì Trái Đất vẫn quay!". Và có lẽ, xã hội loài người tiến lên văn minh được là nhờ phe "cấp tiến", dù chịu nhiều đau thương hơn, nhưng bao giờ cũng thắng lợi trước phe "bảo thủ"!

Dù sao thì qua cuộc nhậu này, chúng ta đã vô tình học được rất nhiều từ những điều ông A giảng giải.

                                                                        ***

-Alô! Thu đó à? Đang làm gì đấy? Thôi dẹp!....Sang nhậu đi...Ờ...ờ...Năm giờ rồi...Còn sớm gì nữa!

Ông B đã đến nhà ông A, gọi tôi chát chúa qua ĐT.

-Em sang liền! -Dù đang dở tay chăm sóc mấy cây kiểng, nhưng nghe ông B gọi, chân tôi đã nhấp nhổm. Như vậy đã gọi là ghiền rượu chưa nhỉ?

Khi tôi sang, bàn nhậu đã chỉnh tề, vừa kịp cụng ly đầu tiên.

-Hôm qua, bận xin giấy phép làm thêm cái gác. Chiều đi nhậu với thằng nhà đất phường, tốn gần triệu bạc. Mẹ kiếp! -Ông B mở đầu câu chuyện.

-Thời buổi bây giờ "chúng nó" sách nhiễu ghê lắm. Nhà tôi cấp bốn, năm ngoái chỉ thay vì kèo gỗ đã bị mối mọt bằng vì kèo sắt, nhân tiện, cơi lên cao khoảng năm tấc cho mát, mà phải "cho" chúng nó mất 500 ngàn đồng.

Tôi vuột miệng:

-Chính đáng như thế việc gì phải "cho" chứ? Cứ làm thôi!

-Mày chẳng biết mẹ gì! Sống dưới chế độ này gần cả đời mà cứ như thằng ngố ấy. Thử không "cho" xem? Đến tám hoánh mới làm được! -Ông B gằn giọng.

Đến lượt ông A:

-Như lũ quan xu thời ấy! Chỉ biết tung hô chế độ, có ông nào thấm thía nỗi bức xúc đó của người dân? Xã hội đầy rẫy tệ nạn, ngày càng suy đồi. Thế mà lúc nào cũng nói đến những chuyện to tát đẩu đâu, đến những công trình vĩ đại, những điều tốt đẹp. Ghẻ trong người thì không cảm thấy ngứa, mặc cho phát tán. Chán lắm! Một cá nhân, cách thức phê và tự phê có thể còn khiên cưỡng, chứ một xã hội, không có phê và tự phê, thì làm sao mà không bất bình được!?


Ông C rụt rè:

-Bao giờ nước mình đến được xã hội XHCN (Xã Hội Chủ Nghĩa- viết tắt) nhỉ? Trong xã hội ấy có lẽ không còn tệ nạn nữa!

-Còn khuya! -Ông B xẵng giọng.

Sau cái sẵng giọng của ông B, cả bàn nhậu rơi vào im lặng. ông C ngẩng mặt lên lơ đãng nhìn bầu trời đầy sao. Ông B thì nhìn ra cây nhãn cổ thụ ở trước sân nhà ông A đang độ quả chín. Đàn dơi đâu về chao liệng, ăn nhãn, trong liên tưởng, dễ thấy như đàn chim én báo hiệu mùa xuân đã cận kề. Còn chúng ta ngồi nhìn lần lượt, hết ông này đến ông kia. Được một lúc, chúng ta phá tan sự im lặng:

-Sao tối nay uống rượu buồn quá! Chẳng có gì vui!...Hay là bác A nói tiếp về triết học đi!...

-Hôm qua tôi nói về vấn đề gì nhỉ? -Ông A nhìn chúng ta, nói. -A! Đúng rồi!...Về hình thái kinh tế-xã hội.

-Hôm qua bác A nói hay lắm! Tiếc là bác không có mặt! -Chúng ta nói với ông B, rồi lại quay sang ông A. -Cho em hỏi bác A thế này: theo Mác quan niệm, xã hội loài người có năm hình thái KTXH. (mà bác cho là sáu!), đã trải qua ba (mà bác cho là bốn!), đang ở hình thái thứ tư (mà bác cho là năm!) là hình thái TBCN. Vậy khi nào thì chuyển hóa sang hình thái cuối cùng, hình thái KTXH cộng sản chủ nghĩa? Nếu sự chuyển hóa ấy là tất yếu, thì Việt Nam cần gì phải nêu khẩu hiệu "định hướng XHCN" nữa?

-Chà, câu hỏi của thằng Thu quá hay! Anh A có trả lời được không đấy? - ông B ngồi thẳng người, tỏ ra phấn khích trở lại.

-Câu hỏi kể ra cũng xuất sắc, nhưng...không khó trả lời! -Ông A vào cuộc với lời khẳng định chắc nịch. -Như đã nói, việc cố gắng sống còn, sự tác động bất lợi của quy luật tăng trưởng số lượng lạm phát, cùng với từng giai đoạn thiên tai bất lợi và thuận lợi xen kẽ...,đã là những yếu tố nguyên nhân kết hợp với đặc tính sáng tạo hối thúc làm phát triển lực lượng sản xuất, tiền đề tồn tại của hình thái KTXH (kinh tế xã hội). Để từ trạng thái kiếm ăn tương tự loài vật lên hình thái KTXH cộng sản nguyên thủy, loài người đã tăng cường lực lượng lao động bằng cách khám phá ra loại lương thực mới (lúa nước, lúa mỳ...), nhằm chuyển sang lối sống lấy định cư lâu dài làm chủ yếu, cải tiến và cải tiến căn bản công cụ lao động (thời đại đồ đá mới, đồ gốm, đồ đồng!). Sự vận động xã hội trong thời đại cộng sản nguyên thủy đã làm nảy sinh ra sự tư hữu tư tiệu sản xuất, sự tích lũy của cải, gây ra hiện tượng "tư nhân hóa xã hội", làm hình thành nhà nước, hình thức chiếm đoạt tư liệu sản xuất bằng chiến tranh giữa các cộng đồng người với nhau trở thành phổ biến. Tất cả tổng hợp lại, tác động đến xã hội, làm cho xã hội chuyển hóa từ hình thái cộng sản nguyên thủy lên hình thái tư bản nguyên thủy. Cần chú ý rằng, sau đó, sự phân hóa của lực lượng lao động thành một bộ phận để thực hiện bạo lực, để tiến hành chiến tranh mới là nguyên nhân chính đưa đến sự chuyển hóa xã hội chứ không phải là sự phát triển của nó, thành xã hội chiếm hữu nô lệ! 
Như vậy, sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất được cho là đóng vai trò động lực chính làm hình thành các hình thái kinh tế – xã hội khác nhau từ thấp lên cao, với những kiểu quan hệ sản xuất khác nhau, như một hiện tượng phổ biến về phát triển xã hội nói chung, theo quan niệm của triết học Mác, có lẽ không còn đúng nữa(?). Giải phóng nô lệ cũng là một hình thức phát triển lực lượng lao động. Đây mới chính là tác nhân chủ yếu làm cho xã hội loài người từ xã hội chiếm hữu nô lệ phát triển thành xã hội phong kiến. Còn hình thái KTXH tư bản chủ nghĩa hình thành được là do yêu cầu được tự do kinh doanh trong xã hội đòi hỏi. Nhưng yếu tố đóng vai trò là động lực cơ bản, làm cho tiến trình không thể đảo ngược là cuộc cách mạng khoa học-kỹ thuật lần I ( thế kỷ XVIII, xuất hiện máy hơi nước). Có thể nói, việc chế tạo ra động cơ hơi nước đã mở ra phương hướng giải phóng triệt để sức sản xuất, sáng tạo ra phương thức thứ hai nhằm lao động để sống còn cho con người là sản xuất công nghiệp. Sản xuất công nghiệp, đến lượt nó, lại đóng vai trò tiền đề làm xuất hiện một dạng lực lượng lao động mới, mà Mác gọi là "giai cấp công nhân" hay "lực lượng làm thuê ăn lương". Nếu tầng lớp quí tộc thời phong kiến sống phè phỡn nhờ địa tô của người lao động và các cuộc khởi nghĩa nông dân khởi nguồn từ sự chống bóc lột ấy, thì tầng lớp tư sản của chủ nghĩa tư bản thời kỳ đầu tích lũy tư bản để xây dựng chủ nghĩa tư bản nhờ giá trị thặng dư của giai cấp công nhân và cách mạng vô sản cũng từ sự chống bóc lột quá đáng giá trị thặng dư mà khởi phát...

-Này anh A ơi! Theo như tôi nhớ thì Mác có xây dựng hẳn một học thuyết về giá trị thặng dư để lột trần sự bóc lột công nhân của tầng lớp tư sản. Học thuyết ấy như thế nào nhỉ? Theo quan niệm của anh, tấng lớp tư sản có nhất thiết phải bóc lột công nhân không? -Ông B lên tiếng ngất lời ông A. Sau khi đã nêu ra các câu hỏi, ông B quay sang tôi -Lấy thêm rượu đi, Thu. Hết rượu rồi!

-Quân ta uống được một lít nữa không ta? -Tôi hỏi.

Ông A nhăn mặt:

-Ồi!...Lấy đi! Không uống hết, mai uống tiếp. Để đó, rượu có ế đâu mà sợ?

Đến lượt ông C nói:

-Đây rồi! Trên Wikipedia nói thế này (cũng là theo triết học Mác) về giá trị thặng dư:

"Giá trị thặng dư là một trong những khái niệm trung tâm của kinh tế chính trị Marx-Lenin. Karl Marx đã nghiên cứu và đưa ra một số công thức tính toán xung quanh khái niệm này trong các tác phẩm viết về kinh tế chính trị của ông. Nó được sử dụng để khẳng định lao động thặng dư của công nhân bị các nhà tư bản lấy đi, là nền tảng cho sự tích lũy tư bản"."Trong học thuyết này Marx đưa ra công thức T-H-T’ (tiền-hàng hóa-tiền) để minh họa cho sự biến đổi của vốn (tư bản) dạng tiền sang dạng hàng hóa và cuối cùng quay trở lại dạng tiền ở mức cao hơn mức ban đầu một lượng ΔT (nghĩa là T’=T+ ΔT). Bởi tất cả giá trị được tạo thành trong quá trình biến đổi thông qua sản xuất hàng hóa là do lao động (theo Thuyết giá trị về lao động), mà chủ yếu là lao động của người làm thuê, nên giá trị thặng dư ΔT cũng là giá trị do lao động kết tinh. Tuy nhiên, giá trị này không được chia đều cho những người trực tiếp làm ra nó, mà thuộc quyền sở hữu của chủ tư bản"."Hình thức cao nhất của sự phát triển tư bản là cho vay lãi. Chủ nhân của tư bản vay lãi có cảm giác rằng tiền đẻ ra tiền và công thức vận động của tư bản biến thành T - T’". "Giá trị thặng dư được Marx xem là phần chênh lệch giữa giá trị hàng hóa và số tiền nhà tư bản bỏ ra. Trong quá trình kinh doanh, nhà tư bản bỏ ra tư bản dưới hình thức tư liệu sản xuất gọi là tư bản bất biến và bỏ ra tư bản để thuê mướn lao động gọi là tư bản khả biến. Tuy nhiên, người lao động đã đưa vào hàng hóa một lượng giá trị lớn hơn số tư bản khả biến mà nhà tư bản trả cho người lao động. Phần dư ra đó gọi là giá trị thặng dư. Tức là sản lượng của hàng hóa làm ra có giá trị cao hơn phần tiền mà nhà tư bản trả cho công nhân và mức chênh lệch đó chính là giá trị thặng dư.

Có thể lấy một ví dụ như sau để giải thích: Giả sử một người lao động có trong tay giá trị nguyên vật liệu là 1000 đồng. Trên cơ sở sức lao động đã bỏ ra, người lao động đó sẽ làm ra được sản phẩm mới có giá trị 1100 đồng. Số tiền 100 chênh lệch đó chính là giá trị thặng dư sức lao động. Tuy nhiên nhà tư bản chỉ trả lương cho anh ta 50 đồng/1 sản phẩm, có nghĩa 50 đồng còn lại là phần nhà tư bản chiếm của người lao động"."Công thức để đo lường giá trị thặng dư: Căn cứ vào việc xác định giá thành của sản phẩm:

GT= C+ V+ m => m= GT - (C+V)

Trong đó:

C là phần tư bản bất biến được chuyển vào giá trị hàng hóa. C bao gồm 02 bộ phận là c1 và c2. c1 là phần khấu hao tài sản cố định phân bổ cho mỗi đơn vị hàng hóa, phần này không tăng lên hay giảm đi trong quá trình sản xuất mà nó chỉ chuyển dịch giá trị từ TSCĐ vào giá trị hàng hóa, sau đó nhà tư bản thu hồi lại bằng trích quỹ khấu hao. C2 là giá trị nguyên, nhiên, vật liệu, phụ liệu, phụ gia, phụ phẩm... và giá trị công cụ, dụng cụ rẻ tiền, mau hỏng (thường là có thời gian sử dụng không quá 01 năm) phân bổ cho mỗi đơn vị hàng hóa. Phần này được chuyển hết 01 lần vào giá trị của hàng hóa (nếu là công cụ, dụng cụ rẻ tiền mau hỏng thì phân bổ từng phần nhưng không quá 01 năm). Cả c1 và c2 đều không trực tiếp tạo ra giá trị mới (nên nó mới có tên gọi là tư bản "BẤT BIẾN"), mà nó chỉ là phương tiện để sinh ra giá trị thặng dư mà thôi, chính đặc điểm này đã che đậy GTTD mà lại biểu hiện ra bên ngoài bằng lợi nhuận.
V là phần tiền công mà nhà tư bản bỏ ra để mua sức lao động của người công nhân, nó còn gọi là lao động sống tạo ra giá trị mới của hàng hóa, nó không những chỉ chuyển toàn bộ giá trị của mình vào giá trị của hàng hóa mà còn tạo thêm phần giá trị tăng thêm (m), (nên mới có tên là tư bản "KHẢ BIẾN"). Phần giá trị tăng thêm này cũng được hình thành do hao phí lao động trừu tượng của người công nhân kết tinh vào hàng hóa, nhưng bị nhà tư bản chiếm đoạt, không trả cho người tạo ra nó, tức là nhà tư bản đã mua giá trị lao động thấp hơn giá trị thật của nó, phần chênh lệch gía trị thật của sức lao động này với giá trị mà nhà tư bản bỏ ra để mua sức lao động của công nhân chính là Giá trị thặng dư - vấn đề cốt lõi đang bàn tới".

Cũng trên "mạng" nhưng ở chỗ khác: "C. Mác đã vạch ra rằng, tư bản không hề phát minh ra lao động thặng dư, rằng: “Nơi nào mà một bộ phận xã hội chiếm độc quyền về những tư liệu sản xuất thì nơi đó người lao động, tự do hay không tự do, đều buộc phải thêm vào thời gian lao động cần thiết để nuôi sống bản thân mình một số thời gian lao động dôi ra dùng để sản xuất những tư liệu sinh hoạt cho người chiếm hữu tư liệu sản xuất”. Quy luật kẻ chiếm hữu tư liệu sản xuất bóc lột người lao động không có tư liệu sản xuất, được thực hiện dưới những hình thức và cơ chế khác nhau trong những hình thái xã hội khác nhau.

Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, giai cấp nô lệ bị lệ thuộc hoàn toàn về thân thể vào giai cấp chủ nô, thì ngoài việc bị bóc lột lao động thặng dư, nô lệ còn bị chiếm một phần lớn sản phẩm cần thiết của giai cấp nô lệ. Trong chế độ phong kiến, giai cấp nông nô đã có một phần tự do về thân thể đối với giai cấp địa chủ và chế độ bóc lột lao động thặng dư biểu hiện dưới hình thức bóc lột địa tô, lao động thặng dư và lao động cần thiết được phân chia rõ ràng. Bởi vậy, theo C. Mác cơ chế bóc lột thời phong kiến có nhiều tiến bộ hơn chiếm hữu nô lệ"."C. Mác đã phát hiện rằng, quan hệ mua bán giữa công nhân và tư bản không phải là mua bán hàng hóa lao động mà là mua bán một loại hàng hóa đặc biệt – hàng hóa sức lao động. Hàng hóa này có giá trị và giá trị sử dụng khác với các hàng hóa thông thường. Giá trị của hàng hóa sức lao động là giá trị những tư liệu sinh hoạt tối thiểu cần thiết để tái sản xuất sức lao động của công nhân và bao hàm những yếu tố tinh thần, lịch sử và dân tộc… – Giá trị sử dụng của hàng hóa này (tức là tiêu dùng nó trong quá trình sản xuất) có khả năng tạo ra một lượng giá trị lớn hơn giá trị của chính nó là sức lao động. Do đó dù nhà tư bản trả đủ giá trị sức lao động cho công nhân trên cơ sở trao đổi ngang giá thì vẫn thu được phần giá trị dôi ra, biến thành lợi nhuận. Như vậy, quy luật giá trị và quy luật sản xuất ra lợi nhuận không phủ định lẫn nhau mà song song tồn tại: trao đổi giữa tư bản và công nhân tuân theo quy luật ngang giá (quy luật giá trị sức lao động) nhưng nhà tư bản vẫn thu được phần dôi ra ngoài giá trị sức lao động; phần dôi ra đó được C. Mác gọi là giá trị thặng dư. Như vậy, bóc lột lao động thặng dư biểu hiện thành bóc lột giá trị thặng dư là quy luật bóc lột đặc thù của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa và là quy luật tuyệt đối của phương thức sản xuất đó"."Trong chế độ bóc lột tư bản chủ nghĩa, sự phân cực xã hội là vô cùng sâu sắc, sự phân hóa giàu nghèo được đẩy tới cực độ. Ở đây của cải ngày càng tập trung vào một số nhỏ các cá nhân là những triệu phú và tỉ phú; ở cực đối lập là những người sống dưới mức nghèo khổ ở các nước tư bản phát triển và đông đảo những người cùng khổ, đói rét ở các nước tư bản đang phát triển. Chế độ bóc lột tư bản chủ nghĩa đã sớm chớp lấy những thành tựu mới của khoa học, kỹ thuật và công nghệ để không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội, do đó năng suất lao động thặng dư cũng ngày càng tăng theo; cơ chế bóc lột tư bản chủ nghĩa đã chuyển hướng sang dựa chủ yếu trên sự tăng năng suất lao động. Cũng trên cơ sở kỹ thuật đã phát triển mà cơ chế bóc lột dựa trên tăng cường độ lao động thái quá và kéo dài ngày lao động một cách che dấu cũng phát triển. Của cải xã hội ngày càng được tạo ra nhiều, nhưng lại chỉ tập trung vào một cực. Mặt khác, nội dung vật chất của chế độ bóc lột tư bản chủ nghĩa là giá trị thặng dư mang hình thức giá trị trao đổi (tức là vàng bạc hay tiền tệ); trong quan hệ bóc lột dựa trên hình thức giá trị trao đổi, lòng thèm khát tăng lao động thặng dư và khát vọng làm giàu trên cơ sở đó được đẩy tới cực độ. Sở dĩ như vậy là vì giá trị trao đổi với hình thức biểu hiện vật chất của nó là vàng, tức tiền tệ, về mặt chất lượng có sức mạnh vô hạn (có tiền là có tất cả), về mặt số lượng bao giờ cũng có hạn. Mâu thuẫn giữa chất lượng có sức mạnh vô hạn và số lượng có hạn đó làm tăng lòng thèm khát vơ vét được nhiều tiền. Do tất cả những điều kiện lịch sử và tình hình trên, quy luật bóc lột tư bản chủ nghĩa đã đẩy sâu quá trình phân cực xã hội mà các xã hội bóc lột trước kia không thể sánh kịp".

Khi mọi người đọc xong, ông C mới nói:

-Theo học thuyết về giá trị thăng dư của Mác thì sản xuất tư bản nhất thiết phải bóc lột công nhân. Vậy theo tôi, cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân để đòi quyền lợi là không tránh khỏi và cánh mạng vô sản tất yếu phải xảy ra như lịch sử thế giới loài người đã chứng minh.

-Không hẳn như vậy đâu. Nếu thế, khó mà giải thích được xã hội Việt Nam hay xã hội Trung Quốc ngày nay. Theo học thuyết giá trị thặng dư của Mác thì giai cấp công nhân VN đang bị bóc lột. Nhưng sao không thấy sự biểu hiện của mâu thuẫn dẫn tới đấu tranh giữa giai cấp vô sản và tư sản?Hơn nữa, ngày nay hầu như không còn nhận thấy mâu thuẫn đối kháng dẫn đến đấu tranh giữa lực lượng tư sản và lực lượng vô sản trên thế giới nữa -Ông B bắt bẻ.

Ông B định nói nữa, nhưng ông C đã cắt ngang:

-Vì có ĐCS VN lãnh đạo. có chính sách phù hợp, hạn chế bóc lột và nhiều yếu tố khác nữa tác động...

Điều ông C nói nghe khiên cưỡng quá! Tôi tin chắc mọi người trong bàn nhậu không đồng tình. Những lúc tranh luận lâm vào bế tắc như lúc này, thường ông A đều "đứng ra" giải thích ổn thỏa. Nghĩ vậy, tôi nói:

-Bác A cho ý kiến đi!

-Ừ! Anh A nói xem nào! Dù sao nói chuyện triết học mộc mạc như anh dễ hiểu hơn những "nhà triết học" nói về triết học. -Ông B thêm, mắt liếc xéo ông C.

Ông A cười rạng rỡ vì thấy mình cũng "có giá":

-Biết nói thế nào nhỉ? Ờ, ờ...đã là sinh vật thì phải kiếm ăn để sinh tồn. Có lẽ để giải thích mọi hiện tượng xã hội đều phải xuất phát từ đây. Nếu cho rằng, phương thức kiếm ăn đơn giản nhất là của động vật, là bản năng tìm mồi, hái lượm và săn bắt thì loài người cũng bắt đầu từ đó. Với phương thức kiếm ăn đó thì động vật và cả người chưa thành người, đều có lối sống với mục đích bản năng duy nhất, đúng nghĩa đen là "vì miếng ăn", hầu như suốt ngày tìm ăn nhưng thường không đủ no và như thế coi như không có thức ăn thặng dư hoặc không biết (vì chưa có khái niệm!) có thức ăn thặng dư. Nếu có tình cảm, sẽ thấy đó là một cuộc sống đầy gian khổ, không dễ dàng gì! Khi loài người qua đấu tranh giành giật cuộc sống đã chuyển biến thành người, nghĩa là đã được trang bị tư duy và biết lao động sáng tạo thì mới có thức ăn thặng dư hoặc biết có thức ăn thặng dư, và biết để giành, tích lũy. Từ đó, loài người không còn sống duy nhất chỉ vì miếng ăn mà còn vì nhiều mục đích khác nữa làm phong phú cuộc sống (!). Tóm lại, lối kiếm ăn như của loài vật không làm ra thặng dư, mà chỉ có kiếm ăn bằng lao động sáng tạo của con người mới có khả năng tạo ra thặng dư. Nhưng không phải chỉ có sức lao động của con người mới tạo ra giá trị thặng dư. Yếu tố tạo ra giá trị thặng dư từ xưa tới nay gồm: gặp thiên thời (!), tăng cường độ lao động, tăng thời gian lao động, cải tiến công cụ lao động, và áp dụng khoa học-kỹ thuật vào sản xuất..., trong đó cải tiến công cụ lao động và áp dụng khoa học-kỹ thuật là hai yếu tố cơ bản, cốt yếu. Mục đích của sản xuất hàng hóa tư bản chủ nghĩa là thu hoạch giá trị thặng dư. Nhưng như trình bày thì không phải cứ thu hoạch giá trị thặng dư là bóc lột. Trong thời kỳ đầu xây dựng xã hội tư bản, để nhanh chóng tích lũy tư bản, một phần vì trình độ sản xuất còn thấp, một phần vì nguồn cung cấp sức lao động khá dồi dào (có thể do lực lượng dư thừa nông dân thoát ly khỏi lao động nông nghiệp, có công việc mệt nhọc hơn lao động ở các công trường thủ công, nhà máy), tầng lớp tư sản đã thu hoạch giá trị thặng dư quá mức (lạm vào mức thu nhập tối thiểu của công nhân chẳng hạn, thông qua sự "cho phép" của nhà nước tư sản!), gây ra hiện tượng bóc lột, áp bức, bất công (nhất là ở các nước thuộc địa!). Ngày nay, do trình độ sản xuất phát triển mạnh mẽ, nhận thức của loài người đã già dặn hơn, nên thu hoạch giá trị thặng dư không "được phép" đến mức bóc lột nữa (chỉ bóc lột...máy móc, khoa học-kỹ thuật!), hoặc bóc lột không nhiều. Điều đó có thể đã giải thích vì sao phong trào đấu tranh vô sản hầu như đã bị triệt tiêu trên thế giới và ở các nước tự nhận cộng sản nhưng hoạt động theo cơ chế thị trường (nghĩa là kinh doanh vẫn theo kiểu cách tư bản chủ nghĩa, mục đích của sản xuất vẫn là thu hoạch giá trị thặng dư) như Việt Nam, Trung Quốc..., đã không hoặc ít xảy ra những hiện tượng thể hiện gay gắt của mâu thuẫn đối kháng giai cấp giữa vô sản và tư sản. Đến đây có thể tạm kết luận: trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, mục đích kinh doanh của nhà tư sản là thu hoạch giá trị thặng dư, làm giàu. Quá trình đó dễ dẫn tới bóc lột nhưng không nhất thiết phải bóc lột!

Nói đến đây, ông A ngưng lại, tay cầm ly rượu lên, không mời cụng ai, uống cạn, mồi điếu thuốc, rồi phân trần vui:

-Nãy giờ nói nhiều quá, khát khô cả cổ. Đó là quan niệm của tôi về sự tiến lên của xã hội loài người đến giai đoạn tư bản chủ nghĩa. Các anh nghe thấy có hợp lý không? Thu, mày thấy thế nào?

-Chỉ hiểu loáng thoáng!...Các anh biết tỏng, em dốt triết học mà! Nhưng phải thừa nhận là anh A nói hay!...Nói nữa đi anh! Còn một hình thái xã hội nữa chưa nói tới là hình thái KTXH cộng sản chủ nghĩa. Theo em hiểu thì về lý thuyết, loài người sẽ tất yếu đạt đến trạng thái xã hội này, nhưng nhìn vào thực tế lại thấy hồ nghi, không biết có tiến tới được không? Phải chăng hình thái cộng sản chủ nghĩa là hình thái KTXH tươi đẹp nhất của xã hội loài người nên xã hội loài người khó đạt tới một cách tất yếu mà phải thông qua ý chí của con người, có lẽ vì thế mà ĐCS Việt Nam mới phải có cụm từ: "định hướng XHCN"? -Tôi giãi bày suy nghĩ của mình.

Rít một hơi thuốc thật dài, rồi ông A mới nói:

-Ý anh B sao, tôi có nên nói tiếp không? Mà thôi, để khi khác! Còn chút rượu để nhậu. Chúng mình nói chuyện khác cho vui đi! Vậy có hợp lý không, anh C?

Ông C đã ngủ tự lúc nào. Nét mặt của ông lộ rõ nét bất mãn, nhưng laptop của ông vẫn mở trừng trừng, trưng ra học thuyết về thặng dư và bóc lột giá trị thặng dư chưa hoàn hảo của Mác...


***

Chiều nay, ông B đến sớm. Ông A đang buồn, thấy thế mừng húm, vội bày ngay bàn nhậu ra sớm hơn mọi khi. Tôi, khỏi phải nói, vừa nghe ông A gọi một tiếng vội phốc sang liền, không đợi gọi đến tiếng thứ hai.

Uống xong ly đầu tiên, tôi dạm hỏi:

-Bác C hôm nay không đến ạ?

-Chắc đến chứ!Nhưng phải tý nữa. Còn sớm mà! -Ông A trả lời.

Ông B móc ĐT ra:

-Để tôi gọi lão ấy xem thế nào...Có chuông reeng!...Alô! anh C đấy à?.Hả...Tôi đây! Tôi là B đây! Tôi đến rồi... Đang nhậu...Đủ cả...còn thiếu anh nữa thôi. Đến nhé! Ừ!...lẹ lẹ lên!

Ông B vừa cất ĐT vào túi, vừa rót rượu, cầm ly rượu lên, mời cụng, uống cạn, rồi sau đó nói tiếp:

-Rượu hôm nay uống ngon quá! Có cho gì vào ngâm không anh A?

-Có gì đâu. Thì chỉ ngâm vỏ trái cây tươi như cam quýt đó, gọi vui là rượu "tần bì" ấy mà! Vẫn như mọi khi thôi! -Ông A trả lời

Tôi góp vui:

-Mồi nhậu hôm nay cũng "bắt" nữa...Nhưng biết vì sao không? Vì hôm nay là ngày nô-en!

-Ối! Thật à? Thế mà tôi cứ ngỡ còn lâu mới tới chứ! -Ông B tỏ vẻ ngạc nhiên.

Ông A chêm vào:

-Tôi cũng thế! Càng về già, thời gian càng trôi nhanh quá! Ngày xưa, hồi còn nhỏ, chờ đến Tết lâu bao nhiêu, thì bây giờ Tết đến nhanh bấy nhiêu! Vèo một cái, đã hết năm,Tết đến!...

Ông C đến, bàn nhậu thế là đủ bộ tứ, "trà tam tửu tứ" mà! Vừa ngồi vào bàn ông C đã nói:

- Giờ này mà phố xá đã đông rồi. Xuýt kẹt xe! Ông nào nhớ ngày xưa không? kẹt xe thành bệnh mãn tính. Người ta bảo mở rộng đường thì hết kẹt. Ấy vậy mà càng mở rộng đường, càng làm thêm đường, lại càng kẹt. Thế mới lạ đời! Còn nạn ngập đường nữa chứ. Mấy chục năm nay, cứ đào lên rồi lại lấp xuống, ngập vẫn hoàn ngập, lại còn ngập nặng hơn nữa mới quái! Thật chả hiểu nổi!

-Ồi dào! Nói chuyện nhà nước này...chán ngắt! Nhưng dù thế nào, chúng ta vẫn sống. Có lẽ loài người là loài tự giác chù động thích nghi tốt nhất thế giới! -Ông B tham gia.

