Thứ Bảy, 29 tháng 4, 2023

THỰC TẠI VÀ HOANG ĐƯỜNG 11/A* (Hoàn chỉnh)

PHẦN I:     CÓ MỘT CÁI GÌ ĐÓ

“Tại sao có một cái gì đó chứ không phải là không có gì?”

CHƯƠNG X:  TRẦM TƯ MẶC TƯỞNG


"Dòng tư duy tiếp tục chảy; nhưng phần lớn các mảnh của nó rơi xuống vực thẳm không đáy của sự lãng quên. Với một số mảnh, không ký ức nào vượt qua được khoảng khắc chúng trôi qua. Với một số mảnh khác, chúng giới hạn trong một vài khoảng khắc, một vài giờ, hoặc một vài ngày. Lại có những mảnh để lại vết tích không thể xóa đi, và chúng có thể được nhớ lại chừng nào cuộc sống còn tiếp diễn." 
William James

"Có trí óc tốt vẫn chưa đủ, quan trọng là 
biết sử dụng nó." 
Rene Descartes

-Tự do, theo quan điểm siêu hình học của tôi, là quyền lực tự quyết trong một thực thể có tư duy. Nó đưa đến suy nghĩ, lựa chọn và sức mạnh.
-Hãy để trí óc con người tự do. Nó phải được tự do. Nó sẽ được tự do. Sự mê tín và giáo điều không thể giam cầm được nó.
John Adams
Người ta không lười biếng chỉ vì người ta chăm chú. Có lao động vô hình và lao động hữu hình. Suy tưởng là cần cù, nghỉ ngợi là thực hiện. Khoanh tay vẫn là làm việc và siết chặt tay vẫn là hành động. Đôi mắt ngước lên Thiên đường là sáng tạo.
Victor Hugo

Tư tưởng luôn luôn là sự khái quát, và sự khái quát là một thuộc tính của tư duy. Khái quát nghĩa là tư duy.
Hegel

Toán học thuần túy, theo cách của riêng nó, là thi ca của tư duy logic.
Albert Einstein 
Khi con người từ bỏ quyền tư duy, cái bóng cuối cùng của tự do biến mất khỏi chân trời.
Thomas Paine
Không chịu suy xét là người mù quáng, không thể suy xét là người ngu xuẩn và không dám suy xét là người nô lệ.

Lord Byron 
Chẳng có gì tồi tệ hơn những hành động không có sự sáng suốt.

Thomas Carlyle 
Nhà tư tưởng mới chỉ là người không biết về những gì mà những nhà tư tưởng cũ đã suy ngẫm.

Frank Moore Colby

Lời nói đúng là những thứ không chắc chắn, chúng thường nghe hay ho lắm nhưng lại mang ý nghĩa đối lập với những gì người ta nghĩ.

Agatha Christie

                                                                      ***

Mệt nhoài! Không phải mệt vì cuộc hành tiến đến con tàu vượt thời gian để trở về thế kỷ XXI, mà mệt vì trí não bị chìm đắm "ná thở" triền miên trong... sự hoang tưởng. Mệt hơn nữa khi tác dụng kích hoạt tâm thần từ lượng rượu hảo hạng mà chúng ta "nốc" đầy một bụng ở nhà Trang tiên sinh đã... sạch trơn. Hết say rượu rồi thì... chỉ còn có nước là... tỉnh rượu, đương nhiên thế! Và vì thế mà đầu óc chúng ta lúc này hoàn toàn... ráo hoảnh. Sự "bừng tỉnh" đúng là làm chúng ta có thoáng rùng mình trước một hiện thực "lạ hoắc" nhưng rồi cũng hoàn hồn lại ngay, và biết rằng mình đang ở đâu trong cuộc hành trình vĩ đại "Đi tìm cái gì đó" mà chính mình đã hoạch định cho mình. (Vì chỉ là một lũ nhà quê ngông cuồng do mắc chứng hoang tưởng và chỉ có thể suy xét các sự việc liên quan đến Triết-Toán-Lý một cách "vô học" như sau này mọi người sẽ thấy rất rõ, nên cuộc hành trình của chúng ta tương tự như "đường đời" của một con người, chẳng ai lường trước được và nhiều khả năng là "chẳng ra thể thống gì". Như vậy, từ ngữ "vĩ đại" ở trên nên được hiểu là... "cái đuôi to"!)...

Đêm đã khuya, chắc cũng tầm hai giờ sáng. Giữa đồng không mông quạnh, ánh trăng tuy đã tàn vẫn còn đủ soi sáng cho chúng ta thấy cái hun hút ở phía trước con đường lầy bụi đỏ mà chúng ta đang đi. Chưa thấy một chút tín hiệu dù nhỏ nhoi nào về con tàu vượt thời gian cả. Điệu này, có đi đến sáng bạch cũng chưa chắc đã thấy bóng dáng con tàu... Nhưng thôi, cứ kệ! Sốt ruột chẳng ích gì, cứ "vững bước hành quân", đừng đứng lại vì "chân chồn gối mỏi" thì trước sau gì chúng ta cũng "tao cùng bến mơ"!... Ấy chết!... Có khi nào con tàu "tiêu tùng" vì trục trặc kỹ thuật và chúng ta phải ở lại đây luôn không nhỉ!?... Ối giời ơi là giời!... Thật hết biết! Câu hỏi "mất dạy" tự dưng bật ra làm chúng ta dựng hết tóc gáy, nổi hết da gà, chân tay hoàn toàn bủn rủn, không bước được nữa, cũng không đứng được luôn, đành nằm vật ngửa ra, thở dốc. Nếu quả thực phải ở lại thời Xuân Thu - Chiến quốc này thì...Mới nghĩ đến đó thôi, toàn bộ tóc gáy của chúng ta đã dựng đứng lên như rừng gươm giáo rồi! Trong tiết lạnh khuya cuối thu mà mồ hôi chúng ta túa ra dầm dề...

Rồi thì sự trôi hằng định của thời gian trong tâm thức cũng dần giúp chúng ta thoát khỏi... mất vía. Không còn hoảng loạn nhưng lòng vẫn đầy thấp thỏm, bất an. Kể cũng thật vô lý, "ôm" nỗi hồi hộp âu lo mà giải quyết được gì trong cái tình cảnh "chỉ có thể hy vọng và hy vọng mà thôi" này? Thế là ý chí ra lệnh: "Hãy thoát ra!". Nhớ đến bài khí công khá hay nhằm định thần, đã học "lõm bõm" được từ Trang tiên sinh, có tên gọi (do chúng ta tự đặt!) là "ngọa thiền", chúng ta "ngọ nguậy" cho đúng tư thế, rồi "thả lỏng", "lạc" dần vào trạng thái "mơ mơ hồ hồ". Ai mà "lạc" được vào trạng thái này sẽ "ngộ" được nhiều điều, một điều trong số đó là hình như thời gian "trôi" trong cảnh giới thiền (thời gian tâm-sinh lý bất thường?) nhanh hơn thời gian "trôi" trong hiện thực khách quan (thời gian vật lý), rất giống với hiện tượng "chênh lệch thời gian" mà nhiều người cận kề cái chết cũng như nhiều người chết đi sống lại, hoặc những người gặp nạn rơi từ trên cao xuống đất cảm nhận được. Phải chăng đây cũng là một "câu đố" thuộc lĩnh vực tâm linh đang "chờ đợi" lời giải thích "chân chính"!?...

Nhờ "ngọa thiền" mà thần thái chúng ta hồi phục rất nhanh, không những sự mỏi mệt đã tan biến hết mà tinh thần cũng bỗng trở nên an hòa, tươi tỉnh, trí não trở nên hoạt bát khác thường. Trăng thực sự đã tàn phế, mặt trời thì vẫn "ngủ vùi" theo luật định, ấy vậy mà đêm khuya vẫn sáng mờ. Chỉ có thể là nhờ sao sáng! Lúc nãy cũng nằm ngửa mà nào có thấy gì, giờ mới thấy trước mắt bừng lên chi chít hằng hà vì sao sinh động, "thoăn thoắt" khi mờ khi tỏ. Cả một bầu trời ăm ắp sáng sao khoáng đạt, nhộn nhịp đến rạo rực mà cũng thinh lặng đến lạnh lùng, cao lộng đến vời vợi nhưng vẫn có vẻ gần gũi, và bao la đến choáng ngợp nhưng vẫn cứ gợi về sự hữu hạn. Trong đời chúng ta, có lẽ lung linh nhất mà cũng nghiêm nghị nhất là bầu trời này, thật là trong sáng, thật là trung hậu, thật là huyền vĩ! Những kẻ đang "tưng tưng" ở thế kỷ XXI làm sao thấy được bầu trời khuya tuyệt tác mà thiên nhiên ban tặng cho thời cổ đại Tiên-Tần nói riêng và cả thời cổ đại của thế giới loài người nói chung này!? Sực nhớ đến những thành tựu quan sát thiên văn trong việc định hướng di chuyển cũng như trong việc định lượng thời gian, xác định lịch trình xoay vần của thời tiết, khí hậu...của những con người thời tiền sử-cổ đại còn lưu truyền đến thời hiện đại, chúng ta vô cùng khâm phục họ. 
Tuy nhiên, ngay trong bối cảnh này đây, chúng ta có linh cảm rằng, họ đạt được những thành tựu quan sát thiên văn có tính thần kỳ đó, một phần là nhờ bầu khí quyển còn trong veo, chưa bị vẩn đục "bụi trần" bởi sự khuynh đảo của nền sản xuất công nghiệp hóa, phần khác, nhiều hơn, là nhờ sự tiến hóa-thích nghi mà họ sở hữu được đôi mắt có năng lực "thấu thị" cực kỳ tinh tường (sau đó đã dần bị thoái hóa đi, "nhường chỗ" cho định hướng tiến hóa-thích nghi khác, đã trở nên được ưu tiên hơn, chẳng hạn là tăng cường trí nhớ, sức trừu tượng, khả năng liên tưởng, suy đoán...). Ôi, nếu quả thế thật thì bầu trời sao vô cùng huyền vĩ kia sẽ còn huyền vĩ đến cỡ nào nữa trước quan sát của người tiền sử-cổ đại vào thời chí ít cũng khoảng 10.000 năm trước, với đôi "thiên lý nhãn" chưa bị tiến trình văn minh hóa-xã hội hóa làm cho lu mờ đi, "thiển cận" đi!?

Chắc đối với con người sinh ra vào thời Tiên-Tần này, bầu trời sao đêm nay cũng... bình thường thôi, chẳng có gì mà...ầm ĩ. Nhưng đối với chúng ta, những kẻ sinh ra vào thời "thiển cận-loạn thị" và không trung mờ đục, thì đây là bầu trời sao tuyệt diệu có một không hai. Sao ken sao hiển hiện dày đặc khắp Vũ Trụ, đồng điệu tỏa sáng, đồng loạt nhấp nháy, gây ra hiệu ứng mạnh đến độ làm cho bộ não nhạy cảm của chúng ta tưởng như đang thưởng lãm một dàn đồng ca vô tiền khoáng hậu và tuyệt cùng vĩ đại trên một sân khấu cũng vô tiền khoáng hậu và tuyệt cùng vĩ đại (chính nghĩa là "vĩ đại" thật chứ không phải nghĩa là..."cái đuôi to"!). Và trong "dàn đồng ca" ấy, ngay hướng chính diện, bất giác chúng ta thấy một "ca sĩ" cực kỳ khêu gợi-ngôi sao sáng nhất và lấp lánh nhất của bầu trời. 
Chao ơi, phải chăng đó chính là ngôi sao định mệnh mà trong một cơn mê thời thơ ấu, chúng ta đã bay vun vút về phía nó với một niềm mơ ước tiếp cận khôn nguôi, từ đó mà nảy mầm và lớn dần lên trong tâm hồn chúng ta nỗi khát vọng mãnh liệt được biết căn nguyên đích thực của Tự Nhiên Tồn Tại, để rồi làm chúng ta phải "dứt áo ra đi", thực hiện cuộc hành trình kỳ diệu, quên, kỳ quặc, và vì thế mà đang...nằm ở đây...ngắm nó!?...Nghĩ đến mục đích cuối cùng còn xa tít mù tắp của cuộc hành trình, chúng ta giật nảy mình, bật dậy. Không! Không thể nằm "tự sướng" thêm nữa được! Hết thời gian rồi! Không khéo chúng ta không về lại được những năm tháng "đầu têu" thuộc thế kỷ "đầu têu" của thiên niên kỷ III SCN không phải vì con tàu vượt thời gian bị trục trặc mà vì chính sự tỉnh táo của chúng ta bị trục trặc! Xin cảm ơn sự nhắc nhở kịp thời nhé, hỡi ngôi sao thiêng liêng, lấp lánh sáng nhất giữa muôn vàn ngôi sao lấp lánh! Biết đâu chừng trong sự lấp lánh nhắc nhở tỏ vẻ hối thúc đầy thiết tha ấy có cả phần gửi gắm nhớ mong của người tình vong niên từ phương xa vời mà chúng ta vẫn giấu kín trong lòng (tất nhiên là phải giấu cả vợ rồi!)? Sự liên tưởng làm hiện ra rõ mồn một trong tâm trí chúng ta bài thơ "Nhớ" của Nguyễn Đình Thi có từ thời "Kháng chiến chống thực dân Pháp":

Ngôi sao nhớ ai mà sao lấp lánh
Soi sáng đường chiến sĩ giữa đèo mây
Ngọn lửa nhớ ai mà hồng đêm lạnh
Sưởi ấm lòng chiến sĩ dưới ngàn cây.

Anh yêu em như anh yêu đất nước
Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần
Anh nhớ em mỗi bước đường anh bước
Mỗi tối anh nằm mỗi miếng anh ăn.

Ngôi sao trong đêm không bao giờ tắt
Chúng ta yêu nhau chiến đấu suốt đời
Ngọn lửa trong rừng bập bùng đỏ rực
Chúng ta yêu nhau kiêu hãnh làm người

Dưới chế độ dân chủ-cộng hòa, đã có vợ và cũng đã "già chát" rồi mà còn yêu "em trẻ" khác, sẽ bị chê bai ngay là dê cụ, già dê, "già còn chơi trống bỏi", già mất nết, thậm chí bị "những nô lệ của cảm tính đố kỵ (có nguồn gốc sâu xa từ sự ích kỷ)" chửi là đồi bại, vô luân, nghĩa là... vô đạo đức... Nhưng dưới thời phong kiến thì tùy và... chẳng sao cả vì không hề bị coi là "phạm qui". Riêng chúng ta nghĩ (vì bản thân "trót lỡ" rồi nên có ý bênh vực!), luyến ái tự nhiên nam-nữ không đồng huyết thống chỉ bị khống chế bởi sự chủ quan tự ý thức về tình cảm, bổn phận và nghĩa vụ chứ không có sự hạn định tất yếu khách quan về phạm vi trong không gian và thời gian, do đó, khi "chẳng may" bị "dắt mũi" bởi "tiếng sét ái tình", nếu khôn (láu cá dễ thương!), biết dàn xếp ổn thỏa thì "yêu thêm một tý" (chứ không phải "có trăng quên đèn"!)... cũng được, thậm chí nhiều khi lại... tốt lành cho tuổi thọ hơn ấy chứ (nhưng có lẽ chỉ "ưu tiên" cho đàn ông thôi, hơn nữa là không nên "bô bô", vì như thế là "tiếp tay" làm tăng tham-sân-si trong xã hội, mặt khác, ý thức phụ quyền và tính tư hữu ích kỷ đã "ngấm vào máu" nhân quần từ lâu như một yếu tố quan trọng hợp thành định ước tư cách con người (gọi là văn minh) mất rồi, do đó "lợi bất cập hại", dễ gây và bị gây tổn thương bởi... "con dao hai lưỡi"!). 
 Ông bà ta còn để lại không ít câu phán "bất hủ" như: "Trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên một chồng", "Trai thương vợ, gái nhớ người xưa", "Bươm bướm mà đậu cành hồng/ Đã yêu con chị còn bòng con em", "Dù chàng năm thiếp bảy thê/ Cũng không tránh khỏi gái sề này đâu", "Làm trai lấy vợ bé như nhà giàu tậu nghé hoa", "Sông Thương nước chảy đôi dòng/ Trai quên vợ, gái quên chồng thì lên", "Thà rằng làm lẽ thứ mười/ Còn hơn chính thất những người đần ngu", "Đã không nên nghĩa nên nghì/ Anh về với vợ, em đi lấy chồng",..., nghe "vô hậu" quá, chẳng văn hóa tý nào, mà cũng... "quá đã"! Ha, ha... ha...! ...

Thôi!... "Nhổ neo" nào, anh em!... (Hô hoan thế cho bớt cô đơn và cũng để lấy lại khí thế vùng đứng lên!).

Ai dè, sự đứng lên đột ngột tạo ra một "nhắc nhở" đến thứ mà chúng ta quên bẵng là trong bọc hành trang bên hông có cái túi da còn chứa chừng hơn lít rượu "thuổng" được ở nhà Trang tiên sinh. Sự nhắc nhở này tuy không cao cả và nên thơ như sự nhắc nhở của ngôi sao kia mà có tính thực dụng, phàm tục, nhưng cũng kịp thời không kém! Vừa lúc "khát rượu" khô cả cổ, hơn nữa, không uống thì cũng phải đổ đi chứ không thể mang về làm quà cho bạn bè được vì từ khi có nạn khủng bố, rượu bị cấm mang lên con tàu vượt thời gian. Thế là chúng ta lôi túi da ra, ngửa cổ tu một lèo hết queo. Xong xuôi, chúng ta tiếp tục hành quân, phơi phới và hùng dũng y như lúc mới từ nhà Trang tiên sinh chệnh choạng bước ra vậy!...

Mới đi được một chặng ngắn, tinh thần phơi phới của chúng ta đã được nâng lên trạng thái... phừng phừng. Ở trạng thái mới này, đầu chúng ta lại dần lạc vào sự hoang tưởng về Ấn Độ cổ đại và vì thế mà miệng chúng ta lại tiếp tục "mấp máy" huyên thuyên... kể chuyện. "Vừa đi đường vừa kể chuyện" có cái hay là đỡ sốt ruột và quên mỏi chân...
                                     *** 

Kỳ Na giáo có những quan niệm thật lạ lùng! Tuy nhiên, chúng ta không có "nhu cầu" tìm hiểu sâu nó lắm nên sẽ "lướt qua", bắt đầu bằng lời kể của Will Durant (cũng trong cuốn "Lịch sử văn minh Ấn Độ" của ông mà chúng ta còn "nhớ" được!):
"Triết lý cách mạng của phái Charvaka (coi như) đã chấm dứt thời đại các Vêđa và Upanishad. Nó giảm uy thế của các Bàlamôn và gây ra một khoảng trống (tinh thần) trong xã hội Ấn Độ. Cần có một tôn giáo mới để lấp khoảng trống đó. Nhưng học thuyết của phái đó (tức Charvaka) đã gây ảnh hưởng sâu sắc và thành công đến nỗi hai tôn giáo tới sau, đáng lý để thay thế đức tin trong các kinh Vêđa, thì lạ lùng thay, lại đều là tôn giáo vô thần cả. Cả hai đều thuộc vào phong trào Nastikya (hư vô, theo chủ nghĩa hư vô), cả hai đều xuất phát không phải trong tập cấp tu sĩ, mà trong tập cấp chiến sĩ (Kshatriya), để phản ứng với chủ trương thần học và với thói câu nệ của giới tu sĩ. Hai tôn giáo đó, Kỳ Na Giáo và Phật Giáo, mở màn cho một thời đại mới trong lịch sử Ấn Độ.
(...)
Vào khoảng giữa thế kỷ VI TCN, một em trai sinh trong gia đình quí phái giàu có thuộc bộ lạc Lichchavi, ở ngoại ô châu thành Vaishali, ngày nay là tỉnh Bihar (theo truyền thuyết, Mahavira sinh năm 599 TCN và mất năm 527 TCN, nhưng Jacôbi cho rằng sự thật có lẽ là vào các năm 549 và 477 TCN, nghĩa là khoảng 50 năm sau). Song thân em mặc dù có của, nhưng thuộc vào một giáo phái tin rằng sự tái sinh là một đại bất hạnh mà sự tự tử là một đại phúc trời ban. Khi con trai được 31 tuổi, hai ông bà tự ý tuyệt thực để quyên sinh. Đứt ruột về hai cái tang đó, người con không màng thế tục nữa, cởi bỏ hết y phục, bỏ nhà bỏ cửa mà lang thang trong miền Tây Bengale như một nhà tu hành khổ hạnh để tìm huệ giác và sự thanh khiết. Sau 13 năm hoàn toàn thoát ly xã hội như vậy, ông được một nhóm đồ đệ tôn lên là Jina (có nghĩa là chinh phục, chế ngự), tức là một vị đại sứ đồ, nhà tiên tri, mà theo họ, cứ cách một khoảng thời gian nhất định nào đó lại xuất hiện để đem ánh sáng đạo đức cho Ấn Độ, đồng thời họ đổi tên ông thành Mahavira, vị Đại Anh Hùng, và tự gọi là Jain theo tín ngưỡng đặc biệt của họ. Mahavira thành lập một tăng lữ tự nguyện sống độc thân. Khi ông mất, số tín đồ lên tới 14 ngàn.

Lần lần giáo phái đó dựng nên một hệ thống tín ngưỡng và thành một trong những tôn giáo kỳ cục nhất trong lịch sử nhân loại. Từ một lý luận vô cùng thực tế rằng tri thức nào cũng bị hạn chế, chỉ có tính cách tương đối và tạm thời, họ đưa ra kết luận là không có gì hoàn toàn chính xác, cái mà ta cho là đúng thì xét theo quan điểm khác sẽ thấy là sai. Họ kể chuyện sáu người mù sờ voi. Người sờ tai, bảo voi là một cái nia lớn, người sờ cái cẳng, bảo voi là một cái cột tròn lớn. Vậy phán đoán của con người rất hạn chế, tùy thuộc hoàn cảnh, chỉ những đấng cứu thế, tức Jina, cứ cách một khoảng thời gian nhất định lại xuất hiện, mới nắm được chân lý tuyệt đối. Ngay những kinh Vêđa cũng chẳng giúp con người được gì, lời trong kinh không phải là lời thiên khải, do lẽ là không có Thượng Đế. Các giáo đồ Jain bảo không cần phải tưởng tượng ra một đấng Hóa Công hoặc một tối sơ nguyên nhân nào đó. Một em bé cũng có thể đả phá giả thuyết đó được, vì tồn tại một đấng Hóa Công tự sinh, một tối sơ nguyên nhân không có nguyên nhân là điều vô lý, không thể hiểu nổi, cũng như một thế giới tự xưng không có nguyên nhân. Thà cứ bảo rằng Vũ Trụ đã có từ thuở nào đến giờ, cứ biến chuyển, thay đổi hoài hoài do những năng lực cố hữu của nó chứ chẳng phải do ý chí của vị thần nào cả, thà cứ bảo như vậy lại còn dễ nghe hơn.

Nhưng tinh thần Ấn Độ không hợp với một chủ trương tự nhiên cố chấp tới mức đó. Phái Jain sau khi mời Thượng Đế ra khỏi Thiên Đường rồi, bèn đưa hết thảy các vị thánh trong sử và trong huyền thoại của họ vào. Rồi họ cũng tổ chức các tế lễ, cũng dốc lòng thờ phụng các vị thánh đó, chỉ khác là họ coi các ngài cũng chết, cũng luân hồi, chứ không phải là các đấng sáng tạo và làm ra Vũ Trụ. Họ cũng không phải là duy vật, họ theo quan niệm nhị nguyên, thừa nhận sự tồn tại độc lập của tinh thần bên cạnh vật chất, và cho rằng vạn vật, ngay cả đá và kim thuộc cũng có linh hồn. Linh hồn nào đã sống một đời không tội lỗi thì sẽ thành một Paratmatman - tức tối cao linh hồn - và trong một thời gian khỏi phải bị đầu thai vào một kiếp khác, như vậy là để thưởng công, khi được thưởng đủ rồi thì phải đầu thai nữa. Chỉ những linh hồn cao cả nhất, hoàn toàn nhất mới được giải thoát vĩnh viễn, những linh hồn đó được gọi là Arhat, thượng đẳng thần, sống vui vẻ như các thần của Epicure, trong một cõi xa xăm nào đó, không tác động được tới công việc của loài người, nhưng khỏi phải đầu thai.

Muốn được giải thoát thì theo giáo lý Jain, phải sống khổ hạnh và giữ đúng "giới luật" Ahimsa (thường được dịch là "bất bạo động", cũng có khi là "bất hại", ở đây dịch là "bất tổn sinh" với nghĩa: tuyệt nhiên tránh gây thương tích cho bất cứ một sinh vật nào. Bất bạo động chỉ là một qui kết của Ahimsa. Vì không được làm tổn thương sinh mệnh nên cả khi phản kháng, ta cũng không được bạo động). Nhà tu hành Jain nào cũng phải thuộc nằm lòng năm lời nguyện sau đây: không giết bất kỳ sinh vật nào, không nói dối, không lấy một vật gì nếu không phải là vật tặng, giữ sự thanh khiết và từ chối mọi thú vui của xã hội bên ngoài. Họ cho cái thú vui của ngũ quan là một tội lỗi, lý tưởng phải đạt được là thản nhiên với vui-khổ, hoàn toàn không bị ngoại vật chi phối. Một tu sĩ Jain không được phép cày ruộng vì như vậy phải vỡ đất, giết các côn trùng có trong đất. Cũng không được uống mật, sợ làm hại đến đời sống của con ong, không được lọc nước để uống, sợ làm chết các sinh vật nhỏ li ti trong nước, đốt đèn thì phải che chung quanh ngọn đèn cho các loài sâu (như con thiêu thân) khỏi vô ý đụng vào lửa, và đi đâu thì phải quét sạch đất ở phía trước để khỏi dẫm nhầm lên các sinh vật. (...). Chỉ có mỗi một sinh mạng mà họ có quyền được diệt là sinh mạng của chính họ. Đạo của họ chấp nhận sự tự tử, đăc biệt là cách tuyệt thực để tự tử vì cách này tỏ rõ rằng tinh thần đã hoàn toàn thắng được cái ý chí mù quáng muốn sống. Một số lớn giáo đồ Jain chết theo cách đó và người ta nói hiện nay các trưởng phái còn tuyệt thực để được chết."

Tiếp theo, để "thấy" rõ hơn chút nữa quan niệm về thế giới của Kỳ Na Giáo, chúng ta "trưng ra" thêm vài giảng giải của nhà triết học Chandradhar Sharma, theo nhận thức của ông:
"Theo Kỳ Na Giáo, vật chất có vô số đặc tính và là đối tượng của sự sinh, diệt cũng như sự thường tồn. Toàn bộ Vũ Trụ tuân theo hai phạm trù có tính bất diệt, tự thân, vĩnh hằng và cùng tồn tại là Jiva và Ajiva. Jiva là tinh thần ý thức và Ajiva là không tinh thần không ý thức. Ajiva không chỉ bao gồm vật chất - gọi là "Pudgala", mà còn bao gồm không gian, sự vận động, trạng thái đứng yên và thời gian. (...).
(...)
Ý thức được xem là cốt lõi của linh hồn (chetanalaksanojivah). Mọi linh hồn từ thấp nhất đến cao nhất đều có ý thức. Cấp độ ý thức có thể thay đổi tùy theo mức độ (nặng nhẹ) của nghiệp (karma). Những linh hồn thấp nhất trong nguyên tử vật chất dường như vô thức và không có sự sống, nhưng thực ra ý thức và sự sống hiện diện trong chúng ở dạng tiềm ẩn. Ý thức thuần khiết nhất được tìm thấy trong những linh hồn siêu thoát, không còn vướng vào nghiệp. Tất cả mọi linh hồn đều có bản chất như nhau, "bên trong" sở hữu Niềm Tin Vô Hạn, Tri Thức Vô Hạn, Hạnh Phúc vô Hạn và Quyền Lực Vô Hạn. Một Jiva là một hiểu biết thực sự (jnata), một tác nhân thực sự (karta) và một kinh nghiệm thực sự (bhokta). Nó nằm trong Astikaya dravyas (thực thể có quảng tính (?), nghĩa là có các thành phần vật chất cấu tạo nên có tính chất mở rộng trong không gian), nhưng lại không mở rộng trong không gian như vật chất. Nó giống như ánh sáng. Ánh sáng thắp đầy không gian nơi nó được thắp lên và nhiều nguồn sáng có thể thắp lên ở cùng một chỗ, nhưng chúng không xung đột nhau. Tương tự, linh hồn lấp đầy không gian và nhiều linh hồn có thể cùng "có mặt" với nhau không xung khắc. Do bản thân không có hình dạng, linh hồn lấy hình dạng của thể xác mà nó thể hiện. Linh hồn con kiến cũng bé như con kiến, linh hồn con voi cũng to lớn như bản thân con voi vậy. Linh hồn tồn tại cùng vời thể xác. Mặc dù chúng ta thấy, linh hồn trong thế giới này theo cách nó thể hiện và sở hữu các giác quan. Các mana (ý, ý nghĩ) giúp linh hồn nhận thức, nhưng thật ra chính thể xác, giác quan và mana là những vật cản do nghiệp tạo nên, không để cho linh hồn có thể nhận thức trực tiếp. Tri thức không phải là tính chất của linh hồn mà là phần cốt lõi thiết yếu của nó. Do đó, mọi linh hồn có thể nhận biết mọi sự vật một cách trực tiếp và tức thời, nếu không bị vật chất cản trở. Giải thoát khỏi vật chất sẽ giúp linh hồn trở nên thông tuệ và siêu thoát.
(...)
Nghiệp là sợi dây liên kết linh hồn với thể xác. Sự thiếu hiểu biết về chân lý và bốn cảm xúc mạnh mẽ - giận dữ (krodha), tham lam (lobha), kiêu ngạo (mãna) và lừa dối (maaya), gọi chung là Kasaya, nghĩa là bản chất sân si do những thành phần nhỏ của nghiệp "kết dính" lại với nhau, hút dòng sắc nghiệp về phía linh hồn. Trạng thái khi những thành phần nhỏ của nghiệp xâm nhập vào linh hồn để trói buộc nó gọi là dòng chảy (asrava). Trạng thái khi những thành phần nhỏ này chiếm lấy linh hồn và trói buộc nó, gọi là sợi dây ràng buộc, hay sự trói buộc (bandha). (...). Trong trói buộc, sắc nghiệp và linh hồn xâm nhập vào nhau một cách mật thiết, như nước hòa với sữa, lửa kết hợp với quả cầu sắt nung đỏ. Vì lý do này, chúng ta thấy sự sống và ý thức ở mọi phần của thể xác. Nếu có được và thực hành được niềm tin, tri thức và phẩm hạnh đúng đắn, thì mới có thể chấm dứt được sự xâm chiếm của nghiệp. Trạng thái này gọi là ngăn chặn (samvara-điều cấm). Sau đó, phải làm cho cạn kiệt nghiệp có sẵn. Trạng thái này gọi là trút bỏ (nirjara). Khi thành phần nhỏ cuối cùng của nghiệp thoát ra khỏi linh hồn, thì sự kết hợp giữa linh hồn và vật chất bị tan rã hoàn toàn, và linh hồn sẽ lại chiếu sáng trong niềm tin, tri thức, niềm sung sướng tột cùng và quyền năng vô hạn như bản chất vốn có. Trạng thái này gọi là giải thoát (moksa), và linh hồn lúc này đã đạt đến sự thông tuệ (kevala-jnana). Linh hồn giải thoát vượt lên sự luân hồi (samsara) và tiến thẳng đến siddha-shila (đây là sự giải thoát ở mức độ cao nhất của Vũ Trụ và linh hồn đạt được tri thức cũng như hạnh phúc vĩnh hằng). (...) Như vậy, ta có thể xem giáo lý của Kỳ Na Giáo chủ yếu là giáo huấn đạo đức nhằm mục đích hoàn thiện linh hồn. (...)

Những đam mê (si) sẽ thu hút dòng chảy sắc nghiệp vào trong linh hồn. Và những đam mê này là do vô minh mà ra. Do đó, vô minh mới thực sự là nguyên nhân của sự trói buộc. (...). Vô minh chỉ có thể bị loại bỏ bằng tri thức. Như vậy, tri thức đứng đắn là "cửa mở" cho sự giải thoát. Tri thức đúng đắn này được tạo ra bởi niềm tin vào những giáo lý của các tu sĩ đã thông tuệ (tirthankara). Vì vậy niềm tin là rất cần thiết. Chỉ có phẩm hạnh đúng đắn mới hoàn thiện được tri thức, bởi vì lý thuyết không thực hành là trống rỗng và thực hành không có lý thuyết là mù quáng. Tri thức đúng đắn xuất hiện khi tất cả nghiệp (karma) bị tiêu diệt bởi phẩm hạnh đúng. Cuối cùng, niềm tin đúng đắn, phẩm hạnh đúng đắn và tri thức đúng đắn kết hợp lại làm hình thành nên con đường giải thoát. Niềm tin (samyak darshana), tri thức (jnana) và phẩm hạnh (charitra) đúng là ba viên ngọc (tri-ratna) của Kỳ Na Giáo. Chúng gắn bó với nhau và sự hoàn thiện của mỗi yếu tố gắn liền với đòi hỏi phải hoàn thiện hai yếu tố kia.

(...). Chỉ có năm bước rèn luyện tinh thần cơ bản trong Kỳ Na Giáo. Đối với các tu sĩ, các bước này phải được tuân thủ nghiêm ngặt, cứng rắn và khắt khe. Trong khi đó, với các tín đồ, chúng có phần nào được thực hiện linh động hơn. Năm lời thề của tầng lớp tăng lữ gọi là "lời thề cao cả" (maha-vrata), còn những lời thề của tín đồ là "lời thề bình thường" (anu-vrata). Những lời thề này là:
  1. Ahimsa: không gây tổn thương trong suy nghĩ, lời nói hay việc làm, bao gồm cả việc kiêng cữ thụ động, tránh gây thương tổn thực sự cho bất kỳ chúng sinh nào, đồng thời là việc giúp đỡ nhiệt thành những sinh vật đau khổ.
  2. Satya: đúng đắn trong suy nghĩ, lời nói hay hành động.
  3. Asteya: không ăn cắp, tức là không lấy bất kỳ cái gì bằng suy nghĩ, lời nói hay hành động mà không thuộc về mình.
  4. Brahmacharya: kiêng cữ, tránh đam mê lạc thú qua suy nghĩ, lời nói hay hành động.
  5. Aparigraha: quên mình, hy sinh bằng suy nghĩ, lời nói hay hành động.
Đối với tu sĩ, những lời thề này phải được tuân thủ nghiêm ngặt. Tuy nhiên, đối với tín đồ, chúng có thể linh động và được nới lỏng. Ví dụ, brahmacharya chỉ hạn chế ở sự giản dị và Aparigraha chỉ là tùy lòng.

(...). Hơn nữa, mặc dù Kỳ Na Giáo phủ nhận Thượng Đế, nhưng nó không phủ nhận bản chất thiêng liêng của thánh thần. Mỗi linh hồn giải thoát là một vị thánh. Những tirthankara là những thể chất có sống có chết như chúng ta, nhưng đã đạt được sự giải thoát bằng những nỗ lực bản thân và luôn luôn ở đó cổ vũ chúng ta. Tất cả chúng ta đều có thể trở thành những jina ("người chiến thắng", đã thiền đạt đến giác ngộ, đã thoát nghiệp), vì việc gì con người làm được thì ta cũng làm được. Như vậy, với việc chối bỏ Thượng Đế, không cần đến một Thượng Đế để giải thích tạo hóa vì thế giới này chưa bao giờ được tạo ra cả, vì sự sinh ra, sự hủy diệt và sự thường hằng là đặc trưng cho tất cả vật chất, vì vạn vật có sinh thì có diệt tùy theo những dạng thức của chúng, Kỳ Na Giáo chính là một tôn giáo không có chỗ cho sự sùng bái, mong đợi sự cứu rỗi từ bên ngoài, chỉ xác định sự tự lực đốt cháy tất cả cảm xúc và ham muốn bằng ngọn lửa khổ hạnh nhằm giải thoát. Tuy nhiên trong thực tế, do sự yếu đuối của một con người không thể vượt lên trên cái logic nghiêm khắc đó và phần nào vẫn chịu ảnh hưởng của đạo Bàlamôn, giáo đồ Kỳ Na Giáo nói chung vẫn tôn sùng những Tirthankara, vẫn xây dựng những đền thờ, thần tượng để tôn thờ các vị thần của mình".

Rồi Chandradhar Sharma phê phán:
"Tinh thần được xem là sở hữu ý thức thuần túy, niềm hạnh phúc thuần túy, sức mạnh thuần túy và niềm tin thuần túy. Vật chất được xem là vô thức, không có sự sống và là một trở ngại nguy hiểm. Karma được giả định là sợi dây liên kết, gắn linh hồn với vật chất. Karma là do đam mê mà ra, đam mê là tại vô minh. Lúc này câu hỏi đặt ra là, làm thế nào linh hồn có ý thức, sức mạnh thuần túy lại có thể bị nhiễm vô minh, đam mê và karma? Các nhà Kỳ Na Giáo đã không có câu trả lời thực sự cho câu hỏi đó. Nếu vô minh và karma tách biệt khỏi linh hồn, thì không cần có sự giải thoát, vì nếu vô minh và karma nằm ngoài linh hồn, thì không thể có sự trói buộc. Mặt khác, Kỳ Na Giáo cho rằng, kinh nghiệm chỉ ra tinh thần và vật chất không bao giờ tồn tại như hai thực thể tách biệt, và với chúng ta, chúng luôn hiện diện như là chúng trộn lẫn vào nhau và tác động lẫn nhau. Vì vậy, sự kết hợp giữa tinh thần và vật chất được xem là vô thủy. Nhưng nếu tinh thần và vật chất thực sự bị cột chặt vào nhau một cách vô thủy, thì các nhà Kỳ Na Giáo sẽ phải từ bỏ mọi hy vọng giải thoát, vì cái gì là thực và vô thủy sẽ không bị tẩy trừ đi. Tại sao không thừa nhận một cách thẳng thắn rằng tất cả cả những điều này là do vô minh (avidya) vô thủy? Tại sao không xem tinh thần và vật chất là hai khía cạnh của cùng hiện thực, và cuối cùng sẽ vượt lên cả hai? Không ai phủ nhận tính tương đối và tính đa nguyên trong thế giới kinh nghiệm. Chỉ có một điều, tính tương đối và tính đa nguyên này không phải là chân lý cuối cùng. Nó có thể hiện hữu nhưng không thực. Nếu kevala-jnana (nghĩa trí-trí huệ, tạm hiểu tinh thần thông tuệ, thấu tỏ mọi sự) là một hiện thực, nếu bản chất vốn có của tinh thần là ý thức thuần túy và hạnh phúc thuần túy, nếu vô minh là nguồn gốc của sự trói buộc, nếu sự kết hợp của tinh thần và vật chất là vô thủy, nếu tính tương đối và tính đa nguyên là những điều cần thiết của cuộc sống kinh nghiệm, thì Kỳ Na Giáo cần phải chấp nhận cái tuyệt đối để tránh những mâu thuẫn".
Có phần tương tự, giáo sư Hiriyanna cũng phê phán:
"Đặc tính miễn cưỡng trong thẩm tra của giáo đồ Kỳ Na Giáo được thể hiện qua hình thức đánh giá bảy bước (syadvada, tạm hiểu như là một hệ thức luận về tính tương đối của sự cảm thức), chỉ dừng lại ở chỗ gom những quan điểm cục bộ lại với nhau, mà không cố gắng vượt qua sự đối nghịch trong chúng bằng một tổng hợp thích đáng. Lý do là vì, nếu đó không phải là thành kiến đối với thuyết tuyệt đối luận thì cũng là ý muốn bám chặt vào những niềm tin thông thường"
Súc tích hơn cả có lẽ là ý kiến phê phán của tiến sĩ triết học S. Radhakrishnan:
"Theo quan điểm của chúng tôi, logic của Kỳ Na Giáo dẫn dắt chúng ta đến chủ nghĩa duy tâm nhất nguyên, và khi giáo đồ Kỳ Na Giáo lưỡng lự với điều đó, họ biến thành những kẻ không trung thành với logic của chính mình...Lý thuyết về tính tương đối không thể được chấp nhận một cách có logic, nếu không có giả thuyết về một cái tuyệt đối. Lập luận logic của Kỳ Na Giáo không nhận ra nhu cầu giáo luật cơ bản này bởi vì nó quan niệm cục bộ cho toàn bộ chân lý. Những giáo đồ Kỳ Na Giáo không thể chứng minh một cách logic học thuyết đa nguyên luận".
Đành rằng quan niệm về thực tại (thế giới quan và nhân sinh quan) của Kỳ Na Giáo đã phạm sai lầm. Nhưng xét ở tầm rộng hơn, sự phạm sai lầm ấy không phải là riêng có của tôn giáo này mà có tính phổ biến trong suốt thời cổ đại, và thậm chí ở mức độ nào đó còn tồn tại đến ngày nay trong tất cả các niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo, chỉ có điều là hình thức thể hiện ra sao, nổi trội hay ẩn dấu như thế nào mà thôi. Có thể nói, nhận thức tự nhiên nói chung ở một thời đại phản ánh trình độ tri thức của loài người ở thời đại đó, và ngược lại, trình độ tri thức nói chung của một thời đại làm xuất hiện sự bảo thủ, gây ra những khống chế, ràng buộc, kìm hãm khả năng tăng tiến quan niệm về thực tại của loài người ở thời đại đó. Và chính sự "ngăn chặn" này, trước những đòi hỏi tất nhiên nảy sinh trong quá trình tiếp tục đi tìm hiểu thực tại khách quan của con người, đã tạo ra bức xúc có tính động lực dẫn đến bước nhảy (cách mạng) về nhận thức, đưa tri thức loài người lên tầm cao rộng mới, đúng đắn hơn, hoàn chỉnh hơn.
                                ***
Công lao của triết học cổ điển Đức là đã "hun đúc" nên triết học duy vật biện chứng (triết học Mác về tự nhiên) với quan niệm "vô thần hóa" triệt để của nó. Xét về mặt nhận thức "tự nhiên thuần túy" (!!!) thì có một thời hầu như không có một phản biện triết học "đáng giá" nào (trừ một vài luận điểm phần nào có giá trị của Đuy-Rinh) đối với quan niệm (có vẻ đã rất khách quan và sáng tỏ) của nó, và do đó nói chung, nó đã từng và có lẽ vẫn đang đóng vai trò là tuyệt đỉnh trí tuệ loài người về nhận thức triết học tự nhiên, nhất là đối với những triết gia mác-xít. Tuy nhiên, theo chúng ta, nếu soi xét trên cơ sở những thành tựu tri thức mà vật lý học hiện đại đã đạt được cũng như đã nghiệm chứng, đồng thời dưới nhãn quan (tạm gọi là) "cảm tính trực giác và chiêm nghiệm bình dân truyền thống", thì triết học duy vật biện chứng đang ở trạng thái khủng hoảng sâu sắc ngay từ cái khái niệm "duy vật" của nó. Với quan niệm về tự nhiên của mình, dù chỉ ở mức độ định tính, triết học Mác không bao giờ có thể trả lời khúc chiết được bản chất của không gian và thời gian là gì, cũng như không thể giải thích tường minh được sự tồn tại của lượng tử năng lượng do M. Planck khám phá ra mà không làm xuất hiện mâu thuẫn logic nội tại nào. 
 Tương tự như thế, nó đã không thể chỉ ra một cách khách quan và thực sự thuyết phục trước đại chúng rằng linh hồn tồn tại hay không tồn tại. Đó là chuyện bình thường trong lịch sử phát triển nhận thức của loài người. Điều đáng trách ở đây là nhiều nhà khoa học "thần phục" triết học Mác, đối diện với vấn đề nan giải đó, đáng lý ra nên bình tĩnh suy xét, nỗ lực tư duy sâu rộng hơn nữa thì trái lại, vì niềm tin vào quan niệm duy vật đã hóa thành một thứ tín ngưỡng của họ, và cũng để bảo vệ cái tín ngưỡng mà họ cho rằng "không thể sai" ấy, họ đã "kiên quyết" phủ nhận một cách cực đoan hầu như "sạch trơn" tính hiện thực của tồn tại tâm linh, nhất là hiện tượng có vai trò trung tâm, cơ bản của nó mà người ta thường quen gọi là "ngoại cảm". Một nhà khoa học, nhân danh khách quan nhằm bảo vệ chân lý khoa học mà trong thực tế lại hành động thiển cận, phản khoa học và nhất là lại còn dựa vào uy lực chính trị hòng "cả vú lấp miệng em", thì thật là tệ hại! Mở rộng ra, vật lý học hiện đại và cả toán học hiện đại cũng đang lâm vào tình trạng "tiến thoái lưỡng nan" chẳng khác gì mấy triết học duy vật biện chứng, nghĩa là chúng đang đứng trước một thực tại (được cho là) khách quan do chúng "sao chép" một cách chủ quan từ thực tại khách quan đích thực theo cách hiểu của chúng, đã nảy sinh những vấn đề triết lý vượt tầm khả năng "chinh phục" của chúng. Chúng ta cho rằng tri thức hiện nay về thực tại khách quan của loài người (triết học - khoa học tự nhiên...) đã và đang bộc lộ ngày càng rõ ràng nhiều mâu thuẫn nội tại gay gắt mà bản thân nó, với "tầm vóc" đang có, không thể tự "vượt thoát" được và đó phải chăng là điều chỉ thị rằng, nó đã đến gần kề một cuộc cách mạng mới về nhận thức tự nhiên để có được bước nhảy đột biến? Điểm yếu cơ bản nhất mà cũng dễ thấy nhất của tri thức ngày nay là "trong tầm quan niệm" của nó, loài người không có cách nào minh định tường tận để dứt khoát khẳng định hoặc phủ định được rằng, linh hồn là một thực tại khách quan hay chỉ là ảo tượng chủ quan, là thực thể hay phi thực thể.

Một cách hình tượng, có thể hình dung trình độ nhận thức triết-khoa về tự nhiên của loài người hiện nay như là một Vũ Trụ Big Bang đã bị "biệt giam" tuyệt đối "ở bên này" "bức tường Planck", với bên kia bức tường đó là hư vô tuyệt đối, bởi vì không có cả không gian lẫn thời gian, nghĩa là không thể có bất cứ thứ gì "thò mũi" sang đó để "ngửi" được, và như thế, sự "bất khả tri" về thế giới có "nguy cơ" là một hiện thực không thể chối cãi - cái hiện thực mà suy tư triết học không bao giờ chấp nhận được nếu không thừa nhận sự tồn tại một tinh thần tối cao phi vật chất như Heghen từng quan niệm. Trong tình hình còn không ít "hoang mang" như thế và trên bình diện nhận thức triết học còn chưa dứt khoát được như thế, tất nhiên những phê phán nêu trên về sự sai lầm trong quan niệm thế giới của Kỳ Na Giáo, nếu có đúng thì cũng chỉ đúng ở mức độ qui ước nào đó chứ chưa đích đáng. Hơn nữa, trong quan niệm sai lầm về thế giới của Kỳ Na Giáo không phải không có phần đúng, phần hợp lý, nghĩa là có thể cho rằng nguyên nhân dẫn đến sai lầm ấy phần lớn là do sự phiến diện, chưa đầy đủ trong nhìn nhận và suy xét bởi hạn chế của tri thức thời đại chứ không hẳn là do duy ý chí, "ngược ngạo" chủ quan (nhằm thỏa mãn ý đồ phụng sự tôn giáo riêng tư).

Như chúng ta đã nói, nếu qui ước lấy Bàlamôn Giáo làm chuẩn mốc so sánh thì có thể cho rằng hệ tư tưởng duy vật của trường phái triết học Charvaka và giáo lý Kỳ Na Giáo là hai quan niệm tương phản nhau về thế giới. Trong khi Charvaka cho rằng:
  • Trực giác là cách duy nhất tiếp cận chân lý, chỉ có thực nghiệm mới xác nhận được sự thật (thực chứng!).
  • Mọi thực thể đều do vật chất (gồm đất, nước, lửa, không khí) kết thành. Linh hồn (ý thức) chỉ là hình thức thể hiện vận động của thể xác. Không có linh hồn tồn tại độc lập ngoài thể xác.
  • Không có thần thánh, mọi tồn tại, biến hóa trong Vũ Trụ đều là tự nhiên. Niềm vui là mục đích duy nhất của cuộc sống, chết là hết, không có chuyện luân hồi nghiệp báo.
  • Bản thân cái chết là sự giải thoát, tu tập (tạm hiểu đại khái là tu nhân tích đức để dược hưởng phúc!) là vô nghĩa,
Thì Kỳ Na Giáo lại cho rằng:
  • Trực giác là phiến diện, không thể tiếp cận chân lý, chỉ qua bước đường (trực tiếp?) chiêm nghiệm tâm linh mới giác ngộ được thế giới chân thực.
  • Bản chất thế giới là nhị nguyên, thực thể bao gồm vật chất và ý thức. Có linh hồn tồi tại ngoài thể xác
  • Không có "nguyên nhân tối hậu" (Thượng Đế) về sự tồn tại Vũ Trụ, có quá trình luân hồi nghiệp báo, sống nhằm hưởng lạc là tội lỗi.
  • Chết là sự thoát xác tạm thời của linh hồn trên bước đường tự giải thoát khỏi vô minh, hướng tới "cuộc giải thoát cuối cùng", vượt ra khỏi vòng luân hồi nghiệp báo để trở thành thượng đẳng linh hồn (arhat) với tri thức tuyệt đối và hạnh phúc vĩnh hằng.
Theo chúng ta hiểu (võ đoán!) thì sự xuất hiện (trước là) Charvaka và (cũng có phần vì thế (?) mà tiếp theo là) Kỳ Na Giáo có nguyên nhân trực tiếp từ tình trạng hiện tượng đối xử bất công đã trở nên phổ biến, mâu thuẫn giàu-nghèo đã ở mức căng thẳng, gay gắt trong xã hội Ấn Độ cổ đại, và đều bắt đầu là những ý kiến bất mãn, phản kháng chế độ đẳng cấp được dung túng một cách thiên vị bởi những thuyết giáo phủ dụ và cả hăm dọa của giới tăng lữ Bàlamôn. Tuy nhiên, nếu như Charvaka có nguồn gốc (chủ yếu) xuất phát từ sự bị bần cùng hóa (về vật chất) trong tầng lớp bình dân thì Kỳ Na Giáo có nguồn gốc (chủ yếu) xuất phát từ sự bị bi đát hóa (về tinh thần) trong tầng lớp hiệp sĩ. Chính vì sự khác nhau về nguồn gốc xuất thân như thế mà dù hai hệ thống tư tưởng đều ẩn chứa nỗi bất mãn cái xã hội đương thời đã sinh ra chúng, song nỗi bất mãn của chúng là khác nhau, dẫn đến hai cách lý giải xã hội-nhân sinh khác nhau, có tính tương phản nhau, đại loại, một đàng duy vật-thực dụng, một đàng duy tâm-ảo tưởng. 
Cần thấy rằng, thành kiến lý luận về xã hội-nhân sinh của Charvaka hay của Kỳ Na Giáo không phải là kết quả của sự nghĩ ngợi viển vông vô căn cứ theo ý thích thuần túy chủ quan, mà là kết quả của suy tư, nhận định chủ quan rút ra được từ quá trình quan sát hiện thực khách quan đương thời, trên cơ sở tiếp thu có phê phán những quan niệm về tự nhiên-xã hội đã từng được thừa nhận trong quá khứ, đồng thời cũng trên tinh thần đó mà xây dựng hoàn chỉnh thành một hệ tư tưởng mới nhằm giải thích thế giới. Cho nên có thể nói, hai hệ thống tư tưởng Charvaka và Kỳ Na Giáo đều là sự phản ánh của tư duy con người về hiện thực khách quan, nhưng từ hai góc độ quan sát, hai cách nhìn nhận (lập trường) khác nhau, tương phản nhau. Cũng do đó mà trong mỗi hệ tư tưởng, dù quan niệm về thế giới còn ấu trĩ, thiển cận và lệch lạc thì không phải vì thế mà không hàm chứa ở chừng mực nhất định sự thực khách quan. Chẳng hạn, về vấn đề khả năng nhận thức chân lý (sự thực khách quan), cả Charvaka lẫn Kỳ Na Giáo đều bác bỏ con đường tiếp cận sự thực khách quan thông qua suy lý. Sự bác bỏ đó có đúng không? Trên bình diện tri thức ngày nay, hầu như ai cũng chọn câu trả lời phủ định. Nhưng nếu bình tâm và "thả" cho tâm hồn lãng mạn một chút (!) thì chúng ta sẽ thấy câu trả lời phủ định khó lòng mà "đứng vững" được. Chắc chắn rằng không có suy lý sẽ không có toán học- một trong ba ngành cơ bản (toán, lý, hóa) của khoa học tự nhiên làm nên văn minh loài người. Nhưng nếu chỉ bằng tưởng tượng và suy lý thuần túy thôi thì lại sẽ không có vật lý học và hóa học. Trong lôgic học có rất nhiều câu chuyện lý thú chỉ ra sự bất toàn của khái niệm và nhiều trường hợp về sự bất định chân lý của suy lý dù quá trình suy lý không phạm vào bất cứ sai lầm lôgic nào. Nhất là về Phương Đông nghe các "bác" thiền học giảng giải thì lại càng hoang mang hơn nữa...
Kể thêm một chút cho bớt nặng lòng:
Ngày nay hầu hết mọi người đều tin vào học thuyết Big Bang về việc giải thích nguồn gốc Vũ Trụ. Tuy thuyết đó có giải thích thỏa đáng nhiều hiện tượng bí ẩn của Vũ Trụ, song nó cũng chứa chấp trong lòng nhiều mâu thuẫn, nghịch lý mà khoa học hiện nay không thể giải quyết. Có thể nói, nếu tin vào học thuyết Big Bang, thì phải tin vào sự hiện diện của Thượng Đế - đấng siêu nhiên làm nên tất cả, còn nếu không tin vào sự tồn tại của Thượng Đế, thì phải phủ nhận thuyết Big Bang. Như đã nói, chúng ta tin vào Tự Nhiên, không tin vào sự tồn tại của Thượng Đế, tức là không tin Big Bang. Việc giải phương trình tương đối rộng đưa đến ý tưởng một Vũ Trụ giãn nở. Lúc đầu Anhxtanh không tin. Vì ông vẫn cho rằng Vũ Trụ là tĩnh, nghĩa là Vũ Trụ luôn ở trạng thái cân bằng, ổn định đến vĩnh hằng. Nhưng những kết quả của quan sát thiên văn đã đưa đến những bằng chứng không thể chối cãi về một Vũ Trụ đang giãn nở và giãn nở ngày càng nhanh. Đó là điều cơ bản để các nhà vật lý học xây dựng nên học thuyết Big Bang.

Trong những năm 1920, nhà thiên văn học Edwin Hubble đã khám phá ra vũ trụ không tĩnh. Hơn nữa, nó đang giãn nở, phát hiện này cho thấy Vũ Trụ dường như đã được sinh ra nhờ Vụ Nổ Lớn. Sau đó, có một thời gian dài người ta nghĩ rằng lực hấp dẫn của vật chất trong Vũ Trụ chắc chắn đã làm chậm lại sự giãn nở của Vũ Trụ. Mãi đến năm 1998, các quan sát của Kính viễn vọng Không gian Hubble về các vụ nổ siêu sao mới xa xôi đã cho thấy rằng một thời gian dài về trước, Vũ Trụ đã giãn nở chậm hơn nhiều so với ngày nay. Theo một nghĩa khác, sự giãn nở của Vũ Trụ không chậm lại vì lực hấp dẫn, thay vào đó, nó đang tăng tốc mà không ai giải thích được.
Nếu tin vào một Vũ Trụ giãn nở thì thử hỏi nó giãn nở đi đâu? Vũ Trụ Big Bang là một Vũ Trụ mà tất cả các dạng vật chất (ở đây dùng từ "tồn tại" thay cho "vật chất" có lẽ đúng hơn!), kể cả không gian và thời gian, đều xuất phát từ một điểm khởi đầu, thì sự giãn nở của nó tất nhiên là vào Hư Vô rồi! Hư Vô tồn tại là không thể quan niệm được. Hơn nữa, Vũ Trụ giãn nở đồng nghĩa với việc tăng thể tích không gian. Vậy không gian lấy không gian ở đâu mà tăng? Không thể lấy từ Hư Vô vì Hư Vô tuyệt đối là tuyệt đối không có gì!
Lại một câu hỏi đặt ra: Cái gì tạo thành điểm kỳ dị nếu trước thời điểm 10^-43 s là Hư Vô tuyệt đối hoặc thế lực nào dồn ép không gian và thời gian cùng toàn bộ khối lượng vật chất (mà ngày nay chúng ta mới quan sát thấy một phần) thành điểm kỳ dị để rồi lại bị kích nổ (Big Bang) thành Vũ Trụ ngày nay? Chỉ có thể là "lực". Nhưng lực là. gì? Theo chúng ta hiểu, thì lực là nguyên nhân gây ra sự tác dụng lẫn nhau của vật chất nhằm làm mất đi sự tương phản giữa chúng. (Theo cách hiểu này thì cần phải xét lại nguyên nhân sing ra lực vạn vật hấp dẫn!).
Muốn có điểm kỳ dị, thì trước đó phải có một môi trường tương tác hấp dẫn vô cùng mạnh mẽ làm tồn tại những lực hấp dẫn thực sự vĩ đại để duy trì được sự dồn nén tất cả vào trong một thể tích vô cùng bé, kể cả không gian và thời gian (phải chăng Hư Vô tuyệt đối cũng là một dạng tồn tại và tại sao lực hấp dẫn lại tương tác được với không gian, thậm chí với cả thời gian???!). Để có lực hấp dẫn to lớn đó thì theo công thức tính lực hấp dẫn, mật độ vật chất (hay tỷ khối) của các thực thể cũng phải vô cùng lớn và khoảng cách giữa các thực thể phải vô cùng nhỏ. Nghịch lý ở đây: điểm kỳ dị vừa là nguyên nhân, vừa là kết quả của lực dồn nén nội tại phi phàm! Có lẽ cần phải xét lại sự đúng đắn của định luật vạn vật hấp dẫn do Niutơn khám phá chăng?
Lý thuyết Big Bang chỉ ra rằng, Vũ Trụ ngày nay hình thành từ sự nổ bùng phát của điểm kỳ dị. Nhưng vụ nổ ấy xảy ra như thế nào? Đâu là nguyên nhân? Rất khó khi nghĩ đến một nguyên nhân bên ngoài nào, một ngoại lực nào gây ra vụ nổ lớn Big Bang của điểm kỳ dị, thậm chí là không thể hình dung nổi. Vì ngoài điểm kỳ dị là Hư Vô, là tuyệt đối không có gì. Mà tuyệt đối không có gì cũng có nghĩa là tuyệt đối không có Thượng Đế nên tuyệt đối không thể phát huy tác dụng gì vào điểm kỳ dị để gây ra Big Bang. Vậy thì phải hướng suy nghĩ đến nguyên nhân nội tại,một lực phân rã nội tại lớn hơn nhiều lần lực hấp dẫn. Dù rất khó hình dung nhưng cũng phải ráng sức hình dung: một lực đẩy to lớn do một lý do nào đó trong nội tại bỗng nhiên xuất hiện, lấn át lực hấp dẫn, gây nên sự bùng phát Big Bang và sự giãn nở lạm phát của Vũ Trụ ngày nay.
Rõ ràng, ở đâu có vật chất thì ở đó có năng lượng, ở đâu có năng lượng thì ở đó tiềm ẩn lực. Điều đó có nghĩa vật chất là nguồn gốc của lực. Lực chỉ có thể tồn tại tiềm tàng trong vật chất. Nói cụ thể là lực được sinh ra từ vận động. Như vậy, lực gây ra Big Bang và Vũ Trụ giãn nở lạm  phát là một loại lực được sinh ra từ vận động vật chất nào đó trong nội tại điểm kỳ dị, có tác dụng tương phản và áp đảo lực hấp dẫn. Cuộc suy diễn này tất yếu dẫn đến suy diễn về sự tồn tại của vật chất tối cũng như năng lượng tối - được cho là một dạng vật chất mới và năng lượng mới cụ thể là lực được sinh ra từ vận động. Như vậy, lực gây ra Big Bang và Vũ Trụ giãn nở lạm phát là một loại lực được sinh ra từ vận động vật chất nào đó trong nội tại điểm kỳ dị, có tác dụng tương phản và áp đảo lực hấp dẫn. Ngày nay chúng chỉ mới được xem như một giả định để cho học thuyết Big Bang trụ vững... 
Còn nhiều nữa, nhưng chỉ từng đó phi lý như đã trình bày vừa rồi, thì không thể tin chắc chắn vào lý thuyết Big Bang được. Theo tôi, một lý thuyết đúng là một lý thuyết không làm nảy sinh trong lòng nó những nghịch lý, phi lý hay mâu thuẫn nội tại. Khi một lý thuyết mà mang trong lòng nó những nghịch lý, phi lý, những bế tắc không giải quyết được, thì hoặc lý thuyết đó đúng nhưng đi trước thời đại, hoặc lý thuyết đó đã phạm sai lầm. Có ba nguyên nhân dẫn đến sai lầm, một là lý thuyết đó ra đời dựa vào những suy diễn rút ra từ những tri thức bị lầm lạc (nhưng tưởng đúng, cơ bản!!!) của đương thời, hai là khi giải phương trình đã tiếp thu nghiệm ảo thành nghiệm thật, từ đó rút ra những hiện thực ảo, cách giải thích ảo, ba là nó được xây dựng nên từ những hoang tưởng quá đà của nhà khoa học. 
Chúng ta cho rằng thuyết tương đối hẹp và rộng của Anhxtanh đều sai lầm thuộc trường hợp thứ nhất và thứ hai, góp phần dựng nên một Big Bang huyền thoại nhưng huyễn hoặc và không tưởng. Thuyết tương đối hẹp dựa vào sai lầm cho rằng kích thước theo chiều vận tốc phải co lại theo độ tăng vận tốc, còn thuyết tương đối rộng lại dựa vào giả định sai lầm rằng thời gian hòa quyện được vào không gian và hệ không - thời gian ấy lại chịu ảnh hưởng (tăng độ cong) theo tỷ khối, đồng thời giải ra nghiệm ảo là một Vũ Trụ giãn nở! Còn định luật Hubble được phát biểu một cách sai lạc từ ngộ nhận quan sát Vũ Trụ.
                                 ***   
Chúng ta khẳng định: không có cảm giác trực giác thì không có thế giới sinh vật, và không có tư duy trừu tượng thì không có con người để mà tìm hiểu, nhận thức thực tại khách quan, nói cách khác, sinh vật phát hiện được, phân biệt được sự hiện hữu, vận động của các sự vật-hiện tượng ở xung quanh là nhờ vào cảm giác. Còn con người, trên cơ sở cảm giác, thông qua quá trình tư duy trừu tượng, nghĩa là bằng bước đi tiền đề từ cảm giác đến tư duy trừu tượng, và cũng chỉ nhờ hướng đi duy nhất ấy, không những có khả năng nhận biết được ngày một sâu rộng sự tồn tại của thế giới vạn vật-hiện tượng xung quanh và cả của bản thân mình, mà còn có khả năng nhận thức được nguyên nhân của sự tồn tại đầy biến động ấy, cũng như có khả năng nhận thức đến cùng cực bản chất tối hậu của Vũ Trụ. (Nói thêm, có thể suy đoán rằng, cơ chế vận động cốt lõi của cảm giác sinh vật là cơ chế vận động của hiện tượng cảm ứng điện từ (hoặc nếu không, cũng phải là hiện tượng có bản chất tương tự, thậm chí là hiện tượng "tiền thân" nào đó mà con người chưa xác định được của hiện tượng cảm ứng điện từ).
 Mặt khác, dạng cội rễ sơ khai, hay cũng có thể gọi là tiền thân của mọi cảm giác sinh vật, (tạm đặt tên, tạm gọi thôi!) chính là "trực-xúc giác" mà (cũng tạm) gọi tắt là "giác" của vật vô cảm (không phải sinh vật). Chúng ta vẫn quan niệm vật không phải sinh vật là vật "vô tri vô giác". Nếu theo cách hiểu ở đây thì quan niệm như thế là sai. Không phải sinh vật thì chỉ có thể là vật vô cảm- vô tri, vì trong Vũ Trụ không thể có vật vô giác. Một lượng nước có thể không "cảm" được nóng-lạnh nhưng vẫn "giác" được sự biến đổi nhiệt độ, vì nếu không thế, lượng nước đó không thể đóng băng hay tan chảy được. Một thanh sắt chắc chắn không "cảm" được đau đớn, nhưng sẽ không bao giờ biến dạng cơ học được nếu không "giác" được lực tác động vào nó.
 Vậy giác và cảm giác khác nhau chỗ nào? Nói ngắn gọn nên cũng chỉ là đại khái và tương đối: giác làm xuất hiện (những) phản ứng hoàn toàn mang tính thụ động, tiêu cực, không phân biệt được lợi hại, nhằm "cố thủ" của một vật vô tri vô cảm trước nguy cơ bị "tước đoạt" sự tồn tại của nó, còn cảm giác làm xuất hiện (những) phản ứng đã ít nhiều mang tính chủ động, tích cực, phân biệt được lợi hại, nhằm "tự vệ", duy trì sống còn của một sinh vật trước (những) tác động từ môi trường gây ảnh hưởng đến đời sống của nó. Từ đó cũng có thể nhận xét rằng, cảm giác trực giác có tính tự giác (tính tỉnh thức). Tính tự giác này là biểu hiện của cái gọi là "vận động thần kinh" trong nội tại sinh vật, còn giác thì tuyệt nhiên không có tính tự giác mà chỉ có tính tự phát (tính mù quáng). Quá trình đấu tranh sinh tồn thúc đẩy sự tiến hóa thích nghi sinh vật, trong đó có khâu quan trọng là làm xuất hiện những giống loài mới không những được tăng cường khả năng cảm giác nói chung, mà còn được sở hữu một vài cảm giác đạt đến trình độ siêu việt theo một hay vài định hướng "được lựa chọn" cụ thể nào đó. 
 Bước đi song hành với quá trình tăng cường khả năng cảm giác nhưng đóng vai trò tiền đề cho quá trình đó là quá trình kiện toàn cơ cấu vận động thần kinh, làm xuất hiện hệ thống thần kinh hoạt động phối hợp nhất quán, nhịp nhàng trên cơ sở điều hành chung bởi một cơ quan trung tâm gọi là bộ não. Nhờ có bộ não mà xuất hiện dạng hoạt động thần kinh gọi là "sự hồi ức" (nhớ, nhớ lại), và đặc biệt là với bắt đầu từ sự hồi ức, cũng xuất hiện thêm một phương thức hoạt động thần kinh có tính siêu việt, đó là tư duy trừu tượng. Nhưng trước khi có hồi ức, bộ não phải có khả năng "ấn tượng" từ hời hợt đến sâu đậm, phải có khả năng tưởng tượng lại những thứ đã qua cảm giác (sau này, khi bộ não đã có năng lực suy nghĩ, thì nó còn có khả năng tưởng tượng những thứ chưa qua cảm giác!). Có thể nói, sự xuất hiện hồi ức là mốc đánh dấu bước phát triển mang tính đột biến về khả năng cảm giác, đó là ngoài cảm giác trực giác đóng vai trò nền tảng, sinh vật biết hồi ức còn có thêm loại cảm giác tạm gọi là cảm giác gián giác (liên tưởng). Cảm giác gián giác, hình thành trên cơ sở cảm giác trực giác kết hợp với hồi ức, thăng hoa nhờ tư duy trừu tượng và thông qua tư duy trừu tượng mà tăng cường phát huy tác dụng, đã làm cho trình độ cảm giác đạt đến mức siêu phàm, thậm chí nhiều khi là huyền linh (chưa nhận thức được!), do đó cũng mang nét đặc thù, coi như chỉ ở loài người mới có. 
Nhưng giác từ đâu mà có? Hiện nay chắc là chẳng ai thừa nhận, nhưng trong tương lai sẽ phải thừa nhận sự thật này: Vũ Trụ có bản chất "hai mặt", hay như chúng ta đã từng nêu ra, Vũ Trụ có tính (thể hiện) "nước đôi", là thế này mà cũng là thế kia, liên tục mà cũng rời rạc, vô hạn mà cũng hữu hạn, hữu hạn trong tình thế vô hạn và vô hạn trong tình thế hữu hạn... Mặt khác, chúng ta cũng đã quan niệm, thực thể là một tồn tại, mà tồn tại, xét trên phương diện tuyệt đối thì tất yếu phải thể hiện. Nếu Tồn Tại là vốn dĩ thì giác cũng là vốn dĩ. Toàn thể tồn tại thể hiện theo cách tồn tại (hay tập hợp tồn tại) nào cũng khẳng định sự tồn tại của nó trước những tồn tại (hay tập hợp tồn tại) xung quanh nó, và vì bị khống chế bởi tính hữu hạn của Vũ Trụ về cách thức thể hiện tồn tại cho nên tồn tại (hay tập hợp tồn tại) nào cũng đồng thời trong tình thế bị những tồn tại (hay tập hợp tồn tại) xung quanh nó (có xu hướng) phủ định nó, nghĩa là chúng vừa khẳng định vừa phủ định sự hiện diện của lẫn nhau. Đó được coi như là nguyên nhân tự nhiên và sâu xa làm xuất hiện giác ở mỗi tồn tại, hay cũng có thể nói giác là đặc tính vốn dĩ của tồn tại. Sự tất yếu thể hiện đồng thời của toàn thể tồn tại theo cách cũng tất yếu như thế, với sự có mặt của giác và thông qua giác, đã tạo ra hoạt cảnh chuyển hóa và biến đổi tồn tại một cách toàn diện, liên tục, không ngừng, vô thủy vô chung, từ cùng cực tổng thể Vũ Trụ vĩ mô đến tuyệt tận đơn thể Vũ Trụ vi mô, mà loài người hiện nay đã phần nào quan chiêm-nhận thức được, và từ đó cũng đã xây dựng nên quan niệm dưới tên gọi "vật chất và vận động vật chất" (tương đối có lý nhưng chưa đích đáng!) về thực tại khách quan. 
Nếu tiếp tục suy xét, còn có thể dễ dàng đi đến nhận định rằng, tính tất yếu thể hiện và tính hữu hạn về cách thức thể hiện của tồn tại, cũng như sự giác tất yếu, vốn có ở mỗi tồn tại, được coi là những yếu tố tự nhiên hợp thành giềng mối của (ít ra là) hai nguyên lý cơ bản thuộc hàng phổ quát nhất của Tự Nhiên Tồn Tại, đó là nguyên lý tương tác (định luật tác dụng tương hỗ của Niutơn chính là một biểu hiện đặc thù của nguyên lý này) và nguyên lý nhân-quả (nhờ có nguyên lý này mà loài người ngày nay mới có cơ may "làm nên lịch sử" của một quá trình tồn tại vận động (thậm chí của cả Vũ Trụ) và hơn nữa, tùy thuộc trình độ cũng như năng lực nhận thức của mình, còn dự đoán đúng được đến chừng mực nhất định tiến trình chuyển hóa-biến đổi tự nhiên trong tương lai của một sự vật-hiện tượng nào đó mà họ chú tâm nghiên cứu). Mặt khác, có thể coi hai nguyên lý đó là hai hệ quả trực tiếp đều được "rút ra" từ nguyên lý Tự Nhiên nếu thừa nhận nguyên lý này có tính tiên đề duy nhất, tối thượng, là nguyên lý cội nguồn của mọi nguyên lý, mọi qui luật-định luật có thể có của Vũ Trụ, trong Vũ Trụ).

Có thể nói, từ giác đến cảm giác là một quá trình dài của Tạo hóa, là quá trình xuất hiện giới hữu sinh từ giới vô sinh. Tăng cường khả năng cảm giác đối với sự tác động của môi trường sinh thái là yêu cầu tự nhiên nảy sinh trong quá trình đấu tranh sinh tồn. Yêu cầu tự nhiên đó cũng chính là nguyên nhân sâu xa nhất làm xuất hiện sự tư duy trừu tượng trong thế giới sinh vật. Ở giống loài đã được "trang bị" tư duy trừu tượng thì yêu cầu tự nhiên về tăng cường khả năng cảm giác dần được "nâng cấp", chuyển hóa thành đòi hỏi chủ quan tích cực tăng cường khả năng nhận thức thế giới. Bước đi tiền đề từ cảm giác trực giác đến tư duy trừu tượng cũng chính là bước đi tạo cửa mở cho tiến trình nhận thức thế giới dài lâu, đầy khúc khuỷu quanh co nên cũng nhiều gian truân cay đắng, nhưng tuyệt đỉnh tự hào của loài người, mà ở lĩnh vực cảm thụ nghệ thuật, đó chính là thiên anh hùng ca bi tráng, hào sảng và vĩ đại nhất mà loài người tạo tác nên được nhờ sự giao phó của Tạo Hóa! Trên cơ sở cảm giác, tư duy trừu tượng làm xuất hiện ý niệm, rồi đến khái niệm và cuối cùng là hệ thống khái niệm-quan niệm. (Bàn thêm: hệ thống khái niệm thuở sơ khai, khi nhận thức của con người về hiện thực khách quan còn nông cạn, thì chưa có...tính hệ thống, mà chỉ là một tập hợp đơn giản, rời rạc các ý niệm, khái niệm. Tập hợp các ý niệm, khái niệm sẽ ngày càng được bổ sung đầy đủ, hoàn thiện và đồng thời cũng thể hiện ra ngày càng rõ rệt tính hệ thống (tính quan hệ, liên kết gắn bó nội tại, tính phụ thuộc, ảnh hưởng lẫn nhau giữa các khái niệm) của nó theo cùng với tiến trình nhận thức ngày càng sâu rộng, ngày càng được nâng cao về trình độ). 
Về mặt hình thức, khái niệm là do chủ quan con người sáng tạo ra, còn về mặt nội dung, khái niệm là kết quả phản ánh về thế giới khách quan của tư duy trừu tượng mà nó cảm giác được. Do đó, sự hình thành nên hệ thống khái niệm-quan niệm là trực tiếp nhờ nhân tạo tự phát, nhưng lại có tính tự nhiên, coi như được khởi phát từ tính thống nhất của thế giới khách quan, và bản thân hệ thống khái niệm-quan niệm chính là "mô hình" thế giới khách quan được "xây đắp" nên bởi tư duy trừu tượng theo cách sáng tạo chủ quan, riêng có của nó. Cho đến tận ngày nay, hình như chưa có ai ý thức thực sự được sự tồn tại "tự thân" của hệ thống khái niệm-quan niệm này của loài người. Theo chúng ta, hệ thống này ngày nay đã có qui mô cực kỳ to lớn (nhưng vẫn chưa hoàn hảo, thậm chí là còn không ít những thừa, thiếu, lầm lạc!), mà cốt lõi của nó là sự hợp thành thống nhất hữu cơ của ba ngành khoa học cơ bản gồm triết học, toán học, vật lý học).

Như vậy, có cảm giác trực giác thôi chưa đủ, phải có thêm tư duy trừu tượng nữa mới đủ điều kiện tiền đề làm hình thành nên sự nhận thức, tức là sự nhận biết và phân biệt giữa cái cũ và cái mới, giữa hiện tượng đã qua và hiện tượng mới nảy sinh, từ đó mà suy ra được nguyên nhân của sự nảy sinh ấy. Giả sử có một đứa bé được sinh ra trong rừng sâu. Đây là khu rừng hoàn toàn tách biệt với xã hội loài người. Sau khi sinh con thì người mẹ chết, đứa bé may mắn được một con sói cái nhận nuôi và từ đó lớn lên thành người giữa bầy sói. Hỏi: người đó có nhận thức gì không dù được sinh ra trong thế kỷ XXI, có đủ năm giác quan và bộ não có khả năng tư duy trừu tượng? Trước hết, dễ dàng hình dung là người đó, do bị cách ly tuyệt đối khỏi con người và xã hội hiện đại, nên dù được sinh ra trong thời này, thì cũng chẳng khác gì mấy so với được sinh ra vào thời tối cổ, khi con người còn chưa biết đến ngôn ngữ. 
Chưa có ngôn ngữ thì chưa thể có khái niệm, mà chỉ có ý niệm trong một phạm vi hạn chế nào đó và cũng mới ở dạng "biểu tượng câm nín, vô danh" nhờ sự hồi ức. Điều đó cho thấy, dù bộ não đã có khả năng tư duy trừu tượng cao độ của con người hiện đại nhưng trong điều kiên bị cách ly tuyệt đối như trên thì khả năng ấy bị "mai một" đi và chỉ còn tương đương với trình độ tư duy trừu tượng của con người tối cổ, thậm chí của dạng người vượn-tiền thân loài người. Mới có ý niệm "câm nín" thì cũng chỉ có ý thức "câm nín". Nếu quan niệm rằng ý thức "câm nín" là ý thức dạng sơ khai và ý thức là nhận thức sơ khai thì coi như ý thức "câm nín" chưa phải là nhận thức mà mới là dạng tiền thân của nhận thức, nghĩa là người sống giữa bầy sói đó chưa biết nhận thức. Lại giả sử rằng người đó lần đầu tiên theo bầy sói lội qua một con suối và suýt chết đuối khi gặp phải một vùng nước sâu. Cảm giác suýt chết ngạt đó trở thành ý niệm "câm nín" lưu nhớ trong não người đó. Lần sau, trước khi phải lội qua đoạn suối cũ (hoặc tương tự), nhờ hồi ức mà cảnh suýt chết ngạt lần trước hiện ra trong não như một báo động, kích thích gây ra cho người đó một thứ mà chúng ta đã gọi là cảm giác gián giác (hay ý thức "câm nín") về cái gì đó đe dọa đến cuộc sống (sự nguy hiểm), và làm người đó "lưỡng lự tìm cách" lội qua (sự liên tưởng tự phát). 
Chúng ta gọi hoạt động của bộ não kiểu như thế là "nghĩ", và cho rằng các cá thể động vật có hệ thần kinh bậc cao (có bộ não), tùy vào mức độ tiến hóa, ít nhiều gì cũng đều biết nghĩ. Nghĩ chính là hồi ức, liên tưởng và định hướng cho hành động mới, do đó, trong nghĩ đã vốn dĩ hàm chứa hình thức vận động tinh thần gọi là "suy" (ước đoán, suy tưởng, suy đoán, suy diễn...). Dù biết nghĩ thì loài vật chỉ nghĩ được một cách manh mún, nhạt nhòa, ít suy cho nên cũng có tính trì độn, lề mề, hiệu quả thấp. 
Ở loài người, vì khả năng tư duy trừu tượng hoàn thiện hơn hẳn (sự suy tưởng mạnh mẽ hơn hẳn) nên sự nghĩ có hệ thống hơn hẳn, sâu sắc hơn hẳn, do đó cũng sáng suốt hơn hẳn, nhanh hơn hẳn và hiệu quả hơn hẳn ở loài vật. Nếu khẳng định chỉ con người mới biết suy nghĩ, còn con vật thì không, thì kể ra cũng đúng, nhưng tương đối thôi!

Vậy, dù đủ điều kiện tiền đề làm nảy sinh ra sự nhận thức thì sự nhận thức vẫn chưa thể triển khai được trong hiện thực, bởi vì vẫn còn thiếu một phương tiện vô cùng trọng yếu, có tính quyết định, đó là tập hợp ý niệm-khái niệm, thứ đồng thời cũng là hình thái đầu tiên của ngôn ngữ. Có thể nói rằng, khi ý niệm "câm nín" thốt nên lời thành ý niệm để từ đó khai hoa nở nhụy, đơm bông kết trái những khái niệm, thì cũng là lúc bắt đầu quá trình nhận thức dài lâu ở loài người. 
Rốt cuộc, con người không thể nhận thức được nếu không có hệ thống khái niệm, và hơn nữa, chỉ có cách duy nhất là thông qua hệ thống khái niệm mà nhận thức thế giới khách quan. Cũng do đó, xét cho đến cùng, loài người chỉ có khả năng xây dựng mô hình thế giới khách quan trên cơ sở khái niệm, bằng khái niệm, theo cách nhìn nhận và qui ước chủ quan của mình, trái lại, một con người, muốn tìm hiểu thế giới khách quan, trước hết phải học hỏi để nắm bắt khái niệm (kế thừa), rồi sau đó mới có thể thông qua mô hình đó mà nhận biết thực tại (tri thức), và nếu có khả năng thì góp ý nhằm hoàn chỉnh mô hình ấy (sáng tạo). Mặt khác, như đã trình bày, một hướng quan trọng có tính tất nhiên của quá trình tăng cường khả năng cảm giác sinh vật là làm xuất hiện "nghĩ"- một cách thức hoạt động thần kinh- để có thêm loại hình cảm giác nữa là cảm giác gián giác. 
Có thể nói, cảm giác gián giác là cảm giác trực giác đã được trừu tượng hóa và là kết quả của nghĩ (hồi tưởng, liên tưởng) và suy (suy tưởng). Nghĩ và suy là hai vận động của một hoạt động thần kinh thống nhất không thể tách rời nhau, là sự khẳng định tồn tại của nhau (mà nghĩ đóng vai trò tiền đề), chuyển hóa lẫn nhau, trong nghĩ có suy, trong suy có nghĩ, hay nói cách khác, trong nghĩ đơn thuần đã có mầm mống của suy và đặc tính vốn dĩ, mặc định của suy là nghĩ. Điều chúng ta muốn nhấn mạnh ở đây là, không có suy sẽ không có ý thức, mặt khác, suy được coi là dạng tiền thân của suy lý và chuyển hóa thành suy lý trong quá trình nhận thức nhằm tăng cường và nâng cao nhận thức. 
Tóm lại, dù thế giới khách quan "sờ sờ" ra đó, dù năm giác quan của chúng ta lúc nào cũng tiếp xúc trực tiếp với nó, nghĩa là dù cả đời chúng ta luôn lặn hụp trong nó, hơn nữa, là bộ phận của nó, thì chúng ta cũng không bao giờ biết được thực chất nó là cái gì, như thế nào, nếu chỉ có trực giác. Nói khác đi, con người không thể nhận thức được bản chất của thế giới khách quan bằng cách trực tiếp nhờ cảm giác, mà chỉ có thể bằng cách gián tiếp, thông qua khái niệm và phải nhờ suy lý.
Cằn nhấn mạnh: tự nhiên đã ban cho loài người một đặc ân là biết tư duy trừu tượng. Nếu không có tư duy trừu tượng, loài người sẽ không có khoa học, sẽ không có khám phá, phát minh, tức là không có sáng tạo!
                                 ***
Các nhà thiền học cho rằng chỉ khi vượt thoát khỏi khái niệm, loại trừ suy lý và bằng con đường "trực nhận" (!?) thực tại dưới tên gọi là "thiền"- tu tập nhắm đến kinh nghiệm tâm linh sâu thẳm nhất - mới có cơ hội nắm bắt được sự thực khách quan hay như họ gọi là "thực tại cuối cùng". Đó là quan niệm không sai lầm thì cũng ngộ nhận. Chúng ta đã nói đến sự bất toàn của khái niệm (và suy đoán rằng chính Lão Tử là người đầu tiên chính thức nêu ra dưới dạng văn tự, rồi được nhấn mạnh vào thời Hàn Phi, Công Tôn Long, Trang Tử...). 
Bản tính nước đôi của Tự Nhiên Tồn Tại làm cho nó huyền ảo đến cùng cực và vì thế mà mọi tồn tại trong Vũ Trụ đều hàm chứa tính "hai mặt", "mập mờ", bất định. Trong khi đó khả năng cảm giác và tư duy trừu tượng của con người bị hạn định một cách tự nhiên, do đó mà cũng tất nhiên bị chủ quan hóa, siêu hình hóa. Đó chính là nguyên nhân sâu xa tự nhiên làm cho bản thân khái niệm luôn hàm chứa tính xác định độc đoán (tính bảo thủ), tính phiến diện, tính nghịch lý, tính hữu hạn, nghĩa là tính bất toàn trong nội hàm của nó. 

Đến đây, chúng ta cho rằng đã có thể trả lời được rõ ràng hơn câu hỏi: "Thiền là gì?"- câu hỏi thuộc hàng hóc búa nhất đối với ngay cả những nhà thiền học gạo cội ngày nay. Theo chúng ta, thiền là một phương thức vận động tinh thần, một loại hình hoạt động trí não có nguồn gốc từ khí công (luyện thở) và trên cơ sở khí công dưỡng sinh, nhằm mục đích đạt đến sự thông tuệ. Để đạt đến mức độ thành quả nhất định nào đó, phải trải qua một tiến trình thiền (lâu hay mau còn tùy thuộc vào chủ quan bản thân người thực hành thiền như sự siêng năng, tự tin, nhạy cảm...). 
Như vậy, cũng có thể nói, thiền là một quá trình "nhận thức đặc biệt" mà trước hết là tu tập tinh thần nhằm "thanh lọc" suy nghĩ ("bỏ tư tâm, dứt dục vọng", tức là loại bỏ những tạp niệm, những ưu tư tham-sân-si nảy sinh trong đời sống thường nhật), đưa hoạt động tâm thần "thoát ra khỏi" trạng thái bị kích thích, bị nhiễu loạn (gây mê lầm), để rồi có được cách "suy nghĩ tĩnh lặng", an thái, vô tư, như nhiên nhất, nhưng cũng cực kỳ tinh nhạy, linh động (thiền học gọi ví von là "sự im lặng sấm sét" trước khi bừng sáng, ngộ giác), và nhờ đó mà đạt được sự "tỉnh ngộ" nhất (sự sáng suốt, thấu tỏ nhất) khi tiếp thu, chiêm nghiệm "lại" (!) thực tại.

Nói lại, khi trong hoạt động của một bộ não đã có được khả năng hồi ức (sự lưu giữ theo thời gian và nhớ lại những cảm giác đã qua, đã thuộc về quá khứ), thì bộ não đó đã bắt đầu biết nghĩ dưới dạng nào đó và rồi cũng sẽ biết suy ở mức độ nào đó. Khi trong não đã tồn tại sự hồi ức thì đồng thời nó cũng có ý niệm về thời gian. Điều này càng khẳng định điều chúng ta đã nói: thời gian không có thực, chỉ là một tồn tại ảo, là con đẻ của bộ não biết tư duy trừu tượng trước vận động vật chất.
 Không có suy nghĩ thì không thể có nhận biết thực sự, đó là điều chúng ta đã khẳng định và thiền học chắc rằng không thể không thừa nhận. Mặt khác, chúng ta cũng khẳng định rằng, một cách tuyệt đối, không thể có cái gọi là "nhận thức trực tiếp" (trực nhận) về thực tại (không qua tư duy trừu tượng, suy lý), và muốn tìm hiểu bản chất của thế giới khách quan, chỉ có thể bằng cách gián tiếp nhận thức nhờ khái niệm và thông qua hệ thống khái niệm. Tuy nhiên, vì bản thân khái niệm và hệ thống khái niệm vốn dĩ ẩn chứa sự bất toàn (sự cực đoan, siêu hình, phiến diện..., dẫn đến mâu thuẫn, nghịch lý không "tự"(!) khắc phục được) trong lòng chúng, nên chúng đồng thời cũng đã và đang là một trong hai nguyên nhân (nguyên nhân kia là sai lầm trong nhận định về một hay nhiều cảm giác nào đó, có tính chủ quan thuần túy) gây ra biết bao nhiêu xao động, hoang mang, mập mờ, lẫn lộn cho sự nhận thức. 
Để có thể "vượt thoát" tình trạng ấy, phải thấm nhuần thật sâu sắc sự tồn tại tất yếu khách quan của khái niệm cùng với tính bất toàn vốn dĩ của nó, trên cơ sở đó mà xây dựng một tinh thần linh động, biện chứng triệt để và thường trực trong quá trình suy lý, nhận thức và kiểm nghiệm. Muốn thế, trước hết phải làm sao có được một trí não khoáng đạt, thông thoáng, sáng suốt, và chắc rằng "Khí công thiền pháp" là một cách thức rất hay (thậm chí là hay nhất) để thực hiện điều đó.

Cách nay hơn 2500 năm, khi Lão Tử thốt lên: "Đạo khả đạo phi thường đạo, danh khả danh phi thường danh" (Tự Nhiên Tồn Tại mà có thể dùng ngôn ngữ để diễn tả rõ được thì không phải là Tự Nhiên Tồn Tại, danh (tên, nhãn mác đặt ra để gọi Nó - tức Tự Nhiên Tồn Tại) mà có thể dùng ngôn ngữ miêu thuật đúng được thì không phải là danh (của Nó)), thì lúc đó nhà hiền triết này đã "cảm thức" được sự tồn tại và vận động vô cùng linh diệu, "thế này mà cũng là thế kia" của thế giới khách quan, đồng thời cũng "phát giác"được sự hạn chế, không hoàn hảo có tính khách quan của ngôn ngữ, khái niệm trong việc mô tả, diễn giải thế giới ấy. Cũng vì thấy được như thế và trong sự nỗ lực tìm cách tiệp cận, nhận chân rõ ràng hơn về sự thực khách quan, các hiền triết Đạo Gia thời cổ đại, mà người khơi mào là Lão Tử, đã xây dựng nên cách thức thiền định (tham thiền nhập định) cho nhận thức, trên cơ sở khí công dưỡng sinh đã có. 
Như vậy, có thể nhận định, mục đích sơ khai, nguyên thủy của thiền là tu thân, luyện tâm, an thần, hầu "giũ bỏ", "giải thoát" khỏi sự lũng đoạn bởi tính bất toàn của khái niệm-suy lý, để có được một trí tuệ ngày càng minh mẫn, sáng suốt nhằm đạt đến khả năng thấu tỏ được, "giác ngộ" được bản chất vốn dĩ của thực tại (cũng chính là "thực tại cuối cùng", theo cách gọi của thiền học). Lịch sử thực hành thiền đã cho phép khẳng định rằng, nhờ "nhận thức nội tâm" mà triết lý Phương Đông, một cách thuần túy định tính và cũng chỉ trên bình diện đại ý, đã đạt được sự nhận biết về bản chất của thực tại khách quan tương đối đúng hơn, sát thực hơn triết lý Phương Tây. 
Nhưng không phải vì thế mà triết lý Phương Đông không phạm phải những ngộ nhận (nhận định sai) nghiêm trọng. Đến tận ngày nay, dù thiền học đã nhận diện được phần nào "chân dung" về tính biến hóa huyền ảo đến vô thường của tổng thể các sự vật-hiện tượng trong Vũ Trụ, đồng thời cũng biết rằng không thể dùng khái niệm-suy lý "vẽ ra" được "chân dung" ấy, dù là bằng những nét đơn giản nhất, một cách tuyệt đối xác đáng mà không vấp phải một "khuất tất" nào, thì vì vẫn chưa biết được nguyên nhân sâu xa dẫn đến tính bất toàn vốn dĩ của khái niệm, hơn nữa là vẫn chưa tỏ tường được đến cội nguồn bản chất của sự nhận thức, nên đã lý giải lầm lạc theo hướng huyền bí hóa về thực chất của thiền, cũng như về thực chất thứ gọi là "nhận thức nội tâm" hay sự "trực nhận". Từ đó mà thiền học cũng kêu gọi "tẩy chay" khái niệm, loại bỏ suy lý khỏi tư duy nhận thức và chỉ khi đạt được như thế thì mới có thể tiếp cận được (giác ngộ, đốn ngộ, bừng ngộ, đại ngộ...) chân lý đích thực là chân lý, thực tại chính xác là thực tại. (Nhưng khi đã "ngộ" được cái sự thể "thế này mà cũng thế kia, phải mà cũng không phải" của thực tại thì khó mà xác định chắc chắn được bằng ngôn ngữ, nghĩa là theo thiền học, ai "ngộ" người đó biết, như một kinh nghiệm cá nhân không thể truyền đạt, vì sự "ngộ" đó ở "tầng"..."vô niệm"!!!).

Cần phải thấy rằng, "nhận thức nội tâm" hay "trực nhận" chỉ có thể được coi là những nhãn mác do chủ quan qui ước, dùng để "đặt tên", để phân biệt một dạng nhận thức tương đối có tính riêng nhờ thiền định mà đạt được (và chúng ta cũng đã đặt tên là "nhận thức đặc biệt", để tạm phân biệt với "nhận thức thông thường"- tạm hiểu là nhận thức "không trải qua" thiền). Có thể định nghĩa, nhận thức đặc biệt là một dạng, một bộ phận của nhận thức nói chung, thuộc về quá trình nhận thức thế giới khách quan của loài người. Chính vì lẽ đó, nhận thức đặc biệt cũng là nhận thức gián tiếp, nghĩa là trong nhận thức đặc biệt, dù có thể không thấy sự hiện diện của khái niệm-suy lý, thì đó chỉ là vì "lãng quên" có tính tương đối và tạm thời, còn một cách tuyệt đối, không thể thoát ly, chối bỏ được chúng, cũng như không thể triệt tiêu được đặc tính hoạt động theo nguyên tắc từ kế thừa đến sáng tạo của tư duy, tồn tại xuyên suốt quá trình nhận thức ấy. 
Khi thiền học nói rằng, chỉ bằng trực nhận mới "đốn ngộ" (nắm bắt) được "thực tại cuối cùng"- thực tại đích xác là thực tại (!), thì cũng hàm ý thừa nhận "trước đó" có (những) thực tại chưa cuối cùng, chưa đích thực, được "hình dung" ra bằng nhận thức thông thường, đã bị khái niệm-suy lý lũng đoạn, làm cho sai lạc, và nhiệm vụ của trực nhận chính là "loại bỏ" sự sai lạc ấy. Mặt khác, vì không thể trực nhận (theo đúng nghĩa đen là nhận thức trực tiếp), nên có thể "phăng ra" từ câu nói trên của thiền học như sau: nhận thức đặc biệt là một "phương tiện" của hoạt động tư duy nhờ thiền mà có, được dùng nhằm tìm hiểu lại cho chính xác cái thực tại đã quan niệm được bằng nhận thức thông thường. 
Như thế, lại phải suy ra, không có "kinh nghiệm nhận thức" và đối tượng nhận thức thì cũng không thể có nhận thức đặc biệt, hay nói cách khác, trước tiên là phải có một tích lũy tri thức ở mức độ nhất định nào đó đã tiếp thu được từ nhận thức thông thường, rồi trên cơ sở đó, dựa vào đó đồng thời cũng lấy đó làm đối tượng mà bắt đầu tiến hành nhận thức đặc biệt nhằm khắc phục, loại trừ về mặt định tính (!) những sai lạc trong hiểu biết do tính bất toàn của khái niệm gây ra. Từ hoàn toàn "mù tịt" (như trẻ con mới đẻ), chưa có một tý nhận biết nào cả mà đòi thiền ngộ để tiếp cận chân lý, thì dù là Đức Phật Thích Ca tu tập đến hết đời bên gốc cây bồ đề, cũng chỉ là vô vọng! Sự "nhận thức nội tâm" của thiền học dù có thâm hậu đến đâu chăng nữa thì may ra cũng chỉ phụ trợ phần nào, chứ không bao giờ có thể thay thế được nhận thức trên cơ sở nghiên cứu khoa học, hơn nữa, nếu chỉ bằng "nhận thức nội tâm" thôi, chắc chắn loài người không thể "gặt hái" được một kho tàng tri thức đồ sộ và một nền văn minh siêu việt như hiện nay! 
Nhất quyết không thể nào bằng "nhận thức nội tâm" của thiền mà "ngộ" được định lý Pitago, hay giải thích bản chất của hiện tượng vạn vật hấp dẫn là gì, "thực tại cuối cùng" về tương tác hấp dẫn là như thế nào! Cuối cùng, để dung hòa hai quan niệm khác nhau giữa chúng ta và thiền học về sự nhận thức "trong" thiền hay sự thiền ngộ, chúng ta kết lại thế này: trực nhận là nhận thức lại một cách định tính cái đã nhận thức, trong tình trạng tâm thần mà hoạt động tư duy trừu tượng đã được thiền "đưa về rất gần", giống như với lối suy nghĩ hồn nhiên đậm nét (!) bản năng, "chưa vướng bụi trần" thời cổ xưa, khi bộ não chưa "biết đến" khái niệm, chưa biết nhận thức thực sự, vì thế mà khái niệm-suy lý tuy vẫn tồn tại và phát huy tác dụng trong suy nghĩ (đương nhiên!), nhưng sự hiện hữu của chúng (trước "người trần mắt thịt") thì "lặn xuống", chìm sâu vào tiềm thức, làm cho thiền học tưởng rằng đã loại bỏ được khái niệm-suy lý khỏi tư duy trừu tượng, nên cũng tin rằng đã đạt đến "tầng" ưu tư vô niệm, khoáng đạt giữa mơ hồ, hối hả trong yên tịnh, được ví như một sự "im lặng sấm sét" chờ "bừng ngộ". 
Từ đó có được sự nhận thức trực tiếp (trực nhận) hay sự "nhận thức nội tâm" đầy trí huệ, và vì theo lời các thiền sư, không thể "nói ra" chính xác những gì "đốn ngộ" được từ đó, nên chúng ta cũng có thể (tạm) gọi đó là "nhận thức câm nín"! "Cô kết" lại, chúng ta viết: TRỰC NHẬN = IM LẶNG SẤM SÉT = NHẬN THỨC CÂM NÍN.
                                   ***
Ngày nay, do lối giải thích còn nhuốm màu huyễn hoặc, kỳ ảo về bản chất thiền của các nhà thiền sư nên nếu không là hầu hết thì cũng rất nhiều người còn hiểu "lơ mơ" về nó. Mặt khác, trong thực tiễn đời sống, không ít người vì "hiểu biết không rõ ràng" như thế nên sùng bái thiền một cách mù quáng, đã 'lẫn lộn" gán cho nó cả cái khả năng có thể làm xuất hiện ở các thiền sư, hay ở những người thực hành thiền lâu dài nói chung những năng lực tâm linh siêu việt, phi phàm, chẳng hạn như: cảm giác xuyên không-thời gian (thấu thị, thấu thính, linh (ngoại) cảm...), chữa bệnh bằng "phát, truyền khí", bằng dẫn dụ từ xa...
Mục đích nguyên thủy của thiền là tu tập đạt đến an thần tĩnh trí thực sự để có được một thần thái thông tuệ nhằm trước hết là giác ngộ, giũ bỏ mê lầm, vượt thoát vô minh, mở ra khả năng thấu tỏ cõi nhân sinh, nhận chân được ý nghĩa đích thực của đời sống, từ đó mà cũng hình thành một thái độ sống vô chấp bất cầu, một tâm niệm sống ung dung an hòa. Với ý nghĩa ấy, thiền không thể tạo ra được bất cứ một công năng đặc dị có tính phi thường nào, cũng như một vận động tinh thần có tính huyền diệu (tâm linh) nào ở những người thực hành thiền (hành giả). Nếu không thế thì một cách phổ biến (!), tất cả các nhà sư "gạo cội" của Đạo Phật đều phải có không nhiều thì ít những khả năng tâm linh siêu việt. Nhưng trong hiện thực, đâu có thấy hiện tượng đó! Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng, dù là rất ít thì cũng có những thiền sư đạt được năng lực ngoại cảm bằng thiền, về một hay vài khía cạnh nào đó. Vậy, cần phải hiểu như thế nào cho đúng về tác dụng của thiền? 
Nếu chỉ có một mục đích như trên thì thiền được hiểu như chúng ta đã hiểu, còn nếu cho rằng thiền còn có mục đích thứ hai là hướng tới khả năng làm xuất hiện ngoại cảm thì cũng phải cho rằng thiền là tên gọi chung của hai cách thức thiền, cách thứ nhất có tên riêng tạm gọi là "thiền ngộ", cách thứ hai tạm gọi là "thiền công". Về thiền ngộ thì như chúng ta đã trình bày, còn về thiền công thì trước đây, trong phần "đi tìm" nguồn gốc của thiền, chúng ta cũng đã đề cập "thoáng qua". Không thể phân định dứt khoát được, nhưng một cách tương đối, có thể nói rằng, nếu thiền ngộ nhằm tăng tiến "độ tỉnh táo" cho hoạt động nhận thức, thì thiền công nhằm tăng cường "mức mãnh liệt" cho vận động thần cảm (tạm gọi vậy thôi!). Chính thiền công, trong những điều kiện kích hoạt đạt đến chín muồi nào đó, mới có tác dụng làm xuất hiện khả năng tâm linh ở số ít hành giả. Hai cách thức thiền ấy đều có chung một nguồn gốc xuất phát, vì thiền, như chúng ta đã bàn luận, hình thành trên cơ sở khí công và đồng thời nhận nguyên lý cơ bản của khí công làm nguyên tắc nòng cốt trong tu tập. Đến đây, "chắp nối" lại, chúng ta đã có thể hình dung rành mạch hơn về thiền và cả khí công nữa.

Vào thời thượng cổ, miền đất duyên hải dọc bờ biển thuộc Đông Nam Châu Á - Nam Trung Hoa, nhờ được thiên nhiên "ban cho" một chế độ thời tiết-khí hậu cũng như thổ nhưỡng tương đối an hòa đối với đời sống sinh vật, nghĩa là cũng dồi dào thức ăn cho con người hơn ở những nơi khác, nên cư dân nguyên thủy quần cư chủ yếu ở đó mà đông đảo nhất có lẽ là trên dải đất Bắc-Trung Việt Nam ngày nay. Tuy nhiên, có những thuận lợi cơ bản về tìm kiếm miếng ăn thì cũng có những bất lợi về sinh hoạt-đời sống, vì không phải lúc nào cũng gặp "mưa thuận gió hòa", và nhất là thường xuyên phải sống trong một môi trường "lầy lội" với sông ngòi, hồ ao chằng chịt, đồng thời phải chịu đựng mùa giông bão, lũ lụt kéo dài, xảy ra hàng năm theo chu kỳ. Tình hình đó đã như một động lực hối thúc cư dân tăng cường hơn nữa về qui mô cũng như tính hiệu quả cho hoạt động tìm kiếm và săn bắt-lượm vớt các sinh vật thủy sinh trong sông ngòi, ao hồ và biển cả để làm thức ăn. Điều đó cũng như kinh nghiệm hoạt động mưu sinh trong môi trường nước đã tích lũy được từ trước, hợp thành yếu tố tiền đề làm xuất hiện sự luyện thở. 
Luyện thở lúc đầu đơn thuần chỉ nhằm nâng cao hiệu quả của việc kiếm ăn trong môi trường nước. Dần dà người ta còn phát hiện ra tính năng thứ hai của nó là tăng cường sinh lực, và từ đó, qua thời gian, nó được hun đúc thành như một cách thức tồn tại trong quần thể-xã hội cư dân, nhằm cải thiện sự thở, dưỡng sinh, hơn nữa là làm nâng cao nội lực. Chúng ta gọi cách thức luyện thở (chắc còn rất sơ khai) đó là "luyện thở dưỡng sinh" và cho rằng cùng với tiến trình nhận thức, luyện thở dưỡng sinh được điều chỉnh, bổ sung, làm sâu sắc thêm để trở thành một phương thức tu thân luyện tâm có cơ sở lý luận thực sự, (tạm) gọi là "khí công dưỡng sinh". 
Vậy, có thể nói, luyện thở dưỡng sinh là tiền thân của khí công dưỡng sinh, khí công dưỡng sinh là tiền thân của khí công ngày nay. Ngày nay, lý thuyết khí công đã trở nên "đồ sộ", là tập hợp lý thuyết của rất nhiều môn phái, trường phái khác nhau, có thể phân biệt được với nhau về "tiểu tiết", nhưng về đại thể thì đều theo nguyên tắc "tu thân luyện tâm" và có chung một yếu lĩnh tu tập cơ bản là "luyện tinh hóa khí, luyện khí hóa thần, luyện thần hoàn hư". Trong lý thuyết khí công, để dễ bề tiếp cận nhằm triển khai thực hành, dù không thể dứt khoát được, dù là siêu hình, thì khí công vẫn được phân tương đối thành hai loại lớn theo hình thức thể hiện và công dụng chủ yếu của chúng, đó là "khí công động" và "khí công tĩnh". 
Không hẳn đúng nhưng vẫn có thể tạm cho rằng, khí công động "có mặt" chủ yếu trong rèn luyện võ thuật, tôi luyện võ công (thường gọi là luyện (ngoại) công), với công dụng chủ yếu nhằm "tu thân", tức là làm tăng tiến mạnh mẽ nội lực cơ thể đến mức đạt được những "công năng đặc dị" siêu phàm nào đó (như một mình phát công đánh quị mấy chục võ sinh một lúc, chịu được xe lu cán qua người mà không chết...) tùy theo từng phép luyện công. Còn khí công tĩnh "có mặt" chủ yếu trong tu tập dưỡng sinh, luyện thở điều khí, với công dụng chủ yếu nhằm "luyện tâm", tức là làm cho tinh thần ngày càng sung mãn và sung mãn đến mức có được những "thần lực" phi thường và thậm chí là cả những "thần thức" tâm linh nào đó (như phát khí chữa bệnh nan y, làm thay đổi thành phần hóa học một chất lỏng,..., thấu thị, thấu thính,...) tùy theo từng phép luyện (nội) thần. Không thể tách bạch tuyệt đối được giữa động và tĩnh, cho nên nghĩa của "tĩnh" trong khí công tĩnh chỉ mang tính tương đối thôi (chẳng hạn "múa" Thái cực quyền trên một cơ sở qui ước nhất định vẫn thuộc về khí công tĩnh). 
Có một cách thức tĩnh nhất trong khí công tĩnh, thời xưa không biết tên gọi của nó là gì, ở đây chúng ta cứ gọi là "thiền" và đã cho rằng nó là gốc xuất phát chung của thiền ngộ và thiền công. Thuở đầu tiên, công dụng của thiền chỉ đơn giản là luyện tâm tu thần nhằm dưỡng sinh mà thôi. Về sau nó mới trở thành một phương thức tu tập tương đối độc lập nhằm đạt tới những thần lực và thần thức có tính kỳ diệu, siêu linh. Nếu thế, quan niệm cho rằng thiền ngộ và thiền công có nguồn gốc chung là thiền như đã nêu ra ở trên chưa hợp lý lắm, mà có lẽ đúng hơn phải cho rằng gốc xuất phát của thiền ngộ là thiền công, như một nhánh rẽ từ thân cây vào lúc nào đó ở thời cổ đại (trước khi Đức Phật xuất hiện!). Dùng tên gọi là "thiền" cho dễ bề dẫn giải, nhưng để rõ ràng hơn, nên "quan sát" thiền dưới góc độ khí công với tên gọi "khí công thiền pháp" (luyện khí công theo cách thiền). Khí công thiền pháp là phương thức tu tập tĩnh nhất thuộc khí công tĩnh. 
Thiền ngộ xuất phát từ khí công thiền pháp như một nhánh quan trọng và dần phát triển thành cách thức luyện tâm tu thần có tính riêng, tương đối độc lập, nhằm chủ yếu tăng cường nhận thức đúng đắn về xã hội-nhân sinh, về ý nghĩa đời sống, từ đó mà thấm nhuần một lối sống bình thản, an hòa, vị tha, nhân hậu (nhưng thử hỏi từ xưa đến nay đã có ai tu thiền mà giác ngộ được mặt khách quan trong nguồn gốc gây ra sự đau khổ???)...

Đây mới là điều huyền bí lớn lao mà cũng là điều gợi mở sâu xa, vừa là thách đố "ghê hồn" vừa là hé lộ "bạt vía" đối với tri thức loài người ngày nay: không phải ai thực hành khí công bền bỉ, lâu dài cũng đạt được những công năng đặc dị mang tính thần kỳ về thể chất hay tinh thần theo ý mình muốn, mà điều đó chỉ có ở một số rất ít hành giả được cho là có "duyên" (sự tương thích!?). Trong khi đó không hiếm người chẳng cần qua luyện công hay tu thiền gì cũng sở đắc được một hay vài công năng ấy (nói cụ thể thì phần lớn trong số người này có được khả năng dị thường sau một sự cố nào đó tác động rất mạnh đến thân-tâm (như một "xung" kích hoạt gây đột biến hoạt động thần kinh?), ngoài ra là những người bẩm sinh đã sẵn có và cả những người lúc đầu không có nhưng tự dưng lại có (hoặc đang có tự dưng mất đi) vào lúc ngẫu nhiên nào đó trong cuộc đời. Nói chung, trong xã hội có rất nhiều câu chuyện ly kỳ về năng lực phi thường, về tâm linh huyền diệu ở con người do kiên trì tu tập mà có và không cần tu tập cũng có, thật vô cùng khó tin nhưng cũng thật không thể phủ nhận được tính hiện thực của chúng...
Trên cơ sở quan niệm về thực tại khách quan tự "dựng đứng" cho riêng mình (tất nhiên, cũng phải bắt đầu từ sự kế thừa, và dù đúng hay sai chưa biết), chúng ta đã "bất khuất" (vì mắc chứng hoang tưởng vĩ cuồng mà!) hình dung một cách "bạt mạng" nhất (vì vô học mà!) ra bản chất tồn tại-vận động (ở tầm định tính sơ khai thôi!) của thứ mà khoa học đã gọi là "trường sinh học"- nơi (chúng ta cho là) "chứa đựng" nguồn gốc chung nhất của mọi hiện tượng tâm linh, để từ đó có thể (tạm) giải thích nhất quán được bằng "giọng lưỡi" vô thần (nhưng lại phản khoa học nhất?) hầu hết các hiện tượng nhân sinh dị thường (như gặp ma, ma nhập, cầu cơ, thấy vong, linh cảm, linh tri, báo mộng, thấu thị, thấu thính, đầu thai lại, phát khí chữa bệnh từ xa...). 
Nếu được huyên thuyên "phét lác" ra đây thì kể cũng thích chí kiểu "Lời quê chắp nhặt dông dài / Mua vui cũng được một vài trống canh" của Nguyễn Du, nhưng...thôi (!), thứ nhất, chắc gì đã phi lý, quên, đã hữu lý (?), tốn tâm huyết lải nhải đến tràng giang đại hải không khéo đã chẳng có ai "mua vui" cho mà còn bị phang "vài trống canh" vì tội "chửi xéo" này nọ thì kể cũng...khí buồn, thứ hai, nó chẳng ăn nhập gì vào nội dung ở đây cả, thứ ba, điều chủ yếu, không nên phung phí thời gian một cách "lãng nhách" vì sắp chết..., lại quên (!), sắp hết mẹ nó thời gian rồi! Chúng ta nêu vấn đề ra chỉ mong tỏ rõ hơn phần nào những "hô hoan" về thiền mà chúng ta đã trình bày ở trên vậy thôi...
Nói "túm lại" cho gọn là thế này: thiền là một dạng đặc biệt của vận động nội tại thần kinh lấy tư duy trừu tượng làm tiền đề động lực thúc đẩy những vận động vi mô làm xuất hiện khả năng ngoại cảm. Tương tự như thời gian, tinh thần là một tồn tại ảo, là kết quả của vận động não người. Vận động tinh thần và khả năng ngoại cảm là hai hiện tượng có kết quả khác nhau, một đàng là chuyển hóa vật chất mang tính khách quan, một đàng là biểu hiện chủ quan, có tính bản năng, nhưng trong thực tế chúng ta rất dễ lẫn lộn cái này với cái kia vì chưa hiểu rạch ròi về chúng.

Như thế, theo ý chúng ta, rõ ràng Charvaka và Kỳ Na Giáo đều phạm sai lầm khi cho rằng có thể tiếp cận được chân lý khách quan một cách trực tiếp (không cần thông qua suy lý) và hơn nữa, chỉ có nhận thức bằng cách đó (một đàng là thuần túy trực giác, một đàng là trực tiếp chiêm nghiệm tâm linh) thì mới "biết chắc chắn" được chân tướng của sự thực khách quan. Tuy nhiên, quan niệm sai lầm về nhận thức ấy chỉ là kết quả của sự ngộ biện ngây thơ, mang tính hình thức, được dùng trên "bàn tròn tranh luận" nhằm chủ yếu "tránh né" tính bất toàn của khái niệm-suy lý gây ảnh hưởng tiêu cực đến học thuyết của họ, thế thôi, chứ trong thực tế, hầu như không có tác dụng tốt hay xấu nào đối với quá trình tìm hiểu xã hội-nhân sinh của họ. Bởi vì "tô son điểm phấn" thêm hay "gọt tỉa" bớt đối với sự nhận thức để "trưng ra" bất cứ "kiểu" nhận thức nào cũng được, nhưng tiên quyết và như một tất yếu, phải "học thuộc" ngôn ngữ, đồng thời trải qua giai đoạn cơ bản của nhận thức thông thường cái đã. Làm sao có thể "giũ bỏ" suy được khi nó tồn tại vốn dĩ trong tư duy mà tự nhiên đã mặc định, cũng như làm sao có thể "trừ khử" được suy lý khi nó đã ngấm rất sâu vào "máu thịt" của tư duy và "một phần" trở thành như một vận động bản năng trong tư duy con người theo "đòi hỏi" tự nhiên nảy sinh ra từ quá trình tiến hóa-thích nghi sinh vật? Như vậy, "nỗ lực" kiểu gì cũng không bao giờ có thể "tước đoạt" sự suy lý của tư duy nhận thức! 
Quan niệm trực tiếp giác ngộ chân lý của Kỳ Na Giáo không khác của thiền học và chúng ta đã nói rồi, không lặp lại nữa. Còn quan niệm "nắm bắt" chân lý nhờ cảm giác trực giác thuần túy của Charvaka thì nên được hiểu như thế nào?
                                   *** 
 Tồn Tại là duy nhất tuyệt đối vốn dĩ thế nên Tự Nhiên Tồn Tại được khẳng định tuyệt đối, cũng có nghĩa là ngoài Tự Nhiên Tồn Tại tuyệt đối, không còn gì nữa hết, nghĩa là không có Hư Vô. Vì còn Hư Vô nghĩa là còn thứ gì đó Tồn Tại! Suy ra từ đó mà thấy Tồn Tại tuyệt đối được bảo toàn. Tồn Tại được bảo toàn tuyệt đối nghĩa là tuyệt đối không thể được sinh ra thêm mà cũng tuyệt đối không thể bị mất bớt đi, và đó được coi là một hệ quả rút ra từ nguyên lý Tự Nhiên, trở thành nguyên lý cơ bản thứ ba (gọi là "nguyên lý bảo toàn Tồn Tại", bên cạnh nguyên lý tương tác và nguyên lý nhân-quả) của Vũ Trụ. Về mặt "biểu hiện", Tự Nhiên Tồn Tại chính là Vũ Trụ tổng hòa các tồn tại luôn biến đổi lẫn nhau từ dạng này sang dạng khác, từ thế này thành thế khác, là tổng thể các sự vật-hiện tượng vận động và chuyển hóa không ngừng, tuân theo nguyên lý Tự Nhiên, cũng có nghĩa tuân theo ba nguyên lý cơ bản là nguyên lý tương tác, nguyên lý nhân-quả và nguyên lý bảo toàn (xin lỗi C. Mác!). Như vậy, không thể khác, Vũ Trụ phải được thấy là một hệ thống cân bằng động tuyệt đối, vô tiền khoáng hậu và tuyệt cùng vĩ đại. (Thuyết Vũ Trụ sinh ra từ "Vụ nổ lớn" (Big Bang), bắt đầu từ một "điểm kỳ dị" và đang giãn nở lạm phát, "tối kỵ" lập luận này, vì nó sẽ phải "khăn gói ra đi" khỏi vật lý học nếu lập luận này là...chân lý! Còn nếu không? Chúng ta đúng là lũ...khùng! Nhưng...quen bị "chửi" thế nhiều rồi, nên bắt chước nhà thơ Phan Khôi, chúng ta tuyên bố: "Làm sao thì cũng chẳng làm sao/ mà dù có thế nào thì cũng chẳng làm chi/ làm chi thì cũng chẳng làm chi/ mà dù có chuyện gì thì cũng...chẳng làm sao"!!!).

Trái Đất là một thực thể trong tổng hòa các tồn tại của Vũ Trụ, nghĩa là cũng phải "nằm" trong mối tương tác và chuyển hóa có liên quan với nhau, phụ thuộc lẫn nhau giữa nó và các tồn tại xung quanh nó, hay có thể nói trong phạm vi qui ước tương đối, giữa nó và môi trường chứa nó (mà cụ thể là Thái Dương Hệ). Sự tồn tại tương đối ổn định và lâu dài theo thời gian cho phép chúng ta xác định rằng, Trái Đất cùng với bầu khí quyển của nó là một hệ cân bằng động tương đối, nghĩa là tương đối cân bằng trong tương tác, trao đổi năng lượng với "bên ngoài", dẫn đến cũng có vận động nội tại (tương tác, chuyển hóa năng lượng "bên trong") tương đối cân bằng, ổn định. Do đó, lại cũng chỉ là tương đối thôi (!), trong một phạm vi qui ước "phù hợp với tự nhiên" (nghĩa là có tính hợp lý, tính khách quan), ở tầng "nhận diện" vĩ mô nào đó tạm gọi là "tầng cảm giác sinh vật", có thể coi Trái Đất và bầu khí quyển của nó là một hệ tự nhiên tồn tại (Tự Nhiên Tồn Tại tương đối!) có tính độc lập-cô lập trong Vũ Trụ, và chúng ta gọi đó là "thiên nhiên" (của thế giới sinh vật). Vì là bộ phận, đồng thời cũng là một phần tương đối hoàn chỉnh, như một hoạt cảnh thu nhỏ của Tự Nhiên Tồn Tại, nên thiên nhiên cũng phải "mang" bản chất của Tồn Tại, cũng như phải vận động chuyển hóa tuân thủ nguyên lý Tự Nhiên hay ba nguyên lý cơ bản, dù có thể là dưới những dạng triển khai theo cách đặc thù. Nhờ như thế mà qui luật đấu tranh sinh tồn-qui luật đầu tiên và cơ bản nhất trong thế giới sinh vật-, được tạo lập nên, để rồi dưới sự tác động của nó mà xuất hiện sự vận động thích nghi sinh vật, và có thể nói vận động thích nghi sinh vật dẫn đến tiến hóa-thích nghi sinh vật là một quá trình bao trùm, liên tục và xuyên suốt trong không gian và thời gian (của thiên nhiên), từ cá thể đến toàn thể và ngược lại, từ toàn thể đến từng cá thể của thế giới sinh vật.

Tiến hóa-thích nghi làm tăng cường khả năng sinh tồn ở mọi giống loài sinh vật. Trong sự tăng cường ấy có sự tăng cường độ tinh nhậy của cảm giác. Nhưng do bị khống chế bởi tính hữu hạn của thiên nhiên (về mọi mặt) nên sự tăng cường khả năng sinh tồn bằng cách chuyển hóa, biến đổi hình thái vận động sinh học nội tại cũng như cấu tạo thể chất ngoại hình sinh vật (xét trên bình diện toàn thể các giống loài cũng như trên từng cá thể sinh vật trong môi trường sinh thái), cũng bị giới hạn, nghĩa là ở mức hạn định của sự tăng cường mà thiên nhiên "cho phép", nếu phải ưu tiên "theo thực tế đòi hỏi" tăng cường khả năng sinh tồn cho mặt này mặt kia trong quá trình hoạt động mưu sinh sinh vật thì chỉ còn cách "lấy bớt đi" khả năng sinh tồn ở những mặt khác. Điều đó cho thấy, chỉ có thể có sinh vật đạt thích nghi tối ưu tương đối chứ không thể có một sinh vật thích nghi hoàn hảo tuyệt đối trong thiên nhiên. 
Riêng đối với sự tăng cường cảm giác cũng vậy, không thể có một hệ cảm giác thực sự hoàn hảo ở bất kỳ cá thể sinh vật nào, vì "được cái này thì mất cái kia", "tăng cái kia thì giảm cái nọ"...Ngày nay, hệ thống cảm giác được cho là hoàn chỉnh nhất mà quá trình tiến hóa-thích nghi tạo ra được là hệ thống gồm cảm giác trực giác và cảm giác gián giác, trong đó cảm giác trực giác gồm năm loại là xúc giác (sờ), thị giác (nhìn), thính giác (nghe), khứu giác (ngửi), vị giác (nếm), còn cảm giác gián giác là cảm giác trực giác đã được "tinh thần hóa" (bởi tư duy trừu tượng). 
Hệ thống ấy ở con người được (chính loài người) đánh giá là tối ưu nhất. 
Có thể nêu ra hàng loại thí dụ giản đơn về cảm giác gián giác. Chẳng hạn trước một cảnh vật, cảm giác trực giác chỉ cho thấy mức độ động-tĩnh, sáng-tối, trong-đục, đơn sắc-sặc sỡ..., nhưng ở nhiều người còn thấy xấu-đẹp, yêu-ghét, buồn-vui..., thì đó là cảm giác gián giác-cảm giác trực giác đã bị "lũng đoạn" bởi tư duy trừu tượng, bởi hồi ức. Con chó thấy chủ về, vẫy đuôi, nhảy cơng cỡng, rú rít chạy bên chủ, thì hành vi đó ít nhiều gì cũng là sự thể hiện vui mừng "một cách vô tư", nghĩa là ít nhiều gì đó cũng là kết quả của cảm giác gián giác...

Lúc đầu, tương tự như trong thế giới vô sinh chỉ có giác, trong thế giới sinh vật cũng chỉ có duy nhất cảm giác trực - xúc giác. Cảm giác trực - xúc giác của một thực thể sinh vật được hình thành trực tiếp từ giác, là cảm nhờ giác trên cơ sở trực tiếp tiếp nhận (những) tác động đến từ môi trường, qua vùng tiếp xúc với môi trường của thực thể sở hữu cảm giác đó. Nói chung, những cá thể sinh vật chỉ có cảm giác trực - xúc giác đều được xếp vào hàng các giống loài có mức độ tiến hóa thấp. Quá trình tiến hóa - thích nghi đã làm xuất hiện những giống loài sinh vật sở hữu nhiều loại cảm giác. 
Để phần nào hiểu được tại sao lại có xu hướng đó, chúng ta có thể tạm chia sinh vật thành hai loại là sống định vị một chỗ và sống di chuyển thường xuyên. Tiêu biểu cho loại đầu là cây cối. Tại sao cây cối chỉ "cần" cảm giác trực-xúc giác mà không "cần" thêm loại hình cảm giác nào khác? Chức năng duy nhất và chung nhất của cảm giác trực giác là phục vụ sinh tồn. Do đó, khi yêu cầu về đảm bảo sinh tồn đòi hỏi đối với nó thì nó sẽ được tăng cường về (cái tạm gọi là) độ chi tiết hóa, hay độ tinh nhậy hóa, mà có khi là cả hai, tùy vào định hướng ưu tiên lựa chọn trong tình hình cụ thể. Đó chính là nguyên nhân sâu xa làm xuất hiện nhiều loại hình cảm giác trực giác ở một cá thể sinh vật. Đối với cây cối, chúng sống nhờ đất, nước, không khí và ánh sáng, toàn những thứ có sẵn, "hơi bị nhiều" nên coi như thường xuyên đầy đủ, chỉ cần "đứng vững ở đó" là sống rồi, do đó, ngoài cảm giác trực-xúc giác nhằm trao đổi chất và hấp thụ dinh dưỡng ra, chúng (đâu có lòng tham kỳ quặc như con người!) chẳng cần "tư hữu" thêm thứ cảm giác nào khác nữa cho... "rách việc".

Theo chúng ta hình dung, sự sống được thiên nhiên tạo ra trong lòng biển mà dạng ban đầu là một tiểu thể "vừa sống vừa không sống" vì chỉ có "giác" là chính, "cảm" (sự tham gia của hoạt động thần kinh) mới có tính mầm mống (đơn bào không nhân?). Khi vùng lòng biển đã "tạo điều kiện" cho "ra đời" một tiểu thể tiền sự sống thì nó cũng tất yếu cho "ra đời" nhiều tiểu thể tiền sự sống và làm hình thành nên một tập hợp, một quần thể tiền sự sống. 
Sự biến đổi thường xuyên trong ổn định tương đối có đôi khi xen vào những biến đổi đột xuất gây bất ổn của môi trường sinh thái biển, đã manh nha hiện tượng đấu tranh sinh tồn và tiến hóa-thích nghi của tiền sự sống, thể hiện ra là sự củng cố, chuyển hóa giác thành cảm giác thực sự, tạo ra sự chủ động làm tăng hiệu quả tiếp thu dinh dưỡng. Phải chăng chính quá trình làm xuất hiện sự chủ động định hướng làm tăng hiệu quả tiếp thu dinh dưỡng, trong điều kiện môi trường biến đổi thường xuyên lúc thuận lợi lúc bất lợi đã là nguyên nhân kích thích xuất hiện hình thức sinh sản đầu tiên của sinh vật-sự phân bào? (Lịch sử hình thành sự sống rất phức tạp, cho đến nay vẫn còn nhiều điều chưa rõ ràng và đang được tiếp tục nghiên cứu. 
Sự hình dung thô phác của chúng ta là từ một góc độ khác và không có tính chuyên môn. Tuy nhiên về mặt "đường lối", theo chúng ta, mượn kiểu nói của nhà văn hóa Vương Hồng Sển, là..."tạm xài được"!)... 
Tiếp tục hình dung, sự sống đơn điệu thời kỳ đầu trong biển cả, theo cuộc tiến hóa-thích nghi sẽ dần trở nên tương đối phong phú, đa dạng giống loài (không xương), mà trong đó có tiền thực vật (sinh thể lam) và những sinh vật lấy nó làm nguồn thức ăn. 
Đến một giai đoạn nào đó, trong điều kiện sinh thái biển trở nên đặc biệt thuận lợi, sẽ làm xuất hiện hiện tượng tăng trưởng lạm phát mang tính đột biến về số lượng cá thể sinh vật biển, mà trước tiên là sinh thể lam (tạm gọi là "rong rêu" cho tiện!), loài đồng thời cũng đóng vai trò như một xúc tác kích thích tăng trưởng lạm phát đối với ít ra là loài trực tiếp "xơi" nó. Tình hình đó làm cho sự "dạt lên bờ" của rong rêu trở nên phổ biến và thường xuyên. Lúc đầu, rong rêu mắc cạn luôn là chết, nhưng cũng có những rong rêu mắc cạn "suýt chết" thì được "cứu sống" nhờ sóng biển, triều dâng, mưa...đưa lại về biển. Dần dà, theo thời gian, sự tiến hóa-thích nghi sẽ làm cho một số rong rêu có thể sống "lưỡng cư" trên cạn dưới nước (tảo) rồi thành thực vật sống hẳn trên cạn (dương xỉ) và từ đó chuyển hóa thành đa giống loài thực vật mới, mở ra quá trình lan tỏa sinh cư ra hầu khắp Trái Đất (kể cả trong bầu khí quyển). 
Quá trình "lên bờ xuống ruộng" để có được lối sống định vị một chỗ thành những loài thực vật sống cạn của rong rêu sẽ tự nhiên kéo theo sự thích nghi sống trên cạn của sinh vật biển ăn rong rêu và đó chính là thủy tổ của những loài "vật ngọ nguậy" trên cạn và tiếp đó là động vật ăn thực vật. Sự tăng-giảm lạm phát về số lượng cá thể ở mỗi giống loài khi gặp môi trường sinh thái thuận lợi - bất lợi là qui luật có tính phổ quát trong thế giới sinh vật cho nên, trong vòng tác động của qui luật đấu tranh sinh tồn, có động vật ăn thực vật thì rồi cũng phải có động vật ăn thịt những động vật ấy, và cả ăn thịt lẫn nhau. 
Thủy tổ của động vật ăn thịt chắc chắn phải có nguồn gốc từ động vật ăn thực vật, phải bắt đầu từ một loài động vật ăn thực vật nào đó trong thời xa xưa tối cổ của lịch sử sự sống...Ở đây, chúng ta đang nói về sự tăng tiến cảm giác nên để dễ thấy vấn đề chúng ta "gói gọn" loại sinh vật có đời sống di chuyển thường xuyên (cũng tạm gọi là "du cư" cho gọn) là động vật có xương sống. 
Ngồi một chỗ, chẳng phải làm gì lại vẫn đủ "mâm cao cỗ đầy" mà an hưởng cuộc sống ngay từ lúc lọt lòng thì...còn gì bằng, và ai không muốn? Nhưng tính hữu hạn của thiên nhiên không cho phép tất cả sinh linh mà may ra (nếu không bị cướp ngôi hay đốn hạ giữa chừng!) chỉ có vua chúa và...cây cối được "hưởng ân huệ" đó! Vì vậy mới có loại sinh vật luôn phải "vật lộn" với cuộc sống đầy biến động, phải di động, lang thang thường xuyên để kiếm ăn trong tình trạng "khôn sống mống chết". 
Rõ ràng, đối với động vật, để có khả năng sinh tồn trong điều kiện như thế, chỉ có cảm giác trực-xúc giác đơn thuần thôi là không đủ. Vậy thì phải tăng cường cảm giác trực giác! Nhưng tăng cường bằng cách nào, như thế nào? Vì không thể tùy tiện "vượt ra ngoài khuôn khổ" sự vốn dĩ của Tự Nhiên nói chung hay sự mặc định của thiên nhiên nói riêng, cũng như phải tuân thủ những nguyên lý - qui luật về tồn tại - vận động, nên việc tăng cường cảm giác sinh vật chỉ có thể bằng cách "mở rộng và chuyên sâu" cảm giác trực - xúc giác.

Giác ở thực thể vô sinh thực chất là tiếp thu tín hiệu đến từ môi trường (từ đó mà thực thể vô sinh tự phát theo qui luật, chuyển biến nội tại sang trạng thái cân bằng động mới một cách tương phản (phản ứng lại môi trường), "nhằm" duy trì sự tồn tại của nó trong tình hình mới một khi nó vẫn còn (được coi) là nó!). Cảm giác trực giác ở sinh vật cũng tương tự như vậy, nhưng có điều hơn là "biết lựa chọn", chủ động chuyển biến một cách tương hợp (với môi trường) theo hướng có lợi cho sự sống. Vậy, tăng cường khả năng cảm giác trực giác cũng chính là tăng cường khả năng "nắm bắt" tín hiệu và xử lý tín hiệu đến từ môi trường. Xử lý tín hiệu trước hết là phân biệt được các tín hiệu khác nhau, cũng có nghĩa là phân loại tín hiệu. 
Chúng ta nhắc lại, mục đích của tăng cường cảm giác trước hết là đảm bảo khả năng sống còn và duy trì được sự sống còn ấy. Đối với động vật, sống trong điều kiện mà cuộc đấu tranh sinh tồn đã "phơi bày" rõ rệt về mức độ căng thẳng, gay gắt, nhiều khi lâm vào tình trạng quyết liệt "một mất một còn", đòi hỏi phải kích thích cường độ và nhịp điệu hoạt động cơ thể lên cao trào, sao cho nhanh hơn, mạnh hơn, bền hơn, uyển chuyển hơn, chính xác hơn, khéo léo hơn,..., nghĩa là (và đúng hơn là) sao cho đạt hiệu quả tối ưu trong công cuộc di cư, vận động tìm kiếm miếng ăn cũng như bảo toàn tính mạng trước "kẻ thù", thì để phục vụ cho yêu cầu ấy, cần thiết phải "nắm bắt" những loại tín hiệu nào để gọi là "đủ dùng" trong chừng mực "cho phép" của thiên nhiên? Trả lời ngay, khỏi cần "xoắn"(!), đó là ánh sáng (thuộc sóng điện từ lan truyền trong Vũ Trụ), âm thanh (thuộc sóng dọc lan truyền trong khí quyển), mùi (thuộc khuếch tán phân tử), vị (sự khác biệt "tự nhiên" về thành phần hóa học giữa các chất), áp lực-xung lực (thuộc tác động cơ học), nhiệt độ (thuộc dao động hỗn loạn cấp phân tử-nhiễu xạ). Và thiên nhiên, thông qua quá trình tiến hóa-thích nghi, đã "ban cho" động vật không những cảm giác được đủ các loại tín hiệu ấy (với những mức độ tinh nhậy khác nhau tùy thuộc vào yêu cầu cụ thể đối với đời sống của từng giống loài), mà còn trên cơ sở cảm giác trực-xúc giác, làm hình thành nên ở chúng những cơ quan "chuyên trách" cảm thụ từng loại tín hiệu ấy và thể hiện ra một cách đặc thù, đó là, thứ nhất, hệ "đầu mối" thần kinh xúc giác phân bố hầu khắp cơ thể động vật nhằm cảm nhận lực-áp lực tác động cơ học và cảm nhận nhiệt độ (xét cho cùng thì cũng là tác động cơ học!), thứ hai, "mắt" nhằm cảm nhận ánh sáng để "nhìn", thứ ba, "tai" nhằm cảm nhận âm thanh để "nghe", thứ tư, "mũi" (bên cạnh chức năng "thở", còn phải) nhằm cảm nhận mùi để "ngửi", thứ năm, "miệng" (bên cạnh chức năng "ăn", còn phải) nhằm cảm nhận vị để "nếm". (He, he... he! Động vật có xương sống, trong đó có "thằng người", trên cơ thể có năm giác quan và chỉ năm giác quan là vì thế! 
Thế sao người đời vẫn cho rằng còn có giác quan thứ sáu nữa? Ngộ nhận thôi, chứ...làm "đéo" gì có! (Văng tục kiểu đó thì sao mà thành trí thức, triết gia được, hả... chúng ta? "Đéo" thèm!!!). Năm "quan" là vừa đủ rồi, thêm "quan" nữa để "nuôi báo cô" đứa "ăn không ngồi rồi", lại còn nghĩ bậy làm bạ cho "rối tung" cơ thể lên, gây "náo loạn" thiên nhiên ấy à? Nhìn vào xã hội loài người thì biết, chỉ có con người là "ngu" thôi, chứ động vật nói chung và thiên nhiên đâu có "ngu"! Nói đúng ra, không có giác quan thứ sáu nhưng có thể có (vì lúc có lúc không!) cảm giác thứ sáu (còn gọi là "linh cảm") và nó "trú ngụ" trong "miền" còn bị lớp màn huyền bí che phủ của cảm giác gián giác. Chúng ta tràn trề hy vọng rằng rồi đây, sự huyền bí của hiện tượng linh cảm, cũng như của những hiện tượng dị thường đại loại như bịt mắt mà vẫn nhìn thấy cảnh vật, sẽ được khoa học phanh phui đến tận cùng chân tướng của chúng, mà trước hết, có thể giải thích sơ bộ (định tính) được trên cơ sở thừa nhận sự tồn tại của cảm giác gián giác và nguồn gốc xuất phát duy nhất của năm loại cảm giác trực giác là cảm giác trực-xúc giác).
Nói tóm lại, để phục vụ cho hoạt động sống, sinh vật phải có cảm giác trực-xúc giác, và đối với động vật hoang dã, nhất là đối với con người, phải có năm giác quan như trên mới được gọi là cần và đủ để cảm giác vị trí tương đối trong không gian và hoạt động sống trong thời gian! Trong năm loại cảm giác ấy, thì cảm giác xúc giác là cảm giác nền tảng có tính nguồn gốc đối với những loại cảm giác còn lại.
                                 ***

Để động vật có được hệ thống cảm giác trực giác thống nhất với năm giác quan hoạt động tương đối độc lập trong mối quan hệ hỗ trợ lẫn nhau như thế, thì đương nhiên bằng quá trình tiến hóa-thích nghi, chúng cũng phải có hệ thống thần kinh (gọi là) bậc cao để "đảm đương và hoàn thành nhiệm vụ", với cơ quan trung ương là một bộ não ít nhiều phải biết hồi ức (để phân định, lọc lựa, đo lường, đánh giá tín hiệu nhằm định hướng phản ứng, chọn cách hành động, "ra lệnh" thực thi), nghĩa là một bộ não ít nhiều biết tư duy trừu tượng. Cần nói thêm cho rõ, năm giác quan của động vật chỉ đóng vai trò là năm cơ quan có cấu tạo sinh học đặc thù để (coi như) có khả năng chuyên giác (tiếp nhận, xử lý) một trong năm loại (tập hợp) tín hiệu kể trên rồi truyền ("ám hiệu", "tin tức") về cho cơ quan trung ương (tức bộ não) cảm nhận, chứ bản thân chúng không thể cảm được.
Dù là một bộ não chỉ mới biết trừu tượng ở mức độ sơ khai nhất thì cảm giác của nó đã khác về chất so với cảm giác trực giác của cây cối rồi, vì tính trực giác trong cảm giác của nó không còn "thuần túy" (nên cũng "mù mịt"!) nữa, mà trong đó đã có tính gián giác, hay có thể nói: có "mầm mống" của gián giác, và vì thế, cảm giác của bộ não đó dù vẫn là cảm giác trực giác, nhưng đã được "nâng cấp" thành tinh tế hơn, "đậm nét" hơn. Như vậy, ở động vật, nhờ có được năm giác quan và đồng thời với sự hiện diện của tính gián giác (dù là ở mức độ còn manh mún, nhạt nhòa) trong cảm giác trực giác mà sự cảm nhận của nó về hiện thực xung quanh nó đã trở nên sâu rộng, tỏ tường, rạch ròi đến mức độ chỉ thua cảm giác trực giác của con người... có nhận thức (vì con người chưa biết nhận thức chỉ là động vật đội lốt người, và động vật biết nhận thức là con người trong thân xác động vật hoang dã!).

Rốt cuộc, khi chưa có khái niệm, tức là khi chưa biết nói, cũng có nghĩa là khi chưa biết nhận thức, chưa qua nhận thức, con người trực giác cũng tương tự như động vật trực giác, hay nói đúng hơn "một chút", không khá hơn con tinh tinh trực giác là mấy. Nhưng khi đã biết nhận thức và đã qua nhận thức thì trực giác ở con người đã "thấm đẫm" gián giác, là thứ cảm giác trực giác đã được "chắp thêm" đôi cánh nhận thức, và vì thế mà vượt trội hơn hẳn trực giác ở loài động vật về các mặt tổng quát hóa, tinh tế hóa, thấu tỏ hóa...Một đứa bé chưa nghe ai nói và cũng chưa đến tuổi biết nói, khi nhìn thấy một đóa hoa, chỉ có thể cảm được "có cái gì đó không biết là cái gì". Nhưng nếu không phải đứa bé mà là một chàng trai thấy đóa hoa đó, thì ngay lập tức, như một bản năng, chàng ta "biết tỏng" đó là đóa hoa, và hơn nữa, nếu thấy đóa hoa đó đẹp và lại là người có tâm hồn mơ mộng, thì có thể chàng ta còn mở lời thảng thốt: "Ôi, tuyệt trần! Tươi thắm như một nàng trinh nữ hồn nhiên đang độ xuân thì!"...

Vào thời Ấn Độ cổ đại, các nhà duy vật-thực dụng Charvaka, vì chưa biết đến điều đó (mà làm sao biết được khi đến hôm nay chúng ta mới là người đầu tiên nêu ra !?), nghĩa là cứ tưởng rằng trực giác "của họ" vẫn là trực giác "trần trụi" khách quan chưa có sự "xen vào" của ý thức, cho nên họ mới quan niệm rằng những gì họ trực giác được (một cách chính xác rồi!) thì đều là sự thực khách quan, và chân lý là kết quả được "rút ra" trực tiếp từ chúng. Họ đâu biết rằng trực giác của họ không còn là "thứ" trực giác "thuần túy" của cây cối hay trực giác "câm nín" của động vật nữa, cũng đâu biết rằng những sự thực "không thể chối cãi" mà họ trực giác-chứng thực được, đều có sự "mách bảo và xúi dục ngầm" của nhận thức và suy lý qua "con đường ngầm" cảm giác gián giác (từ kinh nghiệm đã tích lũy, từ tri thức đã hun đúc, và...chưa chắc đã đúng hay hoàn toàn đúng!). 
Theo chúng ta quan niệm, có thể khẳng định rằng, khi người Charvaka trực giác, thì...đúng là họ trực giác, nhưng là "thứ" trực giác đã qua nhận thức, trên nền tảng khái niệm-suy lý, cho nên khi họ nói "đúc kết" trực tiếp chân lý từ đó, thì chân lý đó thực chất vẫn là kết quả của suy lý và vì thế, chưa chắc đã là chân lý đích thực, chỉ có điều họ đã vô tình (giống như Kỳ Na Giáo vô tình) không hề hay biết mà thôi!

Ngày nay, nhờ có trang thiết bị cực kỳ hiện đại do chính bản thân mình sáng tạo ra hỗ trợ, loài người đã tự nâng năng lực trực giác của mình lên tầm cực kỳ sâu rộng, có lẽ đến tít "chân trời Vũ Trụ" (chứ không phải "biên Vũ Trụ") ở tầng vĩ mô và có lẽ cũng đến tận "cực tiểu Vũ Trụ" (hạt Higgis, chứ chưa phải "điểm mốc cuối cùng") ở tầng vi mô. Dù có thế thì bản chất trực giác đã qua nhận thức và nhận thức bằng khái niệm và thông qua khái niệm-suy lý của con người vẫn không hề thay đổi. 
Xét về phương diện tìm hiểu thực tại khách quan thì nhận thức bắt đầu từ trực giác, đồng thời nhờ nhận thức mà trực giác chuyển hóa thành (tạm gọi là) "trực -gián giác" (hay "trực giác đã qua nhận thức"), làm cho trình độ cảm giác dần được tăng cường cả bề rộng lẫn bề sâu. Như vậy, có thể nói, trực giác chưa qua nhận thức là trực giác mù quáng, nhưng nó sẽ được khai sáng khi nhận thức xuất hiện và "mở mang" nó, để rồi sự khai sáng ấy kích thích trở lại nhận thức một cách tương hợp làm hình thành nên những tri thức mới... 
Và cứ thế theo thời gian, với trực giác-nhận thức ngày càng tỏ tường-uyên áo, sẽ đến một thời khắc tâm trí loài người bừng lên sáng láng, từ đó loài người không những "đại ngộ" được đến tận "chân tơ kẽ tóc" bản chất chính xác của Tự Nhiên Tồn Tại, mà còn mô tả một cách toàn diện và hoàn toàn rõ ràng chân dung đích thực của Nó bằng những tập hợp các dấu hiệu thông tin (những tín hiệu, ám hiệu, ký hiệu...), theo cách thức qui ước xác định có tính mặc định, mà bản thân loài người, qua quá trình học hỏi và bắt chước tự nhiên khách quan, đã chủ quan sáng tạo ra được trong khả năng cảm giác trực-gián giác của mình.

Vậy thì rõ ràng, cái chân dung về Tự Nhiên Tồn Tại ấy không hề là "dung nhan đích thực", tuyệt đối khách quan của Tự Nhiên Tồn Tại, mà may lắm, chỉ có thể là "dung nhan mô phỏng đích đáng", tương đối khách quan đối với riêng loài người - "kẻ" sau khi đã cảm giác đến mức "đại ngộ" Nó và đồng thời phù hợp với sự "đại ngộ" đó, cũng sáng tạo ra chân dung Nó theo cách "nhào nặn" chủ quan, riêng có của tư duy trừu tượng con người, cũng như theo khả năng có thể của tư duy trừu tượng con người mà thiên nhiên đã ban cho vừa phóng khoáng vừa hạn định.

Chúng ta biết qui kết nêu trên khó mà được các "đại gia thông thái" thừa nhận vì nó...chưa qua thực chứng khoa học nào! Nhưng chúng ta cứ đặt trọn niềm tin vào đó bởi nghĩ rằng, thực chứng khoa học chẳng là... cái đinh gì (!) khi lịch sử nhận thức của loài người đã như một thực chứng hùng hồn rồi!. Vả lại, thực chứng chắc gì đã đủ độ tin cậy khi nó bị "tiêm nhiễm" những hiểu biết (có thể đã lỗi thời, lạc hậu) của quá khứ và vẫn phải chịu sự đánh giá của cảm giác chủ quan? Một cảm giác (hay nhận thức) được cho là "rút ra" trực tiếp từ thực nghiệm-thí nghiệm, thì thực chất vẫn là kết quả thông qua suy lý và do đó vẫn "có quyền" phạm sai lầm. Lịch sử vật lý (cả vật lý cổ điển lẫn vật lý hiện đại) còn lưu lại vô số kể những kết luận sai lầm suy ra từ thực nghiệm cũng như nhiều trường hợp ngộ nhận "chết người" bởi những kết luận ấy, và đã trở thành những bài học "đắt giá" về sự nhận thức! Câu nói: "Thực tiễn là tiêu chuẩn xác nhận chân lý" - của C. Mác, là câu nói đúng ở tầm...tương đối thôi (!), và cũng chỉ đúng ở một vài góc độ cảm giác nhất định mà thôi, vì còn tùy thuộc vào trình độ nhận thức về cả thực tiễn lẫn chân lý nên không có ý nghĩa xác minh phổ biến. Ai hiểu câu nói đó một cách máy móc, người đó sẽ phạm sai lầm trong nhận định. Tại sao? Trả lời cho "kín kẽ mọi nhẽ" thì khó chứ trả lời "lấy được" thì không đến nỗi khó lắm! 
Chắc như bắp: loài người thoát thai từ động vật. Nếu qui ước loài người là loài động vật biết nhận thức, cũng có nghĩa là biết nói, và chỉ thế thôi, thì tiền thân trực tiếp của loài người là một loài nào đó (người vượn?) đóng vai trò trung gian giữa động vật và người. Như vậy, có thể hình dung rằng, khả năng trừu tượng trong cảm giác của loài trung gian đã ở mức cao hơn tương đối rõ rệt so với của động vật, nghĩa là sự tồn tại của thứ gọi là "ý niệm câm nín" ở loài này đã trở thành hiển nhiên, và rất có thể, trong hiện thực, điều đó thể hiện ra dưới dạng như một tập hợp các động tác cơ thể cùng với sự "hú hét" đã được định hình hóa và được sử dụng một cách quen thuộc có tính thường xuyên mà chúng ta tạm gọi là "ngôn ngữ hình thể". Nói rõ hơn, "ngôn ngữ hình thể" là bao gồm những động tác, cử chỉ, sự tạo dáng của các bộ phận cơ thể (đầu, tứ chi, thân...) được định hình tự nhiên và được lưu nhớ có tính chủ đích trong đời sống của loài trung gian như là những "biểu tượng ý niệm", và được loài trung gian ứng dụng (có khi kèm theo cả "hú hét") nhằm truyền đạt "ý niệm câm nín" cho nhau. 
Thực chất của quá trình tiến hóa thích nghi là đảm bảo và tăng cường khả năng sinh tồn ở mọi giống loài sinh vật bằng cách cải biến cấu tạo thực thể "ngoại sinh học" cũng như phương thức vận động "nội sinh học" trên cơ sở kế thừa những định dạng, định thức sinh học đặc thù đã được tạo lập (trước đó) ở mỗi giống loài và tùy thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh, tình hình chuyển hóa môi trường sinh thái có tính đặc thù mà chúng sống trong đó. Điều đó giải thích vì sao loài hổ báo chỉ có thể tiến hóa- thích nghi theo hướng hoàn thiện kỹ năng, kỹ xảo săn bắt mồi bằng cách có được cơ bắp dẻo dai và đủ mạnh để chạy nhanh, có móng vuốt sắc để vồ chụp được con mồi, mà không thể tiến hóa-thích nghi theo hướng được trang bị tư duy trừu tượng. Đó cũng chính là nguyên nhân sâu xa làm xuất hiện loài tiền thân của loài người, không có sức mạnh, tốc độ di chuyển, sự sắc bén vượt trội của gân cốt, nanh vuốt nhưng bù vào, lại có một cảm giác vượt trội về khả năng gián giác để rồi từ đó tiến hóa thành loài biết nhận thức-loài người thực sự. 
Nếu cho rằng thiên nhiên, trong khả năng hạn định (tất nhiên) của nó, "ban cho" các giống loài động vật nói chung năm giác quan và bộ não để cho chúng có đủ năng lực cảm giác phục vụ cho hoạt động sinh tồn của chúng, thì việc thiên nhiên tạo điều kiện tăng cường tối đa năng lực gián giác trong cảm giác của loài người cũng không ngoài "mục đích" ấy. Nghĩa là một cách hoàn toàn tự nhiên, thiên nhiên không cần thiết và cũng không thể trực tiếp "trang bị" đến vô hạn độ khả năng cảm giác cho động vật cũng như cho con người, mà chỉ cần và cũng chỉ có thể thỏa mãn (với một mức độ hạn định) sự đòi hỏi tăng cường năng lực cảm giác (cũng bị khống chế đến một mức độ hạn định) của chúng, cốt sao cho đủ đáp ứng và đồng thời được "phân phối" có tính ưu tiên một cách phù hợp cho mỗi giác quan trong số năm giác quan nhằm đảm bảo hoạt động sinh tồn ở mỗi giống loài. Chính vì thế mà, xét riêng ở loài người, thiên nhiên chỉ có thể trực tiếp "giúp" con người có được cảm giác tương đối đặc thù (theo "tập quán" sống, phù hợp với lối sống của nó) và hạn định về hiện thực khách quan trong thiên nhiên, của thiên nhiên (chứ không phải trong toàn Vũ Trụ, của cả Vũ Trụ!!!). 
Thực ra, theo chúng ta quan niệm thì chỉ có thực tại tuyệt đối khách quan chứ không thể có hiện thực tuyệt đối khách quan, bởi vì sự "hiện ra" của thực tại khách quan bao giờ cũng phiến diện, méo mó, nghĩa là khi nói đến (khách thể) hiện thực thì cũng phải nói đến (chủ thể) giác hay cảm giác, và do bị "lũng đoạn" bởi sự hạn định tự nhiên cũng như tính đặc thù vốn có của giác hay cảm giác mà hiện thực đó đã "đượm màu chủ quan" mất rồi! Cho nên thuật ngữ "hiện thực khách quan" chỉ mang ý nghĩa tương đối thôi, và hiểu rằng nói đến hiện thực khách quan thì phải là hiện thực khách quan của chủ thể giác hay cảm giác nào đó và đồng thời trong một mức độ qui ước nhất định, chứ không thể "nói khơi khơi"!.

Tuy nhiên, dù không trực tiếp thì vì đã mở ra hướng đường cho loài người đến với tư duy sáng tạo và nhận thức để từ đó "tự thân" không ngừng học hỏi thiên nhiên, không ngừng sáng tạo ra các phương tiện hỗ trợ ngày một tinh nhạy nhằm nâng cao năng lực và trình độ cảm giác của mình lên tầm cảm giác hiện thực khách quan ngày một sâu rộng trong Vũ Trụ, của Vũ Trụ, cho nên cũng có thể nói thiên nhiên đã gián tiếp "tưởng thưởng" cho loài người một cảm giác thực sự siêu việt, để trên cơ sở đó không những có khả năng nhận thức triệt để thiên nhiên mà còn có khả năng nhận thức triệt để toàn bộ Tự Nhiên Tồn Tại.

Vậy thì rốt cuộc nên tin hay không tin vào sự kiểm nghiệm chân lý của thực tiễn? Nhưng nếu không tin vào thực tiễn, nhờ thực chứng để xác minh sự thật thì tin vào cái gì và nhờ cái gì đây khi suy lý cũng không đảm bảo chắc chắn được? Vì "rắc rối" ở chỗ là không có cảm giác thì không có nhận thức, cũng như nhận thức phải trên cơ sở cảm giác, và muốn nhận thức đúng trước hết phải có cảm giác đúng, nhưng không bao giờ có cảm giác tuyệt đối đúng. Muốn có cảm giác tuyệt đối đúng, không những lại phải cần đến tri thức (sự hiểu biết đã được quá khứ tích lũy) đúng, mà còn phải loại bỏ được sự lũng đoạn của tính chủ quan con người. Mà cảm giác và nhận thức ở người là những thứ đã bị khống chế bởi khả năng hạn định sinh học! Cho nên có lẽ phải vừa tin vừa không tin vào sự "mách bảo" của thực tiễn - thực chứng, nghĩa là tin trong cảnh giác, đồng thời "trước mắt" phải nhờ đến cả hai, thực chứng lẫn suy lý, để truy xét, tầm soát cái gọi là chân lý một cách lặp đi lặp lại cho đến khi đạt được sự đồng thuận cao nhất, và "sau đó" tiếp tục tin trên tinh thần sẵn sàng...không tin nữa và nỗ lực... nhận thức lại. Chứ còn có cách nào hay hơn nữa đâu!?... Ái chà chà!...
Có lẽ, để tiếp cận chân lý khách quan, dùng logic của triết học duy vật biện chứng vẫn chưa đủ!
                                 ***
Thôi, huyên thuyên nhiều quá rồi, chúng ta làm một "tường thuật" đơn giản để... giải lao và coi như cũng đưa ra được... thực chứng... cho vui vậy!
Có ba thằng "nhà báo" (ở nhà báo vợ, tức thất nghiệp, vô công rồi nghề) "hơi bị" thông thái, tên lần lượt là A, B, C, ngồi khề khà "trà dư tửu hậu" với nhau. Cả ba thằng đều có máu "tám", nhất là khi đã sương sương thì... thôi rồi! Nhưng cà kê dê ngỗng kiểu gì thì kiểu, bao giờ đề tài cuối cùng cũng là về đàn bà và cứ thế rề rà cho đến khi hết rượu mới "tan hàng". Cuộc nhậu lần này hơi khác, "tám" đủ thứ chuyện "thời sự" trên trời dưới biển xong thì hình như đã chán chuyện "các má", ba thằng "hết đường binh", xoay sang "tào lao" chuyện thuộc hàng "rỗi hơi" bậc nhất thế giới, đó là "Hiện thực là gì?". Thằng A "nổ" tiếng khai mào:
- Đố chúng mày, "thực hiện" có phải "hiện thực" không?
Thằng B "đòm" luôn:
- Ơ, thằng này điên à!? Thực hiện không là hiện thực thì là cái giống gì?
- Trong thực tế, "hiện thực xã hội chủ nghĩa" và "thực hiện xã hội chủ nghĩa" đâu có thể dùng thay thế nhau được. Vậy chúng phải khác nhau chứ? - Thằng A "nổ" thêm.
- Vẫn thay thế được, bởi có cái gì ngăn cấm, không cho phép thay thế đâu nào? - Thằng B "đòm" lại.
Thằng A đâu chịu thua, tiếp tục nổ:
- Mày đéo biết gì! Nói cứ ngang như cua ấy!... Thay vì nói "thực hiện công việc cho xong" lại nói "hiện thực công việc cho xong", nghe không "điếc con ráy", không nghịch lỗ tai à?
- Kể ra cũng không bùi tai thật! Nhưng đó là do cách nói đã thành quen hay chưa quen mà thôi - Thằng B đòm chống chế.
Đến lúc này thằng C mới "lảy cò" tham gia cuộc "đấu khẩu":
- Moi móc to chuyện ra thì có mà cãi đến tám kiếp chưa chắc đã xong! Theo tao, có lẽ chỉ cần hiểu đơn giản thế này: nếu không bị ràng buộc thì hai từ ấy đồng nghĩa, nhưng quá trình sử dụng đã làm cho "hiện thực" trở thành danh từ và "thực hiện" trở thành động từ. Do đó, "thực hiện" là làm cho cái gì đó chưa "hiện thực" trở thành "hiện thực", còn "hiện thực" là cái gì đó chưa được "thực hiện" đã được "thực hiện" xong... Thôi nào, cụng ly!...
Một tiếng "cờ... ốp" và ba tiếng "ực" vang lên nghe thật... "phồn thực"!
Chúng nó tợp xong ly rượu của mình thì đặt ly xuống (chứ không lẽ quăng đi?). Thằng C tiếp tục rót rượu cho cả bọn, miệng cười cười ý nhị. Thằng B cúi đầu gật gù ra vẻ thấm thía. Còn thằng A thì ngồi ưỡn lưng, mím mồm, hết nhòm thằng C cười cười đến nhòm thằng B gật gù. Nhìn mồm nó, biết chắc có viên đạn đã "lên nòng" ở họng nó. Đúng vậy! Nó lại nổ thách thức:
- Ê C, mày giải thích thế, dù chưa biết đúng sai cỡ nào, thì cũng phải nói rõ "hiện thực" cụ thể là cái của nợ gì chứ?!
- Đéo ai mà không biết! Thằng nhiều chuyện dễ nể (đã "tám" mà còn chê nhiều chuyện mới lạ!?)!... Thì "hiện thực" là cái mày đang thấy xung quanh mày ấy - Thằng B "nhân danh công lý" đòm trả chát chúa.
- Là toàn bộ cảnh vật - hiện tượng đang hiển hiện quanh chúng ta... Nói thế có lẽ chuẩn hơn, B ơi! - Thằng C lảy cò theo ngay, "củng cố" cho thằng B.
Hình như chỉ đợi có thế, thằng A cười ré lên, nổ luôn một tràng "to tát" như tiếng trung liên RPD:
- Hé, hé... hé... hé!... Hai "lính" chẳng biết gì ráo! "Hiện" thì đồng ý là "hiện" rồi, nhưng "thực" thì làm gì có "thực"? Phật bảo tất cả những gì hiện ra trước "người trần mắt thịt" đều là giả hợp, nghĩa là "hiện" nhưng không phải "thực". Hơn nữa, bản thân cái sự "đang hiện" cũng có vấn đề. Nói cái gì đó hiện ra thì chỉ có thể là hiện ra trong thời gian chứ không thể ngoài thời gian được. Mà thời gian thì chúng mày cũng biết, là một "xâu chuỗi" đâu phải vật chất, lại còn vô thủy vô chung và cực kỳ phù phiếm, được người ta phân ra một cách cực kỳ mơ hồ thành ba khoảng kế tiếp nhau là quá khứ, hiện tại, tương lai, hay (thời gian) "đã", (thời gian) "đang" và (thời gian) "sẽ", nghĩa là "hiện tại"="đang". Sự vô thủy vô chung của thời gian làm cho không thể xác định được "đã" và "sẽ", nhưng sự phân khoảng lại làm cho phải xác định được "đang" vì nó bị khóa hai đầu bởi "đã" và "sẽ". Thế thì "đang" là bao nhiêu? Bao nhiêu chưa biết nhưng biết chắc "hôm qua" không phải "đang", thậm chí cách đây một "tích tắc" cũng không phải "đang" mà "đã". Rốt cuộc, có lẽ "đang" chỉ có độ dài thời gian chính xác bằng một thời điểm. Vậy thời điểm là bao nhiêu thời gian? Trả lời được "bao nhiêu" một cách cụ thể bằng con số thì thời điểm không còn là thời điểm nữa, nghĩa là phải cho rằng thời điểm hay "đang" là không xác định được, cực tiểu vô hạn, "tiến tới" O nhưng không bao giờ bằng O. Ha,ha... ha!... Dị thường quá, đúng không? Người đời cứ "xoen xoét" nào là "hiện đại", "hiện tại", "hiện nay", "hiện thực", "hiện hữu"... thực ra chỉ là theo thói quen cảm giác chủ quan vớ vẩn và qui ước khiên cưỡng tùy tiện, chứ khoảng thời gian được gọi là "đang" ấy chỉ có mỗi một thời điểm vô cùng ngắn và bất định đúng là "đang" thôi, còn tất tật đều là "đã" hết, nên cũng có thể nói, thực tế là không có "đang". Mà "đang" đã không có thì làm thế nào cho có "hiện thực" được!? Kết lại, nói "hiện thực" là sai, nói "hiện giả" mới đúng! Hé, hé... hé... hé!... Cạn ly đê!
Thằng B như bị trúng đạn, cầm ly lên mà không uống, mắt cứ trờn trợn ngó thằng A. Có lẽ nó sững sờ vì không ngờ thằng A đột xuất nổ "dòn dã" quá. Thằng C thấy thế tội nghiệp, lảy cò phá đám:
- Ồi dào ơi, uống vui đi B, có ghê gớm quái gì đâu! Nó dựa hơi câu "Không ai tắm hai lần trên một dòng sông" của Hêraclit để nổ bạt mạng ấy mà... Tao hỏi mày này A: "Mày có bao giờ "đang" đói không hay toàn "đã" đói và "sẽ" đói? Nếu mày nói không thì vì cũng phải nói không với "đang" không đói, nghĩa là chỉ ừ với "đã" không đói và "sẽ" không đói, nên mày đừng bao giờ ăn nữa, chỉ vô ích! Nếu mày nói có thì vì "đang đói" là "hiện giả" như mày nói, nghĩa là thực ra mày cũng "đang" không đói, vậy cũng không cần ăn làm gì! Dù mày có "đang" nhậu với chúng tao hay không, không cần biết, nhưng đừng cầm ly lên mà nốc nữa! Mày bỏ ra một đống tiền "mua" vợ về làm gì khi mày chẳng bao giờ được "đang" sướng với vợ mày mà toàn thằng khác "đang" sướng với vợ thằng khác?". Đấy, mày trả lời tao đi!...
Khoái chí ra mặt, thằng B làm bộ xun xoe bắt tay bắt chân thằng C, rồi quay sang thằng A đòm "bồi", khiêu khích thêm:
- Đấy, mày trả lời nó đi!...
Có vẻ đã hết đạn nên thằng A ngồi im khe, so vai, rụt cổ, hai tay chống đùi, còn mắt thì lom lom vào đĩa thịt gà luộc trên bàn cứ như cố moi móc cho ra những viên đạn "nấp" ở đó vậy. Mặt nó nổi đanh, thấy thương hơn ghét!... Bạn nhậu thân thiết với nhau, "tám" cho vui đời, ai dè hóa ra chọc quê cho nhau buồn, lỗi không? Thằng B nghĩ vậy, đòm phát ân huệ:
- Mình chuyển đề tài đi anh em!... Tìm chuyện nào nhè nhẹ thôi chứ chuyện này nặng như đá đeo, oải quá!... A ơi,... mà thôi, C ơi, đến lượt mày đấy, "đề pa" đi!...
- Hượm đã nào!... Chuyện này không hay thì còn chuyện nào hay? - Hóa ra thằng A chưa hết đạn (hay đã tìm được đạn trong đĩa thịt?). Nó trỗi dậy nổ dù không còn "hung hăng" như nãy - ... Thằng C hỏi đúng là hiểm thật và tao đang... bí thật. Nhưng đâu phải vì tao sai... Mày có thấy tao sai chỗ nào không hả B? Nếu thấy thì chỉ ra cho tao biết đi! Nếu không, chúng mình phải tiếp tục câu chuyện cho ra ngô ra khoai chứ cứ để ấm ức, lát hồi hết nhậu, cả lũ về đéo ngủ được, vợ nó lại tưởng...
- Đèo mẹ! Mày và cả thằng C, tao nhắc, hôm nay đéo nói chuyện "các má" đâu nhé! - Thằng B đòm ngắt tiếng nổ đì đẹt của thằng A.
Đâu có hiền, thằng C lảy cò lia lại liền:
- Đéo đéo gì mà cứ đéo hoài, chuyện nào cũng chêm đéo vào được, chuyện gái, đéo, chuyện lừa đảo cướp giật, đéo, ừ, thôi thì ba cái chuyện đó... đéo đã đành, chuyện quốc gia đại sự cũng đéo, bàn luận văn thơ cũng đéo, thông báo tin tức khám phá khoa học cũng đéo, giao lưu triết học cũng đéo, đéo lung tung, đéo tuốt tuồn tuột, đéo vung xích chó, đéo oang oang mà đéo biết ngượng mồm... Thôi, đéo nhậu với chúng mày nữa, tao về!...
Thằng C rục rịch chưa kịp đứng dậy đã bị thằng A tóm áo ghì xuống, nổ cuống quít:
- Thôi mà!... Đừng nóng thế! Ở lại nhậu với bạn bè cho vui đi mà!... Tao năn nỉ đấy!...
- Ừ, ở lại nhậu vui C ơi! Mày là cây chuyện mà bỏ về thì chúng tao chán chết... Ở lại đi! Chúng tao đéo, xin lỗi, không văng tục nữa đâu, thề đấy! - Thằng B đòm tăng cường thêm.
Thằng C cương chưa kịp cứng đã xìu liền. Nghe tiếng lảy cò của nó là biết nó thực lòng còn muốn nhậu tiếp:
- Nhậu đang ngon trớn mà chúng mày... Được rồi, tao ở lại!... Nói thật, tục tĩu hay không tục tĩu chưa cần biết, nhưng tao nghe chói tai lắm... Nếu còn nghe một tiếng "đéo" nữa, tao sẽ về đấy và xin chúng mày đừng giận tao làm gì...
Cuộc nhậu lại tiếp tục nhưng xuống trầm. Xoay thêm hai tuần rượu rồi mà khí thế không bốc lên được. Cả ba thằng cứ như mất hồn, toàn bắn chim, cũng "nổ" cũng "đòm" cũng "lảy cò" mà sao nghe rời rạc, vu vơ, lãng nhách...
Mãi đến khi bước vào tuần rượu thứ tư, không khí cuộc nhậu mới có phần thay đổi theo hướng bớt vô duyên, bớt nhạt nhòa, không còn rôm rả như trước nhưng cũng không đến nỗi quá trầm lắng, mặt khác, thay cho "nổ", "đòm", "lảy cò" là những đối đáp nghe có tình có lý hơn, "hợp quần" hơn, và ba "thằng bợm rượu" vụt hóa thành ba "nhà hiền tửu". Có lẽ vì thế mà cuộc chuyện trò mới trở nên "chính luận" hơn, hấp dẫn hơn chăng?
Cuộc đổi hướng đó bắt đầu từ thằng B:
- C này, ban nãy bạn hỏi A, nếu A không trả lời được thì bây giờ bạn trả lời được không?
- Được chứ B, dù có thể không gãy gọn lắm... Mà bạn đang muốn nói gì hả A? Bạn nói trước đi.
Thằng A ậm ừ rồi lên tiếng:
- Trước khi C luận giải, tớ muốn hai cậu lưu ý dùm là, tớ chỉ cho rằng "hiện tại" cũng có nghĩa là "đang hiện" nên mới nói "hiện tại"="đang". Mặt khác, tớ cũng cho rằng "hiện tại" hay "đang hiện" có thể là "hiện thực", nhưng "hiện thực" không phải là "hiện tại" hay "đang hiện". Dù xét ở góc độ khách quan nhất (hay có lẽ gọi đúng hơn là "góc độ hêraclit"), cả ba thứ "hiện" ấy đều chỉ là "đã hiện", thì vì một cách tương đối (theo cảm giác, theo qui ước) coi như vẫn tồn tại khoảng thời gian (và cả khoảng không gian) gọi là "đang hiện", nên rõ ràng là phải có hai loại "hiện thực", đó là "hiện thực trong quá khứ" và "hiện thực trong hiện tại", hay gọn hơn, "hiện thực đã" và "hiện thực đang"... Tớ chỉ lưu ý có vậy thôi. Mời C!
Thằng B vụt giơ tay kiểu "xin phát biểu", rồi nói:
- Cho mình có ý kiến một tý... Trong thực tế, cái gì đã hiện ra thì cái đó, vì có nguyên nhân tạo thành nên phải là thực, có thực, dù nó là cầu vồng, ảo ảnh trên sa mạc... , hay cả những thứ gọi là "hàng giả", "đồ giả"... Nếu thừa nhận như thế, cũng phải thừa nhận ngay cả những gì hiện ra trong giấc mơ của một người cũng phải là thực đối với người đó. Nghĩa là đến đây cần phải cho rằng ngoài hai loại "hiện thực" mà A nêu, còn có một loại "hiện thực" nữa gọi là "hiện thực ảo" ("hiện thực" trên mạng internet, trong phim, hay trận bóng đá được truyền hình trực tiếp chẳng hạn!). Như thế, về mặt thực tế và chỉ thực tế khách quan thôi, thì dù là hiện thực "đã", "đang" hay "ảo", đều không thể giả được, hoặc quá lắm, có thể chủ quan "gắn nhãn mác" là "giả" nhưng trước hết vẫn phải là thực cái đã, và do đó làm gì có "hiện giả" hả A? Hơn nữa... Hơn nữa... . Ủa, mình định nói gì nhỉ?... Quên béng rồi!
Thằng C nâng ly rượu đầy lên, hai thằng kia nâng lên theo. Lại "cờ... ốp" và "ực"! Xong, thằng C rít một hơi thuốc lá rõ dài, ngửa mặt lên trời phà ra một cuộn khói đặc quánh, rồi cúi nhìn xuống đất. Hình như nó đang lựa lời để mở đầu nội dung mà nó định nói. Tuy nhiên, thằng A đã lại lên tiếng:
- Vừa rồi B nói cũng có lý đấy. Nhưng tớ vẫn có cái cảm giác ngờ ngợ bất ổn thế nào ấy. Đúng là mọi thứ trong hiện thực, hợp thành hiện thực, từ vật thể đến hiện tượng đều phải có nguyên nhân tạo thành và thực sự được tạo thành nên xét theo cách nhìn này, không thể nói "hiện giả" mà phải nói "hiện thực". Hơn nữa, phải thừa nhận rằng, sự hiện ra, tồn tại và mất đi của vạn vật-hiện tượng nhất thiết phải tuân theo qui luật tự nhiên, do đó, bản thân chúng đều phải có tính duy nhất, nghĩa là tính "phải thế này chứ không thể thế khác" (dù chúng ta có tác động đến hay không, không cần biết!), hay còn gọi là "tính khách quan". Cho nên, khi nói đến hiện thực thì phải hiểu ngầm một cách đầy đủ đó là, như người ta vẫn thường nói, "hiện thực khách quan". Tuy nhiên, đây chính là điều gây cho tớ cái cảm giác ngờ ngợ bất ổn: nếu xét theo cách nhìn khác, không chú ý tới quá trình sinh-tồn-vong mang tính duy nhất của hiện thực, mà chỉ chú ý tới sự thể hiện của nó thôi, thì vì sự thể hiện ấy hình như không nhất quán, không trung thực, nên có vẻ như nó không khách quan hay chí ít, có thể nói tính khách quan vốn dĩ của nó đã bị "lu mờ" đi, không hoàn toàn thực sự nữa, và như thế, coi như hiện thực nhiều ít gì cũng đã bị giả hóa. Chẳng hạn, không cần lấy ví dụ đâu xa, hoạt cảnh chúng mình đang ngồi nhậu đây là một hiện thực. Chắc rằng hai cậu và cả tớ nữa đều thừa nhận hiện thực này là khách quan. Nó khách quan ở chỗ các sự kiện xảy ra trong nó có tính tự nhiên, tuyệt đối duy nhất, chỉ một lần chứ không lặp lại, và nói chung, mỗi chúng ta, người này thấy thì hai người kia cũng thấy về sự hiện hữu của các đồ vật cũng như sự diễn tiến của các hiện tượng trong cuộc nhậu. Thế nhưng ngẫm nghĩ kỹ hơn một chút sẽ thấy cuộc nhậu hiện ra trước mỗi chúng ta là không đồng nhất, nghĩa là có ba hiện thực không hoàn toàn giống nhau về cuộc nhậu. Nếu ngay bây giờ tớ và B cùng nhìn bàn nhậu thì đều cùng thấy cái bàn, bình rượu, đĩa thịt gà, ly, chén... và qua đó mà cho rằng bàn nhậu hiện ra trước tớ và B là như nhau. Nhưng không những nhìn mà tớ và B còn chụp ảnh nữa và đem so hai bức ảnh đó thì sẽ thấy đó là hai hiện thực không trùng nhau về cảnh vật- về vị trí, vóc dáng, màu sắc... của các sự vật hiện hữu trong đó. Như thế, có thể kết luận, sự thể hiện khách quan của một hiện thực chỉ ở mức tương đối, không hoàn hảo... Điều cuối cùng mà tớ băn khoăn nhất ở đây là làm sao đánh giá được trong số hai hiện thực về cùng một khoảng khắc của bàn nhậu ấy (hai bức ảnh), cái nào thể hiện đúng khách quan hơn cái nào?
- Khá lắm! -Thằng B búng tay cái "pách", thốt lên.
Cả ba thằng "không hẹn mà nên", cùng nâng ly cụng cái "cờ... ốp", uống cái "ực" và lần này còn thêm ba cái "khà" đầy hỉ xả. Những âm thanh ấy, lúc thường, chẳng có gì phải "ầm ĩ", nhưng trong bầu lắng đọng đầy bao dung của đêm muộn, nghe sao mà "tròn vành rõ tiếng" đáo để!
Rồi thằng B lại giơ tay xin phát biểu. Tưởng nó định tham luận gì ghê gớm lắm, té ra chỉ là một câu hỏi gọn lỏn:
- Bạn thấy thế nào, C?
- Vấn đề mà bạn và A vừa trình bày rất hấp dẫn. Trong đó có nhiều điều rất thú vị để mà đào sâu suy nghĩ. - Thằng C từ tốn nói - Thú thực ra, mình từ trước đến nay vẫn cứ đinh ninh "hiện thực" có gì đâu phức tạp, trái lại là đơn giản và đã rất rõ ràng, chẳng còn gì phải bận lòng suy nghĩ, tìm hiểu. Đến đây, sau khi nghe hai bạn biện giải mới thấy mình còn rất lơ mơ về bản chất của "hiện thực"... Kỳ lạ thật! Cuộc chuyện trò nãy giờ làm mình sực nhớ đến chuyện này. Số là cách nay hơn hai tuần, mình với thằng em trai nhậu bia ở quán gần nhà nó. Vừa chọn bàn xong, ngồi chờ nhân viên phục vụ tới thì nghe tiếng: "Tính tiền đi em ơi!" ở bàn bên cạnh. Mình nhìn sang thấy hai ông khách có vẻ đã "thấm đòn", một ông mắt lờ đờ ngồi rụt cổ nghe, một ông mắt long lanh ngồi chồm tới nói liên hồi. Chẳng biết ông ta nói gì nữa. Mãi khi họ trả tiền xong, đi qua bàn chúng mình để ra về, mình mới nghe được lõm bõm một đoạn đại ý là: "thực tại" và "hiện thực" là hai thứ khác nhau, con người không thể thấy được toàn bộ và đích xác "thực tại" mà chỉ thấy được một phần nhỏ dưới dạng đã "bị bóp méo" bởi con người của nó gọi là "hiện thực", cho nên "hiện thực khách quan" chỉ tương đối, "thực tại khách quan" mới tuyệt đối. Lúc đó em trai mình cũng nghe được, nhe răng cười: "Uống nhiều quá thành "chiết ra" rồi!". Mình cũng cười, đế thêm: "Sự thông thái nhảm nhí!"... Bây giờ có ông ta ở đây thì tuyệt! Tiếc thật đấy!
-Ừ, tiếc thật đấy! Hì,hì... hì!... Tiếc thật!... Tiếc vì - Thằng A cười, giơ bình rượu lên lắc lắc - hết... "gụ"... "gồi"! Hì,hì... hì!
- Ủa! Hết thật à? Sao mình còn tỉnh thế nhỉ? - Thằng B thảng thốt.
Thằng C đùa:
- Nói hăng quá hả hết rượu chứ thắc mắc gì nữa!... Mà thôi cũng đã khuya, chúng mình nên tản...giá... , ấy chết, suýt nói bậy(!), giải tán đi, có gì bàn tiếp vào cuộc nhậu lần sau...
- Đúng đấy!- Thằng A ủng hộ.
Thế là cuộc nhậu, thú vị nhưng có phần vô hậu, tan hàng.
Vì thế mà bài tường thuật của chúng ta cũng kết thúc.
...Nhưng không phải câu chuyện lớn của chúng ta kết thúc
Và chúng ta tiếp tục nhé!
                                  *** 

Trước hết, chúng ta cho rằng ba anh chàng A, B, C, vì chưa thấy được sự "thiểu năng" của khái niệm cũng như chưa thấy được mối quan hệ uyển chuyển, sinh động, có thể chuyển hóa qua lại nhau một cách hình thức giữa tính khách quan và tính chủ quan, nên đã làm cho cuộc trao đổi trở nên "hoang mang giao động".

Tiện đà, chúng ta đặt lại câu hỏi: "Hiện thực là gì?". Muốn nhận thức đúng đắn được bản chất của hiện thực thì phải "chú ý" đến thực tại, nghĩa là cần phân biệt dứt khoát sự khác nhau giữa hai khái niệm "hiện thực" và "thực tại". Chúng ta cho rằng thực tại cũng phải được hiểu là thực tại khách quan, và sự khách quan này là khách quan tuyệt đối. Vì, một thực tại khách quan là một vùng (khoảng) không - thời gian với bao gồm toàn bộ sự vật-hiện tượng thuộc về nó và vốn dĩ tồn tại. Ở tầm sâu rộng nhất, cùng cực nhất về không - thời gian thì thực tại khách quan chính là Vũ Trụ tổng thể các sự vật-hiện tượng mà chúng ta còn gọi theo tên khác là Tự Nhiên Tồn Tại để nêu bật tính khách quan tuyệt đối (tính tự nhiên) của Nó. Còn hiện thực thì được chúng ta hiểu là phần "hiện ra" của thực tại khách quan. 
Đã "hiện ra" thì phải hiện ra trước cái gì hay những cái gì chứ không thể hiện ra trước Hư Vô được, và như thế, (những) cái gì đó chính là (những) thực thể, cũng có nghĩa là (những) giác hay cảm giác. Nghĩa là không có giác hay cảm giác thì không có hiện thực khách quan! Nói cách khác, hiện thực là một phần nào đó của thực tại khách quan "lộ ra" trước một thực thể sau khi thực thể tiếp nhận, cảm nhận, nhận thức thông qua giác, cảm giác, cảm thức. Mức độ "lộ ra" về qui mô sâu-rộng cũng như về tính chân thực (hay nói ngược lại là tính giả tạo) hoàn toàn tùy thuộc vào khả năng, cách thức, trình độ cũng như trạng thái, vị trí của giác, cảm giác, cảm thức, hay nói gọn lại là tùy thuộc vào "tính chủ quan" của thực thể tri-giác. 
Xét cho đến cùng thì sự "chủ quan" của thực thể tri - giác có nguyên nhân khách quan, nhưng ở mức độ, phạm vi nhìn nhận nào đó cũng có nguyên nhân chủ quan, và như vậy, có thể phân tương đối sự chủ quan thành hai loại là chủ quan tuyệt đối (có tính mặc định, ổn định, do phương thức cấu tạo và vận động nội tại đặc thù của thực thể tri-giác qui định) và chủ quan tương đối (có tính bất định, biến đổi theo tình thế, trạng thái của thực thể tri - giác). 
Vì có nguồn gốc khách quan, được tự nhiên qui định nên tuyệt đối không thể loại trừ sự chủ quan "ra khỏi" quá trình tri - giác của thực thể, mà chỉ có thể hạn chế, khắc phục phần nào. Suy ra từ những lẽ đó, chúng ta cho rằng, một cách tuyệt đối, không thể có hiện thực khách quan mà chỉ có hiện thực chủ quan, hơn nữa, nói đến hiện thực thì phải là hiện thực của một thực thể tri - giác xác định, và như vậy, từ cùng một thực tại khách quan không thể hiện ra hai (hay nhiều) hiện thực chủ quan giống hệt nhau, trùng khít nhau một cách tuyệt đối. Chắc như bắp, hiện thực của cây cối phải khác "xa lắc" hiện thực của động vật, hiện thực của con vi khuẩn mà giống hiện thực của con người thì thật là "ghê hồn bạt vía"! 
Hai hiện thực của hai con người về cùng một thực tại khách quan dù có vẻ rất giống nhau cũng không thể trùng khít nhau được, bởi "ít nhất" cũng tại điều rất đơn giản này: tương tự như hai hệ thiết bị quan sát thiên văn, được chế tạo giống hệt nhau một cách lý tưởng, đồng thời quan sát cùng một khoảng Vũ Trụ, thì vì không có bất cứ cách nào làm cho góc độ quan sát của chúng tuyệt đối trùng nhau được, nên hai hiện thực của hai hệ vẫn là hai hiện thực khác nhau (dù có nhiều nét tương đối (hay "tưởng rằng") giống nhau).

Tuy nhiên, chính hiện tượng dù tuyệt đối khác nhau nhưng cũng tương đối giống nhau của hai hiện thực trong ví dụ nêu trên đã gợi ý cho chúng ta về một hiện thực tương đối khách quan, hay có thể gọi là "hiện thực khách quan của những thực thể có cùng chủ quan tuyệt đối về tri - giác". Hiện thực khách quan tương đối đó cũng chính là hiện thực chủ quan tuyệt đối của những thực thể tri - giác chưa có nhận thức hoặc chưa qua nhận thức (hiện thực của một đài quan sát thiên văn, bản thân nó, là hiện thực chủ quan tuyệt đối, nhưng khi đã bị con người "bình giảng" rồi thì tính chủ quan của nó không còn tuyệt đối nữa vì đã bị sự nhận thức xâm phạm, lũng đoạn, và thậm chí coi như đã chuyển hóa thành hiện thực khách quan của con người!). 
Nhưng thông qua quan sát, suy lý và nhận thức dài lâu, loài người sẽ thiết lập được một hiện thực chung, mô tả đúng đắn các qui luật tự nhiên, tương đối khách quan, tương đối đồng nhất với thực tại khách quan đích thực, và loài người gọi đó là hiện thực khách quan, đồng thời cũng thường gọi lầm lẫn với thực tại khách quan đích thực là thực tại khách quan.
 
Thực ra, chỉ vì mục đích cố tỏ rõ bản chất của hiện thực mà chúng ta nói đến cái gọi là hiện thực của vật vô tri-vô cảm, chứ khó lòng mường tượng được cách thức tồn tại của cái hiện thực ấy, dù nó... có thật(!). Phải chăng vì ở vật vô tri - vô cảm không có hồi ức nên nó cũng tuyệt nhiên "không biết" quá khứ và do đó hiện thực của nó chỉ là hiện thực "đang xảy ra thực sự"? Nhưng phải hiểu thế nào về cái khoảng thời gian "đang xảy ra thực sự" ấy? Trong khi chờ đợi một hình dung "kín kẽ" nhất, có lẽ "đành" tạm thời hình dung rằng, mỗi một thực thể đều có cái gọi là "đơn vị thời gian riêng", có độ dài lâu được qui định bởi cách thức cấu tạo-vận động nội tại thực thể (như thế, những thực thể có nội tại giống nhau thì có đơn vị thời gian riêng giống nhau), và đó cũng chính là khoảng thời gian hiện thực "đang xảy ra thực sự" của thực thể(?)... Thôi, để bớt phần rắm rối, phải "rào trước đón sau" nhiều quá làm lan man thêm câu chuyện vốn đã lan man đến... phát sợ (!), chúng ta sẽ thu hẹp "sự kể lể" về hiện thực trong phạm vi hiện thực của con người nhận thức.

Không có cảm giác và hồi ức, thực thể chỉ có được một hiện thực biến đổi, hoàn toàn bất ổn, phiến diện, manh mún và... mù tịt. Ở con người, một mặt do chỉ cảm giác tự nhiên được một khoảng ở tầng Vũ Trụ vĩ mô mà thiên nhiên "qui định", mặt khác nhờ sở hữu được một năng lực cảm giác sinh học ở tầm cao nhất là trực - gián giác, một hồi ức sinh học dài lâu và bền vững nhất trong thế giới sinh vật, chưa kể còn được hỗ trợ đắc lực bởi sự nhận thức ngày một tăng tiến cũng như bởi những công cụ, thiết bị giác và lưu nhớ nhân tạo ngày một hiện đại, mà hiện thực của nó có tính ổn định, tổng thể, sáng tỏ, tồn tại lâu dài theo thời gian, đồng thời cũng có tính ngày một thấu suốt, ngày một sâu rộng, ngày một khách quan. Như đã nói, thiên nhiên, một cách trực tiếp, chỉ có khả năng ban cho loài người một cách hạn định về năng lực cũng như số loại hình cảm giác phù hợp với lối sống trong thiên nhiên của nó, sao cho vừa đủ đáp ứng những đòi hỏi trong hoạt động sinh tồn của nó. Nghĩa là con người chỉ có thể cảm giác trong phạm vi (tạm gọi là) "tầm sinh học", hay có thể nói, chỉ cảm giác trực tiếp được theo cách đặc thù, mang tính thực dụng (nên cũng có hạn độ) những thứ cần cảm giác nhằm mục đích duy nhất và sát sườn là phục vụ đời sống (trước hết) cho bản thân nó trong thiên nhiên. Theo qui định của cảm giác ấy cũng như thông qua cảm giác ấy mà thực tại khách quan trình diễn ra một cách hạn chế (nghĩa là chỉ một phần, một bề, một tầng nấc qui mô... ) và "biến dạng" thành hiện thực của chủ quan con người, "giành riêng" cho con người. 
Vì hiện thực là sự thể hiện một phần thực tại khách quan dưới dạng đặc thù (biến dạng) theo chủ quan cảm giác, mà sự tồn tại chủ quan cảm giác này, xét cho cùng là có nguyên nhân khách quan (ở đây, chủ quan cảm giác không bao hàm chủ quan đánh giá, nhận định... -những "thứ" được cho là thuộc chủ quan có nguồn gốc chủ quan!), cho nên dù phần thực tại khách quan ấy có "biến dạng" thì chỉ là biến dạng mang tính hình thức, nghĩa là mọi sự vật-hiện tượng trong hiện thực ấy, dù tồn tại-vận động dưới bất cứ hình thức nào, theo bất cứ kiểu cách gì, cũng đều phải tuân theo tuyệt đối các qui luật - những dạng đặc thù đã được mặc định một cách trực tiếp hay gián tiếp bởi ba nguyên lý tương tác, nhân quả và bảo toàn, với vai trò là ba hệ quả cơ bản của nguyên lý Tự Nhiên. 
Như vậy, hiện thực của con người có tính luôn luôn hàm chứa sự thật khách quan tuyệt đối. Mặt khác, do nguyên lý cấu tạo sinh học làm xuất hiện sự cảm giác ở mọi con người là như nhau, cho nên nếu bỏ qua những sai lệch sinh ra từ sự chủ quan có nguyên nhân chủ quan (như góc độ, cự ly, trạng thái chuyển động, trạng thái tâm sinh lý, trình độ nhận thức... khi cảm giác, ở từng con người - chủ thể cảm giác), thì tất cả hiện thực của mỗi con người về cùng một thực tại khách quan, trong cùng một thời gian, đều giống nhau, trùng khít nhau. Đó được gọi là tính khách quan tương đối của hiện thực ở con người.
Với hai sự thể hiện khách quan ấy, có thể nói không sai rằng, nếu bỏ qua những chủ quan có nguyên nhân chủ quan thì hiện thực của con người là một hiện thực hoàn toàn khách quan đối với chủ quan cảm giác con người, và vì thế, đến mức độ toàn bích, cũng chính là hiện thực tuyệt đối khách quan đối với chủ quan cảm giác - nhận thức của loài người và chỉ cho "riêng" loài người. Nghĩa là thông thường, có thể nói "hiện thực khách quan của chúng ta", nhưng hiểu rằng đó là một hiện thực khách quan tương đối-một phần thực tại khách quan được cảm nhận theo cách chủ quan "chưa thực sự sáng tỏ" của loài người. 
Khi loài người đã nhận thức đến tuyệt đích đúng đắn và tuyệt cùng triệt để về Tự Nhiên Tồn Tại thì cũng là lúc hiện thực khách quan đó chuyển biến thành hiện thực khách quan tuyệt đối đối với chủ quan cảm thức của loài người, hay "mạnh miệng" hơn nữa, là thực tại khách quan theo cách cảm thức, hình dung riêng có của con người nhận thức... Ôi! "Loạn lạc" quá đi! Thật là... điên rồ!... Nhưng... biết đâu chừng!... Đã ai đếm xuể trong lịch sử phát triển tri thức nhân loại, bao nhiêu sự điên rồ bị lãng quên vụt hóa thành chân lý?... Thế thì, xin nghe lời Trịnh Công Sơn: "Tôi ơi, đừng tuyệt vọng!"...

Nếu sự trình bày nên trên là hợp lý thì đó cũng có thể được coi là minh chứng hùng hồn rằng con người không thể tiếp cận trực diện để "thấy" đích xác được thực tại khách quan vốn dĩ cũng như thứ mà nhà triết học I. Kant gọi là "vật tự nó", nghĩa là con người không tài nào nhận thức trực tiếp được thực tại khách quan, mà chỉ có thể bằng cách gián tiếp thông qua nhận thức hiện thực của nó, cũng chính là chỉ có thể bằng cách trên cơ sở cảm giác trực-gián giác và thông qua hệ thống khái niệm mà nó sáng tạo ra. 
Điều đó cũng đồng thời đưa ra lời giải thích đầy sức thuyết phục rằng vì sao quá trình nhận thức thực tại khách quan của loài người lại nhiều khúc khuỷu quanh co, chướng ngại gập ghềnh gây biết bao nhiêu lầm lạc, và vất vả, gian lao đến thế, nhất là trong suốt thời kỳ đầu, khi mà loài người chưa hề hay biết tí gì về bản chất của hiện thực. Có lẽ trường hợp xuất hiện (vào thế kỷ II-SCN) và tồn tại lâu dài (đến cuối thế kỷ XVI) của thuyết Địa Tâm (coi Trái Đất là trung tâm, mọi thiên thể, kể cả Mặt Trời, quay quanh nó) do Ptôlêmy đề xướng cũng như sự phủ định nó là ví dụ điển hình của điển hình làm sáng tỏ nhận định đó.
***

Trước thời Ptôlêmy đã có không ít những hình dung thiên văn mà về đại thể phân thành hai loại là Địa Tâm và Nhật Tâm (Mặt Trời là trung tâm, Trái Đất và mọi thiên thể quay quanh nó). Vì thiếu hẳn bằng chứng khoa học, hầu như chỉ dựa vào suy đoán từ cảm giác hay niềm tin thần thánh, nhưng kinh nghiệm trực giác có phần gây ấn tượng mạnh hơn hẳn, mà quan niệm Địa Tâm luôn ở thế thượng phong. Rõ ràng, nếu không nhờ nhận thức khoa học chỉ ra thì khó lòng mà bác bỏ được thực tế quan sát là các thiên thể chuyển động quanh Trái Đất. Nói sâu xa hơn, sự "mù mờ" của hiện thực thời đó đã "không ủng hộ" con người suy ra điều ngược lại. Có như thế là vì con người đã "dùng" kinh nghiệm cảm giác cũng như quan sát có tầm hiệu dụng cho hoạt động sinh tồn trong phạm vi thiên nhiên và vẫn còn ở tình trạng "nặng nề trực giác" làm "công cụ" tìm hiểu Vũ Trụ. 
Ptôlêmy, trên cơ sở tiến bộ trong thu thập quan sát thiên văn và về toán học, đã là người đầu tiên nêu ra mô hình Địa Tâm có tầm vóc lý thuyết mang tính khoa học thực sự. Điều làm cho mô hình này được thừa nhận nhanh chóng và trở thành chân lý khoa học, thành sự thật "hầu như" hiển nhiên không cần bàn cãi, đứng "vững như bàn thạch" suốt hơn một ngàn năm là nhờ không những "cảm tính hiện thực" của nó mà còn, quan trọng hơn, có thể dựa vào nó tính toán, xác định được vị trí biểu kiến của các hành tinh (đã phát hiện được vào thời đó) trên bầu trời. 
                     
                                          Bức tranh nghệ thuật thể hiện hệ địa tâm có các dấu hiệu 
                                           của hoàng đạo và hệ mặt trời với Trái Đất ở trung tâm.
 
Dù thế cũng nên nói cho ngay, vào thế kỷ III-TCN có Aristarchus, người xứ Samos, đưa ra một mô hình Nhật Tâm (người đời sau không biết cụ thể nó như thế nào vì đã thất lạc từ lâu), nhưng nó chỉ như ngọn nến trước gió, thắp lên le lói rồi vụt tắt. 
Khoảng hai-ba trăm năm sau, một người tên là Aryabhata ở Ấn Độ hình dung ra một mô hình Nhật Tâm với những ý chính là Trái Đất xoay quanh trục của nó, Mặt Trời đứng yên, các hành tinh quay theo quĩ đạo elíp. Tuy nhiên mô hình này cũng có số phận hiu hắt tương tự. Mãi đến thế kỷ XIV, trong thiên văn học Ả Rập mới thấy xuất hiện những khám phá, nghiên cứu khoa học có ý nghĩa đến việc xây dựng mô hình Nhật Tâm, và nhiều khả năng nó đã gây ảnh hưởng sâu sắc đến sự nghiệp nghiên cứu thiên văn của Côpécnic sau này. 
Kể từ thời Ptôlêmy, càng về sau, tài liệu thu thập trong thực tiễn quan sát thiên văn càng phong phú, chính xác hơn đã làm cho công việc tính toán chính xác vị trí các hành tinh trên bầu trời càng ngày càng trở nên phức tạp, khó khăn và đầy nặng nhọc. Đó cũng là một "kích thích" quan trọng tác động đến Côpecnic, tạo điều kiện chín muồi cho mô hình Nhật Tâm ra đời. Theo từ điển mở Wikipedia thì:
"Năm 1543 hệ địa tâm lần đầu tiên bị thách thức thực sự khi Côpecnic xuất bản cuốn Về chuyển động quay của các thiên thể (De revolutionibus orbium coelestium), ấn định rằng Trái Đất và các hành tinh khác đều quay quanh Mặt Trời. Hệ địa tâm vẫn còn tồn tại nhiều năm sau đó, bởi vì ở thời ấy hệ Côpecnic không đưa ra được các tiên đoán tốt hơn về vị trí các hành tinh so với hệ địa tâm, và nó đặt ra các vấn đề đối với cả triết học tự nhiên và kinh thánh. Với sự phát minh ra kính viễn vọng năm 1609, những cuộc quan sát đầu tiên do Galileo tiến hành (như Sao Thổ có các Mặt Trăng) đặt ra một số nghi vấn đối với những giáo lý của thuyết địa tâm nhưng không đe dọa nghiêm trọng tới vị trí của nó. Tháng 12 năm 1610, Galileo Galilei đã sử dụng kính viễn vọng của mình chứng minh rằng Sao Kim có trải qua các tuần, giống như các tuần Mặt Trăng. Đây là một bằng chứng cho thấy sự không chính xác của hệ Ptôlêmy. Ptôlêmy đặt Sao Kim bên trong mặt cầu của Mặt trời (giữa Mặt trời và Sao Thuỷ), đây là hành động tùy tiện; ông chỉ có thể đơn giản đổi vị trí Sao Kim và Sao Thủy rồi đặt chúng vào phía bên kia của Mặt trời, hay đặt chúng ở bất cứ vị trí nào, khi chúng luôn nằm gần đường thẳng từ Trái Đất tới Mặt trời. Trong trường hợp này nếu Mặt Trời là nguồn gốc của mọi ánh sáng, thì theo hệ Ptolemy, khi Sao Kim nằm giữa Trái Đất và Mặt Trời, pha của Sao Kim phải luôn là hình lưỡi liềm hoặc hoàn toàn tối, và khi Sao Kim ở phía bên kia Mặt trời, pha của Sao Kim phải luôn khuyết hoặc hoàn toàn tròn. Nhưng Galileo quan sát thấy ban đầu Sao Kim nhỏ và tròn đầy nhưng sau đó lớn lên và có hình lưỡi liềm. Các nhà thiên văn học thời kỳ này cho rằng nếu các kết quả được chấp nhận là đúng thì đó là một bằng chứng không thể phủ nhận cho thấy sự sai lầm của vũ trụ học Ptôlêmy".
Điều rất đáng chú ý là, có thể một phần cũng sợ những hệ lụy đến từ giáo hội Thiên Chúa Giáo, nhưng phần lớn hơn có thể bản thân Côpecnic, vào khoảng thời gian trước và khi công bố lý thuyết của mình, thực sự vẫn còn do dự, lưỡng lự về tính hiện thực của học thuyết Nhật Tâm mà mình đề xướng, nên một cách công khai, ông chỉ coi nó như một giả thuyết, một công cụ toán học cho phép có được những tính toán thiên văn đơn giản và chính xác hơn so với sự tính toán dựa trên thuyết của Ptôlêmy. 
Theo nhìn nhận trong Wikipedia:
"Về mặt thực nghiệm, hệ của Côpecnic không tốt hơn kiểu của Ptôlêmy. Côpecnic nhận thức được điều này và không thể đưa ra "bằng chứng" quan sát trong cuốn sách của mình, thay vào đó ông lại dựa vào những tranh luận về một hệ chính xác và đúng đắn hơn. Từ khi cuốn sách được xuất bản tới khoảng năm 1700, rất ít nhà thiên văn tin vào hệ của Côpecnic, mặc dù cuốn sách đó được truyền bá khá rộng (khoảng 500 bản sách được cho là vẫn còn tồn tại, đó là một con số lớn so với tiêu chuẩn khoa học của thời đó). Tuy nhiên, nhiều nhà thiên văn học, đã chấp nhận một số khía cạnh của lý thuyết so với những thuyết khác, và hệ của ông đã có ảnh hưởng lớn đối với những nhà khoa học về sau này như Galileo và Johannes Kepler, những người đã chấp nhận, đấu tranh cho nó và (đặc biệt là trường hợp của Kepler) tìm cách cải thiện nó. Những quan sát của Galileo về các tuần của Sao Kim chính là bằng chứng quan sát thực nghiệm đầu tiên cho lý thuyết của Côpecnic".
Đánh giá công lao của Côpécnic đối với loài người, cũng trong Wikipedia, có viết:
"Lý thuyết của Côpecnic có tầm quan trọng đặc biệt trong lịch sử văn minh loài người. Nhiều tác giả cho rằng chỉ hình học của Euclid, vật lý của Isaac Newton và Thuyết tiến hoá của Charles Darwin là có thể có ảnh hưởng ở mức so sánh được với lý thuyết đó đối với văn hoá loài người nói chung và khoa học nói riêng. Nhiều ý nghĩa đã được gán cho lý thuyết của Côpecnic một phần từ ý nghĩa khoa học đúng đắn của nó. Tác phẩm của ông ảnh hưởng tới cả tôn giáo và khoa học, giáo điều cũng như tự do của vấn đề khoa học. Vị trí của Côpecnic với tư cách là một nhà khoa học thường được so sánh với Galileo Galilei. Công trình của Côpecnic phản đối giáo điều tôn giáo được chấp nhận sau đó. Nó có thể cho thấy rằng không cần thiết phải có một (Đức Chúa) tuyệt đối trao linh hồn, quyền lực và cuộc sống cho thế giới và con người, vì khoa học có thể giải thích mọi điều được cho là của Chúa. Tuy nhiên, chủ nghĩa của Côpecnic cũng mở một lối đi cho tính nội tại, quan điểm cho rằng một lực lượng siêu nhiên, hay một vị thần thánh, thâm nhập vào mọi vật tồn tại - một quan điểm từ đó được phát triển thêm trong nhiều triết học hiện đại. Chủ nghĩa nội tại cũng dẫn tới chủ nghĩa chủ quan với lý thuyết cho rằng có thể nhận thức được những tạo vật thực tế, rằng không có thực thể tồn tại độc lập với nhận thức (thực ra là với giác hay cảm giác-ĐC). Vì thế một số người cho rằng Chủ nghĩa Côpecnic đánh đổ những nền tảng của khoa học Trung Cổ và siêu hình học. Một hệ quả của Chủ nghĩa Côpecnic là quy luật khoa học không cần thiết phải phù hợp với thực tế. Sự đối nghịch này với hệ của Aristoteles vốn đặt cao tầm quan trọng về nguồn gốc của hiểu biết thông qua các giác quan. Khái niệm của Côpecnic đánh dấu một sự cách mạng khoa học. Thực vậy, một số nhà tư tưởng cho rằng nó đứng ngang bằng với sự khởi xướng của một "cuộc cách mạng khoa học". Immanuel Kant mang tính biểu tượng của cách mạng do Côpecnic khởi xướng - chủ nghĩa duy lý ưu việt của nó - công nhận rằng chính sự hợp lý của con người là cách làm sáng tỏ về những hiện tượng quan sát được. Những nhà triết học gần đây cũng tìm thấy những giá trị triết học trong chủ nghĩa Côpecnic".
Còn Gớt, người Đức, được thừa nhận là một trong những thiên tài bậc nhất của nền văn chương thế giới, thì ca ngợi:
"Trong tất cả các khám phá và ý kiến, không có cái nào có ảnh hưởng đến tinh thần hơn học thuyết của Côpecnic. Thế giới mới được biết là tròn thì phải bị đòi hỏi từ bỏ đặc quyền lớn lao của địa vị trung tâm vũ trụ. Có lẽ không bao giờ nhân loại bị đòi hỏi lớn lao như thế - vì khi chấp nhận điều này thì nhiều việc bị tan tành mây khói! Việc gì sẽ xảy ra với Eden (Vườn Địa Đàng) của chúng ta, thế giới của sự ngây thơ, lòng mộ đạo, và thi ca; bằng chứng từ giác quan; sự tin tưởng đến một niềm tin thơ - đạo? Không đáng ngạc nhiên khi những người đương thời không muốn từ bỏ những ý niệm này và chống đối bằng mọi cách một học thuyết mà những người tin tưởng cho phép và đòi hỏi một tầm nhìn tự do và ý tưởng vĩ đại chưa bao giờ được biết, hay tưởng tượng nổi".
Và đây là những dòng tâm sự nổi tiếng, còn lưu lại của Côpecnic:
"Vì tôi không say mê lắm với những quan điểm của riêng mình nên tôi không coi trọng suy nghĩ của người khác về chúng. Tôi biết rằng những ý kiến của một nhà triết học không phải là chủ đề cho sự phán xét của những người bình thường, bởi vì đó chính là sự nỗ lực của ông ta nhằm tìm kiếm sự thực trong mọi vấn đề, trong phạm vi sự cho phép của Chúa Trời với loài người. Tuy vậy, tôi cho rằng cần xa lánh những quan điểm hoàn toàn sai trái. Những người biết rằng sự kết luận của nhiều thế kỷ đã đưa tới việc thừa nhận quan điểm rằng Trái Đất đứng yên ở trung tâm Vũ Trụ, như trung tâm của nó là trung tâm của Vũ Trụ. Tôi phản đối, coi đó là một tuyên bố điên cuồng nếu tôi đưa ra điều xác nhận rằng Trái Đất chuyển động. Khi một con thuyền chuyển động êm đềm về phía trước, các thủy thủ thấy chuyển động của nó được phản ánh qua mọi sự vật bên ngoài, tuy nhiên mặt khác họ cũng có thể cho rằng mình đang đứng yên, cùng với mọi vật trên thuyền. Theo một số cách, chuyển động của Trái Đất có thể là điều không thể nghi ngờ, đưa lại cảm giác rằng toàn thể Vũ Trụ đang chuyển động. Vì thế cùng với những lý thuyết cổ đại, vốn không còn chính xác nữa, chúng ta hãy cho phép các lý thuyết mới đó được xuất hiện, đặc biệt khi chúng tỏ ra rất chính xác, đơn giản và mang lại nhiều thông tin quan sát quý báu. Khi các lý thuyết còn được quan tâm, không ai có thể chờ đợi một sự chính xác hoàn toàn từ thiên văn học, thiên văn học không thể cung cấp điều đó, ít nhất anh ta chấp nhận các ý tưởng chính xác được đưa ra cho một mục đích nào khác, và việc quay lưng lại với nó chính là điều ngu xuẩn lớn hơn việc quan tâm tới nó. Tạm biệt!".

Mikołaj Kopernik
Nicolaus Copernicus


Chân dung tại Toruń - 1580
Sinh 19 tháng 2, 1473,
Toruń (then Thorn), Royal Prussia, Kingdom of Poland
Mất 24 tháng 5, 1543 (70 tuổi),
Frombork (Frauenburg), Warmia, Kingdom of Poland
Tôn giáo Roman Catholic
Ngành Toán học, thiên văn học, canon law, Y học, kinh tế học
Alma mater Kraków University, Bologna University, University of Padua, University of Ferrara
Nổi tiếng vì Thuyết nhật tâm
Chữ ký

Như vậy là suốt hơn một ngàn năm, khoa học loài người "đứng trước" một "hiện thực thiên văn" sai lầm và "hồn nhiên" tiến hành các quan sát, nghiên cứu thiên văn trên cơ sở hiện thực ấy mà (nói chung) không hề hay biết. Chỉ mãi đến khi phát hiện ra tính tương đối của chuyển động thì các nhà khoa học mới "té ngửa" ra rằng sự thấy một vật đứng yên hay chuyển động là không chắc chắn. Điều thú vị là ở chỗ trước một hiện thực thiên văn "lộn ngược" như thế, những tính toán của họ vẫn phù hợp với thực tế quan sát. Nhưng tại sao? Chúng ta nêu ra một ví dụ để trả lời câu hỏi đó.

Có hai con thuyền giữa đại dương bao la tuyệt đối "sóng yên biển lặng", không thấy bến bờ nào, phía trên chỉ một màu xanh thẳm của bầu trời. Hai con thuyền đó đối đầu nhau và khoảng cách giữa chúng dần rút ngắn lại một cách đều đặn rồi cuối cùng đâm xầm vào nhau. Theo quan điểm của các thủy thủ trên hai thuyền đó thì thuyền nào gây ra va chạm? Nếu đã biết đến tính tương đối của chuyển động thì họ sẽ đồng thanh: "Không xác định được!". Còn nếu chưa biết và dựa trên kinh nghiệm cảm giác thì đoàn thủy thủ trên thuyền nào cũng sẽ cho rằng thuyền họ đứng yên và thuyền kia chủ động đâm vào thuyền họ. Hơn nữa, nếu đó là va chạm (hoàn toàn) đàn hồi, thì cảm giác quán tính làm cho đoàn thủy thủ trên thuyền nào cũng "thấy" thuyền của họ đã từ trạng thái đứng yên chuyển sang trạng thái chuyển động theo hướng rời xa con thuyền kia và khoảng cách giữa hai thuyền tăng dần một cách đều đặn (bỏ qua hiện tượng ma sát và giai đoạn tăng tốc!). Giả sử có con thuyền thứ ba ở gần đó và đoàn thủy thủ trên con thuyền này quan sát được toàn bộ quá trình vừa kể của hai con thuyền kia thì họ sẽ thấy như thế nào? Tùy trạng thái chuyển động (đều!) của con tàu thứ ba mà đoàn thủy thủ trên đó sẽ thấy như thế nào! Nhưng nói chung, một cách đại thể, sẽ thấy một trong ba hoạt cảnh này: thứ nhất, một thuyền đứng yên bị thuyền kia chuyển động đâm vào, thứ hai, một thuyền "lùi" một thuyền "tiến" cùng phương chiều và thuyền "tiến" đâm vào thuyền "lùi", thứ ba, hai thuyền cùng chuyển động hướng vào nhau và đâm nhau, trong cả ba trường hợp ấy đều thấy sau khi va chạm, cả hai thuyền đều biến đổi trạng thái chuyển động. Vậy là từ cùng một diễn biến trong thực tế dẫn đến ba hiện thực khác nhau ở ba đoàn thủy thủ. Vậy thì trong ba hiện thực đó, hiện thực nào sát thực nhất? Đó là câu hỏi thiếu điều kiện nên... chào thua! Tuy nhiên, dễ hình dung rằng tại "hiện trường" sau khi xảy ra va chạm, nếu yêu cầu ba đoàn thủy thủ đưa ra nhận xét về ba hiện thực ấy, thì đoàn nào cũng khẳng định thuyền của họ đứng yên trước khi va chạm (riêng đối với thuyền thứ ba thì cả sau khi va chạm) và diễn biến va chạm mà họ quan sát được là sự thực "không thể chối cãi", "đúng là" hiện thực khách quan, hơn nữa, họ còn có thể đo và tính toán ra được các giá trị tốc độ của hai con thuyền trước và sau khi va chạm hoàn toàn phù hợp với "thực tế".

Bây giờ, cũng ví dụ ấy với ba con thuyền ấy và diễn biến va chạm ấy, nhưng thêm dữ kiện là cả ba đoàn thủy thủ đều thấy một ngọn hải đăng trên một bến bờ. Rõ ràng, từ kinh nghiệm cảm giác mà cả ba đoàn thủy thủ đều phải thừa nhận sự đứng yên tuyệt đối (!) của ngọn hải đăng trong môi trường thiên nhiên. Do đó, cả ba đoàn thủy thủ đều phải lấy ngọn hải đăng làm chuẩn mốc (gốc tọa độ) để xác định các giá trị tốc độ của hai con thuyền trước và sau khi xảy ra va chạm, và tất nhiên kết quả tính toán của ba đoàn thủy thủ về các giá trị tốc độ ấy phải trùng nhau, cũng có nghĩa là hiện thực về diễn biến hai con thuyền va chạm của ba đoàn thủy thủ lúc này là như nhau, hay có thể nói rộng ra, với việc lấy ngọn hải đăng (hay bất cứ thứ gì đứng yên trên mặt đất) làm chuẩn mốc xác định trạng thái (cũng như) phương chiều chuyển động thì ba đoàn thủy thủ có cùng một hiện thực và hiện thực đó cũng được coi là hiện thực khách quan đích thực (trong môi trường thiên nhiên!) của họ.
Từ ví dụ trên có thể suy ra vài điều sau đây.
Thứ nhất, chỉ xét trong khoảng thời gian diễn tiến va chạm, nếu coi con thuyền thứ ba là Trái Đất và hai con thuyền kia là hai hành tinh, và dù người quan sát từ Trái Đất tưởng Trái Đất đứng yên hay biết Trái Đất đang chuyển động, thì kết quả đo đạc và tính toán nhằm xác định vị trí (biểu kiến) tại thời điểm nào đó của hai hành tinh so với Trái Đất là không đổi (!). Đó là lời giải thích sự tương đồng nhau về kết quả tính toán giữa hệ Ptôlêmy và hệ Côpécnic, cũng như vì sao thực tế những tính toán đó không thể chỉ ra được Trái Đất đứng yên hay chuyển động.
Thứ hai, trong hiện thực khách quan đích thực (lấy ngọn hải đăng làm chuẩn mốc), việc tính toán chuyển động của hai con thuyền va chạm sẽ cho ra kết quả: hai tốc độ tổng hợp (tính theo giá trị tuyệt đối) trước và sau va chạm của hai con thuyền đó có giá trị bằng nhau nhưng tương phản nhau (trong trường hợp này, vì va chạm trực diện nên "gọi là" đồng phương, ngược chiều), không những thế, còn có thể suy ra, đó cũng là kết quả rút ra được từ đo đạc và tính toán trong hiện thực khách quan "riêng" của bất kỳ đoàn thủy thủ nào có mặt tại hiện trường không có ngọn hải đăng (!). 
Việc từ mọi quan sát-tính toán về cùng một sự kiện đều dẫn tới kết quả tối hậu duy nhất đã "tiết lộ" ra rằng kết quả tối hậu đó phải có tính khách quan tuyệt đối, nghĩa là nó phải là sự thể hiện nào đó về bản chất của thực tại khách quan. Đúng vậy! Hoàn toàn có thể rút ra được từ kết quả tối hậu ở đây (ít ra là) ba trong số các định luật cơ bản về chuyển động cơ học mà nhà vật lý thiên tài I. Niutơn đã thiết lập được, đó là định luật quán tính, định luật tác dụng tương hỗ, định luật bảo toàn động lượng, và theo quan niệm của chúng ta thì ba định luật đó chính là những thể hiện dưới dạng đặc thù hay cũng có thể được coi là những hệ quả của ba nguyên lý tổng quát và tuyệt đối khách quan (nhắc lại: nguyên lý tương tác, nguyên lý nhân quả và nguyên lý bảo toàn) về (của) Tự Nhiên Tồn Tại.
Thứ ba, suy lý mở rộng, triết học Mác về tự nhiên phát biểu ba luận điểm gồm "sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập", "lượng đổi chất đổi và ngược lại", "phủ định của phủ định", và cho rằng đó là ba qui luật cơ bản, phổ quát nhất, đóng vai trò nền tảng của vận động vật chất. 
 Nếu đúng thế thì vì Vũ Trụ là tuyệt đối thống nhất,  duy nhất, và vận hành một cách không lựa chọn, nên ba qui luật ấy phải có mối quan hệ bản chất với nhau, hơn nữa, không trực tiếp thì cũng gián tiếp, chúng phải có tác dụng mang tính "khống chế nghiêm ngặt" đến mọi sự vật-hiện tượng, mọi quá trình vận động, nghĩa là "hình bóng" hay "dấu vết" của chúng phải xuất hiện khắp nơi. Cho nên dứt khoát không những chúng không thể vắng mặt mà còn phải ở vị trí hàng đầu trong vật lý học, và để thế giới tồn tại như một thể thống nhất, thì chúng phải có nguồn gốc xuất phát từ một nguyên lý duy nhất (theo triết học duy tồn thì đó là nguyên lý Tự Nhiên) đóng vai trò "đầu mối" trong việc làm kim chỉ nam cho nghiên cứu vật lý nói riêng và khoa học nói chung, dù có thể dưới dạng phát biểu này hay dạng phát biểu khác. Do đó, từ trường hợp ví dụ đang xét hay từ ba định luật cơ học đã nhắc tới ở trên, cũng phải suy ra được sự tồn tại ba quy luật cơ bản của Mác. 
Ai suy ra được? Chúng ta thì... không! Nghĩa là chúng ta không thừa nhận sự tồn tại khách quan ba qui luật tự nhiên của triết học Mác, hay nói đúng hơn, chỉ có thể coi chúng là ba hình thức biểu hiện tương đối nổi trội của Tồn Tại và vận động được thấy (cảm giác) trong hiện thực ở phạm vi nhất định. Nếu lập luận đó là hợp lý, thì phải đi đến nhận định rằng, dù quan niệm về tự nhiên-xã hội của triết học duy vật biện chứng có đúng đến đâu chăng nữa thì vì phần triết học về tự nhiên của nó đã có sự ngộ nhận nghiêm trọng và sự ngộ nhận này gây không ít hệ lụy đến phần triết học về xã hội của nó (nên nhớ: xã hội thực ra cũng là tự nhiên!), cho nên phải đặt nó, tức toàn bộ triết học duy vật biện chứng, vào tầm nghi vấn và nhận thức lại xem mức độ đúng-sai của nó tới đâu, với bước đầu tiên dĩ nhiên là phải rà soát lại rất nhiều khái niệm "triết học" mà nó nêu ra.
Thứ tư, cũng là suy lý mở rộng, trong thực tại khách quan nhưng "ngoài" hiện thực (!), vì không tồn tại sự hồi ức nên cũng không tồn tại thứ gọi là "thời gian" (để mà "có" "sự trôi thời gian" cũng như "quá khứ" hay "tương lai"), và do đó, biến cố va chạm của hai con thuyền phải được nhận thức (một cách đúng đắn) là sự thực tuyệt đối và duy nhất đối với chính nó về không-thời gian. Hiện thực là biểu hiện của thực tại cho nên sự va chạm đó trong hiện thực cũng chính là biến cố xảy ra thực sự trong thực tại khách quan ( dưới dạng tạm gọi là "sự tương tác giữa hai thực thể năng lượng"!) và vì thế, nếu không có sự "che khuất" (cả chủ quan lẫn khách quan) nào ngăn cản, và đồng thời nếu có thể loại trừ tất cả những sai lạc do chủ quan cảm giác và nhận thức (dù có nguyên nhân chủ quan hay khách quan) gây ra, thì trong mọi hiện thực đều phải thấy nó xảy ra theo cùng qui luật và tại cùng một thời điểm, sao cho kết quả cơ học của chúng, khi qui về hiện thực khách quan đích thực chung thì như nhau. Trong ví dụ trên, giả sử quan sát từ thuyền thứ ba thấy rằng hai thuyền kia tiến đến nhau với tổng giá trị tuyệt đối về tốc độ (tốc độ rút ngắn khoảng cách giữa hai con thuyền) lớn hơn tốc độ truyền sáng trong chân không (tốc độ cực đại trong Vũ Trụ). Trên cơ sở đó đoàn thủy thủ ở thuyền thứ ba, trong hiện thực khách quan riêng của họ, sẽ tính ra được một tổng giá trị tuyệt đối về động lượng của hai con thuyền, mà nếu đem so với kết quả xác định trong hiện thực khách quan đích thực (có mốc không-thời gian là ngọn hải đăng), thì như nhau. Trong khi đó, đoàn thủy thủ ở một trong hai con thuyền tham gia va chạm xác định tốc độ rút ngắn khoảng cách giữa hai con thuyền và tổng giá trị tuyệt đối về động lượng là bao nhiêu? Theo Anhxtanh, tốc độ đó chỉ có thể nhỏ hơn hoặc (xấp xỉ) bằng tốc độ truyền sáng. Vì thời điểm va chạm là sự thực khách quan mang tính bất biến trong mọi hiện thực (vì đã loại trừ sự nhiễu loạn thời gian của hiệu ứng xa-gần!), cho nên để tương đồng về thời gian với quan sát trong hiện thực của đoàn thủy thủ trên thuyền thứ ba, thì khoảng cách giữa hai con thuyền tham gia va chạm, trong hiện thực của đoàn thủy thủ ở một trong hai con thuyền này phải bị "co rút" ngắn lại một cách tương ứng theo "sự giảm" tốc độ. Mặt khác, trong hiện thực khách quan riêng của đoàn thủy thủ này, tổng khối lượng của hai con thuyền cũng phải được thấy khác đi sao cho giá trị động lượng "ở đó" khi qui về trong hiện thực khách quan đích thực chung thì phải bằng giá trị động lượng được xác định trong hiện thực khách quan riêng của đoàn thủy thủ trên thuyền thứ ba. Nhưng sự "co rút" và "biến đổi" làm sao lại tự nhiên xảy ra được khi khoảng cách và tổng khối lượng không hề chịu bất cứ tác động nào từ bên ngoài chúng? Chỉ có thể là do sự "lũng đoạn" của tính chủ quan trong hiện thực và do đó, sự "co rút" cũng như "biến đổi" nói trên cũng chỉ là hình thức (nhưng là thứ hình thức có tính khách quan tương đối nên "tự nhiên tồn tại" trong quá trình nhận thức, không thể loại trừ được!). Tương tự như thế, không thể tin được trong thực tại khách quan, tính bất biến và cực đại của tốc độ truyền sáng lại như một lực lượng tồn tại thực sự, tác động gây co-giãn không-thời gian được, cho nên phải suy ra rằng sự co-giãn không-thời gian ấy chỉ có thể "xảy ra" trong hiện thực và cũng chỉ là kết quả của cảm giác, mang tính "tất yếu hình thức". Vậy phải chăng cũng nên "nhốt" luôn thuyết tương đối hẹp của Anhxtanh vào vòng nghi vấn để nỗ lực nhận thức lại?... (Kính thưa Mác và Anhxtanh, thời tuổi trẻ, chúng tôi vì tin tưởng hầu như tuyệt đối vào nhận thức của quí vị bởi tuyên truyền và ngây thơ nên cũng kính phục quí vị. Giờ đây, khi đã về già, coi như đã trải qua một đời chiêm nghiệm và gặp không ít "trục trặc" khi tìm cách giải thích những hiện tượng xảy ra trong hiện thực, trên cơ sở quan niệm tự nhiên - xã hội - khoa học của quí vị, nên trong chúng tôi đã bắt đầu nảy sinh những hoài nghi. Dù niềm tin vào quí vị đã có những rạn nứt thì lòng kính phục của chúng tôi đối với quí vị vẫn nguyên vẹn như ngày nào! Trong thời đại của quí vị, phải là bậc thiên tài mới có được quan niệm về tự nhiên tổng hợp mang tầm cao vợi vượt thời đại như thế. Chúng tôi, xét về trí tuệ, chỉ là lũ nhà quê có tầm học vấn... nông choẹt, nhưng lại có thuận lợi là "kẻ hậu sinh" trong tình thế "cờ ngoài, bài trong", vừa được quí vị dạy dỗ vừa thấy được nhiều điều mà quí vị không thể thấy vì bị...hạn chế thời đại của quí vị che khuất! Sự đam mê tìm hiểu vì sao Vũ Trụ lại phải như thế này chứ không thể như thế khác, trong điều kiện khó khăn và thuận lợi đó đã dần hun đúc trong chúng tôi một nhận định rằng, đã là chân lý khách quan và phổ quát thì phải hiển hiện ở khắp nơi chứ không phải chỉ "trú ngụ" ở những nơi phức tạp và cao siêu trong triết - khoa mà đám "hạ tiện" chúng tôi không thể với tới được, và rằng chân lý là giản dị và phải giản dị mới là chân lý đích thực. Nhận định đó đã trở thành niềm tin sắt đá làm nhẹ bớt sự sợ hãi trong chúng tôi nên chúng tôi mới dám "tả xung hữu đột" và mạo muội nêu ra ý kiến "phản nghịch" (dù có thể sai bét nhè!) như vậy. Biết làm sao được?! Thành thật xin lỗi quí vị, và đồng thời cảm ơn Arixtốt bởi câu nói bất hủ: "Thầy đã quí, chân lý còn quí hơn" !!!...)

Đến đây, có lẽ chúng ta đã "thấm thía" cái quan niệm "nắm bắt" chân lý nhờ cảm giác trực giác thuần túy của Charvaka là như thế nào rồi. Nhưng đúng là chẳng cái dại nào giống cái dại nào, đúng là "tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa"! Vì quá tò mò mà chúng ta tạm rời xa hiện tại-cuộc "ăn chơi" ở thế kỷ XXI, để "phi" về hiện thực thời cổ đại "nhòm ngang ngó ngửa", "bươi móc lung tung" cho thỏa chí tang bồng, nào ngờ những bí ẩn trong "đống tro tàn triết học" phát lộ ra, tỏa sức nóng hầm hập làm chúng ta... phát sốt đến độ "lảm nhảm hãnh tiến" và "hùng hục cắm đầu" cứ như nhà triết - vật (triết học kiêm vật lý học!) thứ thiệt, nên "vô tình" đã tự dựng lên một chướng ngại khổng lồ không thể có chướng ngại nào khổng lồ hơn trước mũi mình, "mở ra" nguy cơ nhãn tiền chấm dứt cuộc hành trình đi tìm cái gì đó của riêng mình. Nói toạc móng heo ra, chúng ta đã tự tạo ra tình huống thách thức, đối đầu với "cột sống" tri thức đương đại của loài người! Thế có "chết tiệt" không cơ chứ!... Làm sao vượt qua đây nếu không muốn quay về? Một lũ nhà quê lang thang lếch thếch, hở cơ là lại say mèm rồi mà đòi qua "đỉnh olympia" (của Đài truyền hình Việt Nam!) sừng sững về sự bảo thủ đến... gàn rở, ngất ngưởng "mút mùa lệ thủy" về sự khinh mạn đến mức... ương ngạnh, bất chấp tất cả (!), bỏ ngoài tai mọi phê bình chân thành, thì thật là điều quái lạ của những điều quái lạ! Không, chúng ta không thể chinh phục theo cách "leo trèo" đó, vì làm gì có "Đỉnh Olimpia" mà chinh phục (?), và vì muốn thế phải cần đủ bốn "chi", trong khi chúng ta chỉ có mỗi một "chi" để "nhảy lò cò" theo kiểu kenguru thôi! Cũng không thể theo cách "liều mình như chẳng có", chỉ tổ "nực cười châu chấu đá voi", "lấy trứng chọi đá" vô ích, hay "điên" hơn, theo kiểu "Tráng sĩ ra đi đầu không mọc tóc/Gương Kinh Kha in dội trong lòng" để rồi uổng mạng lãng nhách như... Kinh Kha! Đối với những kẻ kém mọn về trí tuệ, có vấn đề về tâm thần và yếu bóng vía như chúng ta mà muốn chinh phục được khối thành trì triết - toán - lý "chắc cú" thực chứng và "hùng hồn" suy lý gợi liên tưởng đến gã phì đại "vai u thịt bắp"... Himalaya, thì cách chinh phục "siêu" nhất là... đừng chinh phục gì cả, mà hãy len lỏi tìm lối "cưỡi ngựa xem hoa" vòng qua nó, bỏ nó lại phía sau, "tỉnh bơ" tiếp tục "lang thang" lên phía trước, cầu may có ngày diện kiến... Đấng Tạo Hóa, để hỏi "cho da nhẽ" tử huyệt hay "gót chân asin" của "ló"!...

Nói nôm na, trong khi loài vật chỉ phải (và chỉ biết!) đấu tranh sinh tồn trong môi trường thiên nhiên đơn thuần, thì có thể coi loài người cùng lúc phải đấu tranh sinh tồn trong cả hai môi trường tự nhiên và xã hội, hay nói cách khác, con người phải tham gia cuộc đấu tranh sinh tồn tổng hợp trên hai "mặt trận" là môi trường thiên nhiên và môi trường xã hội. 
Thuở đầu tiên trong tiến trình hình thành và tồn tại xã hội, khi tính xã hội còn nhạt nhòa, khi mối quan hệ gắn kết, vận động phụ thuộc lẫn nhau giữa các thành phần, các bộ phận nhân sinh hợp thành nội tại xã hội còn hời hợt, "lỏng lẻo", hoặc ''chỉ có'' tác động thuận, thì sự đấu tranh sinh tồn của con người trong môi trường xã hội cũng thể hiện nhạt nhòa, thiếu hẳn tính cạnh tranh, và hoạt động mưu sinh chính yếu vẫn là đấu tranh sinh tồn trong môi trường thiên nhiên. Dần dần, khi môi trường xã hội đã bị ý thức con người khuấy đảo mạnh mẽ, tạo ra những khác biệt đặc thù thành môi trường tương đối độc lập so với môi trường tự nhiên, khi chiến tranh chém giết lẫn nhau xuất hiện, thì coi như đã làm hình thành nên "mặt trận thứ hai" trong công cuộc đấu tranh sinh tồn của loài người. Quá trình vận động đi lên có tính xoay vần tự nhiên với các trạng thái thịnh-suy (trong mối so sánh tương đối với nhau) kế tiếp nhau, vừa (có lúc) là kết quả vừa (có lúc) là nguyên nhân của sự tồn tại tiến trình tinh tế hóa, sâu sắc hóa cảm giác hơn nữa ở con người, làm xuất hiện và duy trì hầu như thường xuyên trạng thái cảm giác cao độ gọi là cảm giác gián giác, tạo nên một lĩnh vực hoạt động tinh thần gọi là tình cảm (như yêu-ghét, hạnh phúc-khổ đau, chê khinh-tôn vinh,... ), coi như chỉ ở loài người mới có, nhất là khi đã xuất hiện sự tiêu dùng phi thực phẩm như một nhu cầu không thể thiếu trong xã hội, cũng như sự sản xuất, trao đổi và mua bán hàng hóa đã trở thành những ''nơi chốn'' mưu sinh thực sự của con người, đã làm cho cuộc đấu tranh sinh tồn trong môi trường xã hội dần trở nên nổi trội, thể hiện lấn át trong toàn cảnh mưu sinh của con người, và ngày nay như chúng ta cảm thấy, đấu tranh sinh tồn trong môi trường xã hội đã như một phương thức phổ quát và cơ bản trong việc duy trì cuộc sống ở mỗi con người nói riêng và đối với cả loài người nói chung, dù rằng trong sâu thẳm của thực tế, đấu tranh sinh tồn giữa loài người với thiên nhiên vẫn "âm thầm'' đóng vai trò nền tảng, cốt lõi, giềng mối...

Cùng trong một hiện thực khách quan, cùng bất mãn đối với hiện thực khách quan ấy, nhưng do có "khuôn khổ" hoàn cảnh và điều kiện sống tương đối khác nhau, nên nảy sinh ra hai cảm giác-nhận thức tương đối khác nhau, từ đó mà cũng xuất hiện hai mơ ước cụ thể, hai phản ứng về ''kiếp trần'', về ''quyền sống cơ bản'' tương đối khác nhau, tương phản nhau trước thời cuộc, dẫn đến hai thái độ, hai chủ trương sống đều có tính cực đoan nhưng ngược nhau, tương phản nhau. Trong khi chủ nghĩa duy vật-thực dụng Charvaka chủ trương: mục đích duy nhất của cuộc sống là hướng tới lạc thú trần tục cho nên hãy tận hưởng mọi niềm vui sướng ''trước mắt'' một khi có cơ hội, thì Kỳ Na Giáo chủ trương: tham sống là mù quáng, sát sinh và hưởng lạc là tội lỗi, hạnh phúc thực sự là sự giải thoát khỏi mọi cám dỗ, mê lầm nơi cõi thế, và chỉ có thể đạt được sau khi chết. Qua đó mà thấy, nếu Charvaka "kêu gọi" con người quay về lối sống thuần túy vật chất, phồn thực hồn nhiên, đáp ứng bản tính sinh vật (vì miếng ăn) vốn có, do đó mà có vẻ dễ dãi tầm thường, tha hóa, ''vui đâu chầu đấy'', ích kỷ, thì Kỳ Na Giáo "kêu gọi" con người hướng tới lối sống thuần túy tinh thần, tiết thực khiên cưỡng, triệt tiêu bản tính sinh vật vốn có, do đó lại có vẻ khắc kỷ phi phàm, thánh hóa, vô cảm. Đến thời Ấn Độ cổ đại của những Charvaka hay Kỳ Na Giáo, tâm tư tình cảm trong đại chúng nhân quần nói chung đã tiềm ẩn những ý nghĩ hun đúc nên chuẩn mực khách quan lẫn chủ quan về đạo đức (sự ứng xử hữu tình, hay, đẹp!) trong quá trình mưu sinh giữa môi trường xã hội. Theo chuẩn mực đạo đức đó, con người ta sống đâu phải chỉ đơn giản là hưởng thụ vật chất một cách tầm thường, tha hóa, bất chấp, ''chỉ biết mình'' như con vật, mà phải còn có cái tình cao cả (tình người, nhân hậu!) đối với đồng loại nữa, nhưng đến mức phải hy sinh tất cả cuộc sống của riêng mình, trái ngược với chính đòi hỏi tự nhiên của sự sống một cách quá quắt, quá ư hà khắc thì cũng thật... vô cùng khó khăn. Nghĩa là hai chủ trương về lối sống đó đều ''vi phạm'' ước vọng và tình cảm hồn nhiên, trong sáng của kiếp đời con người bình dị. Vì thế, cả hai chủ trương đó về lối sống của con người đều đã tỏ ra có phần không phù hợp với yêu cầu của văn hóa đại chúng dân gian Ấn Độ ngay từ thời kỳ đó, đòi hỏi cần có một chủ trương sống trung dung, bình giản, hợp lý hợp tình hơn, như nhiên hơn, mà cũng thanh thoát hơn, cao khiết hơn... Đó chính là yếu tố quan trọng hợp thành nguyên nhân cơ bản của sự ra đời luân lý Phật Giáo. Phật Giáo (các tôn giáo khác cũng vậy!), muốn tồn tại lâu dài và ảnh huởng sâu rộng trong lòng quần chúng, thì phải "đời thường hóa" những luật lệ khắc kỷ của nó. Đó là nguyên tắc! Và đó chính là một trong những biểu hiện hùng hồn cho tính không phải là chân lý khách quan của tôn giáo!

Theo truyền thuyết thì Đức Phật Thích Ca... Ô hô, mà... thôi!... .Thông cảm nhé, anh em!... Con tàu vượt thời gian kia rồi!... Dù còn rất xa, dù hình thù con tàu vẫn khuất tất, thì ánh sáng ''hiện đại'' chói lói, phản chiếu từ thân con tàu trong buổi sáng thu cổ đại đang vào trưa, làm cho con tàu như đã lồ lộ trước ''thanh thiên bạch nhật''... Vào thời đoạn mịt mùng trong binh đao rối loạn này mà hớ hênh thế thì thật nguy hiểm quá!... Vì vậy và cũng vì sự sốt ruột bấy lâu bỗng dưng bùng phát không kìm lòng được, chúng ta vội chạy như ''ma đuổi'' về phía (chắc như bắp là!!!) con tàu đang đậu...
Sau này, cứ nghĩ đến khuôn mặt nhăn nhó cùng với điệu bộ hối thúc, múa may loạn xạ của ông trưởng tàu, chúng ta lại bật cười khùng khục!...
***                          

Rời nhà của lão hiền triết Trang Tử, chúng ta quay về phương Nam trên con tàu tốc hành vượt thời gian (con tàu này đúng là một... UFO, nhưng không phải của người ngoài hành tinh, là thực thể mà đến ngay những người có mặt trong đó cũng không xác định được (!), chỉ tạm gọi là..."con tàu", thế thôi!!!). Chặng hành trình lang thang trong xứ sở thời Xuân Thu - Chiến Quốc của chúng ta đã (tạm) kết thúc. Ai cũng thế, đều trở thành vô thức khi ở trên con tàu vượt thời gian đó và nó... đang bay. Dù chưa toại nguyện vì chưa được chứng thực hết mọi điều còn khuất tất trong chính sử, thì chúng ta vẫn vui mừng khôn xiết vì không bị ''mắc kẹt'' lại thời xa xưa đó... vĩnh viễn! Kể ra, cuộc hành trình cũng khá dài lâu, chúng ta cũng mắt thấy tai nghe được nhiều điều bổ ích, đã chiêm nghiệm được khá nhiều chân lý, dù chỉ mới như là "cưỡi ngựa xem hoa"...

...Một tiếng gầm long trời, lở đất, rền vang sông núi. Kế tiếp là cuồng phong nổi lên. Cái ngột ngạt oi nồng của thời tiết không còn nữa, lớp mồ hôi nhờn bám rịt da người đã biến mất, mùi binh đao thời Xuân Thu - Chiến Quốc đã hết nồng nặc. Mây đen cuộn lên như những quái tượng khổng lồ. Đã lác đác vài giọt mưa chắc nịch rơi xuống nền đường vỡ tan, mất biến. Chúng ta chợt thấy mình đang đứng trước một tửu quán đã lên đèn tại Sài Gòn. Hợp lẽ tự nhiên nhất lúc này là để tránh một trận mưa có thể là như trút, chúng ta nên vào quán để uống vài chai bia ướp lạnh của thế kỷ XXI. Lâu quá rồi còn gì!?

Hóa ra vẫn là cái tửu quán quen thuộc có tên “Kiều Mi”, vẫn ông chủ quán đầu hói bóng như gương, lúc nào cũng thấy lúi húi đếm tiền. Vẫn cô gái chạy bàn tươi duyên mặc áo hở ngực đến độ mỗi khi cúi xuống là khách thấy hết cả “giang sơn”. Vẫn nàng tiếp thị bia nói năng lưu loát và tình tứ, có thân hình thon thả như người mẫu với đôi chân dài hoạt bát dưới làn váy ngắn làm cho lượng bia tiêu thụ luôn vượt quá sự mong đợi. Vẫn là bà bếp núc ních mỗi khi rảnh lại ra bàn khách quen nói vui ba điều bốn chuyện. Vẫn... Nói chung là vẫn vậy, xã hội hầu như không có gì thay đổi. Ấy vậy mà đã trên 2500 năm trôi qua rồi đấy nhé, ghê thật!

Người ta cứ cho rằng xã hội hiện tại văn hóa hơn xã hội ngày xưa. Chúng ta đã đi, chúng ta đã thấy và chúng ta đã từng trải. Vì thế mà chúng ta đột nhiên trở thành những kẻ ngây ngô khi tự hỏi: “Văn hóa là gì? Văn hóa từ đâu mà có? Lấy chuẩn mực nào để nói rằng hôm nay văn hóa hơn hôm qua?”.

Khi nói rằng một xã hội có văn hóa thì cũng có thể nói xã hội đó đã bớt mông muội, bớt dã man, không còn hoặc còn ít lối sống giống cầm thú, hay đã có chuẩn mực đạo đức xã hội, lịch sự hơn và có lễ nghĩa hơn. Nếu văn hóa được quan niệm như thế thì xã hội ngày nay đâu khác gì xã hội của Trung Hoa cổ đại cách đây 2500 năm, mà có khi còn “tệ bạc” hơn! Hay là lấy trình độ tiện nghi làm chuẩn mực so sánh? Không ổn! Vì như thế phải cho rằng người giàu sẽ văn hóa hơn người nghèo, cuộc sống no đủ văn hóa hơn cuộc sống đói khát. Nói đến cuộc sống no đủ thì phải nói đến nhu cầu. Mỗi thời đại có nhu cầu đòi hỏi khác nhau, mức độ thỏa mãn cuộc sống khác nhau, do đó sẽ có những thời kỳ trong quá khứ no đủ hơn bây giờ nhiều… Mặt khác, thực tế cho thấy đâu cứ phải giàu có hơn là đối nhân xử thế... ''tử tế'' hơn? Rốt cuộc thì văn hóa là gì, nó chỉ thị điều tốt hơn hay xấu hơn trong cuộc sống, thành tâm hơn hay diễn kịch hơn trong ứng xử giữa người với người? Câu hỏi này xin nhường cho... Đấng Tạo Hóa!


Mưa như trút thật! Và như thường lệ, rất mau tạnh. Trời đã tối từ lâu, gió mát lạnh. Tiếng sấm đã dời đi, tiếp tục gầm gừ ở đâu xa lắc, nhưng ánh chớp thì vẫn gửi về đây. Lâu lâu nhá lên như khoe như giấu. Thiên nhiên cũng có nỗi niềm riêng của nó?


Mải nhìn ra cửa sổ, không biết chủ quán đến bên tự lúc nào:

- Lâu quá không thấy các đại ca ghé? Mà hôm nay sao “tâm trạng” thế? - Chủ quán chìa gói thuốc lá ra mời – Làm điếu thuốc đi mấy huynh!...

Chúng ta quay lại và vốn bản tính xởi lởi, chúng ta cười nói:

- A, chào ông chủ! Lúc nãy mới vô chào ông chủ mà ông chủ không nghe, lo đếm tiền quá mà! - Phì phà hơi thuốc lá, chúng ta tiếp - Dạo này làm ăn ra sao hả ông chủ, hốt bao nhiêu cây vàng của thiên hạ rồi?

Chủ quán ngửng mặt lên trời cười ha ha:

- Mấy huynh bỏ quán đi hoài, làm sao mà giàu cho nổi!... Mấy đứa phục vụ ở đây cứ nhắc các anh hoài! Không biết có chuyện gì không mà không thấy các huynh ghé nữa?...

- Có chuyện phải đi xa… Mới về tức thì là ghé quán ông liền. Đây này, ông không thấy người ngợm quần áo chúng tôi toàn đất cát lấm lem sao?

Có người gọi, chủ quán líu ríu:

- Thôi, mấy anh thông cảm, ngồi chơi vui đi… – Ông chủ quay qua gọi nàng tiếp thị gần đó - Này Hoa, nhắc mấy ổng hoài mấy ổng lại ghé uống ủng hộ kìa, vui không? - Chủ quán vừa đi vừa quay lại chào, cười ha ha nữa.

Có hai loại khách mà chủ quán nào cũng thích, đó là khách xộp và khách chân tình. Chúng ta chắc chắn không phải khách xộp rồi nên tự hào là loại khách thứ hai.

- Thấy mấy anh ghé lại, ổng vui lắm đó! – Hoa bảo thế.

- Mà em có vui không?

- Quá vui! – Hoa nghiêng mặt, so vai, tóc lòa xòa bên má trắng mịn màng nhờ bốn mùa hoa trái của sông nước miền Tây Nam Bộ.

Trước khuôn mặt trái xoan vừa cố tình vừa tự nhiên làm duyên ấy, có lẽ đến Lão Tử cũng không thể giữ lòng hư tĩnh được, huống hồ chúng ta?! Có một nỗi niềm nào đó dội rất mạnh vào lòng. Hoa ơi, em đẹp lắm! Nhưng em còn nhỏ quá, chưa thấy được nhiều điều khốn nạn trong đời sống! Mong em đừng bao giờ thấy! Chúng ta nheo mắt nhìn Hoa cười, cầm ly bia lên, uống một hơi cạn đáy, rồi khà:

- Lâu ngày mới ghé, hôm nay tụi anh sẽ uống hết bia của em luôn!

- Uống xỉn sao mà về được? Về bà xã la chết đó! Uống vừa thôi, rồi mai mốt mấy anh ghé uống nữa.

Thì ra thế! Hình như cái đáng tôn sùng nhất ở cõi thế tục này là Tình Yêu Thương. Không có Tình Yêu Thương thì xã hội này tan rã từ lâu rồi, không thể tồn tại được, chứ nói chi đến... đạo đức làm người trong xã hội!?

Điều đó thật đơn giản và ai cũng biết. Nhưng tại sao cứ phải chiến tranh, tại sao vẫn là tàn nhẫn? Đây lại là điều rất ít người biết. Đó là vì ''thèm khát'' danh lợi thái quá! Xã hội loài người vĩnh viễn không bao giờ thoát được vòng danh lợi một khi tình yêu thương đồng loại chưa vượt thoát được tự giác để "lên" thành bản năng ở mỗi cá thể (thứ bản năng có được nhờ nhận thức dài lâu?!).

Thử hỏi ai mà không yêu mình? Bước vào đời, ai mà không ước ao danh lợi; ai mà không tìm danh, kiếm lợi? Và ai mà không tham muốn? Và làm sao biết thấm thía tình yêu nếu không biết ghét cay ghét đắng? Cho nên mới nói rằng yêu, ghét có mầm mống từ bản năng đã nảy lộc đâm chồi, vươn lên một tầm cao nhất định để có được một mức độ nhận thức nhất định. Yêu gồm mọi người thì cần có một nhận thức cao hơn nữa!...

Tham muốn và chưa đủ gồm yêu là đầu mối của thèm khát vị kỷ. Thèm khát vị kỷ làm nên ganh ghét, lòng tham vô độ lượng và sự nhẫn tâm là cái gốc của sự độc ác. Độc ác nào mà không gặt hái oán thù?

Thèm khát danh lợi một cách vị kỷ, vô tâm là con đường dẫn đến mọi sự xung đột và tột cùng của xung đột thì đó chính là đấu tranh vũ trang, là chiến tranh? Chiến tranh là sự tàn phá cái đã tốn công của tạo dựng, là cuộc chém giết lẫn nhau giữa hai lực lượng người để giành phần thắng, vì danh lợi (hay quyền lợi) của mỗi bên tham chiến, mà thực chất là hành động quyết liệt cuối cùng của đấu tranh sinh tồn, là hành động tiêu diệt sự sống để duy trì sự sống (!), kiểu một mất một còn. Dù cho rằng một trong hai lực lượng ấy là chính nghĩa, phát động chiến tranh để bảo vệ quyền sống chính đáng của mình, và chiến tranh là cần thiết đến cỡ nào đi chăng nữa để bảo toàn Đức Huyền Diệu hay nhân danh Tình Yêu Thương, thì chiến tranh bao giờ cũng tàn bạo!

Thời đại ngày nay, khi “kỹ nghệ ghét người và giết người” đạt đến mức “tuyệt vời” hơn bao giờ hết thì Tình Yêu Thương là vô cùng bức thiết. Chính Tình Yêu Thương sẽ làm cho sự tham muốn danh lợi biết dừng lại ở mức vừa đủ, sẽ làm cho những cái đầu “nóng” biết tôn trọng sinh mạng mọi con người; làm cho những tâm hồn vị kỷ đầy lãnh cảm biết nhường nhịn, biết rằng sự sống con người ở đâu và lúc nào cũng vậy, đều đáng quí như nhau, rằng đã là người thì cố gắng không gây ra đau khổ cho bất kỳ sự sống có tình nào. Còn nếu không, Tình Yêu Thương ít ra cũng sẽ an ủi được biết bao nhiêu thân phận không may, biết bao nhiêu mảnh đời bất hạnh, biết bao nhiêu tâm trạng cần được cảm thông. Và cuối cùng, nếu không được như vậy nữa thì chí ít, nó cũng tạo được chữ Hòa trong một xã hội mưu cầu danh lợi.

Nếu hiểu văn minh là bớt mê muội, là sáng suốt hơn, thì nên chăng lấy mức độ và cách thức thể hiện Tình Yêu Thương chân chính làm chuẩn mực của văn minh và mức độ văn minh là tùy thuộc sự lan toả và thấm thía Tình Yêu Thương trong xã hội, cũng như trong mỗi con người?


- Uống ủng hộ em chai nữa không mấy anh?

Tiếng Hoa trong vắt, ngân vang trong cái ồn ào xô bồ của tửu quán bình dân làm chúng ta bừng tỉnh. Quán đã đông khách hơn.

- Uống nữa chứ em. Tụi anh chưa say mà!… Mà có khi là đã say em mất rồi cũng không biết chừng…

Hoa nguýt, cười, tay khui bia lốp bốp, đã quen với sự cợt nhả:

- Sợ người chê thôi, chứ ai thương, em theo liền!...


Đẹp thật! Cô nàng đi qua bàn khác rồi mà mắt chúng ta cứ dán theo cặp đùi trắng suôn đuột. Không biết đó có phải là sự yêu mến có lý trí không? Hay đó đơn thuần chỉ là dục tính bản năng trỗi dậy vì bia, rượu?…
Đúng phóc là chẳng có gì thay đổi cả dù đã khoảng 2500 năm trôi qua! Tửu quán hồi đó cũng y hệt như tửu quán tối nay: vẫn là ông chủ quán, vẫn là bà bếp, vẫn là mấy em tiếp khách, vẫn là xô bồ đủ hạng tao nhân mặc khách, vẫn đầy ắp những thân phận, đầy ắp những thị phi và đầy ắp những nỗi niềm...

Không biết có lạc lõng không mà trong chúng ta bỗng âm vang những lời ca tiếng hát của một thời cả nước lên đường chống thực dân Pháp và Đế quốc Mỹ. Gần một thế kỷ qua rồi mà sao mỗi lần những khúc ca ấy vang lên, lòng chúng ta lại chìm đắm trong Tình Yêu Thương. Chao ôi, tất cả mọi ngọn nguồn ngóc ngách tình cảm, kể cả tình cảm lứa đôi, đều hướng về, đều hun đúc nên một tình yêu quê hương đất nước thắm thiết, thiêng liêng, không gợn chút vị kỷ và trong sáng khi ca ngợi niềm vui lẫn cả khi tả lại nỗi buồn!
Chúng ta chợt nhớ về thơ Lê Anh Xuân của một thời cứu nước. Ôi, cái ngày xưa Tổ Quốc ngập tràn khói lửa chiến tranh, tơi bời chết chóc ấy sao mà đẹp Tình Yêu Thương đến thế? Cha anh của chúng ta đi vào cuộc chiến đấu một mất một còn với quân xâm lược sao mà hồn nhiên, thanh thản đến lạ kỳ? Mọi phân tích triết học như xuất thế vô vi, nhập thế hữu vi, chính danh, vô danh… đều chỉ là vô nghĩa, phi lý, vớ vẩn khi nói về họ:

“Ơi cơn mưa quê hương
Mưa là khúc nhạc của bài ca em hát
Những đêm ta nằm nghe mưa hát mưa ơi
Nghe mưa đập cánh tre, nghe mưa rơi tàu lá
Thì thầm rào rạt vang xa…
Có lúc bỗng phong ba dữ dội
Mưa đổ ào như thác dồn trăm lối
Giấc mơ xưa có chớp giật, sấm gầm.
Trang sử nhỏ nhà trường bỗng hóa cơn giông
Nghe như tiếng của cha ông dựng nước
Truyền con cháu phải ngẩng cao mà bước
Nghe như lời cây cỏ gió mưa,
Đang hát tiếp bài ca bất khuất ngàn xưa…”
(Trích “Nhớ mưa quê hương”)

“Đây rồi đoạn đường xưa
Nơi ta vẫn thường đi trong mộng
Kẽo kẹt nhà ai tiếng võng trưa
Ầu ơ… thương nhớ lắm
Ơi những bông trang trắng, những bông trang hồng
Như tấm lòng em trong trắng thủy chung
Như trái tim em đẹp màu đỏ thắm
Con sông nhỏ tuổi thơ ta đã tắm
Vẫn còn đây nước chẳng đổi dòng
Hoa lục bình tím cả bờ sông”
(Trích “Trở về quê nội”)

Tình yêu như trời xanh không chút gợn ấy là do thiên nhiên thuận hòa làm nên lòng người thuần phác, hay là sự hun đúc từ ngàn đời tổ tiên đã từng chịu biết bao nhiêu đau thương mất mát nhưng cũng vô cùng gan góc giữ gìn trọn vẹn gấm vóc giang sơn?

“Mẹ lưng còng tóc bạc
Ngậm ngùi kể chuyện ta nghe
Tám em bé chết vì bom xăng đặc
Trên đường đi học trở về
Giặc giết mười người trong một ấp
Bà con khiêng xác chất đầy ghe
Chở lên Bến Tre đấu tranh với giặc
Làng ta mấy lần bom giội nát
Dừa ngã ngổn ngang, xơ xác bờ tre”
(Trích “Trở về quê nội”)

Tình yêu ấy là bản năng, là ý chí, hay là sự hòa quyện của cả hai làm nên truyền thống của một dân tộc? Truyền thống ấy ẩn giấu tiềm tàng trong máu chảy ruột mềm, trong khối óc con tim, trong từng hơi thở ở mỗi con người mà thế hệ cha anh chúng ta, trong ác liệt chiến tranh, đã thể hiện ra một thái độ sống, một quan niệm về bổn phận nhất quán và hết sức giản dị như vốn dĩ là thế, lẽ thường là thế chứ không thể khác được.

“Mẹ ta tần tảo sớm hôm
Nuôi các anh ta dưới hầm bí mật
Cả đời mẹ hy sinh gan góc
Hai mươi năm giữ đất, giữ làng
Ôi, mẹ là bà mẹ miền Nam
Ta có ngờ đâu em ta đấy
Dưới mái lều kia em đã lớn lên
Em đẹp lắm như mùa xuân bừng dậy
Súng trên vai cũng đẹp như em
Em ơi! Sao tóc em thơm vậy
Hay em vừa đi qua vườn sầu riêng
Ta yêu giọng em cười trong trẻo
Ngọt ngào như nước dừa xiêm
Yêu dáng em đi qua cầu tre lắt lẻo
Dịu dàng như những nàng tiên
Em là du kích, em là giao liên
Em chính là quê hương ta đó
Mười một năm rồi ta nhớ, ta thương

Đêm đầu tiên ta ngủ giữa quê hương
Sao thấy lòng ấm lạ
Dù ngoài trời tầm tã mưa tuôn
Tiếng đại bác gầm rung vách lá
Ôi quê hương ta đẹp quá!
Dù trên đường còn những hố bom
Dù áo em vẫn còn mảnh vá
Ta về đây chẳng mang gì cho em cả
Chỉ có trái tim chung thủy, sắt son
Và khẩu súng trong tay cháy bỏng căm hờn.”
(Trích “Trở về quê nội”)

Yêu mình, ai mà không như thế. Cha anh chúng ta cũng thế, nhưng khái niệm yêu mình ở đây đã được mở rộng để gắn kết keo sơn với yêu gồm cả quê hương xứ sở. Có lẽ vì vậy mà trước cái hữu hạn của kiếp người, cha anh chúng ta không nói: sống là tạm đến, chết là tạm đi như Dương Chu mà nói: sống là gửi, chết là về (với muôn thuở quê hương!). Hãy nghe Trần Bình Trọng nói khi sa vào tay giặc, trước sự dụ dỗ của tướng giặc đối với ông: “Ta thà chết làm quỉ nước Nam, chứ không thèm sống làm Vương đất Bắc!”. Cái khí phách đó đã hiển hiện ra trong thời đại chống Mỹ cứu nước ở thế hệ cha anh chúng ta như thế này đây:

“… Anh chết rồi, nhưng lòng dũng cảm
Vẫn đứng đàng hoàng nổ súng tiến công
Anh tên gì hỡi Anh yêu quí
Anh vẫn đứng lặng yên như bức thành đồng
Như đôi dép dưới chân Anh giẫm lên bao xác Mỹ
Mà vẫn một màu bình dị sáng trong.

Không một tấm hình, không một dòng địa chỉ
Anh chẳng để lại gì cho riêng Anh trước lúc lên đường
Chỉ để lại cái Dáng - Đứng - Việt - Nam tạc vào thế kỷ:
Anh là chiến sĩ Giải Phóng Quân

Tên Anh đã thành tên đất nước
Ơi Anh Giải Phóng Quân!
Từ dáng đứng của Anh giữa đường băng Tân Sơn Nhất
Tổ Quốc bay lên bát ngát mùa xuân.”
(Trích “Dáng đứng Việt Nam”)
Leanhxuan.jpg

Lê Anh Xuân
Nhà thơ Lê Anh Xuân (1940-1968)
Sinh Ca Lê Hiến
thành phố Bến Tre, tỉnh Bến Tre
Mất huyện Cần Đước, tỉnh Long An
Nguyên quán Việt Nam
Nghề nghiệp Nhà thơ, nhà báo
Tác phẩm nổi bật Dáng đứng Việt Nam

Cái khí phách ấy có tên gọi chính xác là gì nếu không phải là "Bất Khuất"?!...
***

Nhìn lại, chặng đường đã qua thật dài ghê mà cũng quanh co, ngoắt ngoéo đến lạ. Ngày mới lên đường chúng ta đâu có ngờ là phải đi xa và vòng vo đến như thế để tìm kiếm vu vơ “một cái gì đó” chẳng biết là cái gì trong kho tàng triết học cổ kim. Sự hoang tưởng thái quá đôi khi gây ra những lầm lạc tai hại, những sa đà vớ va vớ vẩn không đáng có và những rề rà “vòng vo tam quốc” không biết dùng để làm gì cho cuộc đời này (chứ nói gì đến mai sau)? Bản thân chúng ta vốn dĩ đã là những kẻ ham vui, tò mò tọc mạch thuộc hàng nhất nhì thế giới và đã không bao giờ còn “cải tạo” được nữa có lẽ cũng là một nguyên nhân không nhỏ dẫn đến làm cho chặng đường đó dãn ra, kéo dài mãi!... 

Cái gì thuộc về lịch sử không bao giờ còn có thể sửa chỉnh được nữa chăng? Không phải mà cũng..phải! Sẽ không bao giờ sửa được các biến cố đã xảy ra cho quá khứ vì lỡ rồi, đành chịu vậy, nhưng vẫn có thể sửa được cho hiện tại và tương lai vì con người là thực thể biết sáng tạo có chủ đích! Biết đâu chừng một người nào đó, với góc độ quan sát khác, sẽ nhìn thấy ở những quãng mà chúng ta cho là vô ích ấy một vài cái gì đó có giá trị, thậm chí là một câu thần chú để mở một con đường mới đi tìm những báu ngọc. Kinh nghiệm đã cho chúng ta thấy rằng trong một câu nói bâng quơ nhất cũng hàm chứa những điều cốt yếu về Tự Nhiên Tồn Tại. chẳng hạn ai đó buột miệng: "Thật chán mớ đời!", thì ngay lập tức hàng loại thắc mắc được nêu ra như: "Đời là gì?", "Vì sao lại chán nó?", "Nó có tội gì?"..., và nếu muốn trả lời hết các câu hỏi đó cho tỏ ngọn ngành, thì phải đi đến tận đầu nguồn...Vũ Trụ. Các bậc tiền bối đã tóm tắt lại đại ý rằng từ một hạt cát có thể suy ra toàn bộ thế giới khách quan được. Vì thế mà nhà vật lý nổi tiếng Stephen Hawking đã nói một câu, đầy hình tượng: “Vũ trụ trong vỏ hạt dẻ”. Có lẽ trong Tự Nhiên chẳng gì là có nghĩa đối với Tồn Tại cả và chẳng gì là vô nghĩa đối với chúng ta cả?... 

Suy nghĩ như thế làm cho chúng ta đỡ áy náy hơn để kiên định đi hết những chặng đường phía trước (mà chúng ta ngỡ tưởng đã hoạch định rõ ràng từ thuở ban đầu). Anh em ơi hãy tin đi, còn xa vời lắm mới tới được đích, nếu cái đích ấy...có thật! 

Bây giờ là lúc chúng ta nên tổng kết lại xem cuộc hành trình lê thê vừa qua, chúng ta đã “kiếm chác” được những gì. 

Trước hết, không cần bàn cãi, chúng ta đã bận túi bụi, giết được vô số thời gian ăn không ngồi rồi. Ăn không ngồi rồi là trạng thái khủng khiếp nhất của đời người. Đó là một khoảng hoàn toàn cô đơn, hoàn toàn trống trải, tất cả đều như ngưng đọng, trôi nổi bồng bềnh trong vô vọng, chẳng đợi chờ ai, trừ cái chết không đợi vẫn xồng xộc chạy đến. Tiếp theo, chúng ta đã được đi khắp đó cùng đây, đến những nơi mà dù người có tiền muôn bạc bể cũng không dám mơ ước. Chúng ta đã tận mắt thấy được nhiều điều mà không phải ai cũng thấy, đã diện kiến được không ít những tiên hiền, thánh triết cũng như những hôn quân, bạo chúa. Không những thế, chúng ta còn vô cùng hãnh diện vì đã được đến rất gần để ngắm nghía nhiều mỹ nhân thời cổ đại đã lưu danh hậu thế như Cleopát, Đát Kỷ, Tây Thi … thậm chí còn ngửi thấy cả mùi hương ngạt ngào toát ra từ cơ thể họ. Thứ nữa là chúng ta đã moi ra được (theo nhận định của… chúng ta) vài ba sự thực (?) mà lịch sử cố tình dấu diếm. Thứ tư, điều này thực sự quan trọng, chúng ta đã có dịp học lại, nghiền ngẫm lại những bài học, những giáo huấn từ lịch sử. Qua đó mà quan niệm của chúng ta về cuộc đời, về bổn phận làm người đã có những thay đổi lớn lao đến tận cội rễ. Dù không biết đó là theo hướng tiêu cực hơn hay tích cực hơn nhưng cơ bản là thế này: chúng ta đã thấy yêu thương đồng loại hơn rất nhiều, biết sống nhường nhịn hơn, tương trợ hơn và vị tha hơn. Cuối cùng, điều đặc biệt nhất, chính yếu nhất, phù hợp với ý đồ nảy ra cuộc hành trình, đó là từ nhiều góc độ, chúng ta đã phát hiện ra những phô diễn của một hình dáng được cho là bí ẩn của mọi bí ẩn, tuyệt tác của mọi tuyệt tác, huyền diệu của mọi huyền diệu, thiêng liêng của mọi thiêng liêng và tầm thường của mọi tầm thường, đó là Tự Nhiên Tồn Tại. Từ nay, chúng ta đã biết rằng Tồn Tại là Tồn Tại mà cũng không phải là Tồn Tại; Tồn Tại là Tự Nhiên mà cũng không phải Tự Nhiên. Tự Nhiên là không lựa chọn mà cũng lựa chọn, không tạo dựng mà cũng tạo dựng. Do đó Tự Nhiên Tồn Tại cung là vốn dĩ thế, không cần nhận thức của Tư duy nhưng Tư duy thì luôn luôn “nghĩ” về Nó, buộc phải nghĩ về Nó và gọi là Thế Giới Khách Quan. Thế giới khách quan chính là qui ước hình thành nên từ sự thỏa thuận giữa tính khách quan của Tự Nhiên Tồn Tại và tính chủ quan của Tư Duy, mà Tư Duy, xét ra thì cũng là “máu xương” của Tự Nhiên Tồn Tại. Có thể nói rằng Tự Nhiên Tồn Tại giàu có tuyệt đối bởi vì nó không thiếu bất cứ một thứ gì. Toàn bộ đều thuộc quyền sở hữu của Nó từ không gian, thời gian đến vật chất, vận động. Nó có quyền lực tuyệt đối vì vạn vật đều phục tùng Nó. Nhưng Nó cũng lại nghèo “mạt rệp” và chẳng có chút quyền lực, danh phận gì, hoàn toàn vô hữu, vô vi và vô danh. Tự Nhiên Tồn Tại vô cùng vui vẻ hạnh phúc vì sự quây quần, nhảy múa không ngừng của vạn vật - hiện tượng. Nhưng vì Nó là tất cả cho nên Nó là duy nhất, trở thành cô đơn, buồn tẻ cùng cực. Tự Nhiên Tồn Tại trường sinh bất tử vì Nó vô thủy vô chung, không có trạng thái (lúc nào cũng là Nó, bất biến nếu xét đến toàn cục!), nhưng cũng trong vòng tuần hoàn ''sinh - lão - bệnh - tử - sinh …'' vì cũng có các trạng thái (lúc nào cũng biến đổi nếu xét về phương diện Tồn Tại)! Nói mãi về Tự Nhiên Tồn Tại sẽ không bao giờ hết nên chúng ta tạm gọi Tự Nhiên Tồn Tại là Cái Ấy, tạm gọi Cái Ấy là Đạo và tạm gọi Đạo là Tự Nhiên Tồn Tại để mà tạm sử dụng cho tạm hiểu, tạm lý giải nhân tình thế thái trong cái cõi cũng tạm nốt! Ha, ha...ha!..Hi, hi...hi!...He, he...he!... 

Cái Cõi Tạm ấy còn có nhiều nhãn mác khác nữa. Tùy tâm trạng và sở thích, người ta gọi đó là cõi Trần Tục (để phân biệt với cõi Niết Bàn) cõi Dương Gian (để phân biệt với cõi Âm Ti) … Nhưng thuần phác nhất, chúng ta cho rằng nên gọi là cõi Nhân Gian vì ở cõi ấy có nhiều "thằng người man trá" quá và mọi phô diễn về nhân tình thế thái đều xảy ra ở cõi ấy. Trong khắp Vũ Trụ, có rất nhiều cõi tạm nhưng chỉ có một kiểu cõi gọi là Nhân Gian. Ở cõi Nhân Gian, xảy ra đủ mọi chuyện như chiến tranh và hòa bình, yêu thương và ghét giận, hạnh phúc và bất hạnh, vui sướng và buồn khổ, lương thiện và tàn ác, dũng cảm và đê hèn, chính nghĩa và phi nghĩa… Nói chung là phô diễn đủ mọi hỉ, nộ, ái, ố và đương nhiên là cả những xiềng xích danh lợi và thị phi nữa. Trong cái cõi ấy, vì nằm trong vòng chi phối của danh lợi, của ''lành ít dữ nhiều'' và tùy thuộc vào bản tính, sự giáo dục và nhận thức mà mỗi cá thể khi lớn lên đều chọn cho mình một con đường sống, một lẽ sống, một phong cách sống, một mục đích sống khác nhau nhưng ưu tiên một thì đều giống nhau i xì: cố sống còn để chờ...chết! Trong chiến tranh, điều nói trên bộc lộ càng rõ rệt, gay gắt. Không người lính bình thường nào lại không tìm cách tránh đạn; không so vai, rụt cổ khi đạn pháo, bom nổ gần bất thình lình; không người lính bình thường nào lại không tìm cách sống còn. Và sống còn không phải vì danh thì cũng vì lợi. Câu này nghe thật chói tai nhưng lại là sự thật. Người lính đánh thuê chiến đấu là vì đồng tiền của kẻ đi thuê và một phần đôi khi cũng vì sở thích. Nhưng sở thích là gì nếu không là lợi (về tinh thần). Thế thì kẻ ôm bom khủng bố có vì danh lợi hay không? Có, chí ít thì cũng vì danh lợi của giáo phái mà người đó tôn thờ... Không phải chỉ trong chiến tranh mà trong các trò chơi mạo hiểm cũng xảy ra nhiều hành động quên mình đại loại như thế mà bản chất thì cũng vì danh, vì lợi: giữ gìn thanh danh, phô diễn tài năng, so giành quyền lực, còn không thì cũng vì lợi quyền, vì tiền bạc, hoặc đơn giản chỉ vì khoái cảm riêng tư. Từ đó mà có những khái niệm như: dũng cảm, gan dạ, sợ hãi, hèn nhát, liều mạng, mù quáng, điên rồ… và tùy vào ý nghĩa của danh, lợi của hành động theo đuổi mà nảy sinh ra những anh hùng. Theo ý chúng ta thì những hành động quên mình được gọi là anh hùng chỉ khi hành động đó có mục đích cứu nhân độ thế, phụng sự lẽ phải (theo quan niệm của đại chúng toàn nhân loại), xuất phát từ tình yêu thương vô hạn, trước hết là với dân tộc, quê hương đất nước mình; và cái danh ấy là do quần chúng ghi nhận, tôn vinh. 

Bẻm mép nói chuyện thiên hạ, vậy thì ngay lúc này đây, bản thân chúng ta nghĩ gì về cách sống cho hợp lẽ.? Trả lời câu hỏi này rất không dễ dàng. Trong vòng đua chen để ''kiếm chác'' danh lợi và xung quanh là biết bao nhiêu nhận định về thị phi, mà tìm ra được một thái độ sống, một cách sống vừa không trái với cá tính bản thân vừa hài lòng mọi người quả là quá khó khăn. Ai mà không có một thời “bâng khuâng đi kiếm lẽ yêu đời” và thử hỏi rằng mấy ai đã kiếm ra được chân tướng của cái lẽ yêu đời ấy? Chúng ta, những kẻ đã đi qua gần hết cuộc đời, được cho là đã từng trải và chiêm nghiệm nhiều, mà vẫn cứ ngạc nhiên về lẽ đời, tình người; vẫn chưa biết sống thế nào cho phải cho đúng với bản thân mình, và đồng thời với tất cả mọi người. Ở thời đại ngày nay, phải thừa nhận rằng con người đã làm ra biết bao nhiêu điều kỳ diệu, đã chế tác ra biết bao nhiêu công cụ, phương tiện phục vụ cho lợi ích sống còn, hưởng thụ của mình. Nhưng về mặt tình cảm, hình như con người vẫn chưa vượt thoát được ra khỏi cõi mông muội, dã man (cõi ích kỷ đến ác tâm của mình chứ không phải...của loài vật!). Có lẽ phải cần một thời gian tiến hóa dài lâu về...đạo đức nữa chăng? Hay là chẳng bao giờ có được một nền văn minh toàn diện và đích thực? Đừng nên bi quan như thế, phải có nền văn minh ấy! Chúng ta cho rằng, khi khoa học-kỹ thuật đạt đến trình độ dễ dàng tạo ra (toàn bộ) thực phẩm ngon lành cho con người từ các chất vô cơ, thì cũng là lúc nền văn minh đích thực văn minh (tức là nền văn minh chứa đựng toàn bộ cả đạo đức lẫn văn hóa, gọi là nền văn minh chân-thiện-mỹ) đã đến...Để làm người tốt trong xã hội, chúng ta trước mắt, phải tu dưỡng, tuân theo Đạo Nho, nghĩa là chúng ta phải nghe theo lời dạy của Khổng Tử về cách làm người quân tử. Trong đời thường, đó là những lời khuyên nghe qua rất hay, rất đúng. Nhưng đích đáng hơn, phải tuân theo Đạo Gia, nghe lời Lão Tử. Lời dạy của Lão Tử mới nghe thì có vẻ huyền bí, nhưng khi đã nghiền ngẫm "ngộ" ra, thì chí lý hơn nhiều, vì làm người sẽ không cương cứng mà nhẹ nhàng như nước chảy bèo trôi, sống an nhiên, phù hợp với Đức Huyền Diệu của Tự Nhiên!... 

Nếu mai này Tạo hóa cho chúng ta được sống lại một lần nữa với cuộc đời thứ hai, vì ''trót'' đầu thai vào thời đại mà xã hội vẫn còn là nơi nổi trội cho việc trước tiên là tìm miếng cơm manh áo để sống còn, sau đó là kiếm vinh quang để tự hào, rất có thể chúng ta sẽ sống như thế này: tuổi trẻ sống theo lời dạy của Khổng Tử, làm “cột trụ kiên cường” để lập nghiệp, tạo cuộc sống cho mình, và hãnh tiến giúp đời trong khả năng mình có thể. Rồi khi xã hội đòi hỏi thì theo gương Mặc Địch, tiết kiệm và “thắt lưng buộc bụng” để cứu trợ tức thời hoặc cùng mọi người “Kiêm Ái” lâu dài. Lúc thư thả sung túc thì sống khoáng đạt, hồn nhiên như Dương Chu. Về già sẽ “xuất thế vô vi”, ung dung tu tiên như Lão Tử. Nhưng trước hết, chúng ta sẽ đi học, và bài học đầu tiên bắt buộc đối với chúng ta lúc đó phải là bài học về Tình Yêu Thương. Chỉ khi hiểu được đến cội rễ của Tình Yêu Thương, chúng ta mới thấy được sự hợp lẽ tự nhiên của đạo đức và từ đó mới nhận chân được ý nghĩa đích thực của cuộc đời để mà biết sống tiến thủ như Khổng Tử nói, hy sinh như Mặc Địch làm gương, hưởng thụ như Dương Chu vô ước, an nhiên như Lão Tử trầm tư mặc tưởng, và tùy hòan cảnh, tình thế, tùy biến động của thời cuộc mà cố đạt cho trọn vẹn được hai chữ Hợp và Hòa. Nhưng chắc là khó lắm! Vào đời trong một xã hội vẫn còn đề cao danh lợi, phải cạnh tranh nhau, phải ganh đua mới có được tổ ấm, trong khi bên cạnh đó, biết bao nhiêu khoái lạc hàng ngày dụ dỗ, thì khó mà thành con người hoàn toàn lương thiện được. Có không, đến một thời đại mà trong xã hội loài người không còn tồn tại những khái niệm "danh lợi" và "tham muốn" nữa? 

Nói đến bài học về Tình Yêu Thương, chúng ta chợt nhớ đến một bài thơ đã may mắn thuộc được từ thời thơ trẻ và giữ gìn trong lòng đến tận bây giờ. Theo “truyền khẩu” thì bài thơ đó xuất hiện lần đầu tiên trên một tờ báo ở Sài Gòn vào những năm 50 của thế kỷ trước. Không biết sự “truyền khẩu” có chính xác không nữa? Nhưng không quan trọng, cái quan trọng là tinh thần của bài thơ đã làm nó ''sống mãi'' trong lòng chúng ta như một kim chỉ nam cho hành động. Còn hay hay không, chúng ta không bình luận. Chúng ta cứ trình hiện nguyên văn bài thơ (không biết tác giả là ai) ra đây, coi như là lần xuất hiện thứ ba của nó trong xã hội và mong nó sống thêm một thời gian nữa trong lòng người đời:


TRÊN ĐỐNG RÁC

Chiều xuân muộn trải tâm tình khao khát
Máu thêm yêu rào rạt mảnh hồn trai
Tôi gặp em một mình trên đống rác
Tóc rối bời, nắng nhạt phủ bờ vai


*
Em đào em bới
Em xới em moi
Đống cặn bã của vàng son nhung lụa
Dưới lớp rác hôi tanh và nhầy nhụa
Em đang tìm chén gạo cho ngày mai


*

Một cây đinh ngắn
Nửa mảnh sứ dày
Vài chiếc khoen đồng
Đôi con vít sắt
Người ta vứt của đời em cứ nhặt
Nhục hay vinh, thây kệ chuyện trần ai!


*

Một kẻ đi qua
Nhiều kẻ đi qua
Một chiếc xe qua
Nhiều chiếc xe qua
Người trên xe bịt mũi phất mùi xoa
Kẻ dưới lộ cũng cau mày rảo bước
Người ta sợ mùi hôi tanh ẩm ướt
Làm bợn nhơ nếp sống đượm xa hoa
Áo đẹp, khăn thơm, mắt biếc, tay ngà
Ai để ý làm chi trên đống rác
Đang triển lãm bức tranh đời bi đát
Đượm màu thương, thời đại chửa ghi lời!


*

Người em thương yêu ơi!
Em có biết hay là em không biết
Rằng đất nước em giàu khôn kể xiết
Vô tận tài nguyên, phong phú hoa màu
Bạc nào mua cho hết lúa Cà Mau
Vàng đọng khối cao su miền đất đỏ
Cây trái ngọt bốn mùa thơm, béo bổ
Bờ Cửu Long hiền dịu tiếp phù sa.
Bởi vì đâu bầu vú mẹ tuôn ra
Dòng sữa ngọt mà con không được hưởng?
Để cho em phải sớm chiều vất vưởng
Mảnh đời thơ làm bạn với hôi tanh
Cánh hoa non ngào ngạt đượm hương lành
Nở gượng gạo, âm thầm trong héo hắt.


*

Nắng nhạt lần lần, một ngày sắp tắt
Em ra về, bóng nhỏ ngả xiêu xiêu
Mảnh thân gầy chập chọang trên đường chiều
Bên tấp nập, dòng người xe cuộn chảy
Bỗng dừng bước, em cau mày ái ngại
Một lão già hành khất mỏi hơi than
Giơ tay xin, lê lết tấm thân tàn
Trên hè phố, người lại qua lạnh lạt
Người ta phớt, người ta xua, người ta quát
Hoặc lắc đầu bình thản bước đi qua
Từ nhà ai văng vẳng một lời ca:
“Đời đẹp lắm, buồn đau đà rủ sạch!...”
Em ứa lệ lần trong manh áo rách
Cầm trao cho tờ giấy bạc bèo nhèo
Bài thơ thương giữa những kẻ đói nghèo
Đâu ai thấy chói ngời trên đống rác!


*

Người em nhỏ mà tuổi thơ bi đát
Kéo lê thê trên đống rác ven đường
Má chưa hồng đã dạn gió dày sương
Môi chưa thắm đã héo cùng mưa nắng
Em đã rắc những ý tình cay đắng
Lên lòng tôi để kết lại thành thơ
Đắng mà thơm ngào ngạt đượm hương mơ
Cay mà dịu, ngọt thanh tình nhân loại


*

Đêm nay,
Mực chảy thành thơ giữa tiếng cười man dại
Ngoài đường kia ánh điện nở hào quang
Trải vàng son lên đại lộ huy hòang
Tôi ngồi đây âm thầm trong ngõ tối
Trách tất cả gông cùm trên thế giới
Sao lại xiềng đôi cánh của tình thương?!
(Chép lại báo “Nhân đạo”, Sài Gòn 1951)
***

Nào, anh em ơi! Chúng ta lại tiếp tục lên đường, lang thang về nơi vô định. 
Chúng ta lên đường mà không biết tiếp tục...đi đâu, vì trước chúng ta chẳng có con đường nào cả, dù đường xá chằng chịt! 
Nói thế e rằng nhiều người nghĩ chúng ta ''rối loạn tâm thần'' nên chúng ta nói rõ hơn: phía trước rất nhiều đường nhưng không có con đường nào dành cho những kẻ học thì thiếu nhưng hoang tưởng lại thừa như chúng ta cả. Chúng ta phải tự vạch lối mà đi, mở đường mà tiến, vừa đi vừa khai phá. Như thế, sẽ mệt một tý nhưng bù lại, không bao giờ bị… “kẹt xe” hoặc lệ thuộc vào “đèn xanh, đèn đỏ”. Đi trên đại lộ ngày nay sẽ không bao giờ còn được nhìn thấy sắc màu của tự nhiên nữa, đi trên lối mòn ngày nay sẽ không bao giờ còn được nhìn thấy hoa thơm cỏ lạ nữa! Đã nô lệ, quen rồi, thì đâu còn biết tự do!??? 
Đi đâu bây giờ? Thôi, cứ tùy cơ ứng biến, ra khỏi quán “Kiều Mi” hẵng hay! 
-Tính tiền đi em! - Chúng ta gọi cô gái chạy bàn mặc áo hở nửa ngực đang lúi húi dọn dẹp ở góc quán. 
Quán đã vắng hoe, chỉ còn lác đác vài ba ông khách “quá hớp” ngồi với “bồ nhí” hoặc đang cố gắng làm ra những “ranh ngôn” cuối cùng với bạn bè. Bà bếp đã về từ lâu, chủ quán cũng đã về. Thường thì khi về, chủ quán giao lại cho cô gái hở ngực. Chắc cô ta là người nhà của ông ta. Không thấy Hoa đâu nữa. Giờ này mà nàng còn ở lại mới là chuyện lạ. Hôm nay có thể Hoa rất vui vì nhờ cái thùng chứa là chúng ta mà lượng bia bán được chắc chắn là tăng lên đến đáng nể. 
Cô gái hở ngực cầm hóa đơn tính tiền lại. 
Chúng ta xòe tiền ra: 
- Em giữ lại tiền dư đi, khỏi thối… Mà em tên gì vậy em? 
- Cảm ơn mấy anh! Dạ, em tên Nguyệt. Anh hỏi tên em lần này là lần thứ tám rồi đó nha! 
- Vậy hả? Xin lỗi em, anh có cái tật hay quên. Thôi chào nhé! Lần sau gặp lại tụi anh sẽ không dám quên nữa đâu. Nguyệt là trăng, trăng tròn là Nguyệt, tên em đẹp lắm đấy… Tụi anh về nha! 
- Dạ! 
Chúng ta chếch choáng đi ra. 
Đêm thoáng đãng và mát quá! Dù không thấy được ngôi sao nào nhưng chúng ta đoán bầu trời rất trong, chỉ còn vương vất vài đụn mây trắng như làn khói mỏng còn lưu lại từ cuộc ''thư hùng'' của thiên nhiên vừa qua. Đêm thành phố thời ''hại điện'', đèn nhiều quá! Nếu không chủ ý thì dù trời trong cũng khó thấy trăng, sao. Nếu lúc này mà đứng ở vùng quê nào đó, trên một cánh đồng đâu đó thì chắc chắn sẽ thấy vằng vặc được ngàn sao (không thể thấy Nguyệt được vì chưa phải mùa trăng, muốn không phải mùa trăng mà thấy Nguyệt thì chỉ còn cách tưởng tượng hay quay lại quán “Kiều Mi”, mà...cũng chưa chắc!). Thích nhất ở đất phương Nam này có kiểu mưa như thế: ầm ào, sôi nổi một cách dứt khoát, xong thì thôi, không lã chã sầu thảm, lê thê đến nhão cả người... 
Chúng ta đi đâu đây? Về thôi! Không, chưa thể về được! Ngày ra đi chúng ta đã hứa với lòng là phải tìm được cái gì đó thì mới trở về với mụ vợ quanh năm chỉ biết ''lo toan nghèo khó'' cho chồng con một cách ''thương lắm'' cơ mà!? Ừ nhỉ, chưa về được đâu!... 
Chúng ta đã thấy được hình bóng của Tự Nhiên Tồn Tại nhưng còn nhạt nhòa; chúng ta đã phát hiện ra viên ngọc quí trong lòng Lão Tử nhưng cũng chỉ là sự phản chiếu dù rất lung linh của cái hình bóng ấy. Nghĩa là chúng ta chỉ mới nhìn thấy được cái vẻ bề ngoài, cái hình thức biểu hiện của cái gì đó mà thôi. Thế thì rõ ràng là chúng ta vẫn chưa biết cái gì đó ấy thực chất là… cái gì? 
Tự Nhiên Tồn Tại phô bày ra Vũ Trụ các sự vật - hiện tượng mà chúng ta có thấy hoặc không thấy, vì Nó phô bày đâu cho riêng chúng ta!? Cái Vũ Trụ ấy vô cùng sinh động, biến đổi không ngừng theo nguyên lý nhân - quả. Không có một sự biến hóa, sự sinh - vong nào lại không có nguyên nhân và cũng là nguyên nhân của sự biến hóa sinh - vong kế tiếp. Nhưng cứ theo cái đà ấy mà luận thì phải có một nguyên nhân đầu tiên hay người ta thường gọi là cú hích đầu tiên. Để tạo được cú hích đầu tiên thì phải có một Thượng Đế - cái đầu tiên hơn cả đầu tiên!? Chúng ta không thích gọi là Thượng Đế nên chúng ta gọi là Tự Nhiên Tồn Tại. Mà Tự Nhiên Tồn Tại thì không thị phi, cứ thế, vốn dĩ thế thôi, vô thủy vô chung. Vậy có cú hích đầu tiên không?... 
Vạn vật, kể cả con người nữa, sinh ra từ đâu và khi bị diệt vong rồi thì về đâu? Câu hỏi dằn vặt này và việc không thừa nhận cú hích đầu tiên, cùng với sự phô bày ra ánh sáng ngập tràn Vũ Trụ này sẽ trước sau gì cũng tất yếu dẫn đến Nền Tảng. Nền Tảng là cái mà ngũ quan của chúng ta chưa quan sát, cảm nhận được toàn diện, nhưng nhờ các phương tiện, thiết bị tối tân mà con người đã chế tác được, đã một phần nào đó lộ diện. 
Thế thì cái gì đó chính là Nền Tảng? Đúng mà cũng chưa chắc đã đúng, hoặc đúng nhưng chưa triệt để. Cần phải cho rằng cái gì đó là cái làm nên cái Nền Tảng ấy (?). Thế thì lại hỏi: cái gì đó làm nên Nền Tảng là cái quái gì? Đó cũng chính là vật chất chăng? Mà vật chất thì không thể là mông lung được. Điều đó đưa chúng ta đến dự đoán rằng: Nền Tảng là thứ không có nguồn gốc vì là thứ vốn dĩ thế nhưng phải được xây dựng nên từ những thứ cực tiểu, từ những cái Một vô cùng nhỏ, nhỏ nhất tuyệt đối, và chúng ta gọi đó là hạt vật chất, hay đơn vị tuyệt đối của vật chất. Hạt vật chất (tạm gọi thế đã) chính xác là cái gì đó mà chúng ta cần tìm; là viên ngọc quí giá tuyệt đối của Tự Nhiên Tồn Tại. Nhận thức không thể giả định là nó không tồn tại được, vì giả định như thế thì không gian không thể tồn tại. Vì không gian là cái "Có" tất cả nên khi không gian không tồn tại thì chủ thể quan sát cũng không tồn tại và do đó bản thân nhận thức cũng không tồn tại (và khi nhận thức không tồn tại nữa, ''tiêu'' rồi, thì còn đâu "hiện thực khách quan" mà giả định?!). 
Rõ ràng, bước đường tiếp theo của chúng ta là đi tìm những viên ngọc quí ấy và quan sát hành vi của chúng cũng như cái Nền Tảng mà chúng tạo ra. Nhưng trước hết phải rà soát xem tổ tiên chúng ta đã tìm thấy chưa hoặc đã tìm thấy đến đâu, kẻo lại làm chuyện...''biết rồi, khổ lắm. nói mãi'', chán chết... 
Chỉ khi thấy được các hạt ngọc quí ấy thì chúng ta mới hiểu được Nền Tảng và như thế chúng ta mới có cơ may giải thích được mọi hành vi của mọi sự vật - hiện tượng và từ đó mới thấy được chân tướng của Tự Nhiên Tồn Tại, hay Lão Tử gọi là Đạo, đồng thời mới thấy được chân tướng của thứ mà loài người tưởng ''biết tỏng'' nhưng thực ra chưa biết và gọi là vật chất, cũng như hiểu rằng không bao giờ con người có thể ''sờ'' được ''tiền thân'' của vật chất. 
Thế là, chúng ta đã xác định được dứt khoát mục đích của cuộc hành trình tiếp theo là loanh quoanh trong Tồn Tại để tìm hiểu...cội nguồn của vật chất,...nếu có. Và biết đâu trong cuộc hành trình này, chúng ta còn có thể gặp được Tạo Hóa (vì Tạo Hóa không thể ở ngoài Tồn Tại được!) để chất vấn một đôi điều gọi là quan trọng cũng nên!? 
Nhưng Tạo Hóa là gì? Đó là câu hỏi dễ tột cùng mà cũng khó tột cùng. Hỏi nhà khoa học duy tâm, họ sẽ trả lời rằng: "Tạo Hóa là Thượng Đế". Hỏi nhà khoa học duy vật, họ sẽ trả lời rằng: "Tạo Hóa là Tự Nhiên". Còn nếu hỏi chúng ta, thì vì có họ hàng với anh nông dân nọ, nên câu trả lời là: "Trời sinh ra thế!". Đó là những cách trả lời nhanh gọn nhất, ngắn nhất, mà cũng mù tịt nhất! Trả lời như không trả lời! Nhưng nếu đòi hỏi câu trả lời dài hơn, minh bạch hơn, chính xác hơn và đích đáng hơn, thì xin thưa, đã gần chục ngàn năm nay rồi, hỏi có ai trong số loài người đã thực hiện được!
Dù sao, chúng ta cũng "dám" khẳng định Tạo Hóa là thứ không gì làm ra nhưng làm ra tất cả. Và vì mới thực hiện một "tua" du lịch về Trung Hoa cổ đại thời Xuân Thu - Chiến Quốc, được "tai nghe mắt thấy" nhiều điều, tích lũy được ít nhiều kinh nghiệm, nên cũng có chút ít phán đoán. Và chúng ta phán đoán:
...Sự thực khách quan tuyệt đối là chỉ có "CÓ" tuyệt đối, không có "KHÔNG" tuyệt đối. Nói cách khác, sự thực khách quan là chỉ có Tồn Tại, không có Hư Vô. Muốn thế, Tồn Tại không thể yên lặng mà phải luôn luôn vận động để thể hiện sự Tồn Tại của mình. Suy ra, thể hiện là đặc tính vốn dĩ của Tồn Tại, là bản chất của Tồn Tại. Trong Vũ Trụ, mọi thực thể đều phải thể hiện ra xung quanh, đối với lẫn nhau, dù bằng cách này hay cách khác. Từ đó mà có các định luật cảm ứng điện - từ, vạn vật hấp dẫn, tác dụng tương hỗ...Ngày nay, tuy các định luật ấy đóng vai trò là nền tảng cơ bản góp phần xây dựng nên nền văn minh nhân loại, nhưng hình như vẫn chưa phải là chân lý khách quan đích thực? Chẳng hạn khi khoảng cách giữa hai vật có khối lượng 1g  tiến tới 0 (nhưng khác 0) thì rõ ràng là còn lực hấp dẫn nhưng giá trị lực ấy bằng bao nhiêu, và theo công thức thì có thể lớn đến vô hạn? Trong thực tế đâu có thấy xảy ra như vậy!
Dù chưa có một người nào đủ tài năng đứng ra thiết lập thành một học thuyết triết - khoa hoàn chỉnh, dù triết học duy tồn (một học thuyết chưa thành hình, cũng chỉ ở dạng phán đoán) mới chỉ là hình dung sơ phác, nhưng tôi tin rằng rồi đây, trong tương lai, nó sẽ đóng vai trò trọng yếu trong nhận thức của loài người về thế giới tự nhiên (!).
Tương tự như đối với triết học Mác - Lênin, trước đây, tôi xem vật lý học là kim chỉ nam tìm hiểu nguyên nhân xuất sinh Vũ Trụ, nhưng dần dà tôi tin vào triết học duy tồn hơn. Vì dù vẫn chưa chứng minh được, dù những quan niệm của triết học duy tồn hầu hết đều xuất phát từ suy luận cảm tính, nhưng cách giải thích của nó về xã hội nói riêng hay tự nhiên nói chung có vẻ giản dị hơn, lưu loát hơn, vấp váp rất ít mâu thuẫn. Chẳng hạn, triết học duy tồn cho rằng, thế giới này không có gì ngoài không gian và thời gian. Không gian là một tồn tại thực, một mạng khối thể tích bền chặt không phân biệt trong - ngoài, được kết thành từ các điểm KG. Còn thời gian là một tồn tại ảo, là thước đo của sự vận động, chuyển hóa không gian. Thời gian tồn tại song hành, gắn kết chặt chẽ với không gian. Có thể nói, tuy không thể quan niệm không gian và thời gian hòa lẫn với nhau để hợp thành một khối không - thời gian như vật lý học hiện nay quan niệm được, nhưng không có không gian thì không có thời gian, và ngược lại, không có thời gian thì lập tức xuất hiện Hư Vô. Hư Vô là không Tồn Tại, là tuyệt đối không có gì. Trong hiện tại và hồi tưởng, thì quá khứ và tương lai là tồn tại ảo, nhưng nếu ở ngoài hồi tưởng, thì chúng chính là Hư Vô. Đối với căn nguyên Vũ Trụ, triết học duy tồn cho rằng, Vũ Trụ là một "khối" Tự Nhiên Tồn Tại vĩ đại. Tự Nhiên Tồn Tại là vô thủy vô chung, là vốn dĩ thế, có sẵn như thế, vận động theo ý chí phi lý trí tự thân, thống nhất và duy nhất: bảo toàn Tồn Tại, không cho phép chuyển hóa Tồn Tại thành Hư Vô. Để phần nào giúp quan niệm ấy dễ dàng hơn, chúng ta có thể hình dung Tự Nhiên Tồn Tại là một đại dương mênh mông đầy ăm ắp mà không gian là nước và vật chất là băng, băng tan về với nước, nước kết lại thành băng. Vì đại dương ấy không có khái niệm trong - ngoài nên nó cũng không có khái niệm vô hạn - hữu hạn: đi về hướng tột cùng nhỏ sẽ đến tột cùng lớn và ngược lại, đi về hướng tột cùng lớn sẽ đến tột cùng nhỏ...
Với quan niệm như thế về Vũ Trụ, triết học duy tồn đã dứt khoát khẳng định rằng không có Thượng Đế hoặc nếu có thì Thượng Đế chính là Tự Nhiên. Để nhận thức được tận cùng Vũ Trụ thì trước hết và trên hết phải dứt khoát phủ định sự tồn tại của Thượng Đế. Còn học thuyết Big Bang, dù thấm đẫm tính khoa học, vẫn không loại bỏ được hoài nghi có hay không về sự tồn tại của Thượng Đế. Sự giải thích nửa vời về Vũ Trụ của học thuyết Big Bang dẫn đến việc dung túng khả năng tồn tại của Thượng Đế trong khoa học đã không những làm cho tư tưởng vô thần khoa học lâm vào tình trạng hoang mang, nhụt chí, mà còn làm cho tín ngưỡng tôn giáo (nhất là thiên chúa giáo và phật giáo) trở nên có vẻ thắng thế, "cười mũi" vào khoa học, thậm chí lấy tôn giáo làm chỗ dựa trí tuệ mỗi khi gặp bế tắc. Có lẽ đó cũng là nguyên do đưa Anhxtanh đến với tư tưởng phiếm thần đầy tính thỏa hiệp, yếm thế:

"Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt lên trên mọi thần linh, giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn siêu nhiên, đặt trên căn bản của ý thức đạo lý, phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi lĩnh vực trên trong cái nhất thể đầy đủ ý nghĩa. Phật giáo sẽ đáp ứng được các điều kiện đó".

"Nếu có một tôn giáo nào đương đầu với các nhu cầu của khoa học hiện đại thì đó là Phật giáo. Phật giáo không cần xét lại quan điểm của mình để cập nhật hóa với những khám phá mới của khoa học. Phật giáo không cần phải từ bỏ quan điểm của mình để xu hướng theo khoa học, vì Phật giáo bao hàm cả khoa học cũng như vượt qua khoa học".
Và ông để lại cho đời một phủ dụ nổi tiếng: "Khoa học mà thiếu tôn giáo là khập khiễng. Tôn giáo mà không có khoa học thì mù quáng".
Theo chúng ta thì câu nói đó không hay tý nào! Vì bất lực trước cuộc sống mà ngay từ thuở chào đời, tôn giáo đã mê muội, mù quáng, lầm lạc, khuyên con người giũ bỏ mọi lạc thú trên đời, thụ động tu thân, và do tính bảo thủ luôn tồn tại một cách tự nhiên trong tư tưởng của nó mà nó luôn mù quáng trong niềm tin tín ngưỡng của mình. Nhờ khoa học khai sáng nó mới dần dần tỉnh ngộ trong chừng mực nào đó. Nếu ai hỏi chúng ta về mối quan hệ giữa tôn giáo và khoa học, chúng ta sẽ nói thế này: "Chỉ có khoa học mới làm cho tôn giáo giác ngộ và cũng chỉ có khoa học mới đủ sức mạnh vùi chôn tôn giáo", hay thế này: "Tôn giáo mà thiếu khoa học thì không thể khai ngộ. Khoa học không mang màu sắc tôn giáo mới có khả năng nhận thức đúng đắn sự thực khách quan".
Học thuyết Big Bang hình thành trên hai cơ sở, một là từ lý thuyết tương đối rộng của Anhxtanh, hai là những kết quả đúc kết được từ việc quan sát các hiện tượng Vũ Trụ. Tuy rằng học thuyết Big Bang cho đến nay vẫn là giả thuyết, nhưng nền vật lý thực chứng đã gieo rắc niềm tin vững chãi về sự đúng đắn, tính hợp lý trong sự diễn giải về tiến trình hình thành Vũ Trụ đối với các nhà vật lý và ngày nay đa số các nhà vật lý đã coi thuyết này là một trong những kiến thức cơ bản để tìm hiểu Vũ Trụ. 
Tuy nhiên, như đã nói, quá trình hình thành học thuyết Big Bang cũng làm nảy sinh nhiều nghịch lý và nhiều câu hỏi nếu không dựa vào giả thuyết về sự tồn tại của Thượng Đế thì sẽ không trả lời được! Do đó, theo tôi, giả thuyết Big Bang có lẽ mãi là một huyền thoại làm say mê lòng người của vật lý hơn là một học thuyết khoa học thuần túy cho đến khi nó giải quyết ổn thỏa các nghịch lý và trả lời rốt ráo được một cách "phi thần học" tất cả những câu hỏi phát sinh trong suốt quá trình hình thành nên nó như hình thái Vũ Trụ trước khi có điểm kỳ dị, tại sao có lực hấp dẫn, vật chất tối - năng lượng tối có thật không,Vũ Trụ giãn nở đến đâu, bản chất của sự giãn nở Vũ Trụ....
Và thế là chúng ta đã xác định được một hướng đi!... Nhưng cụ thể là đi đâu?...Nói rồi! Đã gọi là loanh quoanh thì đi đâu cũng được, miễn là không về nhà!...Và chúng ta đi về phương xa vời ấy, đầy mông lung bất định, xác suất thành công khó mà cao được, nhưng cũng không thấp đến nỗi...vô vọng! Có thể vĩnh viễn không bao giờ về được nữa nhưng nếu có thế thì chúng ta cứ đi, để trốn những tháng ngày rảnh rỗi vô tích sự và cũng là theo tiếng gọi thiết tha của số phận! 
Những ai hoang tưởng cao độ cũng phải hành động như chúng ta thôi, duy nhất một lựa chọn, nghĩa là chỉ thế thôi, không có lựa chọn nào khác!... 
Nào, đi! 
Và chúng ta nghêu ngao hát:


“... trên đường ta qua không một dấu chân người.
Có chú nai vàng nghiêng đôi tai ngơ ngác.
Dừng ở chân đèo mà nghe suối hát,
ngắt một đóa hoa rừng cài lên mũ ta đi.

Trường Sơn ơi, ơi Trường Sơn ơi
đèo vút cao vượt qua mây gió,
đạp đá tai mèo bằng sức gió ngàn cân.
đi ta đi những trai làng Phù Đổng,
còn gì vui hơn đường ra trận mùa xuân.

Ôi có những vì sao thức cùng ta đêm nay.
Như mắt em sáng lên muôn niềm tin
ta nhớ má Năm Căn ta thương em Cửa Việt
mười bốn năm rồi giấc ngủ chưa tròn.
cả miền Nam đang gọi chúng ta đi...

Trường Sơn ơi, Trường Sơn ơi,
đêm nay ta đi Trường Sơn lộng gió,
trời vắng trăng sao nhưng tim ta rực lửa,
đi ta đi tung cánh đại bàng...”

(Trích đoạn bài hát hào hùng ''Bài Ca Trường Sơn'' ra đời từ thời chống Mỹ cứu nước)

(Hết chương X)

 


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét