THỰC TẠI VÀ HOANG ĐƯỜNG (III)
ĐẠI CHÚNG
----------------------------------------
PHẦN III
Nguồn cội
“Đừng
chê cõi trần nhơ
Đừng khen cõi trần đẹp
Cõi trần là thản nhiên
Chỉ có đời nhơ, đẹp
Trần Hạnh Thu
CHƯƠNG X: TỘI
ÁC
“Với việc thiết lập bạo lực và giết nhau
trong loài của mình, con người tự đặt nó xuống dưới con thú.”
André Bourguignon
(tiếp theo)
Việc Groves quyết
định bổ nhiệm Oppi vào vị trí giám đốc trung tâm thí nghiệm Los
Alamos, lúc đầu đã bị nhiều chỉ trích. Ông này nhớ lại: “Người ta
trách móc tôi rằng chỉ có người được giải Nôben, hoặc ít ra cũng phải là người
khá đứng tuổi mới có thể đứng ở vị trí như thế được. Nhưng tôi đã chọn
Oppenheimer, và thành công của ông đã chứng tỏ rằng tôi đã đúng. Không ai có thể
làm nổi cái mà ông đã làm”.
Sau một thời
gian ngắn, trên con đường đời định mệnh của mình, “cha đẻ bom nguyên tử” đã leo
lên đỉnh cao của danh vọng và quyền lực. Nhưng ít ai biết, để đạt được như vậy,
Oppi đã phải tự làm vẩn đục tâm hồn mình trước thói nghi kỵ và chống Cộng của cơ
quan phản gián Mỹ. Lời nhận xét của một nhân viên tình báo Mỹ tên là Peer de
Silva vào tháng 9-1943 cho thấy ông bị bắt thóp: “Có thể cho rằng Oppenheimer
quan tâm sâu sắc đến việc trở thành nhà bác học nổi tiếng thế giới, và chiếm lĩnh
được vị trí của mình trong lịch sử do đã thực hiện được đề án. Cũng có khả năng
Bộ chiến tranh có thể cho phép ông thực hiện điều đó nhưng cũng có thể thanh toán
tên tuổi, danh tiếng và sự nghiệp của ông nếu thấy cần làm thế. Nếu cho ông ta
nhận thức được triển vọng đó một cách đủ rõ ràng, nó sẽ bắt ông phải nhìn bằng
một con mắt khác quan hệ của ông với Bộ chiến tranh”.
Các nhà bác học
cao siêu cũng chẳng thoát được vòng thèm khát danh lợi! Sự tán tận lương tâm không
phải chỉ có ở những kẻ thấp hèn!
Vào mùa thu năm
1943, Bộ chỉ huy tối cao quân lực Mỹ đã thành lập một cơ quan đặc biệt với mật
danh là “Alsos”, theo chân lực lượng đổ bộ vào châu Âu với nhiệm vụ thu lượm
tin tức và chứng cứ về thực trạng nghiên cứu vũ khí nguyên tử của nước Đức Quốc
Xã. Trong đó có nhà vật lý học thực nghiệm nổi tiếng người Đan Mạch, người đã từng
thực hiện được một trong những khám phá quan trọng bậc nhất của vật lý học hiện
đại: hiện tượng tồn tại Spin ở điện tử. Ông tên là Goudsmit được các đồng nghiệp
gọi thân mật là “chú Sam”. Sau một thời gian nghiên cứu các tài liệu tịch thu được
và hỏi cung các nhân chứng, Goudsmit đi đến kết luận: “… tôi cho rằng đề án của
Đức không đáng để cho thậm chí chỉ một người lính của chúng ta bị trẹo khớp mắt
cá chân”.
Không lâu sau đó,
trong khi dạo chơi với một thiếu tá Mỹ, Goudsmit có nói: “Bọn Đức không có bom
nguyên tử, thế có tuyệt không chứ? Bây giờ có thể không cần dùng đến bom nguyên
tử của ta nữa”. Ông đã phải kinh ngạc trước câu đáp của viên thiếu tá: “Ông
Sam, tất nhiên ông hiểu được rằng nếu chúng ta có vũ khí đó, thì chúng ta phải
sử dụng nó”.
Goudsmit đâu biết
nổi đó là một lời tiên tri!
Những báo cáo của
“Alsos” về việc Đức Quốc Xã không có vũ khí nguyên tử, hơn nữa trình độ nghiên cứu
vũ khí nguyên tử của Đức lạc hậu hơn 2 năm so với Đồng Minh, dù là bảo mật, vẫn
lan truyền trong các phòng thí nghiệm Đồng Minh và được bàn luận sôi nổi ở đó.
Nhưng rồi phát
xít Ý và phát xít Đức đều lần lượt bị tiêu diệt. Chỉ còn lại phát xít Nhật mà người
ta biết chính xác không có khả năng chế tạo vũ khí nguyên tử.
Vậy thì biện hộ
thế nào nếu vẫn tiếp tục nghiên cứu chế tạo vũ khí nguyên tử? Người ta đã tìm
ra động cơ để xúc tiến, đại khái là thế này: “Nếu như chúng ta không làm ra loại
vũ khí này, và không chỉ ra cho thế giới thấy được tính năng khủng khiếp của nó,
dù chỉ bằng những cuộc thí nghiệm công khai thôi, thì sớm muộn gì một cường quốc
thiếu thận trọng nào đó sẽ lẳng lặng sản xuất ra nó trong điều kiện hoàn toàn bí
mật. Vì sự nghiệp hòa bình trên thế giới thì tốt hơn hết, nhân loại ít nhất phải
biết rõ mình đang đứng ở đâu”. Đó cũng là nội dung lời phát biểu của Niels Bohr
trong một cuộc bàn bạc mật. Và ông cũng nói tiếp một cách ngây thơ: “Nhân loại
cần đến nguồn năng lượng mới mà chúng ta đã phát minh và nghiên cứu. Chúng ta
phải chăm lo sao cho trong tương lai, nó được sử dụng nhằm mục đích hòa bình,
chứ không phải là phá hoại”.
Tuy nhiên, một
số nhà vật lý nguyên tử đã bắt đầu cảm thấy được tầm nghiêm trọng của vấn đề.
Bohr là người đã trực tiếp lần lượt gặp tổng thống Rudơven (Roosevelt) của Mỹ và
thủ tướng Sơớcsin (Churchill) để bàn luận vấn đề này nhưng hình như chẳng đạt kết
quả gì. Người ta kể lại rằng Sơớcsin đã bất chợt đứng lên cắt đứt cuộc tiếp kiến,
quay sang cố vấn khoa học của ông ta, huân tước Charwell, lắc đầu hỏi: “Thế ông
ta nói cái gì đó? Nói về chính trị hay về vật lý?”.
Về phần mình, tướng
Groves không mảy may nghi ngờ việc phải sử dụng bom nguyên tử trong cuộc chiến
tranh này. Đầu năm 1945, khi đã tin chắc rằng trong vòng vài tháng nữa sẽ chế tạo
xong bom, thủ trưởng của Đề án Manhattan
đã báo cáo lên người chỉ huy trực tiếp ông là tướng George Marshall, trưởng ban
tham mưu. Groves
phát biểu rằng đã đến lúc cần xây dựng chi tiết kế hoạch sử dụng bom trong chiến
tranh và cần giao cho một số sĩ quan cao cấp nghiên cứu sơ bộ vấn đề này. Bởi động
cơ đó cho nên kể cả sau khi phát xít Đức đã đầu hàng, Groves vẫn tiếp tục hối thúc các đồng sự một
cách thường xuyên: “Chúng ta không được bỏ phí một ngày nào cả”.
Mùa xuân năm
1945, nhóm khảo sát, chọn mục tiêu cho lần đầu sử dụng bom nguyên tử của Đề án Manhattan (mà đa số là các
nhà bác học, trong đó có cả Oppi) đã đi đến kết luận trong một bản báo cáo đánh
máy, đại ý là:
- Theo tính toán
thì bom nguyên tử sẽ gây ra sự phá hoại lớn nhất cho đợt sóng xung kích ban đầu
lan rộng trong một diện tích có bán kính đến 1,5 km, và sự phá hoại tiếp sau là
do tác dụng của lửa. Do đó đối tượng được chọn phải là một khu vực có kích thước
ít ra cũng bằng khoảng chừng như vậy mà trên đó có dày đặc các công trình kiến
trúc bê tông cốt sắt và trước đó chưa bị oanh tạc để thấy được rõ rệt hiệu quả
tàn phá của chỉ một quả bom thôi.
- Đối tượng được
chọn phải mang ý nghĩa quân sự ở tầm chiến lược.
Bản báo cáo đã
dẫn đến một quyết định lạnh lùng đến gai người: sự oanh tạc của không lực Mỹ trên
đất Nhật phải “chừa ra” không được “chạm đến” 4 thành phố đã được chọn là Hirosima,
Kokura, Niigata và thành phố cổ kính thiêng liêng đối với dân chúng Nhật là
Kyoto. Khi nghe được tin này, chuyên gia về Nhật Bản là giáo sư Edwin O.
Reishower đã ứa nước mắt. Mac Cormac, một luật sư người New
York về sau đã thuyết phục được Bộ trưởng chiến tranh Steamson xóa
tên Kyoto trong
cái danh sách ghê hồn đó.
Cũng trong mùa
xuân năm 1945, một số phi công ở sân bay Wendover, bang Utah đã luyện tập để chuẩn bị cho cuộc không
kích đầu tiên bằng bom nguyên tử.
Szillard (có
nghĩa là cứng, rắn), nhân vật mà trước kia đã nỗ lực và có sáng kiến “hay ho” sớm
làm cho việc nghiên cứu chế tạo vũ khí nguyên tử nhanh chóng được triển khai, lúc
này, lại hành động với những cố gắng cuối cùng nhằm đảo ngược tình thế. Một thời
gian sau, Szillard đã nói như một lời tâm sự: “Vào năm 1943 và một phần năm
1944, mối lo chủ yếu của chúng tôi là sợ rằng Đức sẽ chế tạo được bom nguyên tử
trước khi chúng ta tiến quân vào châu Âu… Năm 1945, khi chúng tôi hết lo lắng về
cái mà người Đức có thể làm đối với chúng ta thì chúng tôi lại bắt đầu lo lắng
về cái mà chính phủ Mỹ có thể làm đối với các nước khác”.
Sau khoảng 5 năm
kể từ lần xin chữ ký của Anhxtanh để thuyết phục chính phủ Mỹ chế tạo bom nguyên
tử, giờ đây Szillard lại tìm đến Anhxtanh giải thích về tình hình thế giới đã đổi
khác để đề nghị Anhxtanh thảo một bức thư gởi tới Tổng thống Rudơven cùng với bị
vong lục của Szillard. Trong bị vong lục tỉ mỉ của Szillard, có tường trình đại
ý rằng bất kỳ một ưu thế quân sự ngắn ngủi và nhất thời nào mà bom nguyên tử có
thể tạo ra cho Mỹ đều có thể nhanh chóng bị thủ tiêu bởi một sự thua thiệt nghiêm
trọng về chính trị và quân sự tiếp theo sau. Bộ tài liệu này đã được đặt lên bàn
làm việc của Tổng thống. Tuy nhiên Rudơven chưa kịp đọc đến thì ngày 12-4-1945,
ông đã đột ngột từ trần.
Harry S. Truman
lên làm tổng thống Mỹ. Vào ngày 25-4-1945, vị tổng thống mới đã được Steamson
thông báo đầy đủ kế hoạch tuyệt mật về ném bom nguyên tử. Thời gian lúc này là
rất quí báu đối với Szillard. Ông đã khẩn trương nhờ một cộng tác viên khoa học
của mình ở Chicago
có quen biết với thư ký của Truman, tên là Matt Connelly, tác động vào người này
để xin được trực tiếp tiếp kiến. Có lẽ do quá bận bịu công việc trong những ngày
đầu với vai trò tổng thống mà Truman đã không có thời giờ nói chuyện riêng với
Szillard. Vì vậy, Connelly giới thiệu nhà bác học đến gặp James F. Bearns, một
nhà hoạt động chính trị đang thành đạt và có thế lực của đảng Cộng Hòa, là thẩm
phán của Tòa án tối cao (năm 1944 đứng đầu Cục động viên quân sự). Trước vị thẩm
phán đang thăng hoa trên bước đường công danh, Szillard đã trình bày những điều
ghi trong bị vong lục của mình. Nội dung trình bày của Szillard toát lên những
gì đó xa xôi, lạ lẫm, chưa từng nghe thấy, chẳng hạn như việc cho rằng cần phải
từ bỏ một phần chủ quyền quốc gia để cho các cơ quan kiểm soát của Liên Xô có mặt
trên lãnh thổ Mỹ, và các cơ quan kiểm soát của Mỹ có mặt trên lãnh thổ Liên Xô;
sự kiểm tra quốc tế đối với việc sản xuất urani và năng lượng nguyên tử… Đối với
vị thẩm phán thì những ý nghĩ loại đó là không thực tế, có vẻ ngông cuồng, thậm
chí là loạn thần kinh. Chẳng mấy chốc mà nhà vật lý học đã hiểu ra rằng những lý
lẽ của ông không được vị thẩm phán tán thành, khi ông này, với thái độ lịch sự
có thừa của một nhà chính trị, nói: “Ông có lo lắng quá nhiều đến những cái chẳng
có gì thật cần lo lắm không? Theo chỗ tôi biết thì ở nước Nga hoàn toàn không có
tí urani nào cả”. Vài tuần lễ sau Bearns
được tổng thống Truman cử làm Quốc vụ khanh của nước Mỹ.
Dù sao thì một
tổ chức có tên “Ủy ban lâm thời” để xem xét về vấn đề - nói theo bản chỉ thị của
Marshall - “năng
lượng nguyên tử không những theo khía cạnh chiến tranh mà cả theo khía cạnh quan
hệ mới của con người với Vũ Trụ”. Nhìn vào thành phần của Ủy ban, những nhà bác
học đang lo lắng việc bom nguyên tử sẽ được đưa ra sử dụng, đã không bớt đi được
sự lo lắng đó một chút nào. Trong ủy ban có 5 nhà hoạt động chính trị nổi tiếng
là Bộ trưởng chiến tranh Steamson, phó của ông ta là (thứ trưởng) Harrison, đại
diện riêng của tổng thống là Bearns, đại diện hải quân Berd và người của Quốc vụ
viện là Cleiton; có 3 nhà bác học đứng đầu một cơ quan đặc biệt tiến hành những
nghiên cứu có mục đích quân sự từ năm 1940: Bush, Carl. T. Compton và Conent; các
chuyên gia nguyên tử đóng vai trò như “bác học đầu ngành”: Oppenheimer, Fermi,
Arthur. H. Compton. Chính Arthur H. Compton nhớ lại rằng vấn đề được đặt ra trước
nhóm bác học này, trong đó có bản thân ông, không phải là có nên chăng sử dụng
bom nguyên tử, mà là sử dụng bom nguyên tử như thế nào. Có một người không có tên
trong danh sách các thành viên của Ủy ban, nhưng cũng gây được những ảnh hưởng
nhất định, người đó có cái tên mà chúng ta rất quen: Lesley R. Groves. Ông này đã
nói thẳng thừng: “Nếu như tôi chính thức tham gia vào ủy ban mà thành phần là
những nhân vật dân sự thì thật là không tiện. Nhưng tôi đã có mặt trong tất cả
các cuộc họp của Ủy ban, và bao giờ tôi cũng coi nhiệm vụ của mình là phải khuyến
nghị việc sử dụng bom nguyên tử. Suy đến cùng thì vào lúc đó, nhiều thanh niên
của chúng ta hàng ngày bỏ mình trong những trận đánh với quân Nhật. Theo chỗ tôi
biết, trong số các nhà bác học lên tiếng chống lại việc sử dụng bom nguyên tử,
chẳng ai có người thân thích trên các chiến trường. Vì vậy, họ hoàn toàn có thể
cho phép mình tỏ ra độ lượng”.