-Đợi đến khi nước mình tiến lên đến CNXH thì may ra...A! xuýt quên! Nói tiếp câu chuyện về hình thái KTXH đi bác A! Rồi đây xã hội loài người có đạt đến trạng thái đó không và bao giờ mới đạt đến hả bác A? -Tôi lái câu chuyện về đề tài còn dang dở.

Như chạm đúng mạch, ông C nhanh chóng mở laptop.

-Ừ! Phải đấy! Xem trên "mạng" nói thế nào đã. Muốn nói về vấn đề gì mà không nắm được khái niệm của nó thì...bó tay. -Ông A nói.

Ông C dò đến trang "chủ nghĩa cộng sản" trên Wikipedia và nói như ra lệnh:

-Đây! Xem đi!

Thế là cả bàn nhậu xúm vào đọc:

"Chủ nghĩa cộng sản là một cấu trúc kinh tế xã hội và hệ tư tưởng chính trị ủng hộ việc thiết lập một xã hội phi nhà nước, không giai cấp, bình đẳng, dựa trên sự sở hữu chung và điều khiển chung đối với các phương tiện sản xuất nói chung. Karl Marx cho rằng chủ nghĩa cộng sản sẽ là giai đoạn cuối cùng của xã hội loài người, đạt được qua một cuộc cách mạng vô sản. "Chủ nghĩa cộng sản thuần túy" theo thuyết của Marx nói đến một xã hội không có giai cấp, không có nhà nước và không có áp bức, mà trong đó các quyết định về việc sản xuất cái gì và theo đuổi những chính sách gì được lựa chọn một cách dân chủ, cho phép mọi thành viên của xã hội tham gia vào quá trình quyết định ở cả hai mặt chính trị và kinh tế". "Trong vai trò một hệ tư tưởng chính trị, chủ nghĩa cộng sản thường được xem là một nhánh chính của chủ nghĩa xã hội; một nhóm lớn học thuyết triết học về chính trị và kinh tế được rút ra từ nhiều phong trào chính trị và tri thức với nguồn gốc từ các tác phẩm của các nhà lý thuyết của Cách mạng Công nghiệp và Cách mạng Pháp. Nhánh kia là các đảng Dân chủ xã hội hiện có nhiều ảnh hưởng tại Tây Âu và Bắc Âu. Do cùng chia sẻ học thuyết Marx, các đảng cộng sản và Dân chủ xã hội thường có quan hệ đồng minh với nhau thành một lực lượng chung được gọi là cánh tả". "Karl Marx chưa bao giờ miêu tả chi tiết về việc chủ nghĩa cộng sản sẽ vận hành như thế nào trong vai trò một hệ thống kinh tế, nhưng người ta hiểu rằng một nền kinh tế cộng sản chủ nghĩa sẽ bao gồm sự sở hữu toàn dân đối với các tư liệu sản xuất, đưa đến sự phủ nhận khái niệm về quyền tư hữu tư bản đối với các tài nguyên và nhân lực, cái được coi là tư liệu sản xuất trong thuật ngữ của chủ nghĩa Marx". "Ra đời trong lòng chủ nghĩa tư bản và cách mạng kỹ nghệ thế kỷ XIX, chủ nghĩa cộng sản có một sức hấp dẫn đối với các tầng lớp dưới trong xã hội và cả những người nhân đạo. Phong trào công nhân có sự phát triển mạnh mẽ buộc chủ nghĩa tư bản phải cải cách để tồn tại. Sự phân hóa trong hàng ngũ những người theo chủ nghĩa Marx dẫn đến sự tan vỡ của Đệ nhất và sau đó là Đệ nhị quốc tế. Xuất phát từ hoàn cảnh của xã hội Nga, Lenin bổ sung lý luận của Marx, tuyên truyền rộng rãi chủ nghĩa cộng sản vào phương Đông. Nhiều đảng cộng sản tham gia các phong trào giải phóng dân tộc gắn với lý tưởng cộng sản, chống phong kiến, địa chủ, tư sản, đưa ra các chính sách cải cách ruộng đất, quốc hữu hóa tài nguyên thiên nhiên, nhà máy công xưởng". "Sau đại chiến thế giới lần thứ hai hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa (các nước phương Tây gọi là các nước cộng sản) hình thành. Phong trào cộng sản lan rộng ra cả Mỹ Latin, châu Phi... Nhiều đảng chịu ảnh hưởng của Stalin hay Mao Trạch Đông (không kể các đảng của nhóm Đệ Tứ). Trong khi đó nhiều đảng (phần lớn ở phương Tây) bị xem là theo chủ nghĩa xét lại. Tuy nhiên sự phân hóa lớn nhất giữa những người cộng sản (Đệ Tam) là những người theo Liên Xô và những người theo Trung Quốc. Tình trạng này tồn tại cho đến khi Liên Xô sụp đổ. Sau khi Liên Xô sụp đổ, nhiều đảng cộng sản trên thế giới giải tán, phần lớn những người cộng sản cũ thành lập các đảng dân chủ xã hội, một số đảng viên cũ gia nhập các đảng tự do, bảo thủ hay dân chủ Thiên chúa giáo hoặc các nhóm hệ tư tưởng khác. Một số kiên định theo chủ nghĩa cộng sản nhưng đường lối hoạt động không khác mấy với các đảng dân chủ xã hội, đấu tranh nghị trường. Do ảnh hưởng của định kiến với các chế độ của Liên Xô và Đông Âu trước đây, đa phần các đảng cộng sản ở các nước này chỉ thu được một lượng nhỏ cử tri ủng hộ trong các cuộc bầu cử. Tuy nhiên một số đảng cộng sản do khai thác bất mãn của dân chúng đối với các chính sách kinh tế tự do gây bất bình đẳng xã hội, trở lại cầm quyền dù chỉ áp dụng rất ít các lý thuyết cộng sản ban đầu". "Chủ nghĩa cộng sản là một khái niệm rộng cần phải được hiểu như một tổng hợp các lý luận (chính trị, kinh tế, xã hội), tư tưởng, tâm lý và thực tế thể hiện, các hình thức tồn tại... của một phong trào xã hội rộng lớn - bắt đầu từ thế kỷ 19, nở rộ và bắt đầu suy tàn trong thế kỷ 20 - nhằm xóa bỏ hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa tư bản để xây dựng một xã hội không giai cấp, không có quyền tư hữu đối với tư liệu sản xuất. Trong đó mọi người là bình đẳng, không có hiện tượng "người bóc lột người" và tiến tới xóa bỏ nhà nước trong một tương lai "thế giới đại đồng" khi người với người là bạn, thương yêu lẫn nhau và tại đó năng suất lao động tăng lên rất cao, của cải làm ra đồi dào tới mức phân phối của cải theo nguyên tắc: "Làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu". Trong xã hội cộng sản, con người được tự do toàn diện (kể cả tự do tình dục) nhưng trên cơ sở của sự nhận thức cao, và trên cơ sở của sự ràng buộc vào tư liệu sản xuất chung để bảo toàn lợi ích chung (về điểm này giống với một số nhánh lý thuyết vô chính phủ và chủ nghĩa tự do), và công bằng xã hội, lối sống cộng đồng hài hòa, chứ không phải tự do mà không tính đến các yếu tố công bằng và sự tổn hại lợi ích xã hội (tức sự tự do của người nọ tổn hại đến người kia)". "Theo như lý luận của các nhà kinh điển của chủ nghĩa này thì chủ nghĩa xã hội là giai đoạn đầu tiên của chủ nghĩa cộng sản. Thuật ngữ này được nêu ra lần đầu tiên bởi Lê-nin, là giai đoạn chuyển tiếp đi lên chủ nghĩa cộng sản mà ở đó vẫn còn nhà nước để lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa cộng sản". "Ý tưởng ban đầu của chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa xã hội là chủ nghĩa nhân đạo, là phương tiện để giải phóng con người và xã hội. Vì lý tưởng nhân đạo của nó, chủ nghĩa này đã thu hút được sự chú ý của các tầng lớp quần chúng của thế giới trong thế kỷ 20, tạo nên một phong trào xã hội to lớn mà cuộc đấu tranh của nó là một nhân tố chủ đạo trong lịch sử loài người trong thế kỷ 20. Tuy vậy, xã hội cộng sản chủ nghĩa không còn nhà nước, quân đội, tư hữu, giai cấp, tôn giáo, xóa bỏ các mâu thuẫn sắc tộc đến nay vẫn chỉ là lý tưởng đẹp, chưa trở thành hiện thực".

Khi mọi người đọc xong, ông A mới bắt đầu câu chuyện của mình:

-Rõ ràng, hình thái KTXH cộng sản chủ nghĩa, theo Mác mường tượng, là trạng thái xã hội cuối cùng và đẹp nhất mà loài người có thể đạt tới. Với trạng thái ấy, có thể coi xã hội gần đúng với cõi Niết Bàn mà Đức Phật đã hình dung 2500 năm trước. Hệ thống lý luận của đạo Phật ngày nay, xét về mặt giải thích thế giới, đã như một học thuyết triết học duy tâm, và xét về mục đích hướng con người đến đời sống hạnh phúc thì không khác triết học Mác. Có điều, để đạt đến trạng thái xã hội ấy, theo triết học Mác, con người phải đấu tranh cải tạo môi trường, còn theo đạo Phật con người phải tự đấu tranh nội tại bản thân. Nhưng cho đến nay cả hai con đường ấy đều dẫn tới...vỡ mộng! Đạo Phật, tôi cho là hiển nhiên đã sai vì nó ảo tưởng khi coi tinh thần là một tồn tại không có nguồn gốc vật chất. Còn triết học Mác có sai không khi hơn nửa thế kỷ có một số nước đi theo con đường ấy đến nay đều "rẽ ngang" cả, ngay Việt Nam, tôi cho là nước kiên định đường lối cộng sản nhất, rốt cuộc cũng phải "đổi mới" sang hình thái tư bản chủ nghĩa để sống còn, dù có nói nhăng nói cuội gì đi nữa? Theo một số người còn tin vào triết học Mác, họ cho rằng (sự ngụy biện!) có như vậy là do người ta đã hiển sai Mác chứ Mác vẫn đúng. Theo ý Mác, với quy luật về sự phát triển của lực lượng sản xuất, bằng con đường tự nhiên, rồi xã hội loài người cũng tất yếu đạt đến hình thái KTXH cộng sản chủ nghĩa. Nhưng như thế thì...lâu quá (!), muốn đạt trạng thái ấy sớm hơn, theo Lênin, con người cần phải "bắt tay" vào việc tiến hành xây dựng xã hội, và tác động một cách có ý chí vào xã hội, phải "định hướng" xã hội một cách hợp quy luật (nghĩa là theo đúng "nguyên lý" của chủ nghĩa Mác-lênin) mà trước hết, bằng con đường đấu tranh giai cấp và thực hành chuyên chính vô sản, phải triệt tiêu giai cấp tư sản, xây dựng cho được một nhà nước công-nông. Nhưng than ôi, thực tiễn đã chỉ thị, hình như lý luận của Mác và Lênin về lĩnh vực này đã phạm sai lầm, không khắc phục được...

Ông A dừng lại, uống rượu và mồi thuốc. Tôi tranh thủ trình bày thắc mắc của mình:

-Rất khó hình dung khi trong hình thái KTXH cộng sản chủ nghĩa không còn nhà nước nữa. Điều dễ hiểu là khi phấn đấu đến một xã hội không có nhà nước thì có nghĩa là trước tiên phải tạo ra một xã hội không có đảng phái - xã hội không có nhu cầu tồn tại đảng phái. Cuộc sống loài người có lẽ trở nên nhàm chán, tẻ nhạt, xã hội lúc đó bình yên như hồ nước phẳng lặng. Một xã hội công bằng hầu như tuyệt đối chỉ có thể có khi con người đạt được trạng thái tình cảm (nhờ thoái hóa, nhờ nhận thức?) như những robot hoàn hảo! Hình dung đến một xã hội như thế đã thấy Mác có vẻ sai rồi! Nhưng thôi, bác A nói tiếp đi, có lý luận hơn!

-Triết học Mác là một pho rất đồ sộ và sâu sắc. Với vài lời mà đã phán Mác sai, thì hồ đồ quá đấy,Thu ạ! -Ông C nói như mắng chúng ta.

Ông B thấy vậy, bênh vực:

-Thôi, thôi...thôi! Thằng Thu có khi đúng. Tôi cũng đồng tình. Dù sao Mác cũng không phải là thánh!

Ông C vốn thế, bảo thủ nhưng cũng hiền, ít cãi lại. Có lẽ trong bàn nhậu này, ông C nể phục ông A nhất, ngoài Mác!

Hút xong nửa điếu thuốc, dụi nửa còn lại vào gạt tàn. ông A tiếp tục:

-Như đã nói, có thể tiến lên xã hội cộng sản chủ nghĩa theo hai cách, nhân tạo và tự nhiên. Phù hợp với lý luận của Mác, suy ra từ lý luận của Mác, nếu bằng cách nhân tạo không thành công, thì xã hội loài người vẫn tất yếu tiến lên xã hội cộng sản chủ nghĩa! Bây giờ ta nói đến cách thứ nhất xem sao. Lịch sử loài người khẳng định, phát triển lực lượng sản xuất là yếu tố cơ bản, quyết định đến chuyển biến hình thái KTXH từ thấp đến cao.Vậy như thế nào là lực lượng sản xuất của hình thái KTXH cộng sản chủ nghĩa? Đó phải là một lực lượng sản xuất "không chê vào đâu được" của loài người, đã đạt trình độ hoàn thiện về tự động hóa, có năng lực đảm bảo cho đời sống sinh hoạt của con người "làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu" (nghĩa là sức lao động của con người hòa toàn được giải phóng khỏi lao động trực tiếp làm ra thực phẩm,của cải, công cụ lao động tự động làm việc hầu như không mệt mỏi bằng năng lượng hạt nhân...). Lúc đó, con người sống đúng nghĩa hưởng thụ với duy nhất một thứ tình cảm là "người yêu người, sống để yêu nhau" (thơ Tố Hữu)! Vì con người đến thời đại đó, nói như đạo Phật, là đã đại ngộ, tự giác cao độ, mọi hoạch định đường lối, chính sách đều nhờ máy tính hết, đều hợp lý, và vì không còn mâu thuẫn giai cấp nữa nên cũng không cấn đến nhà nước, nhà nước không tồn tại. Việc hình dung ra một xã hội phát triển cao mà không có nhà nước là một hình dung biểu hiện rõ rệt nhất tính mê sảng, tính ảo tưởng của học thuyết Mác về sự tồn tại của hình thái KTXH cộng sản chủ nghĩa. Vậy thì Mác quan niệm thế nào về nhà nước?...

-Nói gì mà nhiều thế? Trong buồng ngủ nghe cứ oang oang. Khó ngủ quá! Thôi dừng lại đi, cũng khuya rồi, có gì thì để mai nói tiếp. Thu, thấy mày say rồi đấy! Về ngủ đi! Vợ mày hiền thật. Nhưng đừng ỷ y, có ngày tai họa! -Bà A ra đứng cạnh ông A tự lúc nào, dựa tường hóng chuyện, bây giờ mới lên tiếng.

Ông B được dịp, nói bồi:

-Ừ, anh em ơi, nghỉ thôi! có gì mai nói tiếp anh A nhé!

Ông A gật gật đầu, ra chiều đồng thuận, rồi xô ghế, đứng dậy. Bàn nhậu thế là tan hàng. Khi ra về, chúng ta nghĩ mãi: "Không biết vào thời cộng sản chủ nghĩa, đàn bà có còn "sư tử Hà Đông" nữa không nhỉ !?", và bỗng thấy lành lạnh, nổi gai ốc toàn thân, khi nghĩ về vợ mình!

                                                                          ***

Cả ngày chúng ta chỉ mong đến giờ nhậu để được nghe ông A nói tiếp câu chuyện. Hình như ông C cũng vậy, nên khi mọi người vừa đông đủ, vợ ông A đang bày bàn nhậu chưa xong, đã trưng laptop ra:

-Đây, mời quí vị xem "Học thuyết về Nhà nước của Chủ nghĩa Mác-Lênin":

"Học thuyết về Nhà nước của Chủ nghĩa Mác-Lênin hay còn gọi là Lý luận về Nhà nước và Pháp luật của Chủ nghĩa Mác- Lê nin là hệ thống những kiến thức của chủ nghĩa Mác-Lênin về những quy luật phát sinh, phát triển đặc thù, những đặc tính chung và biểu hiện quan trọng nhất của nhà nước nói chung và nhà nước Xã hội chủ nghĩa nói riêng". "Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin thì nhà nước thực chất là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, một bộ máy chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực hiện chức năng quản lý đặc biệt nhằm duy trì trật tự xã hội, thực hiện mục đích bảo vệ địa vị của giai cấp thống trị trong xã hội". " Sự hợp thành quần cư xã hội là một nhu cầu tự nhiên của con người. đã chỉ ra rằng nhà nước chỉ ra đời ở một giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội trên cơ sở xuất hiện chế độ tư hữu và gắn liền với nó là sự phân chia xã hội thành các giai cấp đối kháng, ông cũng luận chứng về tính chất giai cấp và tính lịch sử của nhà nước, làm sáng tỏ chức năng giai cấp cơ bản của nhà nước". "Lịch sử cho thấy không phải khi nào xã hội cũng có nhà nước. Trong xã hội nguyên thuỷ, do kinh tế còn thấp kém, chưa có sự phân hóa giai cấp, cho nên chưa có nhà nước. Đứng đầu các thị tộc và bộ lạc là các tộc trưởng (hay tộc chủ) do những người dân ở đó bầu ra, quyền lực của những người đứng đầu thuộc về uy tín và đạo đức, việc điều chỉnh các quan hệ xã hội được thực hiện bằng những quy tắc chung, những tập quán trong cộng đồng. Trong tay họ không có và không cần một công cụ cưỡng bức đặc biệt nào". "Ph.Ăng-ghen đã mô tả sự ra đời của nhà nước trên cơ sở sự tan rã của chế độ thị tộc". "...lực lượng sản xuất phát triển dẫn đến năng suất lao động tăng, của cải làm ra ngày càng nhiều, và dẫn đến có của cải dư thừa kèm theo đó là sự tích trữ, đồng thời xuất hiện một bộ phận chiến đoạt của cải dư thừa đó (do nắm quyền quản lý, cai quản) hoặc giàu lên nhờ tích trữ, đầu cơ từ đây đã có sự phân hóa giàu nghèo, giữa người có của và người không có của, sự phân hóa giàu nghèo này dẫn đến hiện tượng phân tầng xã hội, phân chia thành các tầng lớp khác nhau từ đó dẫn đến phân chia giai cấp đồng thời và kéo theo xuất hiện mâu thuẫn giai cấp và điều không tránh khỏi là đấu tranh giai cấp, lúc này nhà nước đã có tiền đề rõ ràng cho sự ra đời của mình". "Nguyên nhân trực tiếp của sự xuất hiện nhà nước là mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được. V.I.Lênin nhận định: Nhà nước là sản phẩm và biểu hiện của những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được. Bất cứ ở đâu, hễ lúc nào và chừng nào mà, về mặt khách quan, những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hoà được, thì nhà nước xuất hiện. Và ngược lại: sự tồn tại của nhà nước chứng tỏ rằng những mâu thuẫn giai cấp là không thể điều hoà được. Nhà nước chỉ ra đời, tồn tại trong một giai đoạn nhất định của sự phát triển xã hội và sẽ mất đi khi những cơ sở tồn tại của nó không còn nữa". "Nhà nước đầu tiên trong lịch sử là nhà nước Chiếm hữu nô lệ, xuất hiện trong cuộc đấu tranh không điều hoà giữa giai cấp chủ nô và giai cấp nô lệ. Tiếp đó là Nhà nước Phong kiến, Nhà nước Tư sản và sau cùng là Nhà nước Xã hội chủ nghĩa". "Theo chủ nghĩa Mác thì không có và không thể có nhà nước đứng trên các giai cấp hoặc nhà nước chung cho mọi giai cấp. Nhà nước chính là một bộ máy do giai cấp thống trị về kinh tế thiết lập ra nhằm hợp pháp hóa và củng cố sự áp bức của chúng đối với quần chúng lao động. Giai cấp thống trị sử dụng bộ máy nhà nước để đàn áp, cưỡng bức các giai cấp khác trong khuôn khổ lợi ích của giai cấp thống trị. Đó là bản chất của nhà nước theo nguyên nghĩa, tức nhà nước của giai cấp bóc lột. Theo bản chất đó, nhà nước không thể là lực lượng điều hòa sự xung đột giai cấp, mà trái lại, nó càng làm cho mâu thuẫn giai cấp ngày càng gay gắt. Cũng theo bản chất đó, nhà nước là bộ máy quan trọng nhất của kiến trúc thượng tầng trong xã hội có giai cấp".

-Theo tôi, quan niệm của Mác cho rằng, nhà nước là sản phẩm của một xã hội tồn tại mâu thuẫn giai cấp, là sai lầm! Trong thiên nhiên, lối sống theo bầy đàn, theo "tập thể" (bước đầu tiên của hợp quần xã hội) là lối sống ưu việt hơn hẳn lối sống riêng lẻ, cá thể để sống còn, cho nên sự hợp thành quần cư xã hội là một nhu cầu tự nhiên của con người. Nhưng một tập hợp người muốn hợp thành xã hội thì đương nhiên phải có mối liên kết, những mối liên hệ trong lao động-sản xuất-mưu sinh giữa các bộ phận nội tại. Tương tự như bộ não sinh vật, để duy trì các mối quan hệ ấy, làm cho các mối quan hệ ấy hoạt động một cách thống nhất, đồng bộ, đạt hiệu quả cao (nghĩa là cố gắng tồn tại xã hội!), thì như một cơ thể hoàn chỉnh, xã hội phải có một trung tâm điều hành và mạng lưới thần kinh, Đó chính là nhà nước. Nhà nước thuở ban đầu rất "ngây thơ", sơ khai và "không theo ai" vì mục đích duy nhất, có tính tự nhiên của nó lúc bấy giờ là thống nhất hành động ở cá nhân từng con người thành hành động tập thể, hành động nhất quán của một khối người có năng lực mạnh mẽ hơn để lao động sản xuất, để chống thiên tai địch họa nhằm sống còn. Dần dần, muốn điều hành trôi chảy phải có quyền lực và mọi người trong xã hội đã ủy quyền, cho phép nhà nước (khế ước xã hội!) thiết lập, cũng như sử dụng quyền lực. Nhờ có quyền lực được ủy quyền ấy và sự nảy sinh khái niệm giàu-nghèo làm phân tầng quần chúng trong xã hội đã lũng đoạn nhà nước, làm cho nó dần thiên vị tầng lớp có của, giàu có hơn, tạo thành lực lượng thống trị để chế ngự số bị trị còn lại. Vậy nguyên nhân hình thành nhà nước là do sự "cố gắng tồn tại" của xã hội thuần túy đòi hỏi chứ không phải do sự tồn tại của xã hội có giai cấp đòi hỏi, mặc dù dễ tưởng lầm như Ph.Ăng-ghen quan niệm. Nhà nước không phải của người giàu cũng không phải của người nghèo khi nó chưa bị lũng đoạn, mà là của mọi người, do đó, cần phân biệt khái niệm "nhân dân" nói chung với khái niệm "vô sản". Nếu nhà nước mang bản chất giai cấp như triết học Mác quan niệm, thì nhà nước Việt Nam hiện nay, nói một cách chính xác phải là nhà nước của giai cấp công nhân, "của vô sản, do vô sản và vì vô sản" chứ chưa phải là nhà nước "của dân, do dân và vì dân"! Nhà nước vô sản là nhà nước đã bị tầng lớp vô sản lũng đoạn, lúc này tầng lớp vô sản đã thâu tóm quyền lực, trở thành giai cấp thống trị và chắc gì đã không bóc lột (tuy miệng "xoen xoét" là không bóc lột!)? Mô hình nhà nước đầu tiên có thể đã xuất hiện vào thời tư bản nguyên thủy ở Việt Nam (thời Hùng Vương) hay bên Trung Quốc (cuối thời Nghiêu Thuấn, đầu thời nhà Hạ), và có lẽ vào thời các pharaon (giai đoạn đầu của thời Ai-cập cổ đại)..., tạm gọi là "nhà nước liên minh các thị tộc", chứ không phải nhà nước chiếm hữu nô lệ! 
Vì sự "cố gắng tồn tại"của xã hội là nguyên nhân ra đời nhà nước nên một khi xã hội loài người còn tồn tại thì nhà nước còn tồn tại. 
Theo con đường tự nhiên, bên cạnh sự lớn mạnh của lực lượng sản suất như đã nói, còn phải có sự phát triển của tâm thức con người lên tầm tự giác, tầm giác ngộ cao độ, nhân tính con người chỉ còn mặt tốt, hầu như không còn mặt xấu nữa, nghĩa là con người như robot, không còn tình cảm, hay không còn thể hiện được những sắc thái tình cảm tương phản nhau như yêu-ghét, sướng-khổ... nữa. Lúc đó, cũng theo mường tượng của Mác, do tác động của ba quy luật tự nhiên (tôi thì cho là do tác động của nguyên lý tương tự) mà sự phát triển của xã hội loài người theo đường xoắn trôn ốc, hình thái KTXH cộng sản chủ nghĩa rất giống hình thái KTXH cộng sản nguyên thủy (tôi cho rằng chúng chỉ giống nhau về hình thức, còn về bản chất thì khác nhau xa lắc!). Ở đây, theo triết học duy tồn thì trong thời đại cộng sản nguyên thủy, con người, vì đã khám phá ra cách sống định cư lâu dài nhờ trồng cây lương thực, nên có cuộc sống rất sung túc chứ không phải eo hẹp, đói khát như Ănghen nhận định. Đó là cách thứ nhất để xã hội loài người phát triển thành hình thái KTXH cộng sản chủ nghĩa. 
Bây giờ tôi nói sang cách thứ hai. Đây có thể cho là cách do Lênin khởi xướng. Đấu tranh chống áp bức bóc lột là hiện tượng có tính tất yếu của mọi thời trong xã hội loài người, chứ không riêng gì thời tư bản chủ nghĩa. Trong giai đoạn đầu phát triển xã hội tư bản, do nhiều yếu tố dẫn đến sự bóc lột thậm tệ con người, nhất là tại các nước "thuộc địa", đã làm dấy lên một phong trào đấu tranh rộng khắp của những người làm thuê ở các nước "chính quốc", rồi sau đó, noi gương các nước "chính quốc", là các nước "thuộc địa". Những cuộc đấu tranh ấy, lúc đầu tương tự như các cuộc đấu tranh trong xã hội phong kiến, sau khi giành được thắng lợi, phá tan xiềng xích bóc lột của chế độ quân chủ cũ, lại lập nên một chế độ quân chủ mới với hệ thống xiềng xích bóc lột mới (lúc đầu có thể có tiến bộ hơn!). Để tìm cách xóa bỏ triệt để bóc lột và nhất là để giải phóng lực lượng sản xuất dang trên đà phát triển mà bị chế độ quân chủ cản trở nghiêm trọng, các nhà cách mạng tư sản thời bấy giờ đã ra sức nghiên cứu lý luận và cuối cùng đã đi đến thành lập nên nhà nước (dân chủ) tư sản. Sống trong bối cảnh đó, tiếp thu những thành tựu triết học trước đó, cộng với tài năng thiên bẩm của mình, Mác đã đề ra học thuyết triết học duy vật biện chứng. Trong đó, lý luận về hình thái kinh tế- xã hội của C.Mác cho thấy sự biến đổi của các xã hội là quá trình lịch sử tự nhiên. Vận dụng lý luận đó vào phân tích xã hội tư bản, tìm ra các quy luật vận động của nó, C.Mác và Ph. Ăngghen đều cho rằng, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa có tính chất lịch sử và xã hội tư bản tất yếu bị thay thế bằng xã hội mới- xã hội cộng sản chủ nghĩa. Học thuyết triết học duy vật biện chứng đã mau chóng đóng vai trò làm cơ sở lý luận, hơn nữa làm kim chỉ nam cho các cuộc đấu tranh của nhân dân lao động bị áp bức. Trong kho tàng lý luận đó, C.Mác và Ph. Ănghghen cũng dự báo trên những nét lớn về những đặc trưng cơ bản của xã hội mới, đó là: có lực lượng sản xuất xã hội cao; chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất được xác lập, chế độ người bóc lột người bị thủ tiêu; sản xuất nhằm thỏa mãn nhu cầu của mọi thành viên trong xã hội, nền sản xuất được tiến hành theo một kế hoạch thống nhất trên phạm vi toàn xã hội, sự phân phối sản phẩm bình đẳng; sự đối lập giữa thành thị và nông thôn, giữa lao động trí óc và chân tay bị xóa bỏ...

Để xây dựng xã hội mới có những đặc trưng như trên cần phải qua hai giai đoạn: giai đoạn thấp hay giai đoạn đầu và giai đoạn sau hay giai đoạn cao. Sau này V.I.Lênin gọi giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội và giai đoạn sau là chủ nghĩa cộng sản. C.Mác gọi giai đoạn đầu xã hội chủ nghĩa là thời kỳ quá độ chính trị lên giai đoạn cao của xã hội cộng sản.Vận dụng học thuyết C.Mác vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô trước đây, V. I. Lênin đã phát triển lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, triệt để, toàn diện từ xã hội cũ thành xã hội mới: chủ nghĩa xã hội. Nó diễn ra từ khi giai cấp vô sản giành được chính quyền, bắt tay vào xây dựng xã hội mới và kết thúc khi xây dựng thành công những cơ sở của chủ nghĩa xã hội cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, cơ sở kinh tế và kiến trúc thượng tầng. Như vậy,có thể thấy muốn xây dựng được hình thái KTXH cộng sản chủ nghĩa thì trước hết phải xây dựng được xã hội XHCN. Muốn xây dựng thành công CNXH, trước hết phải giành thắng lợi trong cách mạng vô sản (đấu tranh giai cấp thắng lợi trước giai cấp tư sản!), thực hiện chuyên chính vô sản (nhằm triệt tiêu mầm mống có thể hình thành trở lại giai cấp tư sản), xây dựng được một nhà nước cộng sản vững chắc có một lực lượng sản xuất với trình độ cực cao (đủ sức đáp ứng cho nền kinh tế cộng sản chủ nghĩa!), đồng thời, làm hình thành một thói quen đạo đức "siêu hạng", đối xử giữa người với người chỉ có tình thân ái, sự khoan dung, tuyệt đối không có bạo lực (tạo điều kiện cho xóa bỏ nhà nước) (?). Theo tôi, bằng cách thứ hai, tức là bằng cách con người chủ động xây dựng cơ sở vật chất cho hình thái KTXH cộng sản chủ nghĩa, thì hình thái ấy, nếu có đến, cũng không thể đến nhanh được, vì tác động của con người cũng phải chịu sự khống chế của quá trình tiến hóa tự nhiên. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh, riêng việc xây dựng thành công xã hội XHCN đã khó lắm rồi, thậm chí, nếu theo nghĩa tuyệt đối, có nguy cơ là bất khả! Tuy nhiên, để xây dựng thành công một xã hội XHCN tương đối thôi, thì có thể nhanh được nhưng con người phải biết định hướng vào đâu! Như đã nói, muốn biết được định hướng vào đâu thì phải biết được tại sao Mác đưa ra tiêu chí đấu tranh giai cấp và chuyên chính vô sản nhằm mục đích gì, nghĩa là phải hiểu giai cấp là gì, chuyên chính vô sản là gì? Nhà xã hội học người Mỹ Rodney Stark định nghĩa: "Giai cấp là nhóm người chia sẻ một vị trí giống nhau trong hệ thống phân tầng xã hội". Còn theo Marx và Lenin, giai cấp là những tập đoàn người to lớn, khác nhau về địa vị của họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, khác nhau về quan hệ của họ (thường thì những quan hệ này được pháp luật quy định và thừa nhận) đối với tư liệu sản xuất và phân công lao động, về vai trò của họ trong những tổ chức lao động xã hội, và như vậy là khác nhau về cách thức hưởng thụ và về phần của cải ít hoặc nhiều mà họ được hưởng.Theo Hồ Chí Minh, tất cả của cải vật chất trong xã hội, đều do công nhân và nông dân làm ra. Nhờ sức lao động của công nhân và nông dân, xã hội mới sống còn và phát triển. Nhưng đa số người lao động thì suốt đời nghèo khó, mà thiểu số người không lao động thì lại hưởng thụ thành quả lao động đó. Đó là do một số ít người đã chiếm làm tư hữu những tư liệu sản xuất của xã hội. Họ có tư liệu sản xuất nhưng họ không làm lụng, họ bắt buộc người khác làm cho họ hưởng. Do đó mà có giai cấp. Những người chiếm tư liệu sản xuất không làm mà hưởng, là giai cấp bóc lột hay giai cấp tư sản. Những người không sở hữu tư liệu sản xuất là giai cấp vô sản, trong giai cấp đó, những người lao động mà không được hưởng giá trị thặng dư và thành quả lao động là giai cấp bị bóc lột hay giai cấp công nhân. Quan niệm về giai cấp của Marx và Lenin, thậm chí là của cả Hồ Chí Minh có lẽ cũng được nhưng chưa đích đáng, vì chỉ có tư hữu thôi mà không có quyền lực thì cũng khó mà bóc lột được (nên nhớ, bóc lột là lạm thu sức lao động của con người!), vả lại, nói tầng lớp tư sản chỉ toàn là lũ "ăn trên ngồi trốc", không lao động gì cả, là không đúng! Theo tôi quan niệm, nếu xã hội có phân chia giai cấp, thì chỉ có thể là gồm hai giai cấp: giai cấp thống trị và giai cấp bị trị. Mặt khác, phải hiểu mâu thuẫn giai cấp một cách thật "mềm dẻo"mới được, nghĩa là, mâu thuẫn đó tùy thuộc vào nhiều yếu tố mà lúc nhạt nhòa lúc rõ rệt, lúc hòa dịu lúc căng thẳng, và nói chung, không phải lúc nào cũng ở mức đối kháng. Bình thường, giữa tầng lớp hữu sản và vô sản hầu như không nảy sinh mâu thuẫn giai cấp, nhưng tầng lớp hữu sản, dựa vào thế lực đồng tiền của mình đã lũng đoạn nhà nước, dần biến quyền lực nhà nước thành của mình, làm hình thành nên giai cấp thống trị, đưa toàn bộ số còn lại thành lực lượng vô sản, giai cấp bị trị. Dựa vào quyền lực nhà nước, giai cấp thống trị đã lạm thu giá trị thặng dư của người lao động, gây ra cảnh bóc lột, áp bức bất công đối với giai cấp vô sản (nhất là người công nhân) như lịch sử loài người đã cho thấy. Nếu trong tự nhiên, sự cố gắng tồn tại thể hiện ra dưới một dạng là nguyên lý tương hỗ, thì trong xã hội, sự cố gắng sống còn thể hiện ra thành quy luật "ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh", hay "tức nước vỡ bờ". Lúc đầu, các cuộc đấu tranh chống bóc lột đều mang hình thức dân chủ tư sản, nếu có giành được thắng lợi thì cũng tương tự như các cuộc nổi dậy của nông dân thời phong kiến khi xưa, lật đổ chính quyền cũ, xây dựng chính quyền mới (được cho là!) "tốt" hơn (rồi lại trở về bản chất cũ, nghĩa là không thay đổi bản chất dung túng bóc lột của nhà nước!). Khi triết học Mác ra đời với hệ thống lý luận được cho là "chân lý sáng ngời" và với luận điểm không những để giải thích thế giới mà còn đi cải tạo thế giới, thì ngay lập tức nó trở thành nền tảng lý luận đồng thời là kim chỉ nam cho hành động của các cuộc đấu tranh chống bóc lột. Do đó có thể gọi các cuộc đấu tranh chống bóc lột trong thời đại tư bản chủ nghĩa là các cuộc cách mạng dân chủ tư sản, và các cuộc cách mạng tư sản đã tiếp thu triết học Mác-lênin là cách mạng vô sản. Điển hình là cuộc cách mạng tháng Mười Nga, từ cách mạng dân chủ tư sản dễ dàng chuyển biến thắng lợi thành cách mạng vô sản! Dù quan niệm chưa xác đáng về giai cấp nhưng Mác-lê cũng thấy được sự gắn kết hữu cơ bền chặt của tầng lớp tư sản với nhà nước (đã chuyển biến thành nhà nước tư sản), coi nhà nước như "bùa hộ mạng" của sự bóc lột, nên theo họ mọi cuộc cách mạng vô sản, muốn xóa bóc lột một cách triệt để, thì sau khi đấu tranh giai cấp thắng lợi, phải tiếp tục cách mạng, xóa tan nhà nước tư sản (cũ).xây dựng một nhà nước kiểu mới gọi là "nhà nước vô sản", bằng chuyên chính vô sản. Nói chung, mọi cuộc cách mạng sau khi lật đổ chính quyền cũ đều phải chuyên chính, nghĩa là trấn áp sự trỗi dậy của tàn dư thế lực cũ trong khi xây dựng chính quyền mới. Nhưng chuyên chính vô sản, hiểu theo Mác, là một nền chuyên chính đặc biệt. Theo Wikipedia thì: "Chuyên chính vô sản hay nền chuyên chính vô sản là một lý thuyết của chủ nghĩa Marx-Lenin là một bộ phận quan trọng của chủ nghĩa cộng sản khoa học theo đó chuyên chính vô sản là việc giai cấp công nhân nắm quyền lực nhà nước và sử dụng quyền lực nhà nước trấn áp giai cấp tư sản để tiến hành xây dựng một xã hội không giai cấp. Đây là sự thống trị về chính trị của giai cấp công nhân với chức năng thực hiện dân chủ đối với nhân dân, tổ chức xây dựng và bảo vệ chế độ mới, chuyên chính với những phần tử thù địch, chống lại giai cấp vô sản (!). Chuyên chính vô sản được cho là một trong những tư tưởng đặc sắc và trọng yếu nhất của chủ nghĩa Mác về vấn đề Nhà nước". Đây là lời Mác: "Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản". "Khi đề cập tới vấn đề này, V.I.Lênin cho rằng chuyên chính vô sản không phải chỉ là bạo lực đối với bọn bóc lột, và cũng không phải chủ yếu là bạo lực mà mặt cơ bản của nó là tổ chức, xây dựng toàn diện xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Cũng vì những tính chất đặc biệt như vậy của nhà nước vô sản mà những nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định rằng nhà nước vô sản là một kiểu nhà nước đặc biệt trong lịch sử, đó là nhà nước không còn nguyên nghĩa, là nhà nước nửa nhà nước. Sau khi những cơ sở kinh tế, xã hội của sự xuất hiện và tồn tại của nhà nước mất đi thì nhà nước sẽ không còn. Sự mất đi của nhà nước tư sản không phải bằng con đường thủ tiêu, xóa bỏ mà bằng con đường tự tiêu vong (mâu thuẫn với chính Mác: chính quyền tư sản không tự đổ mà phải chủ động lật đổ bằng bạo lực cách mạng vô sản!). Sự tiêu vong của nhà nước tư sản được dự báo là một quá trình rất lâu dài". Chủ nghĩa Mác- Lênin đã chỉ ra "Nhà nước vô sản là một kiểu nhà nước đặc biệt trong lịch sử. Tính chất đặc biệt của nó trước hết là ở chỗ nó chỉ tồn tại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa cộng sản, nó là kiểu nhà nước cuối cùng trong lịch sử của xã hội loài người". Tôi không đồng tình với quan niệm như vậy! Tôi cho rằng, cách mạng vô sản nổ ra có mục đích cơ bản là triệt tiêu bóc lột, giành lại phần giá trị thặng dư mà giai cấp thống trị đã chiếm đoạt quá đáng, đảm bảo quyền lợi sống còn cơ bản của người lao động (của cả công nhân lẫn nông dân!). Muốn thế, cách mạng phải đập tan nguyên nhân gây ra bóc lột, áp bức bất công, đó là nhà nước tư sản (chứ không phải tầng lớp tư sản!), thành lập một nhà nước mới gọi là "nhà nước nhân dân". Nhà nước nhân dân là nhà nước phi giai cấp, với nền kinh tế thị trường, có thu hoạch thặng dư nhờ bóc lột nhưng coi như không tạo ra sự bóc lột (!) nếu số thăng dư ấy hoàn toàn sử dụng vào mục đích chung ( công trình công cộng, lương hưu, dưỡng lão,y tế, quốc phòng,...), giải quyết mọi sự trong quan hệ giữa người với người một cách công bằng, bác ái. Đó là kiểu nhà nước tương tự như nhà nước từng manh nha dưới thời cộng sản nguyên thủy (?), và khi nó được xây dựng hoàn thiện thì cũng chính là kiểu nhà nước sẽ tồn tại trong hình thái KTXH cộng sản chủ nghĩa (nếu có hình thái này!). Riêng tôi không tin là có hình thái này, vì lẽ đơn giản sau. Khi con người đạt đến trình độ "làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu", thì con người phải hầu như không còn cảm xúc tình cảm sâu sắc, thứ cảm xúc suốt quá trình phát triển xã hội con người mới tiến hóa có được, tức là không còn mọi tính xấu như tham lam, ích kỷ, ganh ghét, hận thù,..., tâm hồn con người lúc đó, ai cũng vậy, đều trong sáng, đều chán ghét chiến tranh, ghê tởm giết chóc! Và xã hội sẽ có tồn tại được không khi không có nhà nước, đầu mối của sự gắn kết, điều hành? Nói cho cùng, xây dựng nhà nước nhân dân đến hoàn thiện là coi như đã xây dựng thành công xã hội XHCN, đã thực hiện được giấc mơ khắc khoải về cuộc sống của toàn thể nhân loại rồi! Còn đối với hình thái KTXH cộng sản chủ nghĩa, dù tuyệt đẹp, thì cũng chỉ là một hoang cảnh quyến rũ nhưng đầy nét khiên cưỡng. Tương tự như trong vật lý học có trường hợp con lắc toán học, chỉ có thể vận hành trong tưởng tượng chứ không thể xảy ra trong hiện thực. Muốn hiện tượng lý tưởng ấy xảy ra trong hiện thực, phải triệt tiêu ma sát, nhưng làm thế nào mà triệt tiêu được thứ vốn dĩ tồn tại mặc định trong tự nhiên như không gian vậy!? Vậy, cách mạng vô sản (nói đúng ra phải là cách mạng nhân dân) là cuộc đi lật đổ nhà nước tư sản, xây dựng nhà nước nhân dân (tất nhiên, nền kinh tế cạnh tranh tự do tư bản chủ nghĩa cũng được thay thế bằng nền kinh tế thị trường có chỉ huy xã hội chủ nghĩa) và đồng thời cải biến tâm hồn con người bằng phương pháp tu tập Phật Giáo (nhằm triệt tiêu tham-sân-si)!

- Tới giờ này, phải thừa nhận anh A nói có lý. Nhưng cũng khó lòng mà xa rời triết học Mác-lênin được, vì tôi đã thấm nhuần nó từ khi còn ngồi ghế nhà trường phổ thông, và coi là chân lý bất di bất dịch! Dựa vào quan niệm của anh A về xã hội mà nhìn sự vận động của xã hội Việt Nam ngày nay mới thấy... dễ hiểu quá! Mà thôi, tôi phải về đây! Mấy lần trước về muộn, bà xã phải đợi cửa, càm ràm quá chừng!...Nhức cả đầu!

Ông C nói rồi đứng dậy. Thế là kết thúc cuộc nhậu.

Chúng ta cũng đứng dậy ra về, lòng hơi bị hụt hẫng. Khi về đến nhà, trong lúc chờ vợ mở cửa, chúng ta chợt nghe vang vọng trong đêm tối mênh mông câu nói của nhà vật lý nổi tiếng người Đức, Max Planck: “Một chân lý mới của khoa học thường thắng lợi không phải bằng cách những kẻ chống đối nó sẽ được thuyết phục và tuyên bố mình được dạy dỗ, mà đúng hơn bằng cách những kẻ chống đối dần dần chết hết và thế hệ mới ngay từ đầu được làm quen với nó”. Và câu nói này cứ ám ảnh chúng ta mãi tận khi chúng ta đi vào giấc ngủ.
                                                
***

Chiều nọ, vợ chúng ta bận đi công chuyện , chúng ta phải trông nhà, nên ông A gọi, rồi ông B hối, mà chúng ta vẫn không qua nhà ông A được. Khi vợ chúng ta về thì trời đã chập choạng. Cuống đít, chỉ kịp nói đôi câu bàn giao chuyện nhà, chúng ta vội "tếch" sang nhà ông A liền. Ra khỏi cửa rồi, chúng ta vẫn còn nghe loáng thoáng lời vợ:

-Mê nhậu gì mà mê thế không biết?

Bàn nhậu như mới bắt đầu. Đĩa thịt gà trộn gỏi dường như còn nguyên. Trên bàn chỗ tôi thường ngồi, một ly rượu đầy vẫn để đó chờ đợi. Chúng ta ngồi vào bàn uống cạn ly đó, tiếp thêm hai ly khác cho đúng thủ tục phạt "vào ba ra bảy", rồi cười toét miệng nói:

-Đang "khát" khô cổ, rượu phạt mà như rượu thưởng, sướng tê người!

Ông A cười mỉm:

- Phải rồi, "chúng con" bày sẵn, chờ mời rượu "ông" đấy "ông" ạ! Đợi lâu quá, tưởng không qua!

-Qua chứ! Qua để nghe nốt câu chuyện hôm qua! -Chúng ta đáp lại.

-Ừ nhỉ! Anh A nói tiếp chuyện hôm qua đi! -Bây giờ ông B mới lên tiếng.

-Nhưng anh A đang kể chuyện về cuộc đời trường sinh của Lão Tử mà? .Ông C có ý không bằng lòng.

Nghe vậy, chúng ta vội cắt ngang:

-Chuyện về Lão Tử cũng hay. Nhưng chuyện nào ra chuyện đó. Đang chuyện nọ lại "xọ" chuyện kia, không hay đâu! Chứ chuyện nào kể cũng dở dang cả, làm người nghe tức anh ách, thì không nên!

Ông B cũng hùa theo ủng hộ:

-Thằng Thu nói phải đấy! Anh A nói tiếp cho xong chuyện hôm qua đi! Xong rồi kể tiếp chuyện Lão Tử cũng được...

Ông A nghe thế, đành chiều:

-Thì thôi, đành chiều theo thằng Thu vậy! Dù sao nó cũng là em út mà! Ê, Thu! Hôm qua tao nói đến đâu rồi nhỉ?

-Xây dựng CNXH, giai đoạn đầu tiên gọi là "quá độ" tiến lên cộng sản chủ nghĩa!...Nhưng "một công đôi chuyện", hôm nay nói về trường hợp Việt Nam đi, cụ thể hơn....Theo anh, VN đang ở đâu? Có hướng tới xã hội XHCN không? -Ông C nêu ý kiến.

Bấy giờ, ông A mới chậm rãi mở chuyện:

-ĐCS VN ra đời nếu không là kết quả tất yếu, thì cũng gần như tất yếu của cách mạng Việt Nam. Như mọi ĐCS ở các nước thuộc địa khác, ĐCS VN có mục đích cơ bản là lãnh ngọn cờ tiên phong dẫn dắt dân tộc VN vùng lên đấu tranh giải phóng, xóa bỏ chế độ thực dân nô dịch, bóc lột và mục đích thứ hai không kém phần quan trọng là xây dựng thành công CNXH theo chỉ dẫn của học thuyết Mác-lênin. Đảng đã hoàn thành vẻ vang mục đích thứ nhất vào năm 1975. Sau giải phóng, nó tiếp tục mục đích thứ hai đã làm dở dang ở miền Bắc, nhưng lần này là áp dụng trên cả nước trong điều kiện thời bình...-Bỗng ông A quay sang ông C -Anh C làm ơn mở mạng tìm trang nói về công cuộc xây dựng XHCN ở miền Bắc xem nào!

Thao tác một hồi, rồi ông C cũng tìm được bài có tựa đề "Đảng Cộng sản Việt Nam - 80 năm xây dựng và phát triển (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Hà nội 2010)" của TS. ĐOÀN MINH HUẤN:


- Đây rồi! "Đảng lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền bắc (1954-1975)", các vị xem đi.

Tôi tóm tắt:

"Trung thành với cương lĩnh chính trị đã vạch ra từ năm 1930, sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, Đảng ta chủ trương đưa miền Bắc lên chủ nghĩa xã hội, nhằm đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân miền Bắc và làm hậu phương vững chắc cho việc tiếp tục thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, đấu tranh thống nhất nước nhà."

"Trải qua 20 năm bền bỉ, kiên cường, Đảng đã lãnh đạo nhân dân miền Bắc giành được nhiều thắng lợi to lớn: chế độ người bóc lột người bị xoá bỏ, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa bước đầu được xác lập; đánh thắng hai cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ; làm tròn nhiệm vụ chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam và giúp đỡ cách mạng Lào, Campuchia; phát triển mạnh mẽ giáo dục, văn hoá, y tế; cải thiện nhiều mặt đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân.

Thành tựu nêu trên tuy còn ở mức thấp so với mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, nhưng trong hoàn cảnh lúc bấy giờ, thì nó đã đưa lại những biến đổi lớn trên miền Bắc, đã tỏ rõ tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa trước thử thách của cuộc chiến tranh tàn khốc.

Tuy vậy, nền kinh tế miền Bắc vẫn mang tính sản xuất nhỏ, cơ sở vật chất - kỹ thuật còn thấp kém. Các ngành công nghiệp then chốt còn nhỏ bé, chưa đủ sức làm nền tảng cho nền kinh tế quốc dân. Quan hệ sản xuất mới chưa được củng cố vững chắc, còn bộc lộ nhiều hạn chế. Nông nghiệp chưa đáp ứng được nhu cầu về lương thực, thực phẩm cho nhân dân và nguyên liệu cho công nghiệp. Lao động thủ công còn chiếm 80% lực lượng lao động xã hội. Năng suất lao động xã hội còn thấp; tổng sản phẩm xã hội chưa bảo đảm được các nhu cầu của nhân dân.

Nguyên nhân của tình trạng này xuất phát từ cả lý do khách quan và chủ quan:

Về khách quan, miền Bắc đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội trong điều kiện xuất phát điểm còn thấp, bị chính sách khai thác hàng trăm năm của thực dân Pháp làm kiệt quệ. Mặt khác, miền Bắc tiến hành xây dựng kinh tế trong điều kiện đất nước có chiến tranh, phải tập trung sức người, sức của cho cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam và chống chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ.

Về chủ quan, chúng ta đã mắc một số sai lầm, bắt nguồn từ những nhận thức còn đơn giản, duy ý chí, chưa nắm đúng quy luật vận động đi lên chủ nghĩa xã hội ở một nước vốn là thuộc địa, sản xuất nhỏ, lạc hậu. Đây là biểu hiện của phương pháp tư duy giáo điều, rập khuôn mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội của Liên Xô, chưa xuất phát đầy đủ từ hoàn cảnh, điều kiện cụ thể của thực tiễn đất nước ta.

Những thành tựu và hạn chế trong quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc từ năm 1954 đến năm 1975 là những cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc hoạch định đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta sau năm 1975 của Đảng, khi cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội".

-Thế nào? Các vị có đồng ý với tôi là dưới sự lãnh đạo của ĐCS VN, việc xây dựng CHXH ở miền Bắc đã gặt hái được nhiều thành tựu không? Nếu không có chiến tranh, thì số lượng và qui mô thành tựu không chỉ có thế! Tôi cho rằng...

Ông C chưa kịp nói hết câu, ông B đã lớn tiếng cắt ngang, có vẻ bực tức:

-Đường lối xây dựng kinh tế của Đảng vốn dĩ đã sai từ trứng nước. Từ chỗ hầu như không có gì, ai cũng có thể xây nên nhà để ở, dù xiên xẹo, nhưng không thể xây nhà cao hơn, vì không biết cách, sẽ xập. Nếu Đảng đúng, thì đã không có thời "bao cấp" bi hài và không có cuộc "đổi mới", quay về với lối làm ăn TBCN được! Có thể là do chiến tranh phá hoại, nhưng không thể đổ thừa tất cả cho chiến tranh, đổ thừa như thế là vô trách nhiệm. Từ 1975 đến 1986 ta đã xây dựng CNXH trên toàn đất nước. Trong một thời gian không ngắn như vậy, chúng ta đã gặt hái được thành tựu gì? Không có gì, ngoài sự đất nước ngày càng rệu rã! Nên nhớ rằng, bất cứ nước nào sau chiến tranh, đều phải khôi phục và khôi phục được đất nước. Chỉ có điều, quá trình đó có kế hoạch hoàn toàn hợp lý hay chưa, nhanh hay chậm. Đối với nước ta, nếu không có cuộc "đổi mới", thì không biết giờ này đang ở trạng thái nào?...

Trong khi ông B đang nói, tôi nhanh tay bấm chữ "bao cấp" và thấy trên laptop của ông C hiện lên bài này:

"Thoi bao cap

18 Tháng 6 2013 ·

“Thời bao cấp” ở Việt Nam là một thời kỳ đáng nhớ trong lịch sử hiện đại, có lẽ từ năm 1954 đến 1986 ở miền Bắc Việt Nam, nhưng ở miền Nam Việt Nam thì phải kể từ năm 1975 - 1986.

Tuy nhiên 1986 chưa hẳn là đã chấm dứt thời kỳ này, thực sự dư âm của dấu vết của chính sách “bao cấp” còn kéo dài đến đầu thập niên 1990, nhưng nhiều người và báo chí cho con số 1986 là mốc thời gian quan trọng khi Đảng Cộng sản Việt Nam, trong kỳ Đại hội Đảng lần thứ VI vào cuối năm 1986, tuyên bố chủ trương đổi mới, từng bước xóa bỏ “bao cấp” trong kinh tế.

Ai là người đã tạo ra chữ “bao cấp” ?! Không ai biết và cũng không có thông tin gì cho dù bạn có miệt mài ngồi trên Google cả ngày. Chỉ biết nó là thời của một nền kinh tế tập trung, mọi nguồn hàng hóa, nguyên vật liệu đều nằm trong tay Nhà nước Trung ương. Đảng Cộng sản và Chính phủ điều phối mọi kế hoạch sản xuất, thu gom, lưu thông, phân phối đến từng tay người dân theo một tiêu chuẩn phân phối cứng nhắc, gần như nhất định, theo từng cấp bậc, chức vụ trong xã hội. Giá cả hàng hóa đều do Ủy ban Vật giá Nhà nước quyết định, bất kể quy luật cung - cầu của thị trường, của xã hội.

Thời bao cấp với đa số người dân thật sự là một giai đoạn bi thảm cho cuộc sống, ngoại trừ một số rất ít cán bộ lãnh đạo cao cấp. Hầu hết, người dân Việt Nam khi nhắc đến những năm tháng này đều ngán ngẩm, cay đắng, Không ai muốn quay lại thời đó bao giờ!... nhưng lòng vẫn không quên được cái thời bao cấp ấy!!!

Một thời để nhớ, để thương, để khắc vào trang sử cuộc đời. Những năm dài đằng đẵng như mây mù che phủ, chế ngự bởi những tem cùng phiếu. Thiếu thốn, kham khổ, cùng cực thay nhau chồng chất, dồn nén những tâm hồn và bóp méo hình hài, thể xác con người."

Ông A ngồi uống rượu và hút thuốc vặt, mặc ai nói gì thì nói. Mãi sau, khi cả bàn nhậu đã nói hết, im lặng như chờ ông nói, ông mới cất tiếng:

-Phải nói rằng ĐCS VN lãnh đạo xây dựng CNXH ở miền Bắc vừa đúng vừa sai. Đúng là...theo đúng học thuyết Mác-lênin (!), đúng là sau khi đánh đổ bộ máy cai trị của thực dân Pháp, có ý định xây dựng một xã hội tươi đẹp như ước mơ của đại chúng, và phải xây dựng chứ không lẽ không xây gì cả? Sai là vì việc áp dụng học thuyết Mác-lênin đã không phù hợp với thực tế. Đành rằng đã thu hoạch được nhiều thành tựu đáng kể, song tôi cho rằng đó là kết quả của sự hồ hởi ban đầu, sự nhiệt tình vì tin tưởng vào cách mạng, tinh thần làm việc quên mình, "mỗi người làm việc bằng hai" vì lý tưởng của quần chúng nhân dân trong xây dựng thuần túy (quấn chúng hoàn toàn làm theo ý Đảng, hăng say "mỗi người làm việc bằng hai" để tâp trung sức người sức của đánh Mỹ, hiến dâng toàn bộ giá trị thặng dư cho Đảng chứ có ai giàu có nổi đâu, chứ hồi đó biết quái gì về đường lối,đúng hay không đúng?!). Vì công cuộc xây dựng ấy mắc sai lầm nên càng về sau, càng bộc lộ ra nhiều trái khoáy. Nhưng cũng tương tự như nền kinh tế Liên-Xô trước chiến tranh thế giới thứ II, đã không ai kịp thấy những trái khoáy ấy, vì chiến tranh lại sớm nổ ra và niềm tin cực đoan đã khỏa lấp tất cả. Chính vì vậy mà sau chiến thắng, ĐCS VN vẫn một lòng kiên định với học thuyết Mác-Lênin, lại "vạch đường, chỉ lối" cho quần chúng nhân dân cả nước tiếp tục đi xây dựng CNXH theo chỉ dẫn của chủ nghĩa Mác, theo đúng con đường mà miền Bắc đã từng đi. Thế rồi đến khoảng năm 1986, thực tiễn xã hội cấp bách đã chỉ ra cho Đảng biết: "Ông vạch đường chỉ lối sai bét rồi, phạm vào nguyên lý "cố gắng tồn tại" của tự nhiên, mau "đổi mới" đi, mau quay lại với con đường tự nhiên đi, không là chết chắc!". Chính đại chúng Việt Nam đã "xé rào" tìm đường sống còn cho mình và tạo cơn gió mạnh bắt Đảng phải đổi mới (thực chất là quay lại nền kinh tế thị trường sản xuất hàng hóa vốn dĩ được tạo ra trong tiến trình phát triển xã hội!) và rất may là còn đó khí thiêng sông núi Việt, chứ không phải nhờ Đảng sáng tạo ra! Hôm nay nhìn lại, có thể khẳng định: sai lầm chính trong công cuộc xây dựng XHCN ở Việt Nam nói riêng, và cả thế giới nói chung, là sự phát triển của lực lượng sản xuất không kịp thích nghi với quan hệ sản xuất mới (quan hệ sản xuất gồm 3 mặt: -quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất -quan hệ tổ chức lao động sản xuất -quan hệ phân phối sản phẩm lao động), thứ mà chỉ có thể hình thành qua con đường tự nhiên (theo cảm hóa về tình cảm con người trên cơ sở phát triển lực lượng sản xuất xã hội đến mức thích ứng), nhưng Đảng đã chủ quan thiết lập một cách duy ý chí, khiên cưỡng! Vì mục đích ban đầu của ĐCS VN là đấu tranh giải phóng và xóa tan bóc lột (đúng với nguyện vọng đại chúng và cũng đúng với mục đích ban đầu của cách mạng) nên không lẽ sau khi đấu tranh giải phóng thắng lợi, lại mở đường đi xây dựng...xã hội tư bản (?), một xã hội bị cho là dung túng bóc lột như xưa, như trước khi làm cách mạng? Vậy nó phải hô khẩu hiệu..."định hướng XHCN" thôi! Chúng ta hiểu như thế nào về cụm từ "kinh tế thị trường định hướng XHCN"? -Nói đến đây, ông A quay sang nhìn ông C dò hỏi. Ông B thấy vậy, chúi đầu vào laptop:

-Đây, Wikipedia trên mạng nói thế này: "Cho đến nay, chính Đảng Cộng sản Việt Nam cũng thừa nhận rằng chưa có nhận thức rõ, cụ thể và đầy đủ về thế nào là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà chỉ có giải thích nguyên lý chung rằng, đó là một nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý chặt chẽ của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Nguyên nhân của tình trạng này là hệ thống kinh tế này là hoàn toàn mới, chưa có tiền lệ trong lịch sử.", "Không nên lầm tưởng kinh tế thị trường chỉ gắn liền với chủ nghĩa tư bản, còn chủ nghĩa xã hội thì không. Quan niệm này xuất phát từ mô hình kinh tế bao cấp của Liên Xô và Đông Âu trước kia, song chính Liên Xô trong giai đoạn lãnh đạo của Lenin cũng có nền kinh tế thị trường. Thực ra, theo lý luận của Lenin thì chủ nghĩa xã hội là bước chuyển giữa chủ nghĩa tư bản tiến lên chủ nghĩa cộng sản. Trong đó mô hình kinh tế là hỗn hợp, đan xen giữa kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể với kinh tế tư bản tư nhân. Theo đó, Lenin đã đề ra Chính sách kinh tế mới (NEP), theo đó nhà nước cho phép một số thị trường được tồn tại, các ngành công nghiệp nhà nước đó sẽ hoàn toàn tự do đưa ra các quyết định kinh tế của mình. Sau khi Lenin mất, Stalin đã xóa bỏ NEP và xây dựng mô hình kinh tế kế hoạch, khiến nhiều người lầm tưởng chủ nghĩa xã hội chỉ gắn liền với kinh tế bao cấp", "Lịch sử phát triển kinh tế thế giới cũng như ở Việt Nam cho thấy Chủ nghĩa xã hội kết hợp với yếu tố thị trường còn được gọi là Con đường thứ ba (để phân biệt với hai con đường khác là kinh tế thị trường tự do (hay kinh tế tư bản chủ nghĩa) và kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Các nước Đông Âu và Liên Xô cũ đã rời bỏ nền kinh tế kế hoạch hóa để chuyển sang nền kinh tế thị trường. Các nước tư bản phát triển như Mĩ, Anh, Pháp và Nhật trong thế kỉ 20 cũng điều chỉnh mô hình kinh tế theo hướng giảm thiểu sự can thiệp của bộ máy nhà nước (mô hình kinh tế hỗn hợp)". "Nhiều người cho là khái niệm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam vẫn còn rất mơ hồ, mỗi nơi lại hiểu một kiểu.

Theo luật sư Trương Thanh Đức cần được xác định rõ kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là gì trong dự thảo Hiến pháp, để tránh trường hợp áp dụng kinh tế kế hoạch hoá tập trung vào kinh tế thị trường.
Về câu hỏi, thế nào là thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Bùi Quang Vinh trong một buổi nói chuyện về các vấn đề kinh tế ở Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh vào cuối năm 2013, trả lời rằng đây là mô hình chưa từng có trên thế giới, đó là câu hỏi mà Việt Nam vẫn phải dò tìm trong tương lai:

“Chúng ta cứ nghiên cứu mô hình đó, mà mãi có tìm ra đâu. Làm gì có cái thứ đó mà đi tìm.”

Theo luật sư Nguyễn Tiến Lập "định hướng xã hội chủ nghĩa" là phải bảo đảm sự công bằng tương đối về xã hội và chế độ an sinh xã hội phổ cập đối với người dân. Điều này giống với mục tiêu của nền kinh tế thị trường xã hội của nước Đức, và khác với nền kinh tế thị trường tự do của nước Mỹ (ở Mỹ, Nhà nước không quản lý tập trung quỹ bảo hiểm xã hội và có tới trên 40 triệu người dân không có bảo hiểm y tế) Tuy nhiên, có những thực tiễn vừa qua lại đi ngược lại, ví dụ như việc tăng phí bệnh viện và phí học đường đang trở thành gánh nặng cho người nghèo. Hậu quả của việc không xác định mô hình kinh tế và duy trì các mối quan hệ không rõ ràng giữa Nhà nước và thị trường, sẽ biến các doanh nghiệp thành các chủ thể phụ thuộc ngày càng lớn hơn vào Nhà nước".

Ra vẻ hiểu biết, chúng ta rụt rè nói:

-Theo em hiểu sơ sài, xã hội XHCN là xã hội tươi đẹp. Định hướng XHCN là làm cho xã hội phát triển hướng tới đạt trạng thái xã hội XHCN, Xây dựng thành công "nhà nước nhân dân" từ nhà nước của giai cấp vô sản (!), Đơn giản có vậy thôi!

-Đúng, thằng Thu nêu ra cách giải thích đơn giản mà đúng. Tôi cũng đồng ý! -ông A lên tiếng- Định hướng XHCN là giai đoạn chuẩn bị và xây dựng cơ sở vật chất cần thiết để bước lên xã hội XHCN. Như thế, cũng có thể gọi định hướng XHCN là giai đoạn đầu tiên, quá độ của quá trình xây dựng xã hội XHCN! Vì xây dựng một xã hội tươi đẹp là nguyện vọng của toàn thể nhân loại nên nói chung, hiện nay trên thế giới, nếu không tất cả thì cũng hầu hết các nước đều có định hướng XHCN này một cách tự giác hay không tự giác, trực tiếp hay gián tiếp (con đường tự nhiên!). Ở Việt Nam, khi giương khẩu hiệu "định hướng XHCN" ra, thì có nghĩa ĐCS VN đã tự giác lấy đó làm mục tiêu trực tiếp, chính, có tính sống còn của mình (con đường nhân tạo!). Nhưng định hướng như thế nào, vào đâu là xác đáng nhất? Theo triết học Mác, trong xã hội mang hình thái KTXH cộng sản chủ nghĩa sẽ không còn nhà nước nữa. Nhưng đó là một nhận định sai! Vì nhà nước xuất hiện là do yêu cầu của tồn tại xã hội, nên nhà nước nhất quyết còn khi còn xã hội. Hơn nữa, vì nhà nước dễ dung túng cho bóc lột của tầng lớp thống trị, cầm quyền (chứ không cứ gì phải là tầng lớp tư sản) và là nơi có tác động quyết định đến sự phát triển lực lượng sản xuất xã hội, nên theo quan niệm của tôi, định hướng XHCN là xây dựng một nhà nước nhân dân không dung túng bóc lột (hay cũng thường gọi là nhà nước cộng sản, chứ không phải là "nhà nước của giai cấp vô sản"!). Cũng theo quan niệm của tôi, khi xây dựng nhà nước cộng sản đến hoàn thiện thì coi như đã xây dựng thành công xã hội XHCN, đã thực hiện được giấc mơ khắc khoải về cuộc sống của toàn thể nhân loại rồi, nghĩa là đã làm xuất hiện một hình thái xã hội tương đối gần giống với hình thái cộng sản chủ nghĩa rồi, trong đó không còn bị bóc lột, áp bức bất công nữa, mọi người đều được sống hạnh phúc. Vậy, có thể nói "định hướng XHCN" là xây dựng hoàn thiện nhà nước cộng sản, một nhà nước phi giai cấp, không bóc lột, toàn tâm toàn ý phục vụ cho cuộc sống mọi người toàn xã hội, tương tự như thuở sơ khai hình thành nhà nước (có thể) vào cuối thời cộng sản nguyên thủy(!), và nếu "dân" là tên chung để gọi mọi con người hợp quần thành một xã hội, thì như vậy, phải gọi lại tên nó một cách cụ thể và đích đáng hơn là: "nhà nước của dân, do dân và vì dân", nghĩa là cần xây dựng lý luận về sự hình thành nhà nước theo quan điểm "dân quyền". Thế thì xã hội VN ngày nay là xã hội gì? Và đang đi về đâu? Nói ngay rằng xã hội VN ngày nay là xã hội "nửa nạc nửa mỡ" và nếu mỡ là biểu hiện của tư bản thì mỡ nhiều hơn nạc, hơn nữa, rất giống với thời kỳ đầu hình thành và xây dựng xã hội tư bản trên thế giới, bộc lộ đầy cảnh xã hội suy đồi như ăn chơi xa hoa phè phỡn cũng như "những người khốn khổ". Nó vẫn bô bô là "định hướng XHCN", nhưng vì nhận thức chưa đúng về nhà nước nên cũng chưa thể hiện rõ ràng của chủ đích ấy trong thực tế, người ta dễ ngộ nhận là "mị dân". Chẳng hạn bài phát biểu của ông Tổng bí thư tại trường Đảng CUBA, nghe rất hay, rất đúng, nhưng có vẻ như không cụ thể, nói suông, hãnh tiến, xa vời, cứ như trên mây, phi thực, phải chăng vì chính ông ta cũng "định hướng XHCN" chưa đích xác (!?), thậm chí, chưa biết "định hướng XHCN" là như thế nào?. Chê người nhưng không vạch ra được con đướng khắc phục. Lịch sử không có chữ nếu, nhưng cứ giả sử có chữ nếu, thì bất cứ đất nước nào sau giải phóng, có hoàn cảnh như VN, muốn xây dựng một xã hội phi bóc lột, dân giàu nước mạnh, đều phải đi theo con đường mà VN đã đi, nhưng khoáng đạt hơn, tự do hơn, không phải qua giai đoạn "đổi mới", không phải làm động tác "sai rồi sửa" mãi (nghĩa là con đường đúng hơn nhiều, vì chỉ có con đường ấy là tất yếu và hợp lòng dân nhất!). Hồ Chí Minh, tuy là người trung thành với chủ nghĩa Mác-lê, nhưng cũng là một minh triết tinh tường, thâm thúy của phương Đông qua thực tiễn hoạt động cách mạng, đã là người đầu tiên hiểu đúng nhất về bản chất của nhà nước nhân dân. Trong wikipedia có viết những dòng này:

"Đây cũng là một tính chất đặc biệt của nhà nước vô sản. Nhà nước vô sản có thể tồn tại dưới các hình thức khác nhau. Công xã Paris năm 1871 đã sản sinh ra nhà nước vô sản kiểu Công xã (hình thức này làm tiền đề cho các kiểu tổ chức sau đó như Công xã Quảng Châu ở Trung Quốc. Hình thức thứ hai của chuyên chính vô sản là Xô viết (ở Liên Xô và các nước Đông Âu sau cách mạng tháng 10 Nga, Xô viết Nghệ Tĩnh từng tồn tại trong thời gian ngắn ở Việt Nam...), ở một số nước, nhà nước vô sản còn tồn tại dưới hình thức nhà nước dân chủ nhân dân (như Mông Cổ, Triều Tiên, Lào....)".

"Tại Việt Nam, học thuyết về nhà nước của Chủ nghĩa Mác-Lênin hay còn gọi là lý luận về nhà nước và pháp luật đã được Hồ Chí Minh việt hóa thông qua việc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lê nin vào Việt Nam cũng như thực tiễn đấu tranh giành, giữ chính quyền cộng sản cộng với những năm tháng quản lý, chỉ đạo điều hành miền Bắc Việt Nam và một số vùng miền cộng sản kiểm soát tại miền Nam Việt Nam. Những tư tưởng này được tập hợp và được cộng sản Việt Nam khái quát đặt tên thành Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân, một nhà nước có hiệu lực pháp lý mạnh mẽ, một nhà nước trong sạch, vững mạnh". "Trong bài báo Dân vận (năm 1949), Hồ Chí Minh khẳng định: Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân". "Nhà nước theo quan điểm của Hồ Chí Minh là nhà nước của dân, ngay từ năm 1927, trong tác phẩm Đường Kách mệnh, ông có ghi chú rằng: Nhà nước Việt Nam dân chủ kiểu mới là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Cơ sở xã hội của nhà nước đó là toàn thể dân tộc Việt Nam, dựa trên nền tảng liên minh giữa giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Và từ năm 1941, ông cũng đã có chủ trương rằng: Chính quyền cách mạng của nước dân chủ mới, không phải thuộc quyền riêng của giai cấp nào mà là của chung, của toàn thể dân tộc, chỉ trừ bọn tay sai của đế quốc Pháp Nhật và những bọn phản quốc…, còn ai là người dân sống trên dải đất Việt Nam, hết thảy đều được một phần tham gia giữ chính quyền, phải có một phần nhiệm vụ giữ lấy và bảo vệ chính quyền ấy. Theo như cách hiểu mà ông đã thể hiện thì quan điểm của Hồ Chí Minh là xác lập tất cả mọi quyền lực trong nhà nước và trong xã hội đều thuộc về nhân dân. Trong 24 năm làm Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh đã chủ trì lãnh đạo soạn thảo hai bản Hiến pháp, đó là Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959. Quan điểm trên của ông được thể hiện trong các bản Hiến pháp đó. Điều 1 của Hiến pháp Việt Nam năm 1946 nêu rõ: Tất cả quyền bính trong nước đều là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo hay những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra toàn dân phúc quyết". "Nhân dân lao động mà làm chủ Nhà nước thì dẫn đến một hệ quả là nhân dân có quyền kiểm soát Nhà nước, cử tri bầu ra các đại biểu, ủy quyền cho các đại biểu đó bàn và quyết định những vấn đề quốc kế dân sinh. Đây thuộc về chế độ dân chủ đại diện bên cạnh chế độ dân chủ trực tiếp. Quyền làm chủ và đồng thời cũng là quyền kiểm soát của nhân dân thể hiện ở chỗ nhân dân có quyền bãi miễn những đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nào nếu những đại biểu đó tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân". "Theo những người nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh thì họ cho rằng Hồ Chí Minh coi nhân dân là chủ thể quyền lực, nhà nước là công cụ của nhân dân, là hình thức để tập hợp, quy tụ sức mạnh của toàn dân tộc vào sự nghiệp chung chứ Nhà nước không phải là nơi để thăng quan, phát tài, chia nhau quyền lực, lợi ích và bổng lộc. Bao nhiêu quyền hạn đều là của dân, chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương đều do dân cử ra...

Nhà nước vì dân, theo ông, là một nhà nước lấy lợi ích chính đáng của nhân dân làm mục tiêu, tất cả đều vì lợi ích của nhân dân, ngoài ra không có bất cứ một lợi ích nào khác. Đó là một nhà nước trong sạch, không có bất kỳ một đặc quyền, đặc lợi nào. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: mọi đường lối, chính sách đều chỉ nhằm đưa lại quyền lợi cho dân, việc gì có lợi cho dân dù nhỏ cũng cố gắng làm, việc gì có hại cho dân dù nhỏ cũng cố gắng tránh. Và nhiệm vụ của nhà nước là phải làm cho dân có ăn, phải làm cho dân có mặc, phải làm cho dân có chỗ ở, phải làm cho dân được học hành

Nhà nước vì dân cũng theo quan điểm của Hồ Chí Minh, là từ chủ tịch nước đến công chức bình thường đều phải làm công bộc, làm đày tớ cho nhân dân chứ không phải làm quan cách mạng để đè đầu cưỡi cổ nhân dân như dưới thời đế quốc thực dân. Ngay như chức vụ Chủ tịch nước của mình, Hồ Chí Minh cũng quan niệm là do dân ủy thác cho và như vậy phải phục vụ nhân dân, tức là làm đày tớ cho nhân dân".

Nếu VN đã có một nhà nước như thế,như Hồ Chí Minh quan niệm, thì có lẽ nước ta đã không có một "tầng lóp quan lại" đặc quyền đặc lợi, đã xử lý nhiều trường hợp về đất đai ngay khi mới phát sinh ổn thỏa hơn nhiều, không có ức chế bạo lực, không người dân nào phải chịu tù đày. Chẳng hạn vụ Đoàn Văn Vươn, vụ Dương Nội, Văn Giang...Một quốc gia "dân giàu, nước mạnh" không có nghĩa là học đòi lòe loẹt, xây dựng đây đó tùm lum, có tính bốc đồng, trong khi nợ nần thì "ngập đầu", gây khổ thế hệ tương lai!

-Thế thì theo anh A, ĐCS VN tồn tại là "thừa", "định hướng XHCN" là chưa đúng à? -Ông C đặt câu hỏi cắt ngang, có phần gay gắt.

Ông A cười ngặt ngẽo một hồi rối trở lại giọng nghiêm túc:

-Sự tồn tại của ĐCS VN hiện nay có lẽ vẫn còn cần thiết. Thứ nhất là vì nó chưa xây dựng xong một nhà nước nhân dân hoàn thiện. Thứ hai là vì "lề trái" vô tình làm tăng tính bảo thủ vốn có của nó. Thứ ba là người ta vẫn chưa nhận thức được đâu là giới hạn về vai trò lịch sử của nó. Không lẽ nó tồn tại vĩnh viễn sao? Điều tất nhiên là trong một xã hội đã vận động đúng đắn hợp lẽ tự nhiên và lành mạnh, thì không có đảng phái. Chắc chắn ĐCS VN sẽ "thừa", hoàn thành vai trò lịch sử của nó, và nó sẽ rời khỏi vũ đài chính trị khi nhà nước nhân dân VN đủ mạnh, trở về đúng bản chất nguyên thủy của nhà nước. Lúc đó, với việc triệt tiêu sự "tồn tại thừa" ấy, người ta sẽ tiết kiệm được vô số nhân tài vật lực cho quốc gia, sẽ tiết kiệm được vô số thời gian và chi phí tốn vào việc họp hành, hội nghị rình rang, dẹp được chốn đua tranh quyền lực gây hại khôn lường về kinh tế đất nước và về đạo đức xã hội! Vậy thì khi nào nhà nước nhân dân VN đủ mạnh? Đó hoàn toàn phụ thuộc vào sự đích đáng của "định hướng XHCN" và nhận thức cũng như lý trí xã hội! Còn hiện nay, nhà nước Việt Nam vẫn chỉ là nhà nước vô sản, ít nhiều vẫn dung túng bóc lột, nghĩa là nhà nước nhân dân nửa vời, không thực chất với đủ những nhãn mác rất kêu như: "quân đội nhân dân", "công an nhân dân", "bệnh viện nhân dân", "hội đồng nhân dân", "ủy ban nhân dân",..., duy chỉ có tiền là của nhà nước: "ngân hàng nhà nước", "kho bạc nhà nước"!

Tôi há hốc mồm ra nghe ông A nói và có phần buồn cười, trong đầu tôi dần hiện rõ một chân lý tự nhiên và xã hội: Triết học duy tồn!
 
***

Hóng chuyện hôm trước, hôm sau định sang nhà ông A sớm mà không được. Vì bận công chuyện nên khi qua nhậu, chúng ta đã nghe ông A nói dở dang:

-Cũng không hẳn thế!... -Ông A nói, trầm ngâm một lúc, rồi tiếp. -Như tôi đã nói, thế giới không có gì khác ngoài Tự Nhiên Tồn Tại, nghĩa là thế giới tự nhiên không có gì ngoài Tồn Tại và Tồn Tại phải theo nguyên lý duy nhất là nguyên lý Tự Nhiên. Nguyên lý Tự Nhiên phát biểu rằng: "Vì không thể có Hư Vô, chỉ có Tồn Tại, nên tồn tại phải cố gắng tự duy trì tồn tại. Trong quá trình cố gắng tồn tại (vì quy luật tăng trưởng lạm phát trong sự khống chế của thiên nhiên hữu hạn, nên cũng có nghĩa là phải cạnh tranh tồn tại!), một số tồn tại cũ yếu thế dần và mở đường cho tồn tại mới theo nguyên tắc kế thừa kết hợp với sáng tạo, nhường chỗ cho (những) tồn tại mới ra đời theo cách sao cho Tồn Tại là vĩnh viễn!". Vì thiên nhiên (của một hành tinh) là bộ phận của tự nhiên, thuộc về tự nhiên, nên mọi vận động trong nội tại nó cũng phải tuân theo nguyên lý Tự Nhiên, và vì nó cũng tương đối khác với tự nhiên bởi những nét đặc thù, nên vận động nội tại của nó cũng bộc lộ ra những nét đặc thù. Một trong những nét biểu hiện đặc thù của nguyên lý Tự Nhiên trong thế giới hữu sinh là quy luật đấu tranh sinh tồn và tiến hóa-thích nghi. Một thể hiện đặc thù và ở trạng thái cao độ của quy luật này trong vận động của xã hội loài người là đấu tranh - chiến tranh. Trên bước đường tự nhiên làm hình thành xã hội với không ít những thăng trầm của mình, khi đã biết đến khái niệm "tư hữu", "lòng tham vị kỷ", thì loài người cũng đã phát hiện ra cách kiếm ăn nhằm sinh tồn mới, tương đối cực đoan, lúc đầu là với những giống loài động vật khác, sau đó là với những cộng đồng xã hội người khác, nghĩa là với chính giống loài của mình, đó là có thể dùng bạo lực của mình để tiến hành giết chóc, cướp bóc, trấn lột tất cả những gì của người khác (ở một cộng đồng xã hội nào đó) có liên quan, có thể phục vụ cho mục đích sống còn của mìmh, từ thực phẩm, của cải đến sức lao động, và cả khu vực sinh sống. Chắc rằng đó là nguồn gốc đấu tranh - chiến tranh. Đấu tranh - chiến tranh là cuộc tranh giành danh lợi vì mưu sinh trong nội bộ loài người ở cường độ cao, khi mà những khái niệm như "ích kỷ", "lòng tham", "tích lũy",...đã trở nên nổi trội trong tâm hồn con người. Có lẽ khi loài người biết đến quyền lực, của cải, người giàu - kẻ nghèo thì trong xã hội đã có đấu tranh. Cuộc đấu tranh vĩ đại, được cho là "mẹ" của mọi cuộc đấu tranh từ trước đến nay là cuộc đấu tranh chống bóc lột, đòi quyền được sống an lành của tầng lớp bị trị đối với tầng lớp thống trị. Và cuộc chiến tranh đầu tiên xảy ra nhằm cướp bóc thành quả lao động, xâm chiếm không gian sinh tồn, là chiến tranh có tính xâm lược! Nếu đã có chiến tranh xâm lược, thì vì chiến tranh xâm lược đi liền với áp bức, bóc lột và thống trị, nên tuân theo nguyên lý Tự Nhiên, nguyên lý cố gắng tồn tại, hay cụ thể hơn là tuân theo quy luật đấu tranh sinh tồn, trước sau gì cũng phải xuất hiện đấu tranh chống xâm lược nhằm sống còn. Tất cả những điều nói trên hun đúc nên một chân lý sáng ngời: "Ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh". Hình thức đầu tiên của đấu tranh là những con người bị áp bức, trấn lột, nô dịch, đồng lòng hợp sức lại, vùng lên chống lại sự cường bạo, xâm lược dưới hình thức phi bạo lực vũ trang, chiến tranh giải phóng. Sau đó mới là chiến tranh, gây chết chóc giống loài. Về sau, cùng với sự phát triển, phức tạp hóa xã hội, hiện tượng chiến tranh-đấu tranh cũng được đa dạng hóa dưới nhiều hình thức với nhiều mục đích khác nhau, nhưng chung qui lại, mục đích cuối cùng của mọi cuộc chiến tranh vẫn là vì danh lợi, và mục đích cuối cùng của đấu tranh vẫn là xóa bỏ bóc lột, giành lại quyền sống cơ bản cho mọi người (xét cho cùng thì cũng vì sống còn, vì quyền lợi). Song từ trước đến nay, vì loài người chưa nhận thức đích xác được nguyên nhân cũng như nguồn gốc của sự bóc lột, nên tất cả các cuộc đấu tranh trong lịch sử loài người, không có cuộc đấu tranh nào xóa bỏ được triệt để bóc lột, duy trì lâu dài được một xã hội không có cảnh người bóc lột người. Triết học Mác ra đời đã giải thích gần đúng nhất nguyên nhân và nguồn gốc của bóc lột (tuy chưa đích xác!), và cùng với sự bổ sung của Lênin, đã đề xướng ra việc xây dựng một xã hội lý tưởng (gần) thực tiễn nhất, được cho là tươi đẹp nhất của loài người, trong đó không có bóc lột, không có áp bức, bất công, không có nhà nước (yếu tố cơ bản giúp xã hội tồn tại?), mọi người sống hoàn toàn bình đẳng, nhân ái và hạnh phúc, gọi là xã hội cộng sản chủ nghĩa. Sự xuất hiện kịp thời của triết học Mác giữa lúc phong trào đấu tranh chống bóc lột của nhân dân thế giới đang lên cao nhưng hoang mang về đường lối, với những suy luận có vẻ hợp lý của nó về căn nguyên của sự bóc lột, về con đường đấu tranh xóa bỏ bóc lột, xây dựng một xã hội tương lai tươi sáng, hoàn toàn phù hợp với ước mơ của đại chúng đương thời, nhất là sau khi có lời hiệu triệu "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản", đã trở thành sự lựa chọn khả dĩ, thành nền tảng lý luận, thành kim chỉ nam cho phong trào đấu tranh của nhân dân toàn thế giới lúc bấy giờ. Đảng cộng sản ra đời để tuyên truyền chủ nghĩa Mác-lênin, vạch đường chỉ lối cho quần chúng đấu tranh, là lẽ đương nhiên(!). Thành công của cuộc Cách mạng tháng Mười Nga, với sự dẫn dắt của Lênin, một người theo triết học Mác chân chính, thành người hoàn thiện triết học Mác, đã là tấm gương noi theo của các cuộc cách mạng xã hội và là một minh chứng hùng hồn trong gần suốt thế kỷ XX cho sự (tưởng như) đúng đắn của triết học Mác (giống như đạo Phật,vẽ ra một xã hội tươi đẹp ( cõi niết bàn) bằng cách thức sai lầm mà bá tánh tưởng rằng đúng đắn (tu tập cá nhân) và tin tưởng một cách sùng tín!). Nói riêng trường hợp Việt Nam, cuộc đấu tranh vũ trang thời kỳ đầu chống Pháp của Dân Tộc ta không phải là cuộc đấu tranh chống bóc lột mà là cuộc đấu tranh chống xâm lược. Có cuộc đấu tranh ấy là vì dân ta có lòng nồng nàn yêu nước, một phần là vì kinh nghiệm ngàn đời (chống xâm lược phương Bắc) cho thấy rằng, đi liền sau xâm lược là cướp bóc tàn bạo nên phải chống xâm lược, phần khác là vì nặng tư tưởng Nho giáo, "trọng đạo vua tôi" (nhưng Nhà Nguyễn đã ươn hèn, cam tâm bán nước cho quân xâm lược, phản bội lại dân tộc mình!). Sau khi chiếm nước ta, bộ mặt bóc lột, áp bức bất công của quân xâm lược Pháp ngày càng lộ rõ, nhất là từ cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai. Chính vì thế mà sau một khoảng thời gian ngắn thoái trào, phong trào đấu tranh chống Pháp của nhân dân ta được nhen nhóm trở lại. Lúc này, định hướng của cuộc đấu tranh, ngoài chống ngoại xâm, đòi độc lập, còn thêm chống bóc lột, chống sưu cao thuế nặng bằng hình thức biểu tình phản đối, bãi thị... Vào đầu thế kỷ XX, khi thực dân Pháp đang tiến hành cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất ở Đông Dương, thì trào lưu tư tưởng dân chủ tư sản phương Tây cũng truyền bá vào Việt Nam. Thông qua các tân thư, tân văn Trung Quốc, các học thuyết về nhân quyền và dân quyền của Rutxô (Rousseau), Môngtexkiơ (Mongtesquieu), Vônte (Voltaire)..., đến với các sĩ phu yêu nước Việt Nam. Tân thư, tân văn cùng với ảnh hưởng của cuộc Duy tân ở Nhật Bản, phong trào cách mạng dân chủ tư sản ở Trung Quốc với đỉnh cao là cách mạng Tân Hợi (1911), chiến thắng của Nhật Bản trong cuộc chiến tranh Nga - Nhật (1901 - 1905) đã tác động mạnh mẽ đến phong trào cách mạng và tình hình tư tưởng Việt Nam. Những sự kiện này như một hồi chuông gióng lên làm "tỉnh ngộ" các sĩ phu yêu nước đang khao khát tìm kiếm một con đường cứu nước mới. Những chuyển biến trong lòng xã hội Việt Nam, cùng sự ảnh hưởng của tư tưởng từ ngoài vào đã làm nảy sinh tính chất dân chủ tư sản trong phong trào yêu nước và cách mạng do các sĩ phu phong kiến tiến bộ lãnh đạo. Đó là Duy tân Hội và phong trào Đông du (1904 - 1908), phong trào Duy tân (1905 - 1908), Đông Kinh nghĩa thục (1907), phong trào chống sưu thuế ở Trung Kỳ (1908), Việt Nam Quang phục Hội (1912 - 1917),... Tựu trung, các phong trào này diễn ra theo hai xu hướng chính: xu hướng bạo động và xu hướng cải cách ôn hòa, với các đại diện tiêu biểu là Phan Bội Châu và Phan Chu Trinh. Hai xu hướng này song song tồn tại và không đối lập nhau một cách tuyệt đối mà đan xen, hòa lẫn vào nhau, tạo điều kiện cho nhau phát triển. Nói chung, các cuộc cách mạng Việt Nam thời kỳ này đều thất bại hoặc có khuynh hướng thất bại, vì không thấy được bản chất của xâm lược Pháp và không xây dựng được lực lượng chính yếu đủ mạnh, làm nòng cốt cho cách mạng. Sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất, thực dân Pháp tiến hành cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai với quy mô và cường độ lớn gấp nhiều lần cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất. Cuộc khai thác lần này tiếp tục làm chuyển biến tình hình kinh tế xã hội Việt Nam và làm hình thành nên lực lượng thực sự của phong trào cách mạng (đại chúng nghèo khổ). Trong bối cảnh đó, ảnh hưởng của phong trào cách mạng Trung Quốc, tiếng vang của cuộc Cách mạng tháng Mười Nga (1917), sự truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin của Nguyễn Ái Quốc vào Việt Nam, đã làm cho phong trào giải phóng dân tộc ở nước ta dần dần chuyển sang một khuynh hướng mới, có tính triệt để hơn, phù hợp với xu thế thời đại. Bên cạnh phong trào giải phóng dân tộc theo xu hướng tư sản, phong trào giải phóng dân tộc theo xu hướng vô sản từng bước hình thành và ngày càng thắng thế đối với xu hướng tư sản. Lịch sử còn ghi rõ, Hồ Chí Minh lúc nhỏ chứng kiến các cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta bị thực dân Pháp đàn áp, dìm trong biển máu và sự bất lực của các sĩ phu phong kiến đương thời nhất là Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh. Vì thế với ý chí cứu nước, lòng yêu nước chân chính đã thôi thúc Hồ Chí Minh ra đi tìm con đường cứu nước mới. Năm 1905, khi phong trào Đông Du hoạt động sôi nổi, Phan Bội Châu muốn đưa Hồ Chí Minh sang Nhật, nhưng ông không đi. Ngày 5-6-1911, Nguyễn Tất Thành (tên gọi thời trẻ của Hồ Chí Minh) từ bến cảng Nhà Rồng trên con tàu L’Admiral Latouche Tre’ville đã ra đi tìm đường cứu nước. Trong khoảng thời gian từ 1911-1917 Nguyễn Tất Thành đi rất nhiều nước trên khắp thế giới từ những nước phát triển như Anh, Pháp, Mỹ… đến những nước thuộc địa ở khắp các châu lục Á, Phi, Mỹ La Tinh. Từ thực tiễn đó Nguyễn Tất Thành đã nhận thấy bản chất của thực dân Pháp đang thống trị ở Đông Dương. Ông rút ra kết luận: “Trên thế giới không phân biệt màu da chỉ có hai giống người, giống người đi bóc lột và giống người bị bóc lột; và chỉ có một tình hữu ái giai cấp duy nhất đó là tình hữu ái giai cấp vô sản mà thôi”. Và ông khẳng định: “ Tất cả mọi người nghèo khổ trên thế giới đều có một kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc”. quan điểm này của Người đã mang tầm tư tưởng quốc tế để sau này Người thực hiện tư tưởng đoàn kết quốc tế. “ những cuộc cách mạng tư sản là những cuộc cách mạng không đến nơi (không triệt để) vì bên trong nó vẫn tước lục công nông, bên ngoài vẫn áp bức thuộc địa, khẩu hiệu “tự do, bình đẳng, bác ái” chỉ là bánh vẽ mà thôi. Do đó cách mạng Việt Nam không thể đi theo được”. Từ năm 1917 Hồ Chí Minh đã tìm ra bản chất của giai cấp tư sản và của chế độ tư bản chủ nghĩa. Và Người cũng khẳng định cách mạng việt nam không thể đi theo con đường tư bản chủ nghĩa mà theo như Xanhximong đánh giá về cuộc cách mạng Pháp: “Cách mạng Pháp không triệt để vì nó chỉ thay thế giai cấp bóc lột này bằng giai cấp bóc lột khác mà thôi” (theo chúng ta sau này, nói đúng hơn phải là: thay thế nhà nước bóc lột này bằng nhà nước bóc lột khác). Sau này chính Hò Chí Minh đã thừa nhận: “Lúc đầu chính là chủ nghĩa yêu nước chứ không phải là chủ nghĩa cộng sản đã làm cho tôi tin theo Lê nin, tin theo Quốc Tế Thứ III. Từng bước một trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác –Lê nin vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”. Tóm lại nhìn xuyên suốt hành trình đi tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh, từ thực tiễn hoàn cảnh ở trong nước và quốc tế cũng như bước đầu tiếp thu tư tưởng Mác-Lênin, đến năm 1920 Hồ Chí Minh đã khẳng định rằng “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không còn con đường nào khác ngoài cách mạng vô sản”. Thực tiễn diễn biến Cách mạng ở Việt Nam từ khi Đảng cộng sản được thành lập năm 1930 đến khi đất nước thống nhất vào năm 1975, đã chứng minh rằng con đường cứu nước mà Người đã lựa chọn là hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với tình hình thực tiễn ở nước ta lúc bấy giờ. Ngày nay, chúng ta đã có đủ rộng thời gian quay lại quan sát và nghiền ngẫm để thấy được nhiều điều. Phải nói rằng, phong trào cách mạng Việt Nam chọn con đường cách mạng vô sản có đảng cộng sản lãnh đạo để thực hiện hai mục đích: đấu tranh giải phóng dân tộc, đồng thời xóa bỏ chế độ bóc lột, xây dựng một xã hội phi bóc lột, không có áp bức bất công, là đúng đắn, phù hợp với xu thế thời đại, phù hợp với ý nguyện quần chúng Việt Nam lúc bấy giờ. Chính vì vậy mà ĐCS VN đã chớp thời cơ khi thiên thời đến, làm cuộc Cách mạng Tháng Tám, giành chính quyền thành công, và phát huy được truyền thống chống ngoại xâm bất khuất của Dân Tộc, lãnh đạo quần chúng nhân dân đứng lên đấu tranh giải phóng, đánh thắng hai đế quốc hùng mạnh bậc nhất thế giới và bè lũ ngụy quyền tay sai, làm nhân dân thế giới bất ngờ, bái phục. Song, vì tin tưởng hầu như tuyệt đối vào học thuyết Mác-lênin về những quan niệm chưa xác đáng như thặng dư, bóc lột, nhà nước, giai cấp...,nên việc thực hiện mục đích thứ hai đã phạm phải nhiều sai lầm, còn cực đoan, gây ra sự bất mãn nhất định trong dân chúng, và cho đến nay vẫn còn bề bộn, dở dang, tạo ra một thế hệ lãnh đạo lắm thằng "xôi thịt", xã hội ngày càng suy đồi về đạo đức...

- Tao nói dài quá, nhưng có đúng không, Thu?...Thôi, uống nào!

Thường thế, mỗi khi rình rang dãi bày một điều gì xong, ông A vẫn thường hỏi tôi như vậy, dù biết rằng hỏi để cho có vậy thôi! Chúng ta chưa kịp trả lời thì ông A đã nói tiếp, gần như là một kết luận kết thúc buổi nhậu:

-ĐCS VN không còn hướng đi nào khác là "định hướng XHCN"!? Theo quan niệm của tôi, Việt Nam chỉ được coi là hoàn thành giai đoạn "định hướng XHCN" khi đã xây dựng hoàn thiện nhà nước nhân dân (chứ không phải nhà nước vô sản!), tức là nhà nước "của dân, do dân và vì dân", đúng như Hồ Chí Minh vạch ra. Khi đó xã hội Việt Nam không còn bóc lột, đói khổ nữa, mọi công dân đều được hưởng miễn phí bảo hiểm xã hội và bảo hiểm y tế, giáo dục cơ bản (phổ thông) cho trẻ em miễn phí..., nền kinh tế hoạt động đầy hiệu quả theo kinh tế kế hoạch chủ đạo của nhà nước, của cải hàng hóa dồi dào, không còn nợ công, khoảng cách giàu- nghèo được khống chế và nói chung làm giàu không còn là sự hấp dẫn vô hạn độ nữa, tình cảm xã hội đã ở trạng thái hầu như không còn lòng tham vị kỷ nữa (tương tự như thời cộng sản nguyên thủy hay một thời Sài Gòn xưa không có trộm, mọi người đi đâu cũng không cần phải đóng cửa !), mọi người đều hăng say làm việc vì "dân giàu, nước mạnh" như là niềm vui thú vậy. Điều đáng chú ý là một nước có trạng thái xã hội gần XHCN là một nước sung mãn về thực chất (như Nhật hay tương tự như các nước Bắc Âu), chứ không phải một nước phát triển huênh hoang, xây dựng khoe mẽ "kỷ lục thế giới" tràn lan đầy tính "phổi bò", hình thức, trong khi vẫn chưa giải quyết dứt khoát được cảnh nghèo khổ của dân tình!... Muốn thế, Việt Nam cần có một cuộc đổi mới về tư duy, xây dựng lại quan niệm mới về nhà nước (xây dựng hoàn thiện nhà nước nhân dân chứ không phải nhà nước vô sản!), xác định lại từng bước đi cụ thể cho "định hướng XHCN", tìm kiếm nhân tài thực sự, những "đày tớ" có nhận thức "vì nước vì dân" tương tự như Nguyễn Lân Dũng, Nguyễn Bá Thanh,..., chứ dứt khoát không phải là những lão già "rận trủ", "đám con nít hư" lề trái như...ai cũng biết rồi! Nhất là không có tham vọng quyền lực nữa, khi đến tuổi, hết niên hạn thì về "xuất thế vô vi", an hưởng tuổi già, có tái đề cử cũng kiên quyết rút lui, không thèm trương mác "vì nhân dân phục vụ" mà ở lại nữa...Phải chăng, đó là hình hài một nhà nước nhân dân chân chính? Còn nhà nước vô sản? Cần khẳng định thẳng thắn rằng đó chưa phải là nhà nước nhân dân, mà chỉ là nhà nước nhân dân trá hình! Nhà nước vô sản, cũng nêu khẩu hiệu "vì dân" nhưng không thực chất, vẫn là mị dân. Do vẫn tin vào những phủ dụ (tưởng chừng rất) có lý của hệ thống lý luận đã lạc hậu, vẫn giữ những nhận thức sai lầm về "giai cấp", "bóc lột", "chuyên chính vô sản"..., nên một cách duy ý chí và bảo thủ, nhà nước vô sản vẫn duy trì một cách khiên cưỡng định hướng "đảng cử, dân bầu" thiếu khách quan, vẫn duy trì (dù vô ý thức và không muốn) áp bức, bất công trong lòng xã hội. Trong hoạt động kinh tế, nhà nước ấy thường có những quyết sách "vĩ đại", những công trình "thế kỷ", tưởng "vì dân", vì "tương lai con em chúng ta", nhưng hầu như không phải, vì xét kỹ ra chúng chỉ thỏa mãn "sự phè phỡn", "khoe mẽ", thỏa mãn ý thích "hoành tráng", "vượt tầm thời đại". Hơn nữa, nhà nước vô sản dễ biến thái thành "chốn dung thân" của quyền lực, thành nơi "núp bóng" để tiến thân của các "thái tử đảng". Thật là tiếu lâm khi thực tế chỉ ra rằng: lãnh đạo càng có chức vị cao trong nhà nước thì càng đẻ ra được những đức con "tài năng", "biết cách" vươn lên giàu có và quyền lực cực kỳ mau lẹ!...

Đến đây, mặc dù ông A vẫn rất hăng nói thao thao bất tuyệt, nhưng chúng ta không nghe thấy gì nữa mà lại nghe thầm thì, nhưng rành mạch những câu nói của Hồ Chí Minh: "Chính lòng yêu nước, chứ không phải lý tưởng cộng sản, là nguồn cảm hứng cho tôi.", "Tôi tuyệt nhiên không ham muốn công danh phú quý chút nào. Riêng phần tôi thì làm một cái nhà nho nhỏ nơi có non xanh, nước biếc để câu cá trồng rau, sớm chiều làm bạn với các cụ già hái củi, trẻ em chăn trâu, không dính líu gì tới vòng danh lợi. Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc: là làm sao cho nước nhà được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành.", "Tôi khuyên các bạn là chớ đặt những chương trình kế hoạch mênh mông, đọc nghe sướng tai nhưng không thực hiện được. Việc gì cũng cần phải thiết thực, nói được, làm được. Việc gì cũng phải từ nhỏ dần dần đến to, từ dễ dần đến khó, từ thấp dần đến cao. Một chương trình nhỏ mà thực hành được hẳn hoi hơn là một trăm chương trình to tát mà không làm được.", "Kiệm là tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi... Tiết kiệm không phải là bủn xỉn. Khi không nên tiêu xài thì một đồng xu cũng không nên tiêu. Khi có việc đáng làm, việc ích lợi cho đồng bào, cho tổ quốc, thì dù bao nhiêu công, tốn bao nhiêu của, cũng vui lòng. Như thế mới đúng là kiệm. Tiết kiệm phải kiên quyết không xa xỉ. Việc đáng làm trong một giờ, mà kéo dài 2, 3 giờ, là xa xỉ. Hao phí vật liệu, là xa xỉ. Ăn sang mặc đẹp trong lúc đồng bào đang thiếu cơm, thiếu áo, là xa xỉ. Vì vậy xa xỉ là có tội với tổ quốc, với đồng bào". Và câu nói chí lý của C. Mác, người lập ra học thuyết triết học duy vật trên cơ sở phép biện chứng của Hêghen: “Những chân lý khoa học sẽ luôn luôn nghịch lý nếu chúng ta lập luận dựa trên kinh nghiệm hàng ngày, khi kinh nghiệm đó chỉ phản ánh sự việc quanh cái vẻ bề ngoài lừa dối của nó.” (Lạ lùng thay, câu nói chính xác đó của C. Mác cũng hình như nói đến "duy vật biện chứng", một học thuyết triết học nghe rất "hay ho", nhưng đang bộc lộ ra những tranh cãi "om xòm", do chính ông và Lênin góp phần xây dựng?!).


                                              ***

Từ ngày bác A nói về triết học Mác, chúng ta không còn tin "sái cổ" vào triết học ấy nữa mà tin vào triết học duy tồn của ông A hơn. Theo như ông A giải thích thì trong thế giới sinh vật có hai lối sống là du cư và định cư. khi sự sống lần đầu tiên xuất hiện trên Trái Đất thì "lựa chọn tất nhiên" về lối sống phải là định cư (do thức ăn tự nhiên "tại chỗ" dồi dào, do chưa tiến hóa...). Đây có thể là một yếu tố quan trọng để chứng minh rằng, sự sống chỉ có thể sinh ra trong môi trường nước (trong đại dương!). Du cư là lối sống chẳng đặng đừng, khi sinh vật "ở một chỗ" không còn cái "ăn", phải tiến hóa để biết di chuyển mới kiếm "ăn" được. Phải cho rằng, lối sống định cư ưu việt hơn lối sống du cư vì với lối sống du cư, sinh vật cần nhiều thức ăn để sống hơn (cần nhiều năng lượng hơn!), cho nên lối sống định cư luôn được ưu tiên lựa chọn một khi có cơ hội (bán định cư). Khi loài người phát hiện ra cây lúa nước (lúa mì, ngô...) là loại cây thực phẩm sinh sản lạm phát (tăng trưởng lạm-giảm phát số lượng phải chắc chắn phải là một quy luật phổ biến của thế giới sinh vật!), có thể tích lũy lâu dài làm lương thực để sống, thì họ cũng chọn lối sống định cư, lấy trồng trọt-chăn nuôi thay cho săn bắt-hái lượm, làm phương thức sống chủ yếu. Xã hội loài người, lao động-sản xuất, tình cảm yêu- ghét sâu sắc của con người, bóc lột, chiến tranh-đấu tranh và...mọi chuyện của loài người xuất phát từ đó. Có thể nói, lịch sử xã hội loài người (do bị ảnh hưởng bởi quy luật tăng trưởng lạm phát) là lịch sử của các thời kỳ thịnh vượng-suy tàn kế tiếp nhau. Sự trải qua các thời kỳ đó và do tác động của nguyên lý "cố gắng tồn tại" đã nâng cao mức độ sâu sắc trong cảm xúc tình cảm của con người có tư duy, khiến họ phát hiện ra một phương thức kiếm ăn mới đầy cực đoan, đó là chiến tranh, là huy động lực lượng săn bắt vốn có của xã hội mình đi cướp đoạt, nô dịch, bóc lột thành quả lao động của xã hội người khác để sống còn, hơn nữa, để phè phỡn, sung sướng. Phải nói, chiến tranh thuở đầu tiên là sử dụng bạo lực (lực lượng lao động kiếm sống kết hợp với công cụ lao động đã biến tướng thành vũ khí) đi tranh giành, khuất phục, cướp bóc xã hội người khác để kiếm sống, và do tác động của nguyên lý "cố gắng tốn tại", ai cũng mong sống còn cả, nên chiến tranh đồng nghĩa với giết chóc đồng loại, hay nói cách khác, chiến tranh là nuôi dưỡng sự sống bằng triệt hạ sự sống đồng loại! Có thể thấy, chiến tranh và giết chóc lẫn nhau trong đồng loại là hiện tượng phổ biến gần như tất yếu và có tính đặc thù của xã hội loài người, chỉ ở loài người mới có. Có chiến tranh thì rồi phải có đấu tranh (hay còn gọi là kháng chiến!). Nếu chiến tranh là giết chóc, cướp đoạt, nô dịch và bóc lột, thì đấu tranh nhằm chống lại các đều ấy (cũng buộc phải giết chóc!). Vậy thì đấu tranh thuở đầu tiên là một thể tương phản của chiến tranh, người ta dùng từ "phi nghĩa" và "chính nghĩa" để phân biệt chúng, nếu gọi chiến tranh là phi nghĩa thì đấu tranh là chính nghĩa, nếu chiến tranh là đi cướp danh lợi, thì đấu tranh là đi đòi quyền lợi, nếu mục đích duy nhất của chiến tranh là để bóc lột, thì mục đích duy nhất của đấu tranh là để chống bóc lột. Trong suốt chiếu dài của lịch sử xã hội loài người, trong suốt quá trình vận động chuyển hóa qua các hình thái KTXH, đã có biết bao cuộc đấu tranh cách mạng chống bóc lột xảy ra, nhưng chưa có cuộc đấu tranh nào xóa bỏ được triệt để sự bóc lột, chưa có cuộc đấu tranh nào xây dựng được một xã hội triệt để không còn bóc lột, kể cả cách mạng vô sản. Điều đó cho thấy rằng, đến nay loài người vẫn chưa nhận thức chính xác được nguyên nhân chính gây ra sự bóc lột. Triết học Mác cũng chỉ nêu ra gần đúng khi cho rằng tầng lớp tư sản là nguyên nhân gây ra bóc lột. Ông A cho rằng (mà chúng ta thấy cũng đúng!), trong điều kiện bình thường của xã hội tư bản, mọi thứ, kể cả sức lao động, đều được mua bán sòng phẳng với giá thỏa thuận, cạnh tranh, thì làm sao mà tầng lớp tư sản bóc lột, hoặc bóc lột thái quá được? Muốn bóc lột được, thì kẻ đi bóc lột phải có bạo lực (ngầm hoặc công khai), hoặc người bị bóc lột phải trong điều kiện bị ép buộc vào tình thế chẳng đặng đừng nào đó (chẳng hạn: bị kiệt quệ nguồn sống)! Vì vậy ông A mới đi đến kết luận: ở thời đại nào cũng vậy thôi, khi một tầng lớp nào đó trong xã hội chiếm đoạt nhà nước và lũng đoạn được nhà nước (kể cả tầng lớp vô sản!), sẽ trở thành giai cấp thống trị (dưới chế độ cộng sản, đó chính là giai cấp "tư sản đỏ"!) đi bóc lột giai cấp bị trị (tầng lớp nhân dân lao động: công, nông, binh, trí). Do đó, cũng theo ông A, cuộc đấu tranh chống bóc lột chân chính nhất của loài người là cuộc đấu tranh lật đổ nhà nước cũ với hiến pháp dung túng quyền lực thống trị của nó, xây dựng một nhà nước mới không dung túng bóc lột (vì nếu vẫn còn thu hoạch giá trị thặng dư sức lao động, thì cũng phục vụ lợi ích chung), gọi là nhà nước nhân dân với mục đích duy nhất là vì hạnh phúc mọi người, có một hiến pháp thực chất là tất cả "của dân, do dân và vì dân" (cũng có thể gọi là nhà nước công sản chứ không phải là nhà nước vô sản như hiện nay quan niệm! "Vô sản" và "nhân dân" là hai khái niệm gần nhau nhưng khác nhau!).

Đó là những điều chúng ta đã tiếp thu được của ông A kể từ ngày ông ấy nói về sự đúng-sai của triết học Mác-Lê. Lúc đầu còn ngờ ngợ, nhưng đến bây giờ thì chúng ta đã tin. Rõ ràng, triết học Mác là kết quả có được từ sự kế thừa của triết học cổ điển Đức còn hàm chứa nhiều sai lầm, từ những nhận thức về thế giới tự nhiên còn nhiều hạn chế của thời đại, trong mâu thuẫn gay gắt giữa người bị bóc lột và kẻ đi bóc lột của thời kỳ tiền tư bản. Cũng rõ ràng, ngay từ đầu, triết học Mác đã tạo dựng được một hệ thống lý luận về cách mạng vô sản deo rắc được niềm tin "sắt đá", gần như tuyệt đối kiểu "đức tin tín ngưỡng" (tương tự như đức tin thiên chúa vào cõi Thiên Đàng, hay đức tin đạo Phật vào cõi Niết Bàn vậy!), cho đông đảo quần chúng cần lao. Theo sự đánh giá của tôi thì ông A thật tinh tường, đã thấy được điểm yếu chí tử mà ít người thấy được của triết học Mác-Lê. Xét về mặt nhân đạo, học thuyết Mác-Lê đã "vẽ ra" được một xã hội tuyệt đẹp cho con người như tôn giáo phủ dụ dân chúng. Nhưng xét về mặt thực tiễn thì nó chỉ là lý tưởng. Nguyên nhân sâu xa là Mác và Lênin đã "bỏ rơi" sự tác động của tình cảm con người, "vội"coi con người cách mạng như những robot chuẩn mực trong quá trình xây dựng CNCS trong thực tiễn. Hiện nay "định hướng XHCN" (không tự giác) phải chăng là như các nước Bắc Âu mà nước tiến gần đến xã hội XHCN nhất chính là Đan Mạch!? Và tôi đã hiểu vì sao mà trong suốt sự nghiệp hoạt động cách mạng của mình, có những nhà cộng sản lại trung thành một cách "ù lì" với CNCS như thế và hăng say "sắt máu" đến thế! Nhà văn Nga L.Tôi-xtôi nói: "Lí tưởng là ngọn đèn chỉ đường (và chỉ là "ngọn đèn chỉ đường"!.-NV). Không có lí tưởng thì ko có phương hướng kiên định. mà ko có phương hướng thì ko có cuộc sống.". Còn ông A thì nói: "Lý tưởng là ước mơ tiên cảnh của con người trên trần thế. Dù có thể chỉ đạt được một phần hoặc không bao giờ đạt tới tiên cảnh ấy, thì người có lý tưởng cao đẹp và hành động hướng về lý tưởng ấy vẫn có một tâm hồn ngày càng cao quí, lạc quan hơn, làm cho đời đẹp hơn, xã hội tốt hơn! Vậy thì tại sao phải chối bỏ lý tưởng, không theo định hướng XHCN?".

                       ***

Có lần, vào buổi sáng, mới 9 giờ, đã nghe ông A ĐT:

-Chiều qua sớm nghe mày!...Nhà tao làm "tất niên"!

Nghe thế chúng ta nghĩ: chà, thế là đã 23 tháng chạp rồi, chẳng còn mấy ngày nữa là Tết! Năm nào ông A cũng làm tất niên vào ngày đó, vừa là để giỗ tổ (ông A từng làm thợ sắt, và 23 tháng chạp là ngày giỗ tổ nghề, ông A bảo thế), vừa là để tiễn ông Táo về Trời. Và năm nào chúng ta cũng dự, chỉ khi lên đường rồi thì thôi. Thấm thoát mà đã mấy năm rồi kể từ ngày "lên đường cứu nước", lẹ thật!

Đến chiều hôm đó, khoảng 3 giờ, nghe ồn ã, tưởng nhà ông A đã vào tiệc, không kìm nôn nao đợi chờ từ sáng (vì có sẵn "tâm hồn ăn nhậu"?) mà cũng sợ ông A rầy là "làm phách chó", chúng ta vội qua. Còn khí sớm, bạn bè ông A chưa ai tới cả. Hóa ra ồn là do lũ trẻ con! Nhưng lỡ qua rồi, không lẽ về, đành phụ ông A bày bát đũa cho đỡ quê độ!

-Thằng biết điều ghê! - Ông A buột miệng khen...trật lất!

Khoảng nửa tiếng sau khách ông A mới lục tục kéo đến. Năm nay ông A xắp tiệc 3 bàn, bà con họ hàng ông 2 bàn, bạn bè ông 1 bàn (bàn nhậu).

-Tao có rủ con Thảo nữa đấy, cho vui! -Ông A đột nhiên cười nói

-Tý nữa cũng đến á? -Tôi hỏi lại -Anh rắc rối quá! Không khéo người ta lại cho là đã già rồi còn hám gái!

Nghe thế, ông A hạ giọng như sợ vợ trong nhà nghe thấy, vừa nói vừa cười tế nhị:

-Ham gái rõ ràng chứ "cho" gì nữa! Chỉ có điều hồi trẻ ham kiểu khác, giờ già ham kiểu khác. Thế mày còn ham gái không?

Chúng ta cười khùng khục:

-Cò...ò...òn!

....

Chờ khoảng tiếng rưỡi thì vào tiệc. Ba bàn bày kín thức ăn và đầy đủ khách khứa. Thật là ồn ào, trẻ con nhốn nháo. Nhưng chỉ có bàn nhậu là vui nhất. Ở đó, thỉnh thoảng vang lên những lời nói bông đùa có hơi hướng tục tĩu và tiếp đó rộ lên những tràng cười hô hố. Ngồi cạnh Thảo là một cô gái mới. Chắc bạn Thảo. Đoán thế nhưng sau ly rượu thứ nhất, chúng ta vẫn hỏi:

-Bạn của Thảo à?

-Dạ, bạn cùng làm với em! Nó tên Đào!

-Có uống được rượu không đấy? Nếu không thì uống nước ngọt? -Hỏi xong không đợi trả lời, ông B đã nói lớn.- Thu lấy cho em nó lon Pepsi, mày!

Thảo vội can thiệp:

-Nó uống được rượu mà! Anh B đừng giỡn, chấp ba người như anh không lại nó đâu!

Chúng ta rụt cổ, nhăn mặt, lè lưỡi làm bộ khiếp đảm:

-Ghê quá!

Điệu bộ ấy khiến cả bàn nhậu hiểu theo nghĩa tục, cười nghiêng ngả. Thảo thấy vậy, nói chữa:

-Là em nói về tửu lượng của Đào!

Đào đỏ mặt, chúm chím cười ngượng ngịu. Lúc này chúng ta mới nhìn rõ cô nàng: da trắng ngần, đôi mắt to, lông mi dài cong vút, khuôn mặt trái xoan đầy đặn, trẻ măng, được trang điểm kỹ. Cô nàng thật đẹp, nhưng là cái đẹp đã sửa soạn, vẫn thua Thảo.

-Tụi em đang công tác ở đâu thế? -Một ông bụng phệ, quen cách nói "nhà nước", chắc là bạn ông A, cất tiếng hỏi Đào.

Đây là câu hỏi tế nhị, rất khó trả lời đối với cả Đào lẫn Thảo, nếu không muốn nói dối. Đào nhìn Thảo như chờ câu trả lời thay của Thảo. Rất nhanh, ông A đã lên tiếng:

-Chúng nó phụ bán quán "Hát cho nhau nghe" trên đường Phan Đăng Lưu gần đây.

Ông bụng phệ trợn mắt:

-Thế à? Đào cho tôi số ĐT đi, hôm nào tôi ra đó uống ủng hộ.

Ông A nghe thế xua tay:

-Uống ủng hộ thì cứ ra uống ủng hộ lúc nào chả được, cần gì phải xin số ĐT?! Ông này "phức tạp" quá! Có "âm mưu" gì không đây?

-Có gì đâu, để tỏ lòng ngưỡng mộ người đẹp thôi mà! -Ông bụng phệ đáp lại, cười hí hí.

-Vô đi anh em! Vô nào hai em gái! Mấy ảnh nói giỡn đấy! -Một ông cao ngòng, chắc cũng là bạn ông A, cầm ly bia đầy (ông này không uống được rượu), mời cụng, nói như phân trần có vẻ hơi bị ... thừa.

Bàn nhậu từ đó trở nên khí thế hẳn. Ông C thường ngày là ông già điềm đạm, ít nói, giờ với mái đầu bạc trắng, mô phạm, cũng tươm tướp:

-Anh A diễm phúc quá, quen hai em xinh như mộng! Nếu đi thi hoa hậu, chắc là phải đoạt giải!

-Anh nói quá! -Đào cất tiếng nhỏ nhẹ, làm bộ thẹn thùng.

-Ông ấy nịnh đấy, mấy em đừng tin! -Ông B nói xen vào, làm vui.

-Tối nay không bán quán, hả Thảo?-Chúng ta hỏi góp cho có chuyện

-Dạ có, anh! Ngồi đây chơi đến độ 8h thì chúng em xin phép đi. Thường giờ đó khách uống "tăng hai" mới đến đông. -Thảo đáp lại.

-Đông..., nhưng toàn đám "quá đát" mà còn ham hố chứ gì? Tôi còn lạ gì! -Ông B "phang".

Sợ động lòng Thảo và Đào, chúng ta vội bênh:

-Toàn khách già thì đã sao?...Miễn là có! Có cầu ắt có cung thôi. đúng không mấy em!?

Chúng ta hiểu vì sao giờ đó đông khách rồi, định nói thêm vài câu, nhưng nghĩ lại, thấy không tiện, đành thôi. Cuộc sống nhiều khi cần phải tế nhị!

......

Rồi bàn nhậu cũng chuyển sang canh tàn. Đám bạn ông A đã về hết, Thảo và Đào cũng đã đi, chỉ còn chúng ta, ông C, ông B, ông A (tất nhiên!) ngồi lại, lai rai.

-Anh A này, làm sao anh quen được cái Thảo, cái Đào thế? -Ông B đột nhiên nêu thắc mắc.

-Hồi xưa, khi chưa về hưu, hay uống quán đó, rồi quen, thế thôi! Lúc đầu chỉ quen con Thảo, sau quen luôn con Đào. Đào là bạn thân của Thảo. -Ông A rề rà trả lời.

-Thế anh có làm gì tụi nó chưa?-Ông B hỏi dồn.

Ông A ngồi thẳng lại, nói có vẻ giận:

-Làm gì là làm gì? Hỏi lãng nhách, vô duyên quá! Đến đó cho vui không được à?

Ông B cười trừ:

-Tò mò chút thôi, sao vội nóng thế? Mà có gì thì đã sao? Chuyện thường...

-Phải nói hai đứa đẹp thật, mà làm nghề ngồi bàn, kể cũng uổng! ...Xã hội hiện nay đẻ ra lắm nghề tếu quá chừng, ha? -Tôi nói và đặt một câu hỏi bâng quơ.

Đến lượt ông C lên tiếng:

-Làm nghề đó có đủ sống không ta? Chắc bấp bênh lắm!...

-Đừng có đùa! Khá lắm đấy! Chỉ có điều thời gian làm không được lâu và thiếu tương lai thôi. -Ông A nói có vẻ sôi nổi hơn.- Có lần con Thảo "khai" thật với tôi rằng bình quân hàng tháng, nếu được "mời" ngồi nhiều (đương nhiên là phải xinh, ăn nói có duyên rồi!), là khoảng 30 triệu/tháng. Tôi còn chứng kiến tận mắt chuyện này: có đứa con gái chạy bàn quê Quảng Trị. Khi tôi ghé quán đó lần đầu tiên, nó còn bé xíu, gọi tôi bằng chú. Mấy năm sau cô bé đó bỏ nghề chạy bàn, chuyển sang nghề ngồi bàn. Hả? Tất nhiên là nó có nhan sắc rồi...! Hả?... Không! Không bao giờ tôi ngồi với nó! Xưng chú cháu rồi, ngồi "lý lắt", kỳ lắm! Nhưng thỉnh thoảng tôi cũng cho nó vài chục. Có lẽ vì thế,con nhỏ thích tôi lắm! Bẵng đi một thời gian không thấy nó đâu, tôi hỏi, người ta chỉ nói nó nghỉ rồi. Một hôm tôi nhận được cuộc ĐT từ cô bé. Cô ta nói dọng tếu rằng đã được một đại gia "hốt" rồi. Té ra có một lão già giàu có nhận cô nàng làm vợ bé hờ, vì đã có vợ mà không có con. Thế rồi cô bé đẻ liền hai đứa con trai cho lão ta. Khỏi phải nói, lão kia mừng tới cỡ nào. Cuộc ĐT cuối cùng, cô nàng nói với tôi thế này (nguyên văn): "Chú ạ, đời cháu coi như gặp hên rồi. Dù là chồng người ta, dù vẫn phải dấu thì ông ấy cũng thương mẹ con cháu lắm. Nhà cháu nghèo, hàng tháng cháu vẫn gửi tiền về cho ba, mẹ. Thôi thì, được ngày nào hay ngày nấy! Chị Thảo ao ước như cháu mà không được. Âu cũng là số phận, phải không chú?".

-Bây giờ mà rủ con Đào hay Thảo vào khách sạn, chúng nó có đi không nhỉ? -Ông B lại hỏi một cách "lãng nhách".

Lần này ông A không tỏ ra giận dỗi, chỉ lườm một cái và nói gọn lỏn:

-Còn tùy!... Không dễ như anh tưởng đâu! Cỡ anh thì làm gì có "cửa"! Già chát rồi, còn gì nữa đâu, thôi đi!

-Xì, cứ tiền là xong tất! -Ông C xác quyết.

-Có thể là như thế, có thể là trong số chúng nó cũng có những đứa đáng khinh. Nhưng không phải tất cả! Như chúng ta đây, được gọi là tầng lớp "trí thức già", cũng vậy thôi, thử hỏi được mấy "lão" tôi luyện thành "cây đa cây đề", còn bao nhiêu "thằng" đổ đốn? Thực lòng, tôi vẫn quí trọng chúng nó. Ở gần, tiếp xúc nhiều, mới biết chúng cũng là những con người bình thường như chúng ta, những thực thể biết tư duy, có tâm hồn yêu-ghét, biết trân trọng, nâng niu cái đẹp, những thực thể cố gắng sống còn một cách đáng thương....-Ông A đột nhiên lên giọng triết học. Để phá vỡ câu chuyện có chiều hướng chẳng hay ho gì, chúng ta chớp cơ hội:

-A, "thực thể" là gì! Theo quan niệm của mình, anh A có thể giải thích được không?

Nghe hỏi thế, ông A nhìn chúng ta lom lom:

-Lại đố chữ! Lại thích chuyện triết học? Khốn nỗi say mất đất rồi, trả lời sao nổi? Để bữa khác đi! Thu à, chú mày thắc mắc nhiều chuyện thoạt nghe tưởng dễ, nhưng ngẫm lâu một tí thì hóa ra "điếc con ráy", thật khó trả lời...


***

Đầu buổi nhậu,ông A đã vào vấn đề như đã nung nấu trong lòng:

-Khái niệm "thực thể", thoạt nghe, tưởng chừng ai cũng hiểu, nhưng thực ra nếu nghĩ kỹ thì rất không "tỏ tường". Trên Wiktionary định nghĩa: thực thể là "Cái có sự tồn tại độc lập", và đưa ra ví dụ: "Con người là một thực thể xã hội". Muốn hiểu định nghĩa đó, thì trước hết phải hiểu "tồn tại"là gì. Nghĩa là trước sau gì, triết học cũng phải thấu đáo khái niệm "tồn tại".Vậy, tồn tại là gì? Anh C có biết không?

Sau hai phút lục tìm trong laptop, ông C mới trả lời:

-Theo Wiktionary thì khi là danh từ, tồn tại có nghĩa là "Thế giới bên ngoài có được một cách khách quan, độc lập với ý thức của con người", và khi là động từ, thì tồn tại có nghĩa là "Ở trạng thái có thật, con người có thể nhận biết bằng giác quan, không phải do tưởng tượng ra" và còn có nghĩa là "Còn lại, chưa mất đi, chưa được giải quyết"...

-Nói cho ngay, "tồn tại" chỉ đơn giản là "có". Đúng không nào? Vậy, "có" là gì? -Nãy giờ ngồi nghe, bây giờ ông B mới lên tiếng.

Ông C tìm kiếm trên laptop hồi lâu, rồi ngẩng đầu lên thông báo:

-Không tìm thấy trên "mạng". Thôi anh A thử giải thích xem!

-Có chứ anh! Đây này, ở trang "từ điển tiếng Việt"...-Chúng ta cãi.

-Có cũng như không. Ở đó giải thích "có" là "tồn tại". Xét ra, lẩn quẩn. -Ông C cãi lại.

-Theo tôi, có lẽ "có" là từ thốt ra miệng đầu tiên của ngôn ngữ loài người nhằm chỉ một vật nào đó, một hiện tượng nào đó xuất hiện, hiện diện trong tầm mắt. Về sau nó được mở rộng và hiểu như "tồn tại". "Tồn tại" là sự thể hiện, là "có" dù con người có thể không quan sát thấy hoặc không cảm giác được. Ví dụ: không gian là tồn tại, tiếng chó sủa cũng là tồn tại (nói chính xác hơn là thể hiện của Tồn Tại)...Nói chung, theo quan niệm của triết học duy tồn thì thế giới này không gì ngoài Tồn Tại (tồn tại tuyệt đối). Nói như thế có nghĩa là không thể có Hư Vô (hư vô tuyệt đối). Vì rõ ràng Hư Vô là "không có". Sao biết "không có"? Vì " không có" đã thể hiện, đã được xác định, nghĩa là phải "có" cái "không có". Nên rốt cuộc là phải "có", phải Tồn Tại! Nếu loại trừ hết các thiên thể, vạn vật-hiện tượng đi, thì cái còn lại là không gian Vũ Trụ, một Tồn Tại. Có mấy phương thức Tồn Tại? Vì sự thể hiện là duy nhất nên chỉ có duy nhất một phương thức Tồn Tại, một kiểu, một cách thức Tồn Tại. Suy ra các thiên thể, vạn vật- hiện tượng trong Vũ Trụ chỉ là những dạng khác nhau của Tồn Tại, còn gọi là tồn tại (tương đối). Nói đến hiện thực thì phải nói đến quan sát. Một "tồn tại" có thể không "hiện hữu", nhưng một "hiện hữu" thì nhất thiết phải tồn tại. Một tồn tại mất đi thì Tồn Tại vẫn còn đó và sẽ xuất hiện một tồn tại khác, nghĩa là vẫn không thể có Hư Vô mà có thể chỉ có hư vô (tương đối). Thế còn "thực tại"? Cũng là "tồn tại", nhưng nghĩa có lẽ hẹp hơn, nhằm chỉ cái có thực, "đang tồn tại", "hiện tồn", giống như "hiện thực khách quan" nhưng bao hàm hơn, khác với "tồn tại ảo" (ví dụ: hiện thực khách quan của quá khứ là một "tồn tại ảo", "đã từng" là "thực tại"). Có thể cho rằng "thực tại khách quan" là "hiện thực khách quan" không qua quan sát!

-Vậy rốt cục, "thực thể" là gì, anh A? Nó có nghĩa như "thực tại" không? -Chúng ta vọt miệng.

-Tôi quan niệm thế này: nếu "thực tại" là tên gọi chung các sự vật-hiện tượng (đã từng hoặc đang) có trong Vũ Trụ (là "tồn tại" hợp thành và kết quả vận động, tương tác lẫn nhau của "tồn tại"), thì "thực thể" chính là "vật chất" hợp thành.

-Còn "vật chất"? -Đến lượt ông B thắc mắc.

Ông C dò rất nhanh trên laptop:

-Đây rồi, theo Wikipedia định nghĩa thì: "Vật chất cùng với không gian và thời gian là những vấn đề cơ bản mà tôn giáo, triết học và vật lý học nghiên cứu. Vật lý học và các ngành khoa học tự nhiên nghiên cứu cấu tạo cũng như những thuộc tính cụ thể của các dạng thực thể vật chất khác nhau trong thế giới tự nhiên. Các thực thể vật chất có thể ở dạng trường (cấu tạo bởi các hạt trường, thường không có khối lượng nghỉ, nhưng vẫn có khối lượng toàn phần), hoặc dạng chất (cấu tạo bởi các hạt chất, thường có khối lượng nghỉ) và chúng đều chiếm không gian". Ở đoạn khác (nó) viết: "Khuynh hướng chung của các nhà triết học duy vật thời cổ đại là đi tìm một thực thể ban đầu nào đó và coi nó là yếu tố tạo ra tất cả các sự vật, hiện tượng khác nhau của thế giới, tất cả đều bắt nguồn từ đó và cuối cùng đều tan biến trong đó. Tức là họ muốn tìm một thực thể chung, là cơ sở bất biến của toàn bộ tồn tại, là cái được bảo toàn trong sự vật dù trạng thái và thuộc tính của sự vật có biến đổi và được gọi là vật chất (tiếng Latin là materia). Trong lịch sử triết học cổ đại, các nhà triết học duy vật cũng quan niệm vật chất rất khác nhau. Ví dụ Thales (624-547 trước Công nguyên) coi vật chất là nước, Anaximenes (585-524 trước Công nguyên) coi vật chất là không khí, Heraclitus (540-480 trước Công nguyên) coi vật chất là lửa, Democritus (460-370 trước Công nguyên) coi vật chất là các nguyên tử,...

Nói chung các nhà triết học cổ đại quan niệm vật chất dưới dạng cảm tính và quy vật chất thành một thực thể cụ thể, cố định. Mặc dù có những hạn chế về mặt lịch sử, song những quan niệm trên lại có ý nghĩa tích cực trong việc đấu tranh chống lại quan niệm duy tâm thời bấy giờ.

Đến thời kỳ cận đại, khoa học phát hiện ra sự tồn tại của nguyên tử, cho nên quan niệm của thuyết nguyên tử về cấu tạo của vật chất ngày càng được khẳng định. Quan niệm này tồn tại và được các nhà triết học duy vật cũng như các nhà khoa học tự nhiên nổi tiếng sử dụng cho đến tận cuối thế kỷ 19.

Trong giai đoạn thế kỷ 17 - thế kỷ 18, mặc dù đã có những bước phát triển, đã xuất hiện những tư tưởng biện chứng nhất định trong quan niệm về vật chất, song quan niệm đó ở các nhà triết học duy vật thời kỳ này về cơ bản vẫn mang tính chất cơ giới, đó là khuynh hướng đồng nhất vật chất với nguyên tử hoặc với khối lượng. Quan niệm này chịu ảnh hưởng khá mạnh bởi cơ học cổ điển của Newton, một lĩnh vực của vật lý được coi là phát triển hoàn thiện nhất thời bấy giờ.

Cơ học cổ điển coi khối lượng của vật thể là đặc trưng cơ bản và bất biến của vật chất; thế giới bao gồm những vật thể lớn nhỏ khác nhau, cái nhỏ nhất không thể phân chia nhỏ hơn là các nguyên tử; đặc trưng cơ bản của mọi vật thể là khối lượng; tính tất yếu khách quan trong hiện thực là tính tất yếu khách quan được thể hiện qua các định luật cơ học của Newton; vật chất, vận động, không gian và thời gian là những thực thể khác nhau cùng tồn tại chứ không có quan hệ ràng buộc nội tại với nhau.

Karl Marx và Friedrich Engels đã kế thừa những giá trị tích cực đồng thời vạch ra những hạn chế trong quan niệm về vật chất của các nhà duy vật trước đó, đã tổng kết những thành tựu của khoa học tự nhiên, khái quát và hình thành nên một quan niệm khoa học về phạm trù vật chất. Các ông nêu lên sự đối lập giữa vật chất với ý thức, về tính thống nhất vật chất của thế giới, về tính khái quát của phạm trù vật chất và sự tồn tại của vật chất dưới các dạng cụ thể...

Theo Ăng-ghen thì: Cần phân biệt các dạng tồn tại khách quan của vật chất và khái niệm về vật chất. Vật chất với tư cách là một phạm trù triết học không có tồn tại cảm tính. Khác với các đối tượng vật chất cụ thể. "Những từ như vật chất và vận động chỉ là sự tóm tắt trong đó chúng ta tập hợp theo những thuộc tính của chúng, rất nhiều sự vật khác nhau có thể cảm biết được bằng giác quan". Engels nhấn mạnh rằng cần phân biệt các dạng tồn tại khách quan của vật chất và khái niệm về vật chất. Vật chất với tư cách là một phạm trù triết học không có tồn tại cảm tính.

Marx và Engels phê phán quan điểm đem quy vật chất về nguyên tử về những hạt nhỏ đồng nhất hoàn toàn giống nhau về "chất" và chỉ khác nhau về "lượng", đó là những quan niệm mang tính siêu hình và cơ giới. Qua đó các ông nêu lên tính vô hạn và vô tận, tính không thể sáng tạo và không thể tiêu diệt được của vật chất cũng như các hình thức tồn tại của nó tức là vận động, không gian và thời gian... Trong đó Ph.Ăng-ghen đặc biệt nhấn mạnh phê phán quan điểm đem quy vật chất về nguyên tử, về những hạt nhỏ đồng nhất hoàn toàn giống nhau về chất, chỉ khác nhau về lượng, ông coi đó là siêu hình, mang tính cơ giới, qua đó ông nêu lên tính vô hạn và vô tận, tính không thể sáng tạo và không thể tiêu diệt được của vật chất và các hình thức tồn tại của nó là không gian và thời gian.

Ở đây cần phân biệt quan niệm vật chất với tư cách là một phạm trù triết học với quan niệm của vật lý học và các khoa học khác về vật chất. Điều này giúp chúng ta nhận thức và hiểu đúng vật chất dưới dạng xã hội, ví dụ trong lịch sử xã hội loài người thì quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất là có tính vật chất mặc dù nó không được cấu tạo nên từ bất kỳ một nguyên tử hay phân tử vật chất nào.

Phạm trù vật chất xuất hiện ngay từ khi triết học mới ra đời trong thời kỳ cổ đại, dưới chế độ chiếm hữu nô lệ. Tuy nhiên nội dung của phạm trù này không phải là bất biến mà luôn luôn biến đổi và phát triển.

"vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác".”

— Lê Nin"

-Thật mơ hồ! -Ông B chép miệng. - Vũ trụ sờ sờ ở trước mắt, hình như rất trực giác đối với chúng ta mà lại hóa ra hư ảo quá xá!

-Phải chăng triết học Mác-lênin vẫn chưa quan niệm thỏa đáng về "vật chất"? -Tôi nêu ý kiến.

Ông A nói tiếp:

-Đúng vậy! Hơn nữa, khái niệm "vật chất" của Mác-Ăngghen mâu thuẫn với khái niệm "vật chất" của Lênin, một đàng có cảm tính, đàng thì không. Tuy nhiên chúng rất gần với quan niệm "tồn tại" (nhưng chưa phải là quan niệm ấy) của triết học duy tồn. Theo quan niệm của triết học duy tồn, Thế giới này chỉ duy nhất Tồn Tại và Tồn Tại mà thôi, không có gì ngoài Tồn Tại. Do đó, "vật chất" cũng phải có gốc xuất phát từ Tồn Tại! Mà Tồn Tại chính là không gian, nên "vật chất" cũng phải có nguồn gốc từ không gian. Cũng theo mường tượng của triết học duy tồn thì đường về phía vô cùng nhỏ của không gian phải có giới hạn, nghĩa là không gian là một khối hữu hạn (nhưng vô biên! "Vô biên" ở đây phải được hiểu như trường hợp mặt một phía của giải băng Môbiux!) vĩ đại được "lấp đầy", được hợp thành từ vô vàn những đơn vị có lượng thể tích nhỏ tuyệt đối gọi là "điểm không gian" hay "hạt không gian". Vì Tồn Tại là phải thể hiện và phân biệt được với chính nó, nên hạt không gian phải vận động và biến đổi không ngừng trong một khoảng thời gian nhỏ nhất tuyệt đối (vì thời gian là độ đo lâu mau, nhanh chậm của vận động, là một tồn tại ảo, có tính qui ước!). Vì không gian là hữu hạn, nên có sự "xáo trộn" trong vận động nội tại hạt không gian, tạo ra 2/5 (40%) số lượng hạt không gian có nội tại đạt trạng thái kích thích tột độ và tương phản nhau gọi là "âm" và "dương". Chúng kết hợp với nhau và chính là những thực thể vật chất đầu tiên, sơ khai, nguyên thủy, nền tảng, hợp thành đa dạng vạn vật trong Vũ Trụ tương tự như tế bào của sự sống vậy. Như thế "vật chất", bộ phận của Tồn Tại, là tồn tại, hay còn có thể hiểu là một phần của không gian. Tóm lại, thế giới này vốn dĩ Tồn Tại, rồi có tồn tại (vật chất), từ đó có mọi thực thể, và thế là Vũ Trụ hình thành, hay nói cách khác: lúc đầu là không gian, rổi đến vật chất, từ đó mà có đa dạng các thực thể (vạn vật-hiện tượng), tất cả chúng hợp thành Vũ Trụ...

Ông B giơ tay có ý "xin ý kiến" rồi nói:

-Anh A quan niệm về Vũ Trụ như thế cũng có lý, nhưng còn thiếu sự hiện diện của các "trường" (trường tĩnh điện, từ, điện từ , hấp dẫn) nữa. Vậy, theo anh A, "trường" là gì?

-"Trường" có phải là thực thể không? -Tôi hỏi bổ sung.

Như thuộc lòng, không nghĩ ngợi gì, ông A đáp luôn:

-Theo quan niệm của vật lý học ngày nay, "trường" là một dạng đặc biệt của vật chất, nhưng không có tính thực thể. Nó cũng hàm chứa năng lượng và...chỉ có thế! Nói chung nó là gì thì vẫn còn rất bí ẩn, chưa rõ ràng. Theo tôi nghĩ, vật lý học (và cả triết học nữa) cần phải quan niệm lại nhiều điều, thậm chí là phải quan niệm lại từ đầu tất cả các khái niệm của mình về những vấn đề cơ bản như "tồn tại", "thực tại", "thực thể", "vật chất"..., để làm mới lại mình! Nếu Tồn Tại là cái "có" thể hiện ra dưới hai dạng "có hình thù" và "phi hình thù", thì vật chất cũng là cái "có" thể hiện ra dưới hai dạng ấy (thí dụ: ánh sáng). Nếu đặc trưng chung nhất, cơ bản nhất của Tồn Tại là hàm chứa năng lượng (h.v, ẩn chứa khối lượng) thì đặc trưng chung nhất, cơ bản nhất của "vật chất" là hàm chứa rõ ràng khối lượng (m). Có thể cho rằng không gian là khối h.v (lượng tử) vĩ đại, vô biên nhưng không vô hạn. Vì có vật chất mới có thực thể nên phải cho rằng thực thể là vật chất "có hình thù", có thể cân, đong, đo, đếm được. Theo nhận định ngày nay thì trường là dạng vật chất "phi hình thù", không thể xác định được nên trường không phải là thực thể. Vả lại, vì không thể hiện rõ ràng khối lượng nên trường cũng không phải là vật chất. Vậy nó là gì? Có thể nói rằng, trường (chỉ) là hiện tượng, là kết quả của tương tác vật chất, thậm chí, theo khẳng định của triết học duy tồn, (các) trường như ngày nay ngộ nhận, là không tồn tại, mà chỉ tồn tại những "hiệu ứng" và chỉ tồn tại một trường duy nhất, đó là trường không gian. Cuối cùng chúng ta có thể định nghĩa: thực thể là một khoảng thể tích cực tiểu (khoảng không gian), được xác định trong Vũ Trụ, là thực thể nhỏ nhất chứa vật chất với tổng khối lượng là m và năng lượng toàn phần là mc². Từ thực thể đó mà có các thực thể khác. Thí dụ nguyên tử, các hành tinh, các thiên hà đều là các thực thể..., đều có năng lượng toàn phần là n.mc² (với n là số tự nhiên).

-Không thể tin được trường lại không tồn tại. Một sự thật rõ rành rành là nếu không tồn tại trường thì làm sao có ĐTDĐ được? Tôi không tin. Nói như anh A, trình độ triết-khoa của loài người ngày nay hình như mới bước qua giai đoạn sơ khai ấy! -Ông C cười, bày tỏ ý kiến.

Ông B tiếp nối:

-Nói theo kiểu "trà dư tửu hậu", thì như thế cũng "vui" đấy chứ!? Theo tôi thì anh A nói dù sao vẫn có lý. Biết đâu, anh A là người đầu tiên khơi gợi ra một cuộc cách mạng mới về nhận thức?

-Ừ! Tôi cũng thấy khó tin thật đấy! Thực chứng đã chỉ ra rằng, không thể không tồn tại trường. Nhưng sự tồn tại của trường lại làm xuất hiện nhiều điều phi lý hơn. Chẳng hạn vấn đề hàm chứa khối lượng.Trường có hàm chứa khối lượng không?Nếu có thì phải xác định được chứ? Đã xác định được khối lượng thì là thực thể mất rồi! Rất khó hình dung vật chất lại không có khối lượng, trường hàm chứa năng lượng như thế lại không có khối lượng! Không thể tưởng tượng được xung quanh một thực thể, dù lớn bé thế nào, lại duy trì một trường (chẳng hạn là trường hấp dẫn) có một năng lượng trải ra vô tận! -Ông A lập luận.

Chúng ta ngồi nghe, vẫn "điếc con ráy", không hiểu gì mấy, nhưng cũng cảm thấy ông A nói hay. Bất chợt chúng ta ngẩng lên trời. Chúng ta còn nhớ: bầu trời đêm đó đầy sao, lấp lánh. Hình như nó đang mỉm cười! Và trong sâu thẳm tiềm thức, chúng ta mường tượng thấy như có Nàng Thơ vụt qua, bay về nơi xa tít!

       ***


Tiến trình vận động xã hội, xét cho cùng, cũng là một tiến trình vận động tự nhiên vì xã hội thuộc về tự nhiên, nên nó cũng phải tuân theo nguyên lý Tự Nhiên. Vì vậy, muốn giải thích thỏa đáng các quá trình vận động xã hội, phải bắt đầu từ nguyên lý mưu sinh, một thể hiện đặc thù của nguyên lý cơ bản nhất. phổ quát nhất của tự nhiên, đó là: "cố gắng tồn tại". Hay như ông bà nói: "Có thực mới vực được đạo".

Theo chỉ thị của Tự Nhiên Tồn Tại, mọi con người nói riêng và cả thế giới sinh vật nói chung, sinh ra là cố gắng sống còn cái đã, trước khi phải chết đi. Muốn sống còn thì phải tìm ăn. thuở đầu tiên, do nguồn thức ăn tương đối dồi dào nên tất yếu có sự tăng trưởng số lượng cá thể giống loài. Có thể nói, trong điều kiện thuận lợi về nguồn thức ăn, tăng trưởng lạm phát về số lượng cá thể sống trong một giống loài là một hiện tượng có tính qui luật.


Chủ yếu do tính hữu hạn của thiên nhiên và qui luật phát triển lạm phát về số lượng chi phối mà có sự cạnh tranh sống còn trong thế giới sinh vật thể hiện ra dưới dạng qui luật đấu tranh sinh tồn và tiến hóa-thích nghi. Trong thế giới sinh vật, bất cứ giống loài nào cũng vậy, khi mới hình thành giống loài, nhờ những tiến hóa-thích nghi trước đó, coi như mưu sinh tạm ổn trong môi trường thiên nhiên có sẵn. Do tác động của qui luật tăng trưởng lạm phát số lượng và tiến hóa-thích nghi thường xuyên của môi trường, chúng bắt buộc phải tham gia ngay vào cuộc (qui luật) đấu tranh sinh tồn mới. Cứ thế cho đến ngày gặp thảm họa thiên nhiên (thiên tai) hoặc điều kiện môi trường biến đổi đến độ vượt quá khả năng thích nghi của chúng, chúng sẽ bị diệt vong, nhường chỗ cho giống loài mới, đủ khả năng thích nghi với môi trường mới, ra đời. Định mệnh loài người cũng như thế chăng?

Loài người, thuộc về thế giới sinh vật nên không phải là ngoại lệ, nghĩa là cũng phải đấu tranh sinh tồn và tiến hóa-thích nghi để sống còn. Hơn nữa, cho đến nay, loài người được cho là loài vật duy nhất đạt mức tiến hóa-thích nghi cao nhất (nghĩa là có tư duy trừu tượng) và sống (tất nhiên!) theo lối hợp quần xã hội, nên mọi kỹ năng kỹ xảo có được nhắm phục vụ cho mục đích sống còn ở loài vật đều được phát huy một cách sáng tạo đến mức tối ưu ở loài người và qui luật đấu tranh sinh tồn, sự tiến hóa- thích nghi cũng được triển khai một cách chủ động sáng tạo lên mức cao độ. Chính vì vậy mà ở xã hội loài người mới xuất hiện những cảm giác, hành vi đặc thù mà (được cho là) chỉ ở xã hội loài người mới có như: tình cảm hỉ nộ ái ố, yêu-ghét, danh lợi, quyền lực, tranh dành, bóc lột, cướp đoạt,..., và ở mức tột độ là chiến tranh, là giết chóc lẫn nhau nhằm mưu cầu danh lợi (ở đây khái niệm này có nội hàm rất rộng, có thể hiểu tất cả những thứ gì làm thỏa mãn tâm-sinh lý con người đều có thể gọi là danh lợi).

Ở loài vật xu thế sống theo quần thể, theo bầy đàn cũng là để làm tăng khả năng sống còn. Ở loài người có tư duy trừu tượng, xu thế ấy càng được nhấn mạnh, nổi lên như một lối sống đặc trưng. Nhờ vào việc khám phá ra lối kiếm sống chủ yếu bằng trồng trọt chăn nuôi với sản xuất cây lương thực làm nguồn thực phẩm cơ bản mà loài người mới có được phương thức sống định cư lâu dài và hợp quần xã hội, và từ lao động kiếm ăn đơn thuần đạt đến tình trạng sản xuất thặng dư, tạo tiền đề tiến lên nền sản xuất hàng hóa và nhảy vọt lên văn minh. Có thể nói tiến lên văn minh là hướng đi tất yếu của xã hội loài người.

Vì là loài vật nên loài người cũng có tính tranh dành bản năng. Sự phát triển theo các qui luật tự nhiên của xã hội loài người cộng với sự tác động bất lợi xảy ra ngẫu nhiên (có tính tất nhiên) có thể có của thiên nhiên đã là nguyên nhân chủ yếu làm xuất hiện những thời đoạn thịnh-suy kế tiếp nhau có tính phổ biến của tiến trình vận động xã hội. Tiến trình này cùng với nỗ lực sinh tồn bằng mọi giá và tính tranh giành bản năng đã "nhào nặn", hun đúc nên cái gọi là tình cảm, trong đó có lòng tham ích kỷ vốn dĩ khó gột bỏ ở mỗi con người và từ đó hình thành nên khái niệm tư hữu trong nhận thức con người.

Sản xuất giá trị thặng dư kết hợp với lòng tham ích kỷ là tiền đề của sự bóc lột. Bóc lột chính là tổ chức cho con người sản xuất thặng dư và chiếm đoạt giá trị thặng dư ấy làm của riêng một cách quá đáng (xâm phạm vào khả năng tái tạo sức lao động, khả năng sống còn của người lao động thặng dư!). Sự bóc lột và sự cố gắng sống còn lập nên mối quan hệ tương phản chế ngự, kìm hãm lẫn nhau bằng hình thức đấu tranh. Đấu tranh là hình thức đối chọi nhau bằng bạo lực (có thể có vũ trang hoặc không vũ trang) của tập đoàn người này với tập đoàn người khác nhằm đòi giá trị lao động thặng dư đã bị tước đoạt một cách bất công nhằm đảm bảo sống còn và quyền lợi sống còn, cũng như quyền được hạnh phúc.

Thường thì trong hai bên tranh chấp ấy, một bên được gọi là chính nghĩa (bên bị bóc lột, bị xâm phạm quyền lợi sống còn), một bên được gọi là phi nghĩa (bên bóc lột, chiếm đoạt quyền lực).Việc đánh giá chân chính nhất, khách quan nhất, tức là đúng nhất, bên nào là chính nghĩa, bên nào là phi nghĩa, thì chỉ có một kết quả duy nhất. Nhưng do tính đa chiều về thị phi, đa dạng về nhận thức, nên một cách chủ quan, cũng có thể có nhiều kết quả đánh giá đúng-sai. Thí dụ: chúng ta đánh giá như thế nào về cưỡng đoạt đất đai ở nước ta hiện nay, đâu là chính nghĩa, đâu là phi nghĩa?

Mục đích nguyên thủy của sự ra đời nhà nước là liên kết xã hội, hòa giải, duy trì trật tự xã hội. Muốn thế, nhà nước phải có quyền lực nhất định. Lúc đầu, quyền lực nhà nước là do cộng đồng xã hội ủy quyền mà có. Bóc lột cũng cần quyền lực để vơ vét ngược ngạo giá trị thặng dư nên quyền lực nhà nước thường bị lạm dụng để bóc lột, gây bất công xã hội. Dần dần, quyền lực nhà nước bị thao túng, lũng đoạn thường xuyên hơn, đến mức phổ biến, thậm chí là công khai, trở thành một hiện tượng như mặc định, phân ra thành hai lực lượng tương phản cơ bản trong xã hội là tầng lớp thống trị (thiểu số, có quyền lực, giàu, thao túng nhà nước) và tầng lớp bị trị (đa số, không có quyền lực, nghèo, bị nhà nước chi phối). Như vậy, dù vì bất cứ lý do nào không cần biết, dù dưới bất cứ chế độ nào, khi nhà nước (tư sản hay vô sản cũng vậy) dở thủ đoạn bóc lột thái quá (sưu cao thuế nặng đến mức phi lý), đe dọa đến khả năng sống còn của quần chúng (tầng lớp bị trị), thì sẽ nổ ra đấu tranh gay gắt, thậm chí đến một mất một còn.

Có thể nói tóm tắt: lịch sử của xã hội loài người là lịch sử tranh dành danh lợi giữa các tập đoàn người, là sự phản ánh các quá trình đấu tranh của các tầng lớp bị trị đối với các tầng lớp thống trị. Điều đó có nghĩa là cuộc đấu tranh chống bóc lột của nhân loại đã xảy ra từ rất sớm, có lẽ cùng lúc với phát sinh ra khái niệm "tư hữu", "áp bức", "bóc lột",...Và đây là nguyên nhân hình thành khẩu hiệu: "Ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh". Qua đây, có thể thấy định nghĩa của Lênin: "Lịch sử loài người là lịch sử đấu tranh giai cấp" là không thỏa đáng. Vì chiến tranh đế quốc, chiến tranh giữa các tập đoàn phong kiến, không phải là đấu tranh giai cấp.

Trong lịch sử loài người, đã có rất nhiều cuộc đấu tranh chống bóc lột xảy ra, nhưng xét về mức độ khốc liệt, phạm vi ảnh hưởng, qui mô cách mạng trên toàn cầu thì cho đến nay, có lẽ chỉ có hai cuộc đấu tranh là cuộc cách mạng tư sản và cuộc cách mạng vô sản.

Sản xuất hàng hóa phát triển đã mở đường cho quá trình tiến lên văn minh, đồng thời, quá trình tiến lên văn minh sẽ tác động trở lại, làm sản xuất hàng hóa phát triển hơn nữa. Song nó đã bị tầng lớp vua chúa, quí tộc phong kiến (tầng lớp thống trị đương thời) cản trở, thậm chí ngăn lại bằng cách bóc lột thậm tệ, đến mức trói buộc sức lao động của quần chúng (tầng lớp bị trị). Tình hình đó dẫn đến sản xuất hàng hóa có nguy cơ bị đình đốn, vừa không đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của xã hội, vừa đồng thời gây lãng phí khả năng sản xuất, bóp nghẹt sự làm giàu tư nhân trong xã hội. Đó là lý do chủ yếu làm nảy sinh cuộc cách mạng tư sản, lật đổ nhà nước phong kiến cổ hủ, xây dựng nên nhà nước của ưu tiên cho sản xuất hành hóa, chính quyền của tầng lớp thống trị mới gọi là tư sản với khẩu hiệu: "tự do, bình đẳng, bác ái". Nói cho ngay, cách mạng tư sản là cuộc đấu tranh đòi phá tan xiềng xích, ách áp bức phong kiến, đòi tự do làm giàu, tự do thu hoạch giá trị thặng dư sức lao động. Tuy cũng chống bóc lột nhưng chống không triệt để (một khi còn sản xuất hàng hóa và còn cạnh tranh tự do thì nguy cơ bóc lột vẫn còn), mà chủ yếu là giải phóng sức lao động xã hội. Dù vậy buổi đầu, nó vẫn là cuộc đấu tranh chính nghĩa vì phù hợp với tiến trình lịch sử. Nhưng ngay sau đó, một phần do lòng tham ích kỷ lũng đoạn, một phần do sự đe dọa phá sản trong cạnh tranh tự do, tầng lớp tư sản dần trở thành tầng lớp độc quyền thống trị, bóc lột dã man quần chúng (tầng lớp bị trị). Chính vì vậy mà khẩu hiệu: "tự do, bình đẳng, bác ái" của tầng lớp tư sản thời kỳ đầu đã trở nên rỗng tuếch, mị dân, làm nổ tiếp ra cuộc đấu tranh chống bóc lột mới của tầng lớp những người làm thuê, mà ngọn cờ đầu là cách mạng vô sản do Mác đề xướng và Lênin là người đầu tiên thực hiện chưa thành công hoàn toàn trong thực tiễn nước Nga.

Cách mạng vô sản là cuộc đấu tranh chống bóc lột sâu rộng nhất trong lịch sử loài người và theo C. Mác cũng như theo các nhà xây dựng nên học thuyết về cách mạng vô sản thì đó cũng là cuộc đấu tranh xóa bỏ áp bức bất công, xóa bỏ nạn người bóc lột người triệt để nhất từ trước tới nay. Nếu cách mạng tư sản nhằm lật đổ chế độ phong kiến thì theo các nhà lý luận kinh điển cộng sản, cách mạng vô sản cũng nhằm lật đổ chính quyền tư sản, sau đó nhằm triệt tiêu nhà nước nói chung. (Theo chúng ta việc phủ định nhà nước là một sai lầm cơ bản về nhận thức của Mác cũng như của chủ nghĩa cộng sản. Vì tại sao phải xóa bỏ nhà nước khi nó không hề là nguyên nhân của áp bức bóc lột, thậm chí trong nhiều trường hợp lại là công cụ hữu hiệu chống áp bức bóc lột, hơn nữa, làm sao xóa bỏ được nhà nước, một khi nó là yếu tố cần và đủ cho lối sống hợp quần xã hội, cho vận động xã hội trôi chảy của loài người?).

Khi một chính quyền bị sụp đổ và tan rã thì lực lượng tàn dư của nó, lực lượng nhờ nó mà trục lợi, nhờ nó mà có giàu sang phú quí vẫn còn và tìm cách liên kết lại hòng mưu cầu giành lại chính quyền. Đó chính là sự bảo thủ, là "sức ỳ" tồn tại của cái cũ trong sự chuyển hóa, biến đổi từ cái cũ sang cái mới. sự thể đó xảy ra càng nặng nề đối với hai cuộc cách mạng được cho là "long trời lở đất" nói trên cho nên sau khi lật đổ chính quyền tư sản, các nhà cách mạng phải thiết lập một chế độ gọi là "chuyên chính". Chuyên chính nói chung là dùng mọi biện pháp, kể cả bạo lực cách mạng, nhằm trấn áp, triệt tiêu tàn dư, mầm mống hồi sinh chế độ cũ, để giữ vững chế độ mới.

Nôm na: chuyên chính tư sản nhằm xóa bỏ vĩnh viễn chế độ phong kiến và triệt tiêu mầm mống của cách mạng vô sản. Còn chuyên chính vô sản, theo wikipedia: "Chuyên chính vô sản hay nền chuyên chính vô sản là một lý thuyết của chủ nghĩa Marx - Lenin là một bộ phận quan trọng của chủ nghĩa cộng sản khoa học theo đó chuyên chính vô sản là việc giai cấp công nhân nắm quyền lực nhà nước và sử dụng quyền lực nhà nước trấn áp giai cấp tư sản để tiến hành xây dựng một xã hội không giai cấp. Đây là sự thống trị về chính trị của giai cấp công nhân với chức năng thực hiện dân chủ đối với nhân dân, tổ chức xây dựng và bảo vệ chế độ mới, chuyên chính với những phần tử thù địch, chống lại nhân dân. Chuyên chính vô sản được cho là một trong những tư tưởng đặc sắc và trọng yếu nhất của chủ nghĩa Mác về vấn đề Nhà nước, là đỉnh cao của vai trò cách mạng của giai cấp vô sản trong lịch sử và là sự phát triển của Lý luận về Nhà nước mà Karl Marx đề ra và được những người kế thừa tư tưởng của ông phát triển.

Trong thập niên 1970 các đảng cộng sản Tây Âu từ bỏ ý tưởng chuyên chính vô sản để mà phân biệt mình với các đảng ở những nước xã hội chủ nghĩa hiện thực. Các chương trình của họ đã bỏ mô hình cách mạng mà Karl Marx đã phác họa và thay vào đó là chủ nghĩa cải tổ trong các hoạt động chính trị".

Vì quan niệm còn sai lầm về giai cấp và đấu tranh giai cấp, vì hiểu sai rằng tầng lớp tư sản là nguyên nhân dẫn đến bóc lột (đúng ra: bóc lột trong sản xuất hàng hóa là nguyên nhân xuất hiện giai cấp tư sản) và tầng lớp tư sản rất dễ được sinh ra trong những hoạt động xã hội, ít ra là về mặt tư tưởng, dễ gây ra mầm mống phản cách mạng hòng khôi phục lại chính quyền áp bức bất công như xưa, nên giai cấp công nhân (tức tầng lớp thống trị mới(?)) phải đấu tranh không ngừng, kiên định, không khoan nhượng đối với những người bị cho là thuộc giai cấp tư sản, hay có lập trường của giai cấp tư sản(!?) nếu muốn giữ vững chính quyền (còn non trẻ!) của cách mạng vô sản. Do đó mà dễ dàng hiểu rằng vì sao chuyên chính vô sản quyết liệt hơn chuyên chính tư sản?

Do nhận thức sai lầm rằng tầng lớp trí thức, nông dân (người cộng sản gọi chung là tiểu tư sản) dễ chuyển biến thành tư sản và nhận thức như trên về sự phát sinh trở lại của giai cấp tư sản và nhận thức phải "sắt máu" của nền chuyên chính vô sản nên các nhà lãnh đạo cách mạng vô sản (thời kỳ đầu) rất dễ hoảng sợ, đề cao cảnh giác đến mức thái quá, dẫn đến mù quáng, cực đoan, dễ nhận định sai lầm về vấn đề ta - địch, bạn - thù. Trong cách mạng Việt Nam, những sự kiện như: sai lầm trong Cải cách ruộng đất, vụ án Nhân văn giai phẩm, vụ án Xét lại chống Đảng chính là hậu quả điển hình, có nguyên nhân sâu xa cho quan niệm sai lầm này. Cũng chính vì quan niệm còn rất cực đoan về chuyên chính vô sản, thêm nữa lại bị lũng đoạn bởi thói đam mê quyền lực, thói thích được sùng bái cá nhân (sẵn sàng hy sinh không chút đắn đo cho cách mạng khi còn trứng nước, nhưng khi cách mạng thành công rồi thì lòng tham ích kỷ, khát vọng vinh quang, luyến tiếc quyền lực, mong muốn được vinh danh sử sách,..., trỗi dậy!) mà hầu như các lãnh đạo cách mạng, không nhiều thì ít, đều dính vào các cuộc thanh trừng máu lửa, sát hại ngay cả chính những đồng chí đã từng kề vai sát cánh, vào sinh ra tử với mình trong quá trình hoạt động cách mạng (sau đó, khi nhận ra sai lầm thì sửa sai, xin lỗi, phục hồi danh dự..., nhưng thường thì đã quá muộn!). Đây chính là nguyên nhân sâu xa nhất cho các vụ thảm sát dưới chế độ cộng sản, mà người phải kể đến đầu tiên là Iosif Vissarionovich Stalin, và người thứ hai, người được đánh giá là có nhiều thủ đoạn thâm độc nhất, có "thành tích" tàn sát nhất thế giới, hơn cả Hitle, có thể gọi là "đồ tể số một nhân loại", đó là Mao Trạch Đông. Và người thứ ba không thể không nhắc đến về sự hoàn toàn mù quáng trong cách thức xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội một cách Mao-ít, dẫn đến nạn diệt chủng dân tộc Căm-Pu-Chia (làm chết hơn hai triệu người), đó là Pôn Pốt, thủ lĩnh Khơ-me Đỏ.


***

Phản biện cách mạng vô sản không phải để ruồng bỏ nó, mà để thấy rõ khiếm khuyết của nó, khắc phục nó và thêm quí trọng nó, vì nó là hướng vận động xã hội có tính chính nghĩa nhất, có lý trí đến hoàn thiện duy nhất của xã hội loài người!

Hiện nay, cách mạng vô sản như gã say rượu loạng choạng trên đường đến xã hội XHCN tự mình vẽ ra, tưởng rất gần nhưng đi mãi không hề đến nơi, vì XHCN như Niết Bàn, chỉ là ảo ảnh của sự hoang tưởng. Xét về mặt nuôi chí lý tưởng thì cộng sản giống y hệt Đạo Phật. Đạo Phật, sau 2500 năm tu luyện, vẫn chưa có bất cứ ai đến được cõi Niết Bàn! Như vậy có phải mị dân không?

Cách mạng vô sản, theo các nhà lý thuyết cộng sản, là cuộc đấu tranh triệt để nhất của loài người về mục đích xóa hết áp bức, bất công, bóc lột, đảm bảo quyền sống cơ bản cho mọi người. Cách mạng vô sản đã xây dựng trên lý thuyết con đường đi lên xã hội xã hội chủ nghĩa, một xã hội không có người bóc lột người, mọi người đều được sống cuộc sống "vui vẻ - ấm no - tự do - hạnh phúc" với khẩu hiệu: "làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu". Chính vì vậy mà cuộc cách mạng vô sản, theo nhận định của Mác - Lênin, cũng là cuộc đấu tranh liên tục, không ngừng, lâu dài và gian khổ nhất, bắt đầu từ lúc phát động, thủ tiêu nhà nước tư sản, cho đến khi xây dựng xong xã hội XHCN, thiên đường của chủ nghĩa cộng sản. Phải hỏi, mục đích của cách mạng vô sản tuyệt đẹp như thế, phù hợp với ước mơ của loài người như thế, nhưng trên thực tế, vì sao cho tới nay hầu hết các nước làm cách mạng vô sản, đã đập tan chính quyền tư sản, xây dựng được nhà nước chuyên chính vô sản, đang tiến lên CNXH, thậm chí như Liên Xô, tưởng đã đến nơi, đột nhiên, thuận theo nguyện vọng quần chúng (tầng lớp bị trị), rời bỏ con đường đó, trở về với xã hội có chính quyền mang bản chất của tầng lớp tư sản như xưa? Và như vậy CNXH là hão huyền, cách mạng vô sản là vô ích chăng?


Nếu không có cuộc đấu tranh rầm rộ chống bóc lột của tầng lớp bị trị vào đầu thế kỷ XX, nhất là sự vạch trần bộ mặt bóc lột (dù chưa đích đáng) do chính quyền tư sản gây ra và sự khuấy động phong trào cách mạng vô sản của các nhà cộng sản, cũng như sự hình thành khối XHCN do Liên Xô đứng đầu (cho dù đến nay đã tan rã!), thì thử hỏi bộ mặt thế giới ngày nay ra sao, quần chúng (tầng lớp bị trị) ngày nay ở các nước tư bản phát triển có được cuộc sống, nếu xét về mức độ đảm bảo sống còn, thì cảm giác hầu như không bị bóc lột nữa (nên nhớ, thu hoạch thặng dư có chừng mực không phải là bóc lột!), trái lại được hưởng nhiều phúc lợi, nhân quyền, tự do, bình đẳng... như đang thấy hay không?

Rõ ràng là không rồi! Nhất là đối với quần chúng thuộc địa, nếu không làm cách mạng vô sản thì cũng tham khảo ở đó đường lối đấu tranh, tìm thấy ở đó những khích lệ giải phóng dân tộc. Nếu không có cuộc cách mạng vô sản Tháng 8, thì làm sao Việt Nam trở thành tấm gương chói lọi trong việc xóa bỏ ách áp bức, bất công thậm tệ của chế độ thực dân trên thế giới? Nhưng cũng phải thừa nhận, chưa có nước nào hoàn thành trọn vẹn cách mạng vô sản theo như Mác-Lênin, những người khởi xướng ra nó hình dung dù thời gian làm cách mạng đã rất lâu!

Điều đó nói lên rằng, mục đích cuối cùng của nó dù tuyệt đẹp, nhưng chỉ mang tính lý tưởng, không thành hiện thực được, nghĩa là đã có một khiếm khuyết trầm trọng, không thể khắc phục được trong lý thuyết của nó, làm cho nó trở thành ảo tưởng, không những không đến được đích, mà trái lại còn tạo ra nguy cơ hình thành một xã hội bóc lột mới, một tầng lớp thống trị mới (tư sản đỏ), một nhà nước mang nhiều nét "mị dân" (mị dân ở đây không phải là sự cố ý lừa dối, mà là sự mặc nhiên lừa dối vì đưa ra những sách lược tuyệt đẹp nhưng duy ý chí, trái với lẽ sống thông thường, qui luật tự nhiên), làm thoái hóa về tâm đức con người. Các lãnh đạo cộng sản hô hào quần chúng phải yêu CNXH, trong khi họ lo thu vén cho gia đình họ giàu sang phú quí, con cháu họ ấm thân danh lợi trong bộ máy quyền lực nhà nước, thì sự hô hào tình yêu ấy có phải là lừa phỉnh, giả dối?

Vậy khiếm khuyết trầm trọng đó là gì? Đó là loại khiếm khuyết ẩn tàng, rất khó phát hiện và không thể khắc phục, vì nếu dễ, các nhà lý thuyết cộng sản gạo cội đã thấy và sửa chữa từ lâu! Có lẽ nên tìm khiếm khuyết ấy không phải ở việc lựa chọn chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất, mà là việc thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất một cách khiên cưỡng, không hợp thời, khi trong xã hội, bản tính thích tư hữu, làm giàu tự do của con người và kèm theo đó là tính tham lam ích kỷ, thèm khát quyền lực, thích hưởng thụ đã tồn tại như mặc định ở con người trong suốt quá trình vận động xã hội, chưa được cải tạo! Thực tiễn cho thấy nhà nước cộng sản sụp đổ cũng chính là do sự bóc lột thặng dư quần chúng (có thể đã biến tướng) của nó, do sự "tư sản hóa" (không đúng, nhưng tạm gọi vậy) hàng ngũ cán bộ cộng sản (nạn "tư sản đỏ", nạn tham quan lại nhũng, cường hào ác bá mới), do sự thoái hóa, biến chất cách mạng của hàng ngũ công nhân mà buổi đầu cách mạng có não trạng triệt để cách mạng nhờ được kích động, tuyên truyền. Đến nay, có lẽ đã đủ thời gian nhìn lại quá trình cách mạng từ lúc lật đổ chính quyền tư sản đến xây dựng CNXH của các nước đã từng, và thấy:

+Học thuyết cách mạng vô sản được xây dựng trên những quan niệm còn sai lầm về giai cấp và đấu tranh giai cấp, về chuyên chính vô sản, về nguồn gốc của bóc lột..., từ đó đưa ra những luận điểm cách mạng không phù hợp, mị dân như: làm cách mạng không ngừng (quá lâu so với đời người!), cảnh giác cao độ và sẵn sàng trấn áp hàng ngũ tiểu tư sản (nông dân, trí thức, những người buôn bán nhỏ bị cho là dễ (sic!) chuyển hóa thành tư sản), nêu cao quá đáng vai trò tiên phong cách mạng của giai cấp công nhân, thổi phồng chuyên chính vô sản thái quá, gây hậu quả ngày càng mất niềm tin giữa nhà nước và quần chúng, đào sâu sự chia rẽ, căm ghét, hận thù trong tầng lớp nhân dân, mà theo những người lãnh đạo cộng sản cực đoan, là mâu thuẫn giai cấp (thực ra là mâu thuẫn của tầng lớp bị trị với tầng lớp thống trị, và mâu thuẫn này có lúc căng lúc chùng chứ không phải lúc nào cũng đối kháng. Trong xã hội có nhà nước thực sự vì dân thì chỉ có mâu thuẫn xã hội, dân sự, chứ không có mâu thuẫn này)...

+ Một khiếm khuyết nữa của cách mạng vô sản là khi thiết lập các bước thực hành cách mạng, đã bỏ qua tình cảm của con người, thứ cả tốt lẫn xấu do con người tiến hóa-thích nghi mà có được, trở thành như một bản năng sau hàng ngàn năm mưu sinh trong hoạt động xã hội, và coi con người như những rôbốt cách mạng, chỉ có tốt mà không có xấu và chỉ cần hô hào là biết hành động trung thành một cách vô cảm (như chó!), lúc nào cũng kiên định cách mạng, chứ không thấy mặt lưu manh, cơ hội, tầm thường, thường là ẩn dấu của nó (nạn tham nhũng tràn lan, nạn tham quyền cố vị, nạn trù úm qui chụp cấp dưới, nạn vô cảm, suy đồi đạo đức...,nếu không là tất cả thì cũng có thể nói hầu hết đều là từ đảng viên cộng sản mà ra!). Có lẽ Hồ Chí Minh, khí thiêng sông núi Việt, đã cảm nhận rất rõ điều này, vì năm 1945, khi quân Tưởng đã kéo vào dày đặc ở miền Bắc và quân Pháp đã bắt đầu đánh phá ở miền Nam, Tố Hữu có dịp được gặp Hố Chí Minh. Ông hỏi: "Thưa Cụ, một bên thì Tây, một bên thì Tàu, bên nào đáng lo hơn?". Hồ Chí Minh trả lời: "Tây cũng không đáng sợ, Tàu cũng không đáng sợ...Đáng sợ nhất là các chú!". Còn Lê Duẩn, một lãnh đạo cộng sản Việt Nam được cho là một trong những người lỗi lạc nhất, thì lại hoàn toàn mù quáng, không thấy được chức năng nguyên thủy của nhà nước khi nói: “Nhà nước ta là nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước do dân và vì dân chứ không phải là nhà nước tư bản của giai cấp tư sản. Chúng nó cần pháp luật để cai trị bóc lột nhân dân còn chúng ta là nhà nước XHCN chúng ta không cần pháp luật. Chúng ta chỉ cần phê bình và tự phê bình là đủ”, hay hoàn toàn duy ý chí, cực đoan và sắt máu khi nói: "Chế độ ta là chế độ chuyên chính vô sản. Chuyên chính trước hết phải là đường lối của giai cấp vô sản. Cốt tủy của chuyên chính vô sản là ở đó chứ không phải là ở chỗ sử dụng bạo lực. Đường lối đó là sự kết hợp lý luận Mác - Lê Nin với thực tiễn cách mạng của nước mình. Đường lối đó là khoa học nhất, là đúng quy luật, là bắt buộc. Đường lối đó không hề nhân nhượng với ai, chia sẻ với ai và hợp tác với ai cả. Đó là chuyên chính. Đường lối đó là: nhất thiết phải xóa bỏ giai cấp bóc lột, xóa bỏ chế độ sản xuất cá thể, xác lập quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Nhất thiết phải làm thế, không cho phép ai đi ngược lại. Đó là chuyên chính. Đường lối đó nhất thiết phải là công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Không ai được chống lại. Đó là chuyên chính. Đường lối đó là đường lối của giai cấp công nhân, không ai được chống lại. Ai chống lại những cái đó thì bị bắt. Đó là chuyên chính."

+ Điều cuối cùng và có lẽ cũng là điều cốt tử nhất: các nhà cộng sản đã không chú ý rằng cách mạng vô sản sẽ không thể thành công được chừng nào nó còn được tiến hành trong điều kiện lực lượng sản xuất chưa thỏa mãn đủ nhu cầu sống còn và thèm khát tiêu dùng bình thường của con người!


Ngày nay, cuộc sống người dân ở các nước (gọi là) tư bản phát triển đã là ước mơ của quần chúng cần lao thời Mác-Ănghen và Lênin còn sống! Ở các nước đó, mâu thuẫn giữa chính quyền tư sản và quần chúng đã giảm xuống tới mức hầu như không nhận ra nữa, hoặc có mức độ cũng không gay gắt, đối kháng, sống còn (cũng có thể là do sự phát triển mạnh mẽ của khoa học-kỹ thuật làm tăng mức lao động thặng dư, do cạnh tranh mà hàng hóa thị trường giảm xuống, dẫn đến đời sống của người lao động được cải thiện). Trái lại, những nước tự nhận đi theo con đường XHCN như Việt Nam, Trung Quốc, Vênêduêla, Cu Ba..., thì mâu thuẫn ấy, do hiện tượng "khát vốn", nạn tham nhũng tràn lan, nạn tham quyền cố vị..., hiện tượng mức sống bình quân xã hội còn thấp trong buổi đầu cạnh tranh tự do, tích lũy tư bản,..., dù không ai nói ra, vẫn còn. Điều lạ lùng, tưởng trái ngược, nhưng hợp lý trong bao biện, là hiện tượng các lãnh đạo cộng sản ở các nước cộng sản đều "nỗ lực" xoay tiền (ở đâu?) cho con em mình sang các nước tư bản học tập về mọi mặt. Kết hợp với nạn "con ông cháu cha", thì làm như thế họ, kể cả những người trung kiên nhất, đã vô tình định hướng CNXH noi theo CNTB, trong khi vẫn mị dân hô hào tầng lớp bị trị tiến lên (ảo ảnh) CNXH một cách....vô đối? Ngày nay, mấy ai trong hàng ngũ "thái tử đảng" được đào tạo nghề nghiệp bài bản ở các nước tư bản hàng đầu của phương Tây, được cất nhắc vào những vị trí quan trọng trong bộ máy nhà nước, còn biết gì về chủ nghĩa cộng sản? Thật là nghịch lý!


Như vậy, phải thừa nhận rằng, nếu cuộc vận động tiến lên văn minh của xã hội loài người là tất yếu, thì cuộc cách mạng tư sản nổ ra phải có tính tất yếu, và sự tồn tại xã hội tư bản cũng tất yếu! Một mặt nhờ sự phơi bày của cách mạng vô sản, nhờ sự giác ngộ của những nhà tư sản hoạt động xã hội có lương tri, mặt khác nhờ vào sự tiến bộ của khoa học-kỹ thuật áp dụng cho nền kinh tế, nhờ mức sống bình quân (kể cả trình độ sống) của con người đã được nâng cao nhờ văn minh, mà xã hội tư bản đã hầu như khắc phục được tính bóc lột hoang dại, dã man buổi đầu của nó và đang đi trên con đường "vốn dĩ" của tiến trình phát triển xã hội loài người, đó là tiến đến một xã hội ngày càng công bằng văn minh (vì tiến lên văn minh là quá trình tất yếu của xã hội loài người, nghĩa là với bất cứ nền kinh tế nào, kể cả nền kinh tế phong kiến hay tư bản chủ nghĩa, muốn phát triển được, muốn làm giàu được, do bản chất của nền kinh tế hàng hóa, thì chỉ có cách duy nhất, cho dù có thể gián tiếp, là phục vụ cuộc sống con người!). Nhưng một khi còn nền kinh tế cạnh tranh tự do thì nguy cơ bóc lột, áp bức bất công và chiến tranh vẫn còn. Chiêu dụ, kích thích tiêu dùng thái quá (quảng cáo rùm beng!) là một hình thức vơ vét thặng dư, bóc lột trá hình. Sự bóc lột của tầng lớp thống trị tư sản ngày nay nói chung đã được "xoa dịu hóa", tinh vi hóa, qui mô hóa trên phạm vi toàn xã hội và thế giới. Các nước giàu liên kết lại thống trị, bóc lột các nước nghèo và nhỏ bằng nhiều thủ đoạn kinh tế, kể cả gây chiến tranh, kích thích bạo lực...

Thế còn cách mạng vô sản, nó có tính tất yếu không? Không! Bởi vì nó là kết quả sáng tạo của trí tuệ Mác-Lênin kết hợp với phong trào đấu tranh chống bóc lột của tầng lớp bị trị với chính quyền tư sản (sự sáng tạo có thể tất yếu nhưng kết quả của sự sáng tạo chưa chắc đã tất yếu!), và cũng có thể gọi là có, bởi vì theo các nhà cộng sản hồi bấy giờ mà qua thực tiễn cũng cho thấy, đối với chính quyền tư sản ngoan cố, nhất là ở các nước thuộc địa, chỉ có nó (là con đường duy nhất) mới có thể xóa tan bóc lột, giải phóng dân tộc một cách triệt để nhất! Nghĩa là một nước, trong quá trình đấu tranh chống bóc lột, không nhất thiết phải theo đường lối cộng sản.

Có thể nói, cách mạng vô sản là một trong những cuộc nỗ lực vượt thoát bóc lột, đi xây dựng hạnh phúc không thành công của nhân loại. Nó là kết quả sáng tạo còn khiếm khuyết, được kích hoạt nổ ra trong điều kiện chưa chín muồi của loài người.

Cho dù nó có khiếm khuyết, song vì đó là giấc mơ đẹp nhất (một cách duy nhất, hơn cả giấc mơ của Đạo Phật!) của con người, cho nên không nên và không thể từ bỏ nó mà cần phải sửa chữa, điều chỉnh nó và tích cực thực hiện để giấc mơ hạnh phúc của loài người trở thành hiện thực sớm hơn, để sự chuyển hóa từ chế độ tư bản sang chế độ cộng sản XHCN nhanh hơn (nghĩa là thay cho tự phát bằng sự lựa chọn tự giác làm cuộc cách mạng XHCN đổi mới đối với vận động xã hội), dù phải bắt đầu từ nền tảng lý luận (nghĩa là phải nghiên cứu lại con đường tiến lên xã hội XHCN).

Có thể phân chia cách mạng vô sản thành hai cuộc cách mạng là cuộc cách mạng đòi quyền sống (còn có thể gọi là cuộc đấu tranh xóa bóc lộ của người làm thuê) và cuộc cách mạng xã hội XHCN (còn có thể gọi là cuộc cách mạng xóa tư hữu về tư liệu sản xuất). Cuộc cách mạng xóa bóc lột là cuộc cách mạng lật đổ nhà nước tư sản, thành lập và xây dựng hoàn thiện nhà nước nhân dân một cách thực chất. Nhà nước nhân dân là nhà nước toàn tâm toàn lực phụng sự trực tiếp cho sự sống còn của nhân dân, là nhà nước lấy xóa nghèo trong nhân dân làm nhiện vụ trực tiếp và cơ bản, làm ưu tiên lựa chọn số một (công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng tiến hành nhưng không phải ưu tiên, không phải cứ bê tông hóa tràn lan, mở rộng thủ đô to đến "vật vã", đất nước đẹp một cách hình thức đã là "dân giàu, nước mạnh", không khéo tạo khối nợ khổng lồ đè đầu dân chúng, nước lại yếu đi!). Nhà nước " của dân, do dân và vì dân" là tên gọi rõ hơn của nhà nước nhân dân, nhà nước "dân quyền". Khi xây dựng xong nhà nước nhân dân (xây dựng xong quốc hội vì dân, hiến pháp vì dân, trung thành với đường lối cộng sản, với định hướng đúng đắn tiến lên XHCN và đảm bảo sự hoạt động trơn tru của bộ máy công quyền thì coi như hoàn thành cuộc cách mạng thứ nhất, tức cuộc cách mạng xóa bóc lột. Lúc này đảng cộng sản, vì đã xây dựng xong một nhà nước nhân dân đủ mạnh, hoạt động theo định hướng XHCN, đã hoàn thành mục đích của mình và tự động rút lui khỏi vũ đài chính trị. Nhà nước nhân dân (quốc hội) được quần chúng giao phó lãnh đạo cuộc cách mạng tiếp theo.

Cuộc cách mạng XHCN là cuộc cách mạng cuối cùng, làm hình thành nên một xã hội giàu lòng nhân ái nhất, nhân đạo nhất cho loài người gọi là xã hội XHCN. Mục đích trực tiếp, chủ yếu của cuộc cách mạng này là xây dựng thành công nhà nước XHCN. Nhà nước nhân dân là bước hoàn thiện tiếp theo, cuối cùng của nhà nước XHCN, coi như là sự trở về với bản chất nguyên thủy của hình thức nhà nước khởi phát xưa kia. Trong xã hội XHCN, nhà nước đứng ra công hữu toàn bộ tư liệu sản xuất và trực tiếp vận hành nền kinh tế. Mọi thu nhập thặng dư trong xã hội đều được sử dụng trở lại cho mục đích chung xã hội. Trong xã hội ấy nói chung không có cảnh người giết người nữa, lúc đó chính là lúc "người yêu người, sống để yêu nhau", sự làm giàu tư nhân không cám giỗ nữa và như vậy, sự tư hữu về tư liệu sản xuất trở nên vô nghĩa (nói thêm: lúc đó, theo trí tưởng tượng, khái niệm "gia đình là tế bào xã hội", vì là kết quả của quá trình phát sinh ra tư hữu, có thể sẽ không còn nữa, luật "một vợ một chồng" bị bãi bỏ, thay cho nó là khái niệm "con người là đơn vị hợp thành xã hội"), nhận thức đã đưa tình cảm của con người trong xã hội lên trình độ "trong lành" hóa, không còn những tham lam vị kỷ, những cuồng si vô lối, những ghen tuông bệnh hoạn, những ân oán hận thù phi nghĩa, nghĩa là không còn những kích thích danh lợi thấp hèn đe dọa, làm hại đến sống còn nữa do được giáo hóa thấm nhuần về ý nghĩa đời sống của chủ nghĩa nhân đạo trong điều kiện cuộc sống sung túc đã được đảm bảo của một nền kinh tế lành mạnh, phát triển vượt bậc, tự động hóa cao độ...Đó cũng chính là cõi Niết Bàn mà Đạo Phật mơ ước!

Người Việt Nam thông minh cần biết: muốn làm cuộc cách mạng nhân dân (chứ không phải cách mạng vô sản!) thành công, thì phải có những con người thật sự tài giỏi, triệt để cách mạng đi tiên phong. Việt Nam đã hoàn thành giai đoạn cách mạng thứ nhất (tức là cuộc cách mạng vô sản, đòi quyền sống cơ bản) một cách vẻ vang nhất nhờ thế hệ cha anh đi trước, trong đó Hồ Chí Minh là vị chỉ huy kiệt xuất, đầu đàn. Thế hệ đó coi như đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà dân tộc giao phó, đã đoàn tụ với tổ tiên, an nghỉ, đã trao nhiệm vụ làm cuộc cách mạng thứ hai cho thế hệ con em kế thừa. Có thể cho rằng Việt Nam đang trong giai đoạn cách mạng thứ hai (tức là định hướng XHCN). Nó đến đâu rồi? Chẳng đến đâu cả ngoài việc tạo được một tầng lớp thống trị mới sung túc nhờ ăn tàn phá hại tài nguyên thiên nhiên có sẵn của đất nước chứ không phải nhờ tài năng trí tuệ. Bóc lột, áp bức bất công còn đầy rẫy! Chẳng hạn như trường hợp Fomosa, trước khi tiến hành sao không hỏi ý dân, sao không trưng cầu dân ý? Sao không thuận theo ý dân vô điều kiện, để dân phải biểu tình? Nhà nước như thế rõ ràng vẫn tưởng mình khôn hơn dân, tỏ ra khinh dân, chưa thấm nhuần tư tưởng là nhà nước "của dân, do dân và vì dân"! Trong thư gửi cho học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Hồ Chí Minh đã viết: "Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp được hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em"!

Ừ, nói quá thế chứ nó cũng đạt được khá nhiều thành tựu. Nhưng nếu đặt trường hợp Việt Nam từ khi giải phóng đến nay, không làm cách mạng vô sản nữa (tức không xây dựng nhãn hiệu XHCN), mà xây dựng nền kinh tế tư bản thuần túy, thì dân có giàu hơn, nước có mạnh hơn như đang thấy không? Thật khó trả lời, vì không thể trả lời dứt khoát được đâu là nền kinh tế tư bản thuần túy, đâu là nền kinh tế tư bản theo định hướng XHCN. Hay "định hướng XHCN" chỉ là khẩu hiệu mị dân? Hồ Chí Minh đặt tên nước rất đúng, là "Việt Nam dân chủ, cộng hòa. Độc lập, tự do, hạnh phúc", nghe thật giản dị, dễ hiểu. Sau "giải phóng", các nhà cộng sản thời bấy giờ (Lê Duẩn?) "hăng tiết vịt" lên đổi thành "Cộng hòa XHCH Việt Nam. Độc lập, tự do hạnh phúc", nghe có vẻ "Tàu khựa" quá, chẳng hiểu gì cả! Chán chết!

Tóm lại, một nước muốn làm cuộc cách mạng XHCN sau khi đã hoàn thành cuộc cách mạng đòi quyền sống cơ bản, thì phải hội tụ được một hàng ngũ con người cách mạng triệt để, trung kiên, thậm chí quên mình như khi thực hiện cuộc cách mạng thứ nhất đã từng. Muốn như vậy thì trước hết phải có một hệ thống lý luận về cách mạng XHCN đổi mới thật sự sáng tỏ, thật sự chính nghĩa, có tinh thần vị nhân cao cả và nhất là phải khả thi, có thể thấy được sự chuyển biến tốt đẹp của xã hội theo từng năm nếu áp dụng đường lối cách mạng XHCN đổi mới. Việt Nam nếu muốn đi theo con đường "định hướng XHCN" để xây dựng xã hội, thì phải tìm cách đi như vậy chứ không có con đường nào khác! Có lẽ phải xây dựng lại từ đầu hàng ngũ cách mạng ấy. Để làm được vậy, việc đầu tiên, như đã nói, là phải nghiên cứu lại con đường tiến lên xã hội XHCN để có được một nền tảng lý luận vững chắc, thứ hai là phải có chính sách lực chọn nhân tài khách quan, thiết thực, xóa bỏ ngay cái nguyên tắc "phê bình và tự phê bình" đầy khiên cưỡng (thực tiễn cho thấy nguyên tắc đó không làm nên một người chân chính nào, mà trái lại còn làm thui chột những người trung thực, dung túng những kẻ man trá, cơ hội), phải cải cách giáo dục và đi đôi với việc đó là việc triệt tiêu nạn chạy chức chạy quyền, nạn "con ông cháu cha", nạn bằng cấp tràn lan...

Và khi toàn xã hội loài người đạt đến trạng thái xã hội đó, cũng như khi những nước lớn như Trung Quốc thấy việc chiếm hữu Biển Đông là vô nghĩa, coi việc kích hoạt bạo lực ở Trung Đông là phi nghĩa, thì được gọi là THẾ GIỚI ĐẠI ĐỒNG !

    ***

   Ranh giới lãnh thổ hình thành từ bao giờ? Lãnh thổ là một là một phần bề mặt của Trái Đất có giới hạn gồm cả đất liền, nước và không gian được cho là đã bị chiếm cứ bởi một cá thể, vài cá thể hay một cộng đồng sinh vật nào đó. Ở nhiều loài sinh vật đã có cái tạm gọi là "ý niệm bản năng" về lãnh thổ, đã có những "hành vi sinh học" nhằm xác định ranh giới lãnh thổ tuy còn mờ nhạt, cũng như những hành động bảo vệ lãnh thổ khi bị xâm phạm.    
     Ở loài người, khi đã hình thành tập quán sống định cư lâu dài (bằng trồng trọt cây lương thực và chăn nuôi gia súc), khi đã hình thành những khái niệm như "sở hữu", "tư hữu"... thì khái niệm về lãnh thổ cũng trở nên rõ ràng và việc giữ gìn, bảo vệ lãnh thổ cũng trở nên có ý thức trước nạn xâm lấn của tập đoàn người khác. Nói tóm lại, việc phân định lãnh thổ, giành giật lãnh thổ và bảo vệ lãnh thổ có nguyên nhân sâu xa từ sự đấu tranh sinh tồn, mà xa hơn nữa, có thể tìm thấy gốc xuất phát trong "cố gắng tồn tại"- một qui luật nền tảng của Tự Nhiên.
Nếu xét về mặt hình thành lãnh thổ, thì dân tộc Việt đã định cư trên mảnh đất này từ rất lâu rồi. Nhưng lãnh thổ Việt Nam có lẽ chỉ được xác định tương đối dứt khoát vào thời các vua Hùng, đó là khu vực trong phạm vi châu thổ sông Hồng và miền duyên hải ở đó.    
   Sau, cùng với quá trình lan tỏa dân cư tự phát xen lẫn tự giác, mà lãnh thổ Việt Nam mới có hình thù như ngày nay. Có lẽ vào buổi đầu, khái niệm sở hữu đất đai cũng tương tự như sở hữu lãnh thổ, nghĩa là người dân Việt có quyền sở hữu "cha truyền con nối" đất đai để sinh sống (làm nông nghiệp mà không có đất đai thì thật khốn khổ (!) và từ đây chúng ta phần nào hiểu được vì sao người Việt còn gọi lãnh thổ là "đất nước" và vì sao khái niệm "quê hương, đất nước" gắn liền với "tổ quốc" và thiêng liêng đến thế!). Đến nay do quan niệm cộng sản về quyền sở hữu mà đất đai thuộc quyền "sở hữu toàn dân", nhà nước "tự cho phép" mình làm đại diện chủ sử hữu!

    Việc sở hữu toàn dân về đất đai là đúng hay sai? Trước tiên, muốn trả lời câu hỏi đó phải trả lời được câu hỏi: sở hữu toàn dân là gì? Thiên nhiên và những thực phẩm có được từ thiên nhiên để sống còn, thuở đầu tiên không là của ai cả. Mọi người đều có thể kiếm sống ở bất cứ đâu, bất cứ lúc nào, miễn là có khả năng sinh tồn được. Khi phương thức mưu sinh của loài người chủ yếu vẫn là săn bắt-hái lượm, thì có lẽ con người chưa có ý niệm về đất đai. Về sau, khi loài người phám phá ra phương thức trồng trọt-chăn nuôi, lấy đó làm phương thức mưu sinh chủ yếu và trong suốt quá trình phát triển thăng trầm xã hội, thì tình cảm con người ngày một sâu sắc cùng với tiến trình phát triển lực lượng sản xuất nói riêng và mọi mặt xã hội nói chung (phát triển trình độ sống của lực lượng dân cư!). Tuân theo qui luật "đấu tranh sinh tồn" và khi cách sống theo lối hợp quần xã hội đã thành hiển nhiên, thì ở loài người cũng nảy sinh khái niệm "sở hữu". Sở hữu là sự chiếm đoạt được số đông thừa nhận những thứ trực tiếp hay gián tiếp có trong thiên nhiên hoặc nhân tạo giúp cho việc mưu sinh hay sống còn (gọi là của cải) cho một cá nhân, một tập đoàn hay một cộng đồng người, một dân tộc người chiếm đoạt (được gọi là "chủ sở hữu"). Từ đó dần dần, con người cũng nhận thức được tầm quan trọng về việc sở hữu lãnh thổ sinh sống (không gian sinh tồn) và sở hữu đất đai trồng trọt,  cũng từ đó mà hình thành nên khái niệm "chủ quyền", "chủ sở hữu". Đẻ ra khái niệm sở hữu của cải tức là đẻ ra ý thức tích lũy, để giành, đẻ ra sự làm giàu, lấy của cải cùng với sức lao động (thặng dư) tạo thêm ra của cải. Đó là cách nói vắn tắt nhất về quá trình mưu sinh mang yếu tố tất yếu hình thành nên sự bóc lột, chiến tranh, và nền kinh tế tư bản trong xã hội loài người. Lúc đầu, người ta chỉ biết khái niệm chung về sở hữu, mặc dù các hình thức sở hữu đã tồn tại rất sớm trong thực tế. Chính cuộc đấu tranh đi đòi quyền sống lâu dài và quyết liệt của quần chúng cần lao đã vạch ra rõ ràng sự khác nhau của các loại sở hữu và dẫn đến những khái niệm: tư hữu. công hữu, cộng sản, tư sản... 
   Ngày nay,  người ta phân biệt hai loại sở hữu cơ bản trong thực tế là sở hữu tư nhân (tư hữu) và sở hữu tập thể (công hữu). Sở hữu toàn dân thuộc về công hữu. Công hữu là sở hữu không thuộc tư hữu mà thuộc của tất cả mọi người. Theo wikipedia: "Sở hữu trong kinh tế chính trị, là một phạm trù cơ bản, chỉ mối quan hệ giữa người với người trong việc chiếm dụng của cải. Nó là hình thức xã hội của sự chiếm hữu của cải. Nó có thể được luật hóa thành quyền sở hữu và được thực hiện theo cơ chế nhất định gọi là "chế độ sở hữu" và "Quyền sở hữu" bao gồm 3 quyền sau: chiếm hữu, sử dụng và định đoạt
- Chiếm hữu: quyền nắm giữ tài sản/tiêu sản trong tay

- Sử dụng: quyền sử dụng tài sản/tiêu sản theo ý muốn

- Định đoạt: quyền quyết định cho mượn, cho thuê, bán, cầm cố, thế chấp, phá hủy

Khi cho người khác/tổ chức khác mượn hoặc thuê tài sản/tiêu sản thì ta đã trao cho họ 2 quyền: chiếm hữu và sử dụng. Còn quyền định đoạt vẫn nằm trong tay ta. Người khác/tổ chức khác đó sẽ vi phạm pháp luật nếu họ sử dụng quyền định đoạt (bán, cầm cố, thế chấp, phá hủy) đối với tài sản/tiêu sản của ta".
    Như vậy, công hữu là một khái niệm rất tương đối. Tùy phạm vi sử dụng mà nó có nghĩa riêng, chung hay tối nghĩa. Thí dụ lãnh thổ Việt Nam, nếu xét trên bình diện thế giới, thì nó thuộc dạng tư hữu (của riêng người Việt Nam), nếu xét riêng trên lãnh thổ Việt Nam, thì nó là công hữu (của mọi người Việt Nam). 
    Nhưng "của mọi người" xét cho cùng là "không của ai cả"! Đây phải chăng là tính mập mờ của khái niệm giúp cho bè lũ "quan lại" tham nhũng ở Việt Nam hiện nay lợi dụng?
Cần nhấn mạnh, khi con người còn săn bắt-hái lượm, thì đất đai là không thuộc sở hữu của ai cả. Nhưng khi phương thức trồng trọt-chăn nuôi đã thành lối sống chủ yếu, khi lao động trên một mảnh đất làm kế mưu sinh đã thành tập quán, thói quen lâu dài, thì sở hữu tư nhân về đất đai ra đời. Có nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu một mặt là do đòi hỏi về sự phát triển số lượng lực lượng lao động xã hội (cũng có nghĩa là sự phát triển nhu cầu lương thực xã hội), mặt khác là do kiếp đời người hữu hạn, cũng như sự phát triển văn minh lãnh thổ..., đã tất yếu làm xuất hiện đòi hỏi phải phân phối và phân phối lại đất đai trong xã hội.

Có thể nói, xây dựng quan niệm sở hữu toàn dân về đất đai vừa thỏa mãn tính chung, vừa thỏa mãn tình riêng, nếu hiểu đúng đắn, là một yêu cầu của chính quần chúng, và quan niệm ấy là một quan niệm tiến bộ, văn minh, vừa thỏa mãn với sự mưu sinh của quần chúng vừa phù hợp với sự phát triển đất nước!

Sục sạo trên mạng Internet, chúng ta thấy:

Hiến pháp năm 2013, được Quốc hội thông qua ngày 28/11/2013, tiếp tục nhất quán khẳng định “… đất đai… là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý theo quy định của pháp luật”. Tại Chương 1, Điều 4, Luật Đất đai năm 2013 ghi: “Đất đai thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý, Nhà nước trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất theo quy định của Luật này”.

Nói đất đai thuộc chế độ SHTD, do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý, điều này có nghĩa là, SHTD không phải là sở hữu nhà nước về đất đai. Nhà nước chỉ là đại diện cho chủ SHTD, tức là toàn thể công dân của một nước. Nhà nước thay mặt toàn dân quy định việc phân định các quyền năng và cơ cấu các chủ thể thực hiện các quyền năng này nhằm khai thác, sử dụng có hiệu quả đất đai. Và quy định việc phân chia lợi ích thu được từ đất đai đáp ứng yêu cầu của toàn dân và của toàn xã hội. Theo Luật Đất đai năm 2013, Nhà nước có được một tập hợp các quyền cơ bản: Quyền sở hữu; quyền định đoạt và quyền quản lý.

Người dân - người sở hữu, có các quyền năng, như: Quyền chiếm hữu, QSDĐ, quyền hưởng thành quả lao động, kết quả đầu tư trên đất; quyền được bảo vệ khi người khác xâm phạm đến QSDĐ hợp pháp của mình; quyền khiếu nại, tố cáo, khởi kiện về những hành vi vi phạm QSDĐ hợp pháp của mình và những hành vi khác vi phạm pháp luật về đất đai; quyền được chuyển đổi, chuyển nhượng, quyền được giao dịch trên thị trường đất đai, quyền thế chấp, thừa kế, cho, tặng QSDĐ. Đây là các quyền hoàn toàn chính đáng trong khái niệm “sở hữu toàn dân”. Bởi người dân là chủ thể chính chứ không phải Nhà nước.

Với cách hiểu như trên thì SHTD về đất đai không phải là phạm trù, thuật ngữ lý thuyết, trừu tượng, thuần túy mang tính pháp lý, mà là một phạm trù kinh tế hiện thực.

Luật pháp nói như vậy nhưng trên thực tế người ta vẫn hiểu thế này: lúc bình thường sở hữu đất đai coi như thuộc về tư hữu (vì coi như đều có cả ba quyền: chiếm hữu, sử dụng,mua bán), nhưng khi cần thì sự tư hữu ấy chuyển hóa thành công hữu, tức là thuộc sở hữu nhà nước (như đã nói, khái niệm "sở hữu toàn dân" là một khái niệm mông lung, bất định. Yêu cầu cụ thể hóa chủ sở hữu đất đai buộc lý tưởng cộng sản phải đi đến quan niệm "đại diện chủ sở hữu". Mà nhà nước đại diện cho một chủ sở hữu mông lung, không xác định được thì có khác gì là chính chủ sở hữu đâu?).

Từ xưa, lãnh thổ là môi trường sinh sống thường xuyên của một cộng đồng người (một dân tộc, một bộ lạc...) nhất định, đất đai là phần lãnh thổ mà người dân mưu sinh hàng ngày (thậm chí là kiếm tìm hạnh phúc!) trên đó. Đối với những nước còn thuần nông nghiệp (như Việt Nam) thì thành ngữ "tất đất tấc vàng" vẫn đúng. Mặt khác, do qui luật "đấu tranh sinh tồn" và tăng trưởng lạm phát số lượng dân cư chi phối, nên xuất hiện nhu cầu phân phối lại đất đai, nên hướng phát triển lên văn minh của xã hội loài người (nói riêng là cộng đồng người), kéo theo nhu cầu về đất đai lãnh thổ dùng vào việc công cộng, cải tạo, xây dựng lãnh thổ cho phù hợp, vững mạnh, tương xứng với nền văn minh ấy là tất yếu.

Vậy, việc sử dụng đất đai trong một lãnh thổ nhằm thỏa mãn hai mục đích. Hai mục đích đó, trong một xã hội phát triển lành mạnh, sáng suốt, xét cho cùng thì đều phục vụ cho mục đích chung, thường gọi là "quốc kế dân sinh". Mục đích thứ nhất, có tính thường xuyên, đóng vai trò cơ bản, chủ yếu, mặc định, quyết định đến sống còn, thịnh suy, an nguy xã hội là nuôi trồng thực phẩm, lương thực để đảm bảo đời sống người dân. Mục đính thứ hai, có tính lâu dài, nhân tạo, công cộng thuộc lãnh thổ, cũng rất quan trọng nhưng không quyết định trong "quốc kế dân sinh", thường được cho là có tính hỗ trợ (có đắc lực hay không thì chưa biết!) cho mục đích thứ nhất.

Đất nước Việt Nam ta sau chiến tranh, vượt qua thời lạc lối, đổi mới, phát triển nền kinh tế, hướng tới "dân giàu nước mạnh" cũng chính là nhằm đạt được hai mục đích trên.Tuy nhiên, một phần vì chưa thấm nhuần khái niệm "nhà nước nhân dân" (là nhà nước của dân, do dân và vì dân), một phần vì nạn tham nhũng (lấy danh nghĩa qui hoạch vì quốc kế dân sinh nhưng thực ra là vì tư lợi), phần nữa là chưa thấu đáo kiến thức, nên việc thực hiện hai mục đích ấy ở nhiều nơi chưa đồng bộ, chưa phù hợp, còn gây ra nhiều mâu thuẫn, nhiều phản ứng gay gắt, dần hình thành nguy cơ làm rạn vỡ niềm tin không thể hồi phục được của nhân dân đối với chính quyền.

Thử hỏi từ khi thực hiện "quốc kế dân sinh" đến nay (nhất là thời kỳ đầu!), đã có bao nhiêu cuộc đền bù giải tỏa cho người dân cực kỳ rẻ mạt, phi lý, đã có bao nhiêu cuộc cưỡng bức đất đai đầy ngang trái, bất công? Nhiều lắm, thậm chí là không đếm xuể! Ôi đất nước Việt Nam ngày nay, trong đó có bao nhiêu phần là máu xương của những người anh hùng giữ nước, có bao nhiêu phần là mồ hôi nước mắt của người dân?

Nguyên nhân chân chính của sự hình thành nhà nước trên một lãnh thổ là phối hợp hành động nhằm tạo ra (những) hành động chung, chính đáng, phù hợp, đạt hiệu quả tối ưu, phụng sự cho công cuộc mưu sinh của cộng đồng người sống trên lãnh thổ đó (gọi là "toàn dân"). Vì lẽ đó, không những đất đai là sở hữu toàn dân mà đại diện chủ sở hữu đất đai (tức nhà nước) cũng thuộc sở hữu toàn dân, nghĩa là dân có đủ ba quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt nhà nước(!). Đại diện cho toàn dân để sử dụng ba quyền đó và cả quyền sở hữu đất đai chính là quốc hội. Qua đây mà thấy, quốc hội phải là nơi hội tụ tinh hoa trí tuệ của một đất nước, có quyền lực tối cao, hoạt động độc lập như một thực thể và chịu trách nhiệm trực tiếp trước toàn dân. Nếu đúng chức năng, vai trò của quốc hội là cực kỳ quan trọng, nó quyết định đến sự tồn vong của cả một chế độ, và nếu xét trên bình diện cá nhân thì chủ tịch quốc hội là người có quyền lực cao nhất (có quyền lực và do đó phải có cả tài năng hơn tổng bí thư đảng,hơn chủ tịch nước!), chịu trách nhiệm chính và trực tiếp trước toàn dân về những quyết sách của nhà nước. Nhưng sự phân chia quyền lực của chính phủ Việt Nam hiện nay như thế nào!?

Trước đây, dưới ách đô hộ, bóc lột của quân xâm lược và triều đình phong kiến thối nát, nhân dân ta phải sống đời lầm than, đói khổ. Đảng cộng sản Việt Nam đã tiền phong chiến đấu hy sinh, dẫn dắt toàn dân làm cách mạng, mở đường, chỉ lối cho dân tộc đến bến bờ độc lập, tự do. Lúc đó Đảng nắm vai trò toàn quyền lãnh đạo là đương nhiên, chính đáng, hợp lòng dân, được đại đa số nhân dân hết lòng ủng hộ, ca ngợi và trung thành đi theo Đảng. Sau khi đập tan chính quyền thực dân, xây dựng nhà nước nhân dân, thành lập quốc hội, Đảng không còn trong sáng như xưa nữa, nhiều đảng viên dần đã có những biểu hiện ngày càng rõ ràng về sự thoái hóa, biến chất làm mất niềm tin của nhân dân, nhưng Đảng vẫn tự coi mình có quyền lãnh đạo nhà nước. Đây là một mâu thuẫn rất sâu sắc về mặt lý luận. Muốn lãnh đạo nhà nước thì Đảng phải thao túng quốc hội (qua đây mà thấy Đảng có cố gắng không độc tài đến mấy vẫn phải độc tài!). Chính vì thế mà quốc hội ngày nay vẫn là một thực thể phụ thuộc, chưa phải là nơi hội tụ đủ nhân tài, tinh hoa trí tuệ của toàn dân, chưa là đại diện chân chính của nhân dân cần lao, nghĩa là của dân tộc Việt. Đại biểu quốc hội phần lớn vẫn là "nghị gật", "nghị gỗ"!

Hoạt động duy nhất của nhà nước nhân dân là phụng sự "quốc kế dân sinh" làm "dân giàu nước mạnh". Có lẽ phải quan niệm lại cách sử dụng đất đai trong một lãnh thổ để thỏa mãn lâu dài cùng lúc hai mục đích "quốc kế dân sinh", để không còn có thể núp bóng danh nghĩa "vì dân" mà tư lợi. Nên chăng, cần cho rằng trong một đất nước đồng thời tồn tại hai quyền sở hữu đất đai là tư hữu và công hữu? Quyền tư hữu về đất đai là quyền sở hữu có tính tương đối, có giới hạn. Còn quyền công hữu về đất đai là quyền sở hữu có tính tuyệt đối, lâu dài. Trong khi thực thi hai quyền đó, có thể có lúc xảy ra trúc trắc, trái chiều, mâu thuẫn, nên để hòa hợp, hài hòa, thuận thảo hai mục đích và được đại bộ phận nhân dân ủng hộ, luôn luôn phải thỏa mãn nguyên tắc cơ bản là ưu tiên quyền sở hữu tư nhân, vì xét đến cùng thì nhà nước cũng chỉ là công cụ của toàn dân, cán bộ nhà nước, trước khi bước vào chấp nhận hoạt động "quan trường", phải thấm nhuần tư tưởng là đầy tớ phụng sự cho dân. Do vậy khi cần thiết phải qui hoạch, thì nhà nước phải đền bù thỏa d8áng cho người dân Nghĩa là, khi nhà nước cần thu hồi một khu vực đất đai nào đó, phục vụ cho "quốc kế dân sinh", phải lấy đảm bảo kế sinh nhai lâu dài của nhân dân trong vùng qui hoạch làm tối thượng dù nhà nước có phải chịu thiệt thòi trước mắt (thực ra là toàn dân thiệt thòi chút ít vì cuộc sống của bộ phận dân cư khu vực), nghĩa là phải thực hiện nghiêm chỉnh các bước sau:

1, Lập dự án. Phân tích có khoa học ích lợi của công trình. Xác định xem công trình đã thực sự phù hợp về không gian và cả thời gian chưa.

2, xem xét cụ thể mức độ ảnh hưởng đến cuộc sống mưu sinh của người dân trong khu vực qui hoạch để có kế hoạch phân phối đất đai sản xuất mới và đền bù thỏa đáng.

3, Nhất quyết phải hỏi ý dân minh bạch, rõ ràng (trừ các công trình an ninh quốc phòng) và tôn trọng triệt để ý kiến phán quyết (theo số đông) của nhân dân (nếu ý kiến nhân dân là phủ định thì dứt khoát không triển khai!).

Nếu ngay từ đầu "các quan" thực hiện chính trực việc qui hoạch đất đai theo ba bước ấy, tin chắc rằng sự phản kháng của dân chúng như từng thấy (vụ Đoàn Văn Vươn, mở rộng Hà Nội, Dương Nội, Văn Giang, Fomosa...) đã không xảy ra, đã không phải chứng kiến những cảnh gây nhiều bức xúc, thậm chí là đau lòng. Vì dân tộc Việt, như đã thấy từ ngàn xưa, là dân tộc bất khuất, thông minh, biết lẽ phải, nhẫn nhịn, vị tha, hết mình ủng hộ nhà nước nếu nhà nước đó thực sự là "của dân, do dân và vì dân", tồn tại và hành động chỉ vì độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc của toàn dân, chứ tuyệt đối không có một mưu lợi nào khác.
Mong nhà nước nghĩ lại!

Vậy, có thơ rằng:

ÔNG ĐỊA

Cục đất có được chút màu bôi
Bôi mình xanh đỏ, tô mắt môi
Gấp miếng giấy bồi phe phẩy quạt
Kiếm chỗ thâm trầm đặt đít ngồi

Kiếm chỗ thâm trầm đặt đít ngồi
Khỏe re ông Địa được thăm nuôi
Khỏi cần làm lụng mà no béo
Phạch bụng nghênh nhòm tít mắt cười

Phạch bụng nghênh nhòm tít mắt cười
Quyền cao chức cả, thế mà thôi
Ai dám khinh ông là cục đất
Cũng người, cũng ngợm, cũng như Trời

Cũng người, cũng ngợm, cũng như Trời
E nỗi thằng Dân lúc thất thời
Hận ông, nó quẳng vù thiên lý
Bay trúng bệ thờ, nát rã rời!


(Hết chương XI)    
(Hết phần I)

 

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

TT&HĐ I - 9/d

MUÔN MẶT ĐỜI THƯỜNG III/104

MỌC CÁNH