THỰC TẠI VÀ HOANG ĐƯỜNG 10/B* (Hoàn chỉnh) (Nói về yôga, thiền)

PHẦN I:     CÓ MỘT CÁI GÌ ĐÓ

“Tại sao có một cái gì đó chứ không phải là không có gì?”

CHƯƠNG IX: NHÌN LẠI

-"Mục đích duy nhất của khoa học là giảm bớt vất vả cho nhân loại."
Bleiste

-"Đạo đức cao thượng nhất của nhân loại là gì?Đó chính là lòng yêu nước"
Napoleon.

-"Nhân loại luôn có một chỗ độc đáo:
nó lưu giữ hai bộ phép tắc đạo đức - một bộ lén lút, một bộ công khai; một bộ chân chính, một bộ làm bộ làm tịch"
Mark Twain

-“Nhân loại không có sự đòi hỏi nào cao hơn là làm sao đạt tới cái chí thiện, chí mỹ và chính vì giải quyết vấn đề ấy mà nó đã cố gắng...”
Vidhusekharsastri

-"Chủ nghĩa anh hùng theo mệnh lệnh, bạo lực phi lý và tất cả những điều vô nghĩa nhân danh lòng ái quốc – tôi mới căm ghét chúng làm sao!"
Albert Einstein

-"Lòng yêu nước là tình yêu kiên định, tuyệt đối với quốc gia, không phải là sẵn sàng phụng sự nó mà không phê phán, hay ủng hộ những yêu sách không chính đáng, mà là thẳng thắn đánh giá những tội lỗi và thói xấu của nó và sám hối cho chúng".
Aleksandr Solzhenitsyn

-"Đất nước nào cũng có những thời kỳ khi tiếng ồn ào và sự trơ trẽn trôi theo dòng giá trị; và đặc biệt trong những biến động lớn, tiếng kêu la của những kẻ vụ lợi và bè phái thường bị nhận nhầm là lòng yêu nước".
Alexander Hamilton

-"Anh có thể rứt bỏ con người khỏi xứ sở họ, nhưng anh không bao giờ có thể rứt bỏ được xứ sở nơi lòng người"
John Don Passos
  

 
Nói "chứng thực được nhiều điều..." nghĩa là còn rất nhiều điều khuất tất mà chúng ta phải "chịu ấm ức" trong lòng! Biết đâu chừng khoảng một thế kỷ nữa, lịch sử xã hội loài người giai đoạn tiền sử-cổ đại sẽ phải vào "Thẩm mỹ viện" để được "giải phẫu thẩm mỹ" tổng thể cho hợp lý hợp tình hơn, chủ yếu là do "phần" lịch sử ấy thuộc vùng Châu Á ngày nay đang "ôm đồm" một khối những "ngược ngạo" có vẻ...hơi bị khổng lồ(?)!... 

Trang Tử chưa phải là tiên hiền, thánh triết như Thái Thượng Lão Quân, Vương Thiện Lão Tổ(!)..., nhưng cũng thuộc hàng minh triết thượng thừa. Thấm nhuần tư tưởng Lão Tử nên ông có lối sống thật hồn nhiên, phóng túng, vô chấp, chẳng khác...Dương Chu. Trước khi chia tay, ông có làm bữa tiệc thết đãi chúng ta. Gọi là "tiệc" nhưng cũng giản dị, phần nhiều là rau quả, thịt ít thôi, mà cũng chỉ có hai món không luộc thì nướng. Nhưng rượu thì...tràn trề! Nghe đồn, loài người đã biết uống rượu từ thời tiền sử và vào khoảng 3000 năm TCN người Trung Hoa đã làm ra rượu bằng cách cho lên men trái cây. Hình như đến thời Trang Tử vẫn chưa xuất hiện loại rượu ngũ cốc thu được bằng cách chưng cất...Rượu của Trang Tử có lẽ thuộc hàng hảo hạng thời cổ đại, vì lũ sành rượu chúng ta (bợm thứ thiệt mà!) thấy tuyệt ngon, thơm mà không lừng, nồng mà không cay, gay mà không gắt, bắt là không tha, sa là phải đà(?!)...Trong suốt bữa tiệc, Trang Tử (có lẽ như mọi lúc) nói hùng hồn nhưng từ tốn (minh triết mà!), ăn hồ hởi nhưng chừng mực (theo Đạo mà!), uống nhiệt tình nhưng không túy lúy (tiên tửu mà!). Còn chúng ta thì khỏi chê, vì bị bữa tiệc thời cổ đại vừa lạ vừa ngon hút mất hồn nên nói nhát gừng kiểu phàm phu, ăn nhồm nhoàm kiểu tục tử, uống ừng ực kiểu...quỉ tửu! Thật là một cuộc no say đúng nghĩa "phồn thực" (nảy nở nhiều, sung túc)!... 
Ăn nhậu xong, Trang Tử hiếu khách, mời chúng ta một tuần trà. Chúng ta chiều lòng nán lại mà đầy sốt ruột. Giờ này không biết con tàu vượt thời gian chở chúng ta đến đây sắp trở lại chưa? Không khéo đến rồi, không đợi được, lại bỏ chúng ta, quay về thế kỷ XXI thì khốn! Tình thế buộc chúng ta uống trà thật nhanh cho mau hết nước trong bình để kết thúc sớm cuộc trà đạo làm chúng ta không thưởng thức được hương vị trà của thời cổ đại. Nhưng Trang Tử không nghĩ vậy. Tưởng chúng ta thích trà, ông sai nàng hầu nấu nước pha bình trà mới.
Khi nàng hầu của Trang Tử bưng khay trà mới lên, chúng ta tá hỏa.
Tá hỏa không phải vì phải uống thêm nước trà mà vì nhan sắc chim sa cá lặn của nàng hầu. Ôi, tuyệt trần! Chúng ta đã đi đó đây nhiều nơi trong thời Xuân Thu - Chiến Quốc mà không gặp người con gái cổ đại nào đẹp đến thế. Chúng ta nhìn như chết trân, đầu choáng váng như say rượu lại, chợt hiện lên bài báo đã đọc trên mạng ở thế kỷ XXI:
"Tứ đại mỹ nhân thời cổ Trung Quốc là những ai?
Lịch sử Trung Quốc có bốn người đẹp làm khuynh đảo đời sống chính trị được người đời truyền tụng có sắc đẹp khác thường, gọi là Tứ đại mỹ nhân.

Người đầu tiên là nàng Tây Thi

Cuối thời Xuân Thu, Tây Thi vốn là một cô gái giặt lụa Trữ La (phía Nam Chư Kị, tỉnh Chiết Giang ngày nay) ở nước Việt. Năm 494 trước Công nguyên, nước Việt bị nước Ngô đánh bại, Việt vương là Câu Tiễn dâng Tây Thi cho Ngô vương Phù Sai. Nàng trở thành một phi tử được Phù Sai rất sủng ái. Năm 473 trước Công nguyên, nước Việt diệt lại nước Ngô, truyền thuyết kể rằng Tây Thi theo quan đại phu Phạm Lãi của nước Việt bỏ vào Tây Hồ.

Đại mỹ nhân thứ hai là Vương Chiêu Quân

Vương Chiêu Quân tên thật là Vương Tường. Nàng vốn là một cung nữ của Hán Nguyên Đế. Năm 33 trước Công nguyên, chúa Thiền vu Hồ Hán Tà của thị tộc Hung Nô xin hòa với triều đình nhà Hán. Chiêu Quân tự nguyện xin đi xa lấy chúa Hung Nô và được phong là Ninh Hồ Yên Hung. Trong hơn 60 năm Vương Chiêu Quân đi hòa thân, Hung Nô và triều đình nhà Hán đối xử với nhau rất hòa thuận. Vương Chiêu Quân là người đã cống hiến rất nhiều cho an ninh quốc gia và quan hệ hòa bình giữa hai dân tộc.

Đại mỹ nhân thứ ba là Điêu Thuyền

Một nhân vật trong bộ tiểu thuyết cổ điển trứ danh "Tam Quốc Diễn Nghĩa". Nàng sống dưới đời Hán Hiến Đế (191 - 220 sau Công nguyên). Điêu Thuyền là ca kỹ trong phủ quan Tư đồ Vương Doãn (chức quan quản lý ruộng đất và nhân khẩu trong nước). Vì thái sư Đổng Trác chuyên quyền hoành hành tàn bạo, Điêu Thuyền muốn góp phần diệt trừ Đổng Trác đã tự nguyện hiến thân giúp Vương Doãn, dùng kế liên hoàn ly gián quan hệ giữa Đổng Trác và con nuôi của hắn là đại tướng Lã Bố. Cuối cùng Điêu Thuyền đã mượn được tay Lã Bố giết Đổng Trác.

Đại mỹ nhân thứ tư là Dương Ngọc Hoàn

Đời Đường. Năm 745 sau Công nguyên, nàng được Đường Huyền Tông phong làm quý phi. Dương Ngọc Hoàn thật ra không quan tâm gì đến chuyện chính trị trong triều đình, nhưng vì nàng được Đường Huyền Tông hết sức yêu quý, cho nên không những chị và em gái nàng đều được phong làm phu nhân mà cả đến người anh em con chú con bác của nàng là Dương Quốc Trung cũng có thể thao túng việc triều đình. Năm 775 sau Công nguyên, An Lộc Sơn dấy binh làm loạn với danh nghĩa diệt trừ Dương Quốc Trung. Sau khi Dương Quốc Trung bị giết, Dương Ngọc Hoàn cũng bị treo cổ.

"Trầm ngư", "lạc nhạn", "bế nguyệt", "tu hoa" từ đâu mà người đời dùng 4 cụm ngữ tu từ này để miêu tả sắc đẹp của họ?

Trầm ngư (cá chìm sâu dưới nước) 

Đó là nàng Tây Thi, tương truyền nàng đẹp đến nỗi ngay cả khi nàng nhăn mặt cũng khiến người ta mê hồn. Một hôm, nàng cùng các thôn nữ khác đến bên sông giặt giũ, khi nàng giặt áo bên bờ sông, bóng nàng soi trên mặt nước sông trong suốt làm nàng thêm xinh đẹp. Cá nhìn thấy nàng, say mê đến quên cả bơi, dần dần lặn xuống đáy sông. Từ đó, người trong vùng xưng tụng nàng là "Trầm Ngư".

Lạc nhạn (chim nhạn sa xuống đất)

Truyền thuyết nói rằng, khi Chiêu Quân đi ngang một hoang mạc lớn, lòng nàng chan chứa nỗi buồn vận mệnh cũng như lìa xa quê hương. Nhân lúc ngồi lưng ngựa buồn u uất, liền đàn "Xuất tái khúc". Có một con ngỗng trời bay ngang, nghe nỗi u oán cảm thương trong khúc điệu liền ruột gan đứt đoạn và sa xuống đất. bấy giờ nàng được xưng tụng là "Lạc nhạn".

Bế nguyệt (Mặt trăng phải giấu mình)

Giai thoại kể rằng, khi Điêu Thuyền ra ngoài trời đêm bái trăng thì mây kéo đến che khuất mặt trăng. Vương Doãn cho là lạ, lại muốn làm tôn lên vẻ đẹp của con gái, nên nói rằng Điêu Thuyền đẹp đến nỗi trăng cũng phải giấu mình. Từ đó, nàng được mọi người xưng tụng nhan sắc là "Bế nguyệt".

Tu hoa (khiến hoa phải xấu hổ)

Tương truyền, một hôm Quý phi đến hoa viên thưởng hoa giải buồn, nhìn thấy hoa Mẫu Đơn, Nguyệt Quý nở rộ, nghĩ rằng mình bị nhốt trong cung, uổng phí thanh xuân, lòng không kềm được, buông lời than thở: "Hoa à, hoa à! Ngươi mỗi năm mỗi tuổi đều có lúc nở, còn ta đến khi nào mới có được ngày ấy?". Lời chưa dứt lệ đã tuông rơi, nàng vừa sờ vào hoa, hoa chợt thu mình, lá xanh cuộn lại. Nào ngờ, nàng sờ phải là loại hoa trinh nữ (cây xấu hổ). Lúc này, có một cung nga nhìn thấy, người cung nga đi đâu cũng nói cho người khác nghe việc ấy. Từ đó, Dương Ngọc Hoàn được ví với cụm từ "Tu hoa""...

Trang Tử đang hồ hởi, thấy chúng ta đơ ra như gỗ đá, hướng mắt nhìn sỗ sàng có phần hơi thô lỗ vào nàng hầu của ông ta, thì bất chợt sựng lại, thở dài:

-Thôi, các ngài lên đường đi kẻo trễ. Đường về thế kỷ XXI xa lắm, không khéo chết già dọc đường thì nguy!

Trang Tử là bậc hiền triết nhưng là người cổ đại, ông đâu đã biết Anhstanh!

Chào tạm biệt (nói vĩnh biệt đúng hơn!) Trang Tử đáng kính, chúng ta theo kim chỉ nam vừa loạng choạng vừa nghêu ngao khúc quân hành lè nhè tự hát, nhưng trong suy nghĩ vẫn lầm tưởng mình tỉnh táo và bước đều như một đội ngũ chỉnh tề, hùng dũng, đi về phía có con tàu vượt thời gian huyền hoặc, trên con đường ngoằn ngoèo lầy bụi đỏ bởi bị ngàn vạn vó ngựa đã từng qua đây dày xéo.  

Mây đã sẫm nắng chiều, gió đã gai khí lạnh, nhưng lòng chúng ta vẫn chói chang rực rỡ, nồng nàn. Có lẽ tại rượu đã có tác động cộng hưởng đến nỗi khắc khoải nhung nhớ...thế kỷ XXI và nhất là, đến sự náo nức rằng chút xíu nữa thôi, sẽ không còn phải nơm nớp khảo cổ trước dày đặc làn tên mũi giáo mù quáng thời Đông Chu Liệt Quốc nữa. 

Vì chúng ta vừa đi vừa hát trong phởn chí như thế nên đã không để ý thấy ở bên phải, cách vệ đường không xa có một mái nhà. Chỉ khi qua rồi chúng ta mới biết bởi tiếng người từ đó theo gió vọng đến, và thật lạ là lơ lớ ngôn ngữ Việt, dễ đoán: "Đám binh nhà nào thế, mày?".Tiếng nói đó làm chúng ta bạt vía kinh hồn đến tê cứng người. Chưa kịp định thần thì vang lên tiếng cười ha há và lời đáp: "Binh biếc gì!...Mấy thằng An Nam vừa mới ăn nhậu ở nhà Trang tiên sinh ra ấy mà...Giờ này say mèm thế, không ngủ cho yên thân còn quờ quạng, lang thang nhập thế tìm cái giống gì không biết!?...Đúng là lũ dở hơi!...". Trong đời, có nhiều khi bị sỉ vả, chửi bới lại cảm thấy vô cùng sung sướng. Lúc đó, chúng ta cũng vậy...Nhưng sao thời đó đã có từ "an nam"? Và nếu có thì "an nam" thời đó có nghĩa gì, phải chăng là tên gọi của nước Việt một thời? Cũng có thể là "thực phẩm" (năng lượng) trong ngôn ngữ Ấn Độ cổ đại mà có lần chúng ta đã nhắc qua? Hay là cả hai? Chịu chết!!! Xin "tặng" câu đố này cho các nhà nghiên cứu lịch sử vậy! 

Mới biết, hiểu được điều hay lẽ phải trong cuộc sống đã rất khó rồi, sống theo điều hay lẽ phải một cách tự giác mà hồn nhiên như con trẻ còn khó hơn nhiều! Bởi vì sao? Phải chăng vì chúng ta, ai cũng như ai, đều mang bản tính bảo thủ, cho nên sự nhận thức (triết học) về xã hội-nhân sinh của chúng ta thường ưu tiên "hướng ngoại", thường chú tâm vào việc xem xét thiên hạ chứ ít khi "hướng nội", tự xem xét mình? Lão Tử thật chí lý khi nói: "Biết được người là khôn, biết được mình mới là sáng suốt". Rõ ràng khôn chưa hẳn đã hết mù quáng (chẳng hạn: khôn lỏi, ranh ma, láu cá ...), còn sáng suốt là cái khôn đã đạt tới anh minh, thấu tỏ, toàn diện. Vậy thì cần chú ý nhiều hơn, ưu tiên hơn cho nhận thức "hướng nội" trong việc xem xét xã hội-nhân sinh (về lẽ sống,đạo đức), nghĩa là "quay về" lấy tự thân chiêm nghiệm "trong" cái tôi tinh thần của mình (ngã) làm trọng yếu, làm trung tâm của sự nhận thức? Kể cũng đúng! Nhưng bằng cách nào? Nhắc lại lời dạy của Đạo Gia: nếu có cách giữ cho tâm thần cực hư, cực tĩnh thì thấy (ngộ) được Đạo, nói cách khác, làm sao cho sự suy tư được giải phóng, tự do, vượt thoát khỏi những "vướng bận" của cuộc sống đời thường mà trầm tư mặc tưởng một cách vô vọng, bất cầu, thản như không, nhẹ nhàng vô định như gió thoảng mây bay, như bèo trôi nước chảy thì sẽ nhận thức trực tiếp và tuyệt đích được cái lẽ tự nhiên của sinh-tử, cái bất toàn của vọng động-cố chấp-sân hận, cái nguyên nhân gốc rễ gây ra hạnh-khổ. Khi đã thấm nhuần được Đạo thì sẽ biết sống an nhiên, tự tại, buông bỏ và đó chính là lối sống vượt thoát tục lụy nên cũng tiêu trừ khổ đau. Như vậy, nói tóm lại, theo Lão Tử, chân lý tuyệt đối là Đạo, thấy được Đạo thì sẽ biết thế nào là hồn nhiên, an định, bất chấp, vô cầu mà sống hợp Đạo, an vui hòa đồng với nhân quần.
Chắc rằng Lão Tử là người đầu tiên trong lịch sử Trung Hoa, trên cơ sở tiếp thu những ý niệm có tính hợp lý nhưng còn rời rạc, tản mạn về thực tại khách quan của trước và đương thời, đã "bừng ngộ", xuất thần cảm thức được một cách cực kỳ sâu sắc tính hiển hiện muôn màu muôn vẻ và biến hóa phi thường, vừa mặc định chí lý, vừa hư ảo bất tường của Tự Nhiên Tồn Tại, từ đó mà xây dựng nên một triết thuyết hoàn chỉnh (dù còn sơ khai, mới được trình bày dưới dạng giống như một "luận cương"), về đại thể là đúng đắn, trở thành bất hủ, gọi là "Đạo Đức Kinh". 

Chính Lão Tử chỉ ra đại ý rằng Đạo lý của ông rất dễ hiểu, rất dễ thực hiện theo, thế mà trong thiên hạ rất hiếm người hiểu được, làm theo được. Vì sao lại có sự trái khoáy đó? Vì đơn giản là hiếm người biết (!) được như Lão Tử biết cái mà chính ông cũng "không biết nó là cái gì" (!), không thể đặt tên một cách đích xác, đành "tạm gọi là Đạo vậy", cái mà Đạo lý của ông là kết quả suy ra từ sự thể hiện phi thường của nó, vừa thực thể vừa ảo tượng, vô tình mà cũng hữu lý, không làm gì mà lại làm tất cả, là cả hai mà cũng không phải cả hai, nói chung là không thể suy lý, bàn luận một cách dứt khoát, tường minh về nó được và chỉ có thể tiếp cận được nó bằng cách trực tiếp trên con đường chiêm nghiệm cảm thức tâm linh.

 Dù chưa rõ ràng, minh định thì trong "Đạo Đức Kinh" cũng bàng bạc ý tứ ám chỉ đến định hướng nhận thức đó. Nhưng muốn đi trên con đường như thế để đến với Đạo, thấm nhuần Đạo lý mà biết sống hòa đồng với Đạo, vui với Đạo, thì hành động đầu tiên và duy trì xuyên suốt quá trình là tu thân-luyện tâm. Cái bản năng đòi hỏi thỏa mãn đói khát, dục tính có tính thụ động, tạm thời, chừng mực ở loài vật bị tư duy trừu tượng kích hoạt thành cái ý chí đòi hỏi thỏa mãn thèm thuồng dục vọng có tính chủ động, thường trực tâm can, vô độ ở con người. Chính cái ý chí có cội rễ bản năng và tồn tại gắn liền với sự thôi thúc bản năng ấy, nghĩa là chính cái trí khôn bị giam hãm trong trình độ nhận thức còn thiển cận, bị khống chế bởi "cái tôi" luôn hướng về lạc thú, chứ không phải cái gì khác đã đóng vai trò quyết định làm cho con người ta "lưu lạc" trong cõi mê lầm (vô minh), tương tự như kẻ mộng du nhưng vẫn tưởng mình đang tỉnh thức, gây ra đủ mọi tác nhân cản trở, ngăn chặn con người ta đến với Đạo, tự nguyện vui sống theo Đạo lý, đồng nghĩa là sống hòa hợp theo tự nhiên (và như thế, cũng tự nhiên đạt đến chí đức!). 

Và để tiêu trừ, khắc phục những khống chế ấy thì không còn cách nào khác, tiên quyết là phải tu thân-luyện tâm nhằm tăng cường trí lực, đạt đến thông tuệ mà giải thoát khỏi vô minh. Đây là lời Lão Tử: "Tri giả bất ngôn, ngôn giả bất tri. Tắc kỳ đoài, bế kỳ môn, tỏa kỳ nhuệ, giải kỳ phân, hòa kỳ quang, đồng kỳ trần. Thị vị huyền đồng", (Người biết (Đạo) thì không nói (về Đạo), người nói là người không biết (Đạo). Ngăn hết các lối (tai, mắt, mũi, miệng, có thể hiểu là cô lập, tránh tác động của ngoại cảnh, hướng nội), đóng hết các cửa (nghĩa là bỏ tư tâm, dứt dục vọng), không để lộ sự tinh nhuệ ra (tĩnh tâm, không vọng động,), gỡ những rối loạn (loại bỏ tạp niệm, định thần), thu lại ánh sáng (giữ gìn, bảo toàn chân khí?), hòa hợp với trần tục (bình thản, như nhiên). Được như vậy là "huyền đồng" (là đã siêu thoát, giác ngộ Đạo, thấu tỏ Đức Huyền Diệu)). Nhấn mạnh, lời nói này lập tức làm chúng ta liên tưởng đến cái yếu lĩnh bao trùm và cơ bản nhất của thực hành Khí Công ngày nay: "Luyện tinh hóa khí, luyện khí hóa thần, luyện thần hoàn hư, luyện hư hợp Đạo"!!!

Qua đó, chúng ta đưa ra phán đoán rằng, cũng chính Lão Tử là người đầu tiên nêu lên ý tưởng tu thân-luyện tâm nhằm đạt đến trạng thái tinh thần giác ngộ được Đạo và thấu tỏ Đạo lý. Ý tưởng đó phát triển dần đạt mức hoàn chỉnh như một luận thuyết tương đối độc lập, thành cẩm nang gồm bảy bước rèn luyện nội tâm, tồn tại dưới dạng Bản kinh Âm Phù lưu trong thiên cổ kỳ thư "Quỉ Cốc Tử" mà chúng ta đã giới thiệu khái lược. 

Trên tinh thần của Bản kinh Âm Phù (cũng có thể là ngay từ trong giai đoạn hình thành sơ khai của nó) các hiền triết phái Đạo Gia thời Xuân Thu-Chiến Quốc đã sáng tạo thêm một phương thức tu thân-luyện tâm mới có tính đặc thù, "giành riêng" cho tu tập tinh thần (nội tâm) với chủ đích thực hành đạt đến trí huệ siêu linh nhằm trực tiếp (không qua suy lý!) nhận biết Đạo, mà về sau này được gọi là "Thiền (định)" (?)! Về cái biết trực giác không qua suy luận, ngay Liệt Tử đã đề cập đến, ông nói: "Cơ thể hòa hợp với tâm, tâm hòa hợp với khí, khí hòa hợp với thần, thần hòa hợp với cái "vô" mà hễ có một hình thể rất nhỏ nào xuất hiện, một thanh âm rất nhỏ nào thoảng qua, dù ở xa hay gần, tôi cũng biết liền. Nhưng tôi không hiểu là do cảm giác của ngũ quan hay của các bộ phận khác trong người, chỉ biết rằng cái biết đó tự nhiên phát ra vậy thôi". Sau này, Trang Tử cũng nói: "Đừng suy luận gì hết sẽ thấy được Đạo", "Cái cảnh giới tối cao của Đạo (...), ngôn ngữ và suy tư đều không thể "chở" nó được. Không nói gì cả, cũng không trầm tư (nghĩ suy có chủ đích), đó là cái mức độ tối cao của nghị luận", vì nói chung "Những cái gì nối tiếp nhau đều có thứ tự, những cái gì biến chuyển đều theo một luật, hễ tới cùng thì quay trở lại (cùng tắc phản), hết rồi thì lại bắt đầu. Đó là hiện tượng chung của vạn vật. Nhưng lời nói, trí tuệ chỉ diễn đạt được bề ngoài của vạn vật thôi. Người đạt Đạo không tìm chung cục, không trở lui về nguyên thủy của vạn vật, vì cái đó vượt ra ngoài sự nghị luận".

Trong câu nói trên của Trang Tử, dù còn mờ nhạt, đã ám chỉ đến một biểu hiện thuộc hàng cơ bản nhất về vận động của Tự Nhiên, đó là hiện tượng nhân-quả. Nguyên lý nhân-quả là nguyên lý mang tính phổ quát toàn Vũ Trụ cho nên tiến trình vận động của xã hội loài người, cả về vật chất lẫn tinh thần, cũng phải tuân thủ tuyệt đối nguyên lý này. Nói cách khác và nói riêng, mọi kết quả xuất hiện trong xã hội đều phải có một lịch sử hình thành. Như vậy, Bản kinh Âm Phù, với Thiền là bộ phận tương đối độc lập của nó, hơn nữa là cả cái ý tưởng ban đầu xây dựng nên chúng, không thể "đùng một cái" hiện ra từ Hư Vô được, mà chỉ có thể là thành quả của (một hay nhiều) quá trình tạo tác mang tính kế thừa và sáng tạo xảy ra trong không gian và thời gian. Vậy thì Bản kinh Âm Phù hình thành trên nền tảng nào?

Ngày nay, bất cứ ai, chỉ cần tìm hiểu ở mức khái lược thôi cũng biết, khí công, dù tồn tại một cách rất đa dạng dưới lớp áo mang màu sắc của nhiều môn phái khác nhau, thể hiện ra với vô vàn cách thức, chiêu pháp cụ thể, thì chung qui lại, đều phải tuân thủ duy nhất cái yếu lĩnh mà chúng ta đã nêu ra ở trên. 
Nếu cái yếu lĩnh ấy, đúng như chúng ta đã "ngấm ngầm" dẫn dụ, được Đạo Gia phái thời Xuân Thu-Chiến Quốc nêu ra lần đầu tiên trên bàn tròn học thuật, thì có thể quyết đoán rằng Bản kinh Âm Phù chính là trước tác lý luận đầu tiên về khí công và thực hành khí công, hay nói cách khác, là khí công thủy tổ của mọi môn phái, mọi phương pháp khí công sau này, mà trong đó tất nhiên có cả thiền. (Đại khái, trong thiền học của Phật Giáo, thiền chỉ (tạm) được hiểu là trạng thái siêu việt của tinh thần. Tinh thần hoạt động nhận thức trong trạng thái ấy sẽ nhận chân được thực tại khách quan như nó vốn dĩ, và gọi là "thiền ngộ". Theo chúng ta, thiền còn có nghĩa thứ hai nữa là "hành thiền" và tạm hiểu thiền là một phương pháp khí công đặc thù, chuyên chú tu tâm nhằm đạt đến trạng thái tâm linh siêu việt mà "thiền ngộ" thực tại. Ở đây, chúng ta "dùng" thiền chủ yếu theo nghĩa thứ hai).
 
Lịch sử khí công và môn khí công phổ biến nhất trong lịch sử khí công Trung Quốc – Phim Tài liệu được sản xuất bởi kênh truyền thông NTDTV Canada.
"Trên thế giới, tại sâu bên trong sinh mệnh người Trung Quốc có một liên hệ rất tự nhiên với tu luyện. Loại liên hệ này không hoàn toàn giống với sự sùng Đạo và kính sợ của hình thức Tôn giáo, nó khởi nguồn từ tự nhiên và do văn hóa truyền thống 5000 năm Trung Hoa làm tải thể.
Khí công có nguồn gốc cực kỳ xa xưa, trước đây được gọi là “tu luyện”, được biết đến tại Trung Quốc và phổ biến thành phong trào vào thập niên 80. Với hơn 2400 môn công pháp, hàng triệu người Trung Quốc đủ mọi ngành nghề đã tham gia tập luyện tại các nơi công cộng và công viên. Không thuộc Đạo gia thì thường sẽ thuộc Phật gia. Khí công có thể trị bệnh, khí công có các động tác chậm rãi hoặc bất động, luyện khí công có thể xuất hiện công năng,… đó là những điều mà người Trung Quốc quen thuộc đến nỗi thuộc lòng. Ngoài khí công Đạo gia, Phật gia, còn có khí công của Kỳ Môn công pháp. Các môn khí công chịu sự quản lý của Hiệp hội nghiên cứu khoa học khí công Trung Quốc, hiệp hội dùng khoa học phương Tây để nghiên cứu khí công, nhiều giáo sư có thâm niên kết luận rằng khí công là “khoa học duy tượng” – Là khoa học nghiên cứu về thân thể người, “duy tượng” tức là có hiện tượng xảy ra nhưng không lý giải được.
Pháp Luân Đại Pháp đang ở cõi người.
Gần hay xa đều là Duyên Phận!".


"Nguyên ngữ “Thiền” vốn phát xuất từ âm dịch tiếng Trung Quốc Thiền Na của tiếng Sanskrit dhyāna. Từ này có nghĩa là minh tưởng(trầm tư, tư khảo, tĩnh lự) từ xưa trong Phật giáo đã không có sự phân biệt giữa yoga (du già), nguyên lai nó có nghĩa là tinh thần thống nhất trong Bà-la-môn giáo, nhưng sau này được đưa vào Phật giáo cũng như samādhi, và hầu như được dùng với nghĩa như nhau. Từ ý dịch là “định”, từ “thiền định” thường được dùng đến.

Như vậy “Thiền” hay “định” vốn có nguốn gốc từ Ấn Độ và chúng tôi nói lên sự thể nghiệm tâm linh cao độ. Sự thể nghiệm ấy đã mang lại một ý nghĩa vô cùng quan trọng ngay từ khi Phật giáo xuất hiện. Tỷ dụ như đức Cù Đàm Tất Đạt Đa được xem là người đã từng khai ngộ nhờ Thiền định .

Tuy nhiên vấn đề cần nhấn mạnh ở đây là cho dù Thiền Định vốn phát xuất từ Ấn Độ, vẫn được tổ chức hoàn toàn mới mẻ nhờ tính sáng tạo táo bạo độc đáo có xuất xứ từ tính dân tộc của Trung Quốc khi nó được truyền vào đất nước này; từ đó,  nó tạo ảnh hưởng thật to lớn với toàn bộ khu vực Đông Á. Cho nên, Thiền còn có ý nghĩa là một cuộc vận động tư tưởng hùng vĩ.

Như vậy “Thiền” hay “định” vốn có nguốn gốc từ Ấn Độ và chúng tôi nói lên sự thể nghiệm tâm linh cao độ. Sự thể nghiệm ấy đã mang lại một ý nghĩa vô cùng quan trọng ngay từ khi Phật giáo xuất hiện. Tỷ dụ như đức Cù Đàm Tất Đạt Sa được xem là người đã từng khai ngộ nhờ Thiền định .

Tuy nhiên vấn đề cần nhấn mạnh ở đây là cho dù Thiền Định vốn phát xuất từ Ấn Độ, vẫn được tổ chức hoàn toàn mới mẻ nhờ tính sáng tạo táo bạo độc đáo có xuất xứ từ tính dân tộc của Trung Quốc khi nó được truyền vào đất nước này; từ đó,  nó tạo ảnh hưởng thật to lớn với toàn bộ khu vực Đông Á. Cho nên, Thiền còn có ý nghĩa là một cuộc vận động tư tưởng hùng vĩ.

Ngay từ đầu qua tập sách này, trong giới hạn khách quan có thể. Tôi muốn thuật lại tổng thể về “ Thiền” vốn có nội dung vô vàn phong phú và độc đáo như vậy. Hẳn nhiên, đó không phải là chuyện dễ dàng tí nào. Chính vì lẽ đó, không phải chỉ lý giải sâu xa về “Thiền”, mà cần phải có tri thức trên phạm vi rộng lớn về tư tưởng, lịch sử cũng như văn hóa Đông Á, phải  nhận thức được tình trạng xã hội lúc bấy giờ và có cái nhìn mang tính triết học để rút tỉa ra những vấn đề chính yếu.

Với nhan đề “ Lịch  Sử Thiền Học”, nội dung của tập sách này là lịch sử tư tưởng . "Trong khi chấp bút thường xuyên sự quan tâm của tôi là vấn đề mỗi một vị Thiền tông cũng như giáo đoàn Thiền tông đã hình thành nên tư tưởng như thế nào trong bối cảnh xã hội. Chính vì lẽ đó, khởi đầu của tập sách, trước khi đề cập đến “Thiền”, tôi phải lấy hình thức giải thích rõ tình hình xã hội đương thời. Về điểm này, việc các Thiền tông, cũng như nhà tông học biết về lịch sử Thiền để xác chứng  tác phẩm “Lịch Sử Thiền Tông” do các nhà lịch sử học viết với trung tâm lịch sử giáo đoàn, cũng hoàn toàn khác về tính cách với tập sách này. Tại Nhật Bản, sách viết hoàn toàn về tư tưởng Thiền không nhiều, sách tường thuật bao quát lịch sử Thiền học của Trung Quốc , Nhật Bản và hiện tại thì e rằng chỉ có tác phẩm này được xem là đầu tiên mà thôi.

Như vậy tập sách này có nội dung đặc sắc so với các tác phẩm khác và tôi đã bỏ ra nhiều công sức ngỏ hầu độc giả có thể hiểu được. Tôi thiết lập từng tiêu đề để giải thích rõ những điểm quan trọng có đề cập đến trong tập sách này,  thiệu các hệ phổ Thiền cũng như bản đồ liên quan đến Thiền để hệ thống hóa toàn bộ những nhân vật xuất hiện và xác nhận địa danh. Bên cạnh đó, tôi cũng cố gắng với khả năng của mình liệt kê toàn bộ các sách tham khảo. Với công phu như vậy, kiến thức cơ sở liên quan đến lịch sử Thiền tông được trình bày một cách có hệ thống qua tác phẩm này và tôi mong rằng nó sẽ giúp ích quý độc giả hiểu sâu hơn vấn đề.

Tập sách này thành công được là nhờ sự giúp đỡ tận lực của hai vị Lang Xuyên Kỷ và Trung Đảo Quảng. Tôi xin đặc biệt bày tỏ sự cảm tạ sâu sắc nơi đây. Hơn nữa trong khi chấp bút viết tác phẩm này, tôi đã được phép tham chiếu rất nhiều sách vở cũng như luận văn để làm tài liệu tham khảo. Tuy nhiên, đối tượng đề cập đến trong đây vẫn là đối tượng vượt quá năng lực tác giả. Chính vì vậy, chắc chắn sẽ không tránh khỏi sai lầm, rất mong chư vị độc giả lượng thứ cho. Xin chân thành thỉnh giáo cùng quý liệt vị.

Ngày 1 tháng 9 năm thứ 13 ( 2001 ) niêm hiệu Bình Thành

Y Xuy Đôn ( Ibuki Atsushi )".

Rõ ràng, muốn thiền phải biết khí công (luyện thở). Ngày nay người ta vẫn lầm tưởng "Thiền" xuất phát từ đạo Phật!
                                                                        ***  

Yếu lĩnh khí công chỉ thị rằng bước đầu tiên của rèn luyện khí công là "luyện tinh hóa khí". Nhưng "luyện tinh hóa khí" là gì, như thế nào? Nghiêm Tân là cao đồ của pháp sư Hải Đăng. Những câu chuyện về khả năng khí công của hai ông thật thần kỳ khó tin, nhưng rất nhiều người đã được tận mắt chứng kiến.Trong thập kỷ 90 của thế kỷ XX, Nghiêm Tân nổi lên như một hiện tượng kỳ lạ về khí công. Ông đã thực hiện nhiều kỳ tích công năng khí công ngay tại những buổi nói chuyện trước đại chúng. Để phần nào trả lời câu hỏi vừa nêu, chúng ta trích lược một số đoạn từ những bài thuyết giảng về khí công của Nghiêm Tân (được biên soạn bởi Hoàng Thái trong "Hoa Hạ thần công", NXB Thể dục thể thao-2005): 

"Từ lịch sử phát triển của khí công, có thể phân làm ba giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất là khí công nguyên thủy, giai đoạn thứ hai là khí công mang tính chất tôn giáo, hay nói cách khác, khí công đã thâm nhập vào tôn giáo, giai đoạn thứ ba là khí công cận đại". "Khí công nguyên thủy có vào khoảng từ 2000 đến 7000 năm trước, thuộc khí công sơ khai, đơn giản". "Nhân dân lao động thời cổ đại gọi khí công là"nội công", "đạo dẫn", "thổ nạp"...với đại khái ý nghĩa của nó có thể hiểu: khí công là thuật dưỡng thân lý tưởng, là sự kết hợp cả rèn luyện tinh thần lẫn thể xác, đó là thuật kiện thân, thuật trị bệnh, thuật trường thọ, thuật tăng trưởng công lực, khai mở trí tuệ". "Rèn luyện kết hợp tâm và thân là đặc điểm của phương pháp khí công, nó không giống với thể dục thông thường hoặc các phương pháp rèn luyện có liên quan đến thể dục như võ thuật, thể thao, chơi bóng, điền kinh..., không giống với phương pháp trị liệu tâm lý mà y học ngày nay đề cao, cũng không giống với các phương pháp giữ gìn sức khỏe phổ biến, giản đơn mà những người bình thường thường áp dụng để chăm sóc thân thể, giữ gìn sức khỏe như chỉ chú ý ăn ngon, ngủ kỹ, làm việc vừa phải...". "(Chữ) tâm ở đây mang nghĩa rất rộng (...). Nó bao gồm ý thức của đại não, thậm chí cả các cơ quan chức năng về hoạt động ý thức, tư duy, tinh thần liên quan đến toàn bộ cơ thể, đương nhiên trong đó bao gồm cả quả tim. (...). Việc luyện tâm có hàm nghĩa riêng của nó, yêu cầu phải thông qua nhiều con đường, nhiều phương thức để luyện tập các cơ quan chức năng tâm của con người. Khái niệm cơ quan chức năng tâm được nói trong khí công bao gồm các cơ quan chức năng có liên quan đến hoạt động ý thức, tư duy, thần kinh của đại não và toàn bộ cơ thể. không những bao hàm một chút những gì ta vừa nói mà còn bao hàm những thứ mà y học ngày nay và các ngành khoa học hiện đại khác vẫn chưa nhận thức được rõ ràng. Có người cho rằng, dường như tâm là tiềm thức, (...), tuy nhiên loại tiềm thức này không giống với tiềm thức trong tâm lý học, tiềm thức được nói đến ở đây là tiềm thức trong trạng thái khí công". "Ngoài luyện tâm, còn phải luyện thân, bản thân việc rèn luyện khí công không giống với việc luyện tập thể dục, nghỉ, ngủ, đi bộ thông thường (...). Việc luyện tập thông thường là rất bị động, là sự ám thị trong vỏ não (...). Ví dụ: luyện võ thuật phải luyện được thiết sa chưởng (nghĩa là da thịt chịu được những đòn đánh trả), bước đầu tiên là xỉa bàn tay vào trong đậu tương, ngô (...) và cuối cùng là vào các hạt sắt. (...). Đây là phương pháp rất bị động, thô kệch và gian khổ. Còn cách luyện khí công rất đặc biệt, nghĩa là luyện trong trạng thái thả lỏng tĩnh tại cao độ, làm chân khí trong cơ thể tự chuyển vận với vận tốc cao, (...) làm rất nhiều cơ năng trong cơ thể được điều chỉnh và cải thiện. Lúc đầu, luyện khí công cũng cần một chút ám thị, dẫn dắt dùng ý thức luyện công, nhưng sau cùng lại là kết quả thành công một cách vô thức, bởi vậy mới nói khí công là "hữu ý luyện công, vô ý thành công", (...), vì các phương pháp khác đều yêu cầu người tập phải đặc biệt tinh tường, còn khí công lại yêu cầu bạn "không tinh tường". Nói như vậy không có nghĩa là yêu cầu bạn không biết gì, mà để đưa bạn vào trạng thái như Lão Tử (nhân vật đại diện sớm nhất của công phu Đạo Gia Trung Quốc) đã nói, là trạng thái "hoảng hoảng hốt hốt, hốt hốt hoảng hoảng", nhưng hoàn toàn không phải trạng thái mơ hồ rối rắm. Trong trạng thái này, chân khí sẽ vận hành trong cơ thể, có thể tự điều chỉnh, cải thiện chức năng sinh lý (...), có thể đưa con người vào trạng thái vô cùng tốt đẹp, nói cách khác là trạng thái sinh lý lý tưởng. (...). Khi luyện thân bằng khí công, thì tổng mức tiêu hao năng lượng sẽ giảm, khi đó các chức năng của cơ thể tựa như được tiết kiệm, tự nó đã là một quá trình nghỉ ngơi, nên có thể hoạt động trong thời gian dài hơn (dẫn đến sống thọ hơn - nv). Đây là điểm mà các phương pháp luyện tập khác không có được". "Luyện, luyện, luyện đến khi giảm được mức tiêu hao năng lượng, tăng được mức năng lượng dự trữ, kích phát năng lượng tiềm tàng, phát huy công năng, bao gồm cả phát huy trí tuệ của não, khi luyện đến bước cuối, cơ thể con người sẽ xuất hiện những công năng đặc biệt, như mùa đông có thể chịu được lạnh, cả ngày không ăn cũng không thấy đói, thậm chí có thể nhịn ăn trong một thời gian rất dài, đương nhiên có người còn có những công năng còn kỳ diệu hơn. Tất cả những hiện tượng đó đều do thân thể tự làm nên". "Tóm lại, khí công là môn rèn luyện kết hợp cả tâm và thân, đương nhiên phương pháp luyện tâm là rất đặc biệt, điều này rất dễ bị người bình thường coi nhẹ. Đây chính là điểm cơ bản để giải thích khí công là gì".

(Để biết thêm về Nghiêm Tân, chúng ta đọc thêm bài này trên mạng:
"Huyền thoại Nghiêm Tân - Khí công hay Trường sinh học? 
Quang Võ biên tập 


Nghiêm Tân sinh trưởng ở một làng nhỏ thuộc huyện Giang Dân, tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc. Nghiêm Tân có vóc người nhỏ nhắn, là con thứ của một gia đình có truyền thống thượng võ nên từ nhỏ đã yêu thích quyền cước. Một chuyện kỳ lạ đã đưa Nghiêm Tân đến với khí công.

Vào năm bốn tuổi, một hôm, bé Nghiêm Tân đang nô đùa cùng với bọn trẻ trong rừng, bất ngờ gặp một người đàn ông tuổi trung niên. Với một thứ khinh công tột đỉnh, chỉ trong nháy mắt, ông đã biến mất, nhìn khắp bốn bề đều không thấy bóng hình, như đã bay lên trời cao hay biến vào lòng đất vậy. Thế rồi, chỉ trong thoang chốc ông lại đột ngột hiện ra, đứng trước bọn trẻ đang ngơ ngác. Bé Nghiêm Tân nhìn đến ngây người và cứ níu ông đòi dạy võ. Cuối cùng vị cao thủ võ lâm ẩn cư tu thân luyện công nơi núi rừng sâu ấy đã nhận cậu bé bốn tuổi này làm đệ tử. Ông đã cấm Nghiêm Tân tiết lộ thân thế bí ẩn của mình.

Dưới sự chỉ dẫn của sư phụ, Nghiêm Tân tĩnh tâm học khí công. Ba, bốn năm trôi qua, cậu bé cảm thấy xương cốt, thần kinh và máu thịt trong người như đã thay đổi hẳn. Dòng máu trong thân thể như sôi bỏng, hai bàn tay nóng ran rát. Ngày thường luyện công trong phòng, mắt không chút nhìn xiên, nhưng toàn thân Nghiêm Tân như đã bay ra khỏi, ra tới cánh đồng quang đãng. Khi nhắm mắt ngưng thần, trước mắt thấy nổi lên lớp lớp ánh sáng trắng loang loáng. ánh sáng qua đi, trong đầu hiện ra hình dáng những đồ đạc bày trong phòng như bàn, ghế, giường tủ... không bao lâu lại sinh những dải sóng óng ánh các màu. Sư phụ bảo đó là kết quả do chuyên tâm chú thần công lực và thăng hoa đã đạt được.

Năm tám tuổi, nhờ cha thân đến cầu xin, Nghiêm Tân lại được nhà khí công lừng danh là Hải Đăng pháp sư vui lòng truyền dạy bí pháp. Hải Đăng pháp sư là bậc võ lâm lão tiền bối, võ nghệ tinh sâu, công lực phi phàm và cực kỳ nghiêm khắc đối với các đệ tử của mình. Theo tông phái của Hải Đăng pháp sư, Nghiêm Tân nhập môn, nhập đạo, được học tập một cách hoàn chỉnh các môn: Vân thông khí công, Thiếu niên tinh quyền, Tỉnh lã là quyền (bao gồm đường quyền từ thứ năm đến thứ chín của phái Thiếu Lâm), Hình ý quyền, La Hán quyền, rồi đao thương, kiếm, côn, kích, roi... đa ban võ nghệ... 

Tiếp sau đó, Nghiêm Tân lần lượt luyện công học nghệ với hơn hai mươi vị sư phụ, họ hoặc là võ lâm đại sư, hoặc là những cao thủ trong người nắm những tuyệt chiêu thần kỳ của chư gia môn pháị Nghiêm Tân nghiền ngẫm, trau giồi những sở trường của từng môn phái và dần hình thành công phu đặc sắc độc đáo của bản thân.

Khi luyện công, Nghiêm Tân chọn giờ Tý và giờ Dần. Theo học thuyết "Tý Ngọ lưu chú" trong y học cổ truyền Trung Hoa, vào giờ Tý và giờ Dần, khí huyết trong cơ thể con người đặc biệt thịnh vượng, luyện công vào thời khác đó sẽ có thêm tác dụng. Nghiêm Tân thường luyện công trong rừng, trên núi, ở những vùng gần mạch nước là những nơi có địa từ mạnh, mượn ngoại lực của địa từ trường trợ lực, có thể thúc đẩy nội khí tăng trưởng.

Để đạt tới đỉnh cao trong võ công, Nghiêm Tân ghi lòng tạc dạ giáo huấn của sư phụ, giữ nghiêm ”Thất giới“ (tức là bảy điều kiêng kỵ). Ngoài kiêng rượu, sắc, tài, khí, còn kỵ ngôn (không xuất ngôn hại người), kỵ ngủ đêm (đêm luyện công vào giờ Tý, buổi sáng lại phải dậy sớm vào giờ Dần để luyện công, rất ít ngủ). 

Đồng thời Nghiêm Tân quanh năm ăn chay, kiêng mỡ, kỵ tanh. Năm 11 tuổi, khi nhắm mắt phát công, những vật thể trước mắt nổi rõ trong đầu với hình khối và màu sắc hoàn toàn giống và rõ như đang mở mắt nhìn.

Khi công phu đã thâm hậu, nhắm mắt phát động, Nghiêm Tân đã có thể thấu thị xuyên suốt cơ thể con người, không chỉ ”thấy được“ hình dáng bên ngoài, mà còn ”thấy được“ cả xương cốt, dây thần kinh phát sáng và dòng máu sẫm đang tuần hoàn trong huyết quản.

Năm 13 tuổi, Nghiêm Tân đã có khả năng phát ra ngoại lực để chữa bệnh cho con ngườị năm đó, Tân trở thành học trò của lão y sư Trịnh Bá Chương, một thầy thuốc nổi tiếng trong giới Đông y Trung Quốc. Năm 1974, Nghiêm Tân thi vào Học viện Y khoa Thành Đô, học tập một cách hệ thống kiến thức lý thuyết, thực hành của Đông y và Tây y. Năm tháng trôi qua, Nghiêm Tân đã tập hợp được trong mình những hiểu biết y học, võ thuật, khí công và nhiều công năng đặc dị khác, rèn luyện đạt tới một bản lĩnh kì diệu, một tài năng chữa bệnh thần kỳ. Trở thành một thầy thuốc hành nghề giữa dân gian, ông làm được những kỳ tích con người khó tưởng tượng nổi, được thiên hà tôn xưng là ”Thiên phủ thần y, Hoa Đà tái thế“.

Khí công chữa bệnh mang đầy sắc thái truyền kỳ, nhưng lại là sự việc có thật trong cuộc sống hiện nay ở Trung Quốc, mà Nghiêm Tân là một sự thật sinh động. ”Huyền thoại“ về Nghiêm Tân có rất nhiều, chúng tôi xin nêu ở đây một vài câu chuyện ”người thật, việc thật“

Năm 1978, tại công trường mở rộng nhà ga xe lửa Thành Đô, một người thợ trẻ đột ngột bị đau bụng dữ dội, cơn đau dồn dập làm anh ta lăn lộn giãy giụa dưới bùn đất, mồ hôi lạnh vã và nhễ nhạị Vừa lúc ấy, Nghiêm Tân đi qua, tình cờ nhìn thấy liền bảo học trò là Trần Bang Vinh lầy một cốc nước, tự tay Nghiêm Tân đưa cho người thợ trẻ. Uống hết cốc nước, anh dứt hẳn cơn đau và đứng ngay dậy xúc động lẩm bẩm: ”Hôm nay được gặp tiên rồi“. Thật ra, đối với Nghiêm Tân đó là một chuyện bình thường, nước thường hoặc rượu bia, Nghiêm Tân đều có thể dùng để chữa bệnh.

Một ngày năm 1983, một phụ nữ ở Cẩm Dương gặp bức bối trong việc gia đình, suy nghĩ bế tắc, uống thuốc trừ sâu tự tử, lúc được phát hiện thì đã ở trong tình huống nguy kịch. Người nhà cuống quýt vội đưa chị đi bệnh viện, trên đường vừa may gặp Nghiêm Tân. Ông liền điểm huyệt và vận khí phát công cấp cứu, chỉ trong phút chốc, người đàn bà ấy nôn thốc nôn tháo,rồi hồi tỉnh dần. Nghiêm Tân nhổ mấy nhánh cỏ xanh ven đường, dùng tay vò qua rồi bảo người phụ nữ nhai nuốt, chỉ với chừng ấy thôi, đã cứu sống được một mạng người.

Nghiêm Tân còn có thể làm cho xương cốt bị gãy vụn trở lại lành lặn như xưa. Vào khoảng 10h sáng ngày 27-4-1984, một công nhân trẻ của nhà máy thép Trùng Khánh tên là Túc Bình bị tai nạn giao thông. Bệnh viện chụp X Quang, cho biết: hai xương bả vai bị gãy rời, vỡ vụn, khớp vai phải thoát vi.. Điều trị một tháng,vai anh ta vẫn không động đậy được, qua hội chẩn, bệnh viện bó tạ Túc Bình được chuyển tới Viện Nghiên cứu đông y Trùng Khánh, xin Nghiêm Tân chữa tri.

Nghiêm Tân lặng lẽ ngồi trước nạn nhân, hai tai duỗi ngửa từ từ nhập tịnh. Sau mấy nhịp thở sâu, ông mở miệng: ”Hai xương bả vai gãy rời vụn. Chỗ ghép nối ở điểm bên phải xương bả vai khoảng chừng ba phân bị trệch“. Những điều chẩn đoán bằng phát công thấu thị của Nghiêm Tân hoàn toàn khớp với kết quả chụp X quang sau đó. Tiếp đó, những dải băng chằng chịt quấn chặt lấy thân thể Túc Bình được cởi bỏ hết. Nạn nhân được dìu nằm sấp lên giường. Nghiêm Tân huy động cả hai tay băm, đấm, xoa, bóp mạnh mẽ trên lưng Túc Bình. làm anh có cảm giác buồn buồn, tê tệ Cả một vùng sau lưng mát lạnh. 20 phút sau, Nghiêm Tân thu hồi công lực, đi thăm bệnh ở các phòng khác.

Khoảng nửa giờ sau, ông quay lại nói với Túc Bình lúc này vẫn ngoan ngoãn nằm im trên giường: ”Xoay ngửa người lại“. Anh ta sửng sốt nhìn Nghiêm Tân, nghĩ tai mình nghe nhầm. Nghiêm Tân hiểu ý, nói thêm: ”Đừng sợ, cứ làm như chưa từng bị làm sao ấy“. Túc Bình lấy sức xoay mình và nằm ngửa ra một cách dễ dàng. ”Bây giờ anh hãy làm mấy động tác giã giò co tay trên giường!“. 

Như huấn luyện viên đang ra lệnh cho vận động viên của mình, Nghiêm Tân nói: ”Sợ gì nào, anh khỏi hẳn rồi mà!“. Túc Bình xúc động quay sấp mình, làm liền năm động tác co tay giã giò. Sau đó theo lệnh của Nghiêm Tân, anh ta xuống giường, bước ra bên cửa, nắm lấy khung cửa làm một mạch 30 lần động tác co tay trên xà, còn dùng một tay nhấc lên vật nặng trên 20kg.

Ngày 10-2-1985, hai bác sĩ Lý Du Và Từ Mãn ở Quân y viện Tây Nam đã khám lại cho Túc Bình. Kiểm tra X quan và chụp phim chứng thực vết thương đã lành hẳn, nay những chỗ xương bị gãy vụn trước kia cũng không còn để lại dấu vết gì. Từ đó trở đi, công năng hai vai của Túc Bình đã hồi phục hoàn toàn; trở về nhà máy, những phối kiện thép nặng hàng tạ anh lại có thể đẩy dễ dàng. Anh có thể dùng vai để nâng vật nặng cả tạ mà vẫn bình thường.

Gặp những ca gãy xương, Nghiêm Tân thường dùng ngoại khí để trị liệu. Hình thức phát công này rất đa dạng. Có lúc phát công ở sát gần, cũng có khi phải phát công ở cự ly xa, hoặc cách vật cản như bức tường, cây cối... cũng có khi lại trực tiếp tiếp xúc với bộ phận bị thương tổn của bệnh nhân.

Cháu Dư Lập Độ chín tuổi, là con ông Trần Xương Cung ở nhà máy hoá chất Tứ Xuyên bị gãy dập ngón tay cái hồi tháng 4-1984. Nghiêm Tân dùng hai bàn tay mình kẹp chặt lấy ngón tay gãy của cháu rồi phát khí, cháu nói là cảm thấy nóng bỏng từng đợt ở ngón tay. Nửa giờ sau, ngón tay cháu khỏi hẳn, xương ngón tay trở lại lành lặn như nguyên. Ngày 6-7-1985, anh Dương Diệu Tổ ở Liên hiệp công đoàn thành phố Trùng Khánh bị gãy xương bàn tay phải, mu bàn tay sưng to như một chiếc bánh bao, năm ngón tay cứng đờ. 

Nghiêm Tân được mời đến. Trước tiên, ông điểm mấy huyệt trên người Dương Diệu Tổ. Diệu Tổ cảm thấy như có dòng điện chạy qua khắp người mình. Sau đó, Nghiêm Tân bước ra phòng ngoài, cách bức tường để phát công vào bệnh nhân, bệnh nhân cảm thấy toàn thân mình như trôi nổi lên, chỗ bị thương thấy giật giật lên một lúc, rồi không còn thấy đau đớn nữa. Hai giờ sau, vết thương khỏi hẳn, tay hết sưng và công năng phục hồị

Em Lưu Hiểu Dung, mười bốn tuổi, bị mất hẳn thính giác, do hồi nhỏ bị ngã xuống sông. Tiếng trống, tiếng pháo, tiếng sấm, tiếng nổ, em đều không nghe biết gì. Tết, năm 1984, gia đình em nhờ Nghiêm Tân chữa trị, ông lấy hai cục bông nhỏ nhét vào tai em, rồi phát công. Ngay sau năm phút, Nghiêm Tân thu hồi công lực, nhẹ nhàng lấy hai cục bông trong tai em rạ Em Dung lập tức sung sướng mở to đôi mắt thông minh, cảm thấy trong màng nhĩ có tiếng vo vo, vui mừng nói: ”Cháu nghe được rồi“. Nghiêm Tân để chiếc đồng hồ đeo tay bên tai Hiểu Dung, em lập tức nghe rõ tiếng tích tắc.

Năm 1984, chị Chu Quế Trân, giáo viên trường tiểu học số hai huyện Mật Văn, ngoại thành Bắc Kinh, bị phong thấp, đau thắt lưng và nhức đầụ, đùi trái bị teo cơ, hai chân dưới gần như liệt. Nhiều thầy thuốc Đông, Tây y nổi tiếng đã bó tay. Trong cơn tuyệt vọng chị viết thư cầu cứu Nghiêm Tân. Sáng 24-5-1986, Nghiêm Tân đến nhà, vừa hỏi chuyện Quế Tân, vừa ngầm vận khí công chữa bệnh cho chi.

Chu Quế Trân kể lại: ”Đang ngồi nói chuyện, tôi cảm thấy hai vai như có luồng gió thổi qua, rất lạnh. Tôi gọi người nhà lấy thêm áo mặc, song bác sĩ Tân bảo: ”Đừng sợ, tôi đang dùng khí công loại bỏ khí thấp trên người chị“. Một lúc sau, chồng tôi thấy cánh tay trái bác sĩ ướt đầm đìa,còn cánh tay phải hoàn toàn khô ráo, đó là phép ”dẫn đạo khí công“. Sau đó, Nghiêm Tân bảo tôi vào nằm nghỉ trong gian phòng nhỏ. Mấy phút qua đi, tôi thấy một cảm giác kỳ lạ, như có luồng diện chạy qua toàn thân, các đốt sống cũng động đậy. 

Cảm giác đau lưng mất dần. Tôi ngủ thiếp đi, lúc mở mắt, nhỏm dậy, lưng không đau. Xuống giường vặn thử người, đá chân, hoạt động thoải mái. Ông Nghiêm Tân đã phát công chữa bệnh cho tôi qua bức tường ngăn suốt năm giờ liền, từ một giờ trưa đến sáu giờ chiều. Bệnh của tôi khỏi hẳn“.

Một cán bộ xưởng máy kéo Bắc Kinh bị hoại từ xương mắt cá chân,nhiều năm không đứng, không ngồi được, bệnh viện nói phải tháo khớp. Anh tìm đến Nghiêm Tân. Ông bảo bệnh nhân ngâm chân vào một chậu nước, còn mình ra chỗ vắng, vận khí công điều tri.. Người bệnh ngồi im lìm như đang ngủ, gần ba giờ sau Nghiêm Tân quay lại gọi dậy. Người bệnh trước đây không ngồi nổi mười phút, nay đã ngồi gần ba giờ, sau đó lại đi ra phố chơi trong gần một giờ đồng hồ.

Cuối năm 1986, Nghiêm Tân sang thăm Nhật Bản cùng với đoàn đại biểu Hội Nghiên cứu khoa học khí công Trung Quốc. Vô tình, ông đã tiếp một cuộc thách thức của một đồng nghiệp Nhật Bản, phải đọ khí hết pháp và giành được thắng lợi, làm thành một giai thoại thời ấỵ

Buổi tối ngày 17-11-1986, tại khác sạn Đại Tân Cốc Tokyo, giới đồng nghiệp Nhật mở tiệc chiêu đãiI các bạn Trung Quốc. Giữa tiệc, ông Kusudu, Chủ tịch Hội nghiên cứu khoa hoặc khí công của Nhật Bản phàn nàn với trưởng đoàn Trung Quốc Trương Chấn Hoàn về căn bệnh đau khớp khuỷu tay đã nhiều nam chữa trị nhưng vô hiệu và ngỏ ý muốn nhờ một nhà khí công nào trong đoàn Trung Quốc chữa trị giúp. Trương Chấn Hoàn giao nhiệm vụ này cho Nghiêm Tân và đề nghị Nghiêm Tân sẽ dâng năm ly rượu lên Kusudu, khi dâng rượu sẽ phát công chữa bệnh. 

Phương án trị liệu giàu kịch tính này làm cho người bạn Nhật Bản rất khoáị Kusudu vốn là bậc lão thành trong giới khí công Nhật, công lực không phải loại thường. Hơn nữa, ông ta tửu lượng hơn người, từng uống liền mười tám chai rượu mạnh mà không say, có biệt hiệu ”Hũ rượu đại“. Nhận nhiệm vu.. Nghiêm Tân ngầm phát công lực thăm dò và biết rằng dây chằng của Kusudu bị tổn thương ở dạng mãn tính (trần cựu). 

Ông rót một ly nhỏ rượu Mao Đài, dùng hai tay dâng cho Kusudu, Kusudu đứng lên nhận lấy, rồi uống một hơi cạn sa.ch. Lúc Nghiêm Tân định dâng tiếp ly thứ hai thì đâu ngờ ”hũ rượu đai“ đã có vẻ chếnh choáng, nói: ”Thôi, uống bia“, rồi lại đòi hai cốc bia có nồng độ thấp hơn hẳn rượu này thành 4 lần uống, gọi là cho đủ năm lỵ Sau khi Kusudu nhăn nhó uống hết chỗ bia cuối cùng thì chuyện là lập tức xuất hiện: với bộ mặt đỏ gay, Kusudu giơ cao cánh tay đau của mình, co duỗi một lúc rồi vui sướng nói: 

"Hết đau rồi, không còn chút đau nào nữa! Công phu của Nghiêm tiên sinh quả thật dao siêu!". Kusudu là người trong nghề, ông hiểu rằng chỗ rượu ấy đã được Nghiêm Tân xử lý bằng công lực, chỗ đau nơi khuỷu tay mình cũng đã được Nghiêm Tân phát khí chữa tri..

Trong giới khí công của Nhật Bản cũng không thiếu những người không tin phục. Một hôm, các đồng nghiệp hai nước Trung-Nhật đang toạ đàm, thì một nhà khí công Nhật Bản tên là Sukitari, thông qua phiên dịch, đề nghị được đấu ”khí lực“ để phân thắng bại với Nghiêm Tân. Không hiểu là do không nghe rõ ý của Sukitari hay do không hiểu sâu tính cách võ sĩ đạo của một số cao thủ trong giới khí công Ngật Bản, mà người phiên dịch sợ khi chuyển ngữ quá thẳng thì sẽ làm tổn thương đến tình hữu hảo giữa đôi bên, nên đã dịch cho Nghiêm Tân là ”học hỏi lẫn nhau“.

Nghiêm Tân vui vẻ nhận lời, nhưng khi nhìn sang Sukitari, ông biết đó là một người đã luyện công, tập võ nhiều năm, lại có trong người những công năng đặc dị thần kỳ. Nghiêm Tân nhận ra ngay ”học hỏi lẫn nhau“ ở đây bao hàm ý nghĩa gì. Sang Nhật lần này là một cuộc viếng thăm hữu nghị, Nghiêm Tân không hề chuẩn bị thi thố, đọ sức với bạn, nay họ đã chiếu thư, mà xem ra không phải do ngẫu hứng nhất thời. Vừa rồi, mình đã nhận lời, nếu làm thật Nghiêm Tân tự hiểu công lực của mình có thể làm thương tổn đến đối phương, thậm chí có thể huỷ cả lục phủ ngũ tạng, như vậy không phù hợp với đạo đức trong võ lâm, bất lợi cho tình hữu nghị giữa hai nước. 

Nhìn lại đối phương, rõ ràng không phải cỡ tầm thường, nếu có sơ suất, hậu quả sẽ khôn lường. Nghiên Tân có vẻ trấn tĩnh khác thường, nhưng trong đầu đã suy tính nhanh chóng, Sukitari không chút nể nang, lấy thể vận khí, phát công lực mạnh nhằm thẳng vào mặt Nghiêm Tân. Mọi người đều biết đó là một nhà khí công có hạng của nước Nhật, châm cứu, điển huyệt đều vào lợi thượng thặng. Khi Sukitari vận đủ đan điền cho khí phát mạnh vào Nghiêm Tân, thần lực đó hết sức lợi hại, nhưng Nghiêm Tân không hề cảm nhận chút nào, vẫn nói cười bình thường với mọi người, thản nhiên như không.

Thấy luồng khí phủ đầu không có tác dụng gì, Sukitari liên tục tăng lực phát công, mồ hôi trán vã ra nhưng Nghiêm Tân vẫn ngồi vững chãi, Thấy không ổn, Sukitari dùng khí thu công để nghị được thay đổi phương hướng phát khí từ phía lưng Nghiêm Tân, Nghiêm Tân ưng thuận ngay. Sukitari lại lấy thế, liên hồi vận khí nhằm đúng lưng Nghiêm Tân phát công dữ dội, nhưng vẫn vô hiệụ Ông ta ướt đẫm mồ hôi, trong làm cảm thấy lạ lắm. Chính diện tấn công không thấy nhúc nhích, phát công từ phí sau lưng cũng không thấy suy chuyển, hay là do cự ly quá xả Sukitari liền đến sát bên Nghiêm Tân, áp bàn tay vào lưng Nghiêm Tân, vận tận lực pahts khí, dùng cả cánh tay đẩy mạnh, Không ngờ cứ như bị va phải một hòn đá to, Sukitari mệt mỏi thở gấp, mồ hôi vã như tắm, mặt đỏ gay. Nghiêm Tân vẫn ngồi như không có việc gì xảy rạ Sukitari hiểu ràng hôm nay đã gặp cao thủ. 

Nếu như chỉ dựa vào phát lực khí công và cậy sức húc bừa thì chỉ có thất bại thảm ha.i.Ông ta giơ tay điểm xuống huyệt Bắc Hội trên đỉnh đầu Nghiêm Tân. Đây không phải là trò đùa, nếu huyệt này bị cao thủ điểm trúng thì chí ít cũng bị ngay ra như gỗ. Nhưng Nghiêm Tân vẫn vững như Thái Sơn, an toạ bất động, không hề cảm thấy có gì khác thường. Lúc này, Sukitari mồ hôi đầm đìa, thở hổn hển, trợn tròn hai mắt, bất ngờ vung ra đòn cuối cùng: giơ hai tay tóm mạnh vào động mạch cổ của Nghiêm Tân.

Tóm mạnh vào động mạch cổ là ngón đòn hiểm độc nhất, Người bị trúng nếu không chết ngay thì cũng bị trọng thương. Tuy vẫn ngồi yên thản nhiên, nhưng Nghiêm Tân hiểu rất rõ tính chất leo thang trong các động tác mà đối phương tung rạ Nhan như cắt, khi tay của đối phương vung tới, Nghiêm tân không né tránh, cũng không tả đòn mà ông quay hẳn đầu lại để cho Sukitari tóm bắt ”ngon lành“. Kết quả là Nghiêm Tân vẫn bình an. Đến nước này, nguyên khí trong người Sukitari mất sạch, chây tay bủn rủn, toàn thân rã rời, Sukitarimowiws biết vị khí công danh sư trước mặt mình này quả là ”danh bất hư truyền“.

Ông ta cúi mình nhận thua tại chỗ và nói thành khẩn: ”Công phu của ngài quả là lợi hại, cao siêu! Xin bái phục“. Rồi gọi người con trai đến, hai cha con cùng khẩn cầu bái Nghiêm Tân là sư phu.. Cuộc đọ võ hấp dẫn này làm cho người Nhật Bản vô cùng thán phục tài nghệ của Nghiêm Tân. Theo kế hoạch, sẽ có một cuộc đọ quyền giữa một quyền sư Nhật Bản với Nghiêm Tân, và một nhà kiếm thuật đọ kiếm với Nghiêm Tân nhưng đối phương chủ động xin rút bỏ.

Ngày 12-12-1986, Tổ chức nghiên cứu kho học khí công Đại học Thanh Hoa hợp tác với Nghiêm Tân tiến hành một thí nghiệm về tác động của khí công đối với các phản ứng hoá học. Trên bàn thực nghiệm bằng đá, đặt một bình thuỷ tinh thạch anh, trong chứa đầy hỗn hợp gồm khí hydro và oxyt cacbon (CO). Trong công nghiệp, muốn giữa hỗn hợp này có phản ứng với nhau, cần có áp suất vài chục at-mot-phe, cũng không có chất xúc tác, nhiệt độ trong phòng là 130C. Sau khi Nghiêm Tân phát cường công, một vị giáo sư đem bình đến đo ở máy quan phổ hồng ngoại. Qua máy tính xử lý, phổ đồ hiện trên màn hình cho thấy trong bình đã xuất hiện hoá chất mới, phản ứng hoá học đã xảy ra dưới tác dụng của ngoại khí khí công. Mời vị giáo sư, chuyên gia có mặt trong phòng đều công nhận thí nghiệm thành công.

Ngày 17-12-1986, thí nghiệm trên được lặp lại, chỉ khác là Nghiêm Tân phát công từ một nơi cách phòng thí nghiện 7km. Địa điểm thí nghiệm cũng khác nhau, một máy laser đặt trong phòng thí nghiệm laser, một hỗn hợp nước và khí đặt trong một buồng tối. Kết quả chứng tỏ Nghiêm Tân phát công điều khiển từ xa không những có thể lặp lại kết quả thí nghiệm lần đầu mà hiêụ quả còn tốt hơn.

Nghiêm Tân còn phát công ở những khoảng cách khác nhau, vào một loạt vật chất có hiệu ứng sinh lý như nước, muối sinh lý, dung dịch glucô, khoảng cách thực nghiệm từ vài mét tới vài cục mét, từ vài km tới 200km. Trong không đầy một tháng đã thiến hành 10 cuộc thí nghiệm với bảy, tám loại vật chất khác nhaụ Lần thí nghiệm lớn nhất có gần hai mươi vị giáo sư, giảng sư, nghiên cứu sinh tham gia, huy động bảy máy phân tích cỡ lớn. Một loạt thí nghiệm đó chứng tỏ ”ngoại khí“ do nhà khí công phát ra đã làm thay đổi rõ rệt kết cấu phân tử của axit nucleic, có thể tác động tới nhiều loại phân tử vật chất tạo nên tế bào. Đó là một trong những nguyên nhân khiến khí công chữa khỏi bệnh.

Hơn ba mươi năm tu thân luyện công, hơn hai mươi năm chữa bệnh, với y thuật thần kỳ và y hiệu như thần thoại của mình, Nghiêm Tân đã để lại nhiều ”câu đố“ không thể giải thích nổi.

Tuy có công lực thâm hậu, thần diệu, nhưng Nghiêm Tân không phải tần tiên, không thể chữa trị được bách bệnh. Ông đã nhiều lần nói, những cao thủ có bản lĩnh tuyệt đỉnh không thiểu gì trong dân gian. Ông vẫn phải tiếp tục tầm sư học đạo, tinh luyện công lực. Đồng thời Nghiêm Tân cho rằng khí công cao cấp và những công năng đặc dị không phải là thứ gì thần bí siêu hình. Con người có chừng 14 tỉ tế bào đại não, thông thường mới chỉ sử dụng độ hơn một triệu tế bào, còn tuyệt đại đa số các tế bào não được tồn chứa một cách lặng lẽ, vô du.ng. Ông mới luyện công được mấy chục năm, cùng lắm cũng chỉ mới khai thác thêm được một phần nhỏ nữa trong sự tàng trữ khổng lồ ấy. Luyện công lực như vậy còn rất xa mới tới được đáy sâu của công phu, suốt đời cũng không tới nổi sự tận cùng của tiềm năng con người.

Các dạng năng lượng đặc biệt khách thương (hay gọi là công năng đặc biệt khác thường) mà Nghiêm Tân có thể bức xạ mỗi khi ”phát công“ còn là một thế giới đầy bí ẩn đối với mỗi chúng tạ ở đây các dạng bức xạ năng lượng của khí công và trường sinh học (hào quang sinh học, chất plasma học) có mối liên quan chăng? Phải chăng luyện tập khí công có thể khai thác được những năng lượng sinh học tiềm ẩn trong mỗi con người - năng lượng trường sinh học?

Giải đáp được vấn đề này thật không dễ dàng. Chúng ta tin rằng, rồi đây một ngành khoa học mới sẽ ra đời, ngành khoa học của thế kỷ 21 sẽ giúp ta hiểu sâu hơn về những khả năng của chính bản thân mình").

Vậy, "luyện tinh hóa khí"- giai đoạn đầu của quá trình thực hành rèn luyện khí công lâu dài- chính là dẫn dụ thân-tâm vào được trạng thái tĩnh tại, "hoảng hoảng hốt hốt", làm xuất hiện thứ gọi là "khí" trong cơ thể. (Nhiều người còn hồ nghi về sự tồn tại của khí nhưng vì đã từng trải qua nên chúng ta khẳng định một trăm phần trăm là nó có thật!). Tiếp tục luyện, dẫn dụ, khí đó sau khi xuất hiện rồi sẽ được "tích tụ" thành (những) "dòng khí" lưu chuyển, lan tỏa "theo ý" (nhưng không phải chú tâm!) với (những) vận tốc và (những) hướng "tùy ý" ra khắp cơ thể. Trên nền tảng cơ bản có tính duy nhất, đồng thời cũng đóng vai trò "hướng đạo" căn cốt "luyện tinh hóa khí" đó mà sự rèn luyện khí công sẽ đạt được những công năng ở mức độ trung-cao-thượng thừa, hoặc đạt đến khả năng (theo Đạo Gia!) thiền định trực tiếp giác ngộ chân lý (Đạo) (?!). 

Lão Tử xây dựng triết thuyết của mình bằng việc đầu tiên là đưa ra khái niệm "Đạo", với quan niệm Đạo (chúng ta gọi là Tự Nhiên Tồn Tại!) là thứ gì đó cực kỳ phi thường và ảo diệu, là tất cả nhưng cũng không là cái gì cả, vừa thế này lại cũng vừa thế kia, "người trần mắt thịt" không thể "nắm bắt" được, mà chỉ những người đạt đến trạng thái tinh thần không còn "bợn trần nhơ", nghĩa là không còn bị nhiễu loạn bởi những tạp niệm đời thường và đã hoàn toàn trong sáng, mới có khả năng tiếp cận nó trong tâm thức (nhận thức tâm linh?). Chúng ta cho rằng dù còn lờ mờ thì nhiều "ý tứ" còn lưu lại trong lịch sử đã hướng đến chỉ thị: nhằm mục đích truyền bá cũng như tăng cường khả năng nhận thức về Đạo, chính những nhà hiền triết của Đạo Gia phái thời Xuân Thu-Chiến Quốc, với Lão Tử là người đi tiên phong, trên cơ sở kế thừa sự "luyện tinh hóa khí" đã có sẵn (dù có thể ở dạng còn sơ khai, có tính tản mạn), vẫn mặc nhiên lưu truyền vào thời đó (chủ yếu bằng truyền khẩu?) trong xã hội, trong dân gian, tạm gọi chung là "khí công nguyên thủy", đã sáng tạo ra phương thức rèn luyện khí công một cách hoàn chỉnh, cụ thể là Bản kinh Âm Phù, cũng như sự hành thiền, cái gốc của khí công và thiền ngày nay. 

Cũng khí công ngày nay cho thấy, nếu "luyện tinh hóa khí" là giai đoạn đầu tiên có vai trò khai mở, đặt nền móng, "bày mâm" của rèn luyện khí công hoặc hành thiền, thì khâu đầu tiên, đóng vai trò bước xuất phát của "luyện tinh hóa khí" là tập thở, luyện thở. Thở là hoạt động bản năng của sống còn, đứa bé mới sinh ra đời, chưa có ý thức đã biết thở rồi thì việc gì phải tập nữa? Trả lời cho "gãy gọn" câu hỏi này ... hơi bị khó, bởi vì nó động chạm đến nhiều vấn đề khoa học về nhân sinh. Tuy nhiên, cũng không nhất thiết phải trả lời mà có thể thay bằng thí dụ đơn giản thế này: người dân quê luôn vận động cơ bắp để "lao động chân tay" trong môi trường thiên nhiên nên nói chung có thân- tâm mạnh khỏe, dẻo dai, linh hoạt, tinh tường và do đó cũng sống thuần phác, an nhiên và thọ, còn người trí thức, vì mưu sinh mà phải "lao động trí óc" căng thẳng trong một môi trường hạn hẹp, rất ít đòi hỏi đến vận động cơ bắp, nghĩa là rời bỏ lối sống mà loài người đã thích nghi qua suốt hàng ngàn, hàng vạn, thậm chí hàng triệu năm, cho nên có thân- tâm thiếu lành mạnh và muốn khắc phục thể trạng ấy thì phải tập luyện thể dục thể thao- tập chạy, nhảy, nâng, vác..., những động tác rất đỗi bình thường đối với người dân quê...Từ đây có thể suy đoán rằng, tiền đề làm xuất hiện khí công nguyên thủy là một thực hành nào đó có tính phương pháp, tạm gọi là "Thuật luyện thở", và khí công nguyên thủy thuở ban đầu đơn giản là cách thức điều tiết nhịp điệu hơi thở sao cho hài hòa, nhẹ nhàng, tự nhiên (tưởng như không thở mà thực ra là thở "nhiều nhất", chẳng hạn như cách thở của thai nhi-thai tức), làm cho thân - tâm dần trở nên thư thái, từ đó sẽ có được cảm nhận về sự tồn tại thực sự một "cái gì đó" (khoa học ngày nay chưa nhận dạng được) gọi là "khí" (vì rất linh động) lan tỏa khắp cơ thể, và qua mỗi lần thực hành như thế có cảm giác cơ thể khỏe khoắn hơn...
                                   *** 

Đã "trót" rồi thì phải "trét" cho cái đầu mắc chứng thích cãi, đang lừng xừng và tưng tưng vì rượu, hết đường tò mò, bắt bẻ! Câu hỏi cuối cùng: "Thuật luyện thở" phát sinh ra từ đâu? "Chắc như đinh đóng cột": từ thực tiễn cuộc sống chứ còn có thể từ đâu khác được nữa! Nhưng để trả lời cụ thể hơn, lại phải... huyên thuyên tưởng tượng thôi! Có lẽ sự luyện thở đã tồn tại manh nha một cách tự phát trong tối cổ, khoảng đâu đó trong thời đại mà săn bắt- hái lượm vẫn còn là phương thức kiếm ăn chủ yếu để mưu sinh của con người. Chính cuộc đấu tranh với thiên nhiên nhằm mục đích sinh tồn đã gợi ý, đồng thời làm nảy sinh yêu cầu luyện thở đối với giống loài động vật đã được trang bị tư duy. Tuy nhiên, để tăng cường khả năng kiếm ăn có nhiều cách, và không phải từ công cuộc tìm kiếm thức ăn nào cũng (trực tiếp) nảy ra đòi hỏi đến luyện thở, mà chúng ta cho rằng, (hoàn toàn tự nhiên thôi!) chỉ có thể là từ công cuộc kiếm ăn mang tính thường xuyên trong môi trường nước, phải bơi lội, lặn hụp "càng dài hơi càng tốt", nhất là trong tiết lạnh.  Chúng ta biết rằng người Việt Cổ là cộng đồng người quen sống ở vùng sông nước, tìm kế sinh nhai trong môi trường sông nước. Miền duyên hải giáp biển lớn, sông ngòi chằng chịt, giông bão lầy lội hầu như quanh năm suốt tháng gây không ít khó khăn, nhưng cũng tạo nhiều thuận lợi, nhất là tạo ra nguồn thức ăn dồi dào (hải sản) cho cư dân. Chính vì vậy mà bơi lội, lặn hụp trở thành công việc thường xuyên của người Việt Cổ trong phương thức săn bắt hái lượm nhằm mưu sinh. Vì vậy, luyện thở tất yếu nảy sinh.

Với suy đoán đó, cộng với thực trạng phân bố khí công ngày nay về mặt khu vực địa lý, và thêm cả những ý kiến mới đây của nhiều nhà khảo cổ học về cội nguồn văn minh nhân loại, thì hoàn toàn có khả năng sự luyện thở đã là một "thuật" có tính phổ biến đối với cư dân sinh sống ở những vùng duyên hải, nhất là tại các cửa sông, thuộc nền văn minh Hòa Bình. (Theo Wikipedia, Văn hóa Hoà Bình thuộc thời Đồ đá cũ sang Đồ đá mới (cách ngày nay 15.000 năm, kéo dài đến 2.000 năm trước Công Nguyên). Nền văn minh này từng tồn tại trên vùng đất xen núi đá vôi, thuộc phía Tây châu thổ ba con sông lớn thuộc Bắc Bộ Việt Nam, và với không gian rộng lớn, tiêu biểu cho cả vùng Đông Nam Á và Nam Trung Quốc.Các bằng chứng ngày càng nhiều về một nền văn minh Đông Nam Á đã làm lung lay nhiều thuyết tiền cổ đứng vững nhiều thập kỷ của thế kỷ XX. Người tiên phong trong việc đề xuất hướng mới cho nguồn gốc loài người là ông Solheim II, giáo sư Đại học Hawaii. Năm 1967, Solhiem II cho công bố trên nhiều tài liệu nói về sự ra đời sớm của việc trồng trọt, làm gốm, đóng thuyền, đúc đồ đồng thau...Sau Solheim II, một số nhà khảo cổ học khác như Meacham ở Hồng Công, Higham ở Niu Dilân, Pookajorn ở Thái Lan đều thống nhất quan điểm, vùng Đông Nam Á, từ Thái Lan xuống Indonesia qua bán đảo Đông Dương, là cái nôi của văn minh Nam Á- Nam Đảo. Và mới đây, Oppenheimer còn đi xa hơn nữa, khi đưa ra thuyết rằng văn minh Đông Nam Á là cội nguồn của văn minh phương Tây, rằng khi cư dân thềm Sunda di tản tránh biển dâng, họ đã đến vùng Lưỡng Hà- Trung Đông, mang theo kinh nghiệm trồng trọt, làm đồ gốm và sự tích Đại Hồng Thủy).

Tóm lại, cách nay trên dưới 10.000 năm (có thể là lâu hơn), từ cuộc mưu sinh gắn liền với môi trường nước của cư dân Đông Nam - Châu Á, vấn đề luyện thở tự nhiên được đặt ra và dần được đúc kết thành "Thuật luyện thở". Lúc đầu, thuật luyện thở chỉ nhằm mục đích duy nhất là điều tiết hơi thở (điều tức) sao cho nhịn thở được lâu (bế tức) để tăng sức bền bỉ, qua đó làm tăng khả năng lặn hụp, hoạt động mưu sinh trong môi trường nước. Dần dà, trong quá trình luyện khí ấy, con người cảm nhận được sự xuất hiện và lan tỏa thứ gọi là "khí" trong cơ thể cũng như mối quan hệ gắn bó giữa vận động luân chuyển của khí và sức khỏe. Trên nền tảng đó, khí công nguyên thủy ra đời như một bước phát triển quan trọng của thuật luyện thở, có vai trò sâu rộng hơn - một phương pháp thực hành đặc thù, căn cốt, độc đáo và vi diệu nhằm dưỡng sinh, tăng cường sức khỏe cả về thể xác lẫn tinh thần (cả thân lẫn tâm). Kế thừa gắn liền với sáng tạo, Đạo Gia phái thời Xuân Thu-Chiến Quốc đã đưa khí công nguyên thủy lên một trình độ mới, "bài bản" và "chuyên môn" hơn nữa, sâu rộng hơn nữa, thành phương thức rèn luyện đạt tới kiện toàn thân-tâm và hơn nữa là đạt Đạo. Có thể coi Bản kinh Âm Phù là "đại diện chính thức" cho "cái gốc", đồng thời là "cột mốc xuất phát" của lịch sử hình thành và phát triển của khí công cũng như của thiền ngày nay(?).

* * *

Suy đoán như trên của chúng ta về lịch sử khí công thì... không sao cả(!) vì cho đến nay, lịch sử "có tư cách" chính thức về khí công còn rất mập mờ, chưa ai chỉ ra được một cách dứt khoát và cụ thể nguyên nhân ra đời cũng như nguồn gốc xuất phát của nó. Tuy nhiên về lịch sử thiền thì sự suy đoán của chúng ta hoàn toàn xung khắc, trái ngược với quan niệm của đại đa số các học giả hiện nay. Theo họ, Đức Phật Thích Ca là người sáng tạo ra cách thức thiền tu nhập định, đóng vai trò chủ yếu và quyết định cho việc luyện tâm, khai phóng thần trí đạt đến khả năng trực tiếp nhận thức được chân lý (giác ngộ!), tiếp cận được cảnh giới tuyệt đối chân thực của thế gian (cõi Niết Bàn), từ đó mà giải thoát khỏi khổ đau. Đó là sự sáng tạo trên cơ sở kế thừa phương thức rèn luyện thân-tâm có tên gọi là Yoga đã tồn tại từ trước của Ấn Độ cổ đại. Vậy, Yoga là gì? Tìm trên mạng, chúng ta chép được:

"Yoga là một sự kết hợp giữa các bài tập thực hành về thể chất và tinh thần hướng đến sư hợp nhất về trí não, cơ thể và tinh thần. Mục đích của Yoga là đạt được trạng thái cân bằng bên trong và đi đến trạng thái “giác ngộ” – khi cơ thể đồng nhất với vũ trụ. Có rất nhiều trường phái Yoga khác nhau đang tồn tại. Ở phương tây, Yoga chủ yếu được luyện tập là Hatha Yoga. Còn ở phương Đông, các trường phái Yoga khác được tập trung nhiều hơn như thiền định,…. Tuy Yoga có nhiều bộ môn và trường phái khác nhau như vậy, nhưng mục tiêu cuối cùng của Yoga chính là đạt tới sự cân bằng thống nhất và giác ngộ".

"Yoga có mục tiêu cao cả như vậy, nhưng bản chất nó rất thực tế và mang tính khoa học. Khi thăm dò về kinh nghiệm trực tiếp thực hành và quan sát các lớp học Yoga, kết quả cho thấy rằng tuy các giáo viên dạy các kỹ thuật kiểm soát trí não nhưng nó hoàn toàn không phải là 1 tôn giáo. Có một sự liên quan chặt chẽ giữa Yoga và triết học, sự kết hợp tuyệt vời này bạn có thể dễ dàng tìm thấy trong bất kỳ hệ thống niềm tin nào tồn tại trên thế giới".

"Có nhiều loại Yoga khác nhau, mỗi loại dựa trên một đường giải phóng cụ thể chẳng hạn hoạt động cơ thể, thiền định, tập trung, mantra, hiểu biết, sức mạnh giới tính, v.v… Một số Yoga phối hợp các Yoga khác. Mục đính của tất cả là phải giải thoát tinh thần khỏi thể xác và kết hợp với Đấng tuyệt đối.
Yoga Bhakti, con đường mộ đạo và tình yêu, tập trung vào thần thánh, nhà thần nghiệm hay thánh hoặc tập trung vào một nhiệm vụ trong đời sống. Thông qua bhakti người phục vụ tâm linh.
Yoga Hatha, sự thanh tẩy thể xác thông qua các bài tập cơ thể bao gồm hàng ngàn tư thế gọi là asana. Thanh tẩy thể xác dẫn đến sự hài hòa và phát triển các quá trình tâm thần và tâm linh. Yoga Hatha là hình thức phổ biến nhất ở phương Tây, nhưng không hiệu quả mấy vì chỉ được rèn luyện một cách nghiêm khắc để mang lại lợi ích cho cơ thể.
Yoga Jnana là con đường hiểu biết. Hiểu biết thu nhập được từ quan sát, nghiên cứu và thí nghiệm được hồi tưởng và suy ngẫm. Yoga Karma (nhân quả) là con đường phục vụ không vị kỷ.
Người thực hiện dharma (nhiệm vụ) của mình trong công việc và hoạt động hằng ngày, không có sự gắn bó với hoạt động hay kết quả hoạt động".

Yoga Mantra là con đường cầu nguyện và âm thanh linh thiêng thông qua việc sử dụng mantra. Mantra linh thiêng nhất là Om hay Aum.
Yoga Raja là con đường kiểm soát tâm trí thông qua tập trung, vận khí, tư thế, thiền định và chiêm niệm. Yoga Raja mang tính chất siêu hình nhất trong các loại Yoga.
Một số Yoga phối hợp những Yoga này. Yoga tích hợp là sự tổng hợp các Yoga nhấn mạnh hữu thể chung, do Sri Aurobindo tạo ra. Xem Aurobindo, Sri. Yoga Kundalini sử dụng tư thế và mantra để tăng gia năng lượng kundalini cơ bản. Yoga Laya sử dụng thiền định, vận khí, mantra, hình dung và tư thế để thanh tẩy hệ thống chakra và gia tăng kundalini. Yoga Tantra tập trung vào sự đánh thức sức mạnh giới tính, được chuyển thành kundalini. Nghi lễ giả kim thuật bao gồm sự chuyển hóa kundalini để đạt đến sự trường thọ. Phật giáo Tantra khai thác sức mạnh siêu nhiên và sử dụng ma thuật."
 
"Về nguồn gốc của Yoga, không ai xác định được chính xác vì Yoga được truyền miệng và bí mật trong một thời gian dài. Những bản viết tay đầu tiên về Yoga được tìm thấy trên những chiếc lá cọ mỏng manh và dễ bị hư hại. Hầu hết các học giả tin rằng, Yoga có từ khoảng 5000 năm trước, cũng có một số khác lại cho rằng, việc thực hành Yoga đã có từ 10000 năm trước rồi".

"Những bài tập thực hành Yoga được phát triển bởi nền văn minh Indus-Sarasvati ở miền bắc Ấn Độ và bắt đầu trong bối cảnh của mối quan hệ sư phụ-đệ tử. Những người thực hành Yoga đã luyện tập trong điều kiện khổ hạnh, tìm cách kiểm soát cơ thể, giảm bớt ham muốn – một trong những trở ngại cho việc đạt tới sự giác ngộ. Và cuối cùng, một số thiền sinh bắt đầu nhìn thấy rằng cơ thể không phải là sự trở ngại cho việc đạt tới sự hòa hợp với vũ trụ mà nó chính là phương tiện. Từ đó, họ tạo ra các bài tập thực hành nhằm cân bằng và kích thích cơ thể. Triết lý này được gọi là Tantra Yoga, dần dần dẫn tới việc khám phá cơ thể – 1 định nghĩa mang tính tâm linh, vốn là tiền thân của Hatha Yoga.
Trong những năm 1920 và 30, Hatha Yoga được quảng bá mạnh mẽ ở Ấn Độ thông qua tác phẩm của Swami Sivananda, T. Krishnamacharya và những người khác. Sivananda là tác giả của trên 200 đầu sách về Yoga, là người đã mở rất nhiều trung tâm yoga trên toàn thế giới và đào tạo các giáo viên Yoga.
Kể từ đó, nhiều giáo viên phương Tây và Ấn Độ đã trở thành những người tiên phong, phổ biến hatha yoga và thu hút hàng triệu tín đồ. Giờ đây, Hatha Yoga có nhiều trường học hoặc phong cách khác nhau, tất cả đều nhấn mạnh nhiều khía cạnh khác nhau của thực tế.
Yoga có những khuyết điểm và nguy hiểm cũng như bất kỳ môn học huyền bí khác. Môn đệ nghiêm túc về mặt lý tưởng phải rèn luyện dưới sự giám sát của Guru hay thầy dạy khác. Nguy hiểm của Yoga bao gồm : hướng nội cực đoan, chủ nghĩa khoái lạc tâm linh, tác dụng ngược (nhất là đối với đệ tử chưa chuẩn bị tốt), là sự gắn bó cảm xúc với Guru.
Cùng WeFit book lịch tập yoga để trải nghiệm loại hình tập luyện hấp dẫn này nhé!".
Theo Hoàng Thị Thơ (Tiến sĩ, Trưởng phòng Triết học phương Đông, Viện Triết học, Viện Khoa học xã hội Việt Nam), thì Đức Phật Thích Ca:
"lúc khởi đầu sự nghiệp tu tập đã theo học Yoga của hai đạo sĩ Bàlamôn là Kalama và Udraka Ramaputra. Nhiều sử liệu cũng cho biết rằng, đương thời, Đức Phật thực hành Yoga để tìm kiếm khả năng điều thân và điều tâm bằng luyện khí, đó là một kỹ năng tu luyện phổ biến của hầu hết các tôn giáo Ấn Độ. Bản thân Đức Phật cũng thực hiện phép tu Yoga một cách nghiêm ngặt trong quá trình giác ngộ. Cuộc đời tìm đạo, đắc đạo và truyền đạo của Đức Phật luôn gắn liền với hình ảnh và tinh thần tu luyện điển hình của Phật giáo là “Thiền”. Thực ra “Thiền” (Dhyana) là một khái niệm, một phép tu quan trọng trong các phép tu luyện của Yoga và nó đã được Đức Phật chọn làm phương pháp đặc trưng tu dưỡng thân - tâm của riêng Phật Giáo. Sự lựa chọn “Thiền” của Đức Phật phản ánh sự kế thừa có lựa chọn truyền thống tu dưỡng tâm linh của Ấn Độ cổ theo khuynh hướng coi trọng trí tuệ, đặc biệt là trí tuệ hướng nội. Bởi vì, Thiền của Phật Giáo chú trọng mục đích giác ngộ (ngộ) và không hoàn toàn giống Yoga lấy rèn luyện công năng siêu phàm làm trọng. Do vậy, Thiền (Dhyana) của Phật giáo có một nội hàm riêng trong hệ lý luận nhận thức và giải thoát của Phật Giáo nguyên thuỷ. Từ đây, Thiền không còn hoàn toàn giống với Yoga truyền thống của Bàlamôn Giáo".
Theo từ điển bách khoa mở Wikipedia:
"thuật ngữ Yoga có nghĩa là đặt mình dưới một cái ách, điều ngự, cột thắt lại, chuẩn bị, chuyên chú. Trong các hệ thống học phái Yoga thì thuật ngữ này chỉ đến hai nhánh tu học luyện thân và luyện tâm, giúp hành giả nâng cao năng lực thân tâm cũng như những hoạt động của chúng trong chính mình, điều hoà chúng để rồi có thể tiến đến cấp bậc toàn hảo tâm linh. Tu luyện Yoga thân thể được gọi là Hatha yoga, tu luyện Yoga tâm thức là Raja yoga. (...). Thuật ngữ Yoga rất cổ. Trong những bộ Áo nghĩa thư ( . upanishad) quan trọng nhất người ta tìm thấy các miêu tả phương pháp tập trung và thiền định".
Cũng theo Wikipedia:
"Hệ thống Yoga cổ điển như một phái triết học được Ba-đan-xà-lê ( . patañjali, tiểu sử không rõ, có thể sống thế kỉ 2/3 trước CN hoặc thứ 5 sau CN), tác giả của bộ du-già kinh ( . yogasūtra), khai sáng. Trong hệ thống này, Yoga kết hợp chặt chẽ với Triết học số luận ( . sāṃkhya) đến mức người ta xem Yoga và Số luận gần như là một hệ thống với Yoga đại diện khía cạnh thực hành và Số luận đại diện phần lí thuyết. Yoga hấp thụ phần triết học siêu hình của Số luận. Tuy nhiên, người ta tìm thấy hai điểm khác biệt nổi bật giữa hai hệ thống này là, phái Số luận thuộc hệ thống vô thần trong khi hệ thống Yoga thừa nhận một đấng Tự Tại (sa. īśvara). Theo Số luận thì chỉ nhận thức siêu việt mới chính là con đường dẫn đến giải thoát. (...). Khi tâm thức con người được an tĩnh, không còn sự phản chiếu nữa thì khi ấy, nó nhận thức được bản tính uyên nguyên của nó và đạt giải thoát. Con đường dẫn đến mục đích này chính là Yoga".
                                                *** 

Dù có những dị biệt nhất định thì nói chung, quan niệm hiện nay về lịch sử yoga và thiền là như thế. Rõ ràng, quan niệm như thế là thiếu hợp lý, vì nếu xét về mặt yếu lĩnh tu tập thì thiền vẫn thuộc về yoga, là bộ phận hợp thành không thể tách rời được của yoga, nên chỉ có thể là một "cải biên" mang tính hình thức của Raja yoga, và do đó không thể coi Đức Phật Thích Ca là người sáng lập ra phương thức thiền mà chỉ là người ứng dụng Raja yoga một cách sáng tạo (về hình thức), nếu có, trong thực hành "tu tâm, ngộ đạo" của mình.

Nhưng thiền chính xác là gì?
Trong khi nền văn minh nhân loại ngày nay đã có những bước tiến khổng lồ, con người đã đạt đến trình độ hiểu biết sâu sắc về Vũ Trụ từ vi mô đến vĩ mô, thì thế giới loài người vẫn đang lặn hụp trong u mê, đang lạc trong những tiềm ẩn tự hủy diệt tiềm tàng như tàng trữ vũ khí hạt nhân, thúc dục chạy đua vũ trang nhằm hủy diệt lẫn nhau, kích hoạt hận thù, kích hoạt lối sống thỏa mãn vô lối vật chất, buông thả hưởng thụ thấp hèn, phá vỡ những giá trị tinh thần, giúp con người sống hòa hợp bên nhau, hòa đồng cùng toàn thể Vũ Trụ.
Ngạn ngữ phương Tây có câu: "Khoa học không lương tâm chỉ là sự hủy hoại linh hồn".
Trong những thế kỷ qua loài người đã chứng kiến nhiều sự khổ đau kinh hoàng, nhiều mất mát khủng khiếp về người và của của bản thân do chiến tranh và cách ứng xử thiếu tỉnh táo của chính mình mang lại. Số phận con người trở nên mong manh trước sức mạnh của nền văn minh. Hình như càng văn minh con người càng đứng gần sự đe dọa tự hủy diệt! Vì thế con người càng ngày càng dõi nhìn về phương Đông, nơi ngày nay được nhiều người thừa nhận là cội nguồn văn minh thế giới, để tìm lại phương thuốc an thần, dưỡng tâm đầy hiệu quả, đã có từ thời xa xưa, đó là thiền.
Thiền, theo Phật Giáo, không thể định nghĩa chính xác được. Thiền không phải được hiểu bằng những định nghĩa thông thường, bằng kiến thức và tri thức để lý giải, bằng ý thức để phân tích. Thiền phải được thể nhập khi hành giả tự mình đi sâu vào tận cùng bản thể của vạn pháp, khi tự thân chứng nghiệm vào mảnh đất tâm của chính mình. Bởi vì thiền là sống - sống đúng và sống thật sự theo ý nghĩa sâu xa của sự sống. Do đó, thiền là bất khả tư nghị! Nếu gột rửa sạch những dị nghị, thiền hiện lên với tất cả sự tôn quí vốn có của nó, là cốt tủy của Đạo Phật, là bản hoài của chư Phật Bồ - tát và là cứu cánh của một đời tu.
Trong tác phẩm "Thiền", Jiddu Krishnamurti viết: "Tâm thiền thì im lặng. Không phải sự im lặng mà ý nghĩ có thể nhận biết bằng khái niệm, cũng không phải sự im lặng của một buổi chiều tịch mịch, mà là sự im lặng khi ý nghĩ, với tất cả hình ảnh, ngôn từ và nhận thức của  nó hoàn toàn chấm dứt. Tâm thiền là tâm đạo, một thứ đạo giáo chưa hề bị thánh đường, chùa chiền và tụng niệm đụng đến". "Thiền là một trong những nghệ thuật khó học nhất của cuộc sống - có lẽ là vĩ đại nhất, và một người không thể học thiền từ bất cứ ai khác. Đó cũng chính là nét đẹp của thiền. thiền không có pháp môn nên không có uy quyền". "Luôn luôn tìm cầu những chứng nghiệm bao la hơn, thâm sâu hơn mang tính siêu phàm thoát tục chỉ là một hình thức trốn tránh cái thực tại "đang là", có nghĩa là chính mình. Một cái tâm tỉnh thức sáng suốt và tự do tại sao lại cần sự chứng nghiệm, tại sao phải có sự chứng nghiệm? Ánh sáng là ánh sáng. Ánh sáng không cần thêm ánh sáng".
Đó là ý kiến Phật Giáo. Do đề cao thiền lên quá mức, nên họ nói có phần thiên vị thiền, làm cho thiền trở nên quá phi thường, huyễn hoặc. Công năng của thiền có lẽ cũng thường thôi. Luyện khí công mới quan trọng. Chúng ta không đồng thuận hoàn toàn với những ý kiến Phật Giáo về thiền. Tuy nhiên, việc hiểu khái niệm thiền tương tự như khái niệm đạo của Lão Tử là một ý hay.

Jiddu Krishnamurti 01.jpg
J. Krishnamurti cir. the 1920s
SinhNgày 11 tháng 5 năm 1895
Madanapalle (Nay là bang Andhra Pradesh), Ấn Độ
MấtNgày 17 tháng 2 năm 1986 (90 tuổi)
Ojai, California, Hoa Kỳ
Quốc tịchẤn Độ
Nghề nghiệpnhà diễn thuyết, viết sách, nhà triết học
Cha mẹJiddu Narayaniah và Sanjeevamma





Nếu đúng thực Đức Phật Thích Ca là người chính thức sáng lập ra thiền thì phải cho rằng thiền không có nguồn gốc (trực tiếp) từ yoga mà từ một "thứ" khác "rất gần" với yoga, và chính yoga mới là "kẻ" đã tiếp thu thiền để hoàn thiện mình. Cần thấy rằng, lịch sử văn hóa thời tiền-sơ sử trước khi có chữ viết là lịch sử truyền khẩu. Chỉ khi xuất hiện chữ viết và cùng "đồng cam cộng khổ" với quá trình chuyển hóa, phát triển dài lâu đến phong phú, hoàn thiện của chữ viết, lịch sử truyền khẩu ấy mới được san định để có nội dung như ngày nay. Việc san định đó cũng là một quá trình "sưu tầm và biên soạn" dài lâu, có tính lặp đi lặp lại, từ sơ sài đến phong phú, từ giản đơn đến phức tạp, phải qua tay nhiều người, nhiều thế hệ, với nhiều "tầm" nhận thức cũng như nhiều hướng định kiến thị phi khác nhau, cho nên chắc chắn đã bị "lũng đoạn", làm cho "tam sao thất bổn" bởi tính chủ quan, duy ý chí, thậm chí là cả sự cố ý thiên vị. 
Ngay thời điểm ra đời của Đức Phật Thích Ca mà Phật Giáo ngày nay khẳng định thực ra cũng có vấn đề. Không ít người cho rằng thời gian đó đã bị nâng khống. Nếu dựa theo bộ Tam Tạng Kinh được sưu tập vào khoảng hai, ba trăm năm sau khi Đức Phật nhập tịch, thì Đức Phật sinh vào ngày rằm tháng tư năm 573 TCN (có sách cho là năm 563 TCN). Nhưng theo kết quả nghiên cứu của giáo sư K.T.S. Sarao, trưởng khoa Phật học-Đại học Delli (trong "The Origin and Nature of Ancient Indian Buddhism", K.T.S.Sarao, Easten Book Linkers, Indological Publishers & Booksellers, Delhi, India, 1998), thì Đức Phật chỉ có thể chào đời trong khoảng những năm 477-397 TCN. Trong "Sử ký" của Tư Mã Thiên (bộ sách ghi chép lịch sử được các học giả đời sau đánh giá là đáng tin cậy nhất về các sự kiện và nhân vật thời Tiên-Tần), tiểu sử của Khổng Tử được viết tỉ mỉ và rõ ràng hơn rất nhiều lần so với tiểu sử của các bậc hiền triết khác. Theo đó, Khổng Tử sinh vào năm 551 TCN. Vì tiểu sử Khổng Tử có gắn liền với nhiều sự kiện và nhân vật lịch sử của một giai đoạn vận động xã hội tương đối xác thực được, đóng vai trò đối chứng, nên nếu năm sinh đó không đúng thì sai lệch cũng không đáng kể so với sự thực. Cũng theo tiểu sử Khổng Tử và một số ghi chép sử khác thì có thể suy ra được Lão Tử phải lớn hơn Khổng Tử hàng chục tuổi. Nếu kết luận nêu trên của Sarao đúng (dù sao một kết luận có cơ sở khoa học vẫn đáng tin hơn một nhận định không có bằng chứng!) thì phải cho rằng Đức Phật sinh sau Lão Tử không thể ít hơn 100 năm, và thậm chí, nếu xem xét đến cả "nét đặc trưng" trong nhận thức luận về xã hội-nhân sinh, thì còn có thể "bình tĩnh" đưa ra giả định: Đạo Gia là nguồn gốc phát sinh ra Đạo Phật (tương tự như "Đạo Abraham" là nguồn gốc phát sinh ra Đạo Do Thái vậy)...
Đó là một giả định cực kỳ "ngang ngược" mà bàn dân thiên hạ khó lòng chấp nhận được. Cứ nghĩ đến cảnh rồi đây bị cả thế giới Phật Giáo lên án, ruồng bỏ, chúng ta buồn thật buồn, và ngay lúc này đây, cái cảm giác lẻ loi, cô độc đã nổi lên ngập lụt tâm can. Nhưng biết làm sao được khi mục đích duy nhất và xuyên suốt của cuộc hành trình mà chúng ta đang thực hiện này cũng chính là ước mong của Đức Phật: góp phần tìm cửa mở nhằm giũ bỏ mê lầm, giải thoát khỏi vô minh!? Nghĩ lại, chúng ta lại yên lòng! Nếu chúng ta đúng, thì Đạo Phật có được cơ hội, với cái tâm vô chấp, vui vẻ sửa lại mình cho minh bạch hơn. Còn nếu chúng ta sai lầm, thì cũng như một phản biện tốt giúp cho lịch sử của Đạo Phật thêm chắc chắn và sáng ngời hơn nữa. Đằng nào cũng...có ích cả! Vậy thì chúng ta hãy tiếp tục câu chuyện của mình, một câu chuyện chưa biết thực hư ra sao, có thể chỉ là hoang đường trong hiện thực, nghĩa là hiện thực trong hoang đường, hoặc cũng có thể là hiện thực trong hiện thực, nghĩa là hoang đường trong hoang đường!!!
Một cách tuyệt đối, mọi quá trình xảy ra trong tự nhiên (trong hiện thực nói riêng và thực tại nói chung!) đều hợp lý (còn hợp đức hay không là do con người định đoạt theo quan niệm và qui ước của mình!), vì đều không vi phạm qui luật tự nhiên, nghĩa là đều thỏa mãn qui luật, phục tùng qui luật và do đó, bản thân chúng cũng mang tính qui luật. Quá trình phát triển văn minh của loài người cũng vậy thôi. Theo nguyên lý nhân-quả, quá trình đó phải có một cội nguồn xuất phát. Chắc rằng trong hiện thực lịch sử, không thể nào xác định được một cách dứt khoát "cột mốc" cụ thể đánh dấu sự ra đời của văn minh, nhưng có thể dứt khoát rằng căn nguyên tối hậu của nó chính là sự đấu tranh sinh tồn trong thế giới sinh vật. Có thể nói đấu tranh sinh tồn là qui luật cơ bản nhất của giới hữu sinh, và không có đấu tranh sinh tồn thì không có quá trình tiến hóa thích nghi. Chính trong quá trình tiến hóa thích nghi ấy, xuất hiện giống loài (người) biết tư duy trừu tượng, để rồi thông qua sự vận động của tư duy trừu tượng mà hình thành nên quá trình phát triển văn minh. Chức năng, nhiệm vụ và đồng thời cũng là mục đích nguyên thủy, cơ bản, chủ yếu của tư duy trừu tượng là trên cơ sở quan sát và nhận biết trực giác hiện thực mà tìm hiểu và tăng cường tìm hiểu ngày càng sâu rộng về tự nhiên để học hỏi, bắt chước tự nhiên rồi tiếp theo là thực hành sáng tạo nhằm tăng cường thích nghi, tăng cường khả năng mưu sinh, đồng thời qua đó mà cũng nâng trình độ sinh tồn, mức sống của loài người nói chung lên ngày một cao. Một cách sâu xa, nhờ cái đặc tính ấy của tư duy trừu tượng mà loài người tiếp cận được phương thức sinh tồn ổn định nhất, đảm bảo nhất cho cuộc sống con người và vào buổi đầu đã đóng vai trò một "cú hích" quyết định làm đột khởi tốc độ phát triển văn minh, đó là lối sống định cư lâu dài gắn liền với việc lấy trồng trọt-chăn nuôi làm sinh kế chủ đạo. 
Định cư là lối sống tối ưu và luôn được ưu tiên (tự phát!) lựa chọn ở mọi giống loài sinh vật khi điều kiện thiên nhiên cho phép. Ở loài người cũng luôn tồn tại xu thế tự nhiên đó. Nhờ có tư duy trừu tượng mà con người có khả năng chủ động một cách tích cực triển khai lối sống định cư lâu dài trong hiện thực. Tuy nhiên, việc phát hiện ra cách kiếm ăn bằng trồng trọt-chăn nuôi đơn thuần vẫn chỉ là một điều kiện cần chứ chưa đủ giúp cho con người có thể sống định cư lâu dài. Nhân tố cực kỳ quan trọng, có tính thiết yếu, mang ý nghĩa tạo ra cuộc cách mạng về "tập quán" sinh sống ở loài người nói chung, chính là việc phát hiện ra một thứ cây (được gọi là cây lương thực, cụ thể là cây lúa, cây ngô...) dễ trồng, có thể trồng đại trà, thời gian thu hoạch ngắn mà lại có khả năng cung ứng được lượng thức ăn dồi dào, không những đáp ứng được nhu cầu về miếng ăn trong hiện tại cho bản thân con người, mà còn được dùng để chăn nuôi, và hơn nữa là có thể tích lũy, dự trữ nhằm phục vụ cho sinh kế lâu dài. Nhờ phát hiện ra cây lúa (hoặc cây ngô) mà loài người nói chung chuyển biến mạnh mẽ và nhanh chóng từ lối sống du cư, lấy săn bắt- hái lượm đầy tính thụ động, lệ thuộc rất nhiều vào thiên nhiên làm phương kế mưu sinh chủ yếu sang lối sống định cư lâu dài, lấy trồng trọt (cây lương thực)-chăn nuôi (gia súc) có tính chủ động cao, bớt hẳn sự lệ thuộc vào thiên nhiên, làm phương kế mưu sinh chủ yếu. Sự chuyển biến về lối sống có tính bước ngoặt đó đã là tiền đề cơ bản làm xuất hiện những khu vực sống tập trung dân cư ổn định với số lượng cá thể đông đảo và mật độ cao hơn hẳn thời đại trước đó, tạo điều kiện ra đời (một cách tất yếu!) sự tồn sinh theo hình thái cộng đồng xã hội ở loài người cùng với những bước tiến "ngày càng thoăn thoắt và chắc nịch" trong cuộc hành trình phát triển văn minh của mình.
 Tuy nhiên, cần thấy rằng, không phải việc phát hiện ra cây lương thực tự dưng xảy ra đồng thời tại mọi khu vực có con người sinh sống. Phụ thuộc vào nhiều yếu tố về địa hình, khí hậu thiên nhiên và gồm cả yếu tố ngẫu nhiên mà sự phát hiện ra cây lương thực, hơn nữa là "thấy được" khả năng tiềm tàng lớn lao của nó trong vai trò cung ứng miếng ăn, chỉ có thể xảy ra tại một khu vực nhất định, sau đó mới lần lượt được biết đến ở các khu vực khác trên thế giới. Cũng chính lực lượng dân cư tại khu vực đầu tiên phát hiện ra cây lương thực đó đã (có thể là tự phát) thực hiện cuộc cách mạng xây dựng nên một lối, một cách thức sống hoàn toàn mới, chưa từng có trên Trái Đất trước đó, đó là trên một địa bàn tương đối xác định, tự tạo và duy trì nguồn thức ăn một cách chủ động cho mình, hay tạm gọi là "sống tự cung tự cấp bằng trồng trọt-chăn nuôi mang tính nông nghiệp", và sau một quá trình phát triển-củng cố nữa, sẽ tạo dựng nên một "hiện thực" dẫn tới khái niệm mà ngày nay chúng ta gọi là "nền nông nghiệp nguyên thủy".
 Nhờ có lối sống định cư trồng trọt-chăn nuôi nông nghiệp mà ở khu vực đó, lượng thức ăn trở nên dồi dào trong khi phần lớn thời gian và sức lực của con người dùng cho cuộc kiếm miếng ăn so với thời sống bằng săn bắt-hái lượm, được giải phóng, tạo điều kiện tăng cường những hoạt động tinh thần trên mọi lĩnh vực mang tính sáng tạo như nhận thức tự nhiên, nghiên cứu chế tác công cụ, phát triển văn hóa-nghệ thuật,..., qua đó mà văn minh được thúc đẩy nhanh chóng lên một cao trình mới, vượt trội hơn hẳn trình độ văn minh đương thời ở các khu vực khác. Trên một bình diện quan sát và qui ước hợp lý nhất định, có thể cho rằng thời điểm xuất hiện lần đầu tiên trong hiện thực, tại một khu vực nào đó trên Trái Đất, một quần thể người sống định cư lâu dài chủ yếu bằng trồng trọt (cây lương thực) và chăn nuôi (súc vật) ở trình độ đã sơ khởi mang tính "bán" canh tác nông nghiệp, chính là cột mốc thời gian đánh dấu sự thoát ly (tương đối) "chính thức" của loài người ra khỏi thế giới động vật, đồng thời cũng đánh dấu sự khai sinh ra lịch sử xã hội loài người (chứ không phải lịch sử loài người!), và cái gọi là "nền bán nông nghiệp nguyên thủy" đó cũng chính là nền văn minh đầu tiên của nhân loại với tên (tạm) gọi là "Nền văn minh trồng trọt-chăn nuôi (bán) nông nghiệp nguyên thủy". Đây là nền văn minh cội nguồn, căn cốt, không trực tiếp thì cũng gián tiếp làm phát sinh ra các nền văn minh cổ đại, bởi vì lịch sử loài người đã chỉ ra rằng, sự lan tỏa văn minh trong một thời đại, như một mặc định hàm chứa nguyên lý (nào đó?) của tự nhiên, luôn có hướng "ưu tiên lựa chọn" mang tính nổi trội, lấn át, bao giờ cũng là từ khu vực có trình độ văn minh cao hơn đến khu vực có trình độ văn minh thấp hơn...

                                    *** 

Hoang tưởng bạt mạng và "ní nuận" huyên thuyên một hồi rồi cũng đến được bến bờ mà chúng ta muốn!
Những nghiên cứu gần đây trong khảo cổ học, nhân học, di truyền học, cũng như ý kiến một số nhà khoa học mà tiêu biểu là Oppenheimer đã dẫn đến kết luận: "cái nôi" của nền văn minh nhân loại là ở vùng Đông-Nam Châu Á. Kết luận đó đầy sức thuyết phục chúng ta, và chúng ta hoàn toàn đồng thuận, nghĩa là chúng ta cho rằng, nếu không phải Văn minh Hòa Bình, thì trước đó và đâu đó trong khu vực Đông-Nam Châu Á, đã từng tồn tại một nền văn minh (tạm gọi là) Gỗ-Đá, đã manh nha (!) hình thức nông-ngư nghiệp nguyên thủy (với có thể cây ngô (!???) hoặc cây lúa nước) đã được chọn làm cây lương thực chủ đạo!!!), thực sự nổi bật (nhưng đột ngột biến mất (cùng với giống cây ngô!) do đại họa thiên tai nào đó), đóng vai trò định hướng, mở đường cho các nền văn minh cổ đại sau này (kể cả nền văn minh cổ đại Châu Mỹ, nơi còn bảo lưu được cây ngô!).
Những hiểu biết hiện nay về cây ngô, thì theo Wikipedia: "Ngô là cây lương thực được gieo trồng nhiều nhất tại châu Mỹ (chỉ riêng tại Hoa Kỳ thì sản lượng đã là khoảng 270 triệu tấn mỗi năm)...
(...)
Chứng cứ di truyền học gần đây cho rằng quá trình thuần dưỡng ngô diễn ra vào khoảng năm 7000 TCN tại miền trung Mexico, có thể trong khu vực cao nguyên nằm giữa Oaxaca và Jalisco. Cỏ ngô hoang dại gần giống nhất với ngô ngày nay vẫn còn mọc trong lưu vực sông Balsas. Các dấu tích khảo cổ của các bắp ngô có sớm nhất, được tìm thấy tại hang Guila Naquitz trong thung lũng Oaxaca, có niên đại vào khoảng năm 4.250 TCN (đã điều chỉnh; 3.450 TCN là chưa điều chỉnh); các bắp ngô cổ nhất trong các hang động gần Tehuacan, Puebla, có niên đại vào khoảng 2750 TCN. Có rất ít thay đổi diễn ra đối với hình dạng bắp ngô cho tới khoảng 1100 TCN khi các thay đổi lớn diễn ra trên các bắp ngô trong các hang động tại Mexico: sự đa dạng của ngô tăng lên nhanh chóng...
(...). Một điều vẫn chưa rõ là quá trình thuần dưỡng ngô ngưng tụ lại được gì, do phần ăn được của các thứ hoang dại là quá nhỏ và khó để có thể ăn trực tiếp, do mỗi hạt được bao bọc trong các vỏ hai mảnh rất cứng". (Phải chăng đây là nguyên nhân chủ yếu làm dân cư Đông - Nam Á chuyển đổi từ cây ngô sang cây lúa nước làm cây lương thực chủ yếu?).
"Cây ngô được du nhập vào Việt Nam từ Trung Quốc. Ban đầu ngô được gọi là “lúa ngô”, về sau được gọi tắt thành “ngô”. Chữ “Ngô” là để chỉ Trung Quốc. Người Việt vào thế kỷ 15-17 từng gọi Trung Quốc là “Ngô”, bởi nhà Minh cai trị Trung Quốc khi đó vốn dựng nghiệp tại đất Ngô (nay là Nam Kinh và các vùng phụ cận).
Theo sách “Vân đài loại ngữ”của Lê Quý Đôn thì một người đàn ông tên Trần Thế Vinh (1634–1701) là người đã đem giống lúa ngô từ Trung Quốc về Việt Nam trong chuyến đi sứ nhà Thanh năm 1685 của ông Vinh. Năm Ất Sửu, niên hiệu Chính Hòa năm thứ 6 (Tây lịch năm 1685), Trần Thế Vinh được cử làm phó sứ đoàn sứ thần Đại Việt sang nước Thanh.
Trong dân gian thì có truyền thuyết nói rằng Phùng Khắc Khoan mới là người đầu tiên đem giống lúa ngô từ Trung Quốc về Việt Nam khi ông đi sứ nhà Minh năm Đinh Dậu, niên hiệu Quang Hưng năm thứ 20 (Tây lịch năm 1597)".
  
Từ nhận định đang ở tình trạng "chân trong chân ngoài" vòng giả định và có tính "hung bạo" này, tiếp theo, chúng ta sẽ trình ra một giả thuyết mới còn "hung bạo"hơn nhiều!
Sau đại nạn Hồng Thủy, về mặt thực thể, nền văn minh Gỗ-Đá hầu như biến mất hoàn toàn cùng với đại đa số dân cư của nó. Về mặt tinh thần, dù có vẻ cũng tương tự, cái khối gồm những "đỉnh cao" tinh hoa tri thức mà nền văn minh ấy đúc kết được, nhưng chưa kịp lan tỏa, đều tan thành mây khói, thì vẫn còn lại cái phần "nền tảng đặc trưng cơ bản" của nó (có thể không nhiều và cũng chỉ dưới dạng "ý niệm định hướng", "quan niệm chung chung", "nhận thức tổng quát"...), và cùng với "nỗi ám ảnh kinh hoàng về thảm nạn hủy diệt Đại Hồng Thủy" tồn tại "mãi" trong trí não, thành ký ức dài lâu của số cư dân "tàn dư" còn sống sót sau đại nạn, thuộc (những) "vùng ven", "vùng xa" của khu vực "trung tâm văn minh". Sự mất đi đột ngột của một nền văn minh (bắt đầu bước vào thời kỳ định hình hóa sự canh tác theo hướng sản xuất nông nghiệp cùng với giống cây lương thực của nó) đang thời kỳ phát triển và chưa kịp lan tỏa mạnh mẽ ra xung quanh, đã lập tức làm cho toàn bộ dân cư còn sót lại ở khu vực Đông-Nam Châu Á trở về rất gần với lối sống của "thời hồng hoang xưa kia", hay nói đúng hơn là hầu như "trở lại" bình độ chung của văn minh thế giới, cũng có nghĩa là (hầu như!) sự săn bắt-hái lượm lại "vươn lên" đóng vai trò làm phương thức mưu sinh chủ yếu. Tuy nhiên, về mặt tinh thần, sự phát triển văn minh trong khu vực vẫn tiếp tục từ bình độ và theo định hướng của "phần" nền tảng còn bảo tồn được của nền văn minh Gỗ-Đá. (Đó là tưởng tượng có thể tin được vì giả dụ ngay lúc này toàn bộ thế giới văn minh đột nhiên biến mất thì đồng thời những bộ tộc sống hoang dã trong rừng rú Châu Phi cũng lập tức trở về với đời sống "rất gần" thời nguyên thủy, nhưng từ đó, sự phát triển văn minh của loài người, không phải lại "chập chững" với những bước đi đầu tiên nữa, mà trên bình độ văn minh những bộ tộc đó đã tiếp thu được, nhận thức được từ nền văn minh của thế kỷ XXI!). Có thể vì vậy mà dù giống cây lương thực chủ yếu (phải chăng là cây ngô?) đã mất đi cùng với nền văn minh Gỗ-Đá bởi đại họa, thì nhờ hình ảnh về "chủng loại thức ăn gọi là lương thực" vẫn còn được lưu giữ trong ký ức, nên việc tạo ra cái ăn bằng trồng trọt-chăn nuôi vẫn được triển khai ở một mức độ nhất định, trong tình trạng cố gắng nhưng "được chăng hay chớ", và giống như một sự duy trì nhằm "đợi chờ cơ hội mới"...
 
 
Hình như trước đại nạn Hồng Thủy đã có một nền văn minh tạm gọi là "Nền văn minh Gỗ-Đá". Trung tâm của nền văn minh này ở đâu đó trên vùng hiện nay là Đông Châu Á, thuộc phần phía đông Thái Bình Dương. Đó là nền văn minh tương đối phát triển, đã lan tỏa toàn cầu. Loài người của nền văn minh này chưa có tiến hóa - thích nghi sinh học để phát sinh ra ngôn ngữ chữ viết mà chỉ mới có ngôn ngữ cử chỉ cơ thể, chân tay và khắc vạch sơ sài. Các tàn tích ủa nền văn minh này hầu hết đã chìm dưới đáy biển. Dưới đây là một số bài viết về vấn d8ề này ma chúng ta đã sưu tầm được trên mạng:

1-"Phát hiện dấu vết nền văn minh 10.000 năm tuổi dưới đáy biển:

Các nhà khảo cổ phát hiện cấu trúc còn sót lại của một công trình nhân tạo khổng lồ dưới nước, có thể do một nền văn minh cổ đại xây dựng và chứa nhiều bí ẩn như bãi đá cổ Stonehenge.

Theo báo cáo đăng trên Science Direct, cấu trúc này dài 12 m, được tìm thấy ở độ sâu 40 m, dưới eo biển Silicy thuộc Địa Trung Hải. Nó bị nứt làm đôi và có ba lỗ, hai lỗ hai bên và một lỗ chạy thẳng ở giữa. Khối đá được xẻ từ một tảng đá lớn trên núi, nặng khoảng 15 tấn. Các chuyên gia Đại học Tel Aviv (Israel), Viện Hải dương học và Địa vật lý (Italy) cho rằng kết cấu trên có nguồn gốc từ một nền văn minh cổ đại cách đây hơn 10.000 năm và bị chìm trong một cơn lũ lớn. Họ nhận định quy trình cắt xẻ, khai thác, vận chuyển và dựng khối đá yêu cầu trình độ kỹ thuật cao. Do đó, cần phải loại bỏ dần quan niệm tổ tiên loài người thiếu kiến thức, kỹ năng và công nghệ. "Phát hiện này có thể cung cấp nhiều thông tin quan trọng về những nền văn minh đầu tiên ở lưu vực Địa Trung Hải và cách nhìn nhận của chúng ta về những tiến bộ công nghệ, trình độ phát triển của cư dân thời đại đồ đá giữa", IB Times hôm qua dẫn lời nhóm nghiên cứu cho hay.

Theo VnExpress"

2-"Phát hiện vết tích thành phố Atlantis dưới đáy biển:

Theo tờ The Daily Mail của Anh, nhóm các nhà khảo cổ dưới biển (giấu tên) vừa tuyên bố đã phát hiện và chụp được một loạt ảnh về vết tích của thành phố cổ Atlantis trong truyền thuyết tại một khu vực dưới đáy biển Caribbe.

Những bức ảnh chụp được đã cho thấy nhiều khả năng đó là những tàn dư của một thành phố cổ dưới đáy biển, có niên đại sớm hơn so với kim tự tháp Ai Cập. Nhà triết học Hy Lạp cổ đại, Plato miêu tả Atlantis là một thành phố vĩ đại, với những kì quan kiến trúc và những công trình được xây dựng hết sức kì vĩ, tuy nhiên cuối cùng nó đã bị chìm dưới đáy biển.
Truyền thuyết về Atlantis đã thu hút sự quan tâm và khám phá của rất nhiều người, trước đó đã có nhiều người tuyên bố là tìm thấy thế giới thần bí này, tuy nhiên cuối cùng vẫn không chứng minh được sự thực. Theo các nhà khoa học, những bức ảnh về thành phố cổ Atlantis đã cho thấy đó là một kiến trúc hoàn chỉnh, với rất nhiều con phố giao nhau. Các nhà khoa học còn cho biết họ thậm chí tìm được cả một kim tự tháp trong thành phố Atlantis.

Nhóm nhà khoa học này hiện đang muốn gây quỹ đầu tư để phục vụ công tác thăm dò địa điểm bí mật dưới đáy biển Caribe, nơi phát hiện những hình ảnh trên. Tuy nhiên, dư luận vẫn hoài nghi về tính trung thực của những bức ảnh về Atlantis".

3-"Phát hiện 72 ngôi làng dưới đáy biển, sự sống thực sự có thể tồn tại dưới đại dương?:

Các nhà khoa học đã phát hiện ra bí mật bất ngờ dưới đáy biển – 72 ngôi làng được bao phủ bởi đại dương rộng lớn, nơi được cho là nơi sinh sống của 1 loài người đã mất tích.

Những ngôi làng được tìm thấy dưới biển trông như thế nào? Dấu vết nào của sự sống đáng ngạc nhiên? Khi mọi người tưởng tượng về thế giới dưới nước, họ thường hình dung ra một thứ gì đó hoàn toàn khác so với trên đất liền.Tuy nhiên, một khám phá khảo cổ học biển gần đây đã tiết lộ một sự thật đáng ngạc nhiên - có một ngôi làng thịnh vượng dưới biển.

Ngôi làng nằm sâu dưới đại dương này được cho là được xây dựng bởi một nền văn minh đã tuyệt chủng và có hàng nghìn năm tuổi. Các nhà khảo cổ biển và thợ lặn đã tìm kiếm nền văn minh đã mất này và cuối cùng đã tìm thấy nó ở nơi đáng kinh ngạc nhất. Ngôi làng dưới nước này nằm trong một hang động hẻo lánh trên đại dương, được bao quanh bởi những rạn san hô khổng lồ và cuộc sống dưới nước tuyệt đẹp. Sau khi vào làng, mọi người bị thu hút bởi những tòa nhà được khôi phục dần dần. Các cấu trúc này rõ ràng được xây dựng từ các vật liệu tự nhiên được tìm thấy trong đại dương, bao gồm vỏ sò, san hô và rong biển. Dù bị xói mòn hàng trăm năm nhưng kết cấu của ngôi làng vẫn khá chắc chắn, mang lại cảm giác bền bỉ và ổn định.

Một trong những khám phá đáng ngạc nhiên nhất là việc phát hiện ra một ngôi đền khổng lồ ở ngôi làng dưới nước này. Được xây dựng ở phần sâu nhất của một hang động dưới nước, ngôi chùa này dường như đã từng giữ một vị trí tôn giáo quan trọng. Nhiều bàn thờ và tác phẩm chạm khắc trên đá đã được tìm thấy, tiết lộ các nghi lễ tôn giáo và tín ngưỡng của nền văn minh này. Các nhà khảo cổ tin rằng sự tồn tại của những hiện vật này có thể giúp chúng ta hiểu rõ hơn về lịch sử và văn hóa của nền văn minh này.

Ngoài những công trình kiến trúc còn có những dấu vết của sự sống khiến người ta phải ngạc nhiên. Đầu tiên là một số đồ gốm tinh xảo, được bảo quản khá tốt, thể hiện sự khéo léo và thẩm mỹ của cư dân cổ xưa. Một số công cụ dùng để đánh cá cách đây hàng trăm năm cũng được tìm thấy, bao gồm lưới đánh cá và lao móc. Điều này cho thấy cư dân của ngôi làng này kiếm sống bằng nghề đánh cá và có kiến thức phong phú về tài nguyên biển.

Một số công cụ và mảnh vụn liên quan đến luyện kim cũng được tìm thấy ở ngôi làng dưới nước này. Điều này cung cấp bằng chứng cho thấy dân làng đã tham gia vào nghề luyện kim và làm đồ thủ công. Phát hiện này càng chứng tỏ trình độ công nghệ của nền văn minh này khá tiên tiến và không thua kém các nền văn minh khác vào thời điểm đó.

Ai đã xây dựng ngôi làng dưới nước? Tại sao lại chọn sống dưới biển? Từ những truyền thuyết xa xưa cho đến thực tiễn khoa học hiện đại, con người luôn có niềm yêu thích và tưởng tượng lớn lao đối với cuộc sống dưới nước. Nhưng tại sao lại chọn sống dưới biển? Những lý do rất phức tạp và đa dạng.

Thế giới dưới nước cung cấp vô số tài nguyên và cơ hội. Đại dương chiếm 2/3 bề mặt trái đất và chứa nhiều tài nguyên quý giá như dầu mỏ, khí đốt tự nhiên, khoáng sản, v.v.. Bằng cách xây dựng làng mạc dưới đáy biển, con người có thể dễ dàng khai thác, sử dụng các nguồn tài nguyên này và góp phần phát triển kinh tế - xã hội. Đại dương còn là một hệ sinh thái đa dạng, là nơi sinh sống của nhiều loại sinh vật quý hiếm.Để nghiên cứu và bảo tồn sinh học, các ngôi làng dưới nước là địa điểm nghiên cứu lý tưởng. Sống dưới đáy biển còn là cuộc khám phá của con người trước những thách thức về môi trường. Khi khí hậu trái đất biến đổi và hoạt động của con người ngày càng gia tăng, các thiên tai như lũ lụt, lũ lụt tiếp tục xảy ra trên đất liền, đe dọa nghiêm trọng đến tính mạng con người và an toàn tài sản. Ngược lại, đáy biển, với vai trò là môi trường sống tương đối ổn định và tương đối an toàn, có thể giảm thiểu những rủi ro này một cách hiệu quả. Đồng thời, áp lực của nước biển có thể giúp chống chịu tốt hơn trước các thảm họa thiên nhiên. Khi lựa chọn nơi sinh sống, một số quốc gia và nhà khoa học rất chú trọng đến đáy biển.

Sống dưới biển cũng liên quan đến sự tò mò của con người về những điều chưa biết. Đại dương chứa đựng nhiều điều chưa biết và bí ẩn như sinh vật biển sâu, địa hình đáy biển chưa biết, v.v. Mọi người háo hức khám phá khu vực mà con người chưa hiểu đầy đủ này và mong muốn có được nhiều kiến thức và khám phá hơn khi sống ở những ngôi làng dưới nước. Có thể nói, sự tò mò và ham muốn khám phá này là nguyên nhân quan trọng khiến con người chọn sống dưới đáy biển. (TheoVH&PT)". 

4-'Bí ẩn những nền văn minh cổ dưới đáy biển;

Dưới đáy đại dương hiện vẫn ẩn chứa những nền văn minh cổ đại: thành phố Alexandria; kim tự tháp Nhật Bản, đền Kwan Phayao ở Thái Lan...Dưới đáy những sông hồ, đại dương bao la kia vẫn ẩn chứa những tài sản vô cùng quý giá của lịch sử nhân loại, đó là những thành phố của những nền văn minh cổ đại. Trong số đó, có những thành phố bị nhấn chìm xuống nước do những trận động đất kinh hoàng, những cơn sóng thần hay những thảm họa tự nhiên xảy ra hàng ngàn năm về trước. Những kỳ quan này gần đây mới được con người phát hiện, do tình cờ hay với sự giúp sức của khoa học công nghệ. Cho đến nay chúng vẫn là những đề tài được các nhà khoa học nghiên cứu và tranh luận xoay quanh lịch sử văn minh nhân loại. Dưới đây là một số những kỳ quan của những nền văn minh cổ đang nằm sâu dưới mặt nước:

Thành phố Alexandria, Ai Cập
Nằm ngoài bờ biển Alexandria, thành phố của Alexandria Đại Đế nằm ở nơi được cho là đống đổ nát của hoàng thành của nữ hoàng Cleopatra. Các nhà khoa học cho rằng, chính những trận động đất hơn 1.500 năm về trước đã nhấn chìm toàn bộ hoàng thành rộng lớn này xuống đáy biển, cùng các tác phẩm nghệ thuật, những pho tượng và những phần cung điện khác của Cleopatra.

Đền Kwan Phayao, Thái Lan
Kwan Phayao là một ngôi đền cổ 500 tuổi của người Thái đang ngủ sâu dưới đáy hồ Phayao. Gần đây người ta đang bàn tán về khả năng phục chế lại ngôi đền cổ này với chi phí lên đến hàng tỉ đô-la.
Tuy nhiên, những phần đổ nát hiện đang là nơi sinh sống của các loài cá và động vật thủy sinh. Do đó, nhiều người lại cho rằng không nên phục chế lại ngôi đền vì nó sẽ phá đi sự yên tĩnh của nơi đây.

Thành phố Havana cổ, Cuba

Một nhóm các nhà khoa học tiếp tục khám phá những đống đổ nát từ thời cự thạch được phát hiện ở kênh Yucatan gần Cuba. Họ đã phát hiện ra chứng cứ về một nền văn minh đô thị cổ rộng lớn trải dài hàng dặm dọc bờ đại dương.
Một số nhà khoa học tin rằng nền văn minh đó có sớm hơn tất cả những nền văn minh của châu Mỹ từng được biết đến. Cho đến nay chỉ còn tồn tại các mô hình của kỳ quan dưới đáy đại dương này trên máy tính mà thôi.

Biển Bắc, châu Âu

Một kỳ quan tự nhiên đã mất mới đây được các nhà khảo cổ học phát hiện dưới đáy biển Bắc. Nơi đây từng là nơi sinh sống của những cư dân săn bắn – hái lượm hơn 10.000 năm về trước.

Kỳ quan được bảo tồn nguyên vẹn đến kinh ngạc này nằm ở trung tâm của một nền văn minh cổ đại trải dài qua khu vực Âu châu." 

5-"Phát hiện cấu trúc siêu lớn của nền văn minh cổ đại bí ẩn dưới đáy biển Baltic:

Bên dưới những làn sóng tối tăm, lạnh lẽo của biển Baltic, ẩn giấu một phần lịch sử của nhân loại quá khứ. Tại Vịnh Mecklenburg của Đức, ở độ sâu 21 mét, các nhà khoa học đã tìm thấy một siêu kiến trúc bằng đá, có niên đại hơn 10.000 năm, có thể của một nền văn minh bí ẩn mà chúng ta chưa biết đến. Trải dài gần một km và bao gồm những tảng đá lớn, cấu trúc này thách thức lời giải thích là có nguồn gốc tự nhiên - có nghĩa là nó đã được xây dựng có chủ ý cho mục đích nào đó, từ hàng nghìn năm trước và đã bị biển nuốt chửng.

Nhóm nghiên cứu người Đức do nhà địa vật lý Jacob Geersen của Đại học Kiel dẫn đầu tin rằng cấu trúc này là một bức tường, do một nền văn minh nào đó trong khu vực này xây dựng nên từ rất rất nhiều năm về trước.Họ đặt tên cho khám phá của mình là Blinkerwall.

Các nhà nghiên cứu viết trong bài báo của họ được đăng trên trang tạp chí PNAS: “Công trình xây dựng này có thể phục vụ cho việc săn bắn, là công trình nhân tạo lâu đời nhất được ghi nhận trên Trái đất và nằm trong số những công trình kiến trúc thời đồ đá lớn nhất được biết đến ở châu Âu”.

Bề mặt Trái đất đã thay đổi đáng kể qua nhiều thiên niên kỷ, bởi sự dịch chuyển của các mảng kiến tạo, xói mòn và các quá trình khí hậu tự nhiên như băng hà và thay đổi mực nước biển. Nhiều khu định cư và các công trình của nhân loại thời kỳ tiền sử đã bị vùi dập, bị sóng cuốn theo thời gian, suy yếu, hoặc bị phá huỷ và chôn vùi trong lòng đất. Tuy nhiên, những năm gần đây, công nghệ phát triển không ngừng đã bắt đầu hé lộ những kho báu ẩn giấu dưới đáy biển cũng như trong lòng đất. Theo Science Alert, Geersen và nhóm của ông đã tìm thấy Blinkerwall bằng cách sử dụng hình ảnh thủy âm có độ phân giải cao, một phương tiện tự hành dưới nước để khám phá vịnh Mecklenburg và lập bản đồ phạm vi thực sự của cấu trúc.

Dữ liệu thu thập được cho thấy một đoạn dài của bức tường, bao gồm khoảng 1.670 viên đá riêng lẻ, trải dài khoảng 971 mét. Những viên đá này thường cao chưa đến một mét và rộng chưa đến 2 mét, nằm cạnh nhau trong suốt chiều dài của cấu trúc. Nhóm nghiên cứu cho biết công trình này không phải là một cảng cá hoặc bến cảng vì họ không tìm thấy nguồn nước nào, cũng không đóng vai trò phòng thủ bờ biển vì 2 mét là quá hẹp.

Các nhà nghiên cứu viết: “Dựa trên thông tin hiện có, cách giải thích chức năng hợp lý nhất cho Blinkerwall là nó được xây dựng và sử dụng như một kiến trúc để phục vụ việc săn bắn, hoặc chăn nuôi những con động vật lớn như tuần lộc hoặc bò rừng”. Đó không phải là một ý tưởng lạ lùng. Hàng trăm công trình kiến trúc bằng đá khổng lồ đã được tìm thấy rải rác từ các cánh đồng dung nham sa mạc ở Ả Rập Saudi đến Trung Á; các nhà khoa học tin rằng những cấu trúc này cũng được sử dụng để quản lý và điều khiển những đàn động vật lớn. Tuy nhiên, mục đích của các công trình khổng lồ như thế này thì cho đến nay vẫn còn là một thách thức đối với các nhà khoa học.

Mặc dù việc xác định niên đại của các cấu trúc như vậy là một thách thức nhưng các nhà nghiên cứu tin rằng Blinkerwall được xây dựng cách đây hơn 10.000 năm, dựa trên tuổi của các cấu trúc có các đặc điểm tương tự xung quanh và chìm dưới biển Baltic khoảng 8.500 năm trước. Các nhà nghiên cứu viết: “Việc đề xuất giải thích chức năng của Blinkerwall khiến đặc điểm này trở thành một khám phá thú vị, không chỉ vì độ tuổi của nó mà còn vì khả năng hiểu được mô hình sinh hoạt và văn hoá, mức độ phức tạp về kinh tế xã hội của một thời kỳ văn minh tiền sử”.

6-"Cột đá khổng lồ 9.300 năm tuổi dưới đáy biển đến từ nền văn minh tiên tiến, theo các nhà nghiên cứu:

Ít nhất 9.300 năm trước, ở một khu vực hiện đang chìm trong biển Địa Trung Hải, những người săn bắt hái lượm thời kỳ đồ đá đã hoàn thành một kỳ tích ngoài những gì các chuyên gia ngày nay nghĩ là có thể vào thời điểm đó: họ cắt một cột đá vôi nặng 15 tấn một cách chính xác, khoan lỗ trên đó và đã dịch chuyển nó gần 300 mét. Khối đá nguyên khối dài 12 mét.

Theo Ancient Origins, vào năm 2012, các nhà hải dương học nghiên cứu đáy biển Địa Trung Hải ở Kênh Sicilia giữa Tunisia và Sicily đã tìm thấy tảng đá nguyên khối ở độ sâu 131 feet (40 mét).

Trong một bài báo mới trên Journal of Archaeological Science, các nhà nghiên cứu cho biết khu vực này đã bị nhấn chìm hoàn toàn vào khoảng 9.300 năm trước, trong khoảng vài trăm năm. Trước đó, khu vực này là vùng biển nông với một quần đảo gồm nhiều hòn đảo ở khoảng giữa đảo Sicily và bờ biển Bắc Phi. Do đó, người ta cho rằng cây cột đã được chạm khắc cách đây ít nhất 9.300 năm. Các nhà nghiên cứu đã có thể xác định niên đại của tảng đá nguyên khối bằng cách trích xuất các mảnh vỏ sò từ nó. Họ nhận thấy nó có cùng thành phần và tuổi với đá vôi cách đó khoảng 300 mét. Điều này cho thấy nó đã được vận chuyển một khoảng cách tương tự.

Các nhà nghiên cứu cho biết việc phát hiện ra cây cột đá chìm dưới nước này có thể khiến các học giả phải suy nghĩ lại về ý tưởng về “chủ nghĩa nguyên thủy công nghệ” (technological primitivism) trong những người săn bắn hái lượm. Emanuele Lodolo và Zvi Ben-Abraham đã viết trong bài báo của họ: “Khám phá này cung cấp bằng chứng cho hoạt động quan trọng của con người thời đại đồ đá giữa (Mesolithic) ở vùng Kênh Sicilia”. Lodolo và Ben-Abraham tuyên bố rằng một số yếu tố khiến họ tin rằng cột đá là do con người đẽo gọt chứ không phải do tự nhiên tạo thành. Họ viết rằng tảng đá nguyên khối có hình dạng thông thường và ba lỗ có đường kính tương tự nhau. Nó bao gồm đá vôi có tính chất khác với đá ở vùng lân cận, nhưng tương tự như đá không xa nơi nó được vận chuyển. Họ viết: “Sự hiện diện của tảng đá nguyên khối cho thấy hoạt động phổ thông của con người trong [khu vực]. Nó được cắt và lấy ra như một viên đá duy nhất từ ​​sườn núi thẳng đứng bên ngoài cách đó khoảng 300 mét về phía nam, sau đó được vận chuyển và có thể được dựng lên. Từ kích thước của tảng đá nguyên khối, chúng tôi có thể cho rằng nó nặng khoảng 15 tấn”.

Các nhà khoa học không suy đoán về chức năng của tảng đá nguyên khối. Nhưng họ cho rằng nó nằm ở một khu vực quan trọng, nằm giữa Sicily và Tunisia. Sicily có thể có người sinh sống từ 17.000 đến 27.000 năm trước, khi có một cầu đất liền (land bridge) từ Italy. Cầu đất liền là chặng của một hành trình có đi qua đất liền nối giữa hai chặng đường biển. Các tác giả viết: “Việc phát hiện ra địa điểm ngập nước ở Kênh Sicilia có thể mở rộng đáng kể kiến ​​thức của chúng ta về các nền văn minh sớm nhất ở lưu vực Địa Trung Hải và quan điểm của chúng ta về sự đổi mới và phát triển công nghệ mà cư dân thời kỳ đồ đá giữa đạt được. Đá nguyên khối… được tạo thành từ một khối lớn duy nhất, cần phải cắt, khai thác, vận chuyển và lắp đặt, điều này rõ ràng cho thấy các kỹ năng kỹ thuật trọng yếu và kỹ nghệ tuyệt hảo”. Các nhà nghiên cứu thậm chí còn đi xa hơn khi tuyên bố rằng: “Niềm tin cho rằng tổ tiên của chúng ta thiếu kiến ​​thức, kỹ năng và công nghệ để khai thác tài nguyên biển hoặc thực hiện các chuyến vượt biển cần phải dần dần bị loại bỏ. Những phát hiện gần đây… đã dứt khoát loại bỏ ý tưởng về 'chủ nghĩa nguyên thủy công nghệ' thường được gán cho những người định cư ven biển là chỉ biết săn bắn hái lượm”. (Văn Thiện)."

7-"Phát hiện kim tự tháp đồ sộ dưới đáy biển Nhật Bản: Dấu tích của một nền văn minh thất lạc?:

Tại vùng biển Okinawa, Nhật Bản, người ta đã phát hiện được một quần thể kim tự tháp đồ sộ, vết tích của nền văn minh cổ đại thất lạc. Di tích Yonaguni ở Okinawa trong quần đảo Ryūkyū là một công trình tuyệt đẹp. Nó được so sánh với thành phố bị mất của Atlantis và có thể ẩn chứa một nền văn minh tiên tiến đã tồn tại trước cả Đại Hồng thuỷ. Di tích Yonaguni ở đảo Okinawa thuộc quần đảo phía Nam Nhật Bản đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Các nhà địa chất học, nhà khoa học và nhà văn như Masaaki Kimura, Graham Hancock và Robert Schoch đã tìm cách làm sáng tỏ những truyền thuyết xung quanh di tích này.

Di tích Yonaguchi là một thành tạo đá được một số người cho là tàn tích còn lại của một nền văn minh Nhật Bản đã tồn tại từ 5.000 đến 10.000 năm trước. Kihachiro Aratakea, giám đốc Hiệp hội Du lịch Yonaguni-Cho, đã phát hiện ra nó vào năm 1985 trong một chuyến lặn biển. Năm 1997, Masaaki Kimura, nhà địa chất biển thuộc Đại học Ryūkyū, Nhật Bản, đã viếng thăm di tích này cùng một nhóm các nhà khoa học. Kimura đã dành nhiều năm để khám phá Yonaguni huyền bí và đưa ra kết luận Yonaguni là do con người tạo dựng nên.

Kimura đã tuyên bố: “Khối kiến trúc lớn nhất (di tích Yonaguni) giống như một kim tự tháp nguyên khối phức tạp, nằm ở độ sâu 25 mét”. Ông nhấn mạnh thực tế là công trình này không tồn tại một cách biệt lập. Mười công trình khác đã được phát hiện ở Yonaguni, gồm một lâu đài, năm công trình giống như các đền thờ và thứ giống như một sân vận động khổng lồ. Điều thú vị là tất cả các công trình này được kết nối với nhau bằng đường thuỷ và đường bộ. Ông phát hiện ra di tích này được làm từ đá sa thạch nguyên khối, là một khối hình chữ nhật lớn kích thước 150 mét x 40 mét, cao 27 mét. Trên đỉnh của tượng đài là một hình giống con rùa, được khắc trong đá. Nhà nghiên cứu cũng phát hiện các ký tự được khắc trên đá thuộc chữ viết cổ Kaidā, đã được sử dụng trước khi chữ viết Nhật Bản hiện đại chiếm ưu thế. “Các ký tự và những tượng đài của động vật trong nước, mà tôi đã phục hồi một phần trong phòng thí nghiệm, cho thấy nền văn hoá này đến từ lục địa Châu Á”. “Một hình được tôi mô tả như một nhân sư chìm dưới nước giống như một vị vua cổ đại người Trung Quốc hay người okinawa“, ông giải thích.

Nền văn minh này biến mất như thế nào và điều gì đã xảy ra cho tất cả những người sống ở đây? Theo Kimura, thành phố có thể đã bị bỏ rơi khi mực nước biển dâng lên và nó đã bị lãng quên. Một trận động đất có thể đã góp phần làm ngập thành phố và cư dân của nó dưới những con sóng. (Theo Epoch Times France - Xuân Hà)".

                                                                          ***


Tiếp tục mường tượng (trong hoang tưởng!), đại thiên tai nước-lửa Hồng Thủy mãnh liệt tới mức có tầm ảnh hưởng toàn cầu, không những tàn sát sinh linh mà còn làm biến dạng địa hình khu vực Đông-Nam Châu Á, Đông-Bắc Châu Á, và một số vùng khác trên toàn cầu, triệt phá nghiêm trọng môi trường sinh thái ở những nơi đó. Thế nhưng sau cuộc bạo tàn đó, ở vùng Đông-Nam Châu Á nói riêng, sự biến đổi khí hậu toàn cầu cũng "bày ra" một môi trường sinh thái mới đầy hứa hẹn cho sự phục sinh sinh vật mạnh mẽ tại (những) miền duyên hải của Đông-Nam Châu Á, tạo điều kiện tăng trưởng nhanh chóng lực lượng dân cư (nhờ sinh đẻ tự nhiên và sự hội tụ "trở về" từ các nơi ở "sâu" hơn trong lục địa)-một trong hai yếu tố tiền đề cơ bản thúc đẩy tốc độ phát triển văn minh. Nhưng còn phải chờ đợi vì yếu tố kia, như chúng ta đã suy đoán, là loại cây đáp ứng đủ "tiêu chuẩn" để đóng vai trò cung ứng lương thực chủ yếu (như cây ngô (?) "trước kia"!!!), vẫn chưa xuất hiện. Bản thân Trái Đất luôn vận động theo cách mà Tự Nhiên qui định cho nó, và theo cách đó là có tính xoay vần, nghĩa là lặp đi lặp lại "có vẻ" chu kỳ chứ không hẳn đúng chu kỳ vì không lặp lại nguyên si. Đương nhiên, mọi vùng, miền của Trái Đất nói chung và (những) địa bàn duyên hải thuộc Đông-Nam Châu Á nói riêng, cũng phải xoay vần theo vận động Trái Đất. Khảo cổ học cho thấy (ở đây chỉ xem xét trong phạm vi khu vực Đông-Nam Châu Á và cũng chỉ trong khoảng thời gian từ sau Đại Hồng Thủy đến nay), hiện tượng nước biển dâng-hạ (cũng hay dùng hợp ngữ "tiến-lui") là có tính tuần hoàn. Sự vận động mang tính tuần hoàn đó hiển nhiên làm cho các miền duyên hải trong khu vực biến thiên về hình dạng, diện tích, khí hậu..., và nhất là "di dời" vị trí theo hướng khi thì "lấn vào" lục địa khi thì "lùi ra" biển, một cách "xoay vần".

Chúng ta suy đoán rằng, sự vận động biến thiên đó đã tác động đến quá trình tiến hóa-thích nghi sinh vật và làm xuất hiện trên địa bàn duyên hải thuộc lãnh thổ Việt Nam ngày nay một loài cỏ (sau này được gọi là "lúa ma", nhưng phổ biến hơn, gọi là "lúa nước") có sức sống dẻo dai, có khả năng tăng trưởng mạnh mẽ về số lượng, và đối với con người thì đã tiềm tàng hội đủ yếu tố để đóng vai trò cây cung ứng lương thực chủ yếu.

Chính sự phát hiện ra chức năng cung ứng lương thực của cây lúa nước và chọn nó làm cây lương thực chủ yếu đã tác động mạnh mẽ đến lối sống của cư dân nguyên thủy trên địa bàn thuộc Việt Nam ngày nay, từ đó "nhanh chóng" xuất hiện nền văn minh Hòa Bình, còn được gọi là nền văn minh Lúa Nước, hay theo cách đặt tên của chúng ta: nền văn minh nông-ngư nghiệp nguyên thủy Hòa Bình. Đó, theo không ít người nhận định và chúng ta tin theo, là nền văn minh vượt trội hẳn, nổi bật nhất thế giới trong thời của nó, do đó mà cũng mang ý nghĩa là nền văn minh duy nhất đầu tiên của nhân loại sau Đại Hồng Thủy. 
(Có thể hình dung thêm rằng vào khoảng thời gian đó, tại các khu vực khác trên thế giới, từ cơ sở văn minh có tính "tàn dư" của nền văn minh Gỗ-Đá, cũng có những bước tăng tiến văn minh nhưng chậm chạp, hầu như "dậm chân tại chỗ". Nhờ có sự lan tỏa văn minh tự nhiên mà cư dân ở những khu vực đó tiếp thu được những tinh hoa của văn minh Hòa Bình, để rồi đến lượt một vài khu vực có những bước phát triển vượt bậc, nổi lên thành những nền văn minh tồn tại hầu như đồng thời của nhân loại. Nói thêm cho rõ, đã có những luồng ý kiến tương đối khác nhau trong định ước về niên đại cũng như khu vực tồn tại của nền văn minh Hòa Bình. 
Theo thiển ý của chúng ta, nếu qui ước niên đại của văn minh Hòa Bình là khoảng thời gian "trọn gói" quá trình nông nghiệp hóa, bắt đầu từ lúc con người chấp nhận lấy cây lúa nước làm nguồn lương thực chủ đạo cho đến thời điểm đa số dân cư khu vực đã nghiêng hẳn sang lối sống quần cư-định cư lâu dài, trồng trọt chuyên canh cây lúa nước, hay có thể nói là lối sống đã thể hiện tương đối rõ ràng tính xã hội và chủ động tự cung tự cấp lương thực-thực phẩm (sự sản xuất nông nghiệp), thì thời gian tồn tại của văn minh Hòa Bình ước chừng là 10000 năm, và thời đoạn tồn tại văn hóa Phùng Nguyên được chọn là "cột mốc" đánh dấu sự kết thúc của nó. 
Còn về mặt không gian tồn tại thì khu vực xuất hiện và đồng thời cũng đóng vai trò trung tâm lan tỏa đầu tiên của văn minh Hòa Bình, như ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu, là ở vùng trung du Miền Bắc-Việt Nam (và vào giai đoạn cuối có thể phạm vi của trung tâm ấy đã mở rộng, bao gồm Trung-Bắc Việt Nam và một phần của Nam Trung Quốc ngày nay). 

Mặt khác, chúng ta còn phỏng đoán rằng, do những đòi hỏi "sát sườn" phát sinh ra từ quá trình sử dụng và chế biến thức ăn có nguồn gốc thực vật (rau, củ, quả, hạt) với hạt lúa dần đóng vai trò chủ đạo mà cư dân Hòa Bình chính là những người tiên phong sáng tạo ra đồ gốm (trên cơ sở đồ đất sét?!!!), hơn nữa là cả đồ đồng, và văn hóa Phùng Nguyên (hoặc trung tâm văn hóa nào đó cùng thời và tương tự văn hóa Phùng Nguyên) chính là "cầu nối" giữa văn minh Hòa Bình (thời đại Đá-Gốm) và văn minh kế tục nó là văn minh Đông Sơn (thời đại Gốm-Đồng)-một nền văn minh hết sức rực rỡ và còn ẩn chứa nhiều điều huyền bí cho đến tận ngày nay).

Lịch sử sinh tồn của loài người nói chung và của cư dân vùng Đông-Nam Châu Á nói riêng, trong suốt thời nguyên thủy-tiền sử-cổ đại (và ở những mức độ nhất định nào đó có thể cho là cả thời trung-cận đại), do chịu nhiều yếu tố tự phát tác động mà con người "không hề hay biết" vì hầu như chưa nhận thức được (chẳng hạn như sự tiến-lui của biển, sự biến đổi "bất thường" về thời tiết-khí hậu, sự tăng giảm gia tốc về dân số...), nên đã là một tiến trình "đậm nét" hồn nhiên gồm các thời đoạn thịnh vượng và suy tàn kế tiếp nhau. Gắn liền với tiến trình đó là quá trình hội tụ và phát tán dân cư của khu vực mà đối với những khu vực có trình độ văn minh nổi trội, nổi bật, đóng vai trò là trung tâm văn minh thì hiện tượng lan tỏa dân cư (sau thời kỳ sung túc-trong thời kỳ "đói kém") là có tính "áp đảo", lấn át rõ rệt, và tất nhiên cùng với sự lan tỏa dân cư là sự lan tỏa văn minh. 
Chúng ta cho rằng, nếu thực sự đã từng tồn tại nền văn minh Gỗ-Đá như mường tượng ở trên, thì bắt đầu từ lúc nó xuất hiện, hoặc thậm chí còn lâu hơn nhiều trong quá khứ cho đến khoảng cuối thời được gọi là Tiền Triều Đại (khoảng 3000 năm TCN) trong lịch sử văn minh Ai Cập cổ đại, hướng ưu tiên lan tỏa văn minh ra khắp thế giới (đến cả Châu Mỹ!) hầu như không đổi (tuy mức độ có thể là giảm dần), mà khu vực trung tâm đóng vai trò gốc xuất phát là Đông-Nam Châu Á.
Có lẽ, nhờ có lối sống lấy hoạt động nông-ngư nghiệp đã định hình trồng trọt chuyên canh và chăn nuôi súc vật đã được thuần hóa trong việc kiếm ăn làm phương thức sinh tồn thiết yếu, đồng thời cũng nhờ hoạt động tư duy sáng tạo được tăng cường bởi phần trí lực và thời gian đã được giải phóng khỏi công việc kiếm ăn trực tiếp hàng ngày mà, nói chung xét về mặt địa lý, thời kỳ phát triển đột khởi nhất, thịnh vượng nhất, rực rỡ nhất của nền văn minh nguyên thủy-tiền sử Đông-Nam Châu Á, với khu trung tâm gồm Bắc Việt Nam- Cực Nam Trung Quốc, là thời đoạn hậu kỳ Hòa Bình- tiền kỳ Đông Sơn, tức từ khoảng trên dưới 8000 năm TCN đến khoảng 1000 năm TCN. Cũng vì thế mà trong suốt thời kỳ này đã có một quá trình lan tỏa văn minh mạnh mẽ từ Bắc Việt Nam - một phần Nam Trung quốc ngày nay lan ra hầu khắp Châu Á. 

Mặt khác, theo chúng ta ước đoán, trong thời đại tồn tại của nền văn minh Đông-Nam Á cổ xưa đó, không những "Thuật luyện thở" đã được định hình về cơ bản như một cách thức tập luyện có thêm chức năng dưỡng sinh, mà trên cơ sở quan niệm (tạm gọi là "duy linh") về thế giới (tức là tin vào sự tồn tại của (những) "thực thể tinh thần" thiêng liêng, của vong hồn, của "thế giới bên kia", tin vào sự tác động lợi-hại của các lực lượng siêu nhiên đến chu trình chuyển hóa của thiên nhiên, đến quá trình sinh tồn của con người...), còn làm xuất hiện (dưới dạng manh nha?) tín ngưỡng phồn thực với không ít những hoạt động văn hóa mang tính phong tục tập quán, như tùy táng đồ vật theo người chết, thờ tổ tiên, cúng tế thần linh...Và rồi, theo dòng lan tỏa văn minh vĩ đại, thuật luyện thở và cả cái quan niệm phồn thực đầy màu sắc tín ngưỡng ấy được truyền bá ngày một sâu vào Châu Á lục địa. Nói riêng về thuật luyện thở, ở Trung Quốc nó được "nhào nặn", sáng tạo thêm và mang tên mới là "khí công"(nguyên thủy), ở Ấn Độ cũng vậy và mang tên mới là "yoga"(nguyên thủy).

Vì thiền xuất hiện không phải do đòi hỏi sát sườn của đời sống con người cho nên có thể suy đoán rằng, trong nội dung của khí công và yoga ở dạng nguyên thủy chưa có thiền. Nếu tổng hợp một cách có "định hướng" từ những văn tự lịch sử còn lưu lại về Đạo Gia và toàn bộ luận thuyết của nó về tự nhiên-xã hội mà nội dung trung tâm, đóng vai trò cốt lõi là "Đạo Đức Kinh" của Lão Tử, thì có lẽ nghe cũng "bùi tai" khi rút ra kết luận rằng, chính Đạo Gia, trên cơ sở quan niệm hết sức linh động (do đó mà đạt được tối đa tính khách quan, tính chân lý) về Thực Tại (Đạo, Tự Nhiên Tồn Tại), đã lần đầu tiên trong nhận thức con người, khám phá ra đặc tính siêu hình, bất toàn của khái niệm (chúng ta cho rằng sự khám phá này đã là tiền đề khai sinh ra Biện Gia phái (triết học biện giải) thời Bách Gia Chư Tử). 
Sự thể hiện của một tồn tại nói riêng hay cả Tồn Tại nói chung trước quan sát-nhận thức là có tính "nước đôi", nghĩa là có tính thể hiện đồng thời hai hay nhiều mặt, tính cách,...tương phản nhau và tùy thuộc vào góc độ, bình diện, tầm mức cũng như sự qui ước chủ quan mà chủ thể quan sát-nhận thức chỉ "thấy" được, "đánh giá" được hoặc thế này hoặc thế kia. Chẳng hạn, qua nhiều thực nghiệm mà vật lý học rút ra kết luận ánh sáng có lưỡng tính sóng-hạt, nhưng trong một thực nghiệm và một quan sát nhất định thì ánh sáng chỉ thể hiện tính sóng hoặc tính hạt chứ không thể cả hai, và như thế, dù có thể đã "cảm thức" được nhưng không thể nào "nói ra" cho tường tận, dứt khoát được ánh sáng là gì, có tính hạt, sóng hay cả hai, nghĩa là không thể "siêu hình" nó, định nghĩa nó theo cách "khẳng định một chiều", mà không "vấp" mâu thuẫn với cảm giác đã như mặc định trong tâm trí con người. Ví dụ dễ hiểu hơn: một hệ quan sát trạng thái chuyển động của một vật, trong một thời khắc nhất định chỉ có thể đưa ra một kết luận duy nhất, vật đó hoặc là đang chuyển động hoặc là đang đứng yên, chứ không thể đưa ra kết luận rằng vật đó đồng thời đang đứng yên mà cũng đang chuyển động, và điều quan trọng nhất ở đây là kết luận mà hệ đó rút ra từ quan sát chỉ có thể đúng "một cách chủ quan" cho bản thân hệ đó thôi, vì thực sự khách quan là không thể xác định tuyệt đối được trạng thái vận động của một vật. 

Lão Tử và tiếp nối là các hiền triết Đạo Gia đã "cảm nhận" được cái bản chất huyền diệu, "không thể nắm bắt được" ấy của Tự Nhiên Tồn Tại, cái mà họ "không biết tên nó là gì, tạm gọi là Đạo vậy", và cho rằng không thể "nói ra" một cách chính xác được, nghĩa là không thể diễn tả tỏ tường được trên cơ sở ngôn ngữ, khái niệm. Tuy nhiên, không "nói ra" được không có nghĩa là không thể nhận biết được Đạo. Chính Lão Tử đã chỉ ra rằng giữ cho tinh thần "cực hư, cực tĩnh" thì sẽ "thấy được" Đạo. Nhưng bằng cách nào có được trạng thái tinh thần "cực hư, cực tĩnh"? Chắc rằng câu hỏi đó cũng chính là đòi hỏi nảy sinh ra trong thực tế quá trình nhận thức, truyền thụ về Đạo, và trên nền tảng tu luyện thân-tâm nhằm dưỡng sinh theo phương thức khí công có sẵn, các hiền triết Đạo Gia đã sáng tạo ra "bộ môn" thiền, giành riêng cho luyện thức tu thần với chủ đích có được trạng thái trí huệ về thần thức để "ngộ Đạo"...

                                  ***
Như đã trình bày ở trên, lịch sử vận động "tự thân" của một xã hội dân cư là gồm những thời đoạn thịnh và suy kế tiếp nhau, hết thịnh thì đến suy, hết suy thì đến thịnh. Quá trình chuyển hóa có tính quy luật phổ biến ấy thể hiện rõ rệt trong lịch sử loài người suốt từ khi hình thức sống quần cư xã hội xuất hiện cho đến chí ít cũng là cuối thế kỷ XIX, khi mà con người còn chưa nhận thức được nguyên nhân sâu xa nên cũng chưa biết chủ động khắc chế ngay từ mầm mống sự nảy sinh và phát tác những nhân tố gây bất lợi cho đời sống xã hội. 
Xét rộng hơn, quá trình xoay vần thịnh-suy là hiện tượng phổ biến trong thế giới hữu sinh, và xét ở tầm mức sâu rộng nhất, đó là quá trình mang tính tự nhiên, là một trong những thể hiện có tính qui luật phổ quát của Tồn Tại. Có thể nói thịnh và suy là hai mặt thể hiện của một tồn tại phụ thuộc tương đối vào điều kiện, hoàn cảnh của môi trường chứa nó cũng như mối quan hệ giữa vận động nội tại của thực thể và môi trường ấy trước một chủ thể quan sát-nhận thức. Hai mặt ấy có mối quan hệ nội tại mật thiết với nhau, là tiền đề tồn tại của nhau, chuyển hóa lẫn nhau, trong thịnh có suy, trong suy có thịnh, thịnh vượng làm xuất hiện những nhân tố dẫn đến suy tàn và ngược lại, suy tàn làm xuất hiện những nhân tố dẫn đến thịnh vượng. Quá trình thịnh-suy của một tồn tại chỉ kết thúc khi tồn tại kết thúc.
Thế giới có một khoảng thời gian phát triển đặc biệt. Đó là vào khoảng thế kỷ VI - TCN. lúc đó thế giới xuất hiện hàng loạt các bậc triết gia và các đầu lĩnh tôn giáo lớn.  Ở Trung Hoa, có Lão TửKhổng Tử..., ở Hy Lạp có Pythagoras, Parmanides, Heraclites...; ở Iran có Zathathu-sta; ở Ấn Độđức Phật và 6 vị đạo sư lớn khác. Sự ra đời của các nhân cách đặc biệt này đánh dấu một bước chuyển biến vô cùng quan trọng trong lịch sử triết học, tư tưởng của nhân loại.
Tại Ấn độ thời ấy, theo Wikipedia: "Phía Bắc của Ấn Độ là dãy Himalaya cao lớn và dài tạo nên một hàng rào cô lập các vùng bình nguyên của xứ này với các vùng còn lại. Để liên lạc với bên ngoài thì chỉ có con đường núi xuyên qua Afghanistan. Nền văn hóa chính ngự trị thời bấy giờ là văn hóa Vệ Đà (Veda). Các bộ lạc du mục người Aryan đã mở mang và xâm chiếm các vùng lãnh thổ Tây Bắc Ấn và lan rộng ra hầu hết bán đảo Ấn Độ khoảng 1000 năm trước công nguyên
Văn hoá Vệ Đà nghiêng về thờ phụng nhiều thần thánh cũng như có các quan điểm thần bí về vũ trụ. Những sự phát triển về sau đã biến Vệ Đà thành một tôn giáo (đạo Bàlamôn) và phân hoá xã hội thành bốn giai cấp chính trong đó đẳng cấp Bàlamôn (tầng lớp tăng lữ) là giai cấp thống trị. Tư tưởng luân hồi cho rằng sinh vật có các vòng sinh tử thoát thai từ đạo Bàlamôn (hay sớm hơn từ tư tưởng Vệ Đà). Đạo Bàlamôn còn cho rằng tồn tại một bản chất của vạn vật, đó là Brahman (hay Phạm Thiên).
Tôn giáo gắn liền với nó là triết học phát triển mạnh tại Ấn Độ với sự xuất hiện rất nhiều hướng triết lý và cách hành đạo khác nhau và đôi khi chống chọi phản bác nhau. Trong thời gian trước khi Thích Ca thành đạo, đã có rất nhiều trường phái tu luyện. Các xu hướng triết lý cũng phân hoá mạnh như là các xu hướng khoái lạc, ngẫu nhiên, duy vật, hoài nghi mọi thứ, huyền bí ma thuật, tu khổ hạnh, tu đức hạnh, tụng kinh..."
 
 Đức Phật Thích Ca ra đời vào thời kỳ mà xã hội Ấn Độ cổ đại đang ở trong tình trạng suy vi cả về thể xác lẫn tinh thần. 

Thời đại đồ sắt và việc ứng dụng kỹ thuật canh tác mới vào trong đời sống lao động dần dần qui tụ dân cư thành cộng đồng xã hội. Làn sóng khai thác đất hoang nhằm mục đích phục vụ sản xuất nông nghiệp để gia tăng sản lượng được cổ vũ mạnh mẽ. Cũng từ đây, khái niệm tư hữu, tư tưởng sở hữu bất động sản và tư tưởng địa chủ ra đời. Bên cạnh đó, ngành tiểu thủ công nghiệp, trao đổi hàng hóa và mậu dịch cũng dần được hình thành với quy mô ngày càng phát triển trong cả lãnh vực sản xuất cũng như đổi chác mua bán. Tiến trình thành thị hóa không phải phát triển một cách đột ngột vả ngắn hạn, mà là một quá trình lịch sử.  
Phần lớn các thành phố chính trong thời đại Phật giáo ra đời là những kinh thành của các vương quốc và là trung tâm quyền lực của mỗi quốc gia. Chúng đã được giới thống trị ở đó xây dựng và thiết kế nhằm để phô trương tài sảndanh tiếng của họ. Trong tiến trình thành thị hóa, các hạ tầng cơ sở ấy được nâng cấp quy mô nhằm tương xứng với uy quyềnđịa vị của tầng lớp thống trị. Thêm vào đó, giai cấp thống trị xã hội nỗ lực bành trưởng sức mạnh, giành quyền sở hữu vật chất cũng như con người, khiến hố thẳm giàu nghèo mỗi ngày mỗi sâu hơn, tư tưởng phân biệt chủ tớ càng mãnh liệt hơn, tạo ra vô số bất công trong xã hội. Từ đây, làn sóng đấu tranh giữa tầng lớp bị trị và tầng lớp thống trị nhằm kiếm tìm trật tự mới cho xã hội manh nha và ngấm ngầm phát triển. 

Sự khủng hoảng xã hội mang tính toàn diện như thế biểu lộ sự khát khao về một hệ tư tưởng sống mới nhàm giải quyết các mâu thuẫn, xung đột giữa xã hội cũng như trong thượng tầng kiến trúc của xã hội mà hệ tư tưởng Bàlamôn không còn kham nhẫn được trong vai trò lãnh đạo. Một số học giả như G.s. Ghurye và N. Dutt cho rằng, trên bình diện triết lý xã hội, đây là một cuộc xung độttranh giành địa vị của hai giai cấp thượng tầng của xã hội, tức Khattiya (chiến sĩ) và Brãhmana (giáo sĩ). Một số khác lại có ý kiến rằng nó là một sự bùng nổ của triết lý tự ngã (atman-self- individualism) thay cho tư tưởng đại ngã (Brãhma). Nhưng trong thực tế, đây là một cuộc cách mạng tư tưởng tất yếu nhằm đáp ứng nhu cầu bức thiết của con người đương đại, và là một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử triết học Ấn Độ. Nó đánh dấu một thời vàng son mới của một hệ thống triết học mang tính nhân đạo và nhân văn. 
Cũng cần lưu ý rằng, trong bước chuyển biến này, hệ tư tưởng Bà-la-môn đã phát triển những ý tưởng có gốc rễ từ các Samhitas, Đrãhamana và bước phát triển ấy đã tạo nên một hệ triết lý mới trong hệ thống văn học Veda, gọi là Upanisads (Áo Nghĩa Thư), có thể đáp ứng được nhu cầu thời đại. Song hành với thành quả trên, xã hội Ấn Độ ở thế kỷ thứ VI Tr.CN đã phát sinh nhiều dòng tư tưởng khác nhau, đối kháng lại hệ tư tưởng Veda, và chúng được gọi gộp chung thành một hệ tư tưởng mới gọi là Samana (S. Sramana tức Sa môn), bao gồm triết lý của sáu vị ngoại đạo sư và giáo lý Phật giáo.
 Như vậy xã hội Ấn Độ cổ đại trước khi Đức Phật Thích Ca ra đời đã lâm vào tình trạng sự phân định giàu-nghèo trong xã hội đã ở mức tương phản gay gắt, thậm chí đến độ mâu thuẫn đối kháng. Cảnh lầm than, ly loạn hiện diện khắp nơi, tạo nên một tâm trạng xã hội đầy bi quan chán nản về cuộc sống trần thế, và từ đó cũng bật ra những câu hỏi lớn về thân phận con người, về nguyên nhân gây ra khổ đau. 
Là một người thông minh, có tâm hồn nhạy cảm và giàu lòng nhân ái, Đức Phật đã được thời đại giao phó trọng trách trả lời thỏa đáng những câu hỏi lớn đó, và trong thực tế ông cũng đã hoàn thành xuất sắc sứ mệnh, không những đã trả lời một cách xác đáng chúng trong trình độ nhận thức của thời đại bấy giờ, mà hơn nữa, còn đề xướng phương cách chế ngự khổ đau ở mỗi cá nhân con người, hay nói cách khác là mở ra con đường "diệt khổ" cho chúng sinh (mà theo ông nhận thức là hoàn toàn đúng đắn, là duy nhất). Theo suy tưởng (hơi bị đúng!) của chúng ta thì chính trong quá trình nhận thức để thực hiện sứ mệnh đó, Đức Phật Thích Ca đã tiếp cận được nền tảng tư tưởng hàm chứa tính hợp lý cao độ nhưng cũng huyền bí về tự nhiên-xã hội của Đạo Gia phái, đồng thời tiếp thu luôn phương thức thiền, (cũng) lấy thiền làm "phương tiện" thiết yếu trên bước đường "giải thoát" tâm hồn khỏi khổ lụy.

Vì luận thuyết "diệt khổ" của Đức Phật Thích Ca-hay còn gọi là Đạo Phật- đã vạch ra được một cách thỏa đáng nguyên nhân gây ra mọi sự tàn ác và khổ đau trong xã hội Ấn Độ (và cả trong toàn xã hội loài người nói chung!), cũng như mở ra cho con người một lối sống giàu lòng nhân ái, thấm đẫm tình yêu thương đồng loại, phù hợp với trình độ hiểu biết đồng thời cũng thỏa mãn tâm nguyện của đại chúng nhân quần đương thời, cho nên nó đã nhanh chóng được truyền bá hầu khắp Ấn Độ ngay từ lúc mới xuất hiện. Sự thâm nhập sâu rộng một cách nhanh chóng vào đời sống xã hội của Đạo Phật đã dẫn đến sự phát triển mạnh mẽ của nó. Với sự phát triển mạnh mẽ có tính đột khởi đó, Đạo Phật đã làm lung lay, uy hiếp địa vị thống trị mang tính truyền thống về tư tưởng trong xã hội Ấn Độ của Đạo Bàlamôn, thậm chí là trong thực tế "có vẻ như" đã "tiếm quyền" đạo này trong một thời gian.
Để tránh nguy cơ bị tiêu vong và hơn nữa là để tạo khả năng nhằm giành lại quyền thống trị tư tưởng của mình, kể ra thì cũng tự nhiên thôi(!), Đạo Bàlamôn đã điều chỉnh lại mình theo hướng tiếp thu những ưu việt của Đạo Phật, trong đó có việc hòa nhập thiền vào yôga, coi thiền (dưới cái tên mới: raja yôga) là bộ phận hợp thành của hệ thống tu tập này...

Ngày nay quốc giáo Ấn Độ là Đạo Hindu. Vậy, Đạo Bàlamôn "đâu rồi" và Đạo Hindu từ đâu xuất hiện ra? Câu hỏi này làm cho cái đầu hoang tưởng đã mệt nhoài của chúng ta định nghỉ ngơi, lại "hăng tiết vịt" lên và tiếp tục...hoang tưởng thêm đôi điều nữa về Ấn Độ cổ đại.

                                                * * *

Thực ra, Đạo Hindu là Đạo Bàlamôn sau khi đã được "cải cách", và có thể nói Đạo Bàlamôn là tiền thân của Đạo Hindu. Theo nhiều nhà nghiên cứu, Đạo Bàlamôn đã định hình ngay từ thời các thánh ca Vêda ở địa vị độc tôn về tư tưởng trong xã hội Ấn Độ cổ đại, và chính thức xuất hiện như một tôn giáo thực thụ vào đầu thiên niên kỷ I TCN.
Đạo Bàlamôn bắt nguồn từ giáo lý Vệ-Đà ở Ấn Độ, phát triển đến thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên thì chuyển biến thành Ấn Độ giáo (đạo Hindu). Những công trình kiến trúc nổi tiếng của Ấn Độ và các nước Đông Nam Á  như: Konarac, Kharujaho, Mahabalipuram, Angkor Watt, Loro Jong Grang, Tháp Chàm ở Việt Nam và nhiều tác phẩm triết học lớn của Ấn Độ như Ramayana, Mahabharata, đều ra đời trên nền tảng của Đạo Bàlamôn.
Người ta cho rằng Vệ - Đà giáo là một tôn giáo tối cổ của Ấn Độ và cũng là cổ nhất của loài người. Gọi là Vệ - Đà giáo vì tôn giáo này xây dựng giáo thuyết trên Kinh Vệ - Đà. (Véda nghĩa là Thông hiểu).
Vệ-Đà giáo thờ cúng thiên nhiên, gồm nhiều tín ngưỡng, có nghi lễ, có bùa chú, do các truyền thuyết của thổ dân da đen Dravidian ở bán đảo Ấn Độ, phối hợp với các tín ngưỡng của dân tộc da trắng từ phương Tây Bắc đến xâm lăng, nhất là dân da trắng Aryan tràn vào phía bắc Ấn Độ, khoảng 1550 năm trước Công nguyên.
Đạo Bàlamôn đưa ra những kinh sách giải thích và bình luận Kinh Véda như: Kinh Brahmana, Kinh Upanishad, Giải thích về Maya (tức là Thế giới ảo ảnh) và về Niết bàn.
Đạo Bà-La-Môn thờ Đấng Brahma là Đấng tối cao tối linh, là linh hồn của vũ trụ.
Tu luyện là để đạt được sự giải thoát của linh hồn khỏi các khổ não ràng buộc nơi cõi trần  để đem Atman trở về hợp nhất với Brahman.
Nhận thức được Chân lý này, không phải do trí tuệ, mà do sự giác ngộ của toàn bộ bản thể. Nếu không giải thoát được thì không dứt khỏi Nghiệp (Karma), tức là không dứt khỏi Luân hồi, phải đầu thai trở lại cõi trần, hết kiếp nọ tới kiếp kia.
Các Tăng lữ  Bà-La-Môn  phải giữ 10 Điều Giới luật:
1. Nhẫn nhục.
2. Làm phải (lấy điều lành mà tránh điều ác).
3. Điều độ.
4. Ngay thật.
5. Giữ mình trong sạch.
6. Làm chủ giác quan.
7. Biết rành Kinh Luật Véda.
8. Biết rõ Đấng Phạm Thiên.
9. Nói lời chân thật.
10.  Giữ mình đừng giận.
Kinh Upanishad đã nêu ra vấn đề Nghiệp báo và Luân hồi một cách có hệ thống.
Nghiệp (Karma) được tạo ra bởi những hành vi thiện ác của con người, sẽ quyết định việc luân hồi chuyển kiếp của linh hồn người ấy sau khi chết. Nếu người nào làm điều thiện, linh hồn sẽ được chuyển kiếp thành người ở giai cấp cao hơn, và có thể thành một vị Thần, nhập vào Thiên Đạo. Nếu người ấy làm nhiều điều ác thì linh hồn sẽ chuyển kiếp đầu thai vào những giai cấp thấp kém khổ sở, và có thể bị trừng phạt đọa đày.
Con đường giải thoát là Thiền định, nhưng con đường tu này quá khổ hạnh, ít người theo được, nên đa số tín đồ theo việc thờ cúng Thần linh, tự kềm chế dục vọng của mình và làm việc từ thiện.
Nhưng khi Phật giáo của Đức Phật Thích Ca được truyền bá thì ảnh hưởng của Đạo Bàlamôn  thu hẹp dần. Qua nhiều lần cải cách để phù hợp phần nào trào lưu tiến hóa của dân chúng, đến thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên, Đạo Bà-La-Môn dần chuyển biến thành Ấn Độ giáo (nói tắt là Ấn giáo) và còn được gọi là đạo Hindu. Ngày nay Đạo Bàlamôn là quốc giáo của nước Ấn Độ.
Ấn Độ giáo vẫn giữ những nét chính của Đạo Bàlanôn, thờ Đấng Brahma, về sau thờ thêm 2 Đấng nữa là Civa (Siva) và Vishnu hay Christna.
- Đấng Brahma là Thần Sáng tạo,
- Đấng Civa  là Thần Tranh đấu,
- Đấng Vishnu   là Thần Bảo tồn.
Ba Đấng ấy hợp lại gọi là Tam vị Nhất thể.
Đến thế kỷ 19 và 20, một số nhà hoạt động nổi tiếng của Ấn Độ giáo như: Ram Mohan Roy, Rama Krishna, Viveka Nanda, đã làm cuộc canh tân lớn đối với Ấn Độ giáo, phục hồi những giá trị cơ bản và loại trừ các yếu tố lạc hậu và thái quá ra khỏi tư tưởng của Đạo này. Chính nhờ khả năng thay đổi thích ứng mà Ấn Độ giáo vẫn luôn luôn là tôn giáo chính của người Ấn và có ảnh hưởng sâu xa đến mọi tầng lớp dân chúng từ xưa tới nay.

 Chúng ta cho rằng nhận định như thế có vài điều chưa thỏa đáng. Nhiều khi chỉ vì cái mục đích bênh vực, giành ưu thế trong việc truyền bá tư tưởng tôn giáo trong xã hội, người của mỗi giáo phái dễ cố tình ngụy tạo chứng cứ nhằm "nâng khống" thời điểm ra đời của giáo phái mình. Trong nghiên cứu sử, nhiều trường hợp nâng khống như thế đã bị phát hiện bởi sự phi lý của chúng. 
 Có lẽ, Đạo Bàlamôn lần đầu tiên xuất hiện dưới dạng manh nha của một tôn giáo (nghĩa là có tính cơ cấu tổ chức, có biểu tượng tín giáo rõ ràng, có "lập trường" giáo lý nhất quán, chủ yếu "hướng về" những vấn đề nhân sinh nên coi như cũng đã "thoát ly khỏi" vai trò nhận thức triết học về thực tại khách quan) vào thời điểm muộn hơn nhiều, mà nếu cố lắm cũng chỉ đoán định được là không sớm hơn thế kỷ VIII TCN. 
Nhưng trên cơ sở nào mà chúng ta dám đưa ra nhận định như thế? Trên cơ sở...hoang tưởng! Ha, ha...ha!...Thực ra, vì hình như chưa có ai qui ước sự khác nhau giữa niềm tin vào nhận thức duy linh (có tính hồn nhiên, lý trí chất phác) và tín ngưỡng vào phủ dụ giáo lý (nặng tính khiên cưỡng, ý chí chủ quan) nên cũng thật khó cho sự nhận định. Tuy nhiên, có thể nói chung rằng sự ra đời và tồn tại quan niệm duy tâm là thể hiện sự bất lực của quan niệm duy vật trong việc giải thích thế giới, và như thế, một cách đơn thuần, nhận thức duy tâm cũng như niềm tin về thế giới thần linh (tín ngưỡng thần linh sơ khai?) không hề có tính tôn giáo, nhưng vào "thuở ban đầu", chính nó đã là cơ sở lý luận, là yếu tố tiền đề cơ bản hình thành nên tôn giáo (có thể nói "bỗ bã" thế này: tín ngưỡng là niềm tin đượm màu cực đoan nên có tính tôn giáo nhưng chưa phải là tôn giáo, còn tôn giáo thì tiên quyết phải có tín ngưỡng và "cố tình cổ súy" cho tín ngưỡng ấy một cách bảo thủ). Nhưng đó là yếu tố cần chứ chưa đủ. Nếu mục đích thuần túy của triết học duy tâm nhằm giải thích thế giới thì mục đích của tôn giáo chỉ có thể là lợi dụng sự giải thích ấy để "phủ dụ" nhân sinh nhằm "trục lợi" (khái niệm "trục lợi" ở đây cần được hiểu một cách mở rộng nhất và không "chú ý tới" thị phi!). Với quan niệm như vậy thì yếu tố thứ hai góp phần tạo điều kiện cho tôn giáo ra đời là yếu tố mang tính xã hội. Có thể nói tôn giáo được kích thích hình thành cùng với quá trình xã hội phân liệt và phân liệt ngày càng "gay gắt", số đông dân cư xã hội (tầng lớp bị trị) lâm vào tình trạng bị bần cùng hóa, thể hiện ngày càng rõ ràng, sâu sắc và trở nên "căng thẳng" sự tương phản xét cho cùng là về quyền lợi sống còn, như thống trị - bị trị, giàu sang - nghèo hèn, sướng -  khổ...
Vậy, nên chăng, khi xét đến thời điểm khai sinh ra Đạo Bàlamôn, cần phải chú ý tới luận điểm vừa nêu? Chúng ta thấy rằng, trong lịch sử loài người, ở những thời đoạn xã hội suy vi, khi các mâu thuẫn xã hội (phần lớn nếu không muốn nói là toàn bộ mâu thuẫn có liên quan đến sống còn) đã đạt đến tình trạng tương phản đối kháng, thường xuất hiện các tư tưởng cách mạng, trong đó xuất hiện mầm mống các giáo lý tôn giáo, tín ngưỡng. Nhưng trước hết chúng ta tự hỏi, luận điểm đó có hợp lý không đã? Xin nhường lời cho các nhà nghiên cứu chuyên môn cao sâu!
 Và trong khi chờ đợi, chúng ta "ru ngủ" mình bằng câu hỏi này: Tại sao Đạo Bàlamôn được khai sinh ra mà không hề có sự sáng lập của một hay vài con người cụ thể nào như ở những tôn giáo khác, mặt khác, tại sao giáo lý Đạo Bàlamôn khi giải thích những hiện tượng tương phản về nhân sinh, về thân phận con người trong xã hội lại "ngấm ngầm" phủ dụ về cái gọi là "sự an bài của định mệnh" đối với đại chúng cần lao, và bênh vực sự tồn tại ưu tiên với đầy những đặc quyền đặc lợi của tầng lớp thống trị (tầng lớp tăng lữ, hiệp sĩ,quí tộc và vua chúa), và hơn nữa còn có ý biện minh cho bạo lực, khuyến khích chiến tranh phe phái, nghĩa là mặc nhiên dung túng cái ác?

Có thể chắc rằng hệ thống giáo lý Bàlamôn khởi phát không phải ngay từ thời điểm ra đời bài kinh đầu tiên của bộ kinh Upanishad mà vào thời điểm muộn hơn. Về mặt nhận thức triết học, người ta phân lịch sử cổ đại Ấn Độ ra làm hai, là thời kỳ Vêđa và thời kỳ Upanishad, trên cơ sở hai bộ kinh (hai nhận thức luận) Vêda và Upanishad, với Vêda đóng vai trò tiền thân, khai mở, còn Upanishad đóng vai trò kế thừa, phát triển sâu rộng thêm (nên còn được gọi là Vêđanta, nghĩa là phần cuối, phần tổng kết hay kết luận của Vêđa). Theo chúng ta, xét về mặt nhận thức thực tại khách quan, nếu bộ kinh Vêđa chủ yếu và nói chung " hướng ra" thế giới một cách hồn nhiên, chất phác và trong sáng, thì bộ kinh Upanishad (do tác động của quá trình gắn kết - phân liệt ngày một "dữ dội" của xã hội) chủ yếu và nói chung "hướng vào" cuộc sống nhân gian, vào thân phận con người một cách "thiên vị", và càng về sau càng có phần khiên cưỡng, "duy ý chí" (vì sau khi làm "bà đỡ" cho giáo lý Bàlamôn "thoát thai" ra, thì bị luôn chính giáo lý Bàlamôn (đã mang tư tưởng thống trị) "quay lại" lũng đoạn, trở thành "tấm khiên", thành "hiến pháp" bảo vệ tầng lớp giáo sĩ, quí tộc thượng tầng). Đó cũng là nét khác nhau cơ bản của hai bộ kinh nếu muốn phân biệt chúng...

Vậy thì nói chung, cội nguồn sâu xa nhất của Đạo Bàlamôn, hơn nữa, giềng mối và cũng là nguyên nhân (mang tính động lực) khởi thủy ra mọi nguyên nhân làm nảy sinh mọi triết phái, giáo phái sau này (kể cả Đạo Phật) trong lịch sử Ấn Độ cổ đại, chính là hệ thống lý học Vêđa.

Theo nhận định chung ngày nay, quá trình các kinh Vêđa được san định thành sách, sớm nhất cũng chỉ bắt đầu vào khoảng những năm 1200 TCN. Như đã trình bày, chúng ta cho rằng đó là một quá trình lâu dài và tốn nhiều công sức. Sự nghèo nàn, "què quặt" của chữ viết trong giai đoạn đang hình thành, và hơn nữa là tình trạng lưu truyền có tính tản mạn, "tam sao thất bổn", "phi văn bản" qua trí nhớ và truyền khẩu cũng như tùy thuộc vào nhận thức chủ quan của những người đời sau trực tiếp san định, mà đã không cho phép chuyển tải dễ dàng và trung thực trọn vẹn một nội dung nhận thức ở dạng khẩu ngữ sang dạng chữ viết, theo kiểu "một (đôi) lần là xong", mà phải là một tiến trình công việc lặp đi lặp lại, qua vài ba, thậm chí nhiều đời với nội dung san định sau phong phú hơn mà cũng có phần "hại điện" hơn nội dung san định trước, và dần hoàn thiện theo hướng phù hợp với trình độ nhận thức của thời kỳ mới, cũng như theo cùng sự hoàn thiện của chữ viết. Do đó, có thể suy đoán, tiến trình san định thành sách các kinh Vêđa với nội dung tương đối ổn định như ngày nay kết thúc đồng thời với sự xuất hiện của những bản kinh Upanishad đầu tiên, tức là không sớm hơn thế kỷ VIII TCN.
                                            
Theo truyền thuyết Ấn Độ (dù không có bằng chứng xác đáng nào!), các kinh Vêđa đã xuất hiện từ 3000 năm TCN. Có người còn cho rằng thời điểm xuất hiện của chúng sớm hơn nữa, vào khoảng 6000 năm TCN, thậm chí là 10000 TCN.
 
Nhưng không một ai biết các kinh Vêđa đó xuất hiện từ đâu. Các nhà hiền triết Ấn Độ cổ đại chỉ đơn giản cho rằng chúng là những chân lý được Đấng Tối Cao (hay Thượng Đế) mặc khải cho loài người. Một truyền thuyết, dù thiếu hẳn sự xác tín khoa học thì ở một mức độ nhất định, vẫn có thể còn lưu giữ trong lòng nó vài tín hiệu, vài thông tin về sự thực nào đó trong mịt mù quá khứ, bởi vai trò ban đầu, nguyên thủy của truyền thuyết chính là bảo tồn những hiểu biết về quá khứ bằng ngôn ngữ, hay nói cách khác, truyền thuyết là "lịch sử truyền khẩu" đã biến dạng theo hướng thi vị hóa, linh thiêng hóa theo thời gian, tùy thuộc vào nhận thức của từng thời đại, và chỉ trở thành mặc định khi chữ viết đã tương đối hoàn thiện. 
Cũng do đó, nghiên cứu lịch sử loài người thời tối cổ-tiền sử mà không chú ý tham khảo và biết cách khai thác những tín hiệu, thông tin thực sự quí báu "bị phủ vùi" trong truyền thuyết thì thật là... đáng tiếc...

Vì mang nội dung hàm chứa tư tưởng tôn quí sự sống thiêng liêng trong những ý niệm hồn nhiên mà cao khiết, ngây thơ mà thâm sâu, với văn phong súc tích của thời truyền khẩu, theo lối tụng ca giàu vần điệu, vừa uyển chuyển ngân nga, vừa nghiêm cẩn uyên áo, nên kinh Vêđa cũng được tôn gọi là "Thánh kinh Vêđa". Bộ kinh Vêđa có bốn tập (tạng) mà tập lâu đời nhất là Rig Vêđa. Nghe nói Rig Vêđa là tập hợp gồm khoảng mười quyển, với 1028 bài tụng ca mà bài cổ nhất được cho là đã tồn tại từ khoảng 1500 năm TCN, và bài xuất hiện muộn nhất cũng vào khoảng 1000 năm TCN. 
Theo nhận định của các nhà sử học thì khoảng thời gian đó cũng hầu như "trùng khít" với khoảng thời gian xảy ra quá trình lan cư của tộc người Arian vào Ấn Độ và dựa vào những chỉ thị mang tính bằng chứng mà họ cũng cho rằng có mối quan hệ khăng khít giữa sự "có mặt" người Arian ở Ấn Độ và sự xuất hiện kinh Rig Vêđa. Sự thực phải chăng là như thế?
 Nếu tin vào truyền thuyết Ấn Độ thì thời điểm ra đời của kinh Rig Vêđa rõ ràng là phải sớm hơn rất nhiều so với suy đoán hiện nay. Có thể nào giả định rằng rất lâu trước khi người Arian xâm nhập Ấn Độ, trong cư dân "bản địa" Ấn Độ đã tồn tại một tinh thần tín ngưỡng nào đó về tự nhiên-xã hội mà sau khi tiếp thu, hòa hợp với tín ngưỡng của người Arian thì trở thành cốt lõi tạo nên nền tảng tư tưởng của Rig Vêđa để rồi đến lượt Rig Vêđa trở thành giềng mối tư tưởng của bộ kinh Vêđa cũng như của bộ kinh Upanishad? Chúng ta trả lời câu hỏi này theo hướng khẳng định nhưng chỉ trong... hoang tưởng! Còn đúng hay sai thì hoàn toàn tùy thuộc vào mức độ "mạnh mẽ" hay "yếu xìu" của sự biện minh tiếp theo đây của chúng ta, trên cơ sở những đúc kết hiện nay về khảo cổ học, về nhân chủng học và tất nhiên là cả sự "thừa kế" ý kiến "có lợi" từ các nhà nghiên cứu chuyên môn.

Theo từ điển mở Wikipedia:
"Những di vật riêng rẽ của người vượn đứng thẳng tại Hathnora, thuộc lưu vực Narmada tại Trung Ấn chứng tỏ rằng Ấn Độ đã có người định cư ít nhất từ thời trung kỷ pleitoxen, độ khoảng 200.000 đến 500.000 năm trước. Thời kỳ đồ đá giữa tại tiểu lục địa Ấn Độ bao phủ một khoảng thời gian độ 250.000, bắt đầu khoảng 300.000 năm trước. Con người hiện đại có vẻ đã định cư ở tiểu lục địa trước giai đoạn cuối của kỷ Băng Hà cuối cùng, khoảng chừng 12.000 năm trước. Những sự định cư lâu dài đầu tiên được xác nhận xuất hiện 9.000 năm trước tại hang đá Bhimbetka, thuộc bang Madhya Pradesh ngày nay. Sự khám phá ra Mehrgarh (7000 năm trước công nguyên trở về trước) là biểu tượng của văn hóa thời đầu đồ đá mới, nó thuộc tỉnh Balochistan của Pakistan ngày nay. Những dấu tích văn hóa của thời kỳ đồ đá mới đã được tìm thấy dưới vịnh Khambat, khảo sát niên đại bằng Carbon xác định vào khoảng năm 7500 trước công nguyên. Văn hóa cuối thời kỳ đồ đá mới xuất hiện ở vùng lưu vực sông Ấn giữa giai đoạn năm 6000 và 2000 trước công nguyên và tại vùng Nam Ấn giữa giai đoạn năm 2800 và 1200 trước công nguyên", "Các nhà khảo cổ đã tìm ra cái nôi đầu tiên của Ấn Độ tại lưu vực sông Ấn. Tại đây người ta tìm thấy pho tượng một người đàn ông trong tư thế suy tưởng gợi đến môn phái yoga. Rất nhiều hiện vật được tìm thấy ở khu vực Harappa và Mohenjo có niên đại từ 3.000 dến 1.800 trước công nguyên. Những tìm tòi gần đây hé mở phần nào về sự lan tỏa của nền văn minh lưu vực sông Ấn rộng lớn về miền Bắc và miền Tây xa xôi cùng với cư dân lưu vực sông Ấn lại có quan hệ gần gũi với văn hóa Dravidian, từng phồn thịnh từ rất lâu ở miền Nam Ấn Độ trước khi người Aryan đặt chân đến".
Trong bài "Sự hình thành dân cư Ấn Độ" của nhà nghiên cứu Hà Văn Thủy có đoạn:
"Theo những phát hiện di truyền học mới nhất thì sớm hơn 74000 năm trước, người di cư từ châu Phi men theo bờ Ấn Độ dương đã tới Ấn Độ, theo cửa các con sông. Nhưng 74000 năm trước, núi lửa Toba trên đảo Sumatra phun trào, phủ nham thạch lên toàn vùng Nam Á, thiêu trụi các cánh rừng và hủy diệt tất cả những người có mặt trong khu vực. Sau “mùa đông nguyên tử” hàng ngàn năm, những người sống sót ở xung quanh tiến vào tái chiếm Ấn Độ. Đó là những người da đen Negritoid, cư trú ở Nam và Đông Nam Ấn, trở thành dân cư bản địa,.

Khoảng 50.000 năm trước, từ Đông Dương, người Việt cổ vượt qua đất Mianmar sang Ấn. Người Việt cổ ra đời khoảng 70.000 năm trước, do hòa huyết của hai đại chủng Australoid và Mongoloid từ châu Phi sang theo bờ biển Nam Á. Có nghĩa là những người tới Đông Nam Á cùng nguồn cội với những người tới Ấn Độ. Nhưng vì nguyên do nào đó, trong những người dừng lại Ấn Độ chỉ có Negrito mà không có Mongoloid. Tại đồng bằng Hainanland, là thềm biển Đông ngày nay, người Australoid kết hợp với người Mongoloid sinh ra bốn chủng Việt cổ: Indonesian, Melanesian, Vedoid và Negritoid. Do số lượng người Australoid vượt trội nên trong cộng đồng Việt cổ, yếu tố Australoid trở thành chủ đạo và được nhân chủng học xếp vào nhóm loại hình Australoid. Do điều kiện môi trường thuận lợi, người Việt tăng nhanh số lượng, lan tỏa sang Úc và các đảo ngoài khơi Đông Nam Á. Khoảng 40.000 năm trước, do khí hậu phía Bắc bớt lạnh, người Việt lên khai phá Trung Hoa, rồi từ Tây Nam Trung Hoa di cư vào Ấn Độ. Tại đây, người Việt gặp người bản địa da đen Negro, vốn là người tái chiếm đất Ấn sau thảm họa Toba. Rất có thể một tình trạng sau: tuy có mặt nơi đây rất sớm, nhưng vì nhiều nguyên nhân, giống như đồng chủng của họ trên một số hòn đảo Đông Nam Á, sinh xuất của người Negro thấp, dân số tăng chậm và trở thành những bộ lạc thiểu số sống ở Nam Ấn cho tới hôm nay. Đó là chưa kể, do hôn phối cận huyết kéo dài, họ bị suy thoái về di truyền, trở về gần với dạng gốc châu Phi. Như vậy, khoảng 40000 năm trước, người Australoid, mà chủ lực là chủng Indonesian có mặt trên toàn tiểu lục địa Ấn Độ, được lịch sử gọi là Dravidian.

Đối chiếu sự phát hiện của di truyền học hôm nay với những nhận định của giới nhân chủng học Anh thế kỷ XIX, ta thấy, theo tiêu chí hình thái học sọ người, các nhà nhân chủng học Anh đã nhận xét đúng về nhân học của cộng đồng Dravidian: vừa có yếu tố Australoid, vừa có yếu tố Indonesian, vừa có chất Mông Cổ, lại có những đặc điểm Ethiopia. Điều này thêm bằng cớ xác nhận Dravidian là con lai của Mongoloid và Australoid từ châu Phi tới.

Cuộc thiên di của người Việt cổ tới Ấn liên tục qua nhiều thiên niên kỷ, tới giai đoạn người Hòa Bình mang công cụ Đá Mới, sau đó là cây kê và lúa nước sang xây dựng kinh tế nông nghiệp trên đất Ấn Độ. Khoảng 3000 năm TCN, Người Dravidian đã sáng tạo nên văn minh sông Indus nổi tiếng. Khảo cổ học phát hiện những hiện vật của văn hóa vật thể của người Dravidian nhưng không giúp khám phá văn hóa phi vật thể của họ. Đến nay, ta có thể khẳng định rằng đó là nền văn hóa nông nghiệp được kế thừa từ tộc Việt trên địa bàn Đông Nam Á cũng như trên lưu vực Dương Tử và Hoàng Hà.

Khoảng 2000 năm TCN, người Aryan thuộc chủng Á – Âu (Eurasian), là những bộ lạc du mục rất thiện chiến từ Iran kéo vào xâm lăng Ấn Độ. Đây là cuộc chiến khốc liệt. Người Aryan tiêu và diệt bắt người Dravidian làm nô lệ. Không chỉ cướp đoạt tài sản, người Aryan còn chiếm khối lượng lớn đất canh tác của dân bản địa và dồn họ xuống phía nam. Là dân du mục có nền văn minh khá cao, người Aryan mang tới Ấn Độ chữ Phạn, xã hội chia đẳng cấp và đạo Balamôn, một đa thần giáo với những kinh sách khẳng định việc phân chia giai cấp.
(...)
Sự kiện 2000 năm TCN, người Aryan xâm lăng lãnh thổ của người Dravidian ở Ấn Độ cũng giống như 600 năm trước đó người Mông Cổ xâm chiếm đất đai của người Bách Việt phía nam Hoàng Hà. Cùng là sự xâm lăng của những tộc du mục đối với các bộ lạc nông nghiệp nhưng tình huống hai cuộc xâm lăng khác nhau đã đưa tới những hệ lụy lịch sử hoàn toàn khác nhau. Người Mông Cổ du mục nhân số ít. Khi vào Trung Nguyên, một vùng đất mênh mông, kinh tế trù phú, gặp cuộc kháng chiến mãnh liệt của số người đông đảo gấp bội, kẻ xâm lăng tuy thiện chiến nhưng cũng không thể chiến thắng dễ dàng. Vì vậy, người Mông Cổ thấy không thể và cũng không cần tiêu diệt dân bản địa hay bắt làm nô lệ mà thực hiện chính sách khôn ngoan: giành cho người Mông Cổ vị trí thống trị, hoạt động thương mại còn cho người bản địa làm nông nghiệp, và những nghề nặng nhọc. Chính sách khôn khéo này xoa dịu sự đối kháng của người Bách Việt và sớm tạo nên mối hòa đồng trong xã hội.
Một thời gian sau, do sự chung sống nên xảy ra hòa huyết Mông-Việt, tạo ra chủng mới Mongoloid phương Nam được gọi là người Hoa Hạ, tổ tiên của người Hán. Ngày nay người Hán chiếm 93% nhân số Trung Hoa".
Như vậy, trước khi người Arian xâm nhập, ở Ấn Độ đã tồn tại nền văn minh vượt trội của người Dravian (được coi là dân "bản địa") mà đỉnh cao chói lọi là văn minh Harappa-Mohenjo, và cội nguồn của nền văn minh này cùng với văn hóa tín ngưỡng của nó chính là những gì đã lan truyền tới từ văn minh Đông-Nam Châu Á, cụ thể là văn minh Hòa Bình, theo hai ngả trọng yếu là từ Lào và Trung Quốc sang mà dải đất đóng vai trò trung chuyển là Nêpan ngày nay. Có lẽ sự lan tỏa dân cư của người Arian vào Ấn Độ không đến nỗi "khốc liệt" như nhận định trên và sự đồng hóa văn hóa Dravian-Arian cũng không phải theo hướng văn hóa Arian lấn át văn hóa bản địa mà hoàn toàn ngược lại. Nghĩa là chúng ta cho rằng trước khi xuất hiện Rig Vêđa (một thể hiện về sự hòa hợp văn hóa Dravian-Arian) thì ở Ấn Độ đã từng tồn tại tương đối bền vững một dạng kinh thuần túy Dravian nào đó để rồi sau này đóng vai trò nền tảng nhận thức trong Rig Vêđa...
                                  ***
Qua những di vật khảo cổ đã khai quật được, nếu không sớm hơn thì chí ít cũng vào giai đoạn hậu kỳ Hòa Bình, ngoài cái ý niệm dẫn đến tín ngưỡng phồn thực, có lẽ người Hòa Bình cũng đã bắt đầu có ý niệm về một thế giới đồng nhất thể nhưng vận động theo hình thức lưỡng phân lưỡng hợp, nghĩa là thống nhất trong phân định, phân định tương phản để tác hợp nhau đi đến tái thống nhất. Những ý niệm tuyệt vời này còn "lưu dấu đậm đà" trong bộ kinh Vêđa (và hơn nữa, chắc chắn đã là cội rễ làm nảy sinh ra quan niệm âm-dương đầy huyền diệu của Trung Hoa cổ đại!). 
Có thể lấy thánh kinh có tên Black Yajurvêđa (ít nhiều đã "arian hóa") làm thí dụ. Theo thánh kinh này thì nguồn sống và thực chất của muôn loài là "Thực Phẩm" (Annam). Khái niệm "Thực Phẩm" này có nội hàm rất rộng, rộng đến cùng cực chứ không chỉ thị riêng một cách hạn hẹp về miếng ăn thông thường như gạo, thịt, cá..., những thứ thể hiện "vụn vặt", tầm thường và hoàn toàn "không đáng kể" của nó. Về vai trò trong thế giới tự nhiên thì dù Lửa (Agni) được Vêđa rất tôn sùng, thần thánh hóa nó vì cho nó là động lực chuyển hóa làm "bừng dậy" sự thức tỉnh Vũ Trụ, làm xuất hiện muôn hình vạn trạng vật chất-hiện tượng, cũng không sánh được với Thực Phẩm. 
Vai trò của Thực Phẩm là tối linh, thậm chí quyết định đến cả sự tồn tại của Vũ Trụ đồng nhất thể, đến Brahman-Đấng tinh thần thiêng liêng nhất. Sau đây là vài trích đoạn:
"Ta sinh trước thực thể thần linh
Trước khi các chư thần xuất hiện đã có Ta
Ta là trung tâm của trường sinh bất tử
Bất kỳ ai đem Ta cho kẻ khác, như thế là nó đã giữ Ta cho nó
Ta là Thực Phẩm. Ta ăn thực phẩm và người ăn nó"

"Thực Phẩm này được bảo quản ở nơi cao nhất trong các thế giới trên cao
Mọi vị thần và tổ tiên đã qua đời đều là những người canh giữ Thực Phẩm này
Bất cứ cái gì được ăn, bị chia hoặc được vung vãi như cúng vật
Nói chung chỉ là một phần trăm của toàn bộ thân xác Ta
Hai cái vại lớn, Trời và Đất, đều được đổ đầy
Bởi một nguồn sữa duy nhất là con bò sặc sỡ
Những người thành tín, khi uống nó, không thể làm giảm nó
Nó không nhiều thêm cũng không ít bớt đi"

"Thực Phẩm là hơi khí tiết phát ra. Thực Phẩm là hơi khí hô hấp của sự sống
Thực phẩm có nghĩa là chết. Thực phẩm cũng có nghĩa là sống
Thực Phẩm được gọi là đang già đi, cũng được gọi là sinh sôi nảy nở"

"Người xuẩn ngốc giành được thực phẩm vô dụng
Ta nói thật: đó sẽ là cái chết cho y
Vì y không nuôi dưỡng bạn bè, đồng loại
Chỉ giữ thực phẩm cho riêng mình, y có tội khi ăn nó
Ta-Thực Phẩm-là mây, làm sấm và làm mưa
Chúng sinh ăn Ta. Ta ăn mọi thứ
Ta là thực thể chân thật của Vũ Trụ, bất tử
Bằng sức mạnh của ta, mọi mặt trời trên thiên giới đều sáng rực".

Hãy xem tiến sĩ triết học Heinrich Zimmer bình giải trong tác phẩm "Triết học Ấn Độ, một cách tiếp cận mới" của ông:
"Chất liệu thiêng liêng mà nhờ nó Vũ Trụ sống và các tạo vật của nó được hình thành, được tỏ lộ ở đây như thực phẩm, là vật chất và sức mạnh kết hợp lại. Nhựa sống xây dựng và thiết lập mọi hình thức của đời sống. Dù thay đổi hình thức, nó vẫn bất hoại. Các tạo vật phát triển bằng cách ăn lẫn nhau, nhưng bản chất thiêng liêng vẫn tiếp tục sống, không gián đoạn, qua những kiếp sống không ngừng bị gián đoạn của mọi sinh vật.
(...)
Chất sống tràn đầy thân thể Vũ Trụ, tuần hoàn qua các tạo vật trong dòng chảy nhanh, liên tục, như chúng làm mồi cho nhau, vừa là thứ ăn nhau vừa là thứ nuôi nhau. Phần chia được làm cho hữu hình theo cách này chỉ là một phần trăm toàn bộ thực chất, chỉ là sự biểu hiện không đáng kể về toàn bộ, ít hơn rất nhiều so với phần lớn hơn không thấy được. Vì nó được bảo quản trong lĩnh vực cao nhất của Vũ Trụ, nơi nó được canh giữ vừa bởi các vị thần, vừa bởi các tổ tiên đã qua đời cùng ở trên trời. Chính bản chất của kho thần thánh đó là sự phong phú, phần chia biểu thị như thế giới chỉ là sản lượng sữa duy nhất của nguồn siêu phàm, con bò cái sặc sỡ vĩ đại. Qua sự biến đổi liên tục thành năng lượng và vật chất của thế giới, kho vô tận không phải chịu một tí giảm sút nào.
(...)
Thực Phẩm thống trị mọi qui trình sống. Nó cung cấp năng lượng cho qui trình thở suốt đời. Nó sinh ra tình trạng suy sụp và tuổi già, kết thúc trong chết và phân hủy, nhưng nó cũng đi tới chỗ sinh con đẻ cái, và nó kiến tạo thân xác trẻ đang lớn.
(...)
(...).Cá nhân được kết nạp vào sự huyền bí này không thể tham lam bất kỳ phần chia nào trong số thực phẩm dư dật có thể đến với mình. (...). Và vì lẽ ấy, bất kỳ ai giữ thực phẩm sẽ tự mình rút khỏi con đường có sức sống đã hỗ trợ phần còn lại của Vũ Trụ - mọi tạo vật trên Trái Đất, mọi đám mây đang lơ lửng, và Mặt Trời. Kẻ tích trữ keo kiệt như thế tự tách khỏi sự chuyển hóa thần thánh của thế giới sống. Thực phẩm của y chẳng giúp ích gì cho y: khi y ăn, y ăn cái chết của chính mình".
Theo thiển ý của chúng ta, hình tượng con bò sữa sặc sỡ ở đây có thể là biểu hiện sự đồng hóa văn hóa Arian vào văn hóa bản địa Dravian vì xét về nguồn gốc xuất phát của cuộc lan cư người Arian vào Ấn Độ thì nó gợi đến tín ngưỡng thờ bò của dân Sumerians thuộc thời đại đế quốc Babylon (hình thành vào khoảng những năm thuộc nửa đầu thiên niên kỷ III TCN) ở khu vực Lưỡng Hà cổ đại, và người Arian đã tiếp thu tập tục này(?). Dễ cảm nhận được sự "lắp ghép" khiên cưỡng giữa quan niệm Thực Phẩm cực kỳ uyên áo huyền linh với con bò sữa sặc sỡ rất đỗi "trực giác" bình thường. Nhưng thôi, đó là vấn đề không đáng quan tâm nhiều. Vấn đề đáng lưu ý hơn là qua nội dung kinh đã trích ở trên, hình như vào khoảng thời gian xuất hiện Black Yajurvêđa, sự phân hóa giàu-nghèo trong xã hội Ấn Độ cổ đại nếu đã có thì cũng chưa thành hiện tượng phổ biến, nói cách khác, những biểu hiện như tham lam, chiếm hữu của cải thái quá, mâu thuẫn quyền lợi giữa thống trị-bị trị..., dù có thể đã nảy sinh thì vẫn còn mờ nhạt, cũng có nghĩa là Black Yajurvêđa chưa bị lũng đoạn bởi những biện minh nhằm bảo vệ địa vị đặc quyền đặc lợi của tầng lớp "có học" đã hóa thành pháp sư, đạo sĩ. Tuy nhiên, điều đáng nói nhất là có thể suy ra, quan niệm siêu việt về sự bảo toàn của Thực Phẩm và tư tưởng sùng bái Thực Phẩm đến mức tối linh như thế cũng chính là một dạng thể hiện của tín ngưỡng phồn thực (có vẻ còn ẩn chứa cả yếu tố nguyên nhân làm xuất hiện tập tục thờ cúng tổ tiên của người Việt cổ!) chỉ có thể được xây dựng nên từ sự quan sát và nhận thức thực tiễn quá trình lao động-sản xuất mang tính khép kín và xoay vần trong trồng trọt-chăn nuôi nông nghiệp. Và cuối cùng, đây là điều mà chúng ta cho là thú vị nhất: Nếu loại bỏ sự rườm rà đầy màu sắc huyền bí của "cái áo" ngôn ngữ thời sơ kỳ nhận thức triết học và cũng chưa hề được khoa học tự nhiên soi sáng, mặt khác, nếu thay thuật ngữ Thực Phẩm bằng thuật ngữ Năng Lượng, thì cái quan niệm về Thực Phẩm ấy của các nhà hiền triết Ấn Độ cổ đại thời Vêđa, cũng chính là một cách trình bày, phát biểu định tính nguyên lý chuyển hóa và bảo toàn năng lượng. Như vậy, có thể cho rằng, nguyên lý cơ bản nhất, phổ quát nhất về Tồn Tại mà vật lý học phải đến giữa thế kỷ XVII mới khám phá được bởi nhà vật lý Helmholtz, thì triết học Ấn Độ cổ đại đã chỉ ra từ cách nay hơn 3000 năm. Bái phục!...

Hermann von Helmholtz


Hermann Ludwig Ferdinand von Helmholtz
Sinh 31 tháng 8 năm 1821
Potsdam, Đức
Mất 8 tháng 9 năm 1894
Charlottenburg, Berlin, Đức
Nơi cư trú Flag of Germany.svg Đức
Ngành Nhà vật lý và nhà sinh lý học
Alma mater Viện Hoàng gia Friedrich-Wilhelm
Người hướng dẫn luận án tiến sĩ Johannes Peter Müller
Các sinh viên nổi tiếng Albert Abraham Michelson Nobel prize medal.svg
Wilhelm Wien Nobel prize medal.svg
William James
Heinrich Hertz
Michael Pupin
Friedrich Schottky
Arthur Gordon Webster
Nổi tiếng vì Định luật bảo toàn năng lượng





























Như đã hình dung, phương thức trồng trọt - chăn nuôi cùng với việc chuyên canh cây lương thực theo mùa màng đã làm thay đổi căn bản cách thức mưu sinh và lối sống của loài người nguyên thủy theo hướng thuận lợi, mở ra một thời kỳ nói chung là dài lâu với cảnh no đủ, sung túc. Nhưng ít người biết rằng, cũng chính lối sống dựa chủ yếu vào canh tác nông nghiệp, thuở đầu thuần túy mang tính "tự cung tự cấp" hồn nhiên ấy cũng đồng thời là nguyên nhân tiền đề dẫn đến một xã hội "có đủ đồ chơi, đủ thứ hỉ nộ ái ố" mà ngày nay chúng ta đang "hưởng thụ" (!), như: tiền tệ thành thần, hàng hóa làm thánh, yêu thương hô hoán, ích kỷ nhan nhản, mưu mô dồn nén, quỉ quyệt tràn lan, bạo lực vô vàn...!!! Tuy nhiên, xét riêng Ấn Độ cổ đại thì khoảng trước 2000 năm TCN, những "hưởng thụ" ấy có lẽ không đáng kể. 
Có thể cho rằng bản thân quá trình lan tỏa người Arian vào Ấn Độ (ít ra cũng trong giai đoạn đầu) là không có tính xâm lược, nghĩa là (hầu như) không gây ra những mâu thuẫn xung khắc về quyền lợi giữa "kẻ cũ, người mới" khiến phải sử dụng đến bạo lực, nhưng quá trình hòa nhập đó đã đóng vai trò "xúc tác" đáng kể trong việc tác động mạnh mẽ, làm "nhanh chóng" xuất hiện đầy đủ về cơ bản những "hưởng thụ" nói trên trong xã hội Ấn Độ cổ đại. Chúng ta cho rằng, cuộc vận động nội tại trong tình trạng tương đối hòa bình của xã hội Ấn Độ cổ đại làm xuất hiện những mối quan hệ gắn kết kèm theo sự phân liệt quyền lợi nhân sinh mang nét đặc thù và điển hình ở xã hội loài người, hoàn thành vào khoảng năm 1000 TCN. Nguyên nhân cụ thể và chủ yếu tạo ra cuộc vận động hướng xã hội về phía "nhan nhản" bất công "đầy rẫy" bạo lực ấy, không thể khác, chính là sự tăng trưởng lạm phát (tăng-giảm lạm phát về số lượng cá thể loài theo điều kiện môi trường sinh thái là một qui luật tự nhiên trong thế giới sinh vật!) một cách tự phát về số lượng dân cư so với trình độ sản xuất thời đó dẫn đến tình trạng gọi là "nạn nhân mãn" làm mất cân đối trong mối quan hệ cung-cầu "miếng ăn, cái mặc" theo hướng "đói kém" có tính định kỳ và ngày một nghiêm trọng. Có thể bắt đầu từ khoảng năm 1000 TCN, do đó và cũng do tình cảm con người trở nên ngày càng sâu sắc (con người, khi sống cuộc sống xã hội vẫn nằm trong quá trình tiến hóa sinh vật, các mặt tham, sân, si, hỉ nộ, ái, ố..., nói chung, những cảm xúc thần kinh đều phát triển đến nhạy bén, sắc nét!?) mà tranh giành quyền lợi bằng bạo lực giữa các bộ phận và tầng lớp dân cư Ấn Độ cổ đại đã thành hiện tượng phổ biến đồng thời với sự xuất hiện chính thức trong xã hội hình thức chiếm hữu nô lệ và tiếp sau đó là chế độ phong kiến (phân quyền rồi tập quyền). Đến thế kỷ VIII TCN, sự phân hóa về quyền lợi dân cư, sự phân tầng thống trị và bị trị đã trở thành hiển nhiên như một mặc định, và từ đó mà những biểu hiện tương phản như giàu-nghèo, sướng-khổ, sang-hèn...cũng rõ rệt, chỉ thị về sự tồn tại tiềm tàng và thường trực một mâu thuẫn (trạng thái tương phản đạt đến cao độ) mang tính căng thẳng, đối kháng, khó dung hòa trong xã hội Ấn Độ cổ đại. 
Cụ thể, trong xã hội Ấn Độ thời đó, tầng lớp thống trị, được hưởng đặc quyền đặc lợi (một cách bất chính!) gồm hai bộ phận hợp thành là giới tu sĩ (thầy cúng, đạo sĩ, những người thông thuộc đồng thời cũng thao túng các thánh kinh Vêđa, được gọi chung là người Bàlamôn-có địa vị cao nhất trong xã hội) và giới hiệp sĩ quí tộc (lúc đầu ở địa vị thứ hai, sau nhờ đấu tranh đòi hỏi mà có địa vị ngang bằng), còn tầng lớp bị trị gồm cũng hai thành phần là giới bình dân (vaisya: nông dân, thương nhân) và giới nô bộc (sudra).

Bản thân hiện tượng phân định thống trị-bị trị là tự phát nhằm điều phối xã hội, nghĩa là có yếu tố tự nhiên và tất yếu, do đó mà một cách "thuần khiết", nó không gây ra bất cứ mâu thuẫn về quyền lợi nào. Nhưng vì sự phân tầng thống trị-bị trị cũng là kết quả tạo thành một cách tự giác của con người nhằm trị an xã hội vào thời đoạn xã hội loài người đã phát triển đến độ làm xuất hiện "như một định mệnh" những hiện tượng thuộc tham-sân-si (có gốc rễ bản năng của con vật được đơm hoa kết trái bởi ý chí mê quáng của con người!) trong lòng nó, cho nên trong thực tế, nó cũng gây ra mâu thuẫn quyền lợi ở những mức độ khác nhau tùy thuộc vào...ha,ha (!)...ha (!)...trạng thái tinh thần xã hội. (Chúng ta quá buồn cười vì nhớ đến quan niệm "ghê hồn bạt vía" về nguồn gốc nhà nước của "soái ca"... Mác-Ăng-Lê!). Nói rõ hơn, mâu thuẫn quyền lợi đến mức đối kháng trong xã hội chủ yếu là do sự sử sự sai lầm, thiếu đạo đức của tầng lớp thống trị nắm giữ quyền lực dẫn đến bất công gây ra. Và tùy thuộc vào thời gian tồn tại cũng như mức độ "tệ hại" của sự bất công đó mà trong xã hội xuất hiện những đòi hỏi giải quyết, những phản kháng chống đối với mức độ khác nhau từ phía tầng lớp bị trị. Đó cũng là giềng mối nói chung làm nảy sinh những hành động bạo lực có tính "tập thể" và ở trạng thái tột độ chính là đấu tranh vũ trang (nội chiến). (Ở đây không bàn đến chiến tranh xâm lược và đấu tranh kiểu "huynh đệ tương tàn").

Quá trình chuyển biến xã hội thời tiền sử - cổ đại từ trạng thái có tính thường xuyên sung túc, no đủ nhờ lao động nông nghiệp sang trạng thái có tính thường xuyên thiếu thốn, đói kém bởi nạn nhân mãn cũng đồng thời vừa là quá trình chuyển biến cấu trúc xã hội vừa là quá trình chuyển biến tinh thần xã hội, làm cho con người xã hội từ lối suy nghĩ vô tư, hồn nhiên, chân phác, lành mạnh ban đầu dần dần giảm đi tính thuần khiết, trong sáng vốn có và thay vào đó là sự lũng đoạn của mê quáng thèm muốn (lòng tham) do bị "đè nén" bởi nỗi lo âu, hoảng sợ, khiếp đảm trước thảm cảnh đói khổ luôn ám ảnh thường trực, truyền kiếp và trở thành tiềm thức trong tâm hồn của mỗi con người. Xã hội tiền sử - cổ đại Ấn Độ cũng phải tiến triển theo quá trình chuyển biến đó, và hơn nữa, chính quá trình chuyển biến đó đã làm bật ra những câu hỏi lớn về thân phận con người trong tâm trí suy tư nhận thức của các hiền triết Ấn Độ cổ đại, như con người được sinh ra từ đâu, tại sao có cảnh kẻ sướng người khổ, được gì mất gì khi chết đi, và chết là hết hay còn (?)... Khi các hiền triết Ấn Độ cổ đại chú ý tới việc tìm câu trả lời cho những vấn đề nảy sinh ra từ sự vận động của xã hội-nhân sinh cũng như về thân phận con người thì cũng là lúc đánh dấu sự thay đổi định hướng suy tư nhận thức của họ từ "hướng ngoại", nỗ lực giải thích thiên nhiên, tìm hiểu Vũ Trụ, sang "hướng nội", gắng sức lý giải hiện thực xã hội và qua đó mà cũng đồng thời đề ra cách giải quyết những khúc mắc trong đời sống nhân sinh theo quan niệm của họ. Chúng ta cho rằng trong thực tế, thể hiện mang tính thực thể của việc chuyển định hướng suy tư nhận thức ấy chính là sự ra đời của thánh kinh Upanishad.

Upanishad là kết quả tinh thần, được sáng tạo ra trên cơ sở kế thừa bộ kinh Vêđa, lấy những suy tư uyên áo về thực tại khách quan của Vêđa làm nền tảng lý luận mà phát triển nhận thức. Cũng giống như bộ kinh Vêđa, bộ kinh Upanishad không phải là thành quả của riêng hiền triết nào mà là công trình mang tính tập thể, được tập hợp lại từ nhiều ghi chép suốt mấy trăm năm. Nhiều học giả cho rằng thời đại tồn tại với vai trò tư tưởng chính thống trong xã hội Ấn Độ của Upanishad là khoảng từ thế kỷ VIII TCN đến thế kỷ V TCN.
Sự phân định đẳng cấp một cách tương đối đặc thù trong xã hội Ấn Độ cổ đại làm cho việc tiếp cận và thông thuộc nội dung Vêda có tính độc quyền, chỉ những người thuộc đẳng cấp khá giả, giàu có mới đủ khả năng. Tình hình đó cho thấy bộ kinh Upanishad nếu không phải hoàn toàn thì cũng hầu như là do những học giả Bàlamôn thuộc tầng lớp thống trị trước tác. Vì lý do đó và hơn nữa, có lẽ do mâu thuẫn quyền lợi trong xã hội ngày càng căng thẳng làm nảy sinh yêu cầu biện hộ tính chính đáng về sự tồn tại những đặc quyền đặc lợi của tầng lớp thống trị, trong đó có giới Bàlamôn mà đã có sự "can thiệp" một cách thiên vị, phi "yêu mến sự thông thái" (phi triết học) vào Upanishad. Hiện nay người ta còn giữ được 108 bản kinh Upanishad, nhưng các nhà nghiên cứu cho rằng chỉ có 10 bản được coi là chính truyền từ thời cổ đại, trong đó có hai bản mang tên Brihadâranyaka và Chândogya là có tầm quan trọng đặc biệt vì nội dung phong phú và sự trình bày sáng sủa của chúng, hơn nữa còn vì chúng hàm chứa tập trung nhất những vấn đề cơ bản nhất của nhận thức triết học Upanishad.                                              
Nói chung, trọng tâm của triết lý Upanishad là suy tư chiêm nghiệm về cõi nhân sinh, là sự khẳng định dứt khoát quan niệm về một Vũ Trụ đồng nhất thể trong cái bề ngoài phân định thành muôn hình vạn trạng của nó, là sự xác tín lại và làm sâu sắc thêm đến mức hoàn chỉnh ý niệm về sự tồn tại độc lập của linh hồn đối với thân xác trong triết lý Vêđa, và đặc biệt là mở rộng quan niệm về tái sinh, hậu quả thưởng-phạt, xuất hiện dưới dạng sơ phác, phôi thai vào hậu kỳ Vêđa-tiền kỳ Upanishad (còn gọi là giao thời Brahmana), nâng lên thành như một học thuyết hoàn chỉnh về luân hồi nghiệp báo. Trong Chândogya Upanishad giảng giải thế này:
"Thoạt kỳ thủy chỉ có một thực tại, duy nhất, không hai"
"Linh hồn vốn vô sinh và bất diệt. Nó tồn tại độc lập và cuộc đời tiếp diễn không ngừng. Linh hồn vốn là Một và bất khả phân. Khi nó từ bỏ thân xác cá nhân thì nó thoát ra khỏi mọi ràng buộc và giới hạn. Lúc đó nó là Một và chỉ có một. Ở chỗ có hai thì người ta có thể nhìn thấy người khác, nghe thấy người khác, nói với người khác, nghĩ về người khác. Khả năng phân biệt ấy chỉ có khi nào có hai hay hơn nữa, nhưng không có khi chỉ có một. Vì lẽ khi tất cả đã là một thì còn có người nào khác để thấy, nghe, trò chuyện, nghĩ tới? Như thế, cái Một tồn tại không có cái khác. Đó là Tự Ngã (Atman), cái bất khả tri, cái bất diệt. Ngài là người biết hết thảy, vậy thì chúng ta làm sao biết được Ngài?".
"Thân thể vật chất thì tiêu diệt. Trong cái ấy có ngự Tuyệt Đối với Brahman là phi chất và bất diệt, ở tạm trong thân thể như là linh hồn cá nhân. Ngài vui và buồn bởi vì Ngài đồng nhất bằng ý nghĩ với cái thân thể nó vui và buồn. Chừng nào Ngài giải thoát khỏi thân thể này, trở nên linh hồn Vũ Trụ, Ngài không còn vui buồn nữa, nhưng không bị diệt vong vì vui buồn. Trái lại, Ngài bình thản và yên định, Ngài là Tự Ngã Tuyệt Đối".
"Khi thân xác hấp hối và yếu dần, linh hồn thu thập hết năng lực vào trong tim. Khi cái ngã ở nơi con mắt tắt đi thì người đó không còn nhận biết hình thể gì nữa. Khi ấy tất cả mọi cảm giác, ý nghĩ, ngôn ngữ đều ngưng tắt và trở nên Một. Khi ấy, những điểm sáng trong tâm lóe lên và tâm hồn ra đi mang theo cả vốn liếng tri thức cùng công đức và tội lỗi".
"Linh hồn con người khi đã trải qua thân xác này sẽ tìm kiếm một thân xác khác mà trú ngụ. Mỗi khi thay đổi thân xác, linh hồn lại khoác lên một hình thức mới. Mỗi trạng thái sống của linh hồn bị quyết định bởi Vô Minh (Avidya - đây là khái niệm có nội hàm rất rộng, không chỉ định về một sự ngu dốt cụ thể nào mà bao gồm tất cả những tri thức được "gặt hái" từ hiện thực trực quan, nghĩa là cả những kiến thức về khoa học, kỹ thuật, nghệ thuật...đều thuộc phạm vi Vô Minh, vì đó là những cái biết vẫn còn bị khống chế, có hạn độ, còn sai lạc, chưa phải là cái biết đích thực tối hậu, chưa phải là toàn biết, chưa phải là Minh Trí (Vidya) - sự hiểu biết về tự ngã, đạt đến Cái Biết giải thoát) và hành động (karma-nghiệp, hành) của nó trong tiền kiếp".
Chúng ta cho rằng ngay bản kinh này cũng đã có sự "lũng đoạn Bàlamôn" làm cho nó không còn mang nội dung nguyên thủy như khi mới ra đời, vì rõ ràng là dễ cảm nhận được sự thiếu mạch lạc, sự mâu thuẫn logic, sự gắn kết cố ý đến "thần sầu quỉ khốc" cái quan niệm hồn nhiên của Vêda về sự tái sinh "trong" sự bất sinh bất diệt của linh hồn (có lẽ xuất phát từ quan niệm về tính bảo toàn của Thực Phẩm chăng?) và sự biện giải khiên cưỡng, gượng ép "thiếu vắng" tinh thần triết học về "nghiệp báo" của những người thao túng Upanishad.

Dù sao đi nữa mặc lòng, sự hướng tới thuyết luân hồi nghiệp báo đã là một sai lầm lớn trong nhận thức triết học của Upanishad nói riêng và là bước đi thụt lùi của triết học Ấn Độ cổ đại nói chung. Nguyên nhân của sự hướng tới đầy sai lầm ấy không phải là cái gì khác mà chính là ý đồ mang màu sắc thiên kiến chính trị của giới Bàlamôn khi giới này đã ở địa vị thống trị. Sự tiến hóa - thích nghi của muôn loài trong thế giới sinh vật là nhằm tăng cường khả năng sống còn ở từng cá thể và qua đó cũng có tác dụng tăng cường khả năng duy trì tồn tại của toàn thể loài, dẫn đến hiện tượng cải biến cấu trúc và vận động sinh học giống loài. 
Xét ở tầm mức cụ thể hơn, sự biến cải sinh học nhằm đáp ứng yêu cầu trong tiến hóa - thích nghi, vì bị qui định bởi các yếu tố khách quan lẫn chủ quan có trước, sẵn có đóng vai trò tiền đề, cho nên mang tính đa dạng, đa chiều, nhưng ở giới động vật có một biểu hiện chung nhất là kiện toàn hệ thần kinh trung ương (bộ não) để thỏa mãn quá trình hoàn chỉnh cấu trúc và vận động sinh học theo cách đặc thù của mỗi giống loài. Một trong những cách kiện toàn hoạt động mang tính đặc thù của bộ não là làm xuất hiện khả năng tư duy trừu tượng đến độ sâu sắc ở loài người nhằm mục đích tìm hiểu, học hỏi thiên nhiên, thực hành sáng tạo, qua đó mà chủ động thích nghi, duy trì sống còn. Quá trình dài lâu trên bước đường nhận biết và sáng tạo của loài người, nói chung, đã làm cho trong sâu xa tiềm thức của mỗi con người nảy sinh "hối thúc" tạo ra thứ tình cảm tạm gọi là "ham hiểu biết" (thích tò mò tọc mạch!) và cả cái tâm lý đề cao, nể phục sự hiểu biết(?). Có lẽ cũng vì thế mà xuyên suốt lịch sử xã hội loài người, thời đại nào cũng vậy, xã hội nào cũng vậy, những người được cho là "nắm bắt, sở hữu" những điều cao siêu, huyền bí về tự nhiên (như: trưởng lão, già làng, thầy cúng, đạo sĩ, giáo sư, bác học...) đều được quần chúng kính nể, tin tưởng. Đó cũng chính là nguyên nhân làm hình thành giới Bàlamôn có đẳng cấp cao trong xã hội Ấn Độ cổ đại. Sự trọng vọng có tính lịch sử của quần chúng đối với những người thông thuộc các thánh kinh Vêđa, đóng vai trò chủ trì các cuộc tế lễ, cúng bái (gọi chung lại là các đạo sĩ Bàlamôn) dần dần nâng họ lên đẳng cấp cao nhất, trở thành bộ phận có uy quyền tột đỉnh trong tầng lớp thống trị xã hội và vì thế mà cũng rất giàu có. Sự giàu có (tất nhiên là) bất chính của tầng lớp thống trị, trong đó có giới Bàlamôn (ngày nay cũng vậy thôi, một "ông quan" cộng sản, thậm chí chỉ cần con cháu ông ta thôi, "đùng một cái" giàu vút lên ngút trời mà đòi nói là chính đáng, thì hãy..."chặt đầu tôi đi đã"!), theo thời gian đã làm bộc lộ ra khối "bất bình" về quyền lợi ngày một gay gắt, căng thẳng, chủ yếu là từ đại chúng bình dân, gây nguy cơ đến chính sự tồn tại "ăn không ngồi rồi" lại được hưởng đặc quyền đặc lợi của giới Bàlamôn. Trước tình hình đó, dựa vào uy quyền, trong đó có vai trò lãnh đạo (thực chất là thao túng) tinh thần xã hội của mình nhằm bảo vệ quyền lợi "trời cho mình", giới thế lực Bàlamôn như một tất yếu, đã hành động theo cách nhẹ nhàng nhất, khó thấy nhất nhưng hiệu quả nhất và do đó mà cũng "độc địa" nhất (có thể tạm gọi là "cách thức tôn giáo" vì sau này, tôn giáo nào cũng không những "khoái dùng" mà còn "phải dùng"!), đó là, ru ngủ niềm tin, phủ dụ theo tín ngưỡng, đe dọa bằng giáo luật. Có thể tin được rằng, một cách chính thức, Đạo Bàlamôn ra đời cùng với sự ra đời thuyết luân hồi nghiệp báo. Và thuyết luân hồi nghiệp báo, thông qua sự biện giải của Upanishad, được khẳng định là một thiết luật của cõi sinh linh.
Nói thô mộc cho dễ hiểu, quan niệm nghiệp báo mà giới tăng lữ Bàlamôn nêu ra chính là một phủ dụ "nấp bóng triết học" nhằm "đổ thừa" rằng, những kẻ có địa vị thấp kém, thân phận bần hàn khốn khổ trong "kiếp này" là tại "kiếp trước" của họ ăn ở không ra gì (về đạo đức, mắc nhiều tội lỗi) gây ra, và ngược lại, những người được sống sung sướng, hạnh phúc trong "kiếp này" (người Bàlamôn, những hiệp sĩ quí tộc chẳng hạn!) là nhờ được "hưởng phước" từ sự ăn ở tốt lành của "kiếp trước", rồi từ đó mà cũng "khuyên răn" rằng, đừng than van, oán hận nữa, hãy bình tâm sống tốt lành đi để "kiếp sau" được hưởng phước đức(!). Hay như Chândogya Upanishad chỉ rõ: "Người ta là một vật của ý chí. Tùy theo y muốn thế nào ở thế gian này, y sẽ trở nên như thế sau khi y đi", "Những người có hành vi tốt đẹp sẽ đầu thai vào kiếp tốt đẹp, hoặc thành Bàlamôn, hoặc thành quí tộc, hoặc thành thương nhân. Những kẻ có hành vi xấu xa sẽ phải đầu thai vào những kiếp xấu xa như kiếp chó, lợn hay nô lệ"...
Nhưng quan niệm thế nào là tốt đẹp, thế nào là xấu xa mới là vấn đề! 
Trong bộ thánh kinh Upanishad có một tác phẩm gọi là Bhagavadgita, dịch theo nghĩa đen là "Bài ca vua" nhưng người ta cũng quen gọi thoát hơn là "Chí Tôn Ca" (hoặc gọn lỏn: "Gita"). Đó là một tập thơ gồm 700 câu thơ, chia làm 19 chương. Thực ra Chí Tôn Ca chỉ là một phần rất nhỏ thuộc thiên anh hùng ca Mâhâbhârata dài tới 100000 câu (!?), nghe nói do đạo sĩ tên là Vyâsa sáng tác vào khoảng thế kỷ V TCN. Các triết gia sau này đánh giá Chí Tôn Ca là thành quả sáng tạo tinh thần thiêng liêng nhất của người Hinđu. Rất nhiều học giả, kể cả Ấn Độ và Phương Tây, nhận định rằng Chí Tôn Ca là tác phẩm đúc kết triết học của Upanishad và cũng hết lời ca ngợi nó. Lokamanya Tilak gọi nó là "viên ngọc lộng lẫy và vô giá đem lại sự an bình cho những linh hồn đau khổ và khiến chúng ta trở thành những chủ nhân của sự thông thái thần thánh". Mahamana Malaviyaji thì nhìn thấy trong đó sự kết hợp tuyệt vời giữa "tri thức cao nhất, tình yêu thuần khiết nhất và hành động rựu rỡ nhất". Trong khi đó, Mahatma Gandhi gọi nó là "người mẹ vạn năng luôn mở rộng cửa cho những ai cần giúp đỡ", và hơn thế nữa, "một tín đồ Gita thực sự sẽ không biết thất vọng là gì. Anh ta luôn tận hưởng niềm vui bất diệt và sự thanh thản". Còn Heinrich Zimmer thì cho nó "là bông hoa đẹp nhất trong thời kỳ sử thi về tinh thần thượng võ Hinđu".
Về nội dung, Chí Tôn Ca là sự tường thuật lại cuộc đối thoại (được hư cấu) giữa hai nhân vật, một là Krishna - trong vai trò người đánh xe ngựa nhưng thực ra là đại diện cho Thượng Đế, là hiện thân của Đấng Sáng Tạo, Đấng Bảo Tồn đồng thời cũng là Đấng Hủy Diệt thế giới -, hai là Arjuna - đệ nhất hiệp sĩ anh hùng của đương thời, nhà vua bị truất phế trước trận chiến đoạt lại ngai vàng. Cuộc đối thoại đầy chất bi tráng sử thi đó diễn ra tại Kurukshetra (gần thủ đô New Delhi của Ấn Độ ngày nay), nơi sẽ thành bãi chiến trường chém giết kinh hoàng và sẽ được chứng kiến cuộc thư hùng khốc liệt giữa hai dòng họ cùng huyết thống với một bên là năm anh em nhà Pânđava do Arjuna lãnh đạo, được cho là thuộc chính nghĩa, còn một bên là một trăm anh em nhà Kaurava, bị cho là thuộc phi nghĩa, và tổng số quân lực hai bên lên tới hàng triệu người(!). Khi các chiến binh của hai đoàn quân đã được dàn hàng thành hai lực lượng đối nghịch nhau chỉ còn chờ tiếng kèn khai mào vang lên là xung trận thì:
"Arjuna nói: - Hỡi Đấng Bất Di Bất Dịch, xin hãy đặt xe ngựa của tôi vào giữa hai đạo quân, để trong khoảng khắc đang đe dọa này của cuộc chiến, tôi có thể trông thấy được những ai đang hăm hở đánh nhau mà tôi phải chiến đấu.
Nghe xong, Krishna đánh chiếc xe chiến mã có một không hai vào giữa hai đạo quân đã dàn thế chiến đấu, đối mặt với Bhishma, Drona và tất cả những người đang thống trị trên Trái Đất. Rồi ông nói: - Hãy chú ý, hỡi con trai Pratha, quân Kaurava đã tụ tập ở đây!
Sau đó, Arjuna nhìn chằm chằm vào hai dân tộc, và thấy những người cha, ông nội, thầy giáo, ông cậu, anh em, con trai, cháu trai, bạn gái, cha vợ, và bạn bè..."
(Và trong lòng Arjuna bỗng trào dâng đến choáng ngợp nỗi sợ hãi khi nghĩ đến cái ác liệt khủng khiếp của cuộc chém giết huynh đệ tương tàn sắp trói buộc tất cả bọn họ. Một mặt, ông không muốn thúc đẩy cuộc chiến sẽ tiêu diệt những con người cùng dòng tộc của ông như ông nói, mặt khác ông lại bị ràng buộc bởi bộ luật hiệp sĩ là phải báo thù những xúc phạm mà ông và anh em ông đã phải chịu từ phía họ hàng, đồng thời giúp đỡ đồng hữu trong nỗ lực khôi phục lãnh địa. Đầu óc quay cuồng, không còn biết đúng sai, không còn biết phải làm gì, Arjuna tuyệt vọng quay qua Krishna, người đánh xe ngựa và đồng thời cũng là chiến hữu thân thiết của ông. Krishna cất tiếng và những lời nói thần thánh của Thượng Đế vang lên làm cho Arjuna cảm thấy dễ chịu và tỉnh ngộ dần trước những điều truyền giảng chân lý huyền bí). (Chí Tôn Ca 1.21-47).
Sau đây là một số đoạn trong cái "thông điệp" mà Krishna đã rót vào tim óc Arjuna:
"Bạn cảm thấy thương xót ở nơi không có chỗ cho sự thương xót. Những người thông thái cũng không cảm thấy thương xót cho cái sẽ chết hoặc cho cái đang sống.Chưa bao giờ có thời gian khi tôi và bạn đều không hiện hữu, và cả mọi hoàng thân này nữa. Cũng không có ngày mà kể từ đó chúng ta ngừng hiện hữu". "...cái gì đã sinh tất phải diệt và cái gì đã diệt tất rồi sẽ sinh. Vì vậy bạn chớ nên thương cảm cho cái gì không thể tránh được...", "Nhưng nếu bạn từ chối cuộc chiến đấu chính đáng này, tức là bạn trốn tránh bổn phận và danh dự, như thế bạn sẽ phải gánh chịu lấy tội lỗi. Ô danh của bạn sẽ bị lưu truyền mãi mãi. Đối với người trọng danh dự, ô danh còn đau đớn hơn là chết..." (Chí Tôn Ca 2.11-12)

"Giống như thời thơ ấu, thời tuổi trẻ và tuổi già trong thân xác hiện tại này, Ngài (Atman-linh hồn, Đấng làm chủ thân xác), sau khi từ bỏ, sẽ lại nhập vào thân xác khác như thế. Bậc trí giả không ngỡ ngàng về điều đó" (Chí Tôn Ca 2.13)

"Vũ khí không chém chặt được Ngài, lửa không đốt cháy được Ngài, nước không làm ướt được Ngài, hoặc gió không thể làm Ngài khô kiệt. Ngài không thể bị chém chặt, Ngài không thể bị đốt cháy, Ngài không thể bị ướt nước, Ngài không thể bị khô kiệt. Ngài bất biến (nitya), có mặt khắp nơi (sarvagata), ổn định (sthanu), không lay chuyển được (acala), và vĩnh cửu (sanatana)" (Chí Tôn Ca 2.23-24).

"Các thân xác sẽ có ngày kết thúc, nhưng linh hồn nhập thể (saririn) thì hằng cửu, bất diệt và bất khả tri. Vậy, hãy chiến đấu đi, hỡi Bharata (Arjuna)!" (Chí Tôn Ca 2.16-18).

"Bây giờ hãy để tai nghe lời phát biểu quan trọng nhất của Ta, Ta sẽ tuyên bố điều đó cho bạn vì lợi ích của bạn. Không phải các nhóm thần thánh, cũng không phải các đại tiên tri biết được nguồn gốc của Ta. Nói chung Ta cao tuổi hơn họ. Ai biết Ta là không được sinh ra, cũng không có bắt đầu, là Đại Chúa Tể của thế giới, ở giữa những kẻ phải chết, thì sẽ không bị ảo tưởng và sẽ được giải thoát khỏi mọi tội lỗi riêng..." (Chí Tôn Ca 10.1-8).

"Ta là thời gian (kala), Đấng Hủy Diệt vĩ đại và đầy quyền lực, xuất hiện ở đây để càn quét mọi người. Và ngay cả nếu không có bạn thì cũng không ai trong các chiến binh ở đây, trong hàng ngũ chỉnh tề sẽ còn sống. Do đó, bạn hãy trỗi dậy, giành vinh quang, đánh bại kè thù, hưởng quyền lực. Họ đã được gửi đi từ lâu rồi bởi Ta và chỉ bởi một mình Ta. Bạn không là gì cả ngoại trừ là công cụ của Ta..." (Chí Tôn Ca 11.32-33). 

                                    ***

Theo suy tưởng riêng tư của chúng ta, vì Chí Tôn Ca là tác phẩm văn chương thấm đẫm tinh thần giáo huấn triết lý, cho nên mục đích chính yếu của nó không phải là "ghi chép lịch sử" đơn thuần, mà là diễn tả lại (thực ra là xây dựng nên) một hiện tượng điển hình của thực trạng xã hội đương thời để dựa vào đó mà biện giải những vấn đề thuộc về tinh thần nảy sinh trong hiện thực trên cơ sở triết học giáo lý Upanishad-Bàlamôn. Qua đó mà dù sao đi nữa, Chí Tôn Ca cũng phản ánh được phần nào cái thời đại đã tạo sinh ra nó. Đó là thời đại mà trong xã hội Ấn Độ "ngổn ngang" những mâu thuẫn gay gắt về quyền lợi, cho nên cũng thường xuyên xảy ra những cuộc tranh giành lớn nhỏ bằng bạo lực, và nổi bật lên là những cuộc chiến tranh huynh đệ tương tàn đẫm máu giữa các phe phái trong "hoàng thân quốc thích", giữa các thế lực thuộc tầng lớp thống trị, giết chết vô vàn sinh linh, gây biết bao nhiêu đau thương tang tóc và nỗi thống khổ cho đại chúng cần lao. 
Điều lạ lùng nhất của Chí Tôn Ca là giáo huấn triết lý trong đó không những không lên án hiện tượng chiến tranh phe phái tương tàn mà còn bao biện cho nó, thậm chí là "ngấm ngầm" cổ xúy giết chóc đối với cả người thân kẻ thuộc. Sẽ không thể nào hiểu được điều trái khoáy đó nếu không thấy được rằng, tác giả của Chí Tôn Ca là người theo lập trường của giới tăng lữ - đạo sĩ Bàlamôn. Rõ ràng, nhằm củng cố và duy trì địa vị thống trị đầy đặc quyền đặc lợi của mình thì giới Bàlamôn một đàng phải tích cực tăng cường sức thuyết phục của giáo lý để phủ dụ chúng sinh như đã nói, đàng khác là ra sức bênh vực, "bợ đỡ" giới hiệp sĩ quí tộc, vua chúa, cái lực lượng nhờ "thanh gươm" của nó cũng như cuộc chiến tranh phe phái của nó mà giới Bàlamôn mới tồn tại được trong quyền uy, giàu có, và muốn thế thì một trong những việc cần làm là biện minh cho được tính chính đáng đối với những hoạt động bạo lực của giới hiệp sĩ quí tộc, nghĩa là nếu không "xúi bẩy" thì cũng bênh vực cho chiến tranh. (chúng ta đang nói những điều chưa ai từng nói nên cũng thật khó tin giới Bàlamôn lại "xấu tính" đến như thế, và đương nhiên sẽ có nhiều người không tin. Nhưng không sao cả! Chỉ mong những người đó tìm hiểu lịch sử hoạt động của Đạo Thiên Chúa thời Châu Âu trung cổ. Lúc đó họ có thể phần nào thông cảm cho cái đầu hoang tưởng của chúng ta!).
Có thể nói gọn lại, giới Bàlamôn sống phè phỡn được là nhờ giáo lý của họ và thanh gươm của giới hiệp sĩ quí tộc, cho nên lập trường của họ là bảo vệ giáo lý và thanh gươm ấy đến cùng! Chắc rằng đây cũng là nguyên nhân thúc đẩy giới Bàlamôn sau khi xây dựng luận thuyết về "nghiệp" (karma-hành động) vào buổi đầu, về sau này (vào giai đoạn cải cách đạo Bàlamôn) đã không ngừng bổ sung cho nó theo hướng biện minh cho hành động bạo lực, giết chóc của giới hiệp sĩ quí tộc, và có lẽ vào khoảng thời gian cuối của quá trình bổ sung đó họ đã phải vay mượn ít nhiều ý niệm của Đạo Phật, cũng như ý niệm "vô vi vô bất vi" của Đạo Gia bên Trung Quốc nhưng đã làm "méo" nghĩa đi cho phù hợp(?). (Theo các nhà nghiên cứu, đúng là có cuộc phát triển quan niệm của Upanishad trong khoảng thế kỷ V TCN- thế kỷ III TCN. Phải chăng sự bổ sung nói trên xảy ra vào giai đoạn này?).

Nói chung, triết lý về hành động và hành động không tạo nghiệp của Upanishad đã được khai triển và nhấn mạnh trong Chí Tôn Ca theo hướng "có lợi" cho tầng lớp thống trị, được nhận biết dưới cái tên "Karma Yôga" mà không ít người "khen" nó là học thuyết cứu rỗi trong thế giới với tên gọi "Yôga của hành động vị tha" (Yoga of Selfless Action). Vị tha kiểu gì mà như thế này:
"Đừng suy nghĩ đến bất cứ điều gì ngoài hành động, không bao giờ nghĩ đến thành quả, và đừng để cho mình bị dụ dỗ bởi sự không hoạt động. Đối với người đạt được sự tách rời hướng nội thì không có thiện cũng không có ác tồn tại lâu hơn nữa trên thế gian này" (Chí Tôn Ca 2.47).
"Hãy xem khoái lạc và đau khổ, giàu có và nghèo khổ, chiến thắng và thất bại, có giá trị tương đương. Vậy thì hãy chuẩn bị chiến đấu. Khi hành động theo cách này bạn sẽ không bị vấy bẩn bởi tội lỗi" (Chí Tôn Ca 2.38).
"Con người không được từ bỏ hoạt động mà vì nó con người được sinh ra, ngay cho dù điều này đi kèm với sự ác, vì mọi nhiệm vụ đi kèm với sự ác như lửa được bao phủ bởi khói" (Chí Tôn Ca 18.48).
Chúng ta nhắc lại, đại loại quan niệm về "nghiệp" (hay "nghiệp báo") trong Upanishad là, kiếp trước hành động xấu xa hay tốt lành thì kiếp sau sẽ phải chịu xấu xa hay được hưởng tốt lành (nhân nào quả nấy). Điều đó có nghĩa là trong vòng luân hồi, cuộc sống của kiếp sau hạnh phúc hay khổ đau, cao sang hay thấp hèn, hoàn toàn phụ thuộc vào hành động (karma-nghiệp) tốt hay xấu của kiếp trước. Vậy thì kiếp này hãy cố mà tránh hành động xấu, đừng gây ra nghiệp xấu để phải chịu "quả báo" kiếp sau, hay nói gọn: đừng tạo nghiệp! Nhưng hành động nào gọi là xấu, hành động nào gọi là tốt để biết mà tránh, không tạo nghiệp, hơn nữa, hành động bạo lực, giết chóc của hiệp sĩ quí tộc có ác không, có xấu không? Đây chính là câu hỏi "chết người", cực kỳ nan giải, đặt các nhà lý luận trong giới Bàlamôn vào tình thế "lưỡng đầu thọ địch", đầy mâu thuẫn. Hay là không hành động gì cả? Nhưng con người ta có thể sống mà bất động không? Không thể! Vậy thì phải làm sao? Có lẽ rằng đến đây, để giải quyết vấn đề, các nhà lý luận Bàlamôn đã phải vay mượn cái ý niệm "vô chấp bất cầu" của Đạo Phật mà nhiều khả năng là có nguồn gốc xuất phát từ ý niệm sâu sắc đến mức tuyệt vời "vô vi vô bất vi" (không làm không phải là không làm gì mà là làm tất cả) của Lão Tử. Nhờ vậy, họ đã đến được kết luận có hai loại hành động là hành động tạo nghiệp và hành động không tạo nghiệp. Trong đó, hành động tạo nghiệp là hành động có tính khiên cưỡng, do dục vọng thúc đẩy, còn hành động không tạo nghiệp là hành động có tính tự nhiên, không bị hối thúc bởi dục vọng và do đó cũng hoàn toàn vô cầu, bất vụ lợi. Rõ ràng, theo luận điểm này thì một hành động giết người vô tư, không vì cái gì cả, không bị thúc hối bởi dục vọng nào cả cũng vẫn là hành động không tạo nghiệp, nghĩa là kẻ giết người cũng hoàn toàn vô tội(!). Thật là quá xá tài tình, thưa các "ngài" tăng lữ - đạo sĩ Bàlamôn!!! Xin nói thêm, thời Vêđa (có lẽ là vào khoảng hậu kỳ của nó), với quan niệm luân hồi và sự thưởng phạt được quyết định bởi "ngoại tình" (thần linh) nên việc tế lễ, cúng bái cầu xin được tôn trọng, đề cao. Vào nửa cuối thời Upanishad, xuất hiện quan niệm cho rằng việc chăm lo tụng niệm và tế tự cũng như cố gắng thi hành công đức vẫn "chưa hẳn" là hành động hoàn toàn vô cầu, nghĩa là dù ít thì vẫn tạo nghiệp, vì rõ ràng là chỉ cốt nhằm được hưởng ân phước ở kiếp sau và thậm chí là ở ngay kiếp này (cầu được ước thấy, quả báo nhãn tiền!). 
Quan niệm này được trình bày rất rõ trong Chí Tôn Ca:
"Bất kỳ điều gì tín đồ tìm kiếm để thờ phụng, bất kỳ hình thức thần thánh (rupa) nào với đức tin nhiệt thành thì Ta (Krishna) sẽ làm cho đức tin của họ vững vàng. Kẻ được kết hợp với hình thức ấy bằng đức tin ấy, sẽ gìn giữ nó trong tâm trí một cách tôn kính và như thế sẽ giành được những điều họ mong muốn, mà thực ra là được thỏa mãn bởi một mình Ta. Tuy nhiên, hữu hạn là thành quả của những người có ít hiểu biết. Người thờ cúng các thần sẽ tới với các thần, nhưng tín đồ của Ta sẽ đến với Ta", "Bất kỳ ngươi làm gì, bất kỳ ngươi ăn gì, bất kỳ ngươi dâng gì trong cúng lễ, bất kỳ ngươi bố thí gì, bất kỳ ngươi thực hành khổ hạnh nào, ngươi hãy thực hiện công việc như một cuộc lễ dâng cho Ta", (nghĩa là từ bỏ, trao hết cùng với các thành quả của nó, mọi thứ được thực hiện phải được xem là cuộc lễ tự nguyện dâng cho Thượng Đế!), "Lễ nghi hiến tế cốt ở chỗ tri thức thì vượt trội hơn hiến tế được tạo ra bằng của lễ vật chất, vì mọi hoạt động đều đạt tới tuyệt đích trong tri thức (Cái Biết)", "Ngay cho dù ngươi là kẻ tội lỗi nhất trong mọi tội đồ, nhưng chỉ bằng cái bè tri thức, ngươi có thể vượt qua mọi nguy hại. Giống như lửa bừng cháy rực rỡ, biến nhiên liệu thành tro tàn, ngọn lửa tri thức biến mọi loại nghiệp chướng thành tro tàn. Vì nơi đây (trong thế giới này) không tồn tại điều gì tinh khiết bằng tri thức. Khi trong thời gian thuận tiện đạt tới sự hoàn thiện trong Yoga, con người tự khám phá ra tri thức đó, nơi Ngã của họ".
Câu chuyện hoang đường về Đạo Bàlamôn đến đây là... chưa kết thúc! Để cho có hậu, chúng ta sẽ trích ra đây một đoạn nói về đạo này từ "Lịch sử tư tưởng Việt Nam" của Huỳnh Công Bá (NXB Thuận Hóa-2006), gọi là tham khảo thêm cho vui thế thôi chứ dù nói chung là đúng nhiều về mặt "tiến trình logic" chăng nữa thì ít điều về nguyên nhân chuyển biến tư tưởng có vẻ còn...khuất tất:
"Đạo Bàlamôn là một tôn giáo đa thần, trong đó cao nhất là Brahma. Brahma được quan niệm là thần sáng tạo thế giới, là sức mạnh thần kỳ, chí công vô tư và là chỗ dựa quyền lực của giới tu sĩ Bàlamôn. Bất mãn vì quyền lực tinh thần thấp kém, giới quí tộc võ sĩ bèn đề cao thần Visnu, lập ra phái Visnu (Vaishnava). Bất bình vì thiệt hại do lễ hiến tế, giới bình dân (nông dân, thợ thủ công, thương nhân) lại đề cao thần Siva, lập ra phái Siva (Shaivite). Đó là hai phái của Đạo Bàlamôn mới ra đời đặt trên cơ sở thần thoại riêng, khẳng định quyền lực sức mạnh thấn đại diện của mình đứng trên Brahma. Ngoài ra còn có phái Shakta thờ thần Mẫu có nguồn gốc tiền Arian. Để thống nhất các phái đó, giới tăng lữ Bàlamôn đặt ra quan niệm thần sáng tạo thế giới Brahma, thần bảo vệ Visnu và thần phá hoại Siva, tuy là ba nhưng vốn là một, tức là "Tam vị nhất thể" (Trimurti). Cùng với sự phát triển nhà nước cổ đại, nhất là sự phát triển của chế độ đẳng cấp, Đạo Bàlamôn được truyền bá rộng rãi ở Ấn Độ. Nhưng đến giữa thiên niên kỷ I TCN, ở Ấn Độ xuất hiện một tôn giáo mới từ bi hơn và không thừa nhận chế độ đẳng cấp, đó là Phật Giáo. Vì vậy, trong thời gian Đạo Phật phát triển ở Ấn Độ, Đạo Bàlamôn bị suy thoái. Đến khoảng thế kỷ VII, Đạo Phật bị suy sụp ở Ấn Độ thì Đạo Bàlamôn cũng dần dần phục hưng, đã bổ sung thêm nhiều yếu tố mới về đối tượng sùng bái, về kinh điển, về nghi thức tế lễ và chuyển sang một tên mới là "Hinđu Giáo" (Hindouism), còn gọi là Ấn Độ Giáo. Đạo Hinđu đã hỗn hợp mọi thứ tín ngưỡng thành một hệ thống thần thoại mới: hệ thống Trimurti cùng với các hóa thân của họ. Hệ thống này công nhận ba vị thần Brahma, Visnu và Siva chỉ là ba mặt của Đấng Tối Cao duy nhất, biểu lộ sự vận động của Vũ Trụ, tượng trưng cho sự hài hòa của đời sống xã hội và tinh thần trong vương quốc. Bên cạnh còn có quan niệm Visnu hóa thân (Avatar) cho rắng bất cứ vị thần hay anh hùng nào của bất cứ địa phương nào cũng chỉ là hình thức hóa thân của thấn Visnu mà thôi. Quan niệm Avatar đề cao nhất thần luận, coi Visnu là một vị thần tối cao của quốc giáo Hinđu để củng cố cho quyền lực của nhà vua, đồng thời vẫn giữ được địa vị thống trị của đẳng cấp tăng lữ Bàlamôn. Kết quả là những vị thần được ca ngợi trong Rig Vêđa hoặc mất đi hoặc bị đưa xuống hàng thứ yếu, mà nổi bật lên hàng đầu là bộ ba Brahma-Visnu-Siva kết hợp với những nữ thần, những nhân vật anh hùng, những vật tổ và tinh linh nguyên thủy của địa phương..."
* * *
Nói chung, thời Upanishad (được cho là trong khoảng từ thế kỷ VIII TCN đến thế kỷ V TCN) là thời thần quyền thống trị xã hội Ấn Độ cổ đại, mà xét ở góc độ cụ thể hơn là quần chúng (gồm tầng lớp bình dân và nô lệ) chịu sự cai trị trực tiếp của quốc vương, lãnh chúa...(gọi chung là giới hiệp sĩ quí tộc nhằm nêu bật tính phổ biến của hiện tượng tranh đoạt quyền lợi trong giai đoạn xã hội chiếm hữu nô lệ-phong kiến phân quyền) dưới sự lãnh đạo tinh thần ( thần phục) bởi giới tăng lữ-đạo sĩ Bàlamôn bằng giáo lý nhận Upanishad làm tư tưởng nền tảng.

Vận động tự thân (tương đối thôi!) của một thực thể nhằm cân bằng tương tác giữa nó với môi trường "chứa" nó, hay nói cách khác là nhằm duy trì, có được trạng thái cân bằng động nội tại phù hợp cho nó và do đó, một cách hình thức, cũng làm như nhằm "cố gắng" tự bảo toàn, duy trì sự tồn tại của bản thân nó, là một mặc định tự nhiên trong Vũ Trụ, mang bản chất tất yếu và có nguồn gốc sâu xa từ nguyên lý tiền đề duy nhất, có tính tiên đề- nguyên lý giềng mối của mọi nguyên lý, mọi qui luật mà chúng ta đã từng đề cập tới và cũng đã tạm gọi là "Nguyên Lý Tự Nhiên" dù vẫn chưa tìm được lời phát biểu "đẹp nhất" cho nó. Mặc định này, trong thế giới sinh vật (vì bị "đóng khung" trong một thiên nhiên mang tính hữu hạn, khép kín, có chừng mực nhất định nên cũng) thể hiện ra dưới dạng tương đối "gay gắt", gọi là "đấu tranh sinh tồn". Như vậy, có thể nói, cố gắng đảm bảo và duy trì sự sống còn cho bản thân là mục đích tự nhiên, nguyên thủy, tiên quyết và tối thượng của mọi cá thể sinh vật (ở trạng thái hóa-lý, tâm sinh lý thông thường). Cái "động lực" hướng tới sống còn có gốc xuất phát từ tự nhiên ấy cùng với nhiều yếu tố cũng có tính tự nhiên, theo qui luật hoặc (tương đối) không theo qui luật (sự ngẫu nhiên) khác nữa, như sự chuyển hóa về thời tiết, khí hậu vừa lặp lại vừa không lặp lại của thiên nhiên, những đột biến có lợi hoặc bất lợi về điều kiện sống của môi trường sinh thái (do khách quan và cả chủ quan gây ra!) làm bộc phát hiện tượng tăng-giảm lạm phát số lượng cá thể ở mỗi giống loài..., hợp thành một tổng thể nguyên nhân thúc đẩy quá trình tiến hóa-thích nghi sinh vật, qua đó, một đàng mở rộng thế giới sinh vật - làm cho sinh vật lan tỏa khắp thiên nhiên đến tận cùng khả năng có thể của nó, đồng thời cũng làm cho thế giới sinh vật tiến triển theo hướng từ "dưỡng sinh" chỉ bằng cách hấp thụ trực tiếp các chất vô sinh (vô cơ, hữu cơ) thuở ban đầu đến thêm cả "dưỡng sinh" bằng cách "ăn thịt lẫn nhau" (và nổi bật đến nỗi trong tầm quan sát của con người, tưởng chừng như chỉ bằng cách này!) giữa các giống loài với xu thế chung là những giống loài năng động hơn, "thiện nghệ" hơn, "khôn" hơn "xơi tái" những giống loài thụ động hơn, khả năng tự vệ yếu hơn, "ngu" hơn (nghĩa là làm xuất hiện cách đảm bảo sống còn bằng bạo lực giết chóc- hình thức "phôi thai" có tính chừng mực, và cũng chính là yếu tố tự nhiên hợp thành nguyên nhân làm xảy ra chiến tranh - hình thức mưu sinh bằng giết chóc có mức độ quá đáng, tàn khốc ở loài người!!!). Đó cũng là quá trình "giao phối" giữa "ông bố" môi trường thiên nhiên và "bà mẹ" thế giới sinh vật để rồi "bà mẹ" thế giới sinh vật trường kỳ "mang nặng đẻ đau" hoài thai ra "đứa con" ngỗ nghịch nhất, khôn nhất mà cũng điên rồ nhất của mình, đó là loài người!
 Vì loài người "khôn quá" nên mới biết chế tác công cụ hỗ trợ cho việc kiếm ăn, và từ đó cũng phát hiện thêm chức năng thứ hai ở dạng tiềm ẩn của công cụ là...vũ khí, thứ có thể tăng cường sức mạnh bạo lực cho nó trong đấu tranh sinh tồn lên gấp nhiều lần (mà ngày nay chúng ta biết là hầu như...vô hạn!!!). Lúc đầu loài người "khổ quá", nhưng nhờ đã có vừa "khôn quá" vừa "mạnh quá" và cũng nhờ biết sáng tạo nên nó cũng kiếm được miếng ăn "nhiều quá", dẫn đến chơi bời "lắm quá" mà không ngờ rằng vì thế mà mở rộng, tăng cường nhu cầu tiêu dùng lương thực và cả phi lương thực, hơn nữa, làm tăng trưởng lạm phát số lượng cá thể lên "đông quá" để rồi dần dần lại hầu như trở về thời kỳ "khổ quá" giống như xưa, và thậm chí là lâm vào tình trạng khổ hơn nữa tạm gọi là "đói quá". Đói thì "đầu gối phải bò", đó là "mệnh lệnh" phải sống còn của tự nhiên! Để giải quyết nạn "khổ quá", "đói quá" có khi do thiên tai gây ra, nhưng chủ yếu là do cái "khôn quá" mà...vẫn chưa đủ khôn của chính mình gây ra cho mình "một cách có tính trường kỳ", loài người, vì là loài vật mà cũng không còn là loài vật nữa (!), nên đã thực hiện những hành vi cũng giống những hành vi của loài vật, nhưng "hầu như" chỉ còn ở mức độ hình thức, mà xét về bản chất thì đã có những nét khác biệt và "về sau" ngày càng khác biệt một cách cơ bản theo tiến trình "người hóa", "xã hội hóa", "văn minh hóa" của bản thân loài người. 
Dễ dàng nhận biết được sự khác nhau về hành vi giữa con vật và con người dựa trên sự đánh giá trong mối quan hệ tương phản thụ động-chủ động, bản năng-trí năng, thiên tạo-nhân tạo (sáng tạo)...Nói "đùng một phát" cho thật gọn thì thế này: nếu ở loài vật, hoạt động mưu cầu sống còn là thụ động, bản năng, chừng mực, lành tính, thể hiện ra gồm các cách thức chủ yếu như tăng cường tìm kiếm và mở rộng chủng loại thức ăn, đồng thời mở rộng địa bàn sinh sống bằng thiên di, lan tỏa dân cư..., thì ở loài người, thuở ban đầu (người-vượn cổ) cũng tương tự như vậy, nhưng dần dần, do bị chi phối ngày một mạnh mẽ bởi sự chuyển hóa về lối sống trong những tình trạng nói chung là ngày càng căng thẳng hơn, theo "yêu cầu sáng tạo" của bộ não biết tư duy trừu tượng trên nền tảng "đòi hỏi phải giải quyết" của tự nhiên, đồng thời bởi cả sự chuyển biến (có tính tiến hóa-thích nghi, tính "tiềm thức hóa"!!!) về cách cảm cách nghĩ của bộ não theo chiều hướng sâu sắc hơn (nên cũng cực đoan hơn, "duy ý chí" hơn!) do chính ngay tiến trình chuyển hóa lối sống "xoay vần, đi lên" vượt qua biết bao nhiêu thách thức tồn-vong to lớn, trải qua biết bao nhiêu thời đoạn khổ ải gian lao, và ngày càng phức tạp hơn của bản thân loài người (nhất là trong suốt thời gian vận động tiến triển gồm các giai đoạn thịnh và suy kế tiếp xen kẽ nhau của xã hội loài người) không ngừng tác động trở lại, nên "sau đó" nổi bật lên về mức độ cũng như trình độ, trở thành hoạt động mưu cầu sống còn với đặc trưng là chủ động, ý chí, vô độ, dữ tính, dù về hình thức cũng gồm những cách thức cơ bản ấy. 
Đến đây chúng ta đã dễ dàng thấy rằng, chính sự vô minh (sự chưa nhận thức được hoặc nhận thức còn hoàn toàn mù mờ, kể cả sai lầm về cõi nhân sinh) của con người ở thời kỳ đầu thuộc quá trình phải nỗ lực hoạt động và cố gắng tìm tòi sáng tạo nhằm trước hết là đảm bảo sống còn rồi thêm nữa là tăng cường trình độ đảm bảo sống còn cũng như nâng cao chất lượng cuộc sống, trong tình trạng "khuynh đảo", "chực chờ" thời cơ gây ra đói khổ của nạn nhân mãn, của tai họa thiên nhiên cũng như thảm cảnh đói khổ đã trở thành nỗi ám ảnh có tính thường trực, truyền đời, đã là yếu tố (tạm gọi là) "chủ quan hồn nhiên" (vì chủ quan không hẳn chủ quan, chủ quan mà cũng khách quan!!!), đóng vai trò cơ bản trong nguyên nhân hợp thành hệ thống tình cảm sâu sắc ở loài người, trong việc "trui rèn" làm xuất hiện sự tham-sân-si trong tâm trí ở mỗi con người như một bản tính có mầm mống từ vô thức và có cội rễ bám rất chặt vào sâu thẳm tiềm thức, để rồi chính sự tham-sân-si ấy chứ không phải cái gì khác đã "lũng đoạn" lý trí con người, không những cản trở mạnh mẽ con người vượt thoát khỏi vô minh trong lối sống, mà còn làm cho con người sa vào "vũng lầy" mê quáng trong suy nghĩ và hành động thực tiễn nhằm mưu sinh của nó. Không cần nêu thí dụ chứng minh "xa xôi" gì, ngay cái quan niệm mà ngày nay chúng ta vẫn "đang dùng" một cách phổ biến, cho rằng loài người là tuyệt tác của thiên nhiên, là "sản phẩm" tinh hoa của thế giới sinh vật, đồng thời là chúa tể của muôn loài, cũng đã là một biểu hiện hơi bị "tổ chảng" về sự mê quáng mang nét điên rồ rồi! Mặt khác, có thể nhận định, thời cổ đại đã là thời "khổ luyện" của loài người, không những định hình tham-sân-si mà còn làm cho nó tồn tại chắc chắn giống như một mặc định trong tâm trí con người (ở đây, triết lý của Đạo Gia về xã hội-nhân sinh cho chúng ta cảm nhận không phải Đức Phật Thích Ca mà chính Lão Tử mới là người đầu tiên phát hiện ra tác hại của tham-sân-si đối với tâm trí con người, gây ra khổ đau cho con người, hơn nữa, đã là người đầu tiên trong lịch sử xã hội loài người chỉ ra đích xác con đường tiêu trừ khổ đau ở mỗi con người, và theo thiển ý của chúng ta, Đức Phật chỉ là người kế thừa, khai triển cụ thể hơn đồng thời với sáng tạo theo cảm thức riêng tư theo hướng huyền bí hóa (rõ nhất là đưa ra ý niệm Niết Bàn và phải chăng nhằm cố gắng "ôm đồm" giải quyết luôn cả vấn đề tâm linh-vấn đề mà trên nền tảng khoa học tiên tiến ngày nay, loài người vẫn chưa "dứt điểm" được?) nên có phần sai lạc, mức độ chân chính thấp hơn!).
 Như vậy, có thể suy ra, tiến trình vận động của xã hội loài người làm xuất hiện trong lòng nó sự phân định tương phản về giàu nghèo, về quyền lợi, và tùy thuộc vào trạng thái vật chất cũng như tinh thần xã hội mà mức độ những tương phản ấy "đậm, nhạt" khác nhau, hơn nữa có thể trở thành mâu thuẫn căng thẳng, gay gắt, thâm chí là đối kháng một mất một còn, để từ đó cũng xuất hiện nổi trội những hành vi tranh giành quyền hoặc lợi (gọi chung là quyền lợi, vì có quyền sẽ dẫn đến mục đích tối hậu là có lợi!) bằng bạo lực (mà mức độ cực đoan, quyết liệt nhất là chiến tranh), là một quá trình mang tính...tự nhiên, được định đoạt bởi sự tác động "chủ quan hồn nhiên" của con người, của chính bản thân loài người, và qua đó cũng thấy chiến tranh xảy ra "dày đặc" và liên tục trên khắp thế giới suốt thời cổ-trung-cận đại cũng là một hiện tượng hàm chứa tính tất yếu. (Và đau đớn thay mà cũng lạ lùng thay, hình như không hề ngẫu nhiên, chiến tranh - sự giết chóc nhau hàng loạt một cách chủ động, có ý chí (lý trí mù quáng!) trong nội bộ loài người - cũng đã như một cách thức "góp phần" đáng kể trong việc giải quyết nạn nhân mãn!!!).

Nếu lấy "mớ ní nuận" trên làm cơ sở để "ní nuận" tiếp, và thêm nữa, nếu quan niệm rằng văn minh là khái niệm tương đối hàm chứa tính so sánh giữa một xã hội hay một thời đại nào đó với (những) xã hội khác hay thời đại khác về trình độ nhận thức tự nhiên-xã hội-nhân sinh (đúng hơn, sâu rộng hơn, có văn hóa phong phú hơn, được "chủ quan" đánh giá là tốt đẹp hơn hoặc ngược lại, thế thôi, chứ sự thật khách quan thì...chưa hẳn chắc chắn hoàn toàn đâu đấy nhé!!!), về năng lực thực hành sáng tạo, về cái tạm gọi là "mức độ hiện đại hóa và đa tạp hóa" đối với công cụ, trang thiết bị hỗ trợ, phục vụ đời sống con người và xã hội, thì như lịch sử xã hội loài người đã " vạch trần và tố cáo đanh thép", ít ra thì cũng đến giữa thế kỷ XX, loài người hầu như vẫn chưa hiểu gì hoặc hiểu sai lầm lớn về thân phận mình, vì thế mà cũng chưa thấy được rằng, nó là giống loài "đệ nhất thông minh" đồng thời cũng là "đệ nhất mê quáng" và "đệ nhất tác tệ" trong muôn loài sinh vật, càng tiến lên văn minh thì lại càng trở nên tàn bạo một cách điên rồ (ông bà ta đã cực chí lý khi nói: "Sướng quá hóa rồ"!), không những triệt phá tan nát môi trường thiên nhiên - cái nôi dung dưỡng sự sống còn của nó, một cách vô tội vạ, mà còn "kinh thiên động địa" hơn gấp bội là giết chóc lẫn nhau giữa các cá thể trong nội bộ loài của mình một cách không hề gớm tay, thậm chí thích thú, đến mức độ cứ như nhằm "quyết tâm tự sát" cho bằng được vậy (!). 
Tuy nhiên, hình như hiện nay , xu thế tiến triển đầy đau thương khốn khổ đó đã bắt đầu có những dấu hiệu "dịu bớt" và "chậm dần" lại.  Rõ ràng, đây chỉ là suy nghĩ mang nặng yếu tố cảm tính!!!  
Hy vọng, một mặt, mức độ kinh hoàng, khủng khiếp về tàn phá thiên nhiên, về hủy hoại của cải vật chất và nhất là về giết chóc đồng loại của các cuộc chiến tranh hiện đại trong thế kỷ XX đã, đang và sẽ còn gây ra nỗi ám ảnh sâu sắc và nặng nề lên tâm trí con người, mặt khác, những thành tựu to lớn trong nghiên cứu khoa học các ngành đã nhanh chóng nâng tầm hiểu biết của loài người lên rầt nhiều, giúp cho nó dần dần tỉnh ngộ, nhận thức ngày càng sâu rộng hơn, rõ ràng hơn và cũng đúng đắn hơn về thực tại khách quan, đồng thời qua đó mà cũng thấu tỏ hơn về thân phận của nó để tự thấy được sự điên rồ ghê gớm của bản thân nó và hơn nữa là hiểu rõ cái nguyên nhân làm cho nó phát điên rồ cũng như trả lời cặn kẽ được tại sao lịch sử phát triển lên văn minh của nó lại đẫm máu của chính nó đến thế, và tác động tổng hợp của hai mặt đó chắc rằng sẽ đóng vai trò quyết định đến việc đảo chiều chuyển biến (có tính tiến hóa-thích nghi, tính "tiềm thức hóa") về cách cảm cách nghĩ của bộ não người, làm cho nó trở lại trạng thái chân phác, hiền lành tương tự như "xưa kia", khi chưa bị tham-sân-si "cương lên" lũng đoạn. 

Dù ngày nay cuộc chạy đua vũ trang giữa các nước lớn vẫn đang tiếp diễn, nhưng những yếu tố kìm hãm, ngăn chặn chiến tranh qui mô lớn cũng đã xuất hiện và phát huy tác dụng, chẳng hạn như chủ trương đã mang tầm vóc quốc tế: lấy "đối thoại" thay cho "đối đầu" (tuy còn nặng tính hình thức!). Chúng ta cho rằng, quá trình đảo chiều chuyển biến trí não con người nói trên đã bắt đầu manh nha hình thành và trong hiện thực, có thể lấy thời điểm kết thúc chiến tranh thế giới thứ hai làm thời điểm xuất phát cho quá trình ấy, cũng như lấy thế kỷ XXI làm thời gian "trung chuyển" cho sự ra đời của quá trình "tẩy não". Và dù còn tùy thuộc vào nhiều yếu tố khác nữa như cường độ phá hoại của thiên tai "ngẫu nhiên", tốc độ phát triển khoa học-kỹ thuật nhằm nâng cao trình độ và năng lực sản xuất đáp ứng thỏa mãn mưu sinh theo hướng "tái tạo vô hại", tính hiệu quả trong việc khống chế nạn nhân mãn một cách nhân đạo, trong việc giải thích, tuyên truyền, vận động hướng thiện, tiết chế mức độ tiêu dùng hàng hóa "phi thực phẩm" nhằm bảo tồn thiên nhiên, gìn giữ môi trường sinh thái trên phạm vi toàn thế giới (mà rồi đây, chắc chắn mạng INTERNET, một kiệt tác sáng tạo dẫn đến sự "tiến hóa" như một cuộc cách mạng triệt để nhất, toàn diện nhất về lưu trữ và truyền thụ thông tin của loài người, và như một lẽ tự nhiên (!), sẽ đóng vai trò truyền thông, giáo huấn khách quan nhất, chủ yếu và cũng hiệu quả nhất trong việc "mặc định hóa" lối tư duy hướng thiện đích thực đối với trí não con người!)..., làm cho tiến trình phát triển xã hội loài người dù có thể còn phải trải qua vài giai đoạn tương đối gay gắt gây ra buồn thương nữa (nhưng ngắn thôi!), thì sớm muộn gì loài người cũng đạt đến thời đại xã hội đại đồng và an bình. Chúng ta tin tưởng mãnh liệt như một...tín đồ vào sự hiện thực của viễn cảnh ấy, và trong trạng thái phấn khích "quá trời", chúng ta tuyên bố rằng, xác suất xảy ra chiến tranh thế giới lần thứ ba là rất thấp và nếu chiến tranh thế giới lần thứ ba không xảy ra vào thế kỷ XXI vì một biến cố (quá) rủi ro nào đó thì cũng vĩnh viễn không bao giờ xảy ra nữa! Xin các nước lớn cũng như nhỏ đừng chạy đua vũ trang, đừng tiếp tục tốn những khoản tiền khổng lồ của dân chúng nước mình nói riêng và của cả loài người nói chung vào việc đua nhau chế tạo những thứ vũ khí tàn sát con người hàng loạt có tính diệt chủng hòng "chờ cơ hội" giải quyết nạn nhân mãn (?!) một cách mù quáng nhất, ngu xuẩn nhất, độc ác nhất, tội lỗi nhất (như đã từng!) nữa, chỉ vô ích thôi, lại còn rất "vô duyên" vì mai mốt "ế", không biết "xài" vào đâu, tồn kho "hùng vĩ" như núi chỉ để ngồi lên đó "ngó cho vui" thì...thôi, hết nói nổi thành lời được nữa! Ha, ha...ha...!!!...
 
Ái chà chà, bô lô ba la "tự sướng" sơ sơ thế cũng làm cho bộ não đang ở đỉnh cao về...sự hóa rồ của chính chúng ta "hạ hỏa" nhiều rồi! Chúng ta quay lại tiếp tục cho xong câu chuyện còn dở danh về Ấn Độ cổ đại.

Khi chúng ta nói giáo lý Bàlamôn độc tôn "ngự trị" về tư tưởng trong xã hội Ấn Độ cổ đại thời Upanishad thì không có nghĩa là trong xã hội thời đó chỉ duy nhất tồn tại quan niệm xã hội-nhân sinh duy tâm theo định hướng "đã bị ràng buộc" bởi giáo lý Bàlamôn. Do "cố tình tự vệ" nên "đành phải" bênh vực cho tầng lớp thống trị, trong đó có đẳng cấp của mình trong việc giải thích các hiện tượng xã hội-nhân sinh, mà nói chung, các nhà lý luận Bàlamôn đã dần làm mất đi tính hồn nhiên khách quan trong suy tư triết học của thời đại trước (thời Vêđa) và thay vào đó là lối suy lý đã bị "lũng đoạn" bởi ý chí thiên kiến chính trị. Sự tư biện "trong tầm khống chế của ý chí thống trị" thiếu trong sáng ấy tất nhiên phải dẫn đến sự ra đời một hệ thống triết lý giáo điều hàm chứa mâu thuẫn logic trong lòng nó (nghĩa là có tính "gán ghép" khiên cưỡng, phủ dụ bất công, một đằng, đối với đại chúng cần lao thì hô hào đừng tạo nghiệp, đừng vọng động mà hãy bình tâm, sống "an phận thủ thường" trong cực khổ theo định mệnh đã an bài, đằng khác, đối với vua chúa, hiệp sĩ quí tộc thì lại "ngầm bảo" rằng cứ "chiến đấu, giết chóc" bảo vệ danh dự và quyền lợi đi vì đó là điều "không thể tránh khỏi" và như thế, cũng không tội lỗi, không hề tạo nghiệp), còn những kẻ tạo lập và thao túng nó (tức hệ thống triết lý giáo điều) thì biến thành giới tăng lữ Bàlamôn, thành giáo hội "ăn trên ngồi trốc", tạo lập nên "thứ" thực thể-tinh thần gọi là Đạo Bàlamôn. 
Chính quá trình phủ dụ mang tính áp chế trong vai trò "ngự trị" xã hội về mặt tư tưởng của giáo lý Bàlamôn đã kích thích không ít luồng tư tưởng khác nhau ra đời "trong lòng" đại chúng bị trị nhằm phê phán, phản biện và cả bài bác nó, tạo nên một bầu không khí tranh biện sôi nổi, hao hao giống thời "Bách gia chư tử" ở Trung Quốc. Có thể mượn sự mô tả của Will Durant trong tác phẩm nổi tiếng "Lịch sử văn minh Ấn Độ" của ông, để phần nào thấy được hoạt cảnh ấy: "...Có cả một thời ngụy biện lang thang - bọn Paribbajaka, tức bọn lữ hành - già nửa năm đi khắp làng này tới làng khác, thành thị này tới thành thị khác để tìm tín đồ hoặc phản kháng những người chống lại họ. Có vài nhà dạy thuật lý luận để chứng minh bất kỳ một điều gì, họ thật xứng đáng với danh hiệu "Bọn chẻ cái tóc ra làm tư" hoặc "Loài lươn trơn tuột" (ý nói: họ biện thuyết xuôi ngược gì cũng được cả), có nhà lại chứng minh rằng không có Thượng Đế, và đạo đức là hoàn toàn vô ích. Dân chúng bu lại nghe họ thuyết hoặc tranh luận, người ta còn xây cất cả những phòng rất rộng làm chỗ hội họp cho họ trổ tài và các vị vua chúa còn tặng giải thưởng cho những triết gia thắng trong những cuộc đấu khẩu đó nữa. A, cái thời đại đó thật lạ lùng, đúng là trăm hoa đua nở bên cái dòng tư tưởng tự do chảy tràn bờ". Tuy nhiên, nếu chọn quan niệm xã hội-nhân sinh Bàlamôn làm "chuẩn mốc" so sánh thì theo thời gian, sự tương tác trong vận động tự nhiên giữa những luồng tư tưởng "đồng sàng dị mộng" ấy làm cho chúng "nhanh chóng" hòa hợp-phân định lại thành hai luồng tư tưởng chính, phát triển thành hai hệ thống tư tưởng nổi trội, có quan niệm nói chung là tương phản nhau, mà như lịch sử đã lưu lại, một hệ thống được gọi là "chủ nghĩa duy vật Ấn Độ" (đúng hơn phải gọi đầy đủ là "chủ nghĩa duy vật thực dụng Ấn Độ cổ đại"!) và hệ thống kia được gọi là "giáo lý Kỳna" (nếu xét cả về mặt thực thể thì chính là một tôn giáo với tên gọi: Đạo Kỳna, Kỳna Giáo hay Đạo Jên).

Trong xã hội cổ đại, lòng tham vị kỷ vô lối của những kẻ có quyền hành cai trị là nguyên nhân sâu xa không những làm cho sự cai trị (với chức năng tự nhiên, thuần túy thuở ban đầu là điều phối, duy trì trật tự xã hội một cách "dân chủ", bất vụ lợi cá nhân) biến tướng thành sự thống trị (nghĩa là sự cai trị đã "nặng" tính độc đoán, chuyên quyền, bạo ngược...), mà còn (thông qua sự thống trị) "góp phần xứng đáng" làm tăng mức độ suy vi của đời sống xã hội, cả về mặt vật chất lẫn mặt tinh thần (nói thật vắn tắt, sự bất chính và mức độ phân liệt quá đáng trong thu nhập và hưởng thụ của cải xã hội là "chất xúc tác mạnh" kích thích phổ biến những nhận thức thiếu lành mạnh dẫn đến những hành vi mù quáng nhằm thỏa mãn thèm muốn một cách thấp hèn cả ở "thượng tầng kiến trúc" lẫn ở "hạ tầng cơ sở" theo trình tự diễn tiến "thượng bất chính - hạ tắc loạn", thể hiện ra trên bình diện đánh giá tổng quan là suy đồi đạo đức xã hội). Xã hội trong tình trạng càng suy vi thì sự áp bức bóc lột của tầng lớp thống trị đối với nhân dân Ấn Độ cổ đại càng "nổi bật" và sự "nổi bật" (do tính bảo thủ "tự phát" từ ý chí bảo toàn quyền lợi một cách ích kỷ mà có) ấy lại có tác dụng "hỗ trợ" xã hội thêm suy vi hơn nữa, không những làm cho những mâu thuẫn về quyền lợi, trong đó, cơ bản là mâu thuẫn giữa quần chúng bị trị và tầng lớp thống trị, cũng càng trở nên gay gắt, nhiều lúc đến mức đối kháng, mà còn dần dần làm lộ rõ tính giả dối, mị dân, phi lý trong những phủ dụ của giáo lý Bàlamôn. Sự thể đó tất nhiên làm xuất hiện những mầm mống tư tưởng bất mãn, bài bác, đả phá ở những người cấp tiến, ít nhiều có học trong hàng ngũ đại chúng đối với hệ thống giáo lý Bàlamôn. 
Có thể đến khoảng giữa thế kỷ VI TCN, những mầm mống tư tưởng ấy đã kết hợp lại thành một trào lưu tư tưởng thống nhất (gọi là trường phái duy vật), thực sự có sức sống, có sức lan tỏa rộng rãi trong giới bình dân Ấn Độ, với tên gọi vào thời đó: Charvaka. Will Durant cho rằng đó là tên của một người trong trào lưu, và nếu thế thì người đó phải là một triết gia tài giỏi, có khả năng đại diện được về mặt tư tưởng của trào lưu hoặc là một trong vài người sáng lập nên chủ thuyết duy vật Ấn Độ cổ đại. Cụ thể hơn, cũng theo Will Durant và cả Chandradhar Sharma thì nhân vật đóng vai trò tiền bối, làm phát sinh ra trường phái duy vật này có tên Brihaspati và Charvaka là môn đồ lỗi lạc của ông, kế tục ông lãnh đạo trường phái. Nhưng theo quan điểm khác, Charvaka không phải là tên riêng mà là tên chung gọi những nhà lý luận theo trường phái duy vật. Vì từ gốc "charv" có nghĩa là "ăn" nên có lẽ thế mà người ta suy ra Charvaka hàm chứa nhiều nghĩa như: biểu thị một người thích "ăn uống và vui vẻ", người nuốt lời, người "ăn sạch" mọi thứ, người "có giọng điệu ngọt ngào" (theo từ charavaka), người tầm thường (bình dân?) mà đồng nghĩa là từ lokayata. Chúng ta cho rằng nhận định về Charvaka theo quan điểm đầu có phần đúng hơn. Những hàm nghĩa vừa nêu có lẽ phải lâu về sau mới được gán cho nó bởi các đối thủ của trường phái duy vật trong cuộc đấu tranh tư tưởng. Nhất là những hàm nghĩa có ý miệt thị thì nhiều khả năng bị gán từ các giáo sĩ Bàlamôn. Chẳng hạn, những người theo trường phái duy vật còn bị gọi với cái tên Nasticashiromani (có nghĩa: người dị giáo tinh quái!), hay rõ ràng hơn, trong Ramayana nói họ là "những kẻ ngu dốt tự cho mình là thông thái và là những chuyên gia trong việc dẫn dụ con người đến sự bất hạnh và diệt vong"...Nhưng, như ông bà ta nói, không có lửa thì làm sao có khói? Vậy, đó là "lửa" gì và "âm ỉ" ở đâu trong nội dung tư tưởng của Charvaka? 
Khốn nỗi, về mặt sự kiện lịch sử, vẫn biết trường phái tư tưởng Charvaka thực sự đã từng tồn tại, nhưng không một ai sau này có được nội dung chính xác của chủ nghĩa duy vật Ấn Độ cổ đại dưới dạng văn bản hay chí ít cũng dưới dạng truyền khẩu nhưng đáng tin cậy. Đơn giản vì không hề có một tác phẩm nào khả dĩ được gọi là tài liệu gốc, do chính các nhà lý luận Charvaka viết về tư tưởng của họ còn lưu truyền đến ngày nay. Có thể sau khi trường phái Charvaka thoái trào và đi dần đến tan rã thì các tác phẩm của nó trở thành vô giá trị, thậm chí là "độc hại" nên đã bị loại bỏ khỏi "bàn tròn học thuật xã hội" hoặc bị tiêu hủy đi một cách cố ý. Nhưng nhiều khả năng hơn hết có thể là những tác phẩm đó...chưa bao giờ được bất cứ ai trong số những nhà lý luận Charvaka chấp bút, trước tác ra cả (?!), vì đơn giản, chúng chỉ là những luận thuyết truyền khẩu.

Vì không có tài liệu gốc nào nên các nhà nghiên cứu thời hiện đại, để tìm hiểu chủ nghĩa duy vật Ấn Độ cổ đại, đều phải dựa vào những thông tin về nó còn lưu giữ "rải rác" trong những tác phẩm của các trường phái khác, đã từng là đối thủ của trường phái Charvaka trong cuộc đấu tranh tư tưởng. Sở dĩ những thông tin về Charvaka còn tồn tại được ở những nơi "lạc lõng" như thế là do người ta cần đến chúng để làm bằng chứng phê phán, thậm chí là đả phá chính chủ nghĩa duy vật. Do có sự thiên kiến (bởi niềm tin riêng!) trong nhận định theo quan niệm chủ quan của trường phái mình mà (những) đối thủ của Charvaka đã ghi chép lại những ý kiến của các nhà Charvaka một cách phiến diện, theo lối "nhấn mạnh yếu điểm", và như thế, đã làm cho những thông tin phản ánh về chủ nghĩa duy vật Ấn Độ còn lưu trong các tác phẩm của họ trở nên ít nhiều bị què quặt, méo mó, sai lệch, không còn "đủ độ" chân thực nữa.

Lịch sử Ấn Độ cho thấy, trường phái Charvaka đã từng có giai đoạn hoạt động nổi bật, tư tưởng của nó lan truyền khá nhanh và tương đối rộng rãi trong tầng lớp đại chúng bình dân, có những lúc tưởng chừng như có phần lấn át, áp đảo trong nhiều cuộc tranh biện. Ấy vậy mà thời gian tồn tại với tư cách "gần như" một thực thể tinh thần xã hội lại không được lâu dài, kiểu như "sớm nở tối tàn". Tại sao lại xảy ra hiện tượng lạ lùng đó?

Theo thiển ý chúng ta, có thể quan niệm duy tâm về thực tại khách quan xuất hiện lần đầu tiên trên thế giới như một chỉnh thể lý luận là kinh Vêđa, và quan niệm duy vật, với vai trò tương tự như thế, có thể là hệ tư tưởng Charvaka (nếu nó ra đời trước Đạo Lão, còn nếu không, phải là Đạo Lão). Cứ đà đó tiếp tục, cũng có thể phỏng đoán thêm rằng cái tinh thần khát vọng được an cư, được vui chơi thỏa niềm lạc thú ẩn chứa "dồi dào" trong ý niệm tôn sùng sự sung túc của tín ngưỡng phồn thực tồn tại "bàng bạc" trong kinh Vêđa (nhất là trong quan niệm cho rằng Thực Phẩm là bảo toàn, dưới những dạng vật chất cụ thể là của chung, "ai" cũng được hưởng như nhau), đã là một gợi ý xa, gián tiếp, nhưng đầy hứng khởi và có tầm quan trọng đặc biệt trong khâu biện luận nhằm định hướng xây dựng nền tảng lý luận cho chủ nghĩa duy vật Ấn Độ cổ đại. 
Tuy nhiên, cần thấy rằng hệ tư tưởng vô thần-duy vật Charvaka không phải là kết quả "ngay từ đầu" của suy lý mang tính (tạm gọi là) "hàn lâm thuần túy", hay cũng có thể nói, không phải (chỉ) nhờ "nghiền ngẫm" kinh Vêđa mà rút ra được. Nghĩa là tập hợp những ý tưởng tự phát "khai mào", đóng vai trò tư tưởng "tiền thân" của trường phái Charvaka đã hình thành trước khi có sự định hướng triết học để từ một hệ tư tưởng thiên về chính trị (phản kháng sự bất công, phi lý trong xã hội) phát triển thành một học thuyết triết học thực sự (giải thích thuần lý, căn cơ trên tinh thần tự giác khách quan nguyên nhân xuất hiện những bất công, phi lý ấy). Nói cách khác, hệ tư tưởng Charvaka nảy sinh trực tiếp từ thực trạng bất công kéo dài, từ sự mâu thuẫn ngày càng gay gắt về quyền lợi giữa tầng lớp chóp bu thống trị và đại chúng bị trị trong xã hội Ấn Độ cổ đại, và vì là con đẻ của tầng lớp bình dân nên cũng mang trong lòng nó tinh thần bất mãn, phản kháng, hơn nữa là đả phá gay gắt sự phủ dụ có tính áp đặt của giáo lý Bàlamôn nói riêng cũng như sự "hợp pháp hóa bóc lột" của chế độ đương thời nói chung. Cụ thể hơn, trước tình cảnh ai oán cùng với những rên xiết, ca thán khắp nơi của đại chúng bị trị, nhiều người có trình độ học vấn khác nhau, có tinh thần cấp tiến, thấy được sự bất công bất bình của thời cuộc, đồng cảm với nỗi niềm của giới bình dân, nên đã đứng về phía họ, lên tiếng bênh vực họ. Từ sự suy xét trên cơ sở quan sát trực giác những hiện tượng bất cập đã trở thành phổ biến trong xã hội, những người cấp tiến ấy đã nêu ra được những ý kiến có tầm lý luận, hợp thành những ý tưởng, luận điểm sơ khai cho tư tưởng Charvaka, và trên cơ sở đó cùng với sự nghiên cứu lý luận chuyên sâu hơn nữa mà xây dựng nên chủ nghĩa duy vật Ấn Độ cổ đại.
 
                                                                        ***
 
Nếu Brihaspati thực sự có sáng tác ra những sutra (kinh, luận thuyết), thì cho đến nay chúng đều đã thất lạc, chỉ còn lưu truyền lại duy nhất một bài thơ của ông, nhưng qua bài thơ này cũng có thể nắm bắt khái quát nội dung trong chủ thuyết về xã hội-nhân sinh của trường phái Charvaka, đó là:
"Không có thiên đường, không có sự giải thoát cuối cùng, không có linh hồn ở thế giới khác (không có thế giới vị lai), cũng không có những nghi thức (tạm hiểu là sự phân biệt hằng định, cố hữu) của những (bốn) đẳng cấp xã hội...Ba kinh Vêđa, ba cách tự chủ (ba nấc khổ hạnh) và tất cả những tro bụi của sự hối hận, đều chỉ là những mánh khóe sinh nhai của một bọn người thiếu trí tuệ và thiếu hùng dũng. Làm sao cơ thể chúng ta này, sau khi thành cát bụi còn có thể trở về trái đất được nữa? Và nếu một bóng ma nào có thể qua các thế giới khác, thì sao nó không nhớ nhung thương tiếc những người thân nó để lại phía sau, mà không quay về với họ? Nếu một con dã thú (làm vật hiến tế) trong nghi lễ Jyotistoma tự nó sẽ lên thiên đường, thì tại sao người cúng tế không đưa cha mình ra ngay? Nếu những người sống trên thiên đường do phụng sự Shraddha, thì tại sao không đem thức ăn xuống cho những người đang đứng trên mái nhà? Những nghi lễ tốn kém là do bọn tu sĩ quỉ quyệt tưởng tượng ra nhằm hưởng lợi, thế thôi. Ba vị thần của Vêđa là thằng hề, kẻ bất lương và ma quỉ. (Vậy thì) khi cuộc sống vẫn đang tiếp diễn, hãy hưởng đời đi, hãy để cho con người được no đủ ngay cả khi đang ngập trong nợ nần".
Cũng trong "Lịch sử văn minh Ấn Độ", Will Durant viết theo nhận định của ông, thế này:
"Sự thực, các học giả càng khảo cứu, phát hiện được một số nhân vật không đáng tôn trọng tí nào (?) trong triết học Ấn Độ trước thời Phật Giáo, thì lại càng thấy bên cạnh các vị thánh đức (?) trầm tư về Brahman, có vô số người miệt thị các tu sĩ, hoài nghi về các thần linh, và thản nhiên nhận cái danh dự là Nastic, tức bọn theo thuyết hư vô. Sangaya, người theo thuyết bất khả tri, không chấp nhận mà cũng không phủ nhận rằng chết rồi, linh hồn còn không, ông ta ngờ rằng con người không thể biết được gì cả, nên chỉ chủ trương tìm sự an ổn thôi. Purana Kashyapa không chịu nhận các giá trị tinh thần và bảo linh hồn là tên nô lệ tiêu cực của ngẫu nhiên. Maskarin Gosala bảo kẻ thiện hay người ác thì cũng bị số mạng chỉ huy hết, không phải cứ làm thiện thì được hưởng phúc, làm ác thì phải chịu họa. Ajita Kasakambalin thì bi đát hơn nữa, cho con người chỉ gồm đất, nước, lửa, gió và bão: "Kẻ điên khùng cũng như người hiền triết, chết rồi thì thây đều rã ra thành cát bụi, tiêu diệt hết chẳng còn gì cả". Tác giả tập anh hùng ca Ramayana tả Jabali, con người hoài nghi tuyệt đối, chế nhạo Rama đã từ chối một vương quốc để thực hiện một ước nguyện: "...Này Rama, tại sao lại để những lời cách ngôn tai hại đó làm mờ ám lương tâm méo mó trí óc như vậy. Những cách ngôn đó đã làm cho bao nhiêu kẻ chất phác không suy nghĩ phải lầm lạc?...Ôi, ta thương hại những kẻ lầm lạc đó cứ mải miết đi tìm một bổn phận hão huyền, phí phạm dâng đồ cúng cho các thần linh tổ tiên. Thật là phí thức ăn! Thần và tổ tiên đâu có nhận tế lễ của ta! Và thức ăn một khi phân phát đi rồi còn nuôi ai được nữa đâu. Thức ăn dâng cho một tu sĩ Bàlamôn, tổ tiên ta làm sao dùng được nữa? Chính bọn tu sĩ quỷ quyệt đó đã đặt ra lệ đó, chúng ích kỷ bảo ta: dâng đồ cúng và sống khổ hạnh đi, từ bỏ hết của cải đi mà cầu nguyện! Nhưng làm gì có thế giới vị lai. Rama này, các hy vọng và tín ngưỡng của con người toàn là hão cả đấy. Nên cứ hưởng lạc trên cõi trần này và từ bỏ các ảo tưởng vớ vẩn vô ích đó đi"".

"Họ (tức phái Charvaka) chế nhạo thuyết cho rằng các kinh Vêđa là chân lý được thiên khải. Họ bảo, chân lý không thể nào biết được nếu không dùng tới giác quan. Cũng không thể hoàn toàn tin lý trí được vì giá trị của một qui kết không những tùy thuộc vào cách nhận xét đầu tiên có đúng hay không, cách lý luận có đúng không, mà còn giả thiết (về tính qui luật) này nữa: sự việc trong dĩ vãng xảy ra cách nào thì trong tương lai cũng xảy ra như vậy, nhưng giả thiết đó, như Hume sau này nói, có gì là chắc chắn đâu. Phái Charvaka bảo: cái gì mà giác quan không nhận thấy thì là không có, vậy linh hồn chỉ là một ảo tưởng và Atman chỉ là một câu chuyện đùa. Xét kinh nghiệm bản thân và xét lịch sử, đâu có thấy năng lực siêu nhiên nào chỉ huy Vũ Trụ đâu. Hiện tượng nào cũng tự nhiên hết, chỉ những kẻ ngu ngốc mới cho là tại ma quỉ hay thần linh. Chỉ có vật chất là thực thể, cơ thể gồm các nguyên tử (phần tử tế vi), bộ óc chỉ gồm các tế bào (phần tử tế vi) suy tư. (...). Không có sự bất diệt và không ai có thể tái sinh được. Tín ngưỡng là một sự sai lầm, mê hoặc, một thứ bệnh hoặc một thuật lừa gạt, không cần đặt ra giả thiết có một Thượng Đế để giảng thế giới hoặc hiểu thế giới. Sở dĩ có những người cho tín ngưỡng là cần thiết chỉ vì họ quen tín ngưỡng quá rồi đến nỗi thấy lạc lõng, bơ vơ. Luân lý có căn bản tự nhiên, nó dựa trên những mặc ước và nhu cầu xã hội chứ không dựa trên một mệnh lệnh thần linh. Thiên nhiên thản nhiên không phân biệt thiện ác, không khen thưởng đạo đức, không trừng phạt tội ác, và mặt trời chiếu cho mọi người, cho các tên bợm cũng như cho các vị thánh đức(...). Không cần phải diệt bản năng cùng thị dục vì những cái đó tự nhiên sinh ra. Đạo đức là một sự lầm lẫn, mục đích của đời sống là sống và sự minh triết chân chính là tìm hạnh phúc"
.
Tiếp theo là nhận định và cả đánh giá có phần sâu sắc hơn về chủ nghĩa duy vật Ấn Độ cổ đại theo quan điểm của Chandradhar Sharma, tiến sĩ triết học-văn chương người Ấn Độ:
"Một số lời thuyết giảng quan trọng của Brihaspati trích từ các tác phẩm triết học khác nhau, có thể thu thập được như sau:
  1. Đất, nước, lửa và không khí là những thành tố (cấu tạo nên vật chất)
  2. Thể xác, cảm xúc và đối tượng (khách thể) là kết quả của sự kết hợp khác nhau giữa các thành tố đó
  3. Ý thức xuất phát từ vật chất, như đặc tính say của rượu xuất phát từ sự lên men
  4. Linh hồn không là gì khác, mà là thể xác chứa ý thức
  5. Niềm vui là mục đích duy nhất của cuộc sống
  6. Bản thân cái chết là sự giải thoát"
"Học thuyết nhận thức của trường phái Charvaka cho rằng chỉ có cảm nhận (pratyaksa - hiểu là nhận thức cảm tính, trực giác, trực tiếp, không thông qua suy tư logic) là phương tiện của tri thức bền vững, giá trị của suy luận bị bác bỏ vì bị coi là hành động phiêu lưu, mạo hiểm. Ở đây, chúng ta lần tìm từ điều đã biết đến điều chưa biết và chưa có điều gì chắc chắn mặc dù một số suy luận có thể là đúng một cách ngẫu nhiên. Một định đề chung chung có thể đúng trong trường hợp cảm nhận được, nhưng không chắc nó còn đúng trong trường hợp không cảm nhận được. Phép suy luận theo lối suy diễn là không thể thực hiện được (...). Nó chỉ là cái vòng luẩn quẩn vì kết luận đã có sẵn trong tiền đề chính, mà giá trị của nó chưa được chứng minh. Phép suy luận qui nạp làm công việc chứng minh giá trị của tiền đề chính trong phép suy luận diễn dịch, nhưng nó cũng không chắc chắn, bởi vì đó là sụ tiếp diễn một cách tùy tiện từ cái biết đến cái chưa biết. Để phân biệt phép qui nạp đúng đắn từ thống kê đơn giản, cần chỉ ra rằng qui nạp đúng đắn không giống phép thống kê đơn giản ở chỗ nó dựa trên mối quan hệ nhân quả, tức là dựa trên sự liên kết không đổi, hay Vyapti (lý luận chính thống (?) - hiểu là tiên đề, định đề mặc nhiên, vốn dĩ đúng đắn, không cần chứng minh, mà cũng không thể chứng minh được). Vì vậy Vyapti là đầu não (hiểu là cội nguồn xuất phát) của mọi suy luận. Nhưng các nhà Charvaka cũng không thừa nhận cả mối quan hệ mang tính bất biến và phổ quát này, và chỉ xem nó là một sự đoán mò. Không thể chứng minh Vyapti bằng suy luận, vì bản thân suy luận được xem là để giả định giá trị của nó. Chứng cớ cũng không thể xác minh được nó, vì trước tiên bản thân chứng cớ không phải là phương tiện hữu hiệu của tri thức (chưa phải cảm thức?). Còn nếu (giả sử) chứng cớ xác minh được Vyapti, thì suy luận sẽ phải phụ thuộc vào chứng cớ (nghĩa là suy luận mất đi tính độc lập khách quan của nó?). Như vậy, không ai có thể tự suy luận được điều gì và suy luận không thể được xem như là một suối nguồn có giá trị của tri thức. (...).
(...)
(...). Từ chối giá trị của suy luận theo quan điểm kinh nghiệm là từ chối suy nghĩ và tranh luận. Mọi suy nghĩ, mọi tranh luận, mọi học thuyết, mọi khẳng định và phủ nhận, mọi bằng chứng và phản chứng đều nhờ vào suy luận mới có. Quan niệm của Charvaka cho rằng cảm nhận (nhận thức trực giác, cảm tính!) có giá trị và suy luận vô giá trị, thì bản thân nhận định đó cũng đã là kết quả của suy luận rồi! Những nhà Charvaka có thể hiểu được người khác và làm cho người khác hiểu mình được, cũng phải bằng suy luận. Tư tưởng và ý tưởng không phải là những đối tượng vật chất. Do đó, không thể đánh giá bằng cảm thức mà chỉ bằng suy luận. (...). Bản thân cảm thức, vốn được Charvaka xem là có giá trị, hợp lý, nhiều khi là trái với sự thật. Chúng ta cảm thức Trái Đất phẳng, nhưng thực ra nó tròn, tưởng nó đứng yên nhưng thực ra nó quay quanh Mặt Trời. (...)
(...)
Về mặt đạo đức, những người theo trường phái Charvaka xem khoái lạc, nhục dục là đỉnh cao của cuộc sống. Hãy cứ ăn, uống và vui vẻ, bởi vì một khi thể xác biến thành tro bụi, sẽ không còn cơ hội trở lại nơi này nữa. Không có thế giới bên kia, không có chuyện linh hồn tồn tại sau khi chết. Tôn giáo là phương tiện kiếm sống của các tu sĩ. Mọi giá trị đạo đức chỉ là những ảo giác do đầu óc bệnh hoạn nghĩ ra. Đạo đức theo Charvaka là chủ nghĩa khoái lạc cá nhân thô thiển, khoái cảm trong cuộc sống, đồng thời là mục đích duy nhất của cá nhân. (...).
Sự bác bỏ từ những người ủng hộ tư tưởng Vêđa và sự phản đối kịch liệt của các tu sĩ Bàlamôn đã dẫn đến sự sụp đổ của trường phái Charvaka. Nhưng đó không phải là nguyên nhân duy nhất (...). Việc không chấp nhận Thượng Đế không phải là nguyên nhân của sự sụp đổ này. (...). Việc xem tư duy là một hình thái vật chất, cũng không phải là nguyên nhân chính dẫn đến việc Charvaka bị mọi người coi thường. Chủ nghĩa khoái lạc cá nhân có sự cuốn hút từ phần "thú tính" trong con người và thực tế khoái lạc là điều ai cũng khao khát. Do đó, nguyên nhân chủ yếu làm cho Charvaka sụp đổ chính là trường phái này đã phủ nhận những giá trị nhân bản, cái khiến cuộc sống đáng để sống. Cuộc sống không có giá trị nhân bản là cuộc sống của thú vật chứ không phải của con người. Khoái cảm chỉ là bóng mờ nhạt của khoái lạc tột đỉnh. Ở đây, có sự khác biệt về chất trong khoái lạc. Khoái lạc của một con heo chắc chắn không giống như khoái lạc của một nhà triết học. (...). Không nên bỏ qua, phủ nhận hay xem thường giá trị nào cả. Vì nói cho cùng, con người cũng chỉ là một loài động vật, sự thỏa mãn dục vọng là tự nhiên, cũng như thỏa mãn cơn đói hay khát. Tuy nhiên, con người không chỉ đơn thuần là một động vật mà còn là một thực thể có lý trí. Một người có lý trí sẽ tự ý thức khả năng nhận ra những giá trị này. Vì vậy, thay vì rơi xuống vị trí của một con dã thú, anh ta nên chuyển khoái lạc súc vật thành khoái lạc con người, bằng sự tao nhã, tự kiềm chế, giáo dục, văn hóa và chuẩn mực đạo đức".
Nhận định và đánh giá của Chandradhar Sharma về chủ nghĩa duy vật Ấn Độ cổ đại là chưa hẳn thỏa đáng, có phần còn hời hợt, đôi chỗ còn thiếu sót, thậm chí là phạm sai lầm trong luận giải. Có như thế là do ông đã dựa trên quan niệm về đạo đức và khoái lạc chưa đạt "độ chín", nghĩa là chưa chuẩn bởi còn bị hạn chế trong nhận thức triết học về tự nhiên-xã hội-nhân sinh. Muốn có cơ may đạt đến chân lý đích thực trong nhận thức xã hội thì tiên quyết phải đứng về phía tự nhiên khách quan (hay nói cách khác là cố "quên mình" đi càng nhiều càng tốt!!!) chứ không được đứng trên bất cứ lập trường chính trị nào, không được "coi khinh" hay "thần tượng" bất cứ tầng lớp hay khu vực dân cư nào, và nhất là không được phân biệt theo lối "thượng đẳng-hạ đẳng" một cách đầy hợm hĩnh-khinh miệt giữa người và thú, dù vô tình hay hữu ý! Còn nếu không như thế thì...chết cha, tuyên bố hơi quá đà,... xin lỗi nhé (đã là con người, ai mà không có lần trong đời hứng chí lên, thích..."nổ")!
 
                                                                        ***

Không có tình cảm thì không có khái niệm "khoái lạc". Tình cảm là cảm xúc đạt đến trình độ sâu sắc nhờ hệ thần kinh đã tiến hóa đến trình độ tinh vi nhất định. Ở động vật hoang dã, tình cảm hầu như không có hoặc có rất mờ nhạt. Hệ thống tình cảm biểu hiện sắc nét, rõ ràng chỉ có thể hình thành như đặc tính ở những loài có tư duy trừu tượng nói chung và loài người nói riêng. Nhưng hệ thống tình cảm không bỗng nhiên mà có được. Ở loài người, hệ thống tình cảm được hình thành cùng với sự phát triển xã hội, vất vả tìm kiếm mưu sinh, gian khổ chống chọi với thiên nhiên hầu thích nghi để sống còn cũng như sự vui thú với cuộc sống.
Quanh chúng ta có thể nêu muôn ngàn thí dụ để minh chứng cho điều vừa nói. Chẳng hạn con chó dù cho ăn ngon ("ngon" ở đây là do cảm giác của con người qui ước!), thì nó cũng không cảm giác "ngon" như con người cảm giác được. Hoặc quan hệ tình dục ở loài vật chỉ đơn giản thô sơ nhằm thỏa mãn bản năng với mục đích duy nhất là duy trì giống loài, thì ở loài người nó được nâng lên thành nghệ thuật mang đậm tính tiêu khiển phức tạp và đầy nhiêu khê mà mục đích duy trì giống loài dần dần trở thành mục đích thứ yếu...
Ý niệm khoái lạc chắc chắn đã xuất hiện từ rất lâu trước khi hình thành lối sống quần cư xã hội. Còn ý niệm đạo đức chỉ có thể xuất hiện trong quá trình phân liệt dân cư xã hội thành những bộ phận, tầng lớp mâu thuẫn nhau về quyền lợi (ở đây, tạm hiểu mâu thuẫn là sự tương phản có tính tích cực muốn loại trừ nhau, đối kháng "gay gắt", hàm chứa sự bất bình đẳng, bất công trong việc hưởng thụ quyền lợi) dẫn đến những hiện tượng tranh chấp, "đấu đá", cưỡng đoạt, giết chóc lẫn nhau xảy ra ngày một phổ biến, với qui mô ngày càng lớn. Từ đó mà xuất hiện khái niệm "đạo đức". Nói cách khác, khái niệm đạo đức và chuẩn mực đạo đức được hình thành và xác lập như một tồn tại tinh thần sinh động trong tiến trình xuất hiện và vận động xã hội về phương diện làm phân liệt và phân liệt ngày một sâu sắc nội tại xã hội nhằm mưu sinh sống còn ở loài người. Nghĩa là những hành động nào của con người phục vụ cho mưu sinh, cho sự duy trì giống loài, nói chung đều tốt, có tính đạo đức, còn những hành động ngược lại đều là xấu, có tính phi đạo đức.
Bắt đầu là lối sống quần cư "rời rạc", lấy trồng trọt-chăn nuôi mang tính đa canh nông nghiệp nhằm tự cung tự cấp làm phương kế mưu sinh chủ yếu, rồi sau đó, sự tăng tiến về trình độ sống (chủ yếu là trình độ tiêu dùng, trong đó có qui mô nhu cầu tiêu dùng cả về chất và lượng, cả về vật chất lẫn tinh thần, cả về thực phẩm lẫn phi thực phẩm) "vấp phải" những tác động nảy sinh một cách khách quan lẫn chủ quan, gây cản trở, ngăn chặn sự tăng tiến ấy, đã tạo tiền đề cho lối sống quần cư xã hội - tức là sự quần cư mà trong nội tại nó đã thể hiện ở mức độ rõ rệt nhất định sự gắn kết, liên kết, ràng buộc, ảnh hưởng một cách tương đối phụ thuộc lẫn nhau trong hoạt động sống giữa các cá thể, các bộ phận nhân sinh hợp thành quần cư - ra đời (mà trong hiện thực, có thể thấy đây cũng là quá trình làm sự trao đổi vật phẩm có được từ thành quả lao động trở nên phổ biến, dẫn đến xuất hiện nền kinh tế hàng hóa).
 Sự xuất hiện những mối quan hệ tương tác giữa các cá thể, bộ phận hợp thành theo hướng thống nhất hóa, đồng bộ hóa vận động nội tại trong lối sống quần cư sinh vật là có tính tự nhiên, được "hối thúc" bởi "đòi hỏi" đảm bảo cũng như tăng cường khả năng sống còn, và nếu có thể gọi lối sống quần cư ở những giống loài không có tư duy trừu tượng là "quần cư cộng sinh thụ động, thuần bản năng" thì cũng có thể gọi lối sống quần cư ở loài có tư duy trừu tượng, tức loài người, là "quần cư cộng sinh chủ động, có ý chí" hay gọn hơn: "quần cư xã hội". Như vậy, mục đích đầu tiên và cũng hoàn toàn tự nhiên của lối sống hợp thành xã hội là tạo điều kiện cho mọi cá nhân, mọi thực thể nhân sinh hợp thành xã hội có thể quan hệ với nhau theo định hướng hợp tác, tương trợ, liên kết, phối hợp hành động...ở những mức độ nhất định, tùy thuộc vào hiện thực xã hội trong quá trình vận động tiến triển của nó. Qua đó mà (coi như) ở mỗi cá nhân, mỗi thực thể nhân sinh tự thân củng cố được năng lực mưu sinh, không những đảm bảo được sống còn, mà còn có khả năng đạt được sống còn trong no đủ, sung túc, an vui, cũng có nghĩa là được sống một cuộc sống làm ăn yên ổn, thỏa mãn, hưởng lạc, và như thế, ở tầm rộng lớn nhất, đồng thời cũng làm cho xã hội hướng tới thành một thực thể quần tụ dân cư đoàn kết nhất trí, đồng tâm hiệp lực, chủ động chống lại những tác động bất lợi có tính "ngoại xâm" đến từ môi trường (thiên tai, địch họa) trong vận động sinh tồn, duy trì tồn tại của nó. Tuy nhiên, như đã trình bày, vận động xã hội một cách tự nhiên (dù có sự "góp phần" của nhân tạo thì cũng vẫn là tự nhiên!!!) theo tiến trình kế tiếp nhau giữa hai trạng thái thịnh và suy, nhất là trong suốt thời kỳ mà loài người chưa nhận thức sáng tỏ được thân phận mình, cũng đồng thời làm xuất hiện ngay "trong lòng" xã hội những tác động trái ngược có nguyên nhân từ cả khách quan lẫn chủ quan (cũng tự nhiên nốt!), mà trong hiện thực thì "được thấy" chính là sự xuất hiện "thằng cha" tham-sân-si và những "thành quả" trực tiếp có từ sự kích động, hối thúc, "xúi dục" của "thằng cha" có tính thèm muốn "ác nghiệt" này (chân dung của "nó" giống như mặt trái của tấm huân chương "tư duy trừu tượng", có vẻ xấu xí, thấp hèn bởi bị "vòng kim cô" mê quáng đượm nét điên rồ chế ngự!), luôn cản trở, "phá hoại" việc thực hiện đạt tới mục đích tự nhiên (hồn nhiên) đầu tiên ấy của sự tồn tại xã hội... Đến đây, đã có thể tạm kết luận rằng, sự "có mặt" và "góp phần" thường trực của tư duy trừu tượng trong suốt tiến trình trường kỳ thịnh-suy xã hội, cùng với sự đồng thời tác dụng trở lại tư duy trừu tượng của tiến trình ấy, đã làm cho cuộc vận động nội tại xã hội mang thêm tính thi đua, cạnh tranh, đấu tranh nội bộ, nghĩa là "bên cạnh" những tác động gắn kết, thống nhất xã hội nhằm đạt đến mục đích tự nhiên đầu tiên, gọi là "thuận", cũng tồn tại những tác động chia rẽ, phân ly xã hội, tương phản với "thuận", gọi là "nghịch". Điều "thú vị" và cũng nên nhấn mạnh ở đây: vì duy trì sống còn bản thân là mục đích đầu tiên cũng như tối hậu đối với hoạt động tự nhiên của mọi sinh vật, cho nên, dù những tác động nghịch có chiều hướng "chống phá" sự đoàn kết, thống nhất của nội tại xã hội thì đó không phải là chủ đích thực sự của những chủ thể tạo ra những tác động nghịch, và mặt khác, sự "chống phá" gây phân rã xã hội (một cách vô ý thức) của họ cũng không thể vượt quá mức độ hạn định nào đó để có thể làm tiêu vong xã hội - cái thực thể mà sự tồn tại của nó đều tối cần thiết cho việc sống còn của cả hai "phe" tác động thuận và nghịch. Như vậy, và lịch sử thời tiền sử-cổ đại của xã hội loài người cũng cho thấy, vận động nội tại của một xã hội, nói chung là quá trình tương tác cả về mặt vật chất lẫn mặt tinh thần giữa hai "lực lượng" tương phản thuận-nghịch. Quá trình tương tác ấy là tự nhiên (nghĩa là dù có mặt của "nhân tạo" thì xét cho cùng vẫn hàm chứa sự tất yếu, và thể hiện rõ ràng nhất vào "thuở ban đầu" của lịch sử xã hội, khi nhận thức của loài người về tự nhiên-xã hội-nhân sinh còn rất mù mờ với nhiều lầm lạc), không phải nhằm "giải tán" xã hội mà vẫn nhằm gắn kết xã hội, nhưng trong tình thế nội tại bị kích thích "lên" trạng thái phân liệt của nó, nghĩa là làm cho nội tại xã hội hoạt động vừa gắn kết vừa phân ly trên nền tảng ưu tiên và tích cực duy trì sự thống nhất trên bình diện toàn xã hội. 
Một cách khái quát, "chính thống" hơn và cũng súc tích hơn, có lẽ nên nói rằng, quá trình tương tác thuận-nghịch ấy cũng chính là cuộc đấu tranh sinh tồn thể hiện ra dưới dạng đặc thù, mang tính riêng có, (chỉ) xảy ra trong xã hội, (chỉ) trong nội bộ loài người (loài có tư duy trừu tượng!), giữa người với người, mà chúng ta (tạm) gọi là "cuộc cạnh tranh quyền lợi nhằm sống còn và hưởng thụ". Tùy thuộc vào mức độ thịnh-suy xã hội, vào định hướng nhận thức thị phi trong xã hội mà cạnh tranh quyền lợi cũng có những mức độ căng thẳng khác nhau. Lúc đầu, nảy sinh ra chỉ là sự chênh lệch tương đối về mức sống do gặp thuận lợi hơn hay bất lợi hơn trong lao động kiếm "miếng ăn cái mặc" (hiểu rộng ra là tất cả những hoạt động mưu sinh mang tính tự nhiên, chính đáng có thể có từ trực tiếp tạo ra lương thực, của cải cho đến thực hiện những công việc trao đổi thành quả lao động-"tiền thân" của mua bán hàng hóa). Sự tồn tại chênh lệch ấy, nhất là trong những thời kỳ xã hội suy vi về của cải vật chất, đã kích thích nảy sinh trong tư duy trừu tượng những đòi hỏi theo hướng dần dần làm xuất hiện cuộc tranh đua quyền lợi, và đến lượt sự tồn tại của cuộc tranh đua này với mức độ ngày một gay gắt đã đóng vai trò quyết định làm nội tại xã hội "thực sự" phân hóa (trong thống nhất!), phân định tương đối lực lượng dân cư trong đó thành những tầng lớp theo qui ước, nhưng cơ bản là thành hai tầng lớp tương phản nhau rõ rệt mà chủ yếu về mặt hưởng thụ quyền lợi, tạm gọi là "hạ tầng bị trị" và "thượng tầng thống trị". 
Về mặt tinh thần, đồng thời và cũng gắn liền với quá trình hình thành và tồn tại trong giai đoạn đầu của cuộc cạnh tranh quyền lợi, là quá trình hình thành khái niệm "đạo đức" cũng như sự định ước (đầu tiên!) về đạo đức (sự tốt-xấu), với bắt đầu là sự xuất hiện những ý niệm hợp thành cặp ý niệm tương phản trong não người như giàu-nghèo, sướng-khổ, thừa-thiếu..., rồi đến hiền-ác, tự do-lệ thuộc, công bằng-bất công, cưỡng bức-phục tùng, thống trị-bị trị..., từ đó mà có thị phi và "cãi cọ" về thị phi (quan niệm đúng-sai, tình cảm yêu-ghét) trong xã hội - tác nhân đóng vai trò "khai hoa nở nhụy" cho sự ra đời của chuẩn mực đạo đức.

Đại khái, chuẩn mực đạo đức trong một xã hội là "thước đo định tính", được dân cư nói chung của xã hội đó thừa nhận, về mức độ tốt-xấu của tính cách một con người (nhân cách), một tập thể người, một nhà nước, một chế độ... (Trong thực tế đời sống, thường khi nghe nói ai đó có nhân cách, chúng ta hiểu rằng kẻ đó có đạo đức. Đó chỉ là sự hiểu ngầm đã thành như một mặc định mà thực ra xét trên phương diện nhận thức triết học là hoàn toàn sai lầm, vì bắt nguồn từ quan niệm thiển cận đầy "tự tôn hợm hĩnh" cho rằng con người "tính tốt" hơn con vật. Hỡi đồ thú vật, ối lộn, hỡi đồ...vô tri, lại lộn nữa, thành thật xin lỗi giới vạn vật muông thú (!}, hỡi đồ...con-người, đừng mơ lâu quá nhé!!!). 
Vì được hun đúc "sau" một quá trình tương tác thuận-nghịch cụ thể, được con người xây dựng trên cơ sở nhận thức thực tiễn đời sống xã hội, nên chuẩn mực đạo đức, một cách trực tiếp, là kết quả của nhân tạo, và do đó nó có tính chủ quan, nghĩa là có tính qui ước, tính khu vực, tính thời đại, tóm lại là có tính tương đối. Nhưng nếu xét ở tầm mức cội nguồn sâu xa, cơ bản nhất mà cũng bao trùm nhất thì chuẩn mực đạo đức lại là kết quả mang tính tự nhiên, khách quan, nghĩa là có tính mặc định (tất yếu), tính phổ quát xã hội về không gian và thời gian. Sự phân liệt tầng lớp dân cư xã hội (mà cơ bản, có thể qui thành hai lực lượng tương phản nhau, nếu xét về mặt "lợi" là giàu (thiểu số) và nghèo (đại đa số), còn nếu xét về mặt "quyền" là (thiểu số) tập thể lãnh đạo và (đại đa số) quần chúng phục tùng), cũng như sự tồn tại những yếu tố mầm mống gây ra những hiện tượng bất công trong xã hội, "kéo theo" sự xuất hiện và tồn tại cuộc tương tác thuận-nghịch nhằm khắc phục, xóa bỏ mâu thuẫn về quyền lợi giữa hai lực lượng tương phản (tức là nhằm đảm bảo quyền sống chính đáng một cách công bằng đối với mọi con người trong xã hội) nhiều khi đạt đến độ quyết liệt, phải giải quyết bằng chiến tranh, giết chóc, triệt hạ đồng loại nhằm khuất phục lẫn nhau, dù quan sát ở góc độ nhất thời và trực diện rõ ràng là có tác dụng ngược với nguyện vọng sống còn mang tính tự nhiên ở mỗi con người, và hơn nữa, trên bình diện rộng lớn hơn là có tác dụng ngược với yêu cầu tự nhiên về thống nhất xã hội nhằm bảo đảm khả năng sinh tồn (nghĩa là có tác dụng phá vỡ sự gắn bó, bình ổn xã hội, uy hiếp sự tồn tại xã hội), thì về toàn cục, vẫn phải trong vòng khống chế của xu thế tự nhiên là ưu tiên lựa chọn sống còn. Nghĩa là đối với lực lượng nào (hiền hay ác, chính nghĩa hay phi nghĩa) cũng vậy, đều luôn cố gắng hướng tới mục đích tự nhiên đầu tiên và tối hậu là tồn sinh bản thân, mà muốn thế, đồng thời cũng phải (tự nhiên) hướng tới duy trì, đảm bảo sự tồn tại xã hội dù tùy thuộc vào ý chí, có thể theo hình thức này hay hình thức khác, ở trang thái còn bất công hay không còn bất công. (Cuồng sát như phát xít Đức cũng chỉ đến độ quyết tâm tiêu diệt triệt để dân tộc Do Thái, chinh phục và nô dịch thế giới chứ không thể nghĩ đến mục tiêu làm cho thế giới diệt vong. Điên rồ bậc nhất cổ kim là Pôn Pốt, thủ lĩnh Khơ Me Đỏ, trong thực tế đã thậm ngu xuẩn khi hành động giết chóc mang tính diệt chủng chính dân tộc mình, nhưng cũng không phải nhằm mục tiêu "xóa sổ" xã hội Cămpuchia, vì dù có mất hết tình người thì nó cũng không dám suy tính tới điều đó, chưa cần nói rằng dứt khoát nó không thể thực hiện được điều đó! Hai trường hợp vừa nêu còn bộc lộ một điều lớn lao hơn cần nói thêm cho rõ, đó là trên bước đường giết chóc lẫn nhau của mình, con người dù có thể gây ra sự thống khổ đau thương tang tóc cho đồng loại với qui mô to lớn và mức độ khủng khiếp đến cỡ nào chăng nữa, thì cũng chỉ phơi bày hơn nữa đến cùng cực mặt mê muội điên rồ của loài người và tội ác ngút trời mà loài người tạo ra đối với chính nó, thế thôi, chứ không thể làm tiêu vong xã hội loài người, hay nói khác đi, một xã hội có thể tự thân làm nó tăng tiến lên hoặc suy vi đi nhưng không thể tự thân hủy diệt nó, mà chỉ có môi trường "bên ngoài" (thiên nhiên, ngoại xâm) mới có khả năng làm nó tiêu vong!).                       
Như vậy, dù vào thời nào, trong trạng thái nào của xã hội thì cái định hướng tự nhiên ưu tiên lựa chọn sống còn làm nảy sinh nỗ lực tồn sinh cũng tồn tại vừa ở trong tinh thần từng cá thể con người, vừa bao trùm tinh thần xã hội. Theo định hướng tự nhiên khách quan đó, cùng với quá trình phân liệt, tương tác thuận-nghịch làm xuất hiện bất công đồng thời cũng giải quyết bất công trong xã hội, sự nhận thức cuộc sống của tư duy trừu tượng ở mỗi cá nhân, thế hệ nối tiếp thế hệ trong thời kỳ đầu của lịch sử xã hội (thời kỳ tiền sử-cổ đại), dần đạt đến sự đồng thuận chung nhất, cơ bản nhất, cốt yếu nhất, mang tính chân lý về thị phi (về đúng-sai, tốt-xấu) trong đời sống xã hội, và đó chính là cơ sở tự nhiên làm hình thành nên nội dung cơ bản mang tính khách quan của chuẩn mực đạo đức xã hội. Vậy, nội dung đó là gì? Dù chưa biết cụ thể là gì thì chúng ta vẫn biết chắc là nó phải đứng về phía ưu tiên, bênh vực cho tồn sinh và hơn nữa là cho sự tồn sinh trong ấm no hạnh phúc đối với từng cá nhân cũng như đối với toàn xã hội.
 Bây giờ, nếu hỏi bất cứ người nào rằng trong quan hệ ứng xử xã hội, "đúng" và "tốt" là thể hiện của đạo đức hay vô đạo đức (?), thì "chắc như bắp", ai cũng khẳng định là của đạo đức (!). Nhưng cụ thể, như thế nào thì một suy nghĩ, một hành động trong đời sống xã hội, trong ứng xử giữa người với người được ai cũng cho là "đúng" và "tốt" (thực ra, về mặt quan niệm thì "đúng" và "tốt" có mối quan hệ biện chứng mật thiết với nhau, trong cái này có cái kia và ngược lại), nghĩa là đúng-tốt một cách khách quan? Đó là...mà thôi, chúng ta không trả lời nữa, vì sự "lải nhải" ở trên đã là câu trả lời quá lê thê mà cũng đến tận "chân tơ kẽ tóc" rồi còn gì! Thế còn mặt chủ quan của chuẩn mực đạo đức thể hiện ra sao và như thế nào? Trả lời tỉ mỉ thì khó chứ về đại thể thì...dễ ẹc! Đây này: nếu sự đồng thuận có tính tuyệt đối (được mọi xã hội trong mọi giai đoạn lịch sử thừa nhận!) về đúng-tốt là biểu hiện mặt khách quan của chuẩn mực đạo đức, thì sự đồng thuận có tính tương đối (không nhất trí hoàn toàn, có khác biệt trong nhận định, đánh giá những hiện tượng xã hội cụ thể, tùy thuộc vào tập quán đặc thù của khu vực dân cư, vào quan niệm và lối sống thời đại, và đặc biệt là tùy thuộc vào trình độ nhận thức cũng như lập trường tư tưởng ở mỗi con người, ở mỗi tầng lớp xã hội, thậm chí còn phải tính đến cả sự ảnh hưởng của tình trạng thịnh-suy xã hội đối với tinh thần con người nữa) về đúng-tốt là biểu hiện mặt chủ quan của chuẩn mực đạo đức.
Khi chuẩn mực đạo đức xã hội gồm có tính khách quan và chủ quan thì đạo đức xã hội cũng có tính khách quan (tuyệt đối) và chủ quan (tương đối). Người có đạo đức mang nặng tính khách quan là người thực sự có lương tâm, là ngưới có tấm lòng quảng đại, vị tha và nhân hậu cao cả, là người vun đắp nói chung cho sự tồn sinh và hạnh phúc của loài người, là người yêu thương đồng loại sâu sắc. Nói chính xác ra thì đạo đức khách quan không mang tính thời đại. Còn đạo đức mang nặng tính chủ quan thì mang tính thời đại, bị không chế bởi tập quán, thói quen địa phương và trình độ nhận thức cũng như định kiến xã hội.
 Quan niệm tổng quát của chúng ta về đạo đức và căn nguyên tồn tại chuẩn mực đạo đức là như vậy. Đến đây, chúng ta càng "thấm thía" rằng Đạo Đức Kinh là một kiệt tác triết học và quan niệm cách nay hơn 2500 năm trước của Lão Tử về đạo đức cũng như về thị phi (thiện-ác, tốt-xấu...) thật thâm hậu biết chừng nào! Ôi, nhớ Lão quá đi! Thôi thì xin nhắc lại vài giáo huấn của Lão cho đỡ nhớ vậy:
"Sinh và dưỡng vạn vật, sinh mà không chiếm cho mình, làm mà không cậy công, để cho vạn vật tự lớn lên mà không làm chủ, như vậy gọi là Huyền Đức (đức cao nhất-Đức Huyền Diệu)".

"Đạo lớn bị bỏ rồi mới có nhân nghĩa, trí xảo xuất hiện rồi mới có trá ngụy, gia đình bất hòa rồi mới sinh ra hiếu từ, nước nhà rối loạn rồi mới có tôi trung".

"Người có đức cao thì (thuận theo tự nhiên) không có ý cầu đức, cho nên có đức, người có đức thấp thì có ý cầu đức (thành ra đạo đức giả) cho nên không có đức. (...). Cho nên, đạo mất rồi (tạm hiểu là xã hội phân liệt, rối loạn) sau mới có đức (tạm hiểu là chuẩn mực đạo đức), đức mất rồi (tạm hiểu là suy vi đạo đức) sau mới có nhân (tạm hiểu là kêu gọi lương tâm, lòng nhân hậu), nhân mất rồi (tạm hiểu là đã lẫn lộn hiền-ác) sau mới có nghĩa (tạm hiểu "thoát" là đề ra định ước về thị phi, luật lệ), nghĩa mất rồi (không tự giác tuân thủ) sau mới có lễ (tạm hiểu là luật pháp, hành pháp, sự thưởng-phạt). Lễ là biểu hiện suy vi của sự trung hậu thành tín, là đầu mối của sự hỗn loạn. Dùng trí tuệ để tính toán trước (trong mưu cầu quyền lợi), thì (mất cái chất phác) chỉ là cái lòe loẹt (cái hình thức) của đạo và là nguồn gốc của ngu muội. Cho nên bậc đại trượng phu (người hiểu đạo) giữ trung hậu thành tín mà không trọng lễ nghi, giữ đạo mà không dùng trí xảo, bỏ cái này mà giữ cái kia. (Đoạn luận này là một tuyệt bút triết học, thể hiện nhận thức quá trình vận động xã hội-nhân sinh cao sâu và chí lý của Lão Tử, và như một sự "vạch trần" cái quan niệm đạo đức không những đầy gượng ép, khiên cưỡng, hình thức, mà còn "ngược ngạo", do đó cũng ẩn chứa "bất nhân" của Khổng Tử)".

"Danh tiếng với sinh mệnh cái nào quí? Sinh mệnh với của cải cái nào trọng? Được danh lợi mà mất sinh mệnh, cái nào hại? Cho nên ham danh quá thì phải hao tổn nhiều, chứa của cải nhiều thì mất nhiều. Biết thế nào là đủ (tri túc) thì không nhục, biết lúc nào nên dừng thì không nguy mà có thể sống lâu được"

"Họa không gì lớn bằng không biết thế nào là đủ, hại không gì bằng tham muốn cho được nhiều. Biết thế nào là đủ và thỏa mãn về cái đủ đó thì mới luôn luôn thấy đủ (cũng có nghĩa là hạnh phúc vì không thấy buồn khổ nữa!)".
"Lấy đạo mà tu thân thì đức sẽ đủ, lấy đạo mà lo việc nhà thì đức sẽ có dư, lấy đạo mà lo việc làng xóm thì đức sẽ lớn ra, lấy đạo mà lo việc nước thì đức sẽ thịnh, lấy đạo mà lo việc thiên hạ thì đức sẽ phổ cập. Lấy thân mình mà xét thân người, nhà mình xét nhà người, làng mình xét làng khác, thiên hạ ngày nay xét thiên hạ thời xưa và thời sau. Làm sao ta biết được thiên hạ thế này hay thế khác? Là do lẽ đó"

"Lời nói chân thực thì không hoa mỹ, lời nói hoa mỹ thì không chân thực. Người "thiện" thì không cần phải biện giải (vì hành vi tốt rồi), người phải biện giải cho mình là người "không thiện". Người sáng suốt hiểu đạo thì tri thức không cần rộng (vì cảm nhận được chân lý (lẽ tự nhiên) là đủ rồi), người nào tri thức rộng thì không sáng suốt, chưa hiểu đạo (vì tìm ngọn mà quên gốc). (Đây là nhận định cực sâu sắc vì dễ thấy là trong thực tế xã hội nói chung, số trí thức mê muội, xảo trá, thất đức "nổi lên" phong phú đủ kiểu và mặt khác, có hiện tượng phổ biến là tấm lòng của người "nhà quê", "thất phu", ít học, thiếu hiểu biết lại thường chân hơn, hiền hơn, rộng lượng hơn, nhân ái hơn của "kẻ chợ", "sĩ phu" học rộng biết nhiều (!), và không thể chối cãi được, trong xã hội Việt Nam hiện nay, những hiện tượng phá hoại của cải vật chất xã hội, làm tăng bất công xã hội, làm rối loạn tinh thần xã hội dẫn đến suy giảm đạo đức cũng như sự đoàn kết xã hội, chủ yếu (nếu không muốn nói hoàn toàn) là do các "bè phái" trong tầng lớp trí thức, nhất là bộ phận trí thức "thích" nhũng nhiễu, "tham quyền cố vị" hoặc ngược lại là "uất ức trong mê muội", vừa "đầu têu" vừa trực tiếp gây ra, cả vô tình lẫn cố ý!!! 
Có người "đánh đồng" trí thức với hiền tài, chúng ta cho rằng trí thức là lực lượng "có học" của xã hội, mưu sinh và hoạt động xã hội trực tiếp và chủ yếu bằng trí não trên cơ sở học vấn mà bản thân đã tích lũy được, còn hiền tài là tinh hoa tài-đức của giới trí thức nói riêng và của cả xã hội nói chung, cũng vì thế mà đồng thời hiền tài cũng được đại chúng thượng tôn là "nguyên khí quốc gia". Như vậy, không những "tiến sĩ giấy" không phải hiền tài mà cả "tiến sĩ thật" nhưng thất đức cũng không phải hiền tài)".

Tiếp theo, chúng ta sẽ trích lược vài ba ý kiến mà chúng ta cho rằng đã "hô khẩu hiệu" được quan niệm chung nhất hiện nay về đạo đức, để qua đó "ôn cố tri tân" nhằm soi rọi lại...bản thân mình...cho vui thôi (!), vì chỉ có thể "ừ" được đôi điều trong đó chứ phần lớn là không...nhất trí!

Theo từ điển mở Wikipedia:
"Đạo đức là một hiện tượng xã hội phản ánh các mối quan hệ hiện thực bắt nguồn từ bản thân cuộc sống của con người. Đạo đức là tập hợp những quan điểm của một xã hội, của một tầng lớp xã hội, của một tập hợp người nhất định về thế giới, về cách sống. Nhờ đó con người điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với lợi ích của cộng đồng xã hội".
"Trong tâm lý học, đạo đức có thể được định nghĩa theo các khía cạnh sau:

Nghĩa hẹp: Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp các qui tắc, nguyên tắc, chuẩn mực xã hội nhờ nó con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với lợi ích và hạnh phúc của con người, với tiến bộ xã hội trong quan hệ cá nhân - cá nhân và quan hệ cá nhân - xã hội.

Nghĩa rộng hơn: Đạo đức là toàn bộ những qui tắc, chuẩn mực nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người với nhau trong quan hệ xã hội và quan hệ với tự nhiên.

Nghĩa rộng: Đạo đức là hệ thống các qui tắc, chuẩn mực biểu hiện sự tự giác trong quan hệ con người với con người, con người với cộng đồng xã hội, với tự nhiên và với cả bản thân mình"

"Một số phạm trù cơ bản của đạo đức:
Nghĩa vụ của đạo đức thể hiện ở chỗ khi con người tham gia vào hoạt động sản xuất và hoạt động sống, anh ta ý thức được trách nhiệm của bản thân đối với người khác và đối với cộng đồng.Nghĩa vụ đạo đức đã xuất hiện rất sớm và nó tồn tại với thời gian, tồn tại qua các giai đoạn phát triển của lịch sử loài người. Điều đáng chú ý là việc thực hiện nghĩa vụ đạo đức bao giờ cũng mang tính tự giác và do chính bản thân đã nhận thức rõ vấn đề. Do vậy, khi thực hiện nghĩa vụ đạo đức con người luôn có cảm giác hạnh phúc, hài lòng vì tình cảm cao thượng, vì lòng tự trọng và phẩm giá của con người. Nghĩa vụ đạo đức của con người có mối liên hệ chặt chẽ với nghĩa vụ pháp lý. Nghĩa vụ đạo đức và nghĩa vụ pháp lý của con người đều có chung mục đích là nhằm điều chỉnh hành vi của con người cho phù hợp với qui tắc, chuẩn mực chung của xã hội.

Nghĩa vụ không hình thành một cách tự nhiên, nhất thời mà nó được hình thành và hoàn thiện trong cả quá trình giáo dục, tự giáo dục, rèn luyện trong hoạt động thực tiễn của mỗi cá nhân, thậm chí qua quá trình đấu tranh, thử thách của cuộc sống.

Lương tâm có thể được hiểu như tiếng nói bên trong đầy quyền uy chỉ dẫn, thôi thúc con người ta làm những điều tốt, ngăn cản, chỉ trích làm những điều xấu.

Theo quan điểm biện chứng của đạo đức học thì lương tâm là ý thức trách nhiệm và tình cảm đạo đức của cá nhân về sự tự đánh giá những hành vi, cách cư xử của mình trong đời sống xã hội. Sự hình thành lương tâm là quá trình phát triển lâu dài từ thấp đến cao trong quá trình lao động sản xuất và giao tiếp xã hội. Có thể nêu ra các mức độ phát triển của lương tâm như sau:

Ý thức về cái cần phải làm do sự sợ hãi bị trừng phạt bởi thiết chế xã hội hoặc ý niệm tâm linh.

Ý thức về cái cần phải làm, cần phải tránh vì xấu hổ trước người khác và trước dư luận xã hội.

Ý thức về cái cần phải làm vì xấu hổ với bản thân. Khi cá nhân xấu hổ với bản thân, với những hành vi của mình là bước đầu của cảm giác lương tâm. Từ cảm giác đó đến sự phán xét các suy nghĩ, hành vi của mình thì đó chính là lương tâm. Vì thế lương tâm có quan hệ chặt chẽ với ý thức nghĩa vụ của con người.

Khi con người làm những điều xấu, độc ác thì lương tâm cắn rứt. Trái lại khi cá nhân làm những điều tốt, cao thượng thì lương tâm thanh thản. Do vậy, trong cấu trúc của lương tâm tồn tại khái niệm xấu hổ, hối hận. Giữ cho lương tâm trong sạch là một tiêu chí hạnh phúc và tiêu chí sống của con người.
Thiện và Ác là cặp phạm trù đối lập nhau trong mọi thời đại, là thước đo đời sống đạo đức của mọi cá nhân. Thiện và Ác cũng là phạm trù cơ bản làm thước đo đời sống đạo đức của con người.

Cái Thiện là cái tốt đẹp biểu hiện lòng nhân ái của con người trong cuộc sống hàng ngày. Đó chính là hành vi thể hiện lợi ích của cá nhân phù hợp với yêu cầu và sự tiến bộ xã hội. Cái thiện phải được thể hiện qua việc góp phần thúc đẩy sự tiến bộ xã hội, đem lại lợi ích cho mọi người trong xã hội. Hồ Chí Minh đã nói: “Việc thiện thì dù nhỏ đến mấy cũng làm, việc ác thì dù nhỏ đến mấy cũng tránh” (Hồ Chí Minh, Về vấn đề giáo dục, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1990, tr. 55). Là cái thiện là phấn đấu cho cuộc sống của con người ngày càng trở nên cao thượng hơn, tốt đẹp hơn và giàu tính nhân văn hơn.

Cái Ác là cái đáng ghét, ghê tởm, cái cần phải gạt bỏ trong đời sống cá nhân và xã hội. Cái ác làm mất đi cái văn hóa, văn minh, cao thượng của cuộc sống con người. Quan điểm về thiện và ác mang tính lịch sử và có thể hoán đổi cho nhau. Cái thiện và ác được chúng ta đánh giá tuỳ vào nó có thúc đẩy hay cản trở sự phát triển của xã hội, hạnh phúc của con người".
Cũng theo Wikipedia:
"Đạo: Đường đi, hướng đi, lối làm việc, ăn ở.
Đức: Theo Khổng Tử, sống đúng luân thường là có Đức. Theo Đạo (Lão Tử) tu thân tới mức hiệp nhất với trời đất, an hoà với mọi người là có Đức".

"Đạo đức được xem là khái niệm luân thường đạo lý của con người, nó thuộc về vấn đề tốt-xấu, hơn nữa xem như là đúng-sai, được sử dụng trong 3 phạm vi: lương tâm con người, hệ thống phép tắc đạo đức và trừng phạt đôi lúc còn được gọi giá trị đạo đức; nó gắn với nền văn hoá, tôn giáo, chủ nghĩa nhân văn, triết học và những luật lệ của một xã hội về cách đối xử từ hệ thống này.

Đạo đức thuộc hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, qui tắc nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau, với xã hội,với tự nhiên trong hiện tại hoặc quá khứ cũng như tương lai chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội.

Đạo đức là một hiện tượng lịch sử và xét cho cùng, là sự phản ánh của các quan hệ xã hội. Có đạo đức của xã hội nguyên thuỷ, đạo đức của chế độ chủ nô, đạo đức phong kiến, đạo đức tư sản, đạo đức cộng sản. Lợi ích của giai cấp thống trị là duy trì và củng cố những quan hệ xã hội đang có; trái lại, giai cấp bị bóc lột tuỳ theo nhận thức về tính bất công của những quan hệ ấy mà đứng lên đấu tranh chống lại và đề ra quan niệm đạo đức riêng của mình. Trong xã hội có giai cấp, đạo đức có tính giai cấp. Đồng thời, đạo đức cũng có tính kế thừa nhất định. Các hình thái kinh tế - xã hội thay thế nhau, nhưng xã hội vẫn giữ lại những điều kiện sinh hoạt, những hình thức cộng đồng chung. Tính kế thừa của đạo đức phản ánh "những luật lệ đơn giản và cơ bản của bất kì cộng đồng người nào" (Lênin). Đó là những yêu cầu đạo đức liên quan đến những hình thức liên hệ đơn giản nhất giữa người với người. Mọi thời đại đều lên án cái ác, tính tàn bạo, tham lam, hèn nhát, phản bội... và biểu dương cái thiện, sự dũng cảm, chính trực, độ lượng, khiêm tốn... "không ai nghi ngờ được rằng nói chung đã có một sự tiến bộ về mặt đạo đức cũng như về tất cả các ngành tri thức khác của nhân loại" (Enghen). Quan hệ giữa người với người ngày càng mang tính nhân đạo cao hơn. Ngay trong xã hội nguyên thuỷ đã có những hình thức đơn giản của sự tương trợ và không còn tục ăn thịt người. Với sự xuất hiện của liên minh bộ lạc và nhà nước, tục báo thù của thị tộc dần dần mất đi. Xã hội chủ nô coi việc giết nô lệ là việc riêng của chủ nô, đến xã hội phong kiến, việc giết nông nô bị lên án. Đạo đức phong kiến bóp nghẹt cá nhân dưới uy quyền của tôn giáo và quý tộc; đạo đức tư sản giải phóng cá nhân, coi trọng nhân cách. "Nhưng chúng ta vẫn chưa vượt được khuôn khổ của đạo đức giai cấp. Một nền đạo đức thực sự có tính nhân đạo, đặt lên trên sự đối lập giai cấp và mọi hồi ức về sự đối lập ấy chỉ có thể có được khi nào xã hội đã tới một trình độ mà trong thực tiễn của đời sống, người ta không những thắng được mà còn quên đi sự đối lập giai cấp" (Enghen). Đó là trình độ của xã hội tương lai, xã hội cộng sản chủ nghĩa".

"Đạo đức vừa có tính đa dạng và uyển chuyển, vừa có tính bất biến tương đối"

"Một số quan điểm về đạo đức:
- Khi đạo Bàlamôn ở Ấn Độ đang thống trị với sự phân chia đẳng cấp sâu sắc trong xã hội, nỗi bất bình của thái tử Tất Đạt Đa về sự phân chia đẳng cấp, kì thị màu da và đồng cảm với nỗi khổ của muôn dân đã dẫn đến sự hình thành một tôn giáo mới. Sau này, khi môn đệ của Phật Thích Ca thắc mắc tại sao các pháp sư Bàlamôn tự xưng là cao cấp và khinh rẻ đẳng cấp mà Đức Phật xuất thân, ngài trả lời (Trường Bộ Kinh):
"Các vị Bàlamôn sinh ra từ cửa miệng Phạm Thiên chăng? Đâu có...,làm gì mà các vị ấy cao cấp được? Chỉ những ai có đủ đạo đức lương thiện là cao cấp, còn lại là ti tiện".
- Theo Trang Tử:
"Cả những bậc đạo đức cao siêu không hẳn rõ tài hay bất tài, lúc lên lúc xuống, chỉ cốt lấy được hòa làm mức phiên việt cả muôn vật...Những bậc như thế thì không gì lụy đến thân được! Còn thói đời thường thì tính nào có thể? Hợp với người thì có lúc hòa tan, làm nên việc thì có người nghị luận, ngay thẳng thì bị đè nén, tôn trọng thì bị chê bai, làm thì có kẻ phá, giỏi thì có kẻ ghen, không ra gì thì thiên hạ lại khinh bỉ...Nhân tình như thế, làm thế nào được! Thương ôi! Các ngươi nên ghi lòng, chỉ có đạo đức mới khỏi lụy mà thôi".
- Theo Hồ Chí Minh:
"Một dân tộc, một đảng và mỗi một con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân. Cho nên trong khi ta kiên trì và đẩy mạnh cuộc chiến đấu chống Mỹ, cứu nước, làm cho văn minh chiến thắng bạo tàn thì đồng thời phải loại trừ những cái xấu xa do chế độ cũ để lại trong xã hội và trong mỗi con người". "Muốn hướng dẫn nhân dân mình thì cán bộ, đảng viên phải làm mực thước trước cho người khác làm theo. Nói đi đôi với làm, phải nêu gương đạo đức"".
Trên trang mạng Internet "http://bacninh.edu.vn", trong bài "Khái niệm về đạo đức" của Nguyễn Thị Cảnh Dương có viết:
"Chuẩn mực đạo đức của một thế hệ phản ánh thế giới tinh thần, trình độ văn minh của thế hệ đó. Tiêu chuẩn đạo đức chính là sự kết tinh những gì tinh tuý nhất, giá trị nhất mà con người đã tích luỹ được trong quá trình phát triển nền văn hoá nhân loại".
Theo từ điển Tiếng việt của Viện ngôn ngữ học, Nhà xuất bản Đà Nẵng 2002:
“Đạo đức là những nguyên tắc được dư luận xã hội thừa nhận, qui định hành vi quan hệ của con người đối với nhau và đối với xã hội”, “là phẩm chất tốt đẹp của con người do tu dưỡng theo những chuẩn mực đạo đức mà có”.
Theo Phạm Khắc Chương, Hà Nhật Thăng
“Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp những qui tắc, nguyên tắc, chuẩn mực xã hội nhờ đó mà con người tự giác điều chỉnh hành vi của mình sao cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của con người và với tiến bộ xã hội trong quan hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân với xã hội”.

"Trong mối quan hệ vô cùng phong phú và phức tạp với thế giới xung quanh con người phải luôn luôn giao tiếp. Nếu thái độ, hành vi của họ phù hợp với yêu cầu, lợi ích chung của cộng đồng; phù hợp với hạnh phúc và tiến bộ chung của xã hội thì con người đó được đánh giá là có đạo đức. Ngược lại, hành vi thái độ của họ không phù hợp, gây tổn hại tới lợi ích người khác thì bị xã hội lên án, chê trách và bị coi là thiếu đạo đức.

Chuẩn mực đạo đức của một thế hệ phản ánh thế giới tinh thần, trình độ văn minh của thế hệ đó. Tiêu chuẩn đạo đức chính là sự kết tinh những gì tinh tuý nhất, giá trị nhất mà con người đã tích luỹ được trong quá trình phát triển nền văn hoá nhân loại.

Chuẩn mực đạo đức giúp con người điều chỉnh những mối quan hệ hiện hữu giữa con người với thế giới xung quanh, những mối quan hệ đó phụ thuộc vào đặc điểm của chế độ xã hội nên đạo đức luôn mang tính giai cấp. Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, nó quan hệ mật thiết với các hình thái ý thức xã hội khác như chính trị, hệ thống quan điểm, tư tưởng, thể hiện lợi ích căn bản của một giai cấp nhất định.

Đạo đức cũng gắn bó với pháp luật, nó cùng có mục đích, nhiệm vụ nhằm điều chỉnh đánh giá các mối quan hệ giữa con người với thế giới xung quanh.

Đạo đức và pháp luật cùng chống lại cái ác, làm điều thiện, xây dựng cuộc sống bình yên, tươi đẹp.

Các giá trị đạo đức truyền thống tồn tại và phát triển trong xã hội dưới dạng đối lập sau: Thiện và ác; Có lương tâm và bất lương; Có trách nhiệm và vô trách nhiệm; Có hiếu và bất hiếu; Có nghĩa và bất nghĩa…

Các giá trị đạo đức kế thừa và phát triển các đức tính tốt đẹp: Tính ngay thẳng và lòng trung thực; Tính nguyên tắc và sự kiên tâm; Tính khiêm tốn và sự lễ độ; Tính hào hiệp và sự tế nhị; Tính tiết kiệm và sự giản dị; Lòng dũng cảm và phẩm chất anh hùng…

Khái niệm đạo đức XHCN (xã hội chủ nghĩa) được thể hiện trong những nguyên tắc, yêu cầu chuẩn mực sau: Yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội; Yêu lao động; Có tinh thần tập thể, ý thức cộng đồng, đoàn kết; Có tính kỷ luật cao; Có tinh thần quốc tế XHCN trong thời đại mới; Nếp sống văn minh…

Đạo đức là tổng hợp các qui tắc, tiêu chuẩn chỉ đạo mối quan hệ giữa con người với con người trong một cộng đồng, một xã hội nói chung. Cho dù ở giai đoạn nào của lịch sử thì nét chung của đạo đức vẫn là hướng tới cái thiện, chống lại cái ác, hướng tới quan hệ đẹp đẽ giữa con người với con người, con người với tự nhiên và xã hội; đồng thời cũng là khẳng định sự tự tu dưỡng giáo dục của mỗi cá nhân. Từ xa xưa ông cha ta đã rất coi trọng và đề cao giáo dục đạo đức của con người. Bác Hồ của chúng ta cũng đã từng nói: “Có Đức mà không có Tài thì làm việc gì cũng khó, có Tài mà không có Đức là người vô dụng”. Bác còn chỉ rõ: “Dạy cũng như học phải chú trọng cả Đức lẫn Tài. Đức là đạo đức cách mạng, đó là cái gốc rất quan trọng”. Công tác giáo dục đạo đức trong nhà trường là một bộ phận quan trọng có tính chất nền tảng của giáo dục trong nhà trường XHCN".

Dưới đây là một số danh ngôn về đạo đức:

-Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông.
Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc
Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính.
Thiếu một mùa, thì không thành trời.
Thiếu một phương, thì không thành đất
Thiếu một đức, thì không thành người.
-Đạo đức cách mạng không phải là từ trên trời rơi xuống, nó được phát triển và củng cố trong đấu tranh và rèn luyện kiên trì hàng ngày, giống như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng tinh.
Hồ Chí Minh

Hiếu thảo là nguồn gốc của đạo đức.
Khổng Tử

Tri thức trở thành tàn ác nếu mục tiêu không có đạo đức.
Plato 

Không có đạo đức, và không có sự chính trực, những tài năng vượt trội nhất và những thành tựu rực rỡ nhất không bao giờ có thể nhận được sự tôn trọng và thu được lòng kính mến của nhóm người có giá trị nhất trong nhân loại.
George Washington

-Xuất thân và sự giàu sang kết hợp cùng nhau đã thắng thế đạo đức và tài năng trong mọi thời đại.

-Hạnh phúc, cho dù dưới chế độ chuyên quyền hay dân chủ, cho dù trong sự nô lệ hay tự do, không bao giờ đạt được nếu ta không có đạo đức.
-Quyền lực luôn luôn thu hút những kẻ không có đạo đức.
John Adams

Không bao giờ có một người thực sự vĩ đại mà lại không phải là một người thực sự đạo đức.
Benjamin Franklin

-Đạo đức không gì hơn là lòng tôn kính cuộc sống.
-Tôi sẽ cho anh định nghĩa về đạo đức: Luôn tốt khi duy trì và nuôi dưỡng cuộc sống, luôn xấu khi gây thương tổn và phá hủy cuộc sống.
-Một người chỉ thực sự có đạo đức khi anh ta phục tùng sự thôi thúc muốn giúp tất cả mọi sinh mệnh anh ta có thể giúp được và lùi lại không làm tổn thương tới bất cứ sinh linh nào.
-Hạnh phúc, cho dù dưới chế độ chuyên quyền hay dân chủ, cho dù trong sự nô lệ hay tự do, không bao giờ đạt được nếu ta không có đạo đức.
Albert Schweitzer

Giáo dục là nghệ thuật biến con người thành có đạo đức.
Hegel

-Đức hạnh là nền tảng của mọi thứ và chân lý là bản chất của mọi đức hạnh. 
-Tôi phản đối mọi học thuyết tôn giáo không phù hợp với lý trí và xung đột với đạo đức.
Mahatma Gandhi

Người không có đạo đức giống như con thú hoang bị thả rông vào thế giới.

Albert Camus

Sự khác biệt giữa người có đạo đức và người có danh dự là người sau hối tiếc hành động nhục nhã, ngay cả khi nó thành công và anh ta không bị bắt quả tang.
Henry Louis Mencken

Chuẩn mực đạo đức tự biến đổi phù hợp với điều kiện môi trường.
Will Durant

Nhận thức về cái đẹp là một bài kiểm tra đạo đức.
Henry David Thoreau

Đức hạnh là cuộc chiến, và để sống trong nó, chúng ta luôn phải chiến đấu với bản thân mình.
Jean Jacques Rousseau

Không thể sống dễ chịu nếu không sống hợp lý, có đạo đức và đúng đắn, ngược lại; không thể sống hợp lý, có đạo đức và đúng đắn mà lại không dễ chịu.
Ê. Pi - quya
 
Không có đức mà nhiều của là cái mầm tai họa.
Tiềm Phu
 
Đạo đức và tài nghệ có thể làm cho một người bình thường trở thành bất hủ.
W. Shakespeare
 
Có hai sức mạnh mang đến sự yên ổn: pháp luật và đạo đức.
Geothe (Đức)
 
Một người chân chính phải trải qua thời gian rất lâu mới nhìn ra, một người xấu chỉ cần một ngày thì đã nhận ra.
Sophocles (Hy Lạp)
 
Pháp luật là đạo đức biển hiện ra bên ngoài, đạo đức là pháp luật ẩn giấu bên trong.
Lincoln (Mỹ)
 
Đạo đức cao thượng nhất của nhân loại là gì? Đó chính là lòng yêu nước.
Napoleon (Pháp)
 
Cái gọi là cuộc sống hạnh phúc, là dựa vào đạo đức mà sống.
Aristotle (Hy Lạp)
 
Đạo đức là bông hoa của chân lý.
Hugo (Pháp)
 
Người chấp nhặt là người đáng ghét, vì người ấy làm hại đạo đức. Lời một việc mà bỏ lỡ trăm việc.
Mạnh Tử
 
Khi luật pháp trở nên bạo ngược, đạo đức bị buông thả, và ngược lại.
Balzac
Cho dù một người có mặc áo đẹp, nếu anh ta sống yên bình; và tử tế, bình tĩnh, có đức tinh và trong sáng; và nếu anh ta không làm hại sinh linh nào, đó là con người thánh thiện.
Denis Diderot

Không có đạo đức công dân, xã hội sẽ diệt vong; không có đạo đức cá nhân, sự sinh tồn của con người cũng mất đi giá trị. Vì vậy, đối với một thế giới tốt đẹp thì đạo đức công dân và đạo đức cá nhân đều cần thiết như nhau.
Russell (Anh)

Đức có thể chia làm 2 loại: một là đức của trí tuệ, hai là đức của hành vi. Cái trước có được trong học tập, cái sau có được trong thực tiễn.
Aristotle (Hy Lạp)

Dùng lửa không thể dập tắt lửa, giống như vậy dùng sức mạnh tà ác cũng không thể diệt trừ tà ác.
Gorky (Liên Xô)

Thành thực là chương đầu của cuốn sách trí tuệ.
Jefferson (Mỹ)

Muốn nước giàu dân mạnh, điều quan trọng là phải biết nghe lời can gián của đấng trung thần. Lời nói ngay nghe chướng tai nhưng có lợi cho việc làm. Thuốc đắng khó uống nhưng chữa được bệnh...Phải xem quyền hành là một thứ đáng sợ. Quyền lực và danh vọng thường làm thay đổi con người. Tự mình tu đức để giáo hóa dân thì sâu hơn mệnh lệnh. Dân bắt chước người trên thì nhanh hơn pháp luật. Muốn nước mạnh hoàng đế phải nhân từ với muôn dân. Phàm xoay cái thế thiên hạ ở nhân chứ không phải ở bạo. Hội đủ những điều ấy, nước Đại Việt sẽ vô địch.
Ỷ Lan
Sau đây là chuẩn mực đạo đức của Thiên Chúa Giáo, đã được đúc kết lại thành mười điều răn:
"1-Thờ phượng Đức Chúa Trời và kính mến Ngài trên mọi sự
2-Chớ kêu tên Đức Chúa Trời vô cớ
3-Giữ gìn ngày Chúa Nhật
4-Thảo kính cha mẹ
5-Chớ giết người
6-Chớ làm sự dâm dục
7-Chớ lấy của người
8-Chớ làm chứng dối
9-Chớ muốn vợ (hay chồng) người
10-Chớ tham của người"


Và theo wikipedia, 5 điều răn (ngũ giới) trong Phật Giáo:
"1-Tránh xa sát sinh.
  2-Tránh xa sự trộm cắp.
  3-Tránh xa sự tà dâm.
  4-tránh xa sự nói dối.
  5-Tránh xa sự dễ dãi uống rượu".
  
Trên trang mạng "sangdaotrongdoi.vn" có bài viết "Giới luật là nền tảng đạo đức Phật Giáo" của Tuệ Giác, chúng ta trích đoạn:
'Trong xã hội ngày nay, mọi giá trị về khoa học kĩ thuật, văn hóa, chính trị, các học thuyết tôn giáo đều chịu ảnh hưởng tương tác, Phật giáo lại càng không ngoại lệ. Phật giáo xuất hiện và tồn tại trên thế gian vì muốn làm vơi bớt nỗi đau thương của nhân loại và hơn thế nữa là hướng dẫn mọi người trong việc kiến tạo đời sống an lạc căn cứ trên nền tảng đạo đức, trí tuệ và từ bi.

Lật lại sách sử, hình ảnh các vị Thiền sư, nhất là vào thời Lý, Trần luôn sống đúng lời dạy của Đức Phật: “Này các Tỳ -kheo! Hãy du hành vì lợi ích và hạnh phúc của chư thiên và loài người”, và hành động theo chuẩn mực đạo đức được xây dựng trên nền tảng giới luật. Trong đó, năm giới là nền tảng đạo đức vững chãi nhất để bảo vệ hòa bình, an lạc và đem lại hạnh phúc cho nhân loại. Đây là lối sống thiết thực, thể hiện sự bình đẳng, nhân bản, dân chủ và cũng là nền đạo đức chuẩn mực của con người sống trên hành tinh này. Giá trị toàn cầu của nó đã được các nhà đạo đức học, xã hội học, triết học trên thế giới công nhận. Ông Albert Schweitzer, nhà triết học người Đức viết “Đức Phật đã sáng tạo ra nền đạo đức nội tâm hoàn thiện qua năm điều răn cấm đầu tiên của Ngài và là một trong những nhà đạo đức học vĩ đại kỳ tài nhất mà thế giới có được”.
(Chúng ta hỏi: suốt hơn 2000 năm nay, Nhà Phật "sống thong thả" được là hầu như nhờ vào sự "nuôi dưỡng" của bá tánh, "tốn kém" như vậy nhưng đã "xả thân", "góp công" một cách thiết thực đến mức nào trong việc ngăn chặn chiến tranh, "biến" nguyện vọng được sống trong hòa bình, ấm no, hạnh phúc của bá tánh thế giới thành hiện thực, hay cũng chỉ là "kêu gọi", "ru ngủ" và "rao giảng" một cách "mông lung", "sáo rỗng" như mọi tôn giáo khác!?).

Thật vậy, không sát sanh là nuôi dưỡng lòng từ bi, tôn trọng lẽ công bằng nhân đạo đối với đồng loại và tất cả chúng sanh, nhờ đó mà xua tan bóng tối sân hận và ganh ghét. Trong tâm thức mỗi người nếu thiếu căn bản đạo đức này, dù có nói đạo đức cao siêu đến đâu cũng chỉ là lời nói suông, là người mất nhân tính và hủy hoại lương tri. Bởi vì “Ai cũng sợ gươm đao, ai cũng thích sống còn.” Bởi vì, khổ đau do sự sát hại gây ra, nếu chúng ta biết phát triển lòng từ bi, lấy đó làm nguồn năng lượng để bảo vệ con người, cỏ cây, cầm thú, và đất đá, thì khả năng làm vơi nhẹ và chuyển hóa khổ đau rất lớn. Khi thấy được nỗi khổ thì tâm Bi phát sinh trong ta. Với tình thương, năng lượng của chúng ta được sinh ra từ tuệ giác. Khi chúng ta không có sự hiểu biết đúng đắn về một hoàn cảnh hay một con người, suy nghĩ của ta có thể lầm lạc và gây ra hoang mang, tuyệt vọng, giận hờn, hay thù hận. Vì thế, chúng ta luôn nuôi dưỡng chánh niệm mỗi ngày và tưới tẩm những hạt giống bình an trong ta và trong những người xung quanh, ta sẽ trở nên sống động, và có thể giúp cho chính mình cũng như những người khác đạt đến sự bình an. Sự sống thật quý giá, vậy mà trong đời sống hằng ngày, chúng ta thường bị cuốn theo những quên lãng, giận hờn, và lo lắng, đắm chìm trong quá khứ, và không có khả năng tiếp xúc với sự sống trong giờ phút hiện tại.(
Chúng ta hỏi: không sẵn có ăn, nếu không lo lắng đến công ăn chuyện làm thì...làm sao sống?).
(...).
Khi chúng ta biết trân quý cái đẹp của sự sống, chúng ta sẽ làm bất cứ việc gì trong khả năng mình để bảo vệ cả cuộc đời. (
Chúng ta hỏi: cố như vậy có phạm vào khẩu hiệu "vô chấp bầt cầu" không?).

Ý thức được những khổ đau do lường gạt, trộm cướp, và bất công xã hội gây ra, chúng ta thực hành hạnh đại Từ để đem lại niềm vui, sống an lạc cho mọi người và mọi loài. Chúng ta cần phải học nhìn sâu để biết cách biểu lộ lòng Từ ấy. Nếu mỗi người, mỗi nhà đều giữ giới thanh tịnh thì chiến tranh nào xảy ra và hận thù nào sanh khởi. Đó chính là thể hiện cách sống hài hòa với tha nhân, biết chia sẻ niềm vui và nỗi khổ cho nhau. Khi giới “Đạo” được tuân giữ thì thành tựu được lòng tin và mối giao hảo đối với người khác không còn vướng bận nỗi sợ hãi. Hành vi trộm cắp như buôn lậu, tham nhũng, việc khai thác tài nguyên bừa bãi, giết hại loài động vật quí hiếm, là những việc làm phi nhân bản. Cho nên Phật dạy mỗi người cần phải sống trung thực, lương thiện, tuyệt đối không xâm phạm của cải và làm giàu bằng mồ hôi nước mắt của kẻ khác, bằng sự lừa lọc, thiếu đạo đức, bởi chính tác hại của trộm cướp, tham nhũng làm bại hoại đạo đức của con người.

Ngoài quan hệ vợ chồng chính thức, tất cả những quan hệ nam nữ luyến ái khác không xâm phạm gọi là không tà dâm. Không tà dâm là bảo vệ nhân cách của mình, bảo vệ thuần phong mỹ tục, tạo đời sống ổn định về tinh thần.
(...)
Không nói dối tức là không nói những lời trái với sự thật để mưu cầu lợi mình hoặc hại người. Nói dối khiến mất lòng tin, thường lo sợ ảnh hưởng tiêu cực đến xã hội. Nếu mọi người sống chung đều nói dối lẫn nhau, đó là dấu hiệu của sự tan rã, gia đình ly tán, giá trị đạo đức sẽ không tồn tại. Ngược lại, tất cả mọi người đều sống chân thật, thì xã hội sẽ bớt đi những tệ nạn trộm cắp, tham ô, dối gạt và hạnh phúc luôn ngự trị trong mỗi gia đình, xã hội từ đó sẽ được an bình thịnh vượng.

Không uống rượu, giới này ta không thấy ở các tôn giáo khác. Tuy nghe có vẻ như bình thường, nhưng thực chất nó rất quan trọng. Bởi vì, giới này không những làm cháy gan, thui phổi mà còn là nguyên nhân sanh ra các tội lỗi và làm mất giống trí tuệ. Thuốc độc chỉ giết người trong một đời còn rượu giết người trong hiện tại và tương lai. Thực tế cho thấy, say rượu là nguyên nhân làm tan nhà nát cửa, gây gỗ, đánh chém, tai nạn giao thông, v.v...
(...)
Năm giới của Phật giáo không mâu thuẫn với luật pháp của bất kỳ quốc gia nào. Bởi vì, mục đích của nó là đào tạo con người toàn diện xây dựng thế giới an lạc, hạnh phúc. Năm giới không những là căn bản phạm hạnh mà còn là căn bản cho sự thăng tiến tâm linh, là phương tiện để người tu tập đạt được tâm an lạc, giải thoát mọi khổ đau. Vì vậy, tác dụng của nó vô cùng to lớn đối với tha nhân và xã hội, mang lại lợi ích thiết thực cho cả thế gian và xuất thế gian. Ngày nay, lễ truyền thọ Tam quy, Ngũ giới được tổ chức nhiều lần trong năm, làm nền tảng cho việc giáo hóa nhân sinh. Đây cũng chính là tinh thần nhập thế của đạo Phật.

Như thế, các tôn giáo đều chịu ảnh hưởng tương tác trong xã hội. Nếu đem Ngũ giới của Phật giáo so với Ngũ thường (nhân, nghĩa, lễ, trí, tín) của Nho giáo ta thấy có chỗ tương đồng. Với nền tảng trên, Khổng Tử nhằm mục đích xây dựng, đào tạo nên mẫu người nhân nghĩa, có phẩm hạnh tốt, có kiến thức rộng rãi và sự tín nhiệm của người khác, trên tinh thần đó sẽ đạt đến mức chí thiện, hoàn thành nhân cách con người. Rồi lấy đó làm khuôn vàng thước ngọc trong việc ứng xử với những người chung quanh trong quan hệ vua tôi, cha con, vợ chồng, tạo nên một mối giao hảo, góp phần xây dựng xã hội thái bình thịnh trị. Nền tảng ấy xây dựng theo một khuôn mẫu ước lệ, chỉ vì hạnh phúc và đời sống của cá nhân là phần lớn, nên có tính cách không phổ quát. Kim chỉ nam của đạo đức Nho giáo là tích cực vào đời để truyền bá đạo mang lại an vui và hạnh phúc chỉ trong phạm vi giới hạn. Cũng vậy, Nho giáo với phương châm: “Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Bình thiên hạ để làm chủ thiên hạ, trị quốc để cứu nước được an bình, tề gia để nhà được yên vui hạnh phúc và tu thân để thực hiện các mục đích trên và cá nhân mình được lợi lạc. Tất cả nhằm phục vụ xã hội để xã hội phục vụ lại cho chính mình. Từ đó ta thấy nó mang nặng tính thế gian, không chú trọng về mặt tâm linh, do vậy không thể đưa con người đến giác ngộ giải thoát.
(Chúng ta nói: trong hiện thực, hoạt động tuyên truyền chuẩn mực đạo đức nói chung của Phật Giáo... cũng gần như "chót lưỡi đầu môi", cải lương thế thôi, thậm chí đôi chỗ, đôi khi có hiệu quả..."nói cho có", nếu không muốn nói là vô hiệu!).
(...)
Như vậy, trong giáo lý Phật Giáo, việc giáo dục là hướng dẫn mọi người sống đời sống đạo đức đúng với chánh pháp. Đó là cách sống mô phạm để người khác tu tập theo. Cũng thế, trong lĩnh vực tâm linh, giới luật là một dấu hiệu của sự chứng đắc tâm thức. Nó không những là phương tiện để cho bản thân người tu tập đạt được tâm hỷ lạc, và tác dụng của nó cũng vô cùng lớn lao đối với tha nhân và xã hội. Lại nữa, Phật Giáo xây dựng đạo đức trên nền tảng trí huệ, mà muốn đạt được trí huệ phải lấy giới làm gốc để trau dồi thân tâm. Thiết nghĩ, giới luật căn bản năm giới không chỉ áp dụng đem lại kết quả tốt đẹp cho tăng chúng và hàng cư sĩ tại gia mà còn có thể áp dụng thích hợp cho bất cứ cá nhân nào trong xã hội. Đối với hàng tăng ni trẻ ngày nay, nên phương tiện đưa giới luật vào cuộc đời bằng khí thở đạo đức, bằng thức ăn phạm hạnh và lấy việc tu dưỡng thân tâm làm hành trang để kiến tạo một xã hội an bình và hạnh phúc".
Trong trích đoạn vừa nêu, nếu thay một số thuật ngữ chuyên dùng của Nhà Phật bằng những thuật ngữ thông dụng, thì...bất kỳ nhà rao giảng đạo đức chân chính "ngoại giáo" nào cũng nói ra được "những lời có cánh" đại loại... như thế!

(Xin nhấn mạnh, về mặt tình cảm, chúng ta tôn trọng các niềm tin tôn giáo và hơn nữa rất mến mộ những tôn giáo luôn thành tâm "giương cao ngọn cờ" yêu thương đồng loại, răn dạy những điều cao cả, thánh thiện trước đại chúng nhân quần dù có phần xa vời, phi thực tế, nhưng về mặt lý trí, chúng ta coi bất cứ tôn giáo nào, triết thuyết nào cũng là đối tượng bình đẳng trên "bàn tròn biện luận triết học", vì mục đích duy nhất của chúng ta (những kẻ nhà quê ít học nhưng tò mò "đến phát sợ") là cố gắng hết trí lực để cầu may (biết đâu đấy!) tiếp cận được chân lý tối thượng-căn nguyên đích thực của Tự Nhiên Tồn Tại. Đại Chúng ơi, hãy thông cảm cho...Thầy Cãi nhé!!!).
Quan niệm nói chung về đạo đức hiện nay (mở rộng ra, gồm của mọi "triết", mọi "đạo", kể cả đạo Phật-đạo được bá tánh phương Đông thừa nhận là giàu tình thương nhất, cái đạo "ngời ngời" là "giáo" mà cứ "khăng khăng" tự gắn nhãn mác cho mình là "thuần triết", tín ngưỡng rành rành mà cứ nói là duy lý!), rõ ràng là còn "vòng vo", chưa đích đáng, chưa chỉ ra được một cách rạch ròi và dứt khoát căn nguyên tự nhiên khách quan phát sinh ra chuẩn mực đạo đức, do đó mà có sự "kêu gọi" tình yêu thương "hơi bị" tràn lan nhưng vẫn ở mức độ còn "lỏng lẻo", "nhạt nhòa" (đôi khi dễ bị đàm tếu như "lao động là vinh quang", "yêu CNXH", "kính Chúa yêu nước", "vì nhân dân quên mình", hay theo lời Phật: “Hãy phấn đấu vì hạnh phúc và an lạc của những người khác”, “Phục vụ là hạnh phúc và hạnh phúc chính là phục vụ”,...), gây ra sự "ú ớ" cho đại chúng trong việc nhận thức chuẩn mực đạo đức, nhất là vẫn còn nhiều lẫn lộn khi đặt nó trong mối liên quan tới hai khái niệm "văn hóa" và "văn minh". 
Nếu xét đến tận cùng khách quan, loài người chỉ có duy nhất một chuẩn mực đạo đức mà theo chúng ta, Lão Tử được coi như là người đầu tiên của nhân loại chính thức nêu ra nội dung cốt lõi, giản dị của nó. Nhưng thể hiện cô đọng nhất, thâm thúy nhất mà cũng dễ "thấy" nhất (nghĩa là ngàn đời nay, nếu nói ra thì ai cũng "gật đầu", "ngộ" được ngay!), không hề có tính "rao giảng", "lên dây cót não trạng" về quan niệm đạo đức, chắc phải là câu này của nhà triết học S. Radhakrishnan: "Hãy sống và hãy để người khác sống với". Và từ đó cũng có thể rút ra được nội dung "căn cốt" của chuẩn mực "muôn đời" về đạo đức xã hội, mà nếu xét ở góc độ "vô cảm", thì chắc là "Biết hòa hợp với cuộc sống đồng loại trong sự gìn giữ cuộc sống mình", còn nếu xét ở góc độ "hữu tình", thì chắc là "Biết trân trọng cuộc đời đồng loại như trân trọng cuộc đời mình". 
Trong thực tiễn vận động xã hội, trong những lĩnh vực, trường hợp cụ thể của đời sống, nội dung đó được cảm nhận và được thi triển ở những cung bậc "nông-sâu" khác nhau, với những ít nhiều "biến thái" lệch nhau, thậm chí là mâu thuẫn nhau, tùy thuộc vào trình độ nhận thức cũng như mức độ từng trải cuộc sống, tùy thuộc vào tập quán, tín ngưỡng cũng như lập trường tư tưởng về thị phi xã hội, và cả tùy thuộc ít nhiều vào trạng thái thịnh-suy vật chất lẫn tinh thần của thời cuộc của chủ thể quan niệm (cá nhân, tầng lớp, đảng phái, quần thể...)...

"Chơi bời" vòng vo nãy giờ kể cũng "quá đã" rồi, chúng ta nên quay lại "kết" cho xong câu chuyện về "ông" Charvaka.

Tóm lại, dù sinh ra để rồi lại chết đi như chưa hề được sinh ra thì sự sinh ra ấy cũng vẫn là nỗ lực vì sự sống, hun đúc nên sự "cố gắng" tìm ăn, sự "ra sức" tự vệ nhằm duy trì sống còn ở mỗi sinh thể, mà đối với con người, sống và hơn nữa được sống trong ấm no vui sướng đã trở thành mục đích ưu tiên tối thượng của ý chí. Nguyện vọng trước hết và tha thiết nhất ở mỗi con người bình dân nói riêng và toàn thể tầng lớp bình dân (đóng vai trò nền tảng xã hội) nói chung là được sống trong an lành, được thừa hưởng một cách thích đáng trong công bằng thành quả lao động mà bản thân mình tạo ra. Vào thời Ấn Độ cổ đại giai đoạn Upanishad, sự phân liệt xã hội theo hướng bất công về quyền lợi ngày một sâu sắc giữa hai tầng lớp thống trị và bị trị, sự duy trì và tăng cường một cách có ý chí tình trạng "kẻ ăn không hết, người lần không ra" bằng bạo lực của giới hiệp sĩ quí tộc và phủ dụ của giới tăng lữ Bàlamôn, đã tất yếu làm nảy sinh tinh thần bất mãn, phản kháng ngày một tăng trong tầng lớp bị trị (tầng lớp, chủ yếu gồm đại chúng bình dân, rõ ràng là hứng chịu hầu như mọi bất công về quyền lợi trong xã hội, mà đã gọi là bất công thì mặc nhiên phải hàm chứa trong nó sự vô luân, thất đức rồi!). Đó là nguyên nhân trực tiếp làm nảy sinh ra những nghi vấn từ đại chúng bình dân đối với định ước chân lý của giáo thuyết Bàlamôn. Nếu sự bất mãn cuộc sống đã làm xuất hiện những nhân tố hình thành tư tưởng vô thần, thì việc tìm kiếm lời giải đáp trong hiện thực về sự tồn tại bất công xã hội đã làm xuất hiện những nhân tố hình thành chủ nghĩa duy vật Charvaka. 

Có thể nói hệ tư tưởng Charvaka trước hết là con đẻ của đại chúng bình dân Ấn Độ thời Upanishad, được sinh ra từ tinh thần bất mãn, phản kháng cũng như nguyện vọng chính đáng của họ nên về đại ý cũng hợp đạo và đức (nghĩa là hợp lẽ tự nhiên), sau đó là sự kết tinh lý luận lại cái tinh thần (hướng tới) duy vật của tín ngưỡng phồn thực ẩn chứa tiềm tàng trong thánh kinh Vêđa theo cách nhìn nhận được định hình từ thực tiễn xã hội sinh động của thời đại mới, của con người mới. Chính vì vậy mà chủ nghĩa duy vật Ấn Độ cổ đại, một mặt, nếu quan sát dưới góc độ như một chủ trương chính trị xã hội, theo quan điểm còn định kiến khinh thị giai cấp, và hơn nữa đã ít nhiều bị xuyên tạc bởi hệ thống giáo lý Bàlamôn đang thống trị tinh thần xã hội Ấn Độ lúc bấy giờ, thì hầu như chỉ thấy ở nó cái vẻ ngây ngô, thực dụng tầm thường kiểu "phàm phu tục tử", nhưng mặt khác, nếu quan sát trên bình diện một học thuyết triết học xã hội, một cách công tâm nhất, trên cơ sở quan niệm đạo đức bình dị nhất, do đó mà cũng khách quan nhất (và đó cũng chính là quan niệm đạo đức của đại chúng cần lao!), thì sẽ thấy được ở nó nổi bật lên một tầm vóc suy lý trác việt hàm chứa trong cái quan niệm đầy hợp lý và thấm đẫm nhân đạo về đời sống xã hội-nhân sinh của nó, hơn nữa là trong cái quan niệm xuất sắc về sự nhận thức, tiếp cận chân lý khách quan của nó (mà thậm chí đến tận hôm nay, không ít điều trong đó vẫn còn nét thâm hậu, chưa một ai thấu tỏ thực sự được!), với vai trò có ý nghĩa như bước đi tiên phong, sơ phác của nhân loại trên con đường dẫn tới chủ nghĩa thực chứng sau này trong nhận thức khoa học. 
Đúng là trên bàn tròn "công khai" tranh biện xã hội, sự hiển hiện của Charvaka như một "thực thể tư tưởng" của chủ nghĩa duy vật Ấn Độ cổ đại có tính "bạo phát bạo tàn", nhưng không phải như thế có nghĩa là nó đã bị "khai tử" trong đời sống tinh thần xã hội, mà trái lại, không những nó vẫn tồn tại hồn nhiên, bền bỉ dù bàng bạc, chân thực dù vô hình trong tâm tưởng đại chúng Ấn Độ, mà còn có tác động thực sự tích cực, vừa trực tiếp, vừa như một "xúc tác" làm chuyển biến nhận thức triết học về xã hội-nhân sinh theo hướng bớt mê muội hơn, bớt cuồng tín hơn, cũng có nghĩa là xác đáng hơn, phù hợp với thực tại cuộc sống hơn. Không thể nói khác được, dù nhận thức còn không ít thiển cận dẫn đến những biểu hiện cực đoan, bế tắc, (nhất là việc thẳng thừng phủ nhận sự tồn tại vong hồn, hiện tượng tinh thần cực kỳ huyền bí đối với suy lý và niềm tin duy vật từ quan sát trực giác nhưng cũng khó bài bác nó cho ra lẽ được, trước sự tồn tại đầy hư-thực của nó mà đại chúng đã chiêm nghiệm được từ lâu trong rất nhiều trường hợp, thuộc lĩnh vực tâm linh, lĩnh vực mà đến tận ngày nay vẫn không có cách nào làm cho thực sự sáng tỏ để chối bỏ hay xác nhận được và vì thế vẫn là "thử thách vàng đá" đối với triết học duy vật cũng như đối với khoa học thực nghiệm) do bị khống chế bởi trình độ hiểu biết hạn định mang tính thời đại (nhất là trong bối cảnh khoa học tự nhiên hầu như còn "trắng tay"), thì chủ nghĩa duy vật Ấn Độ cổ đại (có vẻ thực dụng và hướng tới thực chứng), dù không thể sánh được với Đạo của Lão Tử về sự cao diệu, cứ vẫn là thành quả đột khởi mang tính cách mạng về nhận thức tự nhiên-xã hội của nhân dân Ấn Độ nói riêng và của loài người nói chung.

(Nói thêm ngoài lề, chúng ta hiểu tâm linh là hiện tượng tinh thần xảy ra trong hiện thực, có thực nhưng huyền bí trước nhận thức khoa học. Thời xa xưa, tâm linh là lĩnh vực rất rộng, bao gồm ngoại cảm (hiện hồn, gọi hồn, thấu thị, thấu thính, thần giao cách cảm...), rồi thiền ngộ, tác dụng từ xa của khí công..., cho đến thôi miên, báo mộng..., thậm chí cả mộng du, giấc mơ... Ngày nay, nhờ tiến bộ khoa học-kỹ thuật đã giải tỏa được phần nào, dù chưa cơ bản, thì lĩnh vực tâm linh cũng đã bị thu hẹp lại. Chính điều này đã gợi ý cho chúng ta rằng dù có thể là lâu nhưng trước sau gì loài người cũng sẽ "nuốt trôi" được "cục xương" tâm linh (và cả "cục xương" UFO- vật thể không xác định được) trên cơ sở khoa học.
Theo ý kiến riêng tư, tâm linh hiện nay bao gồm từ những hiện tượng như đầu thai, gọi hồn, gặp người đã khuất (ngoại cảm tìm mộ ở VN)..., đến các hiện tượng như trí tuệ thần đồng, không học mà biết, tiên tri linh cảm tương lai xa... đều là những hiện tượng có thật. Do đó. không nên coi tâm linh là một thứ gì đó huyền bí, liệt nó vào mê tín dị đoan, mà phải coi nó có nguồn gốc khoa học và tương lai sẽ được giải thích một cách căn cơ bằng khoa học. 
Giả dụ, có thể đoán rằng, tương tự như cấu trúc nguyên tử, phân tử, nó vẫn được bảo lưu tồn tại khi sinh linh chết đi, khi cơ thể sinh linh phân rã. Bộ não người rất linh diệu, vận động cơ bản tương tự như nguyên lý cảm ứng điện từ và ta tạm gọi là "cảm ứng sinh học". Khi một người nào đó chết đi, có thể ở dưới tầng vi mô, cấu trúc vận động của bộ não ấy (nhất là những bộ não chết trẻ, chết oan) vẫn được bảo lưu dù không còn hoạt động hoặc hoạt động ở nhịp độ thấp. Nó sẽ hoạt động linh hoạt trở lại ở một mức độ nhất định nhờ vào sự cảm ứng sinh học của những bộ não còn sống (nhất là những bộ não của những người thân, ruột thịt), gây ra những hiện tượng tâm linh như ngoại cảm, lên đồng. sự bừng tỉnh của người sống đời sống thực vật trong thời gian lâu.... Những nhà bác học thế hệ trước, khi chết đi, có thể vẫn lưu lại ở chừng mực nhất định những tích tụ muốn phát minh, những khát khao khám phá bằng cách làm biến đổi cấu trúc bộ não. Vì một lý do nào đó mà khi được kích hoạt, những bộ não này sẽ gây cảm ứng sinh học về những dấu ấn trăn trở khoa học của thế hệ đi trước lên các bộ não đang thời kỳ hình thành hay còn non trẻ, gây nên những hiện tượng tâm linh như đầu thai, truyền kiếp, thần đồng...
Chúng ta hãy đặt niềm tin vào khoa học, vì chỉ có khoa học mới đủ khả năng dẫn dắt chúng ta đến tận cùng sáng tỏ của sự hiểu biết về thực tại khách quan. Và không ngành khoa học nào khác mà chính vật lý học sẽ đi tiên phong để thực hiện sứ mạng đó, nhưng muốn như thế, tiên quyết nó phải thực hiện được bước tiến cách mạng trong nhận thức của chính bản thân nó, triệt để hơn cả thời "Tai biến tử ngoại" - thời làm hình thành nên thuyết Tương đối và Cơ học lượng tử. 
Nếu đúng thế thì chừng nào triết học duy vật vẫn còn "khăng khăng" không thừa nhận hiện tượng tâm linh là một sự thật thì chừng đó nó vẫn cực đoan, chưa biện chứng, nghĩa là còn lầm lạc. Ngược lại, cứ cố giải thích hiện tượng tâm linh trên cơ sở niềm tin về sự tồn tại "có vẻ" thực sự khách quan của Phật-Chúa-Thánh cùng với năng lực "dẫn dắt" siêu nhiên của "họ", thì cũng cực đoan tương tự, nghĩa là lầm lạc nốt!).
 
                                                                      ***

    Mệt nhoài! Không phải mệt vì cuộc hành tiến đến con tàu vượt thời gian để trở về thế kỷ XXI, mà mệt vì trí não bị chìm đắm "ná thở" triền miên trong... sự hoang tưởng. Mệt hơn nữa khi tác dụng kích hoạt tâm thần từ lượng rượu hảo hạng mà chúng ta "nốc" đầy một bụng ở nhà Trang tiên sinh đã...sạch trơn. Hết say rượu rồi thì...chỉ còn có nước là...tỉnh rượu, đương nhiên thế! Và vì thế mà đầu óc chúng ta lúc này hoàn toàn...ráo hoảnh. Sự "bừng tỉnh" đúng là làm chúng ta có thoáng rùng mình trước một hiện thực "lạ hoắc" nhưng rồi cũng hoàn hồn lại ngay, và biết rằng mình đang ở đâu trong cuộc hành trình vĩ đại "Đi tìm cái gì đó" mà chính mình đã hoạch định cho mình. (Vì chỉ là một lũ nhà quê ngông cuồng do mắc chứng hoang tưởng và chỉ có thể suy xét các sự việc liên quan đến Triết-Toán-Lý một cách "vô học" như sau này mọi người sẽ thấy rất rõ, nên cuộc hành trình của chúng ta tương tự như "đường đời" của một con người, chẳng ai lường trước được và nhiều khả năng là "chẳng ra thể thống gì". Như vậy, từ ngữ "vĩ đại" ở trên nên được hiểu là..."cái đuôi to"!)...
    Đêm đã khuya, chắc cũng tầm hai giờ sáng. Giữa đồng không mông quạnh, ánh trăng tuy đã tàn vẫn còn đủ soi sáng cho chúng ta thấy cái hun hút ở phía trước con đường lầy bụi đỏ mà chúng ta đang đi. Chưa thấy một chút tín hiệu dù nhỏ nhoi nào về con tàu vượt thời gian cả. Điệu này, có đi đến sáng bạch cũng chưa chắc đã thấy bóng dáng con tàu... Nhưng thôi, cứ kệ! Sốt ruột chẳng ích gì, cứ "vững bước hành quân", đừng đứng lại vì "chân chồn gối mỏi" thì trước sau gì chúng ta cũng "tao cùng bến mơ"!... Ấy chết!... Có khi nào con tàu "tiêu tùng" vì trục trặc kỹ thuật và chúng ta phải ở lại đây luôn không nhỉ!?...Ối giời ơi là giời!...Thật hết biết! Câu hỏi "mất dạy" tự dưng bật ra làm chúng ta dựng hết tóc gáy, nổi hết da gà, chân tay hoàn toàn bủn rủn, không bước được nữa, cũng không đứng được luôn, đành nằm vật ngửa ra, thở dốc. Trong tiết lạnh khuya cuối thu mà mồ hôi chúng ta túa ra dầm dề...
    Rồi thì sự trôi hằng định của thời gian trong tâm thức cũng dần giúp chúng ta thoát khỏi...mất vía. Không còn hoảng loạn nhưng lòng vẫn đầy thấp thỏm, bất an. Kể cũng thật vô lý, "ôm" nỗi hồi hộp âu lo mà giải quyết được gì trong cái tình cảnh "chỉ có thể hy vọng và hy vọng mà thôi" này? Thế là ý chí ra lệnh: "Hãy thoát ra!". Nhớ đến bài khí công khá hay nhằm định thần, đã học "lõm bõm" được từ Trang tiên sinh, có tên gọi (do chúng ta tự đặt!) là "ngọa thiền", chúng ta "ngọ nguậy" cho đúng tư thế, rồi "thả lỏng", "lạc" dần vào trạng thái "mơ mơ hồ hồ". Ai mà "lạc" được vào trạng thái này sẽ "ngộ" được nhiều điều, một điều trong số đó là hình như thời gian "trôi" trong cảnh giới thiền (thời gian tâm-sinh lý bất thường?) nhanh hơn thời gian "trôi" trong hiện thực khách quan (thời gian vật lý), rất giống với hiện tượng "chênh lệch thời gian" mà nhiều người cận kề cái chết cũng như nhiều người chết đi sống lại, hoặc những người gặp nạn rơi từ trên cao xuống đất cảm nhận được. Phải chăng đây cũng là một "câu đố" thuộc lĩnh vực tâm linh đang "chờ đợi" lời giải thích "chân chính"!?...
     Nhờ "ngọa thiền" mà thần thái chúng ta hồi phục rất nhanh, không những sự mỏi mệt đã tan biến hết mà tinh thần cũng bỗng trở nên an hòa, tươi tỉnh, trí não trở nên hoạt bát khác thường. Trăng thực sự đã tàn phế, mặt trời thì vẫn "ngủ vùi" theo luật định, ấy vậy mà đêm khuya vẫn sáng mờ. Chỉ có thể là nhờ sao sáng! Lúc nãy cũng nằm ngửa mà nào có thấy gì, giờ mới thấy trước mắt bừng lên chi chít hằng hà vì sao sinh động, "thoăn thoắt" khi mờ khi tỏ. Cả một bầu trời ăm ắp sáng sao khoáng đạt, nhộn nhịp đến rạo rực mà cũng thinh lặng đến lạnh lùng, cao lộng đến vời vợi nhưng vẫn có vẻ gần gũi, và bao la đến choáng ngợp nhưng vẫn cứ gợi về sự hữu hạn. Trong đời chúng ta, có lẽ lung linh nhất mà cũng nghiêm nghị nhất là bầu trời này, thật là trong sáng, thật là trung hậu, thật là huyền vĩ! Những kẻ đang "tưng tưng" ở thế kỷ XXI làm sao thấy được bầu trời khuya tuyệt tác mà thiên nhiên ban tặng cho thời cổ đại Tiên-Tần nói riêng và cả thời cổ đại của thế giới loài người nói chung này!? Sực nhớ đến những thành tựu quan sát thiên văn trong việc định hướng di chuyển cũng như trong việc định lượng thời gian, xác định lịch trình xoay vần của thời tiết, khí hậu...của những con người thời tiền sử-cổ đại còn lưu truyền đến thời hiện đại, chúng ta vô cùng khâm phục họ. Tuy nhiên, ngay trong bối cảnh này đây, chúng ta có linh cảm rằng, họ đạt được những thành tựu quan sát thiên văn có tính thần kỳ đó, một phần là nhờ bầu khí quyển còn trong veo, chưa bị vẩn đục "bụi trần" bởi sự khuynh đảo của nền sản xuất công nghiệp hóa, phần khác, nhiều hơn, là nhờ sự tiến hóa-thích nghi mà họ sở hữu được đôi mắt có năng lực "thấu thị" cực kỳ tinh tường (sau đó đã dần bị thoái hóa đi, "nhường chỗ" cho định hướng tiến hóa-thích nghi khác, đã trở nên được ưu tiên hơn, chẳng hạn là tăng cường trí nhớ, sức trừu tượng, khả năng liên tưởng, suy đoán...). Ôi, nếu quả thế thật thì bầu trời sao vô cùng huyền vĩ kia sẽ còn huyền vĩ đến cỡ nào nữa trước quan sát của người tiền sử-cổ đại vào thời chí ít cũng khoảng 10.000 năm trước, với đôi "thiên lý nhãn" chưa bị tiến trình văn minh hóa-xã hội hóa làm cho lu mờ đi, "thiển cận" đi!?
     Chắc đối với con người sinh ra vào thời Tiên-Tần này, bầu trời sao đêm nay cũng...bình thường thôi, chẳng có gì mà...ầm ĩ. Nhưng đối với chúng ta, những kẻ sinh ra vào thời "thiển cận-loạn thị" và không trung mờ đục, thì đây là bầu trời sao tuyệt diệu có một không hai. Sao ken sao hiển hiện dày đặc khắp Vũ Trụ, đồng điệu tỏa sáng, đồng loạt nhấp nháy, gây ra hiệu ứng mạnh đến độ làm cho bộ não nhạy cảm của chúng ta tưởng như đang thưởng lãm một dàn đồng ca vô tiền khoáng hậu và tuyệt cùng vĩ đại trên một sân khấu cũng vô tiền khoáng hậu và tuyệt cùng vĩ đại (chính nghĩa là "vĩ đại" thật chứ không phải nghĩa là..."cái đuôi to"!). Và trong "dàn đồng ca" ấy, ngay hướng chính diện, bất giác chúng ta thấy một "ca sĩ" cực kỳ khêu gợi-ngôi sao sáng nhất và lấp lánh nhất của bầu trời. Chao ơi, phải chăng đó chính là ngôi sao định mệnh mà trong một cơn mê thời thơ ấu, chúng ta đã bay vun vút về phía nó với một niềm mơ ước tiếp cận khôn nguôi, từ đó mà nảy mầm và lớn dần lên trong tâm hồn chúng ta nỗi khát vọng mãnh liệt được biết căn nguyên đích thực của Tự Nhiên Tồn Tại, để rồi làm chúng ta phải "dứt áo ra đi", thực hiện cuộc hành trình kỳ diệu, quên, kỳ quặc, và vì thế mà đang...nằm ở đây...ngắm nó!?...Nghĩ đến mục đích cuối cùng còn xa tít mù tắp của cuộc hành trình, chúng ta giật nảy mình, bật dậy. Không! Không thể nằm "tự sướng" thêm nữa được! Hết thời gian rồi! Không khéo chúng ta không về lại được những năm tháng "đầu têu" thuộc thế kỷ "đầu têu" của thiên niên kỷ III SCN không phải vì con tàu vượt thời gian bị trục trặc mà vì chính sự tỉnh táo của chúng ta bị trục trặc! Xin cảm ơn sự nhắc nhở kịp thời nhé, hỡi ngôi sao thiêng liêng, lấp lánh sáng nhất giữa muôn vàn ngôi sao lấp lánh! Biết đâu chừng trong sự lấp lánh nhắc nhở tỏ vẻ hối thúc đầy thiết tha ấy có cả phần gửi gắm nhớ mong của người tình vong niên từ phương xa vời mà chúng ta vẫn giấu kín trong lòng (tất nhiên là phải giấu cả vợ rồi!)? Sự liên tưởng làm hiện ra rõ mồn một trong tâm trí chúng ta bài thơ "Nhớ" của Nguyễn Đình Thi có từ thời "Kháng chiến chống thực dân Pháp":

                        Ngôi sao nhớ ai mà sao lấp lánh
                        Soi sáng đường chiến sĩ giữa đèo mây
                        Ngọn lửa nhớ ai mà hồng đêm lạnh
                        Sưởi ấm lòng chiến sĩ dưới ngàn cây.

                        Anh yêu em như anh yêu đất nước
                        Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần
                        Anh nhớ em mỗi bước đường anh bước
                        Mỗi tối anh nằm mỗi miếng anh ăn.

                        Ngôi sao trong đêm không bao giờ tắt
                        Chúng ta yêu nhau chiến đấu suốt đời
                        Ngọn lửa trong rừng bập bùng đỏ rực
                        Chúng ta yêu nhau kiêu hãnh làm người

      Dưới chế độ dân chủ-cộng hòa, đã có vợ và cũng đã "già chát" rồi mà còn yêu "em trẻ" khác, sẽ bị chê bai ngay là dê cụ, già dê, "già còn chơi trống bỏi", già mất nết, thậm chí bị "những nô lệ của cảm tính đố kỵ (có nguồn gốc sâu xa từ sự ích kỷ)" chửi là đồi bại, vô luân, nghĩa là...vô đạo đức...Nhưng dưới thời phong kiến thì tùy và...chẳng sao cả vì không hề bị coi là "phạm qui". Riêng chúng ta nghĩ (vì bản thân "trót lỡ" rồi nên có ý bênh vực!), luyến ái tự nhiên nam-nữ không đồng huyết thống chỉ bị khống chế bởi sự chủ quan tự ý thức về tình cảm, bổn phận và nghĩa vụ chứ không có sự hạn định tất yếu khách quan về phạm vi trong không gian và thời gian, do đó, khi "chẳng may" bị "dắt mũi" bởi "tiếng sét ái tình", nếu khôn (láu cá dễ thương!), biết dàn xếp ổn thỏa thì "yêu thêm một tý" (chứ không phải "có trăng quên đèn"!)...cũng được, thậm chí nhiều khi lại...tốt lành cho tuổi thọ hơn ấy chứ (nhưng có lẽ chỉ "ưu tiên" cho đàn ông thôi, hơn nữa là không nên "bô bô", vì như thế là "tiếp tay" làm tăng tham-sân-si trong xã hội, mặt khác, ý thức phụ quyền và tính tư hữu ích kỷ đã "ngấm vào máu" nhân quần từ lâu như một yếu tố quan trọng hợp thành định ước tư cách con người (gọi là văn minh) mất rồi, do đó "lợi bất cập hại", dễ gây và bị gây tổn thương bởi..."con dao hai lưỡi"!). Ông bà ta còn để lại không ít câu phán "bất hủ" như: "Trai năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên một chồng", "Trai thương vợ, gái nhớ người xưa", "Bươm bướm mà đậu cành hồng/ Đã yêu con chị còn bòng con em", "Dù chàng năm thiếp bảy thê/ Cũng không tránh khỏi gái sề này đâu", "Làm trai lấy vợ bé như nhà giàu tậu nghé hoa", "Sông Thương nước chảy đôi dòng/ Trai quên vợ, gái quên chồng thì lên", "Thà rằng làm lẽ thứ mười/ Còn hơn chính thất những người đần ngu", "Đã không nên nghĩa nên nghì/ Anh về với vợ, em đi lấy chồng",..., nghe vô hậu quá, chẳng văn hóa tý nào, mà cũng..."quá đã"! Ha, ha...ha...!...
     Thôi!..."Nhổ neo" nào, anh em!...(Hô hoan thế cho bớt cô đơn và cũng để lấy lại khí thế vùng đứng lên!).
    Ai dè, sự đứng lên đột ngột tạo ra một "nhắc nhở" đến thứ mà chúng ta quên bẵng là trong bọc hành trang bên hông có cái túi da còn chứa chừng hơn lít rượu "thuổng" được ở nhà Trang tiên sinh. Sự nhắc nhở này tuy không cao cả và nên thơ như sự nhắc nhở của ngôi sao kia mà có tính thực dụng, phàm tục, nhưng cũng kịp thời không kém! Vừa lúc "khát rượu" khô cả cổ, hơn nữa, không uống thì cũng phải đổ đi chứ không thể mang về làm quà cho bạn bè được vì từ khi có nạn khủng bố, rượu bị cấm mang lên con tàu vượt thời gian. Thế là chúng ta lôi túi da ra, ngửa cổ tu một lèo hết queo. Xong xuôi, chúng ta tiếp tục hành quân, phơi phới và hùng dũng y như lúc mới từ nhà Trang tiên sinh chệnh choạng bước ra vậy!...
     Mới đi được một chặng ngắn, tinh thần phơi phới của chúng ta đã được nâng lên trạng thái...phừng phừng. Ở trạng thái mới này, đầu chúng ta lại dần lạc vào sự hoang tưởng về Ấn Độ cổ đại và vì thế mà miệng chúng ta lại tiếp tục "mấp máy" huyên thuyên...kể chuyện. "Vừa đi đường vừa kể chuyện" có cái hay là đỡ sốt ruột và quên mỏi chân...
     Kỳ Na giáo có những quan niệm thật lạ lùng! Tuy nhiên, chúng ta không có "nhu cầu" tìm hiểu sâu nó lắm nên sẽ "lướt qua", bắt đầu bằng lời kể của Will Durant (cũng trong cuốn "Lịch sử văn minh Ấn Độ" của ông mà chúng ta còn "nhớ" được!):
    "Triết lý cách mạng của phái Charvaka (coi như) đã chấm dứt thời đại các Vêđa và Upanishad. Nó giảm uy thế của các Bàlamôn và gây ra một khoảng trống (tinh thần) trong xã hội Ấn Độ. Cần có một tôn giáo mới để lấp khoảng trống đó. Nhưng học thuyết của phái đó (tức Charvaka) đã gây ảnh hưởng sâu sắc và thành công đến nỗi hai tôn giáo tới sau, đáng lý để thay thế đức tin trong các kinh Vêđa, thì lạ lùng thay, lại đều là tôn giáo vô thần cả. Cả hai đều thuộc vào phong trào Nastikya (hư vô, theo chủ nghĩa hư vô), cả hai đều xuất phát không phải trong tập cấp tu sĩ, mà trong tập cấp chiến sĩ (Kshatriya), để phản ứng với chủ trương thần học và với thói câu nệ của giới tu sĩ. Hai tôn giáo đó, Kỳ Na Giáo và Phật Giáo, mở màn cho một thời đại mới trong lịch sử Ấn Độ.
     (...)
     Vào khoảng giữa thế kỷ VI TCN, một em trai sinh trong gia đình quí phái giàu có thuộc bộ lạc Lichchavi, ở ngoại ô châu thành Vaishali, ngày nay là tỉnh Bihar (theo truyền thuyết, Mahavira sinh năm 599 TCN và mất năm 527 TCN, nhưng Jacôbi cho rằng sự thật có lẽ là vào các năm 549 và 477 TCN, nghĩa là khoảng 50 năm sau). Song thân em mặc dù có của, nhưng thuộc vào một giáo phái tin rằng sự tái sinh là một đại bất hạnh mà sự tự tử là một đại phúc trời ban. Khi con trai được 31 tuổi, hai ông bà tự ý tuyệt thực để quyên sinh. Đứt ruột về hai cái tang đó, người con không màng thế tục nữa, cởi bỏ hết y phục, bỏ nhà bỏ cửa mà lang thang trong miền Tây Bengale như một nhà tu hành khổ hạnh để tìm huệ giác và sự thanh khiết. Sau 13 năm hoàn toàn thoát ly xã hội như vậy, ông được một nhóm đồ đệ tôn lên là Jina (có nghĩa là chinh phục, chế ngự), tức là một vị đại sứ đồ, nhà tiên tri, mà theo họ, cứ cách một khoảng thời gian nhất định nào đó lại xuất hiện để đem ánh sáng đạo đức cho Ấn Độ, đồng thời họ đổi tên ông thành Mahavira, vị Đại Anh Hùng, và tự gọi là Jain theo tín ngưỡng đặc biệt của họ. Mahavira thành lập một tăng lữ tự nguyện sống độc thân. Khi ông mất, số tín đồ lên tới 14 ngàn.
     Lần lần giáo phái đó dựng nên một hệ thống tín ngưỡng và thành một trong những tôn giáo kỳ cục nhất trong lịch sử nhân loại. Từ một lý luận vô cùng thực tế rằng tri thức nào cũng bị hạn chế, chỉ có tính cách tương đối và tạm thời, họ đưa ra kết luận là không có gì hoàn toàn chính xác, cái mà ta cho là đúng thì xét theo quan điểm khác sẽ thấy là sai. Họ kể chuyện sáu người mù sờ voi. Người sờ tai, bảo voi là một cái nia lớn, người sờ cái cẳng, bảo voi là một cái cột tròn lớn. Vậy phán đoán của con người rất hạn chế, tùy thuộc hoàn cảnh, chỉ những đấng cứu thế, tức Jina, cứ cách một khoảng thời gian nhất định lại xuất hiện, mới nắm được chân lý tuyệt đối. Ngay những kinh Vêđa cũng chẳng giúp con người được gì, lời trong kinh không phải là lời thiên khải, do lẽ là không có Thượng Đế. Các giáo đồ Jain bảo không cần phải tưởng tượng ra một đấng Hóa Công hoặc một tối sơ nguyên nhân nào đó. Một em bé cũng có thể đả phá giả thuyết đó được, vì tồn tại một đấng Hóa Công tự sinh, một tối sơ nguyên nhân không có nguyên nhân là điều vô lý, không thể hiểu nổi, cũng như một thế giới tự xưng không có nguyên nhân. Thà cứ bảo rằng Vũ Trụ đã có từ thuở nào đến giờ, cứ biến chuyển, thay đổi hoài hoài do những năng lực cố hữu của nó chứ chẳng phải do ý chí của vị thần nào cả, thà cứ bảo như vậy lại còn dễ nghe hơn.
      Nhưng tinh thần Ấn Độ không hợp với một chủ trương tự nhiên cố chấp tới mức đó. Phái Jain sau khi mời Thượng Đế ra khỏi Thiên Đường rồi, bèn đưa hết thảy các vị thánh trong sử và trong huyền thoại của họ vào. Rồi họ cũng tổ chức các tế lễ, cũng dốc lòng thờ phụng các vị thánh đó, chỉ khác là họ coi các ngài cũng chết, cũng luân hồi, chứ không phải là các đấng sáng tạo và làm ra Vũ Trụ. Họ cũng không phải là duy vật, họ theo quan niệm nhị nguyên, thừa nhận sự tồn tại độc lập của tinh thần bên cạnh vật chất, và cho rằng vạn vật, ngay cả đá và kim thuộc cũng có ling hồn. Linh hồn nào đã sống một đời không tội lỗi thì sẽ thành một Paratmatman - tức tối cao linh hồn - và trong một thời gian khỏi phải bị đầu thai vào một kiếp khác, như vậy là để thưởng công, khi được thưởng đủ rồi thì phải đầu thai nữa. Chỉ nhưng linh hồn cao cả nhất, hoàn toàn nhất mới được giải thoát vĩnh viễn, những linh hồn đó được gọi là Arhat, thượng đẳng thần, sống vui vẻ như các thần của Epicure, trong một cõi xa xăm nào đó, không tác động được tới công việc của loài người, nhưng khỏi phải đầu thai.
      Muốn được giải thoát thì theo giáo lý Jain, phải sống khổ hạnh và giữ đúng "giới luật" Ahimsa (thường được dịch là "bất bạo động", cũng có khi là "bất hại", ở đây dịch là "bất tổn sinh" với nghĩa: tuyệt nhiên tránh gây thương tích cho bất cứ một sinh vật nào. Bất bạo động chỉ là một qui kết của Ahimsa. Vì không được làm tổn thương sinh mệnh nên cả khi phản kháng, ta cũng không được bạo động). Nhà tu hành Jain nào cũng phải thuộc nằm lòng năm lời nguyện sau đây: không giết bất kỳ sinh vật nào, không nói dối, không lấy một vật gì nếu không phải là vật tặng, giữ sự thanh khiết và từ chối mọi thú vui của xã hội bên ngoài. Họ cho cái thú vui của ngũ quan là một tội lỗi, lý tưởng phải đạt được là thản nhiên với vui-khổ, hoàn toàn không bị ngoại vật chi phối. Một tu sĩ Jain không được phép cày ruộng vì như vậy phải vỡ đất, giết các côn trùng có trong đất. Cũng không được uống mật, sợ làm hại đến đời sống của con ong, không được lọc nước để uống, sợ làm chết các sinh vật nhỏ li ti trong nước, đốt đèn thì phải che chung quanh ngọn đèn cho các loài sâu (như con thiêu thân) khỏi vô ý đụng vào lửa, và đi đâu thì phải quét sạch đất ở phía trước để khỏi dẫm nhầm lên các sinh vật. (...). Chỉ có mỗi một sinh mạng mà họ có quyền được diệt là sinh mạng của chính họ. Đạo của họ chấp nhận sự tự tử, đăc biệt là cách tuyệt thực để tự tử vì cách này tỏ rõ rằng tinh thần đã hoàn toàn thắng được cái ý chí mù quáng muốn sống. Một số lớn giáo đồ Jain chết theo cách đó và người ta nói hiện nay các trưởng phái còn tuyệt thực để được chết."
     Tiếp theo, để "thấy" rõ hơn chút nữa quan niệm về thế giới của Kỳ Na Giáo, chúng ta "trưng ra" thêm vài vài giảng giải của nhà triết học Chandradhar Sharma, theo nhận thức của ông:
     "Theo Kỳ Na Giáo, vật chất có vô số đặc tính và là đối tượng của sự sinh, diệt cũng như sự thường tồn. Toàn bộ Vũ Trụ tuân theo hai phạm trù có tính bất diệt, tự thân, vĩnh hằng và cùng tồn tại là Jiva và Ajiva. Jiva là tinh thần ý thức và Ajiva là không tinh thần không ý thức. Ajiva không chỉ bao gồm vật chất - gọi là "Pudgala", mà còn bao gồm không gian, sự vận động, trạng thái đứng yên và thời gian. (...).
     (...)
     Ý thức được xem là cốt lõi của linh hồn (chetanalaksanojivah). Mọi linh hồn từ thấp nhất đến cao nhất đều có ý thức. Cấp độ ý thức có thể thay đổi tùy theo mức độ (nặng nhẹ) của nghiệp (karma). Những linh hồn thấp nhất trong nguyên tử vật chất dường như vô thức và không có sự sống, nhưng thực ra ý thức và sự sống hiện diện trong chúng ở dạng tiềm ẩn. Ý thức thuần khiết nhất được tìm thấy trong những linh hồn siêu thoát, không còn vướng vào nghiệp. Tất cả mọi linh hồn đều có bản chất như nhau, "bên trong" sở hữu Niềm Tin Vô Hạn, Tri Thức Vô Hạn, Hạnh Phúc vô Hạn và Quyền Lực Vô Hạn. Một Jiva là một hiểu biết thực sự (jnata), một tác nhân thực sự (karta) và một kinh nghiệm thực sự (bhokta). Nó nằm trong Astikaya dravyas (thực thể có quảng tính (?), nghĩa là có các thành phần vật chất cấu tạo nên có tính chất mở rộng trong không gian), nhưng lại không mở rộng trong không gian như vật chất. Nó giống như ánh sáng. Ánh sáng thắp đầy không gian nơi nó được thắp lên và nhiều nguồn sáng có thể thắp lên ở cùng một chỗ, nhưng chúng không xung đột nhau. Tương tự, linh hồn lấp đầy không gian và nhiều linh hồn có thể cùng "có mặt" với nhau không xung khắc. Do bản thân không có hình dạng, linh hồn lấy hình dạng của thể xác mà nó thể hiện. Linh hồn con kiến cũng bé như con kiến, linh hồn con voi cũng to lớn như bản thân con voi vậy. Linh hồn tồn tại cùng vời thể xác. Mặc dù chúng ta thấy, linh hồn trong thế giới này theo cách nó thể hiện và sở hữu các giác quan. Các mana (ý, ý nghĩ) giúp linh hồn nhận thức, nhưng thật ra chính thể xác, giác quan và mana là những vật cản do nghiệp tạo nên, không để cho linh hồn có thể nhận thức trực tiếp. Tri thức không phải là tính chất của linh hồn mà là phần cốt lõi thiết yếu của nó. Do đó, mọi linh hồn có thể nhận biết mọi sự vật một cách trực tiếp và tức thời, nếu không bị vật chất cản trở. Giải thoát khỏi vật chất sẽ giúp linh hồn trở nên thông tuệ và siêu thoát.
     (...)
     Nghiệp là sợi dây liên kết linh hồn với thể xác. Sự thiếu hiểu biết về chân lý và bốn cảm xúc mạnh mẽ - giận dữ (krodha), tham lam (lobha), kiêu ngạo (mãna) và lừa dối (maaya), gọi chung là Kasaya, nghĩa là bản chất sân si do những thành phần nhỏ của nghiệp "kết dính" lại với nhau, hút dòng sắc nghiệp về phía linh hồn. Trạng thái khi những thành phần nhỏ của nghiệp xâm nhập vào linh hồn để trói buộc nó gọi là dòng chảy (asrava). Trạng thái khi những thành phần nhỏ này chiếm lấy linh hồn và trói buộc nó, gọi là sợi dây ràng buộc, hay sự trói buộc (bandha). (...). Trong trói buộc, sắc nghiệp và linh hồn xâm nhập vào nhau một cách mật thiết, như nước hòa với sữa, lửa kết hợp với quả cầu sắt nung đỏ. Vì lý do này, chúng ta thấy sự sống và ý thức ở mọi phần của thể xác. Nếu có được và thực hành được niềm tin, tri thức và phẩm hạnh đúng đắn, thì mới có thể chấm dứt được sự xâm chiếm của nghiệp. Trạng thái này gọi là ngăn chặn (samvara-điều cấm). Sau đó, phải làm cho cạn kiệt nghiệp có sẵn. Trạng thái này gọi là trút bỏ (nirjara). Khi thành phần nhỏ cuối cùng của nghiệp thoát ra khỏi linh hồn, thì sự kết hợp giữa linh hồn và vật chất bị tan rã hoàn toàn, và linh hồn sẽ lại chiếu sáng trong niềm tin, tri thức, niềm sung sướng tột cùng và quyền năng vô hạn như bản chất vốn có. Trạng thái này gọi là giải thoát (moksa), và linh hồn lúc này đã đạt đến sự thông tuệ (kevala-jnana). Linh hồn giải thoát vượt lên sự luân hồi (samsara) và tiến thẳng đến siddha-shila (đây là sự giải thoát ở mức độ cao nhất của Vũ Trụ và linh hồn đạt được tri thức cũng như hạnh phúc vĩnh hằng). (...). Như vậy, ta có thể xem giáo lý của Kỳ Na Giáo chủ yếu là giáo huấn đạo đức nhằm mục đích hoàn thiện linh hồn. (...).
     Những đam mê (si) sẽ thu hút dòng chảy sắc nghiệp vào trong linh hồn. Và những đam mê này là do vô minh mà ra. Do đó, vô minh mới thực sự là nguyên nhân của sự trói buộc. (...). Vô minh chỉ có thể bị loại bỏ bằng tri thức. Như vậy, tri thức đứng đắn là "cửa mở" cho sự giải thoát. Tri thức đúng đắn này được tạo ra bởi niềm tin vào những giáo lý của các tu sĩ đã thông tuệ (tirthankara). Vì vậy niềm tin là rất cần thiết. Chỉ có phẩm hạnh đúng đắn mới hoàn thiện được tri thức, bởi vì lý thuyết không thực hành là trống rỗng và thực hành không có lý thuyết là mù quáng. Tri thức đúng đắn xuất hiện khi tất cả nghiệp (karma) bị tiêu diệt bởi phẩm hạnh đúng. Cuối cùng, niềm tin đúng đắn, phẩm hạnh đúng đắn và tri thức đúng đắn kết hợp lại làm hình thành nên con đường giải thoát. Niềm tin (samyak darshana), tri thức (jnana) và phẩm hạnh (charitra) đúng là ba viên ngọc (tri-ratna) của Kỳ Na Giáo. Chúng gắn bó với nhau và sự hoàn thiện của mỗi yếu tố gắn liền với đòi hỏi phải hoàn thiện hai yếu tố kia.
     (...). Chỉ có năm bước rèn luyện tinh thần cơ bản trong Kỳ Na Giáo. Đối với các tu sĩ, các bước này phải được tuân thủ nghiêm ngặt, cứng rắn và khắt khe. Trong khi đó, với các tín đồ, chúng có phần nào được thực hiện linh động hơn. Năm lời thề của tầng lớp tăng lữ gọi là "lời thề cao cả" (maha-vrata), còn những lời thề của tín đồ là "lời thề bình thường" (anu-vrata). Những lời thề này là:
    1- Ahimsa: không gây tổn thương trong suy nghĩ, lời nói hay việc làm, bao gồm cả việc kiêng cữ thụ động, tránh gây thương tổn thực sự cho bất kỳ chúng sinh nào, đồng thời là việc giúp đỡ nhiệt thành những sinh vật đau khổ.
     2- Satya: đúng đắn trong suy nghĩ, lời nói hay hành động.
    3- Asteya: không ăn cắp, tức là không lấy bất kỳ cái gì bằng suy nghĩ, lời nói hay hành động mà không thuộc về mình.
     4- Brahmacharya: kiêng cữ, tránh đam mê lạc thú qua suy nghĩ, lời nói hay hành động.
     5- Aparigraha: quên mình, hy sinh bằng suy nghĩ, lời nói hay hành động.
    Đối với tu sĩ, những lời thề này phải được tuân thủ nghiêm ngặt. Tuy nhiên, đối với tín đồ, chúng có thể linh động và được nới lỏng. Ví dụ, brahmacharya chỉ hạn chế ở sự giản dị và Aparigraha chỉ là tùy lòng.
    (...). Hơn nữa, mặc dù Kỳ Na Giáo phủ nhận Thượng Đế, nhưng nó không phủ nhận bản chất thiêng liêng của thánh thần. Mỗi linh hồn giải thoát là một vị thánh. Những tirthankara là những thể chất có sống có chết như chúng ta, nhưng đã đạt được sự giải thoát bằng những nỗ lực bản thân và luôn luôn ở đó cổ vũ chúng ta. Tất cả chúng ta đều có thể trở thành những jina ("người chiến thắng", đã thiền đạt đến giác ngộ, đã thoát nghiệp), vì việc gì con người làm được thì ta cũng làm được. Như vậy, với việc chối bỏ Thượng Đế, không cần đến một Thượng Đế để giải thích tạo hóa vì thế giới này chưa bao giờ được tạo ra cả, vì sự sinh ra, sự hủy diệt và sự thường hằng là đặc trưng cho tất cả vật chất, vì vạn vật có sinh thì có diệt tùy theo những dạng thức của chúng, Kỳ Na Giáo chính là một tôn giáo không có chỗ cho sự sùng bái, mong đợi sự cứu rỗi từ bên ngoài, chỉ xác định sự tự lực đốt cháy tất cả cảm xúc và ham muốn bằng ngọn lửa khổ hạnh nhằm giải thoát. Tuy nhiên trong thực tế, do sự yếu đuối của một con người không thể vượt lên trên cái logic nghiêm khắc đó và phần nào vẫn chịu ảnh hưởng của đạo Bàlamôn, giáo đồ Kỳ Na Giáo nói chung vẫn tôn sùng những Tirthankara, vẫn xây dựng những đền thờ, thần tượng để tôn thờ các vị thần của mình".
     Rồi Chandradhar Sharma phê phán:
     "Tinh thần được xem là sở hữu ý thức thuần túy, niềm hạnh phúc thuần túy, sức mạnh thuần túy và niềm tin thuần túy. Vật chất được xem là vô thức, không có sự sống và là một trở ngại nguy hiểm. Karma được giả định là sợi dây liên kết, gắn linh hồn với vật chất. Karma là do đam mê mà ra, đam mê là tại vô minh. Lúc này câu hỏi đặt ra là, làm thế nào linh hồn có ý thức, sức mạnh thuần túy lại có thể bị nhiễm vô minh, đam mê và karma? Các nhà Kỳ Na Giáo đã không có câu trả lời thực sự cho câu hỏi đó. Nếu vô minh và karma tách biệt khỏi linh hồn, thì không cần có sự giải thoát, vì nếu vô minh và karma nằm ngoài linh hồn, thì không thể có sự trói buộc. Mặt khác, Kỳ Na Giáo cho rằng, kinh nghiệm chỉ ra tinh thần và vật chất không bao giờ tồn tại như hai thực thể tách biệt, và với chúng ta, chúng luôn hiện diện như là chúng trộn lẫn vào nhau và tác động lẫn nhau. Vì vậy, sự kết hợp giữa tinh thần và vật chất được xem là vô thủy. Nhưng nếu tinh thần và vật chất thực sự bị cột chặt vào nhau một cách vô thủy, thì các nhà Kỳ Na Giáo sẽ phải từ bỏ mọi hy vọng giải thoát, vì cái gì là thực và vô thủy sẽ không bị tẩy trừ đi. Tại sao không thừa nhận một cách thẳng thắn rằng tất cả cả những điều này là do vô minh (avidya) vô thủy? Tại sao không xem tinh thần và vật chất là hai khía cạnh của cùng hiện thực, và cuối cùng sẽ vượt lên cả hai? Không ai phủ nhận tính tương đối và tính đa nguyên trong thế giới kinh nghiệm. Chỉ có một điều, tính tương đối và tính đa nguyên này không phải là chân lý cuối cùng. Nó có thể hiện hữu nhưng không thực. Nếu kevala-jnana (nghĩa trí-trí huệ, tạm hiểu tinh thần thông tuệ, thấu tỏ mọi sự) là một hiện thực, nếu bản chất vốn có của tinh thần là ý thức thuần túy và hạnh phúc thuần túy, nếu vô minh là nguồn gốc của sự trói buộc, nếu sự kết hợp của tinh thần và vật chất là vô thủy, nếu tính tương đối và tính đa nguyên là những điều cần thiết của cuộc sống kinh nghiệm, thì Kỳ Na Giáo cần phải chấp nhận cái tuyệt đối để tránh những mâu thuẫn".
      Có phần tương tự, giáo sư Hiriyanna cũng phê phán:
      "Đặc tính miễn cưỡng trong thẩm tra của giáo đồ Kỳ Na Giáo được thể hiện qua hình thức đánh giá bảy bước (syadvada, tạm hiểu như là một hệ thức luận về tính tương đối của sự cảm thức), chỉ dừng lại ở chỗ gom những quan điểm cục bộ lại với nhau, mà không cố gắng vượt qua sự đối nghịch trong chúng bằng một tổng hợp thích đáng. Lý do là vì, nếu đó không phải là thành kiến đối với thuyết tuyệt đối luận thì cũng là ý muốn bám chặt vào những niềm tin thông thường"
     Súc tích hơn cả có lẽ là ý kiến phê phán của tiến sĩ triết học S. Radhakrishnan:
    "Theo quan điểm của chúng tôi, logic của Kỳ Na Giáo dẫn dắt chúng ta đến chủ nghĩa duy tâm nhất nguyên, và khi giáo đồ Kỳ Na Giáo lưỡng lự với điều đó, họ biến thành những kẻ không trung thành với logic của chính mình...Lý thuyết về tính tương đối không thể được chấp nhận một cách có logic, nếu không có giả thuyết về một cái tuyệt đối. Lập luận logic của Kỳ Na Giáo không nhận ra nhu cầu giáo luật cơ bản này bởi vì nó quan niệm cục bộ cho toàn bộ chân lý. Những giáo đồ Kỳ Na Giáo không thể chứng minh một cách logic học thuyết đa nguyên luận".
     Đành rằng quan niệm về thực tại (thế giới quan và nhân sinh quan) của Kỳ Na Giáo đã phạm sai lầm. Nhưng xét ở tầm rộng hơn, sự phạm sai lầm ấy không phải là riêng có của tôn giáo này mà có tính phổ biến trong suốt thời cổ đại, và thậm chí ở mức độ nào đó còn tồn tại đến ngày nay trong tất cả các niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo, chỉ có điều là hình thức thể hiện ra sao, nổi trội hay ẩn dấu như thế nào mà thôi. Có thể nói, nhận thức tự nhiên nói chung ở một thời đại phản ánh trình độ tri thức của loài người ở thời đại đó, và ngược lại, trình độ tri thức nói chung của một thời đại làm xuất hiện sự bảo thủ, gây ra những khống chế, ràng buộc, kìm hãm khả năng tăng tiến quan niệm về thực tại của loài người ở thời đại đó. Và chính sự "ngăn chặn" này, trước những đòi hỏi tất nhiên nảy sinh trong quá trình tiếp tục đi tìm hiểu thực tại khách quan của con người, đã tạo ra bức xúc có tính động lực dẫn đến bước nhảy (cách mạng) về nhận thức, đưa tri thức loài người lên tầm cao rộng mới, đúng đắn hơn, hoàn chỉnh hơn. 
     Công lao của triết học cổ điển Đức là đã "hun đúc" nên triết học duy vật biện chứng (triết học Mác về tự nhiên) với quan niệm "vô thần hóa" triệt để của nó. Xét về mặt nhận thức "tự nhiên thuần túy" (!!!) thì có một thời hầu như không có một phản biện triết học "đáng giá" nào (trừ một vài luận điểm phần nào có giá trị của Đuy-Rinh) đối với quan niệm (có vẻ đã rất khách quan và sáng tỏ) của nó, và do đó nói chung, nó đã từng và có lẽ vẫn đang đóng vai trò là tuyệt đỉnh trí tuệ loài người về nhận thức triết học tự nhiên, nhất là đối với những triết gia mác-xít. Tuy nhiên, theo chúng ta, nếu soi xét trên cơ sở những thành tựu tri thức mà vật lý học hiện đại đã đạt được cũng như đã nghiệm chứng, đồng thời dưới nhãn quan (tạm gọi là) "cảm tính trực giác và chiêm nghiệm bình dân truyền thống", thì triết học duy vật biện chứng đang ở trạng thái khủng hoảng sâu sắc ngay từ cái khái niệm "duy vật" của nó. Với quan niệm về tự nhiên của mình, dù chỉ ở mức độ định tính, triết học Mác không bao giờ có thể trả lời khúc chiết được bản chất của không gian và thời gian là gì, cũng như không thể giải thích tường minh được sự tồn tại của lượng tử năng lượng do M. Planck khám phá ra mà không làm xuất hiện mâu thuẫn logic nội tại nào. Tương tự như thế, nó đã không thể chỉ ra một cách khách quan và thực sự thuyết phục trước đại chúng rằng linh hồn tồn tại hay không tồn tại. Đó là chuyện bình thường trong lịch sử phát triển nhận thức của loài người. Điều đáng trách ở đây là nhiều nhà khoa học "thần phục" triết học Mác, đối diện với vấn đề nan giải đó, đáng lý ra nên bình tĩnh suy xét, nỗ lực tư duy sâu rộng hơn nữa thì trái lại, vì niềm tin vào quan niệm duy vật đã hóa thành một thứ tín ngưỡng của họ, và cũng để bảo vệ cái tín ngưỡng mà họ cho rằng "không thể sai" ấy, họ đã "kiên quyết" phủ nhận một cách cực đoan hầu như "sạch trơn" tính hiện thực của tồn tại tâm linh, nhất là hiện tượng có vai trò trung tâm, cơ bản của nó mà người ta thường quen gọi là "ngoại cảm". Một nhà khoa học, nhân danh khách quan nhằm bảo vệ chân lý khoa học mà trong thực tế lại hành động thiển cận, phản khoa học và nhất là lại còn dựa vào uy lực chính trị hòng "cả vú lấp miệng em", thì thật là tệ hại! Mở rộng ra, vật lý học hiện đại và cả toán học hiện đại cũng đang lâm vào tình trạng "tiến thoái lưỡng nan" chẳng khác gì mấy triết học duy vật biện chứng, nghĩa là chúng đang đứng trước một thực tại (được cho là) khách quan do chúng "sao chép" một cách chủ quan từ thực tại khách quan đích thực theo cách hiểu của chúng, đã nảy sinh những vấn đề triết lý vượt tầm khả năng "chinh phục" của chúng. Chúng ta cho rằng tri thức hiện nay về thực tại khách quan của loài người (triết học- khoa học tự nhiên...) đã và đang bộc lộ ngày càng rõ ràng nhiều mâu thuẫn nội tại gay gắt mà bản thân nó, với "tầm vóc" đang có, không thể tự "vượt thoát" được và đó phải chăng là điều chỉ thị rằng, nó đã đến gần kề một cuộc cách mạng mới về nhận thức tự nhiên để có được bước nhảy đột biến? Điểm yếu cơ bản nhất mà cũng dễ thấy nhất của tri thức ngày nay là "trong tầm quan niệm" của nó, loài người không có cách nào minh định tường tận để dứt khoát khẳng định hoặc phủ định được rằng, linh hồn là một thực tại khách quan hay chỉ là ảo tượng chủ quan, là thực thể hay phi thực thể.
      Một cách hình tượng, có thể hình dung trình độ nhận thức triết-khoa về tự nhiên của loài người hiện nay như là một Vũ Trụ Big Bang đã bị "biệt giam" tuyệt đối "ở bên này" "bức tường Planck", với bên kia bức tường đó là hư vô tuyệt đối, bởi vì không có cả không gian lẫn thời gian, nghĩa là không thể có bất cứ thứ gì "thò mũi" sang đó để "ngửi" được, và như thế, sự "bất khả tri" về thế giới có "nguy cơ" là một hiện thực không thể chối cãi-cái hiện thực mà suy tư triết học không bao giờ chấp nhận được nếu không thừa nhận sự tồn tại một tinh thần tối cao phi vật chất như Heghen từng quan niệm. Trong tình hình còn không ít "hoang mang" như thế và trên bình diện nhận thức triết học còn chưa dứt khoát được như thế, tất nhiên những phê phán nêu trên về sự sai lầm trong quan niệm thế giới của Kỳ Na Giáo, nếu có đúng thì cũng chỉ đúng ở mức độ qui ước nào đó chứ chưa đích đáng. Hơn nữa, trong quan niệm sai lầm về thế giới của Kỳ Na Giáo không phải không có phần đúng, phần hợp lý, nghĩa là có thể cho rằng nguyên nhân dẫn đến sai lầm ấy phần lớn là do sự phiến diện, chưa đầy đủ trong nhìn nhận và suy xét bởi hạn chế của tri thức thời đại chứ không hẳn là do duy ý chí, "ngược ngạo" chủ quan (nhằm thỏa mãn ý đồ phụng sự tôn giáo riêng tư).
      Như chúng ta đã nói, nếu qui ước lấy Bàlamôn Giáo làm chuẩn mốc so sánh thì có thể cho rằng hệ tư tưởng duy vật của trường phái triết học Charvaka và giáo lý Kỳ Na Giáo là hai quan niệm tương phản nhau về thế giới. Trong khi Charvaka cho rằng:
       -Trực giác là cách duy nhất tiếp cận chân lý, chỉ có thực nghiệm mới xác nhận được sự thật (thực chứng!).
      -Mọi thực thể đều do vật chất (gồm đất, nước, lửa, không khí) kết thành. Linh hồn (ý thức) chỉ là hình thức thể hiện vận động của thể xác. Không có linh hồn tồn tại độc lập ngoài thể xác.
       -Không có thần thánh, mọi tồn tại, biến hóa trong Vũ Trụ đều là tự nhiên. Niềm vui là mục đích duy nhất của cuộc sống, chết là hết, không có chuyện luân hồi nghiệp báo.
       -Bản thân cái chết là sự giải thoát, tu tập (tạm hiểu đại khái là tu nhân tích đức để dược hưởng phúc!) là vô nghĩa,
Thì Kỳ Na Giáo lại cho rằng:
       -Trực giác là phiến diện, không thể tiếp cận chân lý, chỉ qua bước đường (trực tiếp?) chiêm nghiệm tâm linh mới giác ngộ được thế giới chân thực.
        -Bản chất thế giới là nhị nguyên, thực thể bao gồm vật chất và ý thức. Có linh hồn tồi tại ngoài thể xác
       -Không có "nguyên nhân tối hậu" (Thượng Đế) về sự tồn tại Vũ Trụ, có quá trình luân hồi nghiệp báo, sống nhằm hưởng lạc là tội lỗi.
      -Chết là sự thoát xác tạm thời của linh hồn trên bước đường tự giải thoát khỏi vô minh, hướng tới "cuộc giải thoát cuối cùng", vượt ra khỏi vòng luân hồi nghiệp báo để trở thành thượng đẳng linh hồn (arhat) với tri thức tuyệt đối và hạnh phúc vĩnh hằng.
     Theo chúng ta hiểu (võ đoán!) thì sự xuất hiện (trước là) Charvaka và (cũng có phần vì thế (?) mà tiếp theo là) Kỳ Na Giáo có nguyên nhân trực tiếp từ tình trạng hiện tượng đối xử bất công đã trở nên phổ biến, mâu thuẫn giàu-nghèo đã ở mức căng thẳng, gay gắt trong xã hội Ấn Độ cổ đại, và đều bắt đầu là những ý kiến bất mãn, phản kháng chế độ đẳng cấp được dung túng một cách thiên vị bởi những thuyết giáo phủ dụ và cả hăm dọa của giới tăng lữ Bàlamôn. Tuy nhiên, nếu như Charvaka có nguồn gốc (chủ yếu) xuất phát từ sự bị bần cùng hóa (về vật chất) trong tầng lớp bình dân thì Kỳ Na Giáo có nguồn gốc (chủ yếu) xuất phát từ sự bị bi đát hóa (về tinh thần) trong tầng lớp hiệp sĩ. Chính vì sự khác nhau về nguồn gốc xuất thân như thế mà dù hai hệ thống tư tưởng đều ẩn chứa nỗi bất mãn cái xã hội đương thời đã sinh ra chúng, song nỗi bất mãn của chúng là khác nhau, dẫn đến hai cách lý giải xã hội-nhân sinh khác nhau, có tính tương phản nhau, đại loại, một đàng duy vật-thực dụng, một đàng duy tâm-ảo tưởng. Cần thấy rằng, thành kiến lý luận về xã hội-nhân sinh của Charvaka hay của Kỳ Na Giáo không phải là kết quả của sự nghĩ ngợi viển vông vô căn cứ theo ý thích thuần túy chủ quan, mà là kết quả của suy tư, nhận định chủ quan rút ra được từ quá trình quan sát hiện thực khách quan đương thời, trên cơ sở tiếp thu có phê phán những quan niệm về tự nhiên-xã hội đã từng được thừa nhận trong quá khứ, đồng thời cũng trên tinh thần đó mà xây dựng hoàn chỉnh thành một hệ tư tưởng mới nhằm giải thích thế giới. Cho nên có thể nói, hai hệ thống tư tưởng Charvaka và Kỳ Na Giáo đều là sự phản ánh của tư duy con người về hiện thực khách quan, nhưng từ hai góc độ quan sát, hai cách nhìn nhận (lập trường) khác nhau, tương phản nhau. Cũng do đó mà trong mỗi hệ tư tưởng, dù quan niệm về thế giới còn ấu trĩ, thiển cận và lệch lạc thì không phải vì thế mà không hàm chứa ở chừng mực nhất định sự thực khách quan. Chẳng hạn, về vấn đề khả năng nhận thức chân lý (sự thực khách quan), cả Charvaka lẫn Kỳ Na Giáo đều bác bỏ con đường tiếp cận sự thực khách quan thông qua suy lý. Sự bác bỏ đó có đúng không? Trên bình diện tri thức ngày nay, hầu như ai cũng chọn câu trả lời phủ định. Nhưng nếu bình tâm và "thả" cho tâm hồn lãng mạn một chút (!) thì chúng ta sẽ thấy câu trả lời phủ định khó lòng mà "đứng vững" được. Chắc chắn rằng không có suy lý sẽ không có toán học- một trong ba ngành cơ bản (toán, lý, hóa) của khoa học tự nhiên làm nên văn minh loài người. Nhưng nếu chỉ bằng tưởng tượng và suy lý thuần túy thôi thì lại sẽ không có vật lý học và hóa học. Trong lôgic học có rất nhiều câu chuyện lý thú chỉ ra sự bất toàn của khái niệm và nhiều trường hợp về sự bất định chân lý của suy lý dù quá trình suy lý không phạm vào bất cứ sai lầm lôgic nào. Nhất là về Phương Đông nghe các "bác" thiền học giảng giải thì lại càng hoang mang hơn nữa...
    Chúng ta khẳng định: không có cảm giác trực giác thì không có thế giới sinh vật, và không có tư duy trừu tượng thì không có con người để mà tìm hiểu, nhận thức thực tại khách quan, nói cách khác, sinh vật phát hiện được, phân biệt được sự hiện hữu, vận động của các sự vật-hiện tượng ở xung quanh là nhờ vào cảm giác, còn con người, trên cơ sở cảm giác, thông qua quá trình tư duy trừu tượng, nghĩa là bằng bước đi tiền đề từ cảm giác đến tư duy trừu tượng, và cũng chỉ nhờ hướng đi duy nhất ấy, không những có khả năng nhận biết được ngày một sâu rộng sự tồn tại của thế giới vạn vật-hiện tượng xung quanh và cả của bản thân mình, mà còn có khả năng nhận thức được nguyên nhân của sự tồn tại đầy biến động ấy, cũng như có khả năng nhận thức đến cùng cực bản chất tối hậu của Vũ Trụ. (Nói thêm, có thể suy đoán rằng, cơ chế vận động cốt lõi của cảm giác sinh vật là cơ chế vận động của hiện tượng cảm ứng điện từ (hoặc nếu không, cũng phải là hiện tượng có bản chất tương tự, thậm chí là hiện tượng "tiền thân" nào đó mà con người chưa xác định được của hiện tượng cảm ứng điện từ), mặt khác, dạng cội rễ sơ khai, hay cũng có thể gọi là tiền thân của mọi cảm giác sinh vật, (tạm đặt tên, tạm gọi thôi!) chính là "trực-xúc giác" mà (cũng tạm) gọi tắt là "giác" của vật vô cảm (không phải sinh vật). Chúng ta vẫn quan niệm vật không phải sinh vật là vật "vô tri vô giác". Nếu theo cách hiểu ở đây thì quan niệm như thế là sai. Không phải sinh vật thì chỉ có thể là vật vô cảm- vô tri, vì trong Vũ Trụ không thể có vật vô giác. Một lượng nước có thể không "cảm" được nóng-lạnh nhưng vẫn "giác" được sự biến đổi nhiệt độ, vì nếu không thế, lượng nước đó không thể đóng băng hay tan chảy được. Một thanh sắt chắc chắn không "cảm" được đau đớn, nhưng sẽ không bao giờ biến dạng cơ học được nếu không "giác" được lực tác động vào nó. Vậy giác và cảm giác khác nhau chỗ nào? Nói ngắn gọn nên cũng chỉ là đại khái và tương đối: giác làm xuất hiện (những) phản ứng hoàn toàn mang tính thụ động, tiêu cực, không phân biệt được lợi hại, nhằm "cố thủ" của một vật vô tri vô cảm trước nguy cơ bị "tước đoạt" sự tồn tại của nó, còn cảm giác làm xuất hiện (những) phản ứng đã ít nhiều mang tính chủ động, tích cực, phân biệt được lợi hại, nhằm "tự vệ", duy trì sống còn của một sinh vật trước (những) tác động từ môi trường gây ảnh hưởng đến đời sống của nó. Từ đó cũng có thể nhận xét rằng, cảm giác trực giác có tính tự giác (tính tỉnh thức). Tính tự giác này là biểu hiện của cái gọi là "vận động thần kinh" trong nội tại sinh vật, còn giác thì tuyệt nhiên không có tính tự giác mà chỉ có tính tự phát (tính mù quáng). Quá trình đấu tranh sinh tồn thúc đẩy sự tiến hóa thích nghi sinh vật, trong đó có khâu quan trọng là làm xuất hiện những giống loài mới không những được tăng cường khả năng cảm giác nói chung, mà còn được sở hữu một vài cảm giác đạt đến trình độ siêu việt theo một hay vài định hướng "được lựa chọn" cụ thể nào đó. Bước đi song hành với quá trình tăng cường khả năng cảm giác nhưng đóng vai trò tiền đề cho quá trình đó là quá trình kiện toàn cơ cấu vận động thần kinh, làm xuất hiện hệ thống thần kinh hoạt động phối hợp nhất quán, nhịp nhàng trên cơ sở điều hành chung bởi một cơ quan trung tâm gọi là bộ não. Nhờ có bộ não mà xuất hiện dạng hoạt động thần kinh gọi là "sự hồi ức" (nhớ, nhớ lại), và đặc biệt là với bắt đầu từ sự hồi ức, cũng xuất hiện thêm một phương thức hoạt động thần kinh có tính siêu việt, đó là tư duy trừu tượng. Có thể nói, sự xuất hiện hồi ức là mốc đánh dấu bước phát triển mang tính đột biến về khả năng cảm giác, đó là ngoài cảm giác trực giác đóng vai trò nền tảng, sinh vật biết hồi ức còn có thêm loại cảm giác tạm gọi là cảm giác gián giác. Cảm giác gián giác, hình thành trên cơ sở cảm giác trực giác kết hợp với hồi ức, thăng hoa nhờ tư duy trừu tượng và thông qua tư duy trừu tượng mà tăng cường phát huy tác dụng, đã làm cho trình độ cảm giác đạt đến mức siêu phàm, thậm chí nhiều khi là huyền linh (chưa nhận thức được!), do đó cũng mang nét đặc thù, coi như chỉ ở loài người mới có. Nhưng giác từ đâu mà có? Hiện nay chắc là chẳng ai thừa nhận, nhưng trong tương lai sẽ phải thừa nhận sự thật này: Vũ Trụ có bản chất "hai mặt", hay như chúng ta đã từng nêu ra, Vũ Trụ có tính (thể hiện) "nước đôi", là thế này mà cũng là thế kia, liên tục mà cũng rời rạc, vô hạn mà cũng hữu hạn, hữu hạn trong tình thế vô hạn và vô hạn trong tình thế hữu hạn... Mặt khác, chúng ta cũng đã quan niệm, thực thể là một tồn tại, mà tồn tại, xét trên phương diện tuyệt đối thì tất yếu phải thể hiện. Toàn thể tồn tại thể hiện theo cách tồn tại (hay tập hợp tồn tại) nào cũng khẳng định sự tồn tại của nó trước những tồn tại (hay tập hợp tồn tại) xung quanh nó, và vì bị khống chế bởi tính hữu hạn của Vũ Trụ về cách thức thể hiện tồn tại cho nên tồn tại (hay tập hợp tồn tại) nào cũng đồng thời trong tình thế bị những tồn tại (hay tập hợp tồn tại) xung quanh nó (có xu hướng) phủ định nó, nghĩa là chúng vừa khẳng định vừa phủ định sự hiện diện của lẫn nhau. Đó được coi như là nguyên nhân tự nhiên và sâu xa làm xuất hiện giác ở mỗi tồn tại, hay cũng có thể nói giác là đặc tính vốn dĩ của tồn tại. Sự tất yếu thể hiện đồng thời của toàn thể tồn tại theo cách cũng tất yếu như thế, với sự có mặt của giác và thông qua giác, đã tạo ra hoạt cảnh chuyển hóa và biến đổi tồn tại một cách toàn diện, liên tục, không ngừng, vô thủy vô chung, từ cùng cực tổng thể Vũ Trụ vĩ mô đến tuyệt tận đơn thể Vũ Trụ vi mô, mà loài người hiện nay đã phần nào quan chiêm-nhận thức được, và từ đó cũng đã xây dựng nên quan niệm dưới tên gọi "vật chất và vận động vật chất" (tương đối có lý nhưng chưa đích đáng!) về thực tại khách quan. Nếu tiếp tục suy xét, còn có thể dễ dàng đi đến nhận định rằng, tính tất yếu thể hiện và tính hữu hạn về cách thức thể hiện của tồn tại, cũng như sự giác tất yếu, vốn có ở mỗi tồn tại, được coi là những yếu tố tự nhiên hợp thành giềng mối của (ít ra là) hai nguyên lý cơ bản thuộc hàng phổ quát nhất của Tự Nhiên Tồn Tại, đó là nguyên lý tương tác (định luật tác dụng tương hỗ của Niutơn chính là một biểu hiện đặc thù của nguyên lý này) và nguyên lý nhân-quả (nhờ có nguyên lý này mà loài người ngày nay mới có cơ may "làm nên lịch sử" của một quá trình tồn tại vận động (thậm chí của cả Vũ Trụ) và hơn nữa, tùy thuộc trình độ cũng như năng lực nhận thức của mình, còn dự đoán đúng được đến chừng mực nhất định tiến trình chuyển hóa-biến đổi tự nhiên trong tương lai của một sự vật-hiện tượng nào đó mà họ chú tâm nghiên cứu). Mặt khác, có thể coi hai nguyên lý đó là hai hệ quả trực tiếp đều được "rút ra" từ nguyên lý Tự Nhiên nếu thừa nhận nguyên lý này có tính tiên đề duy nhất, tối thượng, là nguyên lý cội nguồn của mọi nguyên lý, mọi qui luật-định luật có thể có của Vũ Trụ, trong Vũ Trụ.).
     Tăng cường khả năng cảm giác đối với sự tác động của môi trường sinh thái là yêu cầu tự nhiên nảy sinh trong quá trình đấu tranh sinh tồn. Yêu cầu tự nhiên đó cũng chính là nguyên nhân sâu xa nhất làm xuất hiện sự tư duy trừu tượng trong thế giới sinh vật. Ở giống loài đã được "trang bị" tư duy trừu tượng thì yêu cầu tự nhiên về tăng cường khả năng cảm giác dần được "nâng cấp", chuyển hóa thành đòi hỏi chủ quan tích cực tăng cường khả năng nhận thức thế giới. Bước đi tiền đề từ cảm giác trực giác đến tư duy trừu tượng cũng chính là bước đi tạo cửa mở cho tiến trình nhận thức thế giới dài lâu, đầy khúc khuỷu quanh co nên cũng nhiều gian truân cay đắng, nhưng tuyệt đỉnh tự hào của loài người, mà ở lĩnh vực cảm thụ nghệ thuật, đó chính là thiên anh hùng ca bi tráng, hào sảng và vĩ đại nhất mà loài người tạo tác nên được! Trên cơ sở cảm giác, tư duy trừu tượng làm xuất hiện ý niệm, rồi đến khái niệm và cuối cùng là hệ thống khái niệm-quan niệm. (Bàn thêm: hệ thống khái niệm thuở sơ khai, khi nhận thức của con người về hiện thực khách quan còn nông cạn, thì chưa có...tính hệ thống, mà chỉ là một tập hợp đơn giản, rời rạc các khái niệm. Tập hợp các khái niệm sẽ ngày càng được bổ sung đầy đủ, hoàn thiện và đồng thời cũng thể hiện ra ngày càng rõ rệt tính hệ thống (tính quan hệ, liên kết gắn bó nội tại, tính phụ thuộc, ảnh hưởng lẫn nhau giữa các khái niệm) của nó theo cùng với tiến trình nhận thức ngày càng sâu rộng, ngày càng được nâng cao về trình độ). Về mặt hình thức, khái niệm là do chủ quan con người sáng tạo ra, còn về mặt nội dung, khái niệm là kết quả phản ánh về thế giới khách quan của tư duy trừu tượng mà nó cảm giác được. Do đó, sự hình thành nên hệ thống khái niệm-quan niệm là trực tiếp nhờ nhân tạo tự phát, nhưng lại có tính tự nhiên, coi như được khởi phát từ tính thống nhất của thế giới khách quan, và bản thân hệ thống khái niệm-quan niệm chính là "mô hình" thế giới khách quan được "xây đắp" nên bởi tư duy trừu tượng theo cách sáng tạo chủ quan, riêng có của nó. Cho đến tận ngày nay, hình như chưa có ai ý thức thực sự được sự tồn tại "tự thân" của hệ thống khái niệm-quan niệm này của loài người. Theo chúng ta, hệ thống này ngày nay đã có qui mô cực kỳ to lớn (nhưng vẫn chưa hoàn hảo, thậm chí là còn không ít những thừa, thiếu, lầm lạc!), mà cốt lõi của nó là sự hợp thành thống nhất hữu cơ của ba ngành khoa học cơ bản gồm triết học, toán học, vật lý học).
     Như vậy, có cảm giác trực giác thôi chưa đủ, phải có thêm tư duy trừu tượng nữa mới đủ điều kiện tiền đề làm nảy sinh ra sự nhận thức. Giả sử có một đứa bé được sinh ra trong rừng sâu. Đây là khu rừng hoàn toàn tách biệt với xã hội loài người. Sau khi sinh con thì người mẹ chết, đứa bé may mắn được một con sói cái nhận nuôi và từ đó lớn lên thành người giữa bầy sói. Hỏi: người đó có nhận thức gì không dù được sinh ra trong thế kỷ XXI, có đủ năm giác quan và bộ não có khả năng tư duy trừu tượng? Trước hết, dễ dàng hình dung là người đó, do bị cách ly tuyệt đối khỏi con người và xã hội hiện đại, nên dù được sinh ra trong thời này, thì cũng chẳng khác gì mấy so với được sinh ra vào thời tối cổ, khi con người còn chưa biết đến ngôn ngữ. Chưa có ngôn ngữ thì chưa thể có khái niệm, mà chỉ có ý niệm trong một phạm vi hạn chế nào đó và cũng mới ở dạng "biểu tượng câm nín, vô danh" nhờ sự hồi ức. Điều đó cho thấy, dù bộ não đã có khả năng tư duy trừu tượng cao độ của con người hiện đại nhưng trong điều kiên bị cách ly tuyệt đối như trên thì khả năng ấy bị "mai một" đi và chỉ còn tương đương với trình độ tư duy trừu tượng của con người tối cổ, thậm chí của dạng người vượn-tiền thân loài người. Mới có ý niệm "câm nín" thì cũng chỉ có ý thức "câm nín". Nếu quan niệm rằng ý thức "câm nín" là ý thức dạng sơ khai và ý thức là nhận thức sơ khai thì coi như ý thức "câm nín" chưa phải là nhận thức mà mới là dạng tiền thân của nhận thức, nghĩa là người sống giữa bầy sói đó chưa biết nhận thức. Lại giả sử rằng người đó lần đầu tiên theo bầy sói lội qua một con suối và suýt chết đuối khi gặp phải một vùng nước sâu. Cảm giác suýt chết ngạt đó trở thành ý niệm "câm nín" lưu nhớ trong não người đó. Lần sau, trước khi phải lội qua đoạn suối cũ (hoặc tương tự), nhờ hồi ức mà cảnh suýt chết ngạt lần trước hiện ra trong não như một báo động, kích thích gây ra cho người đó một thứ mà chúng ta đã gọi là cảm giác gián giác (hay ý thức "câm nín") về cái gì đó đe dọa đến cuộc sống (sự nguy hiểm), và làm người đó "lưỡng lự tìm cách" lội qua (sự liên tưởng). Chúng ta gọi hoạt động của bộ não kiểu như thế là "nghĩ", và cho rằng các cá thể động vật có hệ thần kinh bậc cao (có bộ não), tùy vào mức độ tiến hóa, ít nhiều gì cũng đều biết nghĩ. Nghĩ chính là hồi ức, liên tưởng và định hướng cho hành động mới, do đó, trong nghĩ đã vốn dĩ hàm chứa hình thức vận động tinh thần gọi là "suy" (ước đoán, suy tưởng, suy đoán, suy diễn...). Dù biết nghĩ thì loài vật chỉ nghĩ được một cách manh mún, nhạt nhòa, ít suy cho nên cũng có tính trì độn, lề mề, hiệu quả thấp. Ở loài người, vì khả năng tư duy trừu tượng hoàn thiện hơn hẳn (sự suy tưởng mạnh mẽ hơn hẳn) nên sự nghĩ có hệ thống hơn hẳn, sâu sắc hơn hẳn, do đó cũng sáng suốt hơn hẳn, nhanh hơn hẳn và hiệu quả hơn hẳn ở loài vật. Nếu khẳng định chỉ con người mới biết suy nghĩ, còn con vật thì không, thì kể ra cũng đúng, nhưng tương đối thôi! 
     Vậy, dù đủ điều kiện tiền đề làm nảy sinh ra sự nhận thức thì sự nhận thức vẫn chưa thể triển khai được trong hiện thực, bởi vì vẫn còn thiếu một phương tiện vô cùng trọng yếu, có tính quyết định, đó là tập hợp ý niệm-khái niệm, thứ đồng thời cũng là hình thái đầu tiên của ngôn ngữ. Có thể nói rằng, khi ý niệm "câm nín" thốt nên lời thành ý niệm để từ đó khai hoa nở nhụy, đơm bông kết trái những khái niệm, thì cũng là lúc bắt đầu quá trình nhận thức dài lâu ở loài người. Rốt cuộc, con người không thể nhận thức được nếu không có hệ thống khái niệm, và hơn nữa, chỉ có cách duy nhất là thông qua hệ thống khái niệm mà nhận thức thế giới khách quan. Cũng do đó, xét cho đến cùng, loài người chỉ có khả năng xây dựng mô hình thế giới khách quan trên cơ sở khái niệm, bằng khái niệm, theo cách nhìn nhận và qui ước chủ quan của mình, trái lại, một con người, muốn tìm hiểu thế giới khách quan, trước hết phải học hỏi để nắm bắt khái niệm (kế thừa), rồi sau đó mới có thể thông qua mô hình đó mà nhận biết thực tại (tri thức), và nếu có khả năng thì góp ý nhằm hoàn chỉnh mô hình ấy (sáng tạo). Mặt khác, như đã trình bày, một hướng quan trọng có tính tất nhiên của quá trình tăng cường khả năng cảm giác sinh vật là làm xuất hiện "nghĩ"- một cách thức hoạt động thần kinh-   để có thêm loại hình cảm giác nữa là cảm giác gián giác. Có thể nói, cảm giác gián giác là cảm giác trực giác đã được trừu tượng hóa và là kết quả của nghĩ (hồi tưởng, liên tưởng) và suy (suy tưởng). Nghĩ và suy là hai vận động của một hoạt động thần kinh thống nhất không thể tách rời nhau, là sự khẳng định tồn tại của nhau (mà nghĩ đóng vai trò tiền đề), chuyển hóa lẫn nhau, trong nghĩ có suy, trong suy có nghĩ, hay nói cách khác, trong nghĩ đơn thuần đã có mầm mống của suy và đặc tính vốn dĩ, mặc định của suy là nghĩ. Điều chúng ta muốn nhấn mạnh ở đây là, không có suy sẽ không có ý thức, mặt khác, suy được coi là dạng tiền thân của suy lý và chuyển hóa thành suy lý trong quá trình nhận thức nhằm tăng cường và nâng cao nhận thức. Tóm lại, dù thế giới khách quan "sờ sờ" ra đó, dù năm giác quan của chúng ta lúc nào cũng tiếp xúc trực tiếp với nó, nghĩa là dù cả đời chúng ta luôn lặn hụp trong nó, hơn nữa, là bộ phận của nó, thì chúng ta cũng không bao giờ biết được thực chất nó là cái gì, như thế nào, nếu chỉ có trực giác. Nói khác đi, con người không thể nhận thức được bản chất của thế giới khách quan bằng cách trực tiếp nhờ cảm giác, mà chỉ có thể bằng cách gián tiếp, thông qua khái niệm và phải nhờ suy lý.
Các nhà thiền học cho rằng chỉ khi vượt thoát khỏi khái niệm, loại trừ suy lý và bằng con đường "trực nhận" (!?) thực tại dưới tên gọi là "thiền"- tu tập nhắm đến kinh nghiệm tâm linh sâu thẳm nhất - mới có cơ hội nắm bắt được sự thực khách quan hay như họ gọi là "thực tại cuối cùng". Đó là quan niệm không sai lầm thì cũng ngộ nhận. Chúng ta đã nói đến sự bất toàn của khái niệm (và suy đoán rằng chính Lão Tử là người đầu tiên chính thức nêu ra dưới dạng văn tự, rồi được nhấn mạnh vào thời Hàn Phi, Công Tôn Long, Trang Tử...). Bản tính nước đôi của Tự Nhiên Tồn Tại làm cho nó huyền ảo đến cùng cực và vì thế mà mọi tồn tại trong Vũ Trụ đều hàm chứa tính "hai mặt", "mập mờ", bất định. Trong khi đó khả năng cảm giác và tư duy trừu tượng của con người bị hạn định một cách tự nhiên, do đó mà cũng tất nhiên bị chủ quan hóa, siêu hình hóa. Đó chính là nguyên nhân sâu xa tự nhiên làm cho bản thân khái niệm luôn hàm chứa tính xác định độc đoán (tính bảo thủ), tính phiến diện, tính nghịch lý, nghĩa là tính bất toàn trong nội hàm của nó. 
Đến đây, chúng ta cho rằng đã có thể trả lời được rõ ràng hơn câu hỏi: "Thiền là gì?"- câu hỏi thuộc hàng hóc búa nhất đối với ngay cả những nhà thiền học ngày nay. Theo chúng ta, thiền là một phương thức vận động tinh thần, một loại hình hoạt động trí não có nguồn gốc từ khí công (luyện thở) và trên cơ sở khí công dưỡng sinh, nhằm mục đích đạt đến sự thông tuệ. Để đạt đến mức độ thành quả nhất định nào đó, phải trải qua một tiến trình thiền (lâu hay mau còn tùy thuộc vào chủ quan bản thân người thực hành thiền như sự siêng năng, tự tin, nhạy cảm...). Như vậy, cũng có thể nói, thiền là một quá trình "nhận thức đặc biệt" mà trước hết là tu tập tinh thần nhằm "thanh lọc" suy nghĩ ("bỏ tư tâm, dứt dục vọng", tức là loại bỏ những tạp niệm, những ưu tư tham-sân-si nảy sinh trong đời sống thường nhật), đưa hoạt động tâm thần "thoát ra khỏi" trạng thái bị kích thích, bị nhiễu loạn (gây mê lầm), để rồi có được cách "suy nghĩ tĩnh lặng", an thái, vô tư, như nhiên nhất, nhưng cũng cực kỳ tinh nhạy, linh động (thiền học gọi ví von là "sự im lặng sấm sét"), và nhờ đó mà đạt được sự "tỉnh ngộ" nhất (sự sáng suốt, thấu tỏ nhất) khi tiếp thu, chiêm nghiệm "lại" (!) thực tại.
     Nói lại, khi trong hoạt động của một bộ não đã có được khả năng hồi ức (sự lưu giữ theo thời gian và nhớ lại những cảm giác đã qua, đã thuộc về quá khứ), thì bộ não đó đã bắt đầu biết nghĩ dưới dạng nào đó và rồi cũng sẽ biết suy ở mức độ nào đó. Không có suy nghĩ thì không thể có nhận biết thực sự, đó là điều chúng ta đã khẳng định và thiền học chắc rằng không thể không thừa nhận. Mặt khác, chúng ta cũng khẳng định rằng, một cách tuyệt đối, không thể có cái gọi là "nhận thức trực tiếp" (trực nhận) về thực tại, và muốn tìm hiểu bản chất của thế giới khách quan, chỉ có thể bằng cách gián tiếp nhận thức nhờ khái niệm và thông qua hệ thống khái niệm. Tuy nhiên, vì bản thân khái niệm và hệ thống khái niệm vốn dĩ ẩn chứa sự bất toàn (sự cực đoan, siêu hình, phiến diện..., dẫn đến mâu thuẫn, nghịch lý không "tự"(!) khắc phục được) trong lòng chúng, nên chúng đồng thời cũng đã và đang là một trong hai nguyên nhân (nguyên nhân kia là sai lầm trong nhận định về một hay nhiều cảm giác nào đó, có tính chủ quan thuần túy) gây ra biết bao nhiêu xao động, hoang mang, mập mờ, lẫn lộn cho sự nhận thức. Để có thể "vượt thoát" tình trạng ấy, phải thấm nhuần thật sâu sắc sự tồn tại tất yếu khách quan của khái niệm cùng với tính bất toàn vốn dĩ của nó, trên cơ sở đó mà xây dựng một tinh thần linh động, biện chứng triệt để và thường trực trong quá trình suy lý, nhận thức và kiểm nghiệm. Muốn thế, trước hết phải làm sao có được một trí não khoáng đạt, thông thoáng, sáng suốt, và chắc rằng "Khí công thiền pháp" là một cách thức rất hay (thậm chí là hay nhất) để thực hiện điều đó.
    Cách nay hơn 2500 năm, khi Lão Tử thốt lên: "Đạo khả đạo phi thường đạo, danh khả danh phi thường danh" (Tự Nhiên Tồn Tại mà có thể dùng ngôn ngữ để diễn tả rõ được thì không phải là Tự Nhiên Tồn Tại, danh (tên, nhãn mác đặt ra để gọi Nó - tức Tự Nhiên Tồn Tại) mà có thể dùng ngôn ngữ miêu thuật đúng được thì không phải là danh (của Nó)), thì lúc đó nhà hiền triết này đã "cảm thức" được sự tồn tại và vận động vô cùng linh diệu, "thế này mà cũng là thế kia" của thế giới khách quan, đồng thời cũng "phát giác"được sự hạn chế, không hoàn hảo có tính khách quan của ngôn ngữ, khái niệm trong việc mô tả, diễn giải thế giới ấy. Cũng vì thấy được như thế và trong sự nỗ lực tìm cách tiệm cận, nhận chân rõ ràng hơn về sự thực khách quan, các hiền triết Đạo Gia thời cổ đại, mà người khơi mào là Lão Tử, đã xây dựng nên cách thức thiền định (tham thiền nhập định) cho nhận thức, trên cơ sở khí công dưỡng sinh đã có. Như vậy, có thể nhận định, mục đích sơ khai, nguyên thủy của thiền là tu thân, luyện tâm, an thần, hầu "giũ bỏ", "giải thoát" khỏi sự lũng đoạn bởi tính bất toàn của khái niệm-suy lý, để có được một trí tuệ ngày càng minh mẫn, sáng suốt nhằm đạt đến khả năng thấu tỏ được, "giác ngộ" được bản chất vốn dĩ của thực tại (cũng chính là "thực tại cuối cùng", theo cách gọi của thiền học). Lịch sử thực hành thiền đã cho phép khẳng định rằng, nhờ "nhận thức nội tâm" mà triết lý Phương Đông, một cách thuần túy định tính và cũng chỉ trên bình diện đại ý, đã đạt được sự nhận biết về bản chất của thực tại khách quan tương đối đúng hơn, sát thực hơn triết lý Phương Tây. Nhưng không phải vì thế mà triết lý Phương Đông không phạm phải những ngộ nhận (nhận định sai) nghiêm trọng. Đến tận ngày nay, dù thiền học đã nhận diện được phần nào "chân dung" về tính biến hóa huyền ảo đến vô thường của tổng thể các sự vật-hiện tượng trong Vũ Trụ, đồng thời cũng biết rằng không thể dùng khái niệm-suy lý "vẽ ra" được "chân dung" ấy, dù là bằng những nét đơn giản nhất, một cách tuyệt đối xác đáng mà không vấp phải một "khuất tất" nào, thì vì vẫn chưa biết được nguyên nhân sâu xa dẫn đến tính bất toàn vốn dĩ của khái niệm, hơn nữa là vẫn chưa tỏ tường được đến cội nguồn bản chất của sự nhận thức, nên đã lý giải lầm lạc theo hướng huyền bí hóa về thực chất của thiền, cũng như về thực chất thứ gọi là "nhận thức nội tâm" hay sự "trực nhận", từ đó mà thiền học cũng kêu gọi "tẩy chay" khái niệm, loại bỏ suy lý khỏi tư duy nhận thức và chỉ khi đạt được như thế thì mới có thể tiếp cận được (giác ngộ, đốn ngộ, bừng ngộ, đại ngộ...) chân lý đích thực là chân lý, thực tại chính xác là thực tại (nhưng khi đã "ngộ" được cái sự thể "thế này mà cũng thế kia, phải mà cũng không phải" của thực tại thì khó mà xác định chắc chắn được bằng ngôn ngữ, nghĩa là theo thiền học, ai "ngộ" người đó biết, như một kinh nghiệm cá nhân không thể truyền đạt, vì sự "ngộ" đó ở "tầng"..."vô niệm"!!!).
      Cần phải thấy rằng, "nhận thức nội tâm" hay "trực nhận" chỉ có thể được coi là những nhãn mác do chủ quan qui ước, dùng để "đặt tên", để phân biệt một dạng nhận thức tương đối có tính riêng nhờ thiền định mà đạt được (và chúng ta cũng đã đặt tên là "nhận thức đặc biệt", để tạm phân biệt với "nhận thức thông thường"- tạm hiểu là nhận thức "không trải qua" thiền). Có thể định nghĩa, nhận thức đặc biệt là một dạng, một bộ phận của nhận thức nói chung, thuộc về quá trình nhận thức thế giới khách quan của loài người. Chính vì lẽ đó, nhận thức đặc biệt cũng là nhận thức gián tiếp, nghĩa là trong nhận thức đặc biệt, dù có thể không thấy sự hiện diện của khái niệm-suy lý, thì đó chỉ là vì "lãng quên" có tính tương đối và tạm thời, còn một cách tuyệt đối, không thể thoát ly, chối bỏ được chúng, cũng như không thể triệt tiêu được đặc tính hoạt động theo nguyên tắc từ kế thừa đến sáng tạo của tư duy, tồn tại xuyên suốt quá trình nhận thức ấy. Khi thiền học nói rằng, chỉ bằng trực nhận mới "đốn ngộ" (nắm bắt) được "thực tại cuối cùng"- thực tại đích xác là thực tại (!), thì cũng hàm ý thừa nhận "trước đó" có (những) thực tại chưa cuối cùng, chưa đích thực, được "hình dung" ra bằng nhận thức thông thường, đã bị khái niệm-suy lý lũng đoạn, làm cho sai lạc, và nhiệm vụ của trực nhận chính là "loại bỏ" sự sai lạc ấy. Mặt khác, vì không thể trực nhận (theo đúng nghĩa đen là nhận thức trực tiếp), nên có thể "phăng ra" từ câu nói trên của thiền học như sau: nhận thức đặc biệt là một "phương tiện" của hoạt động tư duy nhờ thiền mà có, được dùng nhằm tìm hiểu lại cho chính xác cái thực tại đã quan niệm được bằng nhận thức thông thường. Như thế, lại phải suy ra, không có "kinh nghiệm nhận thức" và đối tượng nhận thức thì cũng không thể có nhận thức đặc biệt, hay nói cách khác, trước tiên là phải có một tích lũy tri thức ở mức độ nhất định nào đó đã tiếp thu được từ nhận thức thông thường, rồi trên cơ sở đó, dựa vào đó đồng thời cũng lấy đó làm đối tượng mà bắt đầu tiến hành nhận thức đặc biệt nhằm khắc phục, loại trừ về mặt định tính (!) những sai lạc trong hiểu biết do tính bất toàn của khái niệm gây ra. Từ hoàn toàn "mù tịt", chưa có một tý nhận biết nào cả mà đòi thiền ngộ để tiếp cận chân lý, thì dù là Đức Phật Thích Ca tu tập đến hết đời bên gốc cây bồ đề, cũng chỉ là vô vọng! Sự "nhận thức nội tâm" của thiền học dù có thâm hậu đến đâu chăng nữa thì may ra cũng chỉ phụ trợ phần nào, chứ không bao giờ có thể thay thế được nhận thức trên cơ sở nghiên cứu khoa học, hơn nữa, nếu chỉ bằng "nhận thức nội tâm" thôi, chắc chắn loài người không thể "gặt hái" được một kho tàng tri thức đồ sộ và một nền văn minh siêu việt như hiện nay! Nhất quyết không thể nào bằng "nhận thức nội tâm" của thiền mà "ngộ" được bản chất của hiện tượng vạn vật hấp dẫn là gì, hay "thực tại cuối cùng" về tương tác hấp dẫn là như thế nào! Cuối cùng, để dung hòa hai quan niệm khác nhau giữa chúng ta và thiền học về sự nhận thức "trong" thiền hay sự thiền ngộ, chúng ta kết lại thế này: trực nhận là nhận thức lại một cách định tính cái đã nhận thức, trong tình trạng tâm thần mà hoạt động tư duy trừu tượng đã được thiền "đưa về rất gần", giống như với lối suy nghĩ hồn nhiên đậm nét (!) bản năng, "chưa vướng bụi trần" thời cổ xưa, khi bộ não chưa "biết đến" khái niệm, chưa biết nhận thức thực sự, vì thế mà khái niệm-suy lý tuy vẫn tồn tại và phát huy tác dụng trong suy nghĩ (đương nhiên!), nhưng sự hiện hữu của chúng (trước "người trần mắt thịt") thì "lặn xuống", chìm sâu vào tiềm thức, làm cho thiền học tưởng rằng đã loại bỏ được khái niệm-suy lý khỏi tư duy trừu tượng, nên cũng tin rằng đã đạt đến "tầng" ưu tư vô niệm, khoáng đạt giữa mơ hồ, hối hả trong yên tịnh, được ví như một sự "im lặng sấm sét" chờ "bừng ngộ", từ đó có được sự nhận thức trực tiếp (trực nhận) hay sự "nhận thức nội tâm" đầy trí huệ, và vì theo lời các thiền sư, không thể "nói ra" chính xác những gì "đốn ngộ" được từ đó, nên chúng ta cũng có thể (tạm) gọi đó là "nhận thức câm nín"! "Cô kết" lại, chúng ta viết: TRỰC NHẬN = IM LẶNG SẤM SÉT = NHẬN THỨC CÂM NÍN.
     Ngày nay, do lối giải thích còn nhuốm màu huyễn hoặc, kỳ ảo về bản chất thiền của các nhà thiền sư nên nếu không là hầu hết thì cũng rất nhiều người còn hiểu "lơ mơ" về nó. Mặt khác, trong thực tiễn đời sống, không ít người vì "hiểu biết không rõ ràng" như thế nên sùng bái thiền một cách mù quáng, đã 'lẫn lộn" gán cho nó cả cái khả năng có thể làm xuất hiện ở các thiền sư, hay ở những người thực hành thiền lâu dài nói chung những năng lực tâm linh siêu việt, phi phàm, chẳng hạn như: cảm giác xuyên không-thời gian (thấu thị, thấu thính, linh (ngoại) cảm...), chữa bệnh bằng "phát, truyền khí", bằng dẫn dụ từ xa...Mục đích nguyên thủy của thiền là tu tập đạt đến an thần tĩnh trí thực sự để có được một thần thái thông tuệ nhằm trước hết là giác ngộ, giũ bỏ mê lầm, vượt thoát vô minh, mở ra khả năng thấu tỏ cõi nhân sinh, nhận chân được ý nghĩa đích thực của đời sống, từ đó mà cũng hình thành một thái độ sống vô chấp bất cầu, một tâm niệm sống ung dung an hòa. Với ý nghĩa ấy, thiền không thể tạo ra được bất cứ một công năng đặc dị có tính phi thường nào, cũng như một vận động tinh thần có tính huyền diệu (tâm linh) nào ở những người thực hành thiền (hành giả). Nếu không thế thì một cách phổ biến (!), tất cả các nhà sư "gạo cội" của Đạo Phật đều phải có không nhiều thì ít những khả năng tâm linh siêu việt. Nhưng trong hiện thực, đâu có thấy hiện tượng đó! Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng, dù là rất ít thì cũng có những thiền sư đạt được năng lực ngoại cảm bằng thiền, về một hay vài khía cạnh nào đó. Vậy, cần phải hiểu như thế nào cho đúng về tác dụng của thiền? Nếu chỉ có một mục đích như trên thì thiền được hiểu như chúng ta đã hiểu, còn nếu cho rằng thiền còn có mục đích thứ hai là hướng tới khả năng làm xuất hiện ngoại cảm thì cũng phải cho rằng thiền là tên gọi chung của hai cách thức thiền, cách thứ nhất có tên riêng tạm gọi là "thiền ngộ", cách thứ hai tạm gọi là "thiền công". Về thiền ngộ thì như chúng ta đã trình bày, còn về thiền công thì trước đây, trong phần "đi tìm" nguồn gốc của thiền, chúng ta cũng đã đề cập "thoáng qua". Không thể phân định dứt khoát được, nhưng một cách tương đối, có thể nói rằng, nếu thiền ngộ nhằm tăng tiến "độ tỉnh táo" cho hoạt động nhận thức, thì thiền công nhằm tăng cường "mức mãnh liệt" cho vận động thần cảm (tạm gọi vậy thôi!). Chính thiền công, trong những điều kiện kích hoạt đạt đến chín muồi nào đó, mới có tác dụng làm xuất hiện khả năng tâm linh ở số ít hành giả. Hai cách thức thiền ấy đều có chung một nguồn gốc xuất phát, vì thiền, như chúng ta đã bàn luận, hình thành trên cơ sở khí công và đồng thời nhận nguyên lý cơ bản của khí công làm nguyên tắc nòng cốt trong tu tập. Đến đây, "chắp nối" lại, chúng ta đã có thể hình dung ràmh mạch hơn về thiền và cả khí công nữa. 
    Vào thời thượng cổ, miền đất duyên hải dọc bờ biển thuộc Đông Nam Châu Á - Nam Trung Hoa, nhờ được thiên nhiên "ban cho" một chế độ thời tiết-khí hậu cũng như thổ nhưỡng tương đối an hòa đối với đời sống sinh vật, nghĩa là cũng dồi dào thức ăn cho con người hơn ở những nơi khác, nên cư dân nguyên thủy quần cư chủ yếu ở đó mà đông đảo nhất có lẽ là trên dải đất Bắc-Trung Việt Nam ngày nay. Tuy nhiên, có những thuận lợi cơ bản về tìm kiếm miếng ăn thì cũng có những bất lợi về sinh hoạt-đời sống, vì không phải lúc nào cũng gặp "mưa thuận gió hòa", và nhất là thường xuyên phải  sống trong một môi trường "lầy lội" với sông ngòi, hồ ao chằng chịt, đồng thời phải chịu đựng mùa giông bão, lũ lụt kéo dài, xảy ra hàng năm theo chu kỳ. Tình hình đó đã như một động lực hối thúc cư dân tăng cường hơn nữa về qui mô cũng như tính hiệu quả cho hoạt động tìm kiếm và săn bắt-lượm vớt các sinh vật thủy sinh trong sông ngòi, ao hồ và biển cả để làm thức ăn. Điều đó cũng như kinh nghiệm hoạt động mưu sinh trong môi trường nước đã tích lũy được từ trước, hợp thành yếu tố tiền đề làm xuất hiện sự luyện thở. Luyện thở lúc đầu đơn thuần chỉ nhằm nâng cao hiệu quả của việc kiếm ăn trong môi trường nước. Dần dà người ta còn phát hiện ra tính năng thứ hai của nó là tăng cường sinh lực, và từ đó, qua thời gian, nó được hun đúc thành như một cách thức tồn tại trong quần thể-xã hội cư dân, nhằm cải thiện sự thở, dưỡng sinh, hơn nữa là làm nâng cao nội lực. Chúng ta gọi cách thức luyện thở (chắc còn rất sơ khai) đó là "luyện thở dưỡng sinh" và cho rằng cùng với tiến trình nhận thức, luyện thở dưỡng sinh được điều chỉnh, bổ sung, làm sâu sắc thêm để trở thành một phương thức tu thân luyện tâm có cơ sở lý luận thực sự, (tạm) gọi là "khí công dưỡng sinh". Vậy, có thể nói, luyện thở dưỡng sinh là tiền thân của khí công dưỡng sinh, khí công dưỡng sinh là tiền thân của khí công ngày nay. Ngày nay, lý thuyết khí công đã trở nên "đồ sộ", là tập hợp lý thuyết của rất nhiều môn phái, trường phái khác nhau, có thể phân biệt được với nhau về "tiểu tiết", nhưng về đại thể thì đều theo nguyên tắc "tu thân luyện tâm" và có chung một yếu lĩnh tu tập cơ bản là "luyện tinh hóa khí, luyện khí hóa thần, luyện thần hoàn hư". Trong lý thuyết khí công, để dễ bề tiếp cận nhằm triển khai thực hành, dù không thể dứt khoát được, dù là siêu hình, thì khí công vẫn được phân tương đối thành hai loại lớn theo hình thức thể hiện và công dụng chủ yếu của chúng, đó là "khí công động" và "khí công tĩnh". Không hẳn đúng nhưng vẫn có thể tạm cho rằng, khí công động "có mặt" chủ yếu trong rèn luyện võ thuật, tôi luyện võ công (thường gọi là luyện (ngoại) công), với công dụng chủ yếu nhằm "tu thân", tức là làm tăng tiến mạnh mẽ nội lực cơ thể đến mức đạt được những "công năng đặc dị" siêu phàm nào đó (như một mình phát công đánh quị mấy chục võ sinh một lúc, chịu được xe lu cán qua người mà không chết...) tùy theo từng phép luyện công. Còn khí công tĩnh "có mặt" chủ yếu trong tu tập dưỡng sinh, luyện thở điều khí, với công dụng chủ yếu nhằm "luyện tâm", tức là làm cho tinh thần ngày càng sung mãn và sung mãn đến mức có được những "thần lực" phi thường và thậm chí là cả những "thần thức" tâm linh nào đó (như phát khí chữa bệnh nan y, làm thay đổi thành phần hóa học một chất lỏng,..., thấu thị, thấu thính,...) tùy theo từng phép luyện (nội) thần. Không thể tách bạch tuyệt đối được giữa động và tĩnh, cho nên nghĩa của "tĩnh" trong khí công tĩnh chỉ mang tính tương đối thôi (chẳng hạn "múa" Thái cực quyền trên một cơ sở qui ước nhất định vẫn thuộc về khí công tĩnh). Có một cách thức tĩnh nhất trong khí công tĩnh, thời xưa không biết tên gọi của nó là gì, ở đây chúng ta cứ gọi là thiền và đã cho rằng nó là gốc xuất phát chung của thiền ngộ và thiền công. Thuở đầu tiên, công dụng của thiền chỉ đơn giản là luyện tâm tu thần nhằm dưỡng sinh mà thôi. Về sau nó mới trở thành một phương thức tu tập tương đối độc lập nhằm đạt tới những thần lực và thần thức có tính kỳ diệu, siêu linh. Nếu thế, quan niệm cho rằng thiền ngộ và thiền công có nguồn gốc chung là thiền như đã nêu ra ở trên chưa hợp lý lắm, mà có lẽ đúng hơn phải cho rằng gốc xuất phát của thiền ngộ là thiền công, như một nhánh rẽ từ thân cây vào lúc nào đó ở thời cổ đại (trước khi Đức Phật xuất hiện!). Dùng tên gọi là "thiền" cho dễ bề dẫn giải, nhưng để rõ ràng hơn, nên "quan sát" thiền dưới góc độ khí công với tên gọi "khí công thiền pháp" (luyện khí công theo cách thiền). Khí công thiền pháp là phương thức tu tập tĩnh nhất thuộc khí công tĩnh. Thiền ngộ xuất phát từ khí công thiền pháp như một nhánh quan trọng  và dần phát triển thành cách thức luyện tâm tu thần có tính riêng, tương đối độc lập, nhằm chủ yếu tăng cường nhận thức đúng đắn về xã hội-nhân sinh, về ý nghĩa đời sống, từ đó mà thấm nhuần một lối sống bình thản, an hòa, vị tha, nhân hậu (nhưng thử hỏi từ xưa đến nay đã có ai tu thiền mà giác ngộ được mặt khách quan trong nguồn gốc gây ra sự đau khổ???)...
     Đây mới là điều huyền bí lớn lao mà cũng là điều gợi mở sâu xa, vừa là thách đố "ghê hồn" vừa là hé lộ "bạt vía" đối với tri thức loài người ngày nay: không phải ai thực hành khí công bền bỉ, lâu dài cũng đạt được những công năng đặc dị mang tính thần kỳ về thể chất hay tinh thần theo ý mình muốn, mà điều đó chỉ có ở một số rất ít hành giả được cho là có "duyên" (sự tương thích!?), trong khi đó không hiếm người chẳng cần qua luyện công hay tu thiền gì cũng sở đắc được một hay vài công năng ấy (nói cụ thể thì phần lớn trong số người này có được khả năng dị thường sau một sự cố nào đó tác động rất mạnh đến thân-tâm (như một "xung" kích hoạt gây đột biến hoạt động thần kinh?), ngoài ra là những người bẩm sinh đã sẵn có và cả những người lúc đầu không có nhưng tự dưng lại có (hoặc đang có tự dưng mất đi) vào lúc ngẫu nhiên nào đó trong cuộc đời. Nói chung, trong xã hội có rất nhiều câu chuyện ly kỳ về năng lực phi thường, về tâm linh huyền diệu ở con người do kiên trì tu tập mà có và không cần tu tập cũng có, thật vô cùng khó tin nhưng cũng thật không thể phủ nhận được tính hiện thực của chúng...Trên cơ sở quan niệm về thực tại khách quan tự "dựng đứng" cho riêng mình (tất nhiên, cũng phải bắt đầu từ sự kế thừa, và dù đúng hay sai chưa biết), chúng ta đã "bất khuất" (vì mắc chứng hoang tưởng vĩ cuồng mà!) hình dung một cách "bạt mạng" nhất (vì vô học mà!) ra bản chất tồn tại-vận động (ở tầm định tính sơ khai thôi!) của thứ mà khoa học đã gọi là "trường sinh học"- nơi (chúng ta cho là) "chứa đựng" nguồn gốc chung nhất của mọi hiện tượng tâm linh, để từ đó có thể (tạm) giải thích nhất quán được bằng "giọng lưỡi" vô thần (nhưng lại phản khoa học nhất?) hầu hết các hiện tượng nhân sinh dị thường (như gặp ma, ma nhập, cầu cơ, thấy vong, linh cảm, linh tri, báo mộng, thấu thị, thấu thính, đầu thai lại, phát khí chữa bệnh từ xa...). Nếu được huyên thuyên "phét lác" ra đây thì kể cũng thích chí kiểu "Lời quê chắp nhặt dông dài / Mua vui cũng được một vài trống canh" của Nguyễn Du, nhưng...thôi (!), thứ nhất, chắc gì đã phi lý, quên, đã hữu lý (?), tốn tâm huyết lải nhải đến tràng giang đại hải không khéo đã chẳng có ai "mua vui" cho mà còn bị phang "vài trống canh" vì tội "chửi xéo" này nọ thì kể cũng...khí buồn, thứ hai, nó chẳng ăn nhập gì vào nội dung ở đây cả, thứ ba, điều chủ yếu, không nên phung phí thời gian một cách "lãng nhách" vì sắp chết..., lại quên (!), sắp hết mẹ nó rồi! Chúng ta nêu vấn đề ra chỉ mong tỏ rõ hơn phần nào những "hô hoan" về thiền mà chúng ta đã trình bày ở trên vậy thôi...
      Như thế, theo ý chúng ta, rõ ràng Charvaka và Kỳ Na Giáo đều phạm sai lầm khi cho rằng có thể tiếp cận được chân lý khách quan một cách trực tiếp (không cần thông qua suy lý) và hơn nữa, chỉ có nhận thức bằng cách đó (một đàng là thuần túy trực giác, một đàng là trực tiếp chiêm nghiệm tâm linh) thì mới "biết chắc chắn" được chân tướng của sự thực khách quan. Tuy nhiên, quan niệm sai lầm về nhận thức ấy chỉ là kết quả của sự ngộ biện ngây thơ, mang tính hình thức, được dùng trên "bàn tròn tranh luận" nhằm chủ yếu "tránh né" tính bất toàn của khái niệm-suy lý gây ảnh hưởng tiêu cực đến học thuyết của họ, thế thôi, chứ trong thực tế, hầu như không có tác dụng tốt hay xấu nào đối với quá trình tìm hiểu xã hội-nhân sinh của họ. Bởi vì "tô son điểm phấn" thêm hay "gọt tỉa" bớt đối với sự nhận thức để "trưng ra" bất cứ "kiểu" nhận thức nào cũng được, nhưng tiên quyết và như một tất yếu, phải "học thuộc" ngôn ngữ, đồng thời trải qua giai đoạn cơ bản của nhận thức thông thường cái đã. Làm sao có thể "giũ bỏ" suy được khi nó tồn tại vốn dĩ trong tư duy mà tự nhiên đã mặc định, cũng như làm sao có thể "trừ khử" được suy lý khi nó đã ngấm rất sâu vào "máu thịt" của tư duy và "một phần" trở thành như một vận động bản năng trong tư duy con người theo "đòi hỏi" tự nhiên nảy sinh ra từ quá trình tiến hóa-thích nghi sinh vật? Như vậy, "nỗ lực" kiểu gì cũng không bao giờ có thể "tước đoạt" sự suy lý của tư duy nhận thức! Quan niệm trực tiếp giác ngộ chân lý của Kỳ Na Giáo không khác của thiền học và chúng ta đã nói rồi, không lặp lại nữa. Còn quan niệm "nắm bắt" chân lý nhờ cảm giác trực giác thuần túy của Charvaka thì nên được hiểu như thế nào?
     Tồn Tại là tuyệt đối vốn dĩ thế nên Tự Nhiên Tồn Tại được khẳng định tuyệt đối, cũng có nghĩa là tuyệt đối không có Hư Vô! Suy ra từ đó mà thấy Tồn Tại tuyệt đối được bảo toàn. Tồn Tại được bảo toàn tuyệt đối nghĩa là tuyệt đối không thể được sinh ra thêm mà cũng tuyệt đối không thể bị mất bớt đi, và đó được coi là một hệ quả rút ra từ nguyên lý Tự Nhiên, trở thành nguyên lý cơ bản thứ ba (gọi là "nguyên lý bảo toàn Tồn Tại", bên cạnh nguyên lý tương tác và nguyên lý nhân-quả) của Vũ Trụ. Về mặt "biểu hiện", Tự Nhiên Tồn Tại chính là Vũ Trụ tổng hòa các tồn tại luôn biến đổi lẫn nhau từ dạng này sang dạng khác, từ thế này thành thế khác, là tổng thể các sự vật-hiện tượng vận động và chuyển hóa không ngừng, tuân theo nguyên lý Tự Nhiên, cũng có nghĩa tuân theo ba nguyên lý cơ bản là nguyên lý tương tác, nguyên lý nhân-quả và nguyên lý bảo toàn (xin lỗi C. Mác!). Như vậy, không thể khác, Vũ Trụ phải được thấy là một hệ thống cân bằng động tuyệt đối, vô tiền khoáng hậu và tuyệt cùng vĩ đại. (Thuyết Vũ Trụ sinh ra từ "Vụ nổ lớn" (Big Bang), bắt đầu từ một "điểm kỳ dị" và đang giãn nở lạm phát, "tối kỵ" lập luận này, vì nó sẽ phải "khăn gói ra đi" khỏi vật lý học nếu lập luận này là...chân lý! Còn nếu không? Chúng ta đúng là lũ...khùng! Nhưng...quen bị "chửi" thế nhiều rồi, nên bắt chước nhà thơ Phan Khôi, chúng ta tuyên bố: "Làm sao thì cũng chẳng làm sao, mà dù có thế nào thì cũng chẳng làm chi, làm chi thì cũng chẳng làm chi, mà dù có chuyện gì thì cũng...chẳng làm sao"!!!).
     Trái Đất là một thực thể trong tổng hòa các tồn tại của Vũ Trụ, nghĩa là cũng phải "nằm" trong mối tương tác và chuyển hóa có liên quan với nhau, phụ thuộc lẫn nhau giữa nó và các tồn tại xung quanh nó, hay có thể nói trong phạm vi qui ước tương đối, giữa nó và môi trường chứa nó (mà cụ thể là Thái Dương Hệ). Sự tồn tại tương đối ổn định và lâu dài theo thời gian cho phép chúng ta xác định rằng, Trái Đất cùng với bầu khí quyển của nó là một hệ cân bằng động tương đối, nghĩa là tương đối cân bằng trong tương tác, trao đổi năng lượng với "bên ngoài", dẫn đến cũng có vận động nội tại (tương tác, chuyển hóa năng lượng "bên trong") tương đối cân bằng, ổn định. Do đó, lại cũng chỉ là tương đối thôi (!), trong một phạm vi qui ước "phù hợp với tự nhiên" (nghĩa là có tính hợp lý, tính khách quan), ở tầng "nhận diện" vĩ mô nào đó tạm gọi là "tầng cảm giác sinh vật", có thể coi Trái Đất và bầu khí quyển của nó là một hệ tự nhiên tồn tại (Tự Nhiên Tồn Tại tương đối!) có tính độc lập-cô lập trong Vũ Trụ, và chúng ta gọi đó là "thiên nhiên" (của thế giới sinh vật). Vì là bộ phận, đồng thời cũng là một phần tương đối hoàn chỉnh, như một hoạt cảnh thu nhỏ của Tự Nhiên Tồn Tại, nên thiên nhiên cũng phải "mang" bản chất của Tồn Tại, cũng như phải vận động chuyển hóa tuân thủ nguyên lý Tự Nhiên hay ba nguyên lý cơ bản, dù có thể là dưới những dạng triển khai theo cách đặc thù. Nhờ như thế mà qui luật đấu tranh sinh tồn-qui luật đầu tiên và cơ bản nhất trong thế giới sinh vật-, được tạo lập nên, để rồi dưới sự tác động của nó mà xuất hiện sự vận động thích nghi sinh vật, và có thể nói vận động thích nghi sinh vật dẫn đến tiến hóa-thích nghi sinh vật là một quá trình bao trùm, liên tục và xuyên suốt trong không gian và thời gian (của thiên nhiên), từ cá thể đến toàn thể và ngược lại, từ toàn thể đến từng cá thể của thế giới sinh vật.
    Tiến hóa-thích nghi làm tăng cường khả năng sinh tồn ở mọi giống loài sinh vật. Trong sự tăng cường ấy có sự tăng cường độ tinh nhậy của cảm giác. Nhưng do bị khống chế bởi tính hữu hạn của thiên nhiên (về mọi mặt) nên sự tăng cường khả năng sinh tồn bằng cách chuyển hóa, biến đổi hình thái vận động sinh học nội tại cũng như cấu tạo thể chất ngoại hình sinh vật (xét trên bình diện toàn thể các giống loài cũng như trên từng cá thể sinh vật trong môi trường sinh thái), cũng bị giới hạn, nghĩa là ở mức hạn định của sự tăng cường mà thiên nhiên "cho phép", nếu phải ưu tiên "theo thực tế đòi hỏi" tăng cường khả năng sinh tồn cho mặt này mặt kia trong quá trình hoạt động mưu sinh sinh vật thì chỉ còn cách "lấy bớt đi" khả năng sinh tồn ở những mặt khác. Điều đó cho thấy, chỉ có thể có sinh vật đạt thích nghi tối ưu tương đối chứ không thể có một sinh vật thích nghi hoàn hảo tuyệt đối trong thiên nhiên. Riêng đối với sự tăng cường cảm giác cũng vậy, không thể có một hệ cảm giác thực sự hoàn hảo ở bất kỳ cá thể sinh vật nào, vì "được cái này thì mất cái kia", "tăng cái kia thì giảm cái nọ"...Ngày nay, hệ thống cảm giác được cho là hoàn chỉnh nhất mà quá trình tiến hóa-thích nghi tạo ra được là hệ thống gồm cảm giác trực giác và cảm giác gián giác, trong đó cảm giác trực giác gồm năm loại là xúc giác (sờ), thị giác (nhìn), thính giác (nghe), khứu giác (ngửi), vị giác (nếm), còn cảm giác gián giác là cảm giác trực giác đã được "tinh thần hóa" (bởi tư duy trừu tượng). Hệ thống ấy ở con người được (chính loài người!) đánh giá là tối ưu nhất. Có thể nêu ra hàng loại thí dụ giản đơn về cảm giác gián giác. Chẳng hạn trước một cảnh vật, cảm giác trực giác chỉ cho thấy mức độ động-tĩnh, sáng-tối, trong-đục, đơn sắc-sặc sỡ..., nhưng ở nhiều người còn thấy xấu-đẹp, yêu-ghét, buồn-vui..., thì đó là cảm giác gián giác-cảm giác trực giác đã bị "lũng đoạn" bởi tư duy trừu tượng. Con chó thấy chủ về, vẫy đuôi, nhảy cơng cỡng, rú rít chạy bên chủ, thì hành vi đó ít nhiều gì cũng là sự thể hiện vui mừng "một cách vô tư", nghĩa là ít nhiều gì đó cũng là kết quả của cảm giác gián giác...
     Lúc đầu, tương tự như trong thế giới vô sinh chỉ có giác, trong thế giới sinh vật cũng chỉ có duy nhất cảm giác trực-xúc giác. Cảm giác trực-xúc giác của một thực thể sinh vật được hình thành trực tiếp từ giác, là cảm nhờ giác  trên cơ sở trực tiếp tiếp nhận (những) tác động đến từ môi trường, qua vùng tiếp xúc với môi trường của thực thể sở hữu cảm giác đó. Nói chung, những cá thể sinh vật chỉ có cảm giác trực-xúc giác đều được xếp vào hàng các giống loài có mức độ tiến hóa thấp. Quá trình tiến hóa- thích nghi đã làm xuất hiện những giống loài sinh vật sở hữu nhiều loại cảm giác. Để phần nào hiểu được tại sao lại có xu hướng đó, chúng ta có thể tạm chia sinh vật thành hai loại là sống định vị một chỗ và sống di chuyển thường xuyên. Tiêu biểu cho loại đầu là cây cối. Tại sao cây cối chỉ "cần" cảm giác trực-xúc giác mà không "cần" thêm loại hình cảm giác nào khác? Chức năng duy nhất và chung nhất của cảm giác trực giác là phục vụ sinh tồn. Do đó, khi yêu cầu về đảm bảo sinh tồn đòi hỏi đối với nó thì nó sẽ được tăng cường về (cái tạm gọi là) độ chi tiết hóa, hay độ tinh nhậy hóa, mà có khi là cả hai, tùy vào định hướng ưu tiên lựa chọn trong tình hình cụ thể. Đó chính là nguyên nhân sâu xa làm xuất hiện nhiều loại hình cảm giác trực giác ở một cá thể sinh vật. Đối với cây cối, chúng sống nhờ đất, nước, không khí và ánh sáng, toàn những thứ có sẵn, "hơi bị nhiều" nên coi như thường xuyên đầy đủ, chỉ cần "đứng vững đó" là sống rồi, do đó, ngoài cảm giác trực-xúc giác nhằm trao đổi chất và hấp thụ dinh dưỡng ra, chúng (đâu có lòng tham kỳ quặc như con người!) chẳng cần "tư hữu" thêm thứ cảm giác nào khác nữa cho..."rách việc". 
    Theo chúng ta hình dung, sự sống được thiên nhiên tạo ra trong lòng biển mà dạng ban đầu là một tiểu thể "vừa sống vừa không sống" vì còn giác là chính, cảm mới có tính mầm mống (đơn bào không nhân?). Khi vùng lòng biển đã "tạo điều kiện" cho "ra đời" một tiểu thể tiền sự sống thì nó cũng tất yếu cho "ra đời" nhiều tiểu thể tiền sự sống và làm hình thành nên một tập hợp, một quần thể tiền sự sống. Sự biến đổi thường xuyên trong ổn định tương đối có đôi khi xen vào những biến đổi đột xuất gây bất ổn của môi trường sinh thái biển, đã manh nha hiện tượng đấu tranh sinh tồn và tiến hóa-thích nghi của tiền sự sống, thể hiện ra là sự củng cố, chuyển hóa giác thành cảm giác thực sự, tạo ra sự chủ động làm tăng hiệu quả tiếp thu dinh dưỡng. Phải chăng chính quá trình làm xuất hiện sự chủ động định hướng làm tăng hiệu quả tiếp thu dinh dưỡng, trong điều kiện môi trường biến đổi thường xuyên lúc thuận lợi lúc bất lợi đã là nguyên nhân kích thích xuất hiện hình thức sinh sản đầu tiên của sinh vật-sự phân bào? (Lịch sử hình thành sự sống rất phức tạp, cho đến nay vẫn còn nhiều điều chưa rõ ràng và đang được tiếp tục nghiên cứu. Sự hình dung thô phác của chúng ta là từ một góc độ khác và không có tính chuyên môn. Tuy nhiên về mặt "đường lối", theo chúng ta, mượn kiểu nói của nhà văn hóa Vương Hồng Sển, là..."tạm xài được"!)...Tiếp tục hình dung, sự sống đơn điệu thời kỳ đầu trong biển cả, theo cuộc tiến hóa-thích nghi sẽ dần trở nên tương đối phong phú, đa dạng giống loài (không xương), mà trong đó có tiền thực vật (sinh thể lam) và những sinh vật lấy nó làm nguồn thức ăn. Đến một giai đoạn nào đó, trong điều kiện sinh thái biển trở nên đặc biệt thuận lợi, sẽ làm xuất hiện hiện tượng tăng trưởng lạm phát mang tính đột biến về số lượng cá thể sinh vật biển, mà trước tiên là sinh thể lam (tạm gọi là "rong rêu" cho tiện!), loài đồng thời cũng đóng vai trò như một xúc tác kích thích tăng trưởng lạm phát đối với ít ra là loài trực tiếp "xơi" nó. Tình hình đó làm cho sự "dạt lên bờ" của rong rêu trở nên phổ biến và thường xuyên. Lúc đầu, rong rêu mắc cạn luôn là chết, nhưng cũng có những rong rêu mắc cạn "suýt chết" thì được "cứu sống" nhờ sóng biển, triều dâng, mưa...đưa lại về biển. Dần dà, theo thời gian, sự tiến hóa-thích nghi sẽ làm cho một số rong rêu có thể sống "lưỡng cư" trên cạn dưới nước (tảo) rồi thành thực vật sống hẳn trên cạn (dương xỉ) và từ đó chuyển hóa thành đa giống loài thực vật mới, mở ra quá trình lan tỏa sinh cư ra hầu khắp Trái Đất (kể cả trong bầu khí quyển). Quá trình "lên bờ xuống ruộng" để có được lối sống định vị một chỗ thành những loài thực vật sống cạn của rong rêu sẽ tự nhiên kéo theo sự thích nghi sống trên cạn của sinh vật biển ăn rong rêu và đó chính là thủy tổ của những loài "vật ngọ nguậy" trên cạn và tiếp đó là động vật ăn thực vật. Sự tăng-giảm lạm phát về số lượng cá thể ở mỗi giống loài khi gặp môi trường sinh thái thuận lợi-bất lợi là qui luật có tính phổ quát trong thế giới sinh vật cho nên, trong vòng tác động của qui luật đấu tranh sinh tồn, có động vật ăn thực vật thì rồi cũng phải có động vật ăn thịt những động vật ấy, và cả ăn thịt lẫn nhau. Thủy tổ của động vật ăn thịt chắc chắn phải có nguồn gốc từ động vật ăn thực vật, phải bắt đầu từ một loài động vật ăn thực vật nào đó trong thời xa xưa tối cổ của lịch sử sự sống...Ở đây, chúng ta đang nói về sự tăng tiến cảm giác nên để dễ thấy vấn đề chúng ta "gói gọn" loại sinh vật có đời sống di chuyển thường xuyên (cũng tạm gọi là "du cư" cho gọn) là động vật có xương sống. Ngồi một chỗ, chẳng phải làm gì lại vẫn đủ "mâm cao cỗ đầy" mà an hưởng cuộc sống ngay từ lúc lọt lòng thì...còn gì bằng, và ai không muốn? Nhưng tính hữu hạn của thiên nhiên không cho phép tất cả sinh linh mà may ra (nếu không bị cướp ngôi hay đốn hạ giữa chừng!) chỉ có vua chúa và...cây cối được "hưởng ân huệ" đó! Vì vậy mới có loại sinh vật luôn phải "vật lộn" với cuộc sống đầy biến động, phải di động, lang thang thường xuyên để kiếm ăn trong tình trạng "khôn sống mống chết". Rõ ràng, đối với động vật, để có khả năng sinh tồn trong điều kiện như thế, chỉ có cảm giác trực-xúc giác đơn thuần thôi là không đủ. Vậy thì phải tăng cường cảm giác trực giác! Nhưng tăng cường bằng cách nào, như thế nào? Vì không thể tùy tiện "vượt ra ngoài khuôn khổ" sự vốn dĩ của Tự Nhiên nói chung hay sự mặc định của thiên nhiên nói riêng, cũng như phải tuân thủ những nguyên lý-qui luật về tồn tại-vận động, nên việc tăng cường cảm giác sinh vật chỉ có thể bằng cách "mở rộng và chuyên sâu" cảm giác trực-xúc giác. 
     Giác ở thực thể vô sinh thực chất là tiếp thu tín hiệu đến từ môi trường (từ đó mà thực thể vô sinh tự phát theo qui luật, chuyển biến nội tại sang trạng thái cân bằng động mới một cách tương phản (phản ứng lại môi trường), "nhằm" duy trì sự tồn tại của nó trong tình hình mới một khi nó vẫn còn (được coi) là nó!). Cảm giác trực giác ở sinh vật cũng tương tự như vậy, nhưng có điều hơn là "biết lựa chọn", chủ động chuyển biến một cách tương hợp (với môi trường) theo hướng có lợi cho sự sống. Vậy, tăng cường khả năng cảm giác trực giác cũng chính là tăng cường khả năng "nắm bắt" tín hiệu và xử lý tín hiệu đến từ môi trường. Xử lý tín hiệu trước hết là phân biệt được các tín hiệu khác nhau, cũng có nghĩa là phân loại tín hiệu. Chúng ta nhắc lại, mục đích của tăng cường cảm giác trước hết là đảm bảo khả năng sống còn và duy trì được sự sống còn ấy. Đối với động vật, sống trong điều kiện mà cuộc đấu tranh sinh tồn đã "phơi bày" rõ rệt về mức độ căng thẳng, gay gắt, nhiều khi lâm vào tình trạng quyết liệt "một mất một còn", đòi hỏi phải kích thích cường độ và nhịp điệu hoạt động cơ thể lên cao trào, sao cho nhanh hơn, mạnh hơn, bền hơn, uyển chuyển hơn, chính xác hơn, khéo léo hơn,..., nghĩa là (và đúng hơn là) sao cho đạt hiệu quả tối ưu trong công cuộc di cư, vận động tìm kiếm miếng ăn cũng như bảo toàn tính mạng trước "kẻ thù", thì để phục vụ cho yêu cầu ấy, cần thiết phải "nắm bắt" những loại tín hiệu nào để gọi là "đủ dùng" trong chừng mực "cho phép" của thiên nhiên? Trả lời ngay, khỏi cần "xoắn"(!), đó là ánh sáng (thuộc sóng điện từ lan truyền trong Vũ Trụ), âm thanh (thuộc sóng dọc lan truyền trong khí quyển), mùi (thuộc khuếch tán phân tử), vị (sự khác biệt "tự nhiên" về thành phần hóa học giữa các chất), áp lực-xung lực (thuộc tác động cơ học), nhiệt độ (thuộc dao động hỗn loạn cấp phân tử-nhiễu xạ). Và thiên nhiên, thông qua quá trình tiến hóa-thích nghi, đã "ban cho" động vật không những cảm giác được đủ các loại tín hiệu ấy (với những mức độ tinh nhậy khác nhau tùy thuộc vào yêu cầu cụ thể đối với đời sống của từng giống loài), mà còn trên cơ sở cảm giác trực-xúc giác, làm hình thành nên ở chúng những cơ quan "chuyên trách" cảm thụ từng loại tín hiệu ấy và thể hiện ra một cách đặc thù, đó là, thứ nhất, hệ "đầu mối" thần kinh xúc giác phân bố hầu khắp cơ thể động vật nhằm cảm nhận lực-áp lực tác động cơ học và cảm nhận nhiệt độ (xét cho cùng thì cũng là tác động cơ học!), thứ hai, "mắt" nhằm cảm nhận ánh sáng để "nhìn", thứ ba, "tai" nhằm cảm nhận âm thanh để "nghe", thứ tư, "mũi" (bên cạnh chức năng "thở", còn phải) nhằm cảm nhận mùi để "ngửi", thứ năm, "miệng" (bên cạnh chức năng "ăn", còn phải) nhằm cảm nhận vị để "nếm". (He, he...he! Động vật có xương sống, trong đó có "thằng người", trên cơ thể có năm giác quan và chỉ năm giác quan là vì thế! Thế sao người đời vẫn cho rằng còn có giác quan thứ sáu nữa? Ngộ nhận thôi, chứ...làm đéo gì có! (Văng tục kiểu đó thì sao mà thành trí thức, triết gia được, hả...chúng ta? Đéo thèm!!!). Năm "quan" là vừa đủ rồi, thêm "quan" nữa để "nuôi báo cô" đứa "ăn không ngồi rồi", lại còn nghĩ bậy làm bạ cho "rối tung" cơ thể lên, gây "náo loạn" thiên nhiên ấy à? Nhìn vào xã hội loài người thì biết, chỉ có con người là ngu thôi, chứ động vật nói chung và thiên nhiên đâu có ngu! Nói đúng ra, không có giác quan thứ sáu nhưng có thể có (vì lúc có lúc không!) cảm giác thứ sáu (còn gọi là "linh cảm") và nó "trú ngụ" trong "miền" còn bị lớp màn huyền bí che phủ của cảm giác gián giác. Chúng ta tràn trề hy vọng rằng rồi đây, sự huyền bí của hiện tượng linh cảm, cũng như của những hiện tượng dị thường đại loại như bịt mắt mà vẫn nhìn thấy cảnh vật, sẽ được khoa học phanh phui đến tận cùng chân tướng của chúng, mà trước hết, có thể giải thích sơ bộ (định tính) được trên cơ sở thừa nhận sự tồn tại của cảm giác gián giác và nguồn gốc xuất phát duy nhất của năm loại cảm giác trực giác là cảm giác trực-xúc giác.).
      Để động vật có được hệ thống cảm giác trực giác thống nhất với năm giác quan hoạt động tương đối độc lập trong mối quan hệ hỗ trợ lẫn nhau như thế, thì đương nhiên bằng quá trình tiến hóa-thích nghi, chúng cũng phải có hệ thống thần kinh (gọi là) bậc cao để "đảm đương và hoàn thành nhiệm vụ", với cơ quan trung ương là một bộ não ít nhiều phải biết hồi ức (để phân định, lọc lựa, đo lường, đánh giá tín hiệu nhằm định hướng phản ứng, chọn cách hành động, "ra lệnh" thực thi), nghĩa là một bộ não ít nhiều biết tư duy trừu tượng. (Cần nói thêm cho rõ, năm giác quan của động vật chỉ đóng vai trò là năm cơ quan có cấu tạo sinh học đặc thù để (coi như) có khả năng chuyên giác (tiếp nhận, xử lý) một trong năm loại (tập hợp) tín hiệu kể trên rồi truyền ("ám hiệu", "tin tức") về cho cơ quan trung ương (tức bộ não) cảm nhận, chứ bản thân chúng không thể cảm được). Dù là một bộ não chỉ mới biết trừu tượng ở mức độ sơ khai nhất thì cảm giác của nó đã khác về chất so với cảm giác trực giác của cây cối rồi, vì tính trực giác trong cảm giác của nó không còn "thuần túy" (nên cũng "mù mịt") nữa, mà trong đó đã có tính gián giác, hay có thể nói: có "mầm mống" của gián giác, và vì thế, cảm giác của bộ não đó dù vẫn là cảm giác trực giác, nhưng đã được "nâng cấp" thành tinh tế hơn, "đậm nét" hơn. Như vậy, ở động vật, nhờ có được năm giác quan và đồng thời với sự hiện diện của tính gián giác (dù là ở mức độ còn manh mún, nhạt nhòa) trong cảm giác trực giác mà sự cảm nhận của nó về hiện thực xung quanh nó đã trở nên sâu rộng, tỏ tường, rạch ròi đến mức độ chỉ thua cảm giác trực giác của con người...có nhận thức (vì con người chưa biết nhận thức chỉ là động vật đội lốt người, và động vật biết nhận thức là con người trong thân xác động vật!).
     Rốt cuộc, khi chưa có khái niệm, tức là khi chưa biết nói, cũng có nghĩa là khi chưa biết nhận thức, chưa qua nhận thức, con người trực giác cũng tương tự như động vật trực giác, hay nói đúng hơn "một chút", không khá hơn con tinh tinh trực giác là mấy. Nhưng khi đã biết nhận thức và đã qua nhận thức thì trực giác ở con người đã "thấm đẫm" gián giác, là thứ cảm giác trực giác đã được "chắp thêm" đôi cánh nhận thức, và vì thế mà vượt trội hơn hẳn trực giác ở loài động vật về các mặt tổng quát hóa, tinh tế hóa, thấu tỏ hóa...Một đứa bé chưa nghe ai nói và cũng chưa đến tuổi biết nói, khi nhìn thấy một đóa hoa, chỉ có thể cảm được "có cái gì đó không biết là cái gì". Nhưng nếu không phải đứa bé mà là một chàng trai thấy đóa hoa đó, thì ngay lập tức, như một bản năng, chàng ta "biết tỏng" đó là đóa hoa, và hơn nữa, nếu thấy đóa hoa đó đẹp và lại là người có tâm hồn mơ mộng, thì có thể chàng ta còn mở lời thảng thốt: "Ôi, tuyệt trần! Tươi thắm như một nàng trinh nữ hồn nhiên đang độ xuân thì!"...
     Vào thời Ấn Độ cổ đại, các nhà duy vật-thực dụng Charvaka, vì chưa biết đến điều đó (mà làm sao biết được khi đến hôm nay chúng ta mới là người đầu tiên nêu ra !?), nghĩa là cứ tưởng rằng trực giác "của họ" vẫn là trực giác "trần trụi" khách quan chưa có sự "xen vào" của ý thức, cho nên họ mới quan niệm rằng những gì họ trực giác được (một cách chính xác rồi!) thì đều là sự thực khách quan, và chân lý là kết quả được "rút ra" trực tiếp từ chúng. Họ đâu biết rằng trực giác của họ không còn là "thứ" trực giác "thuần túy" của cây cối hay trực giác "câm nín" của động vật nữa, cũng đâu biết rằng những sự thực "không thể chối cãi" mà họ trực giác-chứng thực được, đều có sự "mách bảo và xúi dục ngầm" của nhận thức và suy lý qua "con đường ngầm" cảm giác gián giác (từ kinh nghiệm đã tích lũy, từ tri thức đã hun đúc, và...chưa chắc đã đúng hay hoàn toàn đúng!). Theo chúng ta quan niệm, có thể khẳng định rằng, khi người Charvaka trực giác, thì...đúng là họ trực giác, nhưng là "thứ" trực giác đã qua nhận thức, trên nền tảng khái niệm-suy lý, cho nên khi họ nói "đúc kết" trực tiếp chân lý từ đó, thì chân lý đó thực chất vẫn là kết quả của suy lý và vì thế, chưa chắc đã là chân lý đích thực, chỉ có điều họ đã vô tình (giống như Kỳ Na Giáo vô tình) không hề hay biết mà thôi!
      Ngày nay, nhờ có trang thiết bị cực kỳ hiện đại do chính bản thân mình sáng tạo ra hỗ trợ, loài người đã tự nâng năng lực trực giác của mình lên tầm cực kỳ sâu rộng, có lẽ đến tít "chân trời Vũ Trụ" (chứ không phải "biên Vũ Trụ") ở tầng vĩ mô và có lẽ cũng đến tận "cực tiểu Vũ Trụ" (hạt Higgis, chứ không phải "điểm mốc cuối cùng") ở tầng vi mô. Dù có thế thì bản chất trực giác đã qua nhận thức và nhận thức bằng khái niệm và thông qua khái niệm-suy lý của con người vẫn không hề thay đổi. Xét về phương diện tìm hiểu thực tại khách quan thì nhận thức bắt đầu từ trực giác, đồng thời nhờ nhận thức mà trực giác chuyển hóa thành (tạm gọi là) "trực -gián giác" (hay "trực giác đã qua nhận thức"), làm cho trình độ cảm giác dần được tăng cường cả bề rộng lẫn bề sâu. Như vậy, có thể nói, trực giác chưa qua nhận thức là trực giác mù quáng, nhưng nó sẽ được khai sáng khi nhận thức xuất hiện và "mở mang" nó, để rồi sự khai sáng ấy kích thích trở lại nhận thức một cách tương hợp làm hình thành nên những tri thức mới... Và cứ thế theo thời gian, với trực giác-nhận thức ngày càng tỏ tường-uyên áo, sẽ đến một thời khắc tâm trí loài người bừng lên sáng láng, từ đó loài người không những "đại ngộ" được đến tận "chân tơ kẽ tóc" bản chất chính xác của Tự Nhiên Tồn Tại, mà còn mô tả một cách toàn diện và hoàn toàn rõ ràng chân dung đích thực của Nó bằng những tập hợp các dấu hiệu thông tin (những tín hiệu, ám hiệu, ký hiệu...), theo cách thức qui ước xác định có tính mặc định, mà bản thân loài người, qua quá trình học hỏi và bắt chước tự nhiên khách quan, đã chủ quan sáng tạo ra được trong khả năng cảm giác trực-gián giác của mình. 
     Vậy thì rõ ràng, cái chân dung về Tự Nhiên Tồn Tại ấy không hề là "dung nhan đích thực", tuyệt đối khách quan của Tự Nhiên Tồn Tại, mà may lắm, chỉ có thể là "dung nhan mô phỏng đích đáng", tương đối khách quan đối với riêng loài người-"kẻ" sau khi đã cảm giác đến mức "đại ngộ" Nó và đồng thời phù hợp với sự "đại ngộ" đó, cũng sáng tạo ra chân dung Nó theo cách "nhào nặn" chủ quan, riêng có của tư duy trừu tượng con người, cũng như theo khả năng có thể của tư duy trừu tượng con người mà thiên nhiên đã ban cho vừa phóng khoáng vừa hạn định.
      Chúng ta biết qui kết nêu trên khó mà được các "đại gia thông thái" thừa nhận vì nó...chưa qua thực chứng khoa học nào! Nhưng chúng ta cứ đặt trọn niềm tin vào đó bởi nghĩ rằng, thực chứng khoa học chẳng là... cái đinh gì khi lịch sử nhận thức của loài người đã như một thực chứng hùng hồn rồi!. Vả lại, thực chứng chắc gì đã đủ độ tin cậy khi nó bị "tiêm nhiễm" những hiểu biết (có thể đã lỗi thời, lạc hậu) của quá khứ và vẫn phải chịu sự đánh giá của cảm giác chủ quan? Một cảm giác (hay nhận thức) được cho là "rút ra" trực tiếp từ thực nghiệm-thí nghiệm, thì thực chất vẫn là kết quả thông qua suy lý và do đó vẫn "có quyền" phạm sai lầm. Lịch sử vật lý (cả vật lý cổ điển lẫn vật lý hiện đại) còn lưu lại vô số kể những kết luận sai lầm suy ra từ thực nghiệm cũng như nhiều trường hợp ngộ nhận "chết người" bởi những kết luận ấy, và đã trở thành những bài học "đắt giá" về sự nhận thức! "Thực tiễn là tiêu chuẩn xác nhận chân lý" - C. Mác, là câu nói đúng ở tầm...tương đối thôi (!), và cũng chỉ đúng ở một vài góc độ cảm giác nhất định mà thôi, vì còn tùy thuộc vào trình độ nhận thức về cả thực tiễn lẫn chân lý nên không có ý nghĩa xác minh phổ biến. Ai hiểu câu nói đó một cách máy móc, người đó sẽ phạm sai lầm trong nhận định. Tại sao? Trả lời cho "kín kẽ mọi nhẽ" thì khó chứ trả lời "lấy được" thì không đến nỗi khó lắm! Chắc như bắp: loài người thoát thai từ động vật. Nếu qui ước loài người là loài động vật biết nhận thức, cũng có nghĩa là biết nói, và chỉ thế thôi, thì tiền thân trực tiếp của loài người là một loài nào đó (người vượn?) đóng vai trò trung gian giữa động vật và người. 
Như vậy, có thể hình dung rằng, khả năng trừu tượng trong cảm giác của loài trung gian đã ở mức cao hơn tương đối rõ rệt so với của động vật, nghĩa là sự tồn tại của thứ gọi là "ý niệm câm nín" ở loài này đã trở thành hiển nhiên, và rất có thể, trong hiện thực, điều đó thể hiện ra dưới dạng như một tập hợp các động tác cơ thể cùng với sự "hú hét" đã được định hình hóa và được sử dụng một cách quen thuộc có tính thường xuyên mà chúng ta tạm gọi là "ngôn ngữ hình thể". Nói rõ hơn, "ngôn ngữ hình thể" là bao gồm những động tác, cử chỉ, sự tạo dáng của các bộ phận cơ thể (đầu, tứ chi, thân...) được định hình tự nhiên và được lưu nhớ có tính chủ đích trong đời sống của loài trung gian như là những "biểu tượng ý niệm", và được loài trung gian ứng dụng (có khi kèm theo cả "hú hét") nhằm truyền đạt "ý niệm câm nín" cho nhau. Thực chất của quá trình tiến hóa thích nghi là đảm bảo và tăng cường khả năng sinh tồn ở mọi giống loài sinh vật bằng cách cải biến cấu tạo thực thể "ngoại sinh học" cũng như phương thức vận động "nội sinh học" trên cơ sở kế thừa những định dạng, định thức sinh học đặc thù đã được tạo lập (trước đó) ở mỗi giống loài và tùy thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh, tình hình chuyển hóa môi trường sinh thái có tính đặc thù mà chúng sống trong đó. 
Đó chính là nguyên nhân sâu xa làm xuất hiện loài tiền thân của loài người, không có sức mạnh, tốc độ di chuyển, sự sắc bén vượt trội của gân cốt, nanh vuốt nhưng bù vào, lại có một cảm giác vượt trội về khả năng gián giác để rồi từ đó tiến hóa thành loài biết nhận thức-loài người thực sự. Nếu cho rằng thiên nhiên, trong khả năng hạn định (tất nhiên) của nó, "ban cho" các giống loài động vật nói chung năm giác quan và bộ não để cho chúng có đủ năng lực cảm giác phục vụ cho hoạt động sinh tồn của chúng, thì việc thiên nhiên tạo điều kiện tăng cường tối đa năng lực gián giác trong cảm giác của loài người cũng không ngoài "mục đích" ấy. Nghĩa là một cách hoàn toàn tự nhiên, thiên nhiên không cần thiết và cũng không thể trực tiếp "trang bị" đến vô hạn độ khả năng cảm giác cho động vật cũng như cho con người, mà chỉ cần và cũng chỉ có thể thỏa mãn (với một mức độ hạn định) sự đòi hỏi tăng cường năng lực cảm giác (cũng bị khống chế đến một mức độ hạn định) của chúng, cốt sao cho đủ đáp ứng và đồng thời được "phân phối" có tính ưu tiên một cách phù hợp cho mỗi giác quan trong số năm giác quan nhằm đảm bảo hoạt động sinh tồn ở mỗi giống loài. Chính vì thế mà, xét riêng ở loài người, thiên nhiên chỉ có thể trực tiếp "giúp" con người có được cảm giác tương đối đặc thù (theo "tập quán" sống, phù hợp với lối sống của nó) và hạn định về hiện thực khách quan trong thiên nhiên, của thiên nhiên (chứ không phải trong toàn Vũ Trụ, của cả Vũ Trụ!!!). (Thực ra, theo chúng ta quan niệm thì chỉ có thực tại tuyệt đối khách quan chứ không thể có hiện thực tuyệt đối khách quan, bởi vì sự "hiện ra" của thực tại khách quan bao giờ cũng phiến diện, méo mó, nghĩa là khi nói đến (khách thể) hiện thực thì cũng phải nói đến (chủ thể) giác hay cảm giác, và do bị "lũng đoạn" bởi sự hạn định tự nhiên cũng như tính đặc thù vốn có của giác hay cảm giác mà hiện thực đó đã "đượm màu chủ quan" mất rồi! Cho nên thuật ngữ "hiện thực khách quan" chỉ mang ý nghĩa tương đối thôi, và hiểu rằng nói đến hiện thực khách quan thì phải là hiện thực khách quan của chủ thể giác hay cảm giác nào đó và đồng thời trong một mức độ qui ước nhất định, chứ không thể "nói khơi khơi"!). 
    Tuy nhiên, dù không trực tiếp thì vì đã mở ra hướng đường cho loài người đến với tư duy sáng tạo và nhận thức để từ đó "tự thân" không ngừng học hỏi thiên nhiên, không ngừng sáng tạo ra các phương tiện hỗ trợ ngày một tinh nhạy nhằm nâng cao năng lực và trình độ cảm giác của mình lên tầm cảm giác hiện thực khách quan ngày một sâu rộng trong Vũ Trụ, của Vũ Trụ, cho nên cũng có thể nói thiên nhiên đã gián tiếp "tưởng thưởng" cho loài người một cảm giác thực sự siêu việt, để trên cơ sở đó không những có khả năng  nhận thức triệt để thiên nhiên mà còn có khả năng nhận thức triệt để toàn bộ Tự Nhiên Tồn Tại.
     Vậy thì rốt cuộc nên tin hay không tin vào sự kiểm nghiệm chân lý của thực tiễn? Nhưng nếu không tin vào thực tiễn, nhờ thực chứng để xác minh sự thật thì tin vào cái gì và nhờ cái gì đây khi suy lý cũng không đảm bảo chắc chắn được? Vì "rắc rối" ở chỗ là không có cảm giác thì không có nhận thức, cũng như nhận thức phải trên cơ sở cảm giác, và muốn nhận thức đúng trước hết phải có cảm giác đúng, nhưng cảm giác đúng lại phải cần đến tri thức (sự hiểu biết đã được quá khứ tích lũy) đúng, cho nên có lẽ phải vừa tin vừa không tin vào sự "mách bảo" của thực tiễn-thực chứng, nghĩa là tin trong cảnh giác, đồng thời "trước mắt" phải nhờ đến cả hai, thực chứng lẫn suy lý, để truy xét, tầm soát cái gọi là chân lý một cách lặp đi lặp lại cho đến khi đạt được sự đồng thuận cao nhất, và "sau đó" tiếp tục tin trên tinh thần sẵn sàng...không tin nữa và nỗ lực... nhận thức lại. Chứ còn có cách nào hay hơn nữa đâu!?...Ái chà chà!...
Thôi, huyên thuyên nhiều quá rồi, chúng ta làm một "tường thuật" đơn giản để...giải lao và coi như cũng đưa ra được...thực chứng...cho vui vậy! Có ba thằng "nhà báo" (ở nhà báo vợ, tức thất nghiệp, vô công rồi nghề) "hơi bị" thông thái, tên lần lượt là A, B, C, ngồi khề khà "trà dư tửu hậu" với nhau. Cả ba thằng đều có máu "tám", nhất là khi đã sương sương thì...thôi rồi! Nhưng cà kê dê ngỗng kiểu gì thì kiểu, bao giờ đề tài cuối cùng cũng là về đàn bà và cứ thế rề rà cho đến khi hết rượu mới "tan hàng". Cuộc nhậu lần này hơi khác, "tám" đủ thứ chuyện "thời sự" trên trời dưới biển xong thì hình như đã chán chuyện "các má", ba thằng "hết đường binh", xoay sang "tào lao" chuyện thuộc hàng "rỗi hơi" bậc nhất thế giới, đó là "Hiện thực là gì?". Thằng A "nổ" tiếng khai mào:
     - Đố chúng mày, "thực hiện" có phải "hiện thực" không?
     Thằng B "đòm" luôn:
     -Ơ, thằng này điên à!? Thực hiện không là hiện thực thì là cái giống gì?
     -Trong thực tế, "hiện thực xã hội chủ nghĩa" và "thực hiện xã hội chủ nghĩa" đâu có thể dùng thay thế nhau được. Vậy chúng phải khác nhau chứ? - Thằng A "nổ" thêm.
     -Vẫn thay thế được, bởi có cái gì ngăn cấm, không cho phép thay thế đâu nào? - Thằng B "đòm" lại.
     Thằng A đâu chịu thua, tiếp tục nổ:
     -Mày đéo biết gì! Nói cứ ngang như cua ấy!...Thay vì nói "thực hiện công việc cho xong" lại nói "hiện thực công việc cho xong", nghe không "điếc con ráy", không nghịch lỗ tai à?
     -Kể ra cũng không bùi tai thật! Nhưng đó là do cách nói đã thành quen hay chưa quen mà thôi - Thằng B đòm chống chế.
     Đến lúc này thằng C mới "lảy cò" tham gia cuộc "đấu khẩu":
     -Moi móc to chuyện ra thì có mà cãi đến tám kiếp chưa chắc đã xong! Theo tao, có lẽ chỉ cần hiểu đơn giản thế này: nếu không bị ràng buộc thì hai từ ấy đồng nghĩa, nhưng quá trình sử dụng đã làm cho "hiện thực" trở thành danh từ và "thực hiện" trở thành động từ. Do đó, "thực hiện" là làm cho cái gì đó chưa "hiện thực" trở thành "hiện thực", còn "hiện thực" là cái gì đó chưa được "thực hiện" đã được "thực hiện" xong...Thôi nào, cụng ly!...
     Một tiếng "cờ...ốp" và ba tiếng "ực" vang lên nghe thật... "phồn thực"!
     Chúng nó tợp xong ly rượu của mình thì đặt ly xuống (chứ không lẽ quăng đi?). Thằng C tiếp tục rót rượu cho cả bọn, miệng cười cười ý nhị. Thằng B cúi đầu gật gù ra vẻ thấm thía. Còn thằng A thì ngồi ưỡn lưng, mím mồm, hết nhòm thằng C cười cười đến nhòm thằng B gật gù. Nhìn mồm nó, biết chắc có viên đạn đã "lên nòng" ở họng nó. Đúng vậy! Nó lại nổ thách thức:
      -Ê C, mày giải thích thế, dù chưa biết đúng sai cỡ nào, thì cũng phải nói rõ "hiện thực" cụ thể là cái của nợ gì chứ?!
      -Đéo ai mà không biết! Thằng nhiều chuyện dễ nể (đã "tám" mà còn chê nhiều chuyện mới lạ!?)!...Thì "hiện thực" là cái mày đang thấy xung quanh mày ấy - Thằng B "nhân danh công lý" đòm trả chát chúa.
      -Là toàn bộ cảnh vật-hiện tượng đang hiển hiện quanh chúng ta...Nói thế có lẽ chuẩn hơn, B ơi! - Thằng C lảy cò theo ngay, "củng cố" cho thằng B.
      Hình như chỉ đợi có thế, thằng A cười ré lên, nổ luôn một tràng "to tát" như tiếng trung liên RPD:
      -Hé, hé...hé...hé!...Hai "lính" đéo biết gì ráo! "Hiện" thì đồng ý là "hiện" rồi, nhưng "thực" thì làm gì có "thực"? Phật bảo tất cả những gì hiện ra trước "người trần mắt thịt" đều là giả hợp, nghĩa là không phải thực. Hơn nữa, bản thân cái sự "đang hiện" cũng có vấn đề. Nói cái gì đó hiện ra thì chỉ có thể là hiện ra trong thời gian chứ không thể ngoài thời gian được. Mà thời gian thì chúng mày cũng biết, là một "xâu chuỗi" đéo phải vật chất, lại còn vô thủy vô chung và cực kỳ phù phiếm, được người ta phân ra một cách cực kỳ mơ hồ thành ba khoảng kế tiếp nhau là quá khứ, hiện tại, tương lai, hay (thời gian) "đã", (thời gian) "đang" và (thời gian) "sẽ", nghĩa là "hiện tại"="đang". Sự vô thủy vô chung của thời gian làm cho không thể xác định được "đã" và "sẽ", nhưng sự phân khoảng lại làm cho phải xác định được "đang" vì nó bị khóa hai đầu bởi "đã" và "sẽ". Thế thì "đang" là bao nhiêu? Bao nhiêu chưa biết nhưng biết chắc "hôm qua" không phải "đang", thậm chí cách đây một "tích tắc" cũng không phải "đang" mà "đã", rốt cuộc, có lẽ "đang" chỉ có độ dài thời gian chính xác bằng một thời điểm. Vậy thời điểm là bao nhiêu thời gian? Trả lời được "bao nhiêu" một cách cụ thể bằng con số thì thời điểm đéo còn là thời điểm nữa, nghĩa là phải cho rằng thời điểm hay "đang" là không xác định được, cực tiểu vô hạn, "tiến tới" O nhưng không bao giờ bằng O. Ha,ha...ha!...Dị thường quá, đúng không? Người đời cứ "xoen xoét" nào là "hiện đại", "hiện tại", "hiện nay", "hiện thực", "hiện hữu"... thực ra chỉ là theo thói quen cảm giác chủ quan vớ vẩn và qui ước khiên cưỡng tùy tiện, chứ khoảng thời gian được gọi là "đang" ấy chỉ có mỗi một thời điểm vô cùng ngắn và bất định đúng là "đang" thôi, còn tất tật đều là "đã" hết, nên cũng có thể nói, thực tế là không có "đang". Mà "đang" đã không có thì làm thế đéo nào cho có "hiện thực" được!? Kết lại, nói "hiện thực" là sai, nói "hiện giả" mới đúng! Hé, hé...hé...hé!...Cạn ly đê!
     Thằng B như bị trúng đạn, cầm ly lên mà không uống, mắt cứ trờn trợn ngó thằng A. Có lẽ nó sững sờ vì không ngờ thằng A đột xuất nổ "dòn dã" quá. Thằng C thấy thế tội nghiệp, lảy cò phá đám:
     -Ồi dào ơi, uống vui đi B, có ghê gớm quái gì đâu! Nó dựa hơi câu "Không ai tắm hai lần trên một dòng sông" của Hêraclit để nổ bạt mạng ấy mà...Tao hỏi mày này A: "Mày có bao giờ "đang" đói không hay toàn "đã" đói và "sẽ" đói? Nếu mày nói không thì vì cũng phải nói không với "đang" không đói, nghĩa là chỉ ừ với "đã" không đói và "sẽ" không đói, nên mày đừng bao giờ ăn nữa, chỉ vô ích! Nếu mày nói có thì vì "đang đói" là "hiện giả" như mày nói, nghĩa là thực ra mày cũng "đang" không đói, vậy cũng không cần ăn làm gì! Dù mày có "đang" nhậu với chúng tao hay không, không cần biết, nhưng đừng cầm ly lên mà nốc nữa! Mày bỏ ra một đống tiền "mua" vợ về làm gì khi mày chẳng bao giờ được "đang" sướng với vợ mày mà toàn thằng khác "đang" sướng với vợ thằng khác?". Đấy, mày trả lời tao đi!...
     Khoái chí ra mặt, thằng B làm bộ xun xoe bắt tay bắt chân thằng C, rồi quay sang thằng A đòm "bồi", khiêu khích thêm:
     -Đấy, mày trả lời nó đi!...
     Có vẻ đã hết đạn nên thằng A ngồi im khe, so vai, rụt cổ, hai tay chống đùi, còn mắt thì lom lom vào đĩa thịt gà luộc trên bàn cứ như cố moi móc cho ra những viên đạn "nấp" ở đó vậy. Mặt nó nổi đanh, thấy thương hơn ghét!...Bạn nhậu thân thiết với nhau, "tám" cho vui đời, ai dè hóa ra chọc quê cho nhau buồn, lỗi không? Thằng B nghĩ vậy, đòm phát ân huệ:
    -Mình chuyển đề tài đi anh em!...Tìm chuyện nào nhè nhẹ thôi chứ chuyện này nặng như đá đeo, oải quá!...A ơi,...mà thôi, C ơi, đến lượt mày đấy, "đề pa" đi!...
     -Hượm đã nào!...Chuyện này không hay thì còn chuyện nào hay? - Hóa ra thằng A chưa hết đạn (hay đã tìm được đạn trong đĩa thịt?). Nó trỗi dậy nổ dù không còn "hung hăng" như nãy - ...Thằng C hỏi đúng là hiểm thật và tao đang...bí thật. Nhưng đâu phải vì tao sai...Mày có thấy tao sai chỗ nào không hả B? Nếu thấy thì chỉ ra cho tao biết đi! Nếu không, chúng mình phải tiếp tục câu chuyện cho ra ngô ra khoai chứ cứ để ấm ức, lát hồi hết nhậu, cả lũ về đéo ngủ được, vợ nó lại tưởng...
    -Đèo mẹ! Mày và cả thằng C, tao nhắc, hôm nay đéo nói chuyện "các má" đâu nhé! - Thằng B đòm ngắt tiếng nổ đì đẹt của thằng A.
     Đâu có hiền, thằng C lảy cò lia lại liền:
    -Đéo đéo gì mà cứ đéo hoài, chuyện nào cũng chêm đéo vào được, chuyện gái, đéo, chuyện lừa đảo cướp giật, đéo, ừ, thôi thì ba cái chuyện đó...đéo đã đành, chuyện quốc gia đại sự cũng đéo, bàn luận văn thơ cũng đéo, thông báo tin tức khám phá khoa học cũng đéo, giao lưu triết học cũng đéo, đéo lung tung, đéo tuốt tuồn tuột, đéo vung xích chó, đéo oang oang mà đéo biết ngượng mồm...Thôi, đéo nhậu với chúng mày nữa, tao về!...
     Thằng C rục rịch chưa kịp đứng dậy đã bị thằng A tóm áo ghì xuống, nổ cuống quít:
     -Thôi mà!...Đừng nóng thế! Ở lại nhậu với bạn bè cho vui đi mà!...Tao năn nỉ đấy!...
     -Ừ, ở lại nhậu vui C ơi! Mày là cây chuyện mà bỏ về thì chúng tao chán chết...Ở lại đi! Chúng tao đéo, xin lỗi, không văng tục nữa đâu, thề đấy!- Thằng B đòm tăng cường thêm.
     Thằng C cương chưa kịp cứng đã xìu liền. Nghe tiếng lảy cò của nó là biết nó thực lòng còn muốn nhậu tiếp:
    -Nhậu đang ngon trớn mà chúng mày...Được rồi, tao ở lại!... Nói thật, tục tĩu hay không tục tĩu chưa cần biết, nhưng tao nghe chói tai lắm...Nếu còn nghe một tiếng "đéo" nữa, tao sẽ về đấy và xin chúng mày đừng giận tao làm gì...
     Cuộc nhậu lại tiếp tục nhưng xuống trầm. Xoay thêm hai tuần rượu rồi mà khí thế không bốc lên được. Cả ba thằng cứ như mất hồn, toàn bắn chim, cũng "nổ" cũng "đòm" cũng "lảy cò" mà sao nghe rời rạc, vu vơ, lãng nhách...
     Mãi đến khi bước vào tuần rượu thứ tư, không khí cuộc nhậu mới có phần thay đổi theo hướng bớt vô duyên, bớt nhạt nhòa, không còn rôm rả như trước nhưng cũng không đến nỗi quá trầm lắng, mặt khác, thay cho "nổ", "đòm", "lảy cò" là những đối đáp nghe có tình có lý hơn, "hợp quần" hơn, và ba "thằng bợm rượu" vụt hóa thành ba "nhà hiền tửu". Có lẽ vì thế mà cuộc chuyện trò mới trở nên "chính luận" hơn, hấp dẫn hơn chăng?
     Cuộc đổi hướng đó bắt đầu từ thằng B:
     -C này, ban nãy bạn hỏi A, nếu A không trả lời được thì bây giờ bạn trả lời được không?
     -Được chứ B, dù có thể không gãy gọn lắm...Mà bạn đang muốn nói gì hả A? Bạn nói trước đi.
     Thằng A ậm ừ rồi lên tiếng:
     -Trước khi C luận giải, tớ muốn hai cậu lưu ý dùm là, tớ chỉ cho rằng "hiện tại" cũng có nghĩa là "đang hiện" nên mới nói "hiện tại"="đang". Mặt khác, tớ cũng cho rằng "hiện tại" hay "đang hiện" có thể là "hiện thực", nhưng "hiện thực" không phải là "hiện tại" hay "đang hiện". Dù xét ở góc độ khách quan nhất (hay có lẽ gọi đúng hơn là "góc độ hêraclit"!), cả ba thứ "hiện" ấy đều chỉ là "đã hiện", thì vì một cách tương đối (theo cảm giác, theo qui ước) coi như vẫn tồn tại khoảng thời gian (và cả khoảng không gian) gọi là "đang hiện", nên rõ ràng là phải có hai loại "hiện thực", đó là "hiện thực trong quá khứ" và "hiện thực trong hiện tại", hay gọn hơn, "hiện thực đã" và "hiện thực đang"...Tớ chỉ lưu ý có vậy thôi. Mời C!
     Thằng B vụt giơ tay kiểu "xin phát biểu", rồi nói:
     -Cho mình có ý kiến một tý...Trong thực tế, cái gì đã hiện ra thì cái đó, vì có nguyên nhân tạo thành nên phải là thực, có thực, dù nó là cầu vồng, ảo ảnh trên sa mạc..., hay cả những thứ gọi là "hàng giả", "đồ giả"... Nếu thừa nhận như thế, cũng phải thừa nhận ngay cả những gì hiện ra trong giấc mơ của một người cũng phải là thực đối với người đó. Nghĩa là đến đây cần phải cho rằng ngoài hai loại "hiện thực" mà A nêu, còn có một loại "hiện thực" nữa gọi là "hiện thực ảo" ("hiện thực" trên mạng internet, trong phim, hay trận bóng đá được truyề hình trực tiếp chẳng hạn!). Như thế, về mặt thực tế và chỉ thực tế khách quan thôi, thì dù là hiện thực "đã", "đang" hay "ảo", đều không thể giả được, hoặc quá lắm, có thể chủ quan "gắn nhãn mác" là "giả" nhưng trước hết vẫn phải là thực cái đã, và do đó làm gì có "hiện giả" hả A? Hơn nữa...Hơn nữa....Ủa, mình định nói gì nhỉ?...Quên béng rồi!
      Thằng C nâng ly rượu đầy lên, hai thằng kia nâng lên theo. Lại "cờ...ốp" và "ực"! Xong, thằng C rít một hơi thuốc lá rõ dài, ngửa mặt lên trời phà ra một cuộn khói đặc quánh, rồi cúi nhìn xuống đất. Hình như nó đang lựa lời để mở đầu nội dung mà nó định nói. Tuy nhiên, thằng A đã lại lên tiếng:
      -Vừa rồi B nói cũng có lý đấy. Nhưng tớ vẫn có cái cảm giác ngờ ngợ bất ổn thế nào ấy. Đúng là mọi thứ trong hiện thực, hợp thành hiện thực, từ vật thể đến hiện tượng đều phải có nguyên nhân tạo thành và thực sự được tạo thành nên xét theo cách nhìn này, không thể nói "hiện giả" mà phải nói "hiện thực". Hơn nữa, phải thừa nhận rằng, sự hiện ra, tồn tại và mất đi của vạn vật-hiện tượng nhất thiết phải tuân theo qui luật tự nhiên, do đó, bản thân chúng đều phải có tính duy nhất, nghĩa là tính "phải thế này chứ không thể thế khác" (dù chúng ta có tác động đến hay không, không cần biết!), hay còn gọi là "tính khách quan". Cho nên, khi nói đến hiện thực thì phải hiểu ngầm một cách đầy đủ đó là, như người ta vẫn thường nói, "hiện thực khách quan". Tuy nhiên, đây chính là điều gây cho tớ cái cảm giác ngờ ngợ bất ổn: nếu xét theo cách nhìn khác, không chú ý tới quá trình sinh-tồn-vong mang tính duy nhất của hiện thực, mà chỉ chú ý tới sự thể hiện của nó thôi, thì vì sự thể hiện ấy hình như không nhất quán, không trung thực, nên có vẻ như nó không khách quan hay chí ít, có thể nói tính khách quan vốn dĩ của nó đã bị "lu mờ" đi, không hoàn toàn thực sự nữa, và như thế, coi như hiện thực nhiều ít gì cũng đã bị giả hóa. Chẳng hạn, không cần lấy ví dụ đâu xa, hoạt cảnh chúng mình đang ngồi nhậu đây là một hiện thực. Chắc rằng hai cậu và cả tớ nữa đều thừa nhận hiện thực này là khách quan. Nó khách quan ở chỗ các sự kiện xảy ra trong nó có tính tự nhiên, tuyệt đối duy nhất, chỉ một lần chứ không lặp lại, và nói chung, mỗi chúng ta, người này thấy thì hai người kia cũng thấy về sự hiện hữu của các đồ  vật cũng như sự diễn tiến của các hiện tượng trong cuộc nhậu. Thế nhưng ngẫm nghĩ kỹ hơn một chút sẽ thấy cuộc nhậu hiện ra trước mỗi chúng ta là không đồng nhất, nghĩa là có ba hiện thực không hoàn toàn giống nhau về cuộc nhậu. Nếu ngay bây giờ tớ và B cùng nhìn bàn nhậu thì đều cùng thấy cái bàn, bình rượu, đĩa thịt gà, ly, chén...và qua đó mà cho rằng bàn nhậu hiện ra trước tớ và B là như nhau. Nhưng không những nhìn mà tớ và B còn chụp ảnh nữa và đem so hai bức ảnh đó thì sẽ thấy đó là hai hiện thực không trùng nhau về cảnh vật- về vị trí, vóc dáng, màu sắc...của các sự vật hiện hữu trong đó. Như thế, có thể kết luận, sự thể hiện khách quan của một hiện thực chỉ ở mức tương đối, không hoàn hảo...Điều cuối cùng mà tớ băn khoăn nhất ở đây là làm sao đánh giá được trong số hai hiện thực về cùng một khoảng khắc của bàn nhậu ấy (hai bức ảnh), cái nào thể hiện đúng khách quan hơn cái nào?
      -Khá lắm!-Thằng B búng tay cái "pách", thốt lên.
      Cả ba thằng "không hẹn mà nên", cùng nâng ly cụng cái "cờ...ốp", uống cái "ực" và lần này còn thêm ba cái "khà" đầy hỉ xả. Những âm thanh ấy, lúc thường, chẳng có gì phải "ầm ĩ", nhưng trong bầu lắng đọng đầy bao dung của đêm muộn, nghe sao mà "tròn vành rõ tiếng" đáo để!
      Rồi thằng B lại giơ tay xin phát biểu. Tưởng nó định tham luận gì ghê gớm lắm, té ra chỉ là một câu hỏi gọn lỏn:
      -Bạn thấy thế nào, C?
     -Vấn đề mà bạn và A vừa trình bày rất hấp dẫn. Trong đó có nhiều điều rất thú vị để mà đào sâu suy nghĩ. -Thằng C từ tốn nói- Thú thực ra, mình từ trước đến nay vẫn cứ đinh ninh "hiện thực" có gì đâu phức tạp, trái lại là đơn giản và đã rất rõ ràng, chẳng còn gì phải bận lòng suy nghĩ, tìm hiểu. Đến đây, sau khi nghe hai bạn biện giải mới thấy mình còn rất lơ mơ về bản chất của "hiện thực"...Kỳ lạ thật! Cuộc chuyện trò nãy giờ làm mình sực nhớ đến chuyện này. Số là cách nay hơn hai tuần, mình với thằng em trai nhậu bia ở quán gần nhà nó. Vừa chọn bàn xong, ngồi chờ nhân viên phục vụ tới thì nghe tiếng: "Tính tiền đi em ơi!" ở bàn bên cạnh. Mình nhìn sang thấy hai ông khách có vẻ đã "thấm đòn", một ông mắt lờ đờ ngồi rụt cổ nghe, một ông mắt long lanh ngồi chồm tới nói liên hồi. Chẳng biết ông ta nói gì nữa. Mãi khi họ trả tiền xong, đi qua bàn chúng mình để ra về, mình mới nghe được lõm bõm một đoạn đại ý là: "thực tại" và "hiện thực" là hai thứ khác nhau, con người không thể thấy được toàn bộ và đích xác "thực tại" mà chỉ thấy được một phần nhỏ dưới dạng đã "biến hóa" của nó gọi là "hiện thực", cho nên "hiện thực khách quan" chỉ tương đối, "thực tại khách quan" mới tuyệt đối. Lúc đó em mình cũng nghe được, nhe răng cười: "Uống nhiều quá thành "chiết ra" rồi!". Mình cũng cười, đế thêm: "Sự thông thái nhảm nhí!"...Bây giờ có ông ta ở đây thì tuyệt! Tiếc thật đấy!
    -Ừ, tiếc thật đấy! Hì,hì...hì!...Tiếc thật!...Tiếc vì - Thằng A cười, giơ bình rượu lên lắc lắc - hết...gụ...gồi! Hì,hì...hì! 
    -Ủa! Hết thật à? Sao mình còn tỉnh thế nhỉ? - Thằng B thảng thốt.
    Thằng C đùa:
    -Nói hăng quá hả hết rượu chứ thắc mắc gì nữa!...Mà thôi cũng đã khuya, chúng mình nên tản..., suýt nói bậy(!), giải tán đi, có gì bàn tiếp vào cuộc nhậu lần sau...
    -Đúng đấy!- Thằng A ủng hộ.
    Thế là cuộc nhậu, thú vị nhưng có phần vô hậu, tan hàng.
    Vì thế mà bài tường thuật của chúng ta cũng kết thúc.
    Nhưng không phải câu chuyện lớn của chúng ta kết thúc... 
    Và chúng ta tiếp tục nhé!
    Trước hết, chúng ta cho rằng ba anh chàng A, B, C, vì chưa thấy được sự "thiểu năng" của khái niệm cũng như chưa thấy được mối quan hệ uyển chuyển, sinh động, có thể chuyển hóa qua lại nhau một cách hình thức giữa tính khách quan và tính chủ quan, nên đã làm cho cuộc trao đổi trở nên "hoang mang giao động".
    Tiện đà, chúng ta đặt lại câu hỏi: "Hiện thực là gì?". Muốn nhận thức đúng đắn được bản chất của hiện thực thì phải "chú ý" đến thực tại, nghĩa là cần phân biệt dứt khoát sự khác nhau giữa hai khái niệm "hiện thực" và "thực tại". Chúng ta cho rằng thực tại cũng phải được hiểu là thực tại khách quan, và sự khách quan này là khách quan tuyệt đối. Vậy, một thực tại khách quan là một vùng (khoảng) không-thời gian với bao gồm toàn bộ sự vật-hiện tượng thuộc về nó và vốn dĩ tồn tại, tự nhiên tồn tại. Ở tầm sâu rộng nhất, cùng cực nhất về không-thời gian thì thực tại khách quan chính là Vũ Trụ tổng thể các sự vật-hiện tượng mà chúng ta còn gọi theo tên khác là Tự Nhiên Tồn Tại để nêu bật tính khách quan tuyệt đối (tính tự nhiên) của Nó. Còn hiện thực thì được chúng ta hiểu là phần "hiện ra" của thực tại khách quan. Đã "hiện ra" thì phải hiện ra trước cái gì hay những cái gì chứ không thể hiện ra trước Hư Vô được, và như thế, (những) cái gì đó chính là (những) thực thể, cũng có nghĩa là (những) giác hay cảm giác. Nói cách khác, hiện thực là một phần nào đó của thực tại khách quan "lộ ra" trước một thực thể sau khi thực thể tiếp nhận, cảm nhận, nhận thức thông qua giác, cảm giác, cảm thức. Mức độ "lộ ra" về qui mô sâu-rộng cũng như về tính chân thực (hay nói ngược lại là tính giả tạo) hoàn toàn tùy thuộc vào khả năng, cách thức, trình độ cũng như trạng thái, vị trí của giác, cảm giác, cảm thức, hay nói gọn lại là tùy thuộc vào "chủ quan" của thực thể tri-giác. Xét cho đến cùng thì sự "chủ quan" của thực thể tri-giác có nguyên nhân khách quan, nhưng ở mức độ, phạm vi nhìn nhận nào đó cũng có nguyên nhân chủ quan, và như vậy,  có thể phân tương đối sự chủ quan thành hai loại là chủ quan tuyệt đối (có tính mặc định, ổn định, do phương thức cấu tạo và vận động nội tại đặc thù của thực thể tri-giác qui định) và chủ quan tương đối (có tính bất định, biến đổi theo tình thế, trạng thái của thực thể tri-giác). Vì có nguồn gốc khách quan, được tự nhiên qui định nên tuyệt đối không thể loại trừ sự chủ quan "ra khỏi" quá trình tri-giác của thực thể, mà chỉ có thể hạn chế, khắc phục phần nào. Suy ra từ những lẽ đó, chúng ta cho rằng, một cách tuyệt đối, không thể có hiện thực khách quan mà chỉ có hiện thực chủ quan, hơn nữa, nói đến hiện thực thì phải là hiện thực của một thực thể tri-giác xác định, và như vậy, từ cùng một thực tại khách quan không thể hiện ra hai (hay nhiều) hiện thực chủ quan giống hệt nhau, trùng khít nhau. Chắc như bắp, hiện thực của cây cối phải khác "xa lắc" hiện thực của động vật, hiện thực của con vi khuẩn mà giống hiện thực của con người thì thật là "ghê hồn bạt vía"! Hai hiện thực của hai con người về cùng một thực tại khách quan dù có vẻ rất giống nhau cũng không thể trùng khít nhau được, bởi "ít nhất" cũng tại điều rất đơn giản này: tương tự như hai hệ thiết bị quan sát thiên văn, được chế tạo giống hệt nhau một cách lý tưởng, đồng thời quan sát cùng một khoảng Vũ Trụ, thì vì không có bất cứ cách nào làm cho góc độ quan sát của chúng tuyệt đối trùng nhau được, nên hai hiện thực của hai hệ vẫn là hai hiện thực khác nhau (dù có nhiều nét tương đối (hay "tưởng rằng") giống nhau).
     Tuy nhiên, chính hiện tượng dù tuyệt đối khác nhau nhưng cũng tương đối giống nhau của hai hiện thực trong ví dụ nêu trên đã gợi ý cho chúng ta về một hiện thực tương đối khách quan, hay có thể gọi là "hiện thực khách quan của những thực thể có cùng chủ quan tuyệt đối về tri-giác". Hiện thực khách quan tương đối đó cũng chính là hiện thực chủ quan tuyệt đối của những thực thể tri-giác chưa có nhận thức hoặc chưa qua nhận thức (hiện thực của một đài quan sát thiên văn, bản thân nó, là hiện thực chủ quan tuyệt đối, nhưng khi đã bị con người "bình giảng" rồi thì tính chủ quan của nó không còn tuyệt đối nữa vì đã bị sự nhận thức xâm phạm, lũng đoạn, và thậm chí coi như đã chuyển hóa thành hiện thực khách quan của con người!). Thực ra, chỉ vì mục đích cố tỏ rõ bản chất của hiện thực mà chúng ta nói đến cái gọi là hiện thực của vật vô tri-vô cảm, chứ khó lòng mường tượng được cách thức tồn tại của cái hiện thực ấy, dù nó...có thật(!). Phải chăng vì ở vật vô tri-vô cảm không có hồi ức nên nó cũng tuyệt nhiên "không biết" quá khứ và do đó hiện thực của nó chỉ là hiện thực "đang xảy ra thực sự"? Nhưng phải hiểu thế nào về cái khoảng thời gian "đang xảy ra thực sự" ấy? Trong khi chờ đợi một hình dung "kín kẽ" nhất, có lẽ "đành" tạm thời hình dung rằng, mỗi một thực thể đều có cái gọi là "đơn vị thời gian riêng", có độ dài lâu được qui định bởi cách thức cấu tạo-vận động nội tại thực thể (như thế, những thực thể có nội tại giống nhau thì có đơn vị thời gian riêng giống nhau), và đó cũng chính là khoảng thời gian hiện thực "đang xảy ra thực sự" của thực thể(?)...Thôi, để bớt phần rắm rối, phải "rào trước đón sau" nhiều quá làm lan man thêm câu chuyện vốn đã lan man đến...phát sợ (!), chúng ta sẽ thu hẹp "sự kể lể" về hiện thực trong phạm vi hiện thực của con người nhận thức.
      Không có cảm giác và hồi ức, thực thể chỉ có được một hiện thực biến đổi, hoàn toàn bất ổn, phiến diện, manh mún và...mù tịt. Ở con người, một mặt do chỉ cảm giác tự nhiên được một khoảng ở tầng Vũ Trụ vĩ mô mà thiên nhiên "qui định", mặt khác nhờ sở hữu được một năng lực cảm giác sinh học ở tầm cao nhất là trực-gián giác, một hồi ức sinh học dài lâu và bền vững nhất trong thế giới sinh vật, chưa kể còn được hỗ trợ đắc lực bởi sự nhận thức ngày một tăng tiến cũng như bởi những công cụ, thiết bị giác và lưu nhớ nhân tạo ngày một hiện đại, mà hiện thực của nó có tính ổn định, tổng thể, sáng tỏ, tồn tại lâu dài theo thời gian, đồng thời cũng có tính ngày một thấu suốt, ngày một sâu rộng, ngày một khách quan Như đã nói, thiên nhiên, một cách trực tiếp, chỉ có khả năng ban cho loài người một cách hạn định về năng lực cũng như số loại hình cảm giác phù hợp với lối sống trong thiên nhiên của nó, sao cho vừa đủ đáp ứng những đòi hỏi trong hoạt động sinh tồn của nó. Nghĩa là con người chỉ có thể cảm giác trong phạm vi (tạm gọi là) "tầm sinh học", hay có thể nói, chỉ cảm giác trực tiếp được theo cách đặc thù, mang tính thực dụng (nên cũng có hạn độ) những thứ cần cảm giác nhằm mục đích duy nhất và sát sườn là phục vụ đời sống (trước hết) cho bản thân nó trong thiên nhiên. Theo qui định của cảm giác ấy cũng như thông qua cảm giác ấy mà thực tại khách quan trình diễn ra một cách hạn chế (nghĩa là chỉ một phần, một bề, một tầng nấc qui mô...) và "biến dạng" thành hiện thực của chủ quan con người, "giành riêng" cho con người. Vì hiện thực là sự thể hiện một phần thực tại khách quan dưới dạng đặc thù (biến dạng) theo chủ quan cảm giác, mà sự tồn tại chủ quan cảm giác này, xét cho cùng là có nguyên nhân khách quan (ở đây, chủ quan cảm giác không bao hàm chủ quan đánh giá, nhận định...-những "thứ" được cho là thuộc chủ quan có nguồn gốc chủ quan!), cho nên dù phần thực tại khách quan ấy có "biến dạng" thì chỉ là biến dạng mang tính hình thức, nghĩa là mọi sự vật-hiện tượng trong hiện thực ấy, dù tồn tại-vận động dưới bất cứ hình thức nào, theo bất cứ kiểu cách gì, cũng đều phải tuân theo tuyệt đối các qui luật - những dạng đặc thù đã được mặc định một cách trực tiếp hay gián tiếp bởi ba nguyên lý  tương tác, nhân quả, bảo toàn đóng vai trò là ba hệ quả cơ bản của nguyên lý Tự Nhiên. Như vậy, hiện thực của con người có tính luôn luôn hàm chứa sự thật khách quan tuyệt đối. Mặt khác, do nguyên lý cấu tạo sinh học làm xuất hiện sự cảm giác ở mọi con người là như nhau, cho nên nếu bỏ qua những sai lệch sinh ra từ sự chủ quan có nguyên nhân chủ quan (như góc độ, cự ly, trạng thái chuyển động, trạng thái tâm sinh lý, trình độ nhận thức...khi cảm giác, ở từng con người-chủ thể cảm giác), thì tất cả hiện thực của mỗi con người về cùng một thực tại khách quan, trong cùng một thời gian, đều giống nhau, trùng khít nhau. Đó được gọi là tính khách quan tương đối của hiện thực ở con người. Với hai sự thể hiện khách quan ấy, có thể nói không sai rằng, nếu bỏ qua những chủ quan có nguyên nhân chủ quan thì hiện thực của con người là một hiện thực hoàn toàn khách quan đối với chủ quan cảm giác con người, và vì thế, đến mức độ toàn bích, cũng chính là hiện thực tuyệt đối khách quan đối với chủ quan cảm giác-nhận thức của loài người và chỉ cho "riêng" loài người. Nghĩa là thông thường, có thể nói "hiện thực khách quan của chúng ta", nhưng hiểu rằng đó là một hiện thực khách quan tương đối-một phần thực tại khách quan được cảm nhận theo cách chủ quan "chưa thực sự sáng tỏ" của loài người. Khi loài người đã nhận thức đến tuyệt đích đúng đắn và tuyệt cùng triệt để về Tự Nhiên Tồn Tại thì cũng là lúc hiện thực khách quan đó chuyển biến thành hiện thực khách quan tuyệt đối đối với chủ quan cảm thức của loài người, hay "mạnh miệng" hơn nữa, là thực tại khách quan theo cách cảm thức, hình dung riêng có của con người nhận thức...Ôi! "Loạn lạc" quá đi! Thật là...điên rồ!...Nhưng...biết đâu chừng!...Đã ai đếm xuể trong lịch sử phát triển tri thức nhân loại, bao nhiêu sự điên rồ bị lãng quên vụt hóa thành chân lý?...Thế thì, xin nghe lời Trịnh Công Sơn: "Tôi ơi, đừng tuyệt vọng!"...
     Nếu sự trình bày nên trên là hợp lý thì đó cũng có thể được coi là minh chứng hùng hồn rằng con người không thể tiếp cận trực diện để "thấy" đích xác được thực tại khách quan vốn dĩ cũng như thứ mà nhà triết học I. Kant gọi là "vật tự nó", nghĩa là con người không tài nào nhận thức trực tiếp được thực tại khách quan, mà chỉ có thể bằng cách gián tiếp thông qua nhận thức hiện thực của nó, cũng chính là chỉ có thể bằng cách trên cơ sở cảm giác trực-gián giác và thông qua hệ thống khái niệm mà nó sáng tạo ra. Điều đó cũng đồng thời đưa ra lời giải thích đầy sức thuyết phục rằng vì sao quá trình nhận thức thực tại khách quan của loài người lại nhiều khúc khuỷu quanh co, chướng ngại gập ghềnh gây biết bao nhiêu lầm lạc, và vất vả, gian lao đến thế, nhất là trong suốt thời kỳ đầu, khi mà loài người chưa hề hay biết tí gì về bản chất của hiện thực. Có lẽ trường hợp xuất hiện (vào thế kỷ II-SCN) và tồn tại lâu dài (đến cuối thế kỷ XVI) của thuyết Địa Tâm (Trái Đất là trung tâm, mọi thiên thể, kể cả Mặt Trời, quay quanh nó) do Ptôlêmy đề xướng cũng như sự phủ định nó là ví dụ điển hình của điển hình làm sáng tỏ nhận định đó. 
     Trước thời Ptôlêmy đã có không ít những hình dung thiên văn mà về đại thể phân thành hai loại là Địa Tâm và Nhật Tâm (Mặt Trời là trung tâm, Trái Đất và mọi thiên thể quay quanh nó). Vì thiếu hẳn bằng chứng khoa học, hầu như chỉ dựa vào suy đoán từ cảm giác hay niềm tin thần thánh, nhưng kinh nghiệm trực giác có phần gây ấn tượng mạnh hơn hẳn, mà quan niệm Địa Tâm luôn ở thế thượng phong. Rõ ràng, nếu không nhờ nhận thức khoa học chỉ ra thì khó lòng mà bác bỏ được thực tế quan sát là các thiên thể chuyển động quanh Trái Đất. Nói sâu xa hơn, sự "mù mờ" của hiện thực thời đó đã "không ủng hộ" con người suy ra điều ngược lại. Có như thế là vì con người đã "dùng" kinh nghiệm cảm giác cũng như quan sát có tầm hiệu dụng cho hoạt động sinh tồn trong phạm vi thiên nhiên và vẫn còn ở tình trạng "nặng nề trực giác" làm "công cụ" tìm hiểu Vũ Trụ. Ptôlêmy, trên cơ sở tiến bộ trong thu thập quan sát thiên văn và về toán học, đã là người đầu tiên nêu ra mô hình Địa Tâm có tầm vóc lý thuyết mang tính khoa học thực sự. Điều làm cho mô hình này được thừa nhận nhanh chóng và trở thành chân lý khoa học, thành sự thật "hầu như" hiển nhiên không cần bàn cãi, đứng "vững như bàn thạch" suốt hơn một ngàn năm là nhờ không những "cảm tính hiện thực" của nó mà còn, quan trọng hơn, có thể dựa vào nó tính toán, xác định được vị trí biểu kiến của các hành tinh (đã phát hiện được vào thời đó) trên bầu trời. Dù thế cũng nên nói cho ngay, vào thế kỷ III-TCN có Aristarchus, người xứ Samos, đưa ra một mô hình Nhật Tâm (người đời sau không biết cụ thể nó như thế nào vì đã thất lạc từ lâu), nhưng nó chỉ như ngọn nến trước gió, thắp lên le lói rồi vụt tắt. Khoảng hai-ba trăm năm sau, một người tên là Aryabhata ở Ấn Độ hình dung ra một mô hình Nhật Tâm với những ý chính là Trái Đất xoay quanh trục của nó, Mặt Trời đứng yên, các hành tinh quay theo quĩ đạo elíp. Tuy nhiên mô hình này cũng có số phận hiu hắt tương tự. Mãi đến thế kỷ XIV, trong thiên văn học Ả Rập mới thấy xuất hiện những khám phá, nghiên cứu khoa học có ý nghĩa đến việc xây dựng mô hình Nhật Tâm, và nhiều khả năng nó đã gây ảnh hưởng sâu sắc đến sự nghiệp nghiên cứu thiên văn  của Côpécnic sau này. Kể từ thời Ptôlêmy, càng về sau, tài liệu thu thập trong thực tiễn quan sát thiên văn càng phong phú, chính xác hơn đã làm cho công việc tính toán chính xác vị trí các hành tinh trên bầu trời càng ngày càng trở nên phức tạp, khó khăn và đầy nặng nhọc. Đó cũng là một "kích thích" quan trọng tác động đến Côpecnic, tạo điều kiện chín muồi cho mô hình Nhật Tâm ra đời. Theo từ điển mở Wikipedia thì: "Năm 1543 hệ địa tâm lần đầu tiên bị thách thức thực sự khi Côpecnic xuất bản cuốn Về chuyển động quay của các thiên thể (De revolutionibus orbium coelestium), ấn định rằng Trái Đất và các hành tinh khác đều quay quanh Mặt Trời. Hệ địa tâm vẫn còn tồn tại nhiều năm sau đó, bởi vì ở thời ấy hệ Côpecnic không đưa ra được các tiên đoán tốt hơn về vị trí các hành tinh so với hệ địa tâm, và nó đặt ra các vấn đề đối với cả triết học tự nhiên và kinh thánh. Với sự phát minh ra kính viễn vọng năm 1609, những cuộc quan sát đầu tiên do Galileo tiến hành (như Sao Thổ có các Mặt Trăng) đặt ra một số nghi vấn đối với những giáo lý của thuyết địa tâm nhưng không đe dọa nghiêm trọng tới vị trí của nó. Tháng 12 năm 1610, Galileo Galilei đã sử dụng kính viễn vọng của mình chứng minh rằng Sao Kim có trải qua các tuần, giống như các tuần Mặt Trăng. Đây là một bằng chứng cho thấy sự không chính xác của hệ Ptôlêmy. Ptôlêmy đặt Sao Kim bên trong mặt cầu của Mặt trời (giữa Mặt trời và Sao Thuỷ), đây là hành động tùy tiện; ông chỉ có thể đơn giản đổi vị trí Sao Kim và Sao Thủy rồi đặt chúng vào phía bên kia của Mặt trời, hay đặt chúng ở bất cứ vị trí nào, khi chúng luôn nằm gần đường thẳng từ Trái Đất tới Mặt trời. Trong trường hợp này nếu Mặt Trời là nguồn gốc của mọi ánh sáng, thì theo hệ Ptolemy, khi Sao Kim nằm giữa Trái Đất và Mặt Trời, pha của Sao Kim phải luôn là hình lưỡi liềm hoặc hoàn toàn tối, và khi Sao Kim ở phía bên kia Mặt trời, pha của Sao Kim phải luôn khuyết hoặc hoàn toàn tròn. Nhưng Galileo quan sát thấy ban đầu Sao Kim nhỏ và tròn đầy nhưng sau đó lớn lên và có hình lưỡi liềm. Các nhà thiên văn học thời kỳ này cho rằng nếu các kết quả được chấp nhận là đúng thì đó là một bằng chứng không thể phủ nhận cho thấy sự sai lầm của vũ trụ học Ptôlêmy". Điều rất đáng chú ý là, có thể một phần cũng sợ những hệ lụy đến từ giáo hội Thiên Chúa Giáo, nhưng phần lớn hơn có thể bản thân Côpecnic, vào khoảng thời gian trước và khi công bố lý thuyết của mình, thực sự vẫn còn do dự, lưỡng lự về tính hiện thực của học thuyết Nhật Tâm mà mình đề xướng, nên một cách công khai, ông chỉ coi nó như một giả thuyết, một công cụ toán học cho phép có được những tính toán thiên văn đơn giản và chính xác hơn so với sự tính toán dựa trên thuyết của Ptôlêmy. Theo nhìn nhận trong Wikipedia: "Về mặt thực nghiệm, hệ của Côpecnic không tốt hơn kiểu của Ptôlêmy. Côpecnic nhận thức được điều này và không thể đưa ra "bằng chứng" quan sát trong cuốn sách của mình, thay vào đó ông lại dựa vào những tranh luận về một hệ chính xác và đúng đắn hơn. Từ khi cuốn sách được xuất bản tới khoảng năm 1700, rất ít nhà thiên văn tin vào hệ của Côpecnic, mặc dù cuốn sách đó được truyền bá khá rộng (khoảng 500 bản sách được cho là vẫn còn tồn tại, đó là một con số lớn so với tiêu chuẩn khoa học của thời đó). Tuy nhiên, nhiều nhà thiên văn học, đã chấp nhận một số khía cạnh của lý thuyết so với những thuyết khác, và hệ của ông đã có ảnh hưởng lớn đối với những nhà khoa học về sau này như Galileo và Johannes Kepler, những người đã chấp nhận, đấu tranh cho nó và (đặc biệt là trường hợp của Kepler) tìm cách cải thiện nó. Những quan sát của Galileo về các tuần của Sao Kim chính là bằng chứng quan sát thực nghiệm đầu tiên cho lý thuyết của Côpecnic".
     Đánh giá công lao của Côpécnic đối với loài người, cũng trong Wikipedia, có viết: "Lý thuyết của Côpecnic có tầm quan trọng đặc biệt trong lịch sử văn minh loài người. Nhiều tác giả cho rằng chỉ hình học của Euclid, vật lý của Isaac Newton và Thuyết tiến hoá của Charles Darwin là có thể có ảnh hưởng ở mức so sánh được với lý thuyết đó đối với văn hoá loài người nói chung và khoa học nói riêng. Nhiều ý nghĩa đã được gán cho lý thuyết của Côpecnic một phần từ ý nghĩa khoa học đúng đắn của nó. Tác phẩm của ông ảnh hưởng tới cả tôn giáo và khoa học, giáo điều cũng như tự do của vấn đề khoa học. Vị trí của Côpecnic với tư cách là một nhà khoa học thường được so sánh với Galileo Galilei. Công trình của Côpecnic phản đối giáo điều tôn giáo được chấp nhận sau đó. Nó có thể cho thấy rằng không cần thiết phải có một (Đức Chúa) tuyệt đối trao linh hồn, quyền lực và cuộc sống cho thế giới và con người, vì khoa học có thể giải thích mọi điều được cho là của Chúa. Tuy nhiên, chủ nghĩa của Côpecnic cũng mở một lối đi cho tính nội tại, quan điểm cho rằng một lực lượng siêu nhiên, hay một vị thần thánh, thâm nhập vào mọi vật tồn tại - một quan điểm từ đó được phát triển thêm trong nhiều triết học hiện đại. Chủ nghĩa nội tại cũng dẫn tới chủ nghĩa chủ quan với lý thuyết cho rằng có thể nhận thức được những tạo vật thực tế, rằng không có thực thể tồn tại độc lập với nhận thức (thực ra là với giác hay cảm giác-ĐC). Vì thế một số người cho rằng Chủ nghĩa Côpecnic đánh đổ những nền tảng của khoa học Trung Cổ và siêu hình học. Một hệ quả của Chủ nghĩa Côpecnic là quy luật khoa học không cần thiết phải phù hợp với thực tế. Sự đối nghịch này với hệ của Aristoteles vốn đặt cao tầm quan trọng về nguồn gốc của hiểu biết thông qua các giác quan. Khái niệm của Côpecnic đánh dấu một sự cách mạng khoa học. Thực vậy, một số nhà tư tưởng cho rằng nó đứng ngang bằng với sự khởi xướng của một "cuộc cách mạng khoa học". Immanuel Kant mang tính biểu tượng của cách mạng do Côpecnic khởi xướng - chủ nghĩa duy lý ưu việt của nó - công nhận rằng chính sự hợp lý của con người là cách làm sáng tỏ về những hiện tượng quan sát được. Những nhà triết học gần đây cũng tìm thấy những giá trị triết học trong chủ nghĩa Côpecnic". Còn Gớt, người Đức, được thừa nhận là một trong những thiên tài bậc nhất của nền văn chương thế giới, thì ca ngợi: "Trong tất cả các khám phá và ý kiến, không có cái nào có ảnh hưởng đến tinh thần hơn học thuyết của Côpecnic. Thế giới mới được biết là tròn thì phải bị đòi hỏi từ bỏ đặc quyền lớn lao của địa vị trung tâm vũ trụ. Có lẽ không bao giờ nhân loại bị đòi hỏi lớn lao như thế - vì khi chấp nhận điều này thì nhiều việc bị tan tành mây khói! Việc gì sẽ xảy ra với Eden (Vườn Địa Đàng) của chúng ta, thế giới của sự ngây thơ, lòng mộ đạo, và thi ca; bằng chứng từ giác quan; sự tin tưởng đến một niềm tin thơ - đạo? Không đáng ngạc nhiên khi những người đương thời không muốn từ bỏ những ý niệm này và chống đối bằng mọi cách một học thuyết mà những người tin tưởng cho phép và đòi hỏi một tầm nhìn tự do và ý tưởng vĩ đại chưa bao giờ được biết, hay tưởng tượng nổi". Và đây là những dòng tâm sự nổi tiếng, còn lưu lại của Côpecnic: "Vì tôi không say mê lắm với những quan điểm của riêng mình nên tôi không coi trọng suy nghĩ của người khác về chúng. Tôi biết rằng những ý kiến của một nhà triết học không phải là chủ đề cho sự phán xét của những người bình thường, bởi vì đó chính là sự nỗ lực của ông ta nhằm tìm kiếm sự thực trong mọi vấn đề, trong phạm vi sự cho phép của Chúa Trời với loài người. Tuy vậy, tôi cho rằng cần xa lánh những quan điểm hoàn toàn sai trái. Những người biết rằng sự kết luận của nhiều thế kỷ đã đưa tới việc thừa nhận quan điểm rằng Trái Đất đứng yên ở trung tâm Vũ Trụ, như trung tâm của nó là trung tâm của Vũ Trụ. Tôi phản đối, coi đó là một tuyên bố điên cuồng nếu tôi đưa ra điều xác nhận rằng Trái Đất chuyển động. Khi một con thuyền chuyển động êm đềm về phía trước, các thủy thủ thấy chuyển động của nó được phản ánh qua mọi sự vật bên ngoài, tuy nhiên mặt khác họ cũng có thể cho rằng mình đang đứng yên, cùng với mọi vật trên thuyền. Theo một số cách, chuyển động của Trái Đất có thể là điều không thể nghi ngờ, đưa lại cảm giác rằng toàn thể Vũ Trụ đang chuyển động. Vì thế cùng với những lý thuyết cổ đại, vốn không còn chính xác nữa, chúng tay hãy cho phép các lý thuyết mới đó được xuất hiện, đặc biệt khi chúng tỏ ra rất chính xác, đơn giản và mang lại nhiều thông tin quan sát quý báu. Khi các lý thuyết còn được quan tâm, không ai có thể chờ đợi một sự chính xác hoàn toàn từ thiên văn học, thiên văn học không thể cung cấp điều đó, ít nhất anh ta chấp nhận các ý tưởng chính xác được đưa ra cho một mục đích nào khác, và việc quay lưng lại với nó chính là điều ngu xuẩn lớn hơn việc quan tâm tới nó. Tạm biệt!".
     Như vậy là suốt hơn một ngàn năm, khoa học loài người "đứng trước" một "hiện thực thiên văn" sai lầm và "hồn nhiên" tiến hành các quan sát, nghiên cứu thiên văn trên cơ sở hiện thực ấy mà (nói chung) không hề hay biết. Chỉ mãi đến khi phát hiện ra tính tương đối của chuyển động thì các nhà khoa học mới "té ngửa" ra rằng sự thấy một vật đứng yên hay chuyển động là không chắc chắn. Điều thú vị là ở chỗ trước một hiện thực thiên văn "lộn ngược" như thế, những tính toán của họ vẫn phù hợp với thực tế quan sát. Nhưng tại sao? Chúng ta nêu ra một ví dụ để trả lời câu hỏi đó.
     Có hai con thuyền giữa đại dương bao la tuyệt đối "sóng yên biển lặng", không thấy bến bờ nào, phía trên chỉ một màu xanh thẳm của bầu trời. Hai con thuyền đó đối đầu nhau và khoảng cách giữa chúng dần rút ngắn lại một cách đều đặn rồi cuối cùng đâm xầm vào nhau. Theo quan điểm của các thủy thủ trên hai thuyền đó thì thuyền nào gây ra va chạm? Nếu đã biết đến tính tương đối của chuyển động thì họ sẽ đồng thanh: "Không xác định được!". Còn nếu chưa biết và dựa trên kinh nghiệm cảm giác thì đoàn thủy thủ trên thuyền nào cũng sẽ cho rằng thuyền họ đứng yên và thuyền kia chủ động đâm vào thuyền họ. Hơn nữa, nếu đó là va chạm (hoàn toàn) đàn hồi, thì cảm giác quán tính làm cho đoàn thủy thủ trên thuyền nào cũng "thấy" thuyền của họ đã từ trạng thái đứng yên chuyển sang trạng thái chuyển động theo hướng rời xa con thuyền kia và khoảng cách giữa hai thuyền tăng dần một cách đều đặn (bỏ qua hiện tượng ma sát và giai đoạn tăng tốc!). Giả sử có con thuyền thứ ba ở gần đó và đoàn thủy thủ trên con thuyền này quan sát được toàn bộ quá trình vừa kể của hai con thuyền kia thì họ sẽ thấy như thế nào? Tùy trạng thái chuyển động (đều!) của con tàu thứ ba mà đoàn thủy thủ trên đó sẽ thấy như thế nào! Nhưng nói chung, một cách đại thể, sẽ thấy một trong ba hoạt cảnh này: thứ nhất, một thuyền đứng yên bị thuyền kia chuyển động đâm vào, thứ hai, một thuyền "lùi" một thuyền "tiến" cùng phương chiều và thuyền "tiến" đâm vào thuyền "lùi", thứ ba, hai thuyền cùng chuyển động hướng vào nhau và đâm nhau, trong cả ba trường hợp ấy đều thấy sau khi va chạm, cả hai thuyền đều biến đổi trạng thái chuyển động. Vậy là từ cùng một diễn biến trong thực tế dẫn đến ba hiện thực khác nhau ở ba đoàn thủy thủ. Vậy thì trong ba hiện thực đó, hiện thực nào sát thực nhất? Đó là câu hỏi thiếu điều kiện nên...chào thua! Tuy nhiên, dễ hình dung rằng tại "hiện trường" sau khi xảy ra va chạm, nếu yêu cầu ba đoàn thủy thủ đưa ra nhận xét về ba hiện thực ấy, thì đoàn nào cũng khẳng định thuyền của họ đứng yên trước khi va chạm (riêng đối với thuyền thứ ba thì cả sau khi va chạm) và diễn biến va chạm mà họ quan sát được là sự thực "không thể chối cãi", "đúng là" hiện thực khách quan, hơn nữa, họ còn có thể đo và tính toán ra được các giá trị tốc độ của hai con thuyền trước và sau khi va chạm hoàn toàn phù hợp với "thực tế".
     Bây giờ, cũng ví dụ ấy với ba con thuyền ấy và diễn biến va chạm ấy, nhưng thêm dữ kiện là cả ba đoàn thủy thủ đều thấy một ngọn hải đăng trên một bến bờ. Rõ ràng, từ kinh nghiệm cảm giác mà cả ba đoàn thủy thủ đều phải thừa nhận sự đứng yên tuyệt đối (!) của ngọn hải đăng trong môi trường thiên nhiên. Do đó, cả ba đoàn thủy thủ đều phải lấy ngọn hải đăng làm chuẩn mốc (gốc tọa độ) để xác định các giá trị tốc độ của hai con thuyền trước và sau khi xảy ra va chạm, và tất nhiên kết quả tính toán của ba đoàn thủy thủ về các giá trị tốc độ ấy phải trùng nhau, cũng có nghĩa là hiện thực về diễn biến hai con thuyền va chạm của ba đoàn thủy thủ lúc này là như nhau, hay có thể nói rộng ra, với việc lấy ngọn hải đăng (hay bất cứ thứ gì đứng yên trên mặt đất) làm chuẩn mốc xác định trạng thái (cũng như) phương chiều chuyển động thì ba đoàn thủy thủ có cùng một hiện thực và hiện thực đó cũng được coi là hiện thực khách quan đích thực (trong môi trường thiên nhiên!) của họ.
     Từ ví dụ trên có thể suy ra vài điều sau đây. Thứ nhất, chỉ xét trong khoảng thời gian diễn tiến va chạm, nếu coi con thuyền thứ ba là Trái Đất và hai con thuyền kia là hai hành tinh, và dù người quan sát từ Trái Đất tưởng Trái Đất đứng yên hay biết Trái Đất đang chuyển động, thì kết quả đo đạc và tính toán nhằm xác định vị trí (biểu kiến) tại thời điểm nào đó của hai hành tinh so với Trái Đất là không đổi (!). Đó là lời giải thích sự tương đồng nhau về kết quả tính toán giữa hệ Ptôlêmy và hệ Côpécnic, cũng như vì sao thực tế những tính toán đó không thể chỉ ra được Trái Đất đứng yên hay chuyển động. Thứ hai, trong hiện thực khách quan đích thực (lấy ngọn hải đăng làm chuẩn mốc), việc tính toán chuyển động của hai con thuyền va chạm sẽ cho ra kết quả: hai tốc độ tổng hợp (tính theo giá trị tuyệt đối) trước và sau va chạm của hai con thuyền đó có giá trị bằng nhau nhưng tương phản nhau (trong trường hợp này, vì va chạm trực diện nên "gọi là" đồng phương, ngược chiều), không những thế, còn có thể suy ra, đó cũng là kết quả rút ra được từ đo đạc và tính toán trong hiện thực khách quan "riêng" của bất kỳ đoàn thủy thủ nào có mặt tại hiện trường không có ngọn hải đăng (!). Việc từ mọi quan sát-tính toán về cùng một sự kiện đều dẫn tới kết quả tối hậu duy nhất đã "tiết lộ" ra rằng kết quả tối hậu đó phải có tính khách quan tuyệt đối, nghĩa là nó phải là sự thể hiện nào đó về bản chất của thực tại khách quan. Đúng vậy! Hoàn toàn có thể rút ra được từ kết quả tối hậu ở đây (ít ra là) ba trong số các định luật cơ bản về chuyển động cơ học mà nhà vật lý thiên tài I. Niutơn đã thiết lập được, đó là định luật quán tính, định luật tác dụng tương hỗ, định luật bảo toàn động lượng, và theo quan niệm của chúng ta thì ba định luật đó chính là những thể hiện dưới dạng đặc thù hay cũng có thể được coi là  những hệ quả của ba nguyên lý tổng quát và tuyệt đối khách quan (nhắc lại: nguyên lý tương tác, nguyên lý nhân quả và nguyên lý bảo toàn) về (của) Tự Nhiên Tồn Tại. Thứ ba, suy lý mở rộng, triết học Mác về tự nhiên phát biểu ba luận điểm gồm "sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập", "lượng đổi chất đổi và ngược lại", "phủ định của phủ định", và cho rằng đó là ba qui luật cơ bản, phổ quát nhất, đóng vai trò nền tảng của vận động vật chất. Nếu đúng thế thì vì Vũ Trụ là thống nhất và duy nhất nên ba qui luật ấy phải có mối quan hệ bản chất với nhau, hơn nữa, không trực tiếp thì cũng gián tiếp, chúng phải có tác dụng mang tính "khống chế nghiêm ngặt" đến mọi sự vật-hiện tượng, mọi quá trình vận động, nghĩa là "hình bóng" hay "dấu vết" của chúng phải xuất hiện khắp nơi, cho nên dứt khoát không những chúng không thể vắng mặt mà còn phải ở vị trí hàng đầu trong vật lý học, đóng vai trò "đầu mối" trong việc làm kim chỉ nam cho nghiên cứu vật lý nói riêng và khoa học nói chung, dù có thể dưới dạng phát biểu này hay dạng phát biểu khác. Do đó, từ trường hợp ví dụ đang xét hay từ ba định luật cơ học đã nhắc tới ở trên, cũng phải suy ra được sự tồn tại ba quy luật cơ bản của Mác. Ai suy ra được? Chúng ta thì...không! Nghĩa là chúng ta không thừa nhận sự tồn tại khách quan ba qui luật tự nhiên của triết học Mác, hay nói đúng hơn, chỉ có thể coi chúng là ba hình thức biểu hiện tương đối nổi trội của tồn tại và vận động được thấy (cảm giác) trong hiện thực ở phạm vi nhất định. Nếu lập luận đó là hợp lý, thì phải đi đến nhận định rằng, dù quan niệm về tự nhiên-xã hội của triết học duy vật biện chứng có đúng đến đâu chăng nữa thì vì phần triết học về tự nhiên của nó đã có sự ngộ nhận nghiêm trọng và sự ngộ nhận này gây không ít hệ lụy đến phần triết học về xã hội của nó, cho nên phải đặt nó, tức toàn bộ triết học duy vật biện chứng, vào tầm nghi vấn và nhận thức lại xem mức độ đúng-sai của nó tới đâu, với bước đầu tiên dĩ nhiên là phải rà soát lại khái niệm "vật chất" mà nó nêu ra. Thứ tư, cũng là suy lý mở rộng, trong thực tại khách quan nhưng "ngoài" hiện thực (!), vì không tồn tại sự hồi ức nên cũng không tồn tại thứ gọi là "thời gian" (để mà "có" "sự trôi thời gian" cũng như "quá khứ" hay "tương lai"), và do đó, biến cố va chạm của hai con thuyền phải được nhận thức (một cách đúng đắn) là sự thực tuyệt đối và duy nhất đối với chính nó về không-thời gian. Hiện thực là biểu hiện của thực tại cho nên sự va chạm đó trong hiện thực cũng chính là biến cố xảy ra thực sự trong thực tại khách quan ( dưới dạng tạm gọi là "sự tương tác giữa hai thực thể năng lượng"!) và vì thế, nếu không có sự "che khuất" (cả chủ quan lẫn khách quan) nào ngăn cản, và đồng thời nếu có thể loại trừ tất cả những sai lạc do chủ quan cảm giác và nhận thức (dù có nguyên nhân chủ quan hay khách quan) gây ra, thì trong mọi hiện thực đều phải thấy nó xảy ra theo cùng qui luật và tại cùng một thời điểm, sao cho kết quả cơ học của chúng, khi qui về hiện thực khách quan đích thực chung thì như nhau. Trong ví dụ trên, giả sử quan sát từ thuyền thứ ba thấy rằng hai thuyền kia tiến đến nhau với tổng giá trị tuyệt đối về tốc độ (tốc độ rút ngắn khoảng cách giữa hai con thuyền) lớn hơn tốc độ truyền sáng trong chân không (tốc độ cực đại trong Vũ Trụ). Trên cơ sở đó đoàn thủy thủ ở thuyền thứ ba, trong hiện thực khách quan riêng của họ, sẽ tính ra được một tổng giá trị tuyệt đối về động lượng của hai con thuyền, mà nếu đem so với kết quả xác định trong hiện thực khách quan đích thực (có mốc không-thời gian là ngọn hải đăng), thì như nhau. Trong khi đó, đoàn thủy thủ ở một trong hai con thuyền tham gia va chạm xác định tốc độ rút ngắn khoảng cách giữa hai con thuyền và tổng giá trị tuyệt đối về động lượng là bao nhiêu? Theo Anhxtanh, tốc độ đó chỉ có thể nhỏ hơn hoặc (xấp xỉ) bằng tốc độ truyền sáng. Vì thời điểm va chạm là sự thực khách quan mang tính bất biến trong mọi hiện thực (vì đã loại trừ sự nhiễu loạn thời gian của hiệu ứng xa-gần!), cho nên để tương đồng về thời gian với quan sát trong hiện thực của đoàn thủy thủ trên thuyền thứ ba, thì khoảng cách giữa hai con thuyền tham gia va chạm, trong hiện thực của đoàn thủy thủ ở một trong hai con thuyền này phải bị "co rút" ngắn lại một cách tương ứng theo "sự giảm" tốc độ. Mặt khác, trong hiện thực khách quan riêng của đoàn thủy thủ này, tổng khối lượng của hai con thuyền cũng phải được thấy khác đi sao cho giá trị động lượng "ở đó" khi qui về trong hiện thực khách quan đích thực chung thì phải bằng giá trị động lượng được xác định trong hiện thực khách quan riêng của đoàn thủy thủ trên thuyền thứ ba. Nhưng sự "co rút" và "biến đổi" làm sao lại tự nhiên xảy ra được khi khoảng cách và tổng khối lượng không hề chịu bất cứ tác động nào từ bên ngoài chúng? Chỉ có thể là do sự "lũng đoạn" của tính chủ quan trong hiện thực và do đó, sự "co rút" cũng như "biến đổi" nói trên cũng chỉ là hình thức (nhưng là thứ hình thức có tính khách quan tương đối nên "tự nhiên tồn tại" trong quá trình nhận thức, không thể loại trừ được!). Tương tự như thế, không thể tin được trong thực tại khách quan, tính bất biến và cực đại của tốc độ truyền sáng lại như một lực lượng tồn tại thực sự, tác động gây co-giãn không-thời gian được, cho nên phải suy ra rằng sự co-giãn không-thời gian ấy chỉ có thể "xảy ra" trong hiện thực và cũng chỉ là kết quả của cảm giác, mang tính "tất yếu hình thức". Vậy phải chăng cũng nên "nhốt" luôn thuyết tương đối hẹp của Anhxtanh vào vòng nghi vấn để nỗ lực nhận thức lại?...(Kính thưa Mác và Anhxtanh, thời tuổi trẻ, chúng tôi vì tin tưởng hầu như tuyệt đối vào nhận thức của quí vị nên cũng kính phục quí vị. Giờ đây, khi đã về già, coi như đã trải qua một đời chiêm nghiệm và gặp không ít "trục trặc" khi tìm cách giải thích những hiện tượng xảy ra trong hiện thực, trên cơ sở quan niệm tự nhiên-xã hội của quí vị, nên trong chúng tôi đã bắt đầu nảy sinh những hoài nghi. Dù niềm tin vào quí vị đã có những rạn nứt thì lòng kính phục của chúng tôi đối với quí vị vẫn nguyên vẹn như ngày nào. Trong thời đại của quí vị, phải là bậc thiên tài mới có được quan niệm về tự nhiên mang tầm vượt thời đại như thế. Chúng tôi, xét về trí tuệ, chỉ là lũ nhà quê có tầm học vấn...nông choẹt, nhưng lại có thuận lợi là "kẻ hậu sinh" trong tình thế "cờ ngoài, bài trong", vừa được quí vị dạy dỗ vừa thấy được nhiều điều mà quí vị không thể thấy vì bị...thời đại của quí vị che khuất! Sự đam mê tìm hiểu vì sao Vũ Trụ lại phải như thế này chứ không thể như thế khác, trong điều kiện khó khăn và thuận lợi đó đã dần hun đúc trong chúng tôi một nhận định rằng, đã là chân lý khách quan thì phải hiển hiện ở khắp nơi chứ không phải chỉ "trú ngụ" ở những nơi phức tạp và cao siêu trong triết-khoa mà đám "hạ tiện" chúng tôi không thể với tới được, và rằng chân lý là giản dị và phải giản dị mới là chân lý đích thực. Nhận định đó đã trở thành niềm tin sắt đá làm nhẹ bớt sự sợ hãi trong chúng tôi nên chúng tôi mới dám "tả xung hữu đột" và mạo muội nêu ra ý kiến "phản nghịch" (dù có thể sai bét nhè!) như vậy. Biết làm sao được?! Thành thật xin lỗi quí vị, và đồng thời cảm ơn Arixtốt bởi câu nói bất hủ: "Thầy đã quí, chân lý còn quí hơn" !!!...
     Đến đây, có lẽ chúng ta đã "thấm thía" cái quan niệm "nắm bắt" chân lý nhờ cảm giác trực giác thuần túy của Charvaka là như thế nào rồi. Nhưng đúng là chẳng cái dại nào giống cái dại nào, đúng là "tránh vỏ dưa gặp vỏ dừa"! Vì quá tò mò mà chúng ta tạm rời xa hiện tại-cuộc "ăn chơi" ở thế kỷ XXI, để "phi" về hiện thực thời cổ đại "nhòm ngang ngó ngửa", "bươi móc lung tung" cho thỏa chí tang bồng, nào ngờ những bí ẩn trong "đống tro tàn triết học" phát lộ ra, tỏa sức nóng hầm hập làm chúng ta...phát sốt đến độ "lảm nhảm hãnh tiến" và "hùng hục cắm đầu" cứ như nhà triết-vật (triết học kiêm vật lý học!) thứ thiệt, nên "vô tình" đã tự dựng lên một chướng ngại khổng lồ không thể có chướng ngại nào khổng lồ hơn trước mũi mình, "mở ra" nguy cơ nhãn tiền chấm dứt cuộc hành trình đi tìm cái gì đó của riêng mình. Nói toạc móng heo ra, chúng ta đã tự tạo ra tình huống thách thức, đối đầu với "cột sống" tri thức đương đại của loài người! Thế có "chết tiệt" không cơ chứ!...Làm sao vượt qua đây nếu không muốn quay về? Một lũ nhà quê lang thang lếch thếch, hở cơ là lại say mèm rồi mà đòi  qua "đỉnh olympia" (của Đài truyền hình Việt Nam!) sừng sững về sự bảo thủ đến...gàn rở, ngất ngưởng "mút mùa lệ thủy" về sự khinh mạn đến mức...ương ngạnh, bất chấp tất cả (!), thì thật là điều quái lạ của những điều quái lạ! Không, chúng ta không thể chinh phục theo cách "leo trèo" đó, vì muốn thế phải cần đủ bốn "chi", trong khi chúng ta chỉ có mỗi một "chi" để "nhảy lò cò" theo kiểu kenguru thôi! Cũng không thể theo cách "liều mình như chẳng có", chỉ tổ "nực cười châu chấu đá voi", "lấy trứng chọi đá" vô ích, hay "điên" hơn, theo kiểu "tráng sĩ ra đi đầu không mọc tóc" để rồi uổng mạng lãng nhách như...Kinh Kha! Đối với những kẻ kém mọn về trí tuệ, có vấn đề về tâm thần và yếu bóng vía như chúng ta mà muốn chinh phục được khối thành trì triết-toán-lý "chắc cú" thực chứng và "hùng hồn" suy lý gợi liên tưởng đến gã phì đại "vai u thịt bắp"...Himalaya, thì cách chinh phục "siêu" nhất là...đừng chinh phục gì cả, mà hãy len lỏi tìm lối "cưỡi ngựa xem hoa" vòng qua nó, bỏ nó lại phía sau, "tỉnh bơ" tiếp tục "lang thang" lên phía trước, cầu may có ngày diện kiến...Đấng Tạo Hóa, để hỏi "cho da nhẽ" tử huyệt hay "gót chân asin" của "ló"!...
     Nói nôm na, trong khi loài vật chỉ phải (và chỉ biết!) đấu tranh sinh tồn trong môi trường thiên nhiên đơn thuần, thì có thể coi loài người cùng lúc phải đấu tranh sinh tồn trong cả hai môi trường tự nhiên và xã hội, hay nói cách khác, con người phải tham gia cuộc đấu tranh sinh tồn tổng hợp trên hai "mặt trận" là môi trường thiên nhiên và môi trường xã hội. Thuở đầu tiên trong tiến trình hình thành và tồn tại xã hội, khi mối quan hệ gắn kết, vận động phụ thuộc lẫn nhau giữa các thành phần, các bộ phận nhân sinh hợp thành nội tại xã hội còn hời hợt, "lỏng lẻo", hoặc ''chỉ có'' tác động thuận, thì sự đấu tranh sinh tồn của con người trong môi trường xã hội cũng thể hiện nhạt nhòa, thiếu hẳn tính cạnh tranh, và hoạt động mưu sinh chính yếu vẫn là đấu tranh sinh tồn trong môi trường thiên nhiên. Quá trình vận động đi lên có tính xoay vần tự nhiên với các trạng thái thịnh-suy (trong mối so sánh tương đối với nhau) kế tiếp nhau, vừa (có lúc) là kết quả vừa (có lúc) là nguyên nhân của sự tồn tại tiến trình tinh tế hóa, sâu sắc hóa cảm giác hơn nữa ở con người, làm xuất hiện và duy trì hầu như thường xuyên trạng thái cảm giác cao độ gọi là tình cảm (như yêu-ghét, hạnh phúc-khổ đau, chê khinh-tôn vinh,...), coi như chỉ ở loài người mới có, nhất là khi đã xuất hiện sự tiêu dùng phi thực phẩm như một nhu cầu không thể thiếu trong xã hội, cũng như sự sản xuất, trao đổi và mua bán hàng hóa đã trở thành những ''nơi chốn'' mưu sinh thực sự của con người, đã làm cho cuộc đấu tranh sinh tồn trong môi trường xã hội dần trở nên nổi trội, thể hiện lấn át trong toàn cảnh mưu sinh của con người, và ngày nay như chúng ta cảm thấy, đấu tranh sinh tồn trong môi trường xã hội đã như một phương thức phổ quát và cơ bản trong việc duy trì cuộc sống ở mỗi con người nói riêng và đối với cả loài người nói chung, dù rằng trong sâu thẳm của thực tế, đấu tranh sinh tồn giữa loài người với thiên nhiên vẫn "âm thầm'' đóng vai trò nền tảng, cốt lõi,  giềng mối...
     Cùng trong một hiện thực khách quan, cùng bất mãn đối với hiện thực khách quan ấy, nhưng do có "khuôn khổ" hoàn cảnh và điều kiện sống tương đối khác nhau, nên nảy sinh ra hai cảm giác-nhận thức tương đối khác nhau, từ đó mà cũng xuất hiện hai mơ ước cụ thể, hai phản ứng về ''kiếp trần'', về ''quyền sống cơ bản'' tương đối khác nhau, tương phản nhau trước thời cuộc, dẫn đến hai thái độ, hai chủ trương sống đều có tính cực đoan nhưng ngược nhau. Trong khi chủ nghĩa duy vật-thực dụng Charvaka chủ trương: mục đích duy nhất của cuộc sống là hướng tới lạc thú trần tục cho nên hãy tận hưởng mọi niềm vui sướng ''trước mắt'' một khi có cơ hội, thì Kỳ Na Giáo chủ trương: tham sống là mù quáng, sát sinh và hưởng lạc là tội lỗi, hạnh phúc thực sự là sự giải thoát khỏi mọi cám dỗ, mê lầm nơi cõi thế, và chỉ có thể đạt được sau khi chết. Qua đó mà thấy, nếu Charvaka "kêu gọi" con người quay về lối sống thuần túy vật chất, phồn thực hồn nhiên, đáp ứng bản tính sinh vật (sự ham muốn) vốn có, do đó mà có vẻ dễ dãi tầm thường, tha hóa, ''vui đâu chầu đấy'', ích kỷ, thì Kỳ Na Giáo "kêu gọi" con người hướng tới lối sống thuần túy tinh thần, tiết thực khiên cưỡng, triệt tiêu bản tính sinh vật vốn có, do đó lại có vẻ khắc kỷ phi phàm, thánh hóa, vô cảm. Đến thời Ấn Độ cổ đại của những Charvaka hay Kỳ Na Giáo, tâm tư tình cảm trong đại chúng nhân quần nói chung đã tiềm ẩn những ý nghĩ hun đúc nên chuẩn mực khách quan lẫn chủ quan về đạo đức (sự ứng xử hữu tình, hay, đẹp!) trong quá trình mưu sinh giữa môi trường xã hội. Theo chuẩn mực đạo đức đó, con người ta sống đâu phải chỉ đơn giản là hưởng thụ vật chất một cách tầm thường, tha hóa, bất chấp, ''chỉ biết mình'' như con vật, mà phải còn có cái tình cao cả (tình người, nhân hậu!) đối với đồng loại nữa, nhưng đến mức phải hy sinh tất cả cuộc sống của riêng mình, trái ngược với chính đòi hỏi tự nhiên của sự sống một cách quá quắt, quá ư hà khắc thì cũng thật...vô cùng khó khăn. Nghĩa là hai chủ trương về lối sống đó đều ''vi phạm'' ước vọng và tình cảm hồn nhiên, trong sáng của kiếp đời con người bình dị. Vì thế, cả hai chủ trương đó về lối sống của con người đều đã tỏ ra có phần không phù hợp với yêu cầu của văn hóa đại chúng dân gian Ấn Độ ngay từ thời kỳ đó, đòi hỏi cần có một chủ trương sống trung dung, bình giản, hợp lý hợp tình hơn, như nhiên hơn, mà cũng thanh thoát hơn, cao khiết hơn...Đó chính là yếu tố quan trọng hợp thành nguyên nhân cơ bản của sự ra đời luân lý Phật Giáo.
      Theo truyền thuyết thì Đức Phật Thích Ca...Ô hô, mà...thôi!....Thông cảm nhé, anh em!...Con tàu vượt thời gian kia rồi!...Dù còn rất xa, dù hình thù con tàu vẫn khuất tất, thì ánh sáng ''hiện đại'' chói lói, phản chiếu từ thân con tàu trong buổi sáng thu cổ đại đang vào trưa, làm cho con tàu như đã lồ lộ trước ''thanh thiên bạch nhật''...Vào thời đoạn mịt mùng trong binh đao rối loạn này mà hớ hênh thế thì thật nguy hiểm quá!...Vì vậy và cũng vì sự sốt ruột bấy lâu bỗng dưng bùng phát không kìm lòng được, chúng ta vội chạy như ''ma đuổi'' về phía (chắc như bắp là!!!) con tàu đang đậu...
      Sau này, cứ nghĩ đến khuôn mặt nhăn nhó cùng với điệu bộ hối thúc, múa may loạn xạ của ông trưởng tàu, chúng ta lại bật cười khùng khục!...

***
(Hết chương IX)

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

TT&HĐ I - 9/d

MUÔN MẶT ĐỜI THƯỜNG III/104

MỌC CÁNH