Kết quả các buổi
họp của Ủy ban lâm thời đã là thắng lợi hoàn toàn đối với Groves. Trong bản kết
luận gửi lên tổng thống Truman, có những khuyến nghị sau:
1-
Phải sử dụng bom nguyên tử để chống Nhật càng sớm
càng tốt.
2-
Cần dùng bom nguyên tử đánh vào đối tượng quân sự
thuần túy hoặc nhà máy quân sự có tầm quan trọng lớn.
3-
Phải ném bom mà không cảnh báo trước.
Những khuyến
nghị đó được giữ tuyệt mật, song vẫn lọt ra ngoài, tới Chicago, Ocridge, Los
Alamos, nơi mà các nhà bác học, đặc biệt là giới trẻ, càng ngày càng công khai đứng
lên chống việc sử dụng bom nguyên tử. Trường đại học Chicago đã lập ra một hội đồng để xem xét và
bàn bạc về “những vấn đề xã hội và chính trị có liên quan đến năng lượng nguyên
tử”. Đứng đầu hội đồng là James Franck, người được giải thưởng Nôben, nguyên là
giáo sư ở Gottingen.
Ngoài Franck ra, Szillard và nhà sinh hóa học Rabinovich đã đề xuất nhiều đề
nghị nhất để đưa vào bản bị vong lục của hội đồng. Về sau này, bản bị vong lục đó
được gọi là “Bản báo cáo của Franck”.
Ngày 11-6-1945,
báo cáo của các nhà bác học Chicago
được gởi tới Bộ trưởng chiến tranh, như một điều trần nhằm khuyến cáo không nên
sử dụng bom nguyên tử đánh Nhật. Trong đó, có đoạn viết: “Như vậy, ưu thế quân
sự đạt được bằng cách dùng bom nguyên tử bất thần tấn công Nhật sẽ bị thủ tiêu
do sự mất lòng tin về sau này. Làn sóng sợ hãi và kinh tởm sẽ bao trùm thế giới
chắc hẳn sẽ phân chia dư luận xã hội trong nước”.
“Báo cáo của
Franck” cũng đã đề nghị thay thế việc ném bom nguyên tử xuống Nhật như đã hoạch
định bằng việc biểu diễn sức mạnh của vũ khí mới trước tất cả các đại biểu của
Liên Hiệp Quốc trong một hoang mạc, hoặc trên một hòn đảo không có người ở. Sẽ
tạo được bầu không khí tốt đẹp nhất để đạt tới một sự thỏa thuận quốc tế nếu như
nước Mỹ có thể nói với thế giới: “Các bạn thấy đấy, chúng tôi có thứ vũ khí như
thế nào, nhưng chúng tôi không sử dụng nó. Chúng tôi sẵn sàng từ bỏ, không sử dụng
nó cả trong tương lai nữa, nếu như các nước khác đồng ý với chúng tôi và tán thành
lập ra một sự kiểm soát quốc tế có hiệu quả”.
Uy tín của các
nhà bác học Chicago
đã khiến Steamson gửi ngay bản “Báo cáo của Franck” cho Ủy ban lâm thời. Ủy ban
này nhóm họp lần thứ hai ở Los Alamos vào ngày
16-6-1945 (nhóm họp lần thứ nhất vào ngày 31-5-1945). Oppi kể lại: “Người ta yêu
cầu chúng tôi phát biểu ý kiến về vấn đề có nên sử dụng bom nguyên tử không.
Nguyên cớ là có bản điều trần của các nhà khoa học nổi tiếng và có uy tín, họ đã
đi đến kết luận là không nên sử dụng bom nguyên tử. Đối với tất cả chúng tôi,
giá họ đừng làm như thế thì tốt hơn. Chúng tôi không biết về tình hình quân sự
của Nhật, và vì vậy không biết được có thể bắt Nhật đầu hàng bằng những phương
tiện nào khác không. Nhưng trong tiềm thức, chúng tôi cảm thấy rằng việc sử dụng
bom nguyên tử là không thể tránh được… Dù sao thì việc sử dụng bom nguyển tử là
có thể chấm dứt chiến tranh và có ảnh hưởng đến sự ổn định của thế giới sau chiến
tranh. Chúng tôi cũng đã tuyên bố rằng việc cho nổ một quả bom như vậy trên
hoang mạc chắc gì đã gây ra được một ấn tượng lớn”.
Thế là ước mơ
ngăn chặn việc ném bom nguyên tử xuống đất Nhật đã tan biến.
Ngày 12 và
13-7-1945, những bộ phận cấu thành của cơ cấu nổ bên trong quả bom thí nghiệm được
mang ra khỏi Los Alamos theo “cổng hậu”, đưa đến khu thử nghiệm mang tên “Miền
chết” (Jornada del Muerto), ở gần làng “Tối tăm” (Oscuro). Tại đây, giữa hoang
mạc, một cơ cấu thép được dựng lên để đặt quả bom trên đó. Vì ở đấy thường có
những cơn giông mạnh nên người ta quyết định sẽ đợi đến tận lúc cuối cùng mới đặt
quả bom lên. Để kiểm tra lại mọi điều kiện, ít lâu trước khi thử quả bom nguyên
tử, người ta đặt lên cơ cấu đó một quả bom có kích thước gần như thế nhưng bên
trong nhồi bằng chất nổ thông thường. Trong một cơn giông, sét đã đánh trúng nó.
Quả bom đã nổ với một tiếng rền vang thật đáng sợ.
Quả bom thử
nghiệm được quyết định cho nổ vào 5 giờ 30 phút. Vào 5 giờ 10 phút, người phó của
Oppi là nhà vật lý nguyên tử S. C. Allison, một trong 20 người có mặt tại trạm
quan sát, bắt đầu phát tín hiệu báo giờ. Mọi người phải nằm sấp và đeo kính bảo
vệ để tránh bị mù.
Thuở hồng hoang,
khi lần đầu tiên con người nguyên thủy tự nhóm lên ngọn lửa từ sự sáng tạo của
mình, họ đã hân hoan biết chừng nào và vì nhận thức còn thấp kém mà vô tình không
thấy được mặt trái tai hại của ngọn lửa. Đến giữa thế kỷ XX, sau một quá trình
không ngừng nhận thức và sáng tạo ngày càng cao siêu và ngày một tài tình, con
người đã biết thắp nên một ngọn lửa vĩ đại hơn nhiều: ngọn lửa nguyên tử. Điều
dị thường là lần này họ cũng hân hoan không kém dù đã thấy trước mặt trái hủy
diệt khủng khiếp của ngọn lửa nguyên tử, còn mặt phải thì chưa biết thế nào. Nền
văn minh đã làm cho sự điên rồ hết thuốc chữa rồi chăng?...
Không một ai trông
thấy những tia lửa đầu tiên của ngọn lửa nguyên tử. Tất cả chỉ là đột ngột bừng
lên một ánh sáng trắng xóa, chói lòa, phản chiếu từ bầu trời và từ các quả đồi
tới. Những người sau đó đánh liều quay đầu lại đã nhìn thấy một quả cầu lửa sáng
chói càng ngày càng lớn mãi lên. Karson Mark, một trong những thành viên xuất sắc
nhất của Ban lý thuyết cảm giác rằng quả cầu lửa sẽ không ngừng lớn lên, cho tới
khi nó choáng hết bầu trời, dù ý thức mách bảo rằng điều đó không thể xảy ra. Vào
lúc này, mọi người đều quên mất những công việc phải làm theo dự định. Groves viết: “Một vài người
bị nỗi kích động xâm chiếm đã nhảy ra khỏi ô tô mà quên không đeo mặt nạ. Sau 2
hay 3 giây, họ bị mù và mất đi khả năng nhìn thấy quang cảnh mà họ đã chờ đợi
suốt 3 năm”.
Nỗi bàng hoàng
trước vụ nổ mãnh liệt đã bao trùm khắp mọi người. Oppi dán mình vào một chiếc cột
chống trong căn phòng của trạm quan sát. Trong trí nhớ của ông bỗng hiện lên một
đoạn trong thiên sử thi Bhagabad Gita của Ấn Độ cổ đại:
“Với sức mạnh bất
tử và khủng khiếp
Bầu trời sẽ chói
lọi trên cõi trần
Nếu như ngàn ánh
Mặt trời
Đồng thời lóe lên
trên đó…”
Tướng Farell diễn
tả: “Tất cả khu vực đều được chiếu rọi bằng một thứ ánh sáng chói chang, cường độ
của nó lớn gấp nhiều lần cường độ Mặt trời giữa trưa… Ba mươi giây sau vụ nổ, cơn
gió mạnh đầu tiên đập vào mọi người và mọi vật. Kèm theo nó là tiếng gầm rú kéo
dài khiến người ta kinh hoàng nghĩ đến Ngày xử án cuối cùng. Chúng tôi tự cảm
thấy mình là sinh vật nhỏ mọn đã dám cả gan báng bổ Chúa mà động vào những sức
mạnh cho tới nay chưa từng ai động đến. Ngôn ngữ là một phương tiện quá không hoàn
chỉnh để diễn đạt tất cả những gì mà chúng tôi cảm xúc vào lúc đó”.
Có lẽ tướng
Groves là người đầu tiên tự chủ lại được. Khi một nhà bác học nhảy bổ đến chỗ ông,
suýt nữa thì phát khóc, nói rằng vụ nổ đã tiêu hủy hết cả dụng cụ quan sát và đo
đạc của mình, thì Groves đã động viên: “Thế là tuyệt! Nếu dụng cụ đã không đứng
vững được thì nghĩa là sức nổ khá mạnh và đó chính là cái mà chúng ta muốn biết”.
Rồi ông nói với tướng Farell: “Chiến tranh phải chấm dứt! Chỉ một hay hai của cái
này là bọn Nhật đi đời”.
Những người ở gần
khu vực thử nghiệm trong phạm vi 200 km đã trông thấy một chớp sáng chói lọi khác
thường trên trời.
Vài ngày sau,
tin tức về cuộc thử bom thành công đã lan tới mọi phòng thí nghiệm của Đề án Manhattan. Một lần nữa, cuộc
vận động chống sử dụng bom nguyên tử và sử dụng nó để đánh Nhật của các nhà bác
học tiến bộ Mỹ lại nổi lên như một phong trào. Trong đó có việc Szillard cố gắng
đi thu thập chữ ký càng nhiều càng tốt của các nhân viên Đề án Manhattan để phản đối.
Song tất cả, vì nguyên nhân này hay nguyên nhân khác, đã hoàn toàn thất bại.
Ngay từ tháng
5-1945, người Mỹ đã sống với những ấn tượng sâu sắc của những thông báo về những
trận đánh quá ư đẫm máu trên đảo Okinawa. Chỉ
riêng trên đảo này, quân Mỹ chết và bị thương nhiều hơn suốt toàn bộ chiến dịch
đánh chiếm Philippines.
Tình hình đó khiến người Mỹ lo sợ rằng nếu tiến quân vào chính nước Nhật thì số
thương vong sẽ còn tăng cao đến mức nào nữa. Một tình thế được đặt ra là hoặc
thả bom nguyên tử, hoặc để cho chiến tranh kéo dài vô hạn định.
Như bây giờ người
ta đã biết, tình thế đó được đặt ra không phải là một phản ánh đúng thực tại mà
chỉ là do ý chí của một ai đó rất muốn “xài” bom nguyên tử. Cơ quan tình báo của
bộ binh và hải quân Mỹ vào lúc đó đã cùng tin chắc như nhau rằng sự sụp đổ của
phát xít Nhật chỉ còn là vấn đề của vài tuần lễ nữa mà thôi. Alfred Mac Cormac,
chỉ huy cơ quan tình báo Mỹ trên chiến trường Thái Bình Dương đã nhớ lại: “Chúng
ta nắm vững quyền kiểm soát trên không ở Nhật đến mức là đối với từng con tàu,
chúng ta hoàn toàn biết được nó đã rời cảng nào và vào lúc nào để đi ra biển.
Nhật đã sử dụng hết dự trữ lương thực, và dự trữ nhiên liệu trên thực tế cũng đã
cạn. Chúng ta bắt đầu một chiến dịch bí mật thả mìn xuống tất cả các vịnh và các
bến cảng của họ, điều đó tăng thêm không ngừng sự cô lập của họ đối với thế giới
bên ngoài. Nếu như chúng ta đưa chiến dịch này đến sự hoàn tất lôgic của nó thì
việc phá hủy các thành phố Nhật Bản bằng bom cháy và các loại bom khác sẽ là hoàn
toàn không cần thiết”.
Nhà sử học Mỹ là
Robert J. S. Batow, nghiên cứu những sự kiện xảy ra trước lúc Nhật sụp đổ còn
cho rằng vào lúc đó có thể chấm dứt chiến tranh một cách nhanh chóng bằng con đường
ngoại giao.
Thế thì vì sao
Mỹ vẫn cố tình ném cho được hai quả bom xuống hai thành phố của Nhật, giết chết
trong nháy mắt ngót 450 ngàn người dân vô tội, chưa kể một số lượng người không
ít chết “chậm”, từ từ, lần lượt đến mãi sau này, thậm chí là ở thế hệ kế tiếp
do bị nhiễm bức xạ và di họa để lại của nó?
Phải chăng một
trong những nguyên nhân làm cho mặt trái của nhân tính thắng thế áp đảo mặt phải
của nó là sự lo sợ rằng nếu không thả được bom nguyên tử xuống nước Nhật (mà lúc
đó chỉ còn “chỗ đó” là thả được chứ còn thả chỗ nào nữa?) thì toàn bộ Đề án
Manhattan sau khi đã ngốn hết gần 2 tỷ đôla bỗng trở nên “vớ vẩn” để rồi thay
cho lời ca ngợi, sự vinh quang là lời chế giễu và trách cứ?
Phải chăng đây
cũng là nguyên nhân: thói huênh hoang thường thấy ở một đế quốc muốn biểu dương
sức mạnh của mình trước thế giới, trong đó có Cộng Sản, kẻ mà nó căm ghét từ lâu?
Hay là đây nữa:
trong hồi ký của mình, Tổng thống Truman viết rằng lời “đồng ý” của ông đã giải
quyết sự tranh cãi về việc ném bom nguyên tử. (Nhưng sao phải hủy diệt hai thành
phố Nhật để giải quyết sự tranh cãi bằng mồm ấy?). Tướng Groves đã nhận xét:
“Truman đã chẳng làm gì bao nhiêu khi ông nói “đồng ý!”. Vào lúc đó, phải có lòng
dũng cảm lớn lắm mới nói ra chữ “không” được”. (Vì sao lại quái lạ như thế?).
Trong bài phỏng vấn đăng trên báo “Le Monde” ngày 29-4-1958, người ta hỏi Oppi:
“Trong thời gian ông là ủy viên Ủy ban đặc biệt (Ủy ban lâm thời) và có trách
nhiệm kiến nghị với Tổng thống Truman những vấn đề khoa học về việc sử dụng bom
nguyên tử ở Nhật, ông có cảm giác rằng một vài nhân vật nắm tình hình đầy đủ có
thể vì lý do chính trị đã gây tác động đến việc ra những quyết định nào đó không?”.
Ông trả lời: “Người ta đòi hỏi ở ủy ban giám định trước hết là ý kiến về những
vấn đề kỹ thuật mới. Chúng ta đừng quên rằng chính phủ mới cần đến cái đó. Họ là
những người chưa học được cách sử dụng chính quyền và cũng chưa học được cách
giải quyết những vấn đề nguyên tử mà họ phải chịu trách nhiệm. Đa số những người
cần đến ý kiến chúng tôi lại không có thời giờ để nghiên cứu vấn đề. Mặt khác,
Tổng thống Truman và ngài Winston Churchill đã tỏ ra hoàn toàn đồng ý rằng phải
sử dụng bom nguyên tử để chấm dứt chiến tranh. Ý kiến đó đã làm nặng đĩa cân…”.
Tuy nhiên dù có
là nguyên nhân nào đi chăng nữa thì câu hỏi cơ bản nhất, quan trọng nhất để cho
những người trong cuộc tự vấn lương tâm mình trước một sự tàn sát đồng loại vô
tội đến mức kinh hoàng như thế, vẫn là: họ đã hành động sáng suốt hay không sáng
suốt, vì hòa bình hay vì chiến tranh, chính đáng hay không chính đáng, tội lỗi
hay không tội lỗi?
Lịch sử đã lưu
lại nhiều câu trả lời chân thành, nhiều câu trả lời quanh co, nhiều câu trả lời
mập mờ, nhiều câu trả lời có vẻ như chạy tội và cũng nhiều câu có phần trâng tráo.
Hiện tượng đó có thể là do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có nguyên nhân
là: “cái tôi danh lợi” khó lòng mà xử một cách công minh chính bản thân mình. Dù
sao thì nguyên nhân cơ bản, chính yếu là nguyên nhân này: trên nền tảng của đa
dạng về tư tưởng thì quan niệm thị phi (đúng - sai) cũng phân ly thành đa chiều.
Và cũng chính vì như vậy mà trong nhiều trường hợp phân trần, biện minh là có
thể thông cảm được. Nhưng cái lạnh lẽo, băng giá toát ra từ rất nhiều tâm hồn
thời đó đã làm cho chúng ta có cái cảm giác rờn rợn như đứng trước một kẻ đồ tể
xa lạ, với khuôn mặt ánh lên sự vô cảm.
Robert Broad, một
trong các nhà vật lý học Mỹ đã từng học ở Gottingen trước đó 20 năm, đã mô tả cảm
xúc của mình và đồng nghiệp ở Los Alamos như sau: “Tất nhiên, chúng tôi rất xúc
động vì hiệu quả vũ khí của mình, và đặc biệt vì bom được ném xuống không phải
các mục tiêu quân sự ở Hiroshima, mà ngay chính giữa thành phố. Nhưng nếu muốn
thành thực cho đến cùng thì tôi phải thú nhận rằng cảm giác khoan khoái ở chúng
tôi thắng cảm giác ghê sợ. Và như thế vì rằng cuối cùng thì gia đình và bạn bè
của chúng tôi ở các thành phố khác và ở các nước khác đã biết được nguyên nhân
vì sao chúng tôi đã biến mất trong mấy năm nay. Và cuối cùng bản thân chúng tôi
cũng thấy rõ được rằng đã làm việc không uổng công. Về phần mình, tôi phải nói
rằng tôi không cảm thấy mình có lỗi”.
Willy
Hidginbotten,
một nhà bác học 30 tuổi, chuyên gia về điện tử học, viết từ Los Alamos
cho mẹ: “Con không hề có chút tự hào gì về những
việc bọn con đã làm được… Ý nghĩa duy nhất của nó là ở chỗ nó bắt nhân
loại phải
yêu hòa bình. Bây giờ không thể nào hình dung được một cái gì khác ngoài
hòa bình.
Nhưng khốn thay, bao giờ cũng có những kẻ không đắn đo gì hết”.
Người ta quyết định
hai nhà bác học nguyên tử là Alvaretz và Agnew cùng với chuyên gia về bom của
Anh là Penny sẽ tham gia vào cuộc ném quả bom nguyên tử thứ hai nhưng bay trên
một máy bay riêng với mục đích là thám sát. Trước khi thực hiện nhiệm vụ,
Alvaretz và các bạn ông là Morrison và Serber đang ngồi uống bia thì bỗng nảy
ra một ý là trong cuộc ném bom, họ sẽ ném xuống một bức thư gửi cho một người bạn
Nhật của họ là giáo sư Sagana, người đã cùng làm việc với họ trước chiến tranh ở
Phòng thí nghiệm phóng xạ Berkeley. Bức thư đó gồm ba bản được buộc chặt mỗi bản
vào một trong ba chiếc máy đo mà Alvaretz sẽ phải ném xuống mục tiêu (người ta đã
tìm thấy được một trong ba bức thư đó sau khi bom nguyên tử nổ ở Nagasaki). Đây là một đoạn
của nội dung bức thư: “Chúng tôi gửi bức thư này và khẩn thiết yêu cầu ông sử dụng
ảnh hưởng của mình để làm cho Bộ trưởng tham mưu Nhật nhận thức được tất cả những
hậu quả kinh khủng sẽ đổ lên đầu nhân dân nước ông, nếu họ cứ tiếp tục chiến
tranh. Ông đã biết rằng với những chi phí cực lớn, đã có thể chế tạo được bom
nguyên tử. Bây giờ hẳn ông đã thấy rõ là chúng tôi đã xây dựng được những nhà máy
cần thiết… Ông cần hình dung rõ ràng rằng tất cả sản phẩm của các nhà máy đó, làm
việc cả 24 giờ trong một ngày, sẽ nổ tung trên tổ quốc ông. Trong ba tuần lễ,
chúng tôi đã nổ thử một quả trên một hoang mạc Mỹ, quả thứ hai đã nổ ở Hiroshima và quả thứ ba nổ
sáng hôm nay.
Chúng tôi khẩn
khoản xin ông khẳng định những sự kiện đó với các nhà lãnh đạo của ông, và làm
mọi điều có thể để không cho sự tàn phá và chết chóc tiếp tục diễn ra trong sự
tiến triển của một cuộc chiến tranh mà kết quả duy nhất sẽ là sự phá hủy hoàn toàn
tất cả các thành phố của các ông. Là những nhà khoa học, chúng tôi lấy làm tiếc
rằng một phát minh xuất sắc đã được sử dụng như vậy. Nhưng chúng tôi có thể đoan
chắc với ông rằng nếu nước Nhật không đầu hàng ngay, thì trận mưa bom nguyên tử
này sẽ được tăng cường”.
Giọng điệu đó là
ngây ngô hay mù quáng; là năn nỉ hay dọa nạt; là nhân từ hay ác tâm? Nhắn nhủ
cho bạn bè kiểu như thế thì thà im lặng quách đi có hay hơn không? Vì như vậy
may ra còn giữ được chút tính nhân văn, sự liêm sỉ về sau.
Theo quan niệm Á
- Đông xưa, người được gọi là quân tử là người có tâm hồn trong sáng, chuyên làm
việc nhân nghĩa. Việc nhân nghĩa là việc có ích cho Đại Chúng, là đứng ra bênh
vực, bảo vệ Đại Chúng trước cường bạo một cách quên thân, bất vụ danh lợi riêng
tư. Vì thế người quân tử cũng là người có hành động cao thượng và đầy lòng vị
tha. Tuyên ngôn hành động của người quân tử là:
Kiến nghĩ bất
vi vô dũng dã
Lâm nguy bất cứu
mạc anh hùng
(Nghĩa là: Thấy
việc nghĩa mà không làm thì không phải là người dũng cảm; gặp người bị nạn mà
không cứu thì không xứng đáng là anh hùng).
Tuy nhiên, trên
bước đường hành động, do sự phức tạp của các hiện tượng xã hội, do sự biểu hiện
muôn màu của thị phi mà đôi khi hành động của người quân tử trở thành phi nghĩa.
Nhưng dù lỡ làm điều phi nghĩa thì cũng rất hãn hữu giết người vô tội vì ngay cả
những kẻ thù khi đã sa cơ thất thế, người quân tử (đã sẵn lòng vị tha) cũng không
nỡ giết. Khi nhận thức ra sai lầm của mình thì người quân tử luôn thành khẩn và
ăn năn sâu sắc, thậm chí là quyên sinh để tỏ cái lòng ấy.
Tiểu nhân là kẻ
có tâm hồn và hành động trái ngược với người quân tử. Trước một kẻ đã thế cùng
lực kiệt mà vẫn cứ cố đánh, thậm chí kẻ đó đã chết rồi vẫn còn băm vằm xác thây
thì đó là hành động chỉ có ở đứa tiểu nhân. Đã là tiểu nhân thì khó mà làm được
điều nhân nghĩa một cách tự nguyện. Vì lẽ đó mà Khổng Tử bảo: “Người quân tử có
khi phạm điều bất nhân, chứ chưa từng thấy kẻ tiểu nhân mà làm được điều nhân
nghĩa”.
Phát xít Nhật đã
gây ra nhiều tội ác. Nhưng trước một phát xít Nhật đã bị cả thế giới bao vây đến
chân tường và kiệt quệ sinh lực đến mức trước sau gì cũng phải đầu hàng Đồng
Minh (và trong khi Hồng quân Liên Xô đã bắt đầu giáng những đòn đích đáng vào đạo
quân cuối cùng có ý nghĩa của nó) thì hành động của Đế quốc Mỹ: oanh tạc bằng
bom cháy hàng loạt thành phố và hủy diệt hai thành phố của Nhật bằng bom nguyên
tử, bắt chính phủ Nhật khuất phục bằng cách tàn sát dân thường Nhật, theo quan
niệm Á - Đông nói trên, phải bị gọi là đê hèn. Trước Đức Huyền Diệu thì Đế quốc
Mỹ (chứ không phải Đại Chúng Mỹ!) đã phạm tội ác tày trời chống nhân loại trong
chiến tranh thế giới thứ hai. Dù có thể nói nhăng cuội kiểu gì đi nữa thì hai cái
nấm khổng lồ một cách dị thường mọc trên đất Nhật cùng với ngót nửa triệu oan hồn
lương thiện của giống loài người đã tố cáo vạch trần tội ác đó với trời xanh mà
từ nay cho đến tận cùng của lịch sử loài người trong tương lai, không có bất cứ
kẻ nào, thế lực nào có thể biện hộ gỡ tội được.
Xét cho cùng thì
lãnh thổ Mỹ là bộ phận của đất đai thế giới, nhân dân Mỹ là bộ phận, được hun đúc
nên từ nhân dân thế giới, do vậy cũng là con em của loài người. Nước Mỹ giàu có
được, xét cho cùng thì cũng là nhờ nhân loại. Vì vậy nước Mỹ muốn làm anh các nước
khác thì trước hết hãy là người quân tử đầy bao dung chứ đừng nên dọa nạt bằng
vũ lực vượt trội của mình!
Đến đây, câu
chuyện kể về tội ác của chiến tranh thế giới thứ hai đã kết thúc. Chúng ta không
còn gì để kể thêm nữa. Nhưng sẽ chẳng có một ai có thể kể hết được tội ác mà
con người đã từng gây ra cho đồng loại của nó và hiện nay, tội ác vẫn đang xuất
hiện phổ biến hàng ngày hàng giờ.
***
Căn cứ vào kết
quả nghiên cứu nhân chủng học, khảo cổ học thì người da đỏ ở châu Mỹ có nguồn gốc
từ người tiền sử châu Á, thiên di sang từ trước đây khoảng 25.000 năm theo ngả
vượt eo biển Bêrin đến Alaska
rồi từ đó lan tỏa xuống phía nam. (Trong hoang tưởng, chúng ta cho rằng điều đó
chưa chắc đúng. Nếu qui ước khái niệm “thiên di” là sự du cư của những quần thể
còn mang tính bầy đàn thì sự xuất hiện người da đỏ ở châu Mỹ là kết quả của một
cuộc lan tỏa dân cư từ một quần thể bán định cư, thịnh vượng nhờ phương thức kiếm
sống trồng trọt - chăn nuôi mà tính quần cư - xã hội đã trở nên nổi trội. Nếu
thực sự có Địa Đàng như chúng ta suy diễn thì cuộc lan tỏa dân cư đó phải bắt
nguồn từ Đại Lục Mẫu như là một quá trình đi khám phá thiên nhiên để khai thác
tài nguyên và có tính cao trào, cách mạng. Con người xuất hiện lần đầu tiên ở
châu Mỹ, vì thế, phải là tại đâu đó ở phần cuối của khu vực phía nam của Lục địa
này. Rất có thể người Indônêdiêng, người da đỏ châu Mỹ và cả ngươi da đỏ châu Úc
đều có chung một thủy tổ gần. Lúc đó chắc là cự ly giữa bờ biển đối diện của
hai đại lục có thể “dễ dàng” vượt qua bằng thuyền. Đảo Phục Sinh có thể đã từng
là “ngọn hải đăng” thiên nhiên của một thời kỳ thuyền bè đi về “tấp nập” và kiến
thức thiên văn - hàng hải của loài người cũng có thể xuất phát từ đây. Phải chăng
những hiểu biết thiên văn của “thời đại Mặt Trời” ấy còn lưu dấu tích khắp Nam Mỹ cho đến tận
ngày nay? Nếu đúng thế thì trí tuệ loài người lúc đó đã đạt đến cao siêu, dù vẫn
là “đồ đá”. Sự phân tầng học thức trong xã hội là một hiện thực. Không cần thiết
mà cũng không thể là mọi người trong xã hội đều đạt được đến trình độ học thức
siêu việt một cách toàn diện. Cuộc mưu sinh không đòi hỏi phải như thế mà chỉ cần
một bộ phận làm “đầu lĩnh” đóng vai trò “kim chỉ nam” cho hoạt động xã hội là đủ.
Nhất là thời kỳ chưa xuất hiện chữ viết hoặc xuất hiện sơ khai dưới dạng dây thắt
nút thì hiện tượng phân tầng học thức ấy biểu hiện ra càng rõ rệt. Những người
có học vấn cao nhất sẽ được qui tụ về thành một trung tâm trí tuệ của “xã hội Địa
Đàng” đóng ở trong một khu vực mà chúng ta tạm gọi là “thủ đô Mặt Trời” nằm ở vị
trí cũng được gọi là “trung tâm” của Đại Lục Mẫu. Cuộc lan tỏa dân cư đang ở thời
kỳ “rầm rộ” nhất của nó thì, đùng một cái, “tai biến thiên nhiên vĩ đại” đã đột
ngột chấm dứt tất cả. Cái bộ phận chủ yếu của “trí tuệ xã hội Địa Đàng” bỗng chốc
mất đi đến độ không thể hồi phục được, đã đem theo biết bao nhiêu “bí quyết
khoa học” gặt hái và tích lũy được trước đó của loài người. Chúng ta thử tưởng
tượng rằng trong thời đại hiện nay, bỗng dưng vào một “ngày đẹp trời” nào đó, tất
cả các sách vở, tài liệu lưu trữ về kiến thức khoa học tự nhiên tan biến hết, các
nhà bác học, chuyên gia kỹ thuật cũng bỏ đi chơi mất dạng không bao giờ quay về
nữa thì trí tuệ của xã hội sẽ như thế nào? Có thể là phải lùi về thế kỷ XVIII
hoặc thậm chí là sâu hơn nữa vào quá khứ!). Cho đến nay hình như khảo cổ học chưa
phát hiện được một di chỉ nào thuộc thời đại tiền đồ đá cũ ở châu Mỹ.
Khi nói về hiện tượng “Lục địa trôi dạt”,
chúng ta quen mường tượng đến một quá trình xảy ra từ từ và đều đặn. Nhưng chắc
là không hẳn thế. Vận động nội tại của Trái Đất không thể không mang bản chất
chuyển hóa tương phản lưỡng nghi mà biểu hiện nổi trội của nó trước quan sát của
con người là những quá trình nhiệt động vừa liên tục vừa không liên tục, vừa đều
đặn vừa không đều đặn, cũng là sự xuất hiện và mất đi của các quá trình bộ phận
vừa tất yếu vừa ngẫu nhiên. Đó chính là nguyên nhân làm cho vỏ trái đất có kiến
tạo mảng, hội tụ và phân ly, trôi dạt như những khối bọt, xỉ trên một chảo lửa
khổng lồ. Sự tồn tại và trôi dạt của các lục địa vì thế mà cũng có tính chu kỳ,
biến đổi ổn định nhưng cũng có những lúc đột biến. Chắc chắn là sự tan chảy suy
sụp đồng thời với đông kết tạo sơn đã làm cho bề mặt Trái Đất có hình thái đại
dương - lục địa. Quá trình đó cũng làm cho tổng diện tích bề mặt lục địa và cả
tốc độ trôi dạt của các lục địa cũng tăng giảm tương đối. Phải chăng sự biến mất
của Đại Lục Mẫu do tan vỡ, bùng nổ cùng với hiện tượng tăng đột ngột tốc độ trôi
dại của các lục địa còn lại không những đã làm nên một trận đại hồng thủy mà đồng
thời là cả một trận “đại hồng hỏa” có
qui mô toàn cầu và đó cũng là nguyên nhân biến mất của thời đại Địa Đàng?).
Nhiều khả năng người tiền sử châu Á cũng
theo con đường vượt qua eo biển Bêrin để xâm nhập vào châu Mỹ từ phía bắc. Nhưng
chắc sự kiện này chỉ xảy ra vào khoảng hơn 10 ngàn năm cách nay.
Có thể cho rằng cuộc thám hiểm phát hiện
ra châu Mỹ vào thế kỷ XVI của Crixtốp Côlôngbô đã mở đầu cho một cao trào lan tỏa
dân cư lần thứ ba của loài người đến đó. Nếu cuộc lan tỏa dân cư lần thứ nhất và
thứ hai có tính chất khai phá miền đất thiên nhiên hoang dã thì có thể nói cuộc
lan tỏa dân cư lần thứ ba nổi trội lên tính chất thực dân xâm lược.
Một trong những nguyên nhân làm cho châu Âu
trở thành khu vực đã từ lâu xuất phát nhiều cuộc viễn chinh và có một nền khoa
học kỹ thuật phát triển đột khởi sau “đêm trường trung cổ” là nhờ tính năng động
sáng tạo của dân cư ở một vùng đất “chật chội”. Sau khi đã tiếp thu những thành
quả tri thức từ phương Đông, đến lượt họ trở thành ngọn cờ đầu của những phát
kiến khoa học - kỹ thuật, phất cao và tiến nhanh về phía trước. Việc người châu
Âu tìm thấy châu Mỹ và nhanh chóng chinh phục nó là một tình cờ tất yếu của cái
quá trình vận động xã hội ấy.
Người da đỏ đã sống từ lâu đời, rải rác ở
những vùng đất phì nhiêu khắp Bắc Mỹ. Vào thời Crixtốp Côlôngbô phát hiện ra châu
Mỹ thì trình độ xã hội ở đây vẫn mang hình thức các bộ lạc. (Có tình trạng phát
triển xã hội chậm chạp đó phải chăng chủ yếu là do mật độ dân cư thưa thớt, miếng
ăn kiếm được từ thiên nhiên khá đầy đủ và tương đối dễ dàng…?). Sự hình thành và
phát triển nền kinh tế công nghiệp hóa châu Âu đã “hối thúc” các nước ở đó đi tìm
kiếm những nguồn nguyên vật liệu mới từ bên ngoài và họ đã thấy tiềm tàng to lớn
về tài nguyên thiên nhiên ở miền đất này.
Vùng Bắc Mỹ khi đó bị coi như vùng đất vô
chủ nên các nước thực dân châu Âu đều tìm cách xâm chiếm. Lúc đầu là Pháp rồi đến
Hà Lan, Thụy Điển và Anh đến tranh giành.
Do có ưu thế của một nền kinh tế mạnh hơn
nhờ sớm bước vào thời kỳ sản xuất công nghiệp tập trung tư bản chủ nghĩa, sự bành
trướng của nước Anh ở Bắc Mỹ trở nên vượt trội hơn hẳn. Năm 1607, người Anh chính
thức đặt chân lên khu vực Viếcginia. Cuộc đấu tranh giành quyền lợi gay gắt
trong lòng xã hội Anh trước cuộc cách mạng tư sản nổ ra vào năm 1640; đã tạo ra
một làn sóng di cư, rộng lớn đến Bắc Mỹ mà thành phần chủ yếu là nông dân bị mất
đất làm ăn. Làn sóng đó trở nên cao trào vào những năm 20 của thế kỷ XVIII. Đến
năm 1752, Anh đã thành lập được 13 vùng thuộc địa. Năm 1754, trên đất thực dân
Anh ở Bắc Mỹ đã có 1,3 triệu người. Tiếng Anh dần thành ngôn ngữ giao tiếp phổ
biến…
Vào khoảng thế kỷ XVII - XVIII, nước Anh
coi Bắc Mỹ chỉ là vùng nông nghiệp phụ thuộc chính quốc. Đối tượng bóc lột của
Anh ở đây là người da đỏ, nô lệ da đen và những dân di cư. Nhiệm vụ hàng đầu của
Bắc Mỹ là cung cấp các loại nguyên liệu và lương thực cho nước Anh. Quí tộc tư
bản Anh muốn duy trì những tàn dư phong kiến ở Bắc Mỹ để trở thành những đại địa
chủ. Vua Anh phân phong những vùng đất mới cho quí tộc, có vùng rộng lớn tới hàng
vạn cây số vuông. Chính sách tập trung ruộng đất vào tay quí tộc và những luật
lệ ràng buộc khắt khe cũng như sự bóc lột kiểu phong kiến và chiếm hữu nô lệ đã
tạo ra mâu thuẫn ngày càng gay gắt trong cái xã hội đang định hình ở Bắc Mỹ; dẫn
đến tình trạng nông dân nghèo di cư đến, phản kháng chống đối lại, thậm chí là
khởi nghĩa vũ trang. Những vùng đất trống ở phía tây còn nhiều làm xuất hiện
phong trào nông dân tự động đi về phía tây chiếm những vùng đất trống để khai
khẩn lập nên những nông trại, đồn điền. Năm 1763, vua Anh ra sắc lệnh cấm khai
khẩn vùng đất đai rộng lớn bên kia dãy núi Alêgơnít và lưu vực sông Mitxixipi.
Năm 1774, nhà vua ra lệnh cấm cư dân 13 bang thuộc địa không được di cư về phía
tây. Những sự kiện đó càng làm cho mâu thuẫn xã hội trở nên gay gắt: quyền lợi
của quí tộc phong kiến chính quốc đã không thể dung hòa được với quyền lợi của Đại
Chúng thuộc địa, luật lệ phi lý của nhà vua đã đối chọi với xu thế phát triển đặc
thù của kinh tế Bắc Mỹ.
Một đặc trưng của nền kinh tế nông nghiệp
Bắc Mỹ là sự hình thành chế độ đồn điền. Sản xuất kiểu đồn điền cần nhiều lao động
làm thuê và vào những giai đoạn đầu thì lực lượng tại chỗ lại không đủ đáp ứng.
Bản chất độc ác, tham lam của thực dân - phong kiến cùng với sự cạnh tranh gay
gắt trong quá trình tích lũy tư bản thuở ban đầu đã làm cho tầng lớp thống trị ở
các nước châu Âu “khám phá” ra một nguồn lao động vừa rẻ vừa hết sức dồi dào, đó
là dân da đen ở châu Phi. Một ngành kinh doanh không kém phần béo bở ra đời: buôn
bán nô lệ da đen. Đã có một thời thị trường mua bán này hết sức sôi nổi, rầm rộ
kéo theo “nghề” dụ dỗ, mua chuộc, săn bắt người dân châu Phi cũng trở nên “phát
đạt”. Những đồng tiền tích lũy được, sự giàu có từ ngành nghề này đã thấm đẫm
biết bao nhiêu nỗi thống khổ, đau thương, biết bao nhiêu máu và nước mắt của đồng
loại. Như thế gọi là gì nếu không phải là tội ác?
Những người nô lệ da đen đầu tiên đến Bắc
Mỹ là bị thực dân Hà Lan chở sang vào năm 1619. Buôn bán nô lệ có khi lãi tới 1.000%.
Những người nô lệ da đen bị khinh miệt như súc vật, phải lao động kiệt lực và
nhận khẩu phần rất ít ỏi. Họ có thể bị giết, bị đánh đập và đem bán bất cứ lúc
nào nếu chủ muốn. Hàng triệu nô lệ đã phải chết do áp bức, bóc lột. Nô lệ làm
việc ở các đồn điền không loại trừ người da trắng (gồm tù nhân, con nợ, trẻ em
bị bắt cóc bán sang thuộc địa…) nhưng chủ yếu là người da đen và họ là những người
bị đối xử tàn tệ nhất. Chế độ nô lệ đồn điền đặc biệt phát triển ở vùng kinh tế
miền Nam.
Nó giữ vai trò quan trọng trong nghề trồng bông và cả trong công nghiệp đóng tàu,
công nghiệp dệt…
Có thể nói sự giàu có của các chủ đồn điền
để rồi trở thành các nhà tư sản lớn thời kỳ đó chủ yếu là nhờ vào chế độ nô lệ,
nghĩa là nhờ vào xiềng xích chứ không phải tự do.
Lúc đầu, 13 bang thuộc địa còn quan hệ với
nhau tương đối rời rạc và đều tuân thủ luật pháp Anh. Dù thành phần cư dân là gồm
nhiều quốc tịch, nhiều sắc tộc nhưng do số lượng người Anh chiếm áp đảo nên dần
dần, tiếng Anh được chọn làm ngôn ngữ giao tiếp chung. Bên cạnh đó, quá trình vận
động kinh tế - xã hội đã nảy sinh những yêu cầu làm cho 13 bang thuộc địa ngày
một gần gũi, gắn bó chặt chẽ với nhau, dân cư giao lưu qua lại hòa hợp nhau, hình
thành nên một cộng đồng dân cư ổn định, thống nhất như một dân tộc có chung một
nền văn hóa khu vực với những nét riêng đặc thù. Một cơ thể kinh tế - xã hội tương
đối độc lập với chính quốc Anh đã hình thành ở Bắc Mỹ.
Sự lớn mạnh về kinh tế, tiềm năng phát
triển dồi dào về mọi mặt cũng như quyền lợi bản thân của khu vực thuộc địa Bắc
Mỹ đã không còn “chịu đựng nổi” sự áp chế trái chiều của chính quốc Anh. Lúc này,
quyền lợi chung của toàn dân “bản xứ” đã đối chọi với quyền lợi có tính ăn cướp
của “ngoại bang” Anh. Cuộc chiến tranh giải phóng đòi độc lập tự do của nhân dân
Bắc Mỹ là không thể tránh khỏi.
Vào tháng 5-1756, cuộc chiến tranh giành
giật đất đai ở Bắc Mỹ giữa Anh và Pháp, lịch sử gọi là “chiến tranh bảy năm”
(1756 - 1763) bùng nổ. Pháp thua, phải ký hòa ước. Theo đó, Canada thành đất thuộc quyền Anh. Vì
“mắc tội” ủng hộ Pháp trong chiến tranh, Tây Ban Nha cũng phải mất cho Anh vùng
đất Phlorida. Sau khi lũng đoạn được vùng Bắc Mỹ, Anh tăng cường chế độ cai trị
chuyên chế, hà khắc, tăng cường bóc lột.
Tình hình đó đã khơi dậy phong trào đấu
tranh của dân cư Bắc Mỹ với khẩu hiệu “Tự do và tư hữu”, “Thống nhất hoàn toàn
hay là chết”. Những hội kín ra đời liên kết lực lượng và thống nhất tư tưởng,
trong đó có tổ chức “Hội những người con tự do” (Sons of Liberty) do Tômát Ghépphécsơn (1743 - 1826),
người có tư tưởng tự do, lãnh đạo.
“Những người con tự do” lấy tư tưởng của
Lôcke và của Giôn Mintơn (J. Locke; John Milton) về quan niệm một nhà nước tư sản
làm mục tiêu đấu tranh. Tác phẩm của Lôke, “Tiểu luận về chính quyền dân sự”,
xuất bản năm 1690, đã cung cấp cho cuộc đấu tranh giành độc lập Bắc Mỹ một nội
dung lý thuyết về nhà nước tư sản. Đó chính là tư tưởng cách mạng tư sản Anh
lan sang Mỹ, được chấp nhận và áp dụng trong thực tiễn. Nó nêu lên nhiệm vụ của
nhà nước là bảo vệ tính mạng, tự do và tài sản của nhân dân. Quyền lực chính trị
là của dân và dân ủy thác quyền lực đó cho chính phủ. Chính phủ chỉ là đại diện
của dân, vì thế có bổn phận thực thi quyền hành do nhân dân giao phó. Nhưng nếu
chính phủ vi phạm quyền “tự nhiên” của công dân thì công dân có quyền và trách
nhiệm phải lật đổ chính phủ.
Không khí cách mạng ngày một sục sôi, ngay
cả Oasinhtơn (Washington,
1732 - 1799), một chủ đồn điền - chủ nô giàu có ở Viếcginia, người có khuynh hướng
ôn hòa, cũng ngả theo cách mạng.
Nước Anh điều tướng Ghêgiơ sang làm thống
đốc bang Masaxuxét kiêm tổng tư lệnh quân đội Anh ở Bắc Mỹ; thông qua ngân sách
chiến tranh, tăng cường quân đội, quyết tâm đàn áp thuộc địa.
Ngày 10-5-1775, những người lãnh đạo
phong trào cách mạng ở các bang họp hội nghị nhằm giải quyết những vấn đề cụ thể
của chiến tranh, quyết định thành lập “Quân đội lục địa”, bổ nhiệm Oasinhtơn làm
chỉ huy, ra lời kêu gọi nhân dân tình nguyện tham gia đóng góp. Xu hướng độc lập
đã được các đại biểu như Giôn Adam (John Adams), R. H. Li (R. H. Lee) đề nghị và
Hội nghị chấp thuận. Một Ủy ban 5 người, đứng đầu là Giépphécxơn được ủy quyền thảo Tuyên ngôn độc lập và Hội nghị đã
long trọng công bố ngày 4-7-1776. Bản tuyên ngôn này đã nêu lên một chân lý sáng
ngời của Đức Huyền Diệu: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo
hóa đã ban cho họ những quyền không thể tước bỏ được. Trong những quyền ấy, có
quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Thoạt đầu chiến tranh, “Quân đội lục địa”
với số lượng không nhiều, chỉ huy thiếu kiến thức quân sự, trang bị vũ khí còn
thô sơ, nghèo nàn nên gặp nhiều bất lợi, dù mang tính chính nghĩa, được nhân dân
ủng hộ và cũng đã chiến đấu rất anh dũng. Cuộc chiến đấu ở bang Niu Oóc đã có hàng
ngàn người da đen hy sinh. Ngày 17-6-1775, quân Anh đánh bại nghĩa quân ở Bâncơ
Hin, gần Bôxtơn nhưng cũng phải trả một giá rất đắt. Cũng trong năm 1775, nghĩa
quân bị quân Anh đánh bật khỏi Long Ailan và Manhattan, phải rút về Niu Giớcxi. Đến mùa đông
năm 1776, quân chủ lực trong tay Oasinhtơn chỉ còn không quá 3.000 người.
Mùa xuân năm 1777, Oasinhtơn bị thất bại ở
Giécmantao. Quân Anh định mở cuộc tấn công lớn bao vây tiêu diệt nhưng bị nghĩa
quân đánh tan ngày 17-10-1777. Quân Anh thất bại lớn tại Saratôga, tướng Anh là
Bớcgôn phải đầu hàng. Chiến thắng Saratôga biểu hiện sự lớn mạnh và khả năng giành
thắng lợi trong cuộc chiến của quân khởi nghĩa.
Dần dần, quân đội lục địa được các nước
châu Âu là Pháp, Hà Lan và Tây Ban Nha ủng hộ, gửi quân tham gia chiến đấu làm
hình thành một liên minh chống Anh.
Tháng 12-1778, bang Gioócgia bị quân Anh
chiếm. Tháng 5-1779, quân Anh đánh bại nghĩa quân, chiếm Carôlinna Nam.
Ngày 12-5, quân Anh chiếm hải cảng Saclettơn (thuộc Carôlinna Nam), bắt làm tù binh tới 6.000 nghĩa
quân. Ngày 16-8-1780, tướng Anh là Coócoalít đánh tiêu diệt một cánh nghĩa quân
ở Camđen.
Sau khi củng cố ổn định lại lực lượng, Oasinhtơn
quyết định dùng tổng lực hải quân, bộ binh, pháo binh đánh trận sống mái ở Yoóctao.
Đội quân gồm 8.000 người của Coócoalít đồn trú trên bờ sông đã bị hạm đội của
Pháp chặn đường rút để rồi bị quân của Oasinhtơn và quân của Rôsămbô (tướng Pháp)
bao vây. Không thể kháng cự và cũng hết đường tháo chạy, Coócoalít cùng toàn bộ
quân Anh đồn trú, đã phải đầu hàng ngày 19-10-1781. Chiến thắng Yoóctao đã đánh
tan hy vọng cuối cùng vào thắng lợi của nước Anh.
Tuy chiến tranh còn kéo dài thêm một thời
gian nữa nhưng tình thế của quân Anh là không thể cứu vãn. Ngày 3-9-1783, Hiệp ước
Vécxai được ký kết: nước Anh thừa nhận nền độc lập của các thuộc địa ở Bắc Mỹ kể
cả miền tây Mitxixipi rộng lớn, Anh trả Phlorida cho Tây Ban Nha.
Một quốc gia mới ở Bắc Mỹ ra đời, được gọi
là Hợp chủng quốc Mỹ (United States of American), hay gọi là Mỹ và vì cờ Mỹ có nhiều
sao thể hiện số bang nên dân ta cũng gọi là Hoa Kỳ. Hiến pháp Mỹ được phê chuẩn
vào tháng 7-1788 và có hiệu lực từ ngày 4-3-1789. Oasinhtơn được bầu làm tổng
thống đầu tiên.
Cuộc đấu tranh
vũ trang của nhân dân Bắc Mỹ vừa mang hình thái của cuộc khởi nghĩa chống quân
xâm lược Anh giành độc lập dân tộc, vừa là cuộc nổi dậy của Đại chúng chống áp
bức cường quyền và cũng là cuộc cách mạng dân chủ tư sản. Theo Lênin thì đó là
cuộc “chiến tranh vĩ đại, chiến tranh thực sự giải phóng, thực sự cách mạng”!
Là một nước tư
bản trẻ, kế thừa được những thành tựu cách mạng khoa học - kỹ thuật đương thời
cùng với tiềm năng phát triển to lớn sẵn có, nước Mỹ đã có một nền kinh tế phát
triển cực kỳ nhanh chóng trong thế kỷ sau.
Dù sao thì cuộc
cách mạng dân chủ tư sản đồng thời cũng là cuộc đấu tranh giành độc lập ấy là
không triệt để vì chế độ nô lệ (chủ yếu là ở miền Nam nước Mỹ) chưa bị thủ tiêu:
Sự tiếp tục tồn tại chế độ nông nô - nô lệ trở nên già cỗi, lạc hậu, cản bước
tiến của sự phát triển kinh tế tư bản chủ nghĩa, và vì vậy mà cũng gây ra mâu
thuẫn giữa hai thế lực bảo thủ và cấp tiến ngày càng gay gắt. Tình hình đó tất
yếu làm xuất hiện các cuộc khởi nghĩa của những người nô lệ và cuộc đấu đá
tranh giành quyền lợi giữa hai phe: chủ nô đồn điền miền Nam và trại chủ - dân tự do.
Năm 1741 nổ ra
cuộc khởi nghĩa nô lệ ở Ludiana, năm 1792 là ở Viếcginia. Mùa xuân năm 1800 gần
1.000 nô lệ nổi dậy đấu tranh vũ trang ở Risơmen (thuộc bang Viếcginia), do Cơrâybien
lãnh đạo. Năm 1822 có cuộc khởi nghĩa nô lệ ở Nam Carôlinna. Năm 1831 có cuộc nổi
dậy do Toocne lãnh đạo.
Do sức mạnh của
công nghiệp hóa thắng lợi, ưu thế hoàn toàn thuộc về các nhà tư bản miền Bắc.
Giữa thế kỷ XIX, các cuộc nổi dậy của nô lệ càng nhiều. Chế độ nô lệ đã bị lay
chuyển tận gốc rễ. Tuy nhiên, vì nắm chính quyền thông qua đảng Dân Chủ (được
thành lập năm 1791) đại diện cho nó nên chủ nô miền Nam đã khống chế chính
quyền trung ương, sử dụng quyền lực đó để bênh vực cho chế độ nô lệ. Cuộc đấu
tranh gay gắt nổ ra vào năm 1854 trong dịp bầu cử Hội đồng địa phương Kandớt và
trở thành cuộc đấu tranh vũ trang 4 năm (1854 - 1858) mà thắng lợi thuộc về phía
các chủ nô.
Tháng 10-1859,
một trại chủ ở Viếcginia là Giôn Brao đã đứng lên khởi nghĩa đòi xóa bỏ chế độ nô
lệ. Chính quyền Oasinhtơn đem quân tiêu diệt. Giôn Brao bị thương nặng, bị bắt
và bị xử án tử. Trước khi bị hành hình ông đã nói một câu nổi tiếng: “Tôi tin rằng
chỉ có máu mới rửa sạch được tội ác của xứ sở này!”
Phong trào đấu
tranh tự phát của quần chúng đã tác động mạnh mẽ đến cả hai phe. Đảng Dân Chủ bị
phân hóa sâu sắc. Năm 1851, đảng Cộng Hòa được thành lập bao gồm những người của
đảng Tự do ruộng đất (Free soil Party, thành lập cuối những năm 40 của thế kỷ
XIX) và một bộ phận từ đảng Dân Chủ tách ra. Đảng này dù chưa hoàn toàn nhất trí
với nhau đối với chế độ nô lệ (cánh hữu chủ trương hạn chế, cánh tả chủ trương
xóa bỏ chế độ đó) nhưng đã trở thành tiếng nói của tiến bộ xã hội và được đông đảo
quần chúng, nhất là những người nô lệ ủng hộ. Lãnh tụ đảng này là Abraham Lincôn
(Abraham Lincoln, 1809 - 1865), xuất thân là một chủ trang trại nghèo ở Kentắcki.
Gia đình ông do bị đám chủ nô ức hiếp đã phải chạy sang miền Tây sinh sống. Thuở
nhỏ, ông phải lao động vất vả. Lớn lên, nhờ tài trí hơn người và lòng dũng cảm,
ông trở thành lãnh tụ của xu hướng mới trong xã hội. Năm 1848, Lincôn được bầu
vào Quốc hội. Năm 1860, ông được đại diện cho đảng Cộng Hòa ra tranh cử, thắng
lợi và trở thành Tổng thống.
Tầng lớp chủ nô
mất ưu thế trong chính quyền mới, lập tức chống đối. Ngày 20-12-1860, bang Carôlina
Nam
tuyên bố tách ra khỏi Liên bang. Tháng 2-1861, sáu bang theo chế độ nô lệ ở miền
Nam
cũng tuyên bố ly khai. Những bang này mở hội nghị ở Môngômêri (bang Alabama), quyết định thành lập chính phủ riêng và bầu đại
tá Đêvít, chủ nô ở miền Nam,
bang Mítxixipi làm tổng thống. Về sau, có thêm 4 bang nữa gia nhập Hiệp bang,
thủ đô đặt tại Richmôn (Richmon) thuộc bang Viếcginia. Chính phủ Hiệp bang gấp
rút thành lập một đạo quân 10 vạn người để chống lại chính phủ Trung ương.
Nước Mỹ bước vào
nội chiến và được gọi là “Cuộc chiến tranh ly khai” (1861 - 1865).
Ngày 12-4-1861,
chiến tranh nổ ra ở Carôlina Nam,
rổi diễn ra ác liệt ở trên biển, dọc sông Mítxixipi, trên đất các tiểu bang miền
Nam
dọc Đại Tây Dương. Lúc đầu, lực lượng vũ trang của Hiệp bang miền Nam đã giành được
ưu thế trước lực lượng vũ trang của Liên bang
miền Bắc. Ở mặt trận trên biển, phe Liên bang bị thiệt hại nặng, nhưng ở
trận tuyến dọc sông Mítxixipi, nhờ tài chỉ huy của tướng Gran, lại giành được thắng
lợi. Sau đó, quân Liên bang chiếm được Oócliân (1862) và thành phố Vichhớc
(1863). Hai bang Tếchdát và Akandát bị cô lập. Nhờ chiếm được lưu vực sông Mítxixipi,
quân Liên bang đã bao vây được quân chủ lực của Hiệp bang ở phía đông.
Đầu tháng
7-1863, phe Liên bang giành được thắng lợi quan trọng trong trận Gentibớc. Tình
thế quân sự đã hoàn toàn có lợi cho phe này. Năm 1864, Lincôn tái đắc cử Tổng
thống. Ông bổ nhiệm tướng Gran làm tổng tư lệnh quân đội Liên bang.
Mùa xuân năm
1865, quân Liên bang tấn công thủ phủ Richmôn một cách quyết liệt. Tướng Sôman
tấn công chiếm Gioócgia, đánh lên Xavanna phối hợp với cánh quân chủ lực của tướng
Gran. Ngày 3-4-1865, quân đội Liên bang chiếm được Richmôn. Một tuần sau, tướng
Li (Lee), Tổng chỉ huy quân đội Hiệp bang cùng với 280.000 quân, đầu hàng.
Cuộc nội chiến
kết thúc với thiệt hại ở cả hai phe chừng 60 vạn quân (phe Liên bang thiệt mạng
tới 36 vạn người).
Trong ngày lễ mừng
chiến thắng (14-4-1865), Tổng thống Lincôn bị ám sát. Trước đó, ngày 1-1-1863, ông
đã tuyên bố xóa bỏ vĩnh viễn chế độ nô lệ ở Mỹ.
Đến trung tuần
tháng 12-1865, nghị viện Mỹ bỏ phiếu chấp thuận việc sửa đổi điều thứ 13 trong
hiến pháp như sau: “Không một chế độ nô lệ nào, không một hình thức miễn cưỡng
nào, trừ khi để trừng phạt một trọng tội mà hệ thống pháp lý đúng đắn công nhận
bị can đã phạm, có thể tồn tại ở Mỹ, cũng như ở bất cứ nơi nào thuộc thẩm quyền
của quốc gia này”.
Với cuộc nội
chiến giải phóng nô lệ (và cấp đất tự do cho dân di cư đến miền Tây), nước Mỹ mới
thực sự hoàn thành cách mạng dân chủ tư sản. Từ đây, nền sản xuất hàng hóa tư bản
chủ nghĩa vận động theo đúng con đường phát triển tự nhiên của nó, tự do, không
còn bị cản trở bởi những môi quan hệ sản xuất cũ, và do đó nhịp độ công nghiệp
hóa cũng tiến triển rất nhanh chóng, làm cho nền kinh tế Mỹ vươn lên hàng đầu
trong các nước tư bản. Cùng với việc hầu như không bị cuộc chiến tranh thế giới
lần thứ nhất tàn phá do ở xa trung tâm xung đột, lại còn kiếm được nhiều lợi
nhuận từ “lái súng” và cho vay tài chính, nước Mỹ càng trở nên giàu sụ, sở hữu
một cơ sở vật chất - kỹ thuật đồ sộ và tiên tiến bậc nhất. Điều đó đương nhiên đưa
nước Mỹ tư bản vững vàng bước vào ngôi vị cường quốc - đế quốc số một của thế
giới thời hiện đại.
Có thể nói nước
Mỹ dân chủ tư sản hình thành từ sự xâm chiếm thực dân, từ sự lan tỏa dân cư gồm
đa số là nông dân nghèo khó, chịu phiêu lưu từ Cựu Lục địa (châu Âu), từ tàn sát người da
đỏ bản địa, từ mua bán nô lệ da đen, từ sự đấu tranh giành độc lập và từ nội
chiến. Sự mường tượng cho chúng ta cái cảm giác lịch sử nước Mỹ như là lịch sử
vắn tắt của loài người, cũng đầy đau thương, bi tráng, cũng đầy mồ hôi, nước mắt
và máu xương của Đại Chúng cần lao.
Cái lịch sử ấy đã
làm cho mặt trái của nhân tính như: vô cảm trước sự giết chóc, coi thường sinh
mạng đồng loại, thích thú súng đạn, phân biệt chủng tộc… ngấm sâu vào xã hội Mỹ
mà chủ yếu là vào tầng lớp thống trị Mỹ. Phải chăng hiện tượng đó, cộng với niềm
tự hào, sự kiêu hãnh thái quá đến độ mù quáng về một cường quốc vô định số một,
về một dân tộc vĩ đại cũng đã là một nguyên nhân làm xuất hiện những nhân vật
“kỳ lạ” trong chính quyền Mỹ, những người vô tình hay hữu ý đã mở đường cho sự
tàn sát nhân dân Nhật trong chiến tranh thế giới thứ hai?
Ngày nay, chế độ
dân chủ tư sản Mỹ đã có những điều chỉnh, cải thiện theo hướng công bằng hơn,
nhân đạo hơn, tự do hơn dù vẫn còn những vấn nạn thuộc về bản chất của hình thái
kinh tế xã hội Tư bản chủ nghĩa. Mô hình tổ chức cơ cấu kiến trúc thượng tầng của
nó cũng có nhiều nét ưu việt cần phải học tập.
Nói riêng bản
thân chúng ta rất thích xem phim Mỹ. Tài năng của các nhà làm phim và của đội
ngũ diễn viên Hôllyút (Hollywood)
là không thể phủ nhận. Phim Mỹ nói chung tràn lan cảnh bạo lực, giết chóc. Nhưng
chính bản thân chúng ta đây, dù rất ghét chiến tranh và ghê sợ cảnh giết chóc,
vẫn mê xem nhiều bộ phim như vậy. Thật là lạ lùng! Có lẽ con người hậu thế không
bao giờ loại bỏ được những ấn tượng giết chóc lẫn nhau từ xa xưa tổ tiên, qua hết
đời này đến đời khác truyền lại, lưu lại và đã khắc sâu trong tâm khảm, cho nên
nó vẫn cứ muốn tò mò theo dõi một cách chăm chú và xúc động những câu chuyện,
những cảnh chiếu về những sự kiện thảm khốc, gieo oán và báo thù, tội ác và trừng
phạt, bắt cóc và giải thoát,…
Tuy nhiên, thật
lòng, chúng ta thích xem phim Mỹ không phải chủ yếu về mặt đó. Nếu bỏ qua sự thể
hiện bạo lực một cách thái quá đi và không đề cao chủ nghĩa cá nhân cũng như tính vị kỷ hẹp hòi của nó đi thì phim Mỹ nói chung là những bộ phim rất hay về
nhân tình thế thái, có giá trị giáo dục rất cao về tình yêu thương, đầy tính nhân
văn, đầy lòng nhân hậu. Một trong những nguyên nhân làm cho phim Mỹ trở nên sâu
sắc là sự mô tả rất đời, rất thực, hồn nhiên như cuộc sống vốn dĩ thế, ít gây cảm
giác “kịch”. Nhiều bộ phim Mỹ xử lý tình huống thật tài tình, đưa ra những lý
giải sâu sắc một cách độc đáo, không giáo điều, phô diễn, đã trở thành như những
hùng biện tố cáo đanh thép cái đê hèn của mặt trái nhân tính, ca ngợi cái cao
thượng của mặt phải nhân tính và là những khúc ca khải hoàn về sự lương thiện,
về phẩm giá cao quí của con người.
***
Có người cắc cớ
hỏi rằng: nếu hồi đó phát xít Đức không gây chiến với Liên Xô thì cuộc chiến
tranh thế giới lần thứ hai sẽ xảy ra như thế nào và thế giới biến đổi ra sao?
Khó mà trả lời được. Rất có thế Châu Âu phải rên xiết dưới gót giày của phát xít
lâu hơn nữa; rất có thể Ý - Đức sẽ giành thắng lợi trên chiến trường Bắc Phi; rất
có thể Anh bị bao vây khốn đốn; rất có thể chiến tranh Thái Bình Dương cầm cự với
ưu thế thuộc về Nhật; rất có thể chiến tranh sẽ lan đến tận nước Mỹ… Rất có thể
phe Trục sẽ chiếm ưu thế trong một thời gian dài và tổn thất của thế giới sẽ
nhiều hơn. Dù rất có thể thế này thế khác nhưng với bản chất thâm thù Cộng sản
của Hítle và sự thèm khát bá chủ thế giới đến ngông cuồng của hắn làm cho phát
xít Đức rồi cũng phải đánh Liên Xô, hoặc giả Liên Xô, Anh, Mỹ rồi cũng liên
minh với nhau làm xuất hiện Đồng Minh với sự ủng hộ của Đại Chúng thế giới chống
phát xít, và thắng lợi cuối cùng chắc chắn vẫn thuộc về phe Đồng Minh. Như vậy
trước sau gì Hồng quân Liên Xô cũng đóng vai trò xung kích chủ yếu chống lại lực
lượng xung kích mạnh nhất của phe Trục là phát xít Đức. Chiến tranh Xô - Đức là
sự biểu hiện rõ ràng nhất, chói lọi nhất cái chân lý này: mặt phải nhân tính thường
“nhẫn nhịn” trước mặt trái nhân tính nhưng một khi đã bị buộc dùng đến bạo lực
thì nó trở nên vô địch, trước sau gì cũng giành được thắng lợi cuối cùng,
Cuộc chiến
tranh vệ quốc vĩ đại của quân dân Liên Xô vừa là một cuộc tự vệ vĩ đại, vừa là
một cuộc giải phóng vĩ đại và cũng vừa là một cuộc tiêu diệt vĩ đại sự cường bạo.
Công lao của nhân dân Liên Xô đối với nhân dân Châu Âu và cả của loài người
trong cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai là bất diệt.
Quân dân Liên Xô
dù nhiều lúc đã mở ra những cuộc tấn công to lớn, đánh dữ dội, quyết liệt nhưng
chưa bao giờ tàn sát dân thường một cách có chủ đích và cũng không trả thù kẻ
chiến bại một cách hèn hạ dù đã có lúc nó tàn sát dân tộc mình, đã nêu một tấm
gương cao thượng và nhân đạo. Liên Xô lúc đó quả thật đã là một dũng sĩ, một
trang nam nhi quân tử đích thực.
Bản chất vụ lợi
kiển con buôn của chính phủ Anh, Mỹ lúc đó làm cho những chiến thắng mà họ gặt
hái được trở nên tầm thường đi. Trong chiến tranh thế giới lần thứ hai, quân dân
Liên Xô đã là người chiến thắng quang vinh nhất. Chiến thắng của họ là vĩ đại nhưng
cũng phải trả cái giá hy sinh vô cùng to lớn. Trong các sách giáo khoa lịch sử
về cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại, người ta thường nói đến sự quả cảm tuyệt vời
của quân đội Xô Viết, tài năng quân sự của các tướng lĩnh, lãnh tụ Xô Viết, sự
hy sinh vô bờ bến của quần chúng Xô Viết phục vụ chiến đấu trên khắp đất nước,
tại hậu phương cũng như tại chiến trường Xô - Đức, nhưng hình như người ta đã
“quên” không đề cập đến những chiến công không kém hiển hách, những hy sinh mất
mát không nhỏ của các chiến sĩ tình báo Xô Viết trên “Mặt trận thầm lặng” ở xa
Tổ Quốc, trong lòng địch.
Trong một cuộc chiến
tranh, muốn chiến thắng đối phương thì tự nhiên là phải mạnh hơn đối phương, Muốn
mạnh hơn đối phương thì phải làm thế nào? Rõ ràng nhất là phải huy động sao cho
có vũ khí vượt trội, số lượng quân vượt trội và tinh nhuệ trong chiến đấu. Nhưng
trong nhiều trường hợp, đã không thể có đủ khả năng, đủ thời gian để huy động được
một đội quân như vậy và tình thế buộc phải tham chiến. Lúc đó phải làm thế nào để
có cơ may thắng lợi bằng một lực lượng thiếu hụt? Chúng ta đã trả lời câu hỏi này
rồi! Chỉ xin nói thêm rằng trong lịch sử chiến tranh thế giới, những cuộc kháng
chiến chống ngoại xâm thắng lợi của dân tộc Việt Nam đã là những điển hình của lối đánh
lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều. Nhưng phải nhấn mạnh là không nên hiểu câu
nói đó một cách “ngây thơ” máy móc vì thuận lẽ tự nhiên thì tuyệt đối không bao
giờ xảy ra hiện tượng yếu “bỗng dưng” thắng mạnh, ít “bỗng dưng” thắng nhiều. Các
thánh thần khi “choảng” nhau cũng vậy, ông nào mạnh hơn thì ông ấy thắng, thế
thôi!
Trong một cuộc chiến
tranh, một lực lượng tương đối yếu hơn, muốn tranh thắng với một lực lượng tương
đối mạnh hơn, thì chỉ có một cách duy nhất là làm sao với lực lượng yếu hơn ấy
bỗng trở nên… mạnh hơn; nghĩa là phải biết tạo ra từng lúc, từng nơi, từng trận
đánh bộ phận có thế và lực mạnh hơn đối phương, áp chế được đối phương bằng cách
lợi dụng thiên nhiên (địa thế, thời tiết…), nắm vững địch tình (ý đồ hành động,
sự điều binh bố trận… của đối phương) và biết phân tán cũng như tập trung binh
lực kịp thời, hợp lý. Cuộc tranh đấu nào (kể cả thi đấu thể thao) và nhất là
chiến tranh, muốn có cơ hội giành thắng lợi thì phải có quyền mưu. Một trong những
yêu cầu cơ bản để xây dựng và thực hiện quyền mưu có hiệu quả và thậm chí là có
ý nghĩa quyết định đến thắng - thua trong chiến tranh là nắm được “động - tĩnh”
của đối phương, không những phải hiểu rõ địch tình mà trong điều kiện cho phép
còn phải cố gắng làm rối loạn nội tình của đối phương, đánh lạc hướng đối phương.
Đó chính là công tác tình báo, gián điệp.
Theo Wikipedia thì: "Tình báo là từ chỉ hoạt động thu thập tin tức một cách bí mật
khiến người bị theo dõi không biết rằng mình đang bị theo dõi. Gián điệp
(tình báo viên, nhân viên tình báo hay điệp viên) cũng được dùng để chỉ
người làm việc cho một (hoặc nhiều) cơ quan tình báo với hoạt động thu
thập thông tin một cách bí mật.
Yếu tố quan trọng của gián điệp là hoạt động bí mật vì nếu người bị
theo dõi khám phá ra thì họ sẽ tìm cách thay đổi môi trường để không bị
lộ mật.
Lịch sử Trung Quốc và Ấn Độ có ghi nhận nhiều hoạt động gián điệp từ thời xa xưa. Hai nhà chiến lược gia nổi tiếng là Tôn Tử và Chanakya có thảo luận nhiều về các binh pháp lừa địch và làm xáo trộn hàng ngũ quân địch. Đệ tử của Chanakya là hoàng đế Ấn Độ Chandragupta Maurya đã dùng nhiều biện pháp ám sát và gián điệp mà Chanakya đã kể lại trong quyển Arthashastra của ông. Lịch sử Hy Lạp và Đế quốc La Mã ghi chép rất nhiều về sử dụng gián điệp để thăm dò quân thù. Người Mông Cổ dùng nhiều gián điệp trong công cuộc chinh phục Á Châu và Âu Châu trong thế kỷ 12 và 13.
Hoat động tình báo, gián điệp được ghi nhận nhiều nhất vào thế kỷ 20. Trong Chiến tranh Lạnh từ 1945 cho đến thập niên 1990, Hoa Kỳ, Liên Xô, và Trung Quốc dùng rất nhiều gián điệp để thu thập tình báo của kẻ địch, nhất là tình báo về vũ khí hạt nhân. Vào thế kỷ 21, bên cạnh vấn đề vũ khí hạt nhân, các cường quốc còn mở rộng hoạt động gián điệp vào các hoạt động tình báo mạng, chiến tranh ma túy và những tổ chức khủng bố quốc tế".
Chúng ta sẽ kể
vài câu chuyện trong lịch sử về tình báo - gián điệp, có phần lược thuật đại khái
tác phẩm “Tình báo qua các thời đại” của Jean - Pierre Alen. (NXB Công an nhân
dân, Hà Nội 1995):
Những dấu tích
xưa nhất về nghề tình báo là các tài liệu của Mari, bắt đầu có từ thế kỷ XVIII
trước Công nguyên.
Tài liệu đó cho
biết Mammurabi, người sáng lập Vương quốc Babilon, đã phái gián điệp vào quân đội
đối phương và ra lệnh cho quân mình bắt tù binh để hỏi cung.
Người Ai Cập cũng
dùng gián điệp trong các cuộc chiến tranh với Xiri từ thế kỷ XV đến thế kỷ
XIII, TCN. Pharaông là Tutmét III, khi đến vùng Canaan
đã cho quân dừng lại để cùng sĩ quan nghiên cứu những báo cáo của điệp viên trước
khi chọn một trong ba con đường có thể tiến đánh vua Kadet. Và ông đã chọn con đường
Meggiđo, dẫn đến chiến thắng quyết định vào năm 1468 TCN.
Hai trăm năm
sau, Tamxét II và kẻ thù là người Hittit cũng rất chú ý đến công tác tình báo.
Cũng trong thời
đại đó, Môidơ (Moise) dẫn dân Hêbrơ thiên di đến đất Canaan.
Đứng trên đỉnh núi Nabô, ngắm nhìn đất nước đầy mật và sữa, nhà tiên tri già,
trước khi quyết định đưa dân mình đến lập nghiệp ở đó, đã triệu 12 tộc trưởng đến
và bảo họ: “Các vị đi xem tình hình đất nước này, dân cư là khỏe hay yếu, đông
hay ít, sản vật giàu hay nghèo, thành thị, làng xóm, pháo đài ra sao, đất đai màu
mỡ hay cằn cỗi, có cây cỏ hay không. Các vị hãy hái hoa quả về đây”.
Cũng người Hêbrơ
(tổ tiên của dân tộc Do Thái), sau nhiều trận thua người Philixtanh rồi mới phát
hiện ra rằng vũ khí của đối phương không phải bằng đồng thau như của mình mà là
bằng sắt. Từ đó trong các cuộc chinh chiến, người Hêbrơ luôn coi trọng công tác
tình báo. Giôduê, trong quá trình lên kế hoạch chinh phục Canaan,
đã phái hai điệp viên vào thu lượm tin tức
Giêricô và đến tận Sittun.
Cách đây 1500 năm, tơ lụa là mặt hàng độc quyền của Trung Quốc,
giá cả tơ lụa trên thị trường thế giới do Trung Quốc khống chế. Công
nghệ nuôi tằm lấy tơ dệt lụa là một bí mật quốc gia được người Trung
Quốc cất giữ trong nhiều thế kỷ. Sau sự kiện công chúa Trung Hoa giấu con tằm giống trong khăn trùm đầu vượt qua biên giới Trung Quốc sang Ấn Độ, công nghệ tơ lụa bắt đầu phát triển ở mảnh đất Nam Á này.
Để lấy được bí mật công nghệ sản xuất tơ lụa, Hoàng đế Đế chế Đông La Mã (nay là Hy Lạp), còn gọi là đế chế Byzantium, Justinian đã cho mời các Giáo sĩ Ba Tư
đang truyền giáo ở Ấn Độ tới gặp để nhằm nắm tình hình. Các giáo sĩ đã
cung cấp cho Hoàng đế những thông tin hết sức quan trọng, là muốn có lụa
tự nhiên cần phải nuôi một loại tằm nhả tơ đặc biệt chuyên ăn lá dâu để
thu kén làm nguyên liệu dệt lụa. Theo các giáo sĩ, điều kiện thổ nhưỡng
và khí hậu ở một số vùng của Hy Lạp rất giống với điều kiện ở Trung
Quốc và Ấn Độ phù hợp với loại cây dâu làm thức ăn cho tằm nhả tơ.
Công việc đặt ra quan trọng và khó khăn nhất là làm sao phải đánh
cắp bằng được con tằm giống mà Trung Quốc và Ấn Độ bảo vệ rất chặt chẽ.
Một mặt, Justinian cho người tìm kiếm giống dâu, mặt khác treo thưởng
lớn nếu giáo sĩ Ba Tư nào đánh cắp được con tằm giống đem về nước. Lợi
dụng lúc đi truyền giáo tại Ấn Độ, các giáo sĩ đã đánh cắp được con tằm
rồi giấu vào trong chiếc gậy thiền trượng rỗng mang về Đông La Mã. Chính
vì việc này, mà Hoàng đế Justinian đã phá được sự độc quyền về tơ lụa
của Trung Quốc, và Vương quốc này trở nên giàu có, khiến cho Trung quốc
mất đi khoản thu nhập khổng lồ; và từ những con tằm này đã đặt nền móng
cho ngành công nghiệp tơ tằm Byzantine sau này.
Ngay từ thời Cổ
đại, người Ba Tư đã biết dùng thủ đoạn đầu độc tin tức. Một trong những người sử
dụng thủ đoạn này một cách khéo léo nhất là Đariút (Darius). Sau một năm đánh
chiếm thành Babilon không thành công, nhà vua đã phải nhờ đến hành động trá hàng
của một người dũng cảm tên là Dôpyrơ (Zopyre). Nhà viết sử bậc thầy Hêdôrốt đã
thuật lại là sau khi tự cắt mũi, tai, cạo trọc đầu và cho đánh nát người bằng
roi. Dôpyrơ đến yết kiến Đariút: “Tôi sẽ đóng vai phản bội để vào thành Babilon
và kể rằng chính bệ hạ đã hành hạ khiến tôi khổ thế này. Chắc rằng Babilon sẽ
tin tôi mà trao cho tôi quyền chỉ huy. Sau khi tôi vào thành 10 ngày, bệ hạ cho
1.000 quân vào loại xoàng nhất tiến đánh cổng Sémiramis, 7 ngày sau phái 2.000
quân về cổng Nini, 20 ngày sau đó nữa, bệ hạ cho 4.000 quân đến cổng Chaldé. Các
toán quân này chỉ mang gươm thôi. Cuối cùng, sau thêm 20 ngày tiếp theo, bệ hạ đưa
nốt số quân còn lại, vây quanh bốn phía, rồi nhớ điều quân đến trước nơi tôi đóng
và trước cổng Bêlidi và cổng Xitxi. Tôi hy vọng quân Babilon, sau khi chứng kiến
hành vi của tôi trước những cuộc chạm trán đó sẽ trao cả cho tôi chìa khóa các
cổng. Lúc đó, chính tôi và quân Ba Tư sẽ hoàn tất nhiệm vụ”.
Quân Ba Tư đã
chiếm được Babilon như kế hoạch đó. Để thưởng công cho Dôpyrơ, vua Đariút đã
trao cho vị tướng này cai quản thành Babilon và miễn nộp triều cống suốt đời.
Ở Trung Hoa cổ đại
chắc rằng nghề tình báo - gián điệp cũng được biết đến từ rất sớm. Bởi vì ngay
trong “Binh pháp Tôn Tử” - lý luận thành văn về nghệ thuật quân sự được cho là
cổ xưa nhất nhân loại - đã có một chương (thiên) viết chuyên biệt và sâu sắc về
công tác tình báo, gọi là “Dụng gián” (sử dụng gián điệp). Trong chương này, Tôn
Tử viết: “… Vua sáng suốt, tướng hiền lương sở dĩ xuất quân là thắng, thành công
hơn người là nhờ biết trước tình hình địch. Muốn biết trước tình hình địch, không
thể cầu xin quỉ thần, không thể dựa vào ước đoán, không thể dùng độ số vận hành
của trời, trăng, sao để kiểm chứng, mà phải dùng người, phải khai thác từ những
người nắm được tình hình địch.
Có 5 cách dùng
gián điệp là hương gián, nội gián, phản gián, tử gián, sinh gián… Hương gián là
dùng người dân địa phương bên địch làm gián điệp. Nội gián là dùng người trong
hàng ngũ, chính quyền địch làm gián điệp. Phản gián là dùng ngay gián điệp của địch
làm gián điệp cho mình. Tử gián là tạo tin giả (ngụy tạo) rồi dùng gián điệp
tung ra như một tin tình báo thật nhằm đánh lừa địch. Sinh gián là cho người bí
mật đi thám thính địch tình (công tác trinh sát, thám báo) rồi trở về trình báo
lại.
Cho nên, việc
quân không mật thiết với ai bằng mật thiết với gián điệp, không thưởng ai hậu hơn
thưởng gián điệp. Không mật thiết thì không được lòng người, không hậu thưởng
thì không sai khiến nổi, không kín đáo thì khong thể thành việc.
… Vi diệu thay!
Vi diệu thay! Không việc nào mà không cần dùng gián điệp.
…
Xưa, nhà Ân mạnh
lên là nhờ có Y Doãn làm gián điệp ở trong nhà Hạ, nhà Chu mạnh lên là nhờ Lã
Nha làm gián điệp ở trong nhà Ân. Cho nên minh quân, hiền tướng biết sử dụng những
bậc tài trí hơn người làm gián điệp thì nhất định sẽ thành công lớn. Sử dụng gián
điệp là điều trọng yếu trong việc dùng binh, ba quân dựa vào đó mà quyết định hành
động”.
Nói chung thì tất
cả các tướng lĩnh lãnh đạo quân đội thời Cổ đại, cả ở phương Đông lẫn phương Tây,
đều quan tâm sử dụng tình báo - gián điệp trong các cuộc chiến tranh tấn công -
tự vệ.
Trong kinh thánh
có chuyện “Giuda phản Chúa”. Nhiều người tự hỏi: “Giuda có phải là điệp viên của
Rôma (gọi là đế quốc La Mã) không? Trong cuốn sách “Chúa Giêsu và thánh Gioan”,
sử gia Robert Eisler táo bạo đưa ra giả thuyết Giuda là một chỉ điểm của Rôma cài
vào các tông đồ của Giêsu nhằm giám sát hoạt động mà họ cho là quấy rối của ông
này. Tuy nhiên chưa thể khẳng định được giả thuyết này. Chỉ biết rằng khi sắp bước
sang công nguyên, mạng lưới gián điệp của Rôma đã trải khắp các tỉnh của đế quốc.
Có thể tin chắc rằng mạng lưới đó khá dày ở tỉnh “cứng đầu” nhất - tỉnh Giuđê.
Vào đầu thời
Trung cổ, có chuyện trong nhiều thế kỷ, nhiều nước ven Địa Trung Hải đã tung
nhiều gián điệp đi dò la, cố đánh cắp bí mật “ngọn lửa grêgoa” của người Bidăngxơ
vì nó đã giúp cho dân tộc này tồn tại rất lâu. “Ngọn lửa Grêgoa” là một chất cháy
hỗn hợp gồm diêm tiêu, lưu huỳnh và nhựa. Khi cháy nó gây ra tiếng nổ, khói đặc
và lửa cháy văng tung tóe ra bốn phía, không thể dùng nước dập tắt được mà phải
dùng cát, nước giải hoặc giấm (giống napan?). Thời đó, nó được cho là vũ khí siêu
nhiên. Để bảo mật thứ vũ khí này, vua chúa Rôma chỉ giao cho một gia đình chế tạo
nó. Mãi tới thế kỷ thứ II, bí mật của “ngọn lửa grêgoa” mới bị người Ảrập chiếm
được, nhưng trong hoàn cảnh nào thì đến nay vẫn chưa ai biết. Họ cho thuốc nổ đó
vào bình bằng sành, hoặc bằng thủy tinh rồi dùng cơ cấu bắn đá, bắn vào quân Thập
tự chinh. Trong trận quân Ảrập vây hãm quân Thập tự chinh tại thành Thánh Jean
d’Are, Joinville đã tả thứ “đạn đại bác” này như sau: “Nó nổ to như tiếng sét đánh,
lửa của nó sáng chói trong đêm tối như rồng từ trên trời hạ xuống phun lửa vậy”.
Sang thế kỷ
XIV, thuốc súng ra đời đã hạ bệ chất cháy Grêgoa. Dù thi thoảng vẫn thấy người
ta dùng đến, như năm 1453 quân Thổ Nhĩ Kỳ đã dùng nó để công thành Côngxtăngtinốp,
nhưng dần dần nó đã đi vào quên lãng và còn lại trong truyền thuyết mà thôi. Vào
thế kỷ XVIII, một anh chàng Đuyprê (Duypré) nào đó, có lẽ là do háo danh, đã
khoe rằng mình đã tìm lại được cách chế tạo “ngọn lửa Grêgoa” bất diệt và liền
bị vua Lui XV nhốt luôn vào ngục Baxti để “an nghỉ đời đời” cùng với ngọn lửa
khủng khiếp của anh ta.
Người Hồi giáo
sử dụng chất nổ Grêgoa chống lại người Thiên Chúa Giáo, thì chẳng bao lâu sau, người Thiên Chúa Giáo dùng đến một
thứ vũ khí có khi còn khủng khiếp hơn để chống lại, đó là: Tòa án dị giáo. Bộ máy
giết chóc dị giáo tàn bạo này được khởi động từ thế kỷ XII, khi Giáo hoàng Inôxăng
III sáng chế ra dòng tu Đaminh (Dominique). Tây Ban Nha là nơi đạo quân của Giáo
hoàng mặc áo chùng thâm, đeo thập giá trắng, phạm những tội ác tàn bạo nhất. Cuồng
tín đến độ trong tâm hồn chỉ còn lại phần xấu xa nhất của nhân tính (hay thường
gọi là mất hết tính người) khi họ vồ được những tín đồ dị giáo hoặc bị vu khống
là dị giáo, tra tấn bằng sắt, lửa, bằng những cách còn man rợ hơn cả quân Hung
nô, quân Thổ Nhĩ Kỳ. Tính giả dối và độc địa của họ không thua kém chút nào so
với thói thích giết chóc thành như nghiện ngập. Bề trên của họ đã cho họ cuốn
“Sổ tay gián điệp” mà sau này được in tại Rôma vào năm 1585, trong đó có đoạn:
“…Điệp viên vờ làm bạn để moi được lời thú tội của bị cáo…”. Safoel Sabatini đã
viết trong cuốn “Cuộc đời của Torquemada”: “Tòa án dị giáo là sự nghiệp cảnh sát
lớn nhất trên thế gian này”.
Ở Pháp có chuyện:
Pháp bắt được hiệp sĩ người Anh là Thomas Tuberviller. Philippe le Bel (vua Pháp,
còn gọi là Phillip “đẹp trai”) hứa trả tự do và cấp đất nếu ông này bằng lòng
quay về Anh làm nội gián cho Pháp. Tubeville chấp nhận và trở về Luân Đôn sau một
màn kịch vượt ngục. Hiệp sĩ này đã thâm nhập được vào Hội đồng nhà vua Anh và gửi
nhiều tin tức rất có giá trị cho Pháp. Cuối cùng ông bị lộ và bị xử tử vào năm
1314.
Khi tướng Xubôtai
của Thanh cát Tư Hãn tiến hành cuộc chinh phục Đông Âu vào đầu thế kỷ XIII, ông
chỉ có một lực lượng không quá 10 vạn quân. Dù có tinh nhuệ đi chăng nữa thì với
số lượng quá ít ỏi so với đối phương, cũng khó lòng đứng vững chứ nói gì đến thắng
lợi. Ấy vậy mà họ đã đánh đâu được đó. Những trận đánh tiêu diệt các đạo quân của
Henri nước Xilêdi, của Bêla nước Hunggari là có tính điển hình về sự dụng binh
tài tình. Làm sao Xubôtai có được những chiến thắng to lớn ấy nếu ông không biết
trước được động tĩnh và ý đồ của quân đội đối phương? Chắc rằng phải có tai mắt
hoạt động rất tích cực của công tác tình báo - gián điệp Mông Cổ.
Thật vậy, từ lâu
Thành cát Tư Hãn đã rất chú trọng đến công tác này và lập ra hẳn một bộ phận
chuyên biệt để dò la, thu thập mọi tin tức cần thiết những nước mà ông có ý định
chinh phục. Trong khi Châu Âu mù tịt về Mông Cổ thì Mông Cổ lại hiểu rõ Châu Âu,
không chỉ nắm vững về địa hình địa vật lãnh thổ mà cả về quân sự, chính trị,
kinh tế.
Hunggari đã bắt
và xử không ít điệp viên Mông Cổ trước khi bị nước này tiến đánh. Qua đó cũng có
thể hình dung được Xubôtai, hiểu rõ nước Hunggary đến mức như thế nào. Thậm chí,
ông này còn biết vua Bêla có họ với hai công tước Ba Lan là Boleslav Sanđomik và Conrad Masovie, cũng như
có họ với công tước Đức là Henri Silésie, để có kế hoạch đối phó với Ba Lan và Đức,
hai nước láng giềng của Hunggari, trong trường hợp hai nước này kéo quân đến cứu
cho Bêla.
Tuy không có tài
liệu nói rõ cơ cấu của bộ phận hoạt động tình báo Mông Cổ thời Thành Cát Tư Hãn,
nhưng người ta cũng biết được một số biểu hiện của nó. Điệp viên của Thành Cát
Tư Hãn thường không phải người Mông Cổ: nói chung thì điệp viên hoạt động ở Châu
Âu là người Châu Âu, hoạt động ở Trung Quốc là người Hán, trong đó không ít người
là nhà buôn và cũng có kẻ phiêu lưu. Một số điệp viên còn kiêm luôn chức vụ ngoài
nhiệm vụ tình báo, như một hiệp sĩ Anh hoạt động gián điệp cho Xubôtai, được ông
này trao cho chức chỉ huy một đạo quân sang đánh nước Áo… Tin tức thu thập được
về tình hình Châu Âu được chuyển ngay về Mông Cổ. Nhưng làm thế nào để những
tin tức về đến trung tâm của cái Đại đế quốc bao la ấy mà vẫn “nóng hổi thời sự”,
không bị lỗi thời? Họ đã giải quyết vấn đề bằng “yam”, trạm ngựa đặt trên khắp
các nẻo đường của Đại đế quốc. Giao liên Mông Cổ rất dẻo dai, dây da quấn quanh
mình và lưng, thay ngựa sau mỗi 50 km, trong 10 ngày họ có thể vượt 2.000 km.
Theo Marco Polo, nhà phiêu lưu số một của Châu Âu trung cổ, có khoảng một vạn
trạm ngựa nằm dọc con đường thiên lý, có trạm chứa đến 400 con ngựa. Như vậy,
chỉ riêng những trạm giao liên này đã có đến 30 vạn con ngựa.
Phương tiện
giao liên chính của thời Cổ đại và Trung đại vẫn là ngựa. Ngoài ra người ra còn
dùng những phương tiện khác như dùng lửa, khói, chim câu…
Ngay từ thế kỷ
XVIII TCN, người ta đã dùng đến ngọn lửa làm tín hiệu truyền tin. Tùy thuộc vào
qui ước ngọn lửa lúc tỏ lúc bị che khuất mà các thành phố, quân đội hoặc lính
tuần tra sẽ đọc được thông tin cần thiết. nếu qui ước đó được giấu kín, chỉ ít
người “quan trọng” “đọc” được thôi thì tín hiệu lửa cũng trở thành một thứ mật
mã. Phải chăng dạng mật mã đầu tiên là sự qui ước tín hiệu lửa? Điều thú vị là
phương pháp thông tin bằng tín hiệu lửa vẫn còn được quân đội Pháp dạy vào năm
1938 và trong chiến tranh thế giới thứ hai, du kích Pháp vẫn thường sử dụng.
Một phương pháp
nữa là dùng chim đưa thư. Người ta biết rằng phương pháp này đã được người phương
Đông dùng thời Cổ Đại, rồi lan truyến đến Hy Lạp. Có thể người Hy Lạp và Rôma đã
dùng nó phổ biến.
Một trong những
đòi hỏi sống còn của hoạt động gián điệp là phải bảo mật tuyệt đối nội dung thông
tin trong quá trình chuyển giao. Trong cuốn “Mưu mẹo chiến tranh”, Polyen kể rằng
Histiacus ở đất Milét sửa soạn nổi dậy chống ách đô hộ của Ba Tư, đã gửi cho đồng
minh là Aristagoras một thông tin có nội dung: “Hãy kích động xứ Iôni khởi nghĩa”,
bằng cách cạo trọc đầu một người nô lệ thân tín, viết lên đó, chờ cho tóc mọc
che lấp rồi phái anh này đi. Khi Aristagoras hỏi, người nô lệ trả lời: “Xin cạo
trọc đầu tôi…”.
Frontin còn cho
biết ngay ở những thời đó đã có nhiều cách giấu tài liệu như: giấu trong đế giày,
khuyên tai, bụng chim, hậu môn ngựa… và thậm chí là cả trong tử cung phụ nữ.
Khi sự kiểm soát
trở nên gắt gao thì “cách cất giấu” tài liệu như trên vẫn không đảm bảo bí mật.
Do đó, từ thời Cổ đại, người ta đã biết làm cho ngay cả khi tài liệu bị phát giác,
đối phương vẫn không biết được đó là tài liệu hoặc dù biết là tài liệu thì cũng
không đọc được. Có hai thủ đoạn được dùng từ thời Cổ đại, phổ biến cho đến thời
hiện đại, đó là dùng “mực bí mật” và mã hóa thông tin.
Thủ đoạn thứ nhất
là khi viết nội dung thông tin bằng “mực bí mật”, các chữ sẽ biến mất, muốn đọc
phải dùng một chất nào đó (hoặc cách nào đó) làm cho hiện lên lại: Pline và
Ovide kể rằng có hai thứ “mực” được dùng là sữa tươi và nhựa cây thầu dầu, thuốc
hiện hình là bột than củi. Từ thế kỷ II TCN, người ta dùng nước hãm quả ngũ bội tứ để viết, muốn đọc thì dùng dung dịch sunfát
đồng thấm vào miếng bông xoa lên… (Hồi nhỏ, chúng ta dùng nước vo gạo viết lên
giấy, sau đó hơ lên ngọn đèn dầu, chữ cũng hiện ra).
Các cách thức
thuộc thủ đoạn thứ hai rất phong phú. Mã hóa thông tin phục vụ cho công tác gián
điệp cũng ra đời rất sớm, mà theo Plutarque thì cách mã hóa đầu tiên người ta
biết được là phương pháp Acytalt, xuất hiện vào thế kỷ IX TCN. Scytale là một cái
gậy được quấn vòng quanh thân theo kiểu xoắn ốc bằng một dây da có bản rộng nhất
định. Người ta viết nội dung thông tin lên da thành những hàng song song với trục
gậy. Khi tháo dây da ra thì nội dung thông tin cũng bị “xé vụn” không thể đọc được.
Muốn đọc, lại phải cuốn đoạn dây da đó vào một cái cây có cùng kích thước với cái
cây ban đầu và theo cùng cách quấn trước đó. Phương pháp này, vì là sự làm đảo
lộn vị trí các từ, chữ nên cũng thuộc nhóm phương pháp gọi là “chuyển vị”.
Nhóm phương pháp
thứ hai gọi là “thay thế”. Phương pháp thứ hai này, thời xưa, được người Hêbrơ,
Ấn Độ và sau này là Xêda sử dụng. Người ta cho rằng cuốn sách mật mã đầu tiên
trên thế giới là một tác phẩm do Aeneas viết vào năm 400 TCN. Trong tác phẩm này,
Aeneas cho biết: người Rôma đã có cách mã hóa rất tinh vi là dùng một sợi dây
cuộn trên một chiếc đĩa có những cái khấc tương ứng với các chữ của bảng chữ cái:
muốn đọc nội dung , chỉ cần biết chữ đầu tiên và chỉ cần tách sợi dây ra khỏi
chiếc đĩa thì nội dung thông tin sẽ biến mất. Còn Suétene thì cho ta biết Xêda
mã hóa mệnh lệnh gửi cho các tướng bằng cách đơn giản là thay thế bảng chữ cái
thật bằng bảng chữ cái lùi ba nấc: A chuyển thành D, B chuyển thành E…
Đến thời Trung
cổ, công việc nghiên cứu mã hóa hầu như biến mất. Suốt thời đại này, đại bộ phận
nhân dân mù chữ nên bản thân chữ viết đã là một cách bảo mật. Ngoài ra, giáo hội
còn cấm dùng mật mã, ai vi phạm là bị phạt vạ tuyệt thông (lệnh này áp dụng ra
cả ngoài Giáo hội, chỉ còn một tu sĩ tên là Gerber, sau này trở thành Giáo hoàng
Sylvestre II, sử dụng phương pháp mật mã do chính ông sáng tác).
Trong nghề tình
báo, chẳng những phải bảo mật tin tức mà còn phải bảo vệ nguồn tin, tức là điệp
viên nữa. Các tác giả quân sự thời xưa là Froutin, Polyen, Polybe kể rằng các tướng
lĩnh Rôma đã có ý thức bảo vệ nguồn tin: một khi chuẩn bị ra những mệnh lệnh có
liên quan đến việc sử dụng những tin tức tình báo vừa thu thập được, họ tập hợp
binh lính, sĩ quan, tổ chức lễ tế trời xin thần thánh phán dạy họ phải làm gì và
với cách đó mà giữ bí mật nguồn tin của mình. Sertorius cầm quân lâu ngày tại Tây
Ban Nha lại có một cách che giấu nguồn tin tình báo độc đáo: ông nuôi một con hươu
nhỏ, mỗi khi nhận được tin tức của điệp viên báo về, ông lại vờ lấy cớ là thần Đian
đã báo mộng cho.
Sức mạnh có được
từ công tác tình báo - gián điệp là rất đáng nể vì tác hại mà nó gây ra cho đối
tượng là không thể lường được, đôi khi là rất nặng nề, thậm chí là thua trận, mất
nước. Chúng ta sẽ kể thêm vài ba mẫu chuyện nữa.
Một trong những
ông vua đầu tiên của nước Anh là Alferd Đại đế đã đích thân tiến hành một điệp
vụ thuộc vào hàng táo bạo nhất trong lịch sử tình báo. Cải trang thành kẻ hát
rong cùng một số nhạc công, ông đã lọt được vào doanh trại đồn trú của tướng Đan
Mạch là Gutrum, trong khi quân đội Anh lâm vào thế nguy ngập. Nhờ lần quan sát địch
tình tận mắt đó và thêm tài thao lược, Alferd Đại đế đã chặn đứng được quân Đan
Mạch xâm lược vào năm 878.
Vào cuối thế kỷ
XVII, Pháp có một điệp viên là Léon hoạt động tại Luân Đôn, đế đô của Anh,
trong vai một chức vụ quan trọng: bí thư của vua Guillaume III. Điệp viên này đã
cung cấp nhiều tin tức quí báu cho nước Pháp, nhất là cho Thống chế Luxembourg,
Tổng tư lệnh quân đội Pháp đóng tại Hà Lan. Nhưng đến năm 1692, điệp viên này bị
lộ. Trước khi bị hành hình, điệp viên này bị bắt buộc phải viết một bức thư không
đề ngày, gửi cho viên Thống chế Pháp với nội dung trình bày rằng không phải lo
lắng về sự chuyển quân của Anh vì chúng chỉ đi cắt và chở cỏ cho ngựa. Trước
khi quân Anh tổ chức bao vây tấn công Pháp, bức thư được gửi cho Thống chế Luxembourg
theo con đường liên lạc điệp viên đã sử dụng. Thống chế vì thế khi thấy quân
Anh “rục rịch” vẫn không đề phòng gì. Tảng sáng, quân Anh bất ngờ tràn vào lúc
quân Pháp còn ngủ. Quân Pháp thất bại nặng nề nhưng nhờ sự ứng phó bình tĩnh và
can đảm của một số tướng lĩnh mà không bị tiêu diệt hoàn toàn. Quân Anh rút lui
sau khi bị thiệt hại 7 ngàn quân.
Chuyện sau đây
thật kỳ lạ. Đại Công tước thái tử nước Nga, Pierre de Holstein Gottorp, cháu Nữ
hoàng Nga Elisabeth, là một ông hoàng ngớ ngẩn, suốt ngày chơi với lũ lính nặn
bằng sáp ong. Ông ta kính trọng Frédéric (vua nước Phổ) như thần và hay lén mặc
quần áo sĩ quan Phổ. Frédéric đã lợi dụng tình cảm đó, dụ Thái tử chuyển cho Phổ
tất cả những kế hoạch tác chiến mà chính phủ Áo gửi cho Nữ hoàng Nga. Trong khi
đó, vợ của Thái tử tên là Sophie Anhalt Zerbst, con một Thống chế Phổ, lại cung
cấp cho sứ thần Anh tại Nga cũng những tài liệu như thế. Sau khi Nữ hoàng Nga băng
hà, Đại công tước lên ngôi Hoàng đế nước Nga vào năm 1762, hiệu là Pierre III,
và ngay lập tức cho ngừng chiến tranh chống nước Phổ đồng thời ký với Phổ một
hiệp ước liên minh tấn công. Chỉ một năm sau, bà hoàng Sophie cho ám sát người
chồng ngớ ngẩn để chiếm ngôi, lấy hiệu là Catherine II. Vậy là trong vòng một năm,
lần lượt một điệp viên Phổ rồi đến một điệp viên Anh chễm chệ trên ngai vàng của
nước Nga.
Cũng như Tôn Tử
cách đó hai mươi hai thế kỷ, Frédéric chia gián điệp làm bốn loại, nhưng hơi khác:
dân thường, gián điệp đôi, điệp viên quan trọng và điệp viên bị bắt buộc. Về điệp
viên bị bắt buộc, ông giải thích cách tuyển dụng: “Khi không có điệp viên có giá
trị trong một việc quan trọng, ta đành phải dùng đến mưu mẹo cứng rắn và tàn bạo.
Bắt một kẻ giàu có, ghép vào gia đình này một người khéo léo đóng vai người hầu.
Kẻ giàu có buộc phải dùng người đó đánh xe ngựa chở đến doanh trại quân thù với
lý do kêu cứu rằng ông ta bị hành hạ thô bạo. Nếu ông này không chịu nhận người
của ta, ta sẽ dọa cắt cổ vợ, cướp và đốt nhà ông. Trong trận Chotusitz, trẫm đã
từng dùng mưu mẹo này và đã thành công”.
Một viên tướng
Pháp khá được lòng dân của Pháp, trong cuốn “Nhìn qua vài chi tiết của chiến
tranh”; cũng viết tương tự: “Khi cần có điệp viên để lấy tin tức về kẻ thù, hoặc
đến nơi quân thù chiếm đóng để lấy tin tức, ta nên đưa theo vài phú nông trong
vùng rồi trao nhiệm vụ cho họ và dọa sẽ đốt nhà, bắt vợ con họ… Ta cũng dùng cách
này để cho kẻ thù ăn tin giả”.
Frédéric cũng dùng
gián điệp vào trò tung tin giả. Nhờ thủ đoạn tung tin giả khéo léo mà vua Phổ đã
đánh bại Charles de Lorraine, Tư lệnh quân Áo tại Striegau vào tháng 6-1745. Cũng
vì trò tung tin giả của đối phương mà chính ông cũng suýt nữa bị đại bại. Năm
1758, Frédéric dùng một thiếu tá trong quân Áo thuộc đơn vị của tướng Daun. Hai
bên đang dàn quân nghênh chiến. Viên sĩ quan phản nghịch này gửi tin tức cho quân
Phổ về tất cả kế hoạch tác chiến của quân Áo mà y thu thập được. Một hôm y giấu
báo cáo trong một quả trứng rồi đưa giao liên mang sang cho quân Phổ. Người ta
tình cờ lục soát kẻ giao liên, thấy trứng và trong khi thực phẩm đang thiếu liền
tịch thu hết, giao xuống cho nhà bếp. Khi đập trứng, nhà bếp phát hiện ra tài
liệu liền trình lên Daun và vị tướng này đã dễ dàng bắt được thủ phạm. Ông dụ dỗ
điệp viên kia, muốn sống thì phải viết một báo cáo khác theo ý ông, và viên thiếu
tá điệp viên kia bị khuất phục. Nội dung bản báo cáo mới là: “Tướng Daun do dự
nên phải hội ý với Hội đồng chiến tranh để ra quyết định đánh ngay hay chưa đánh
quân Phổ. Hội đồng này cũng do dự nên phải xin chỉ thị của Nữ hoàng. Muốn nhận được
trả lời của Nữ hoàng, phải mất 8 ngày”. Báo cáo viết xong được gửi ngay tới Frédéric
bằng con đường quen thuộc.
Frédéric cả mừng,
mời tất cả các thủ trưởng đơn vị đến ăn tối. Khi bữa tiệc sắp tàn, ông được tin
có một lính Áo đào ngũ xin được yết kiến nhà vua. Người lính Áo đó tâu rằng tướng
Daun sắp tấn công. Nhưng tin vào bản báo cáo của điệp viên nên Frédéric không
nghe theo người này và còn nhận định đây chỉ là thủ đoạn tung tin giả của quân Áo
nhằm gây rối loạn, bất an trong hàng ngũ quân ông. Thế là vua Phổ quyết định cứ
để quân lính nghỉ ngơi, đi ngủ một cách bình thường.
May có một đại
tá kỵ binh vẫn nghi ngại. Sau khi ăn tiệc về, ông này thuyết phục hai đại tá nữa
cho các trung đoàn của họ ở trong tình trạng báo động.
Đúng 3 giờ sáng
thì quân Áo ào ạt tấn công. Nhờ sự chiến đấu hy sinh của ba trung đoàn bộ binh đó
mà quân Phổ không bị tiêu diệt. Frédéric dẫn được tàn quân rút về một căn cứ mạnh
sau khi đã mất một vạn quân và 3 tướng giỏi là thống chế Keith, Hoàng thân
Brunswich và Hoàng thân Anhalt cùng vô số quân cụ.
Napôlêông Bônapác
là một người có thiên tài nhiều mặt. Một trong những thiên tài ấy là “thấy” được
những con người có biệt tài về mặt này hay mặt khác và biết dung nạp, đặt họ vào
đúng vị trí để họ có thể phát huy được hết tài năng phục vụ cho Đế chế. Một
trong những lĩnh vực mà Napôlêông hết sức quan tâm và ra sức củng cố vì hiểu được
tầm quan trọng cực kỳ của nó chính là công tác tình báo - gián điệp trong đối nội
cũng như đối ngoại. Dưới thời ông, hàng loạt cơ quan mật ra đời, hoạt động độc
lập nhau, có khi nhằm giám sát nhau và chỉ trực thuộc Hoàng đế; chẳng hạn như:
Cục tình báo Bộ quan hệ đối ngoại, cơ quan tình báo của Hiến binh ưu tú, cơ
quan tình báo quân sự… Điều hành những cơ quan đó là những nhân vật ưu tú về tài
năng như: Savary, Desmarest, Talleyrand, Landrieux, Fouché … Trong số đó, nổi bật
lên trên hết là Fouché.
Phusê (Joseph
Fouché) giữ chức Bộ trưởng cảnh sát. Ông là một thiên tài trong nghề của mình,
nhất là trong công tác mật vụ, phản gián. Napôlêông thoát được mọi mưu phản
trong nước là nhờ vào sự mẫn cán và tài ba của Phusê. Phusê đã dùng tiền bạc và
mánh khóe mà mua chuộc được hoàng hậu đa tình Joséphine và bí thư của Hoàng đế
là Bourienne. Nhờ hai “điệp viên tại chỗ” này mà ông nắm được các báo cáo của những
cơ quan mật khác và có thể chỉ ra ngay những kẻ theo dõi ông theo lệnh của vị Hoàng
đế đa nghi. Vì thế mà Phusê nắm chắc tình hình có khi hơn cả Hoàng đế và người
ta phải thừa nhận ông là người hùng thứ nhì của nước Pháp sau Napôlêông.
Ngay từ buổi bình
minh của sự nghiệp lâu dài và đẫm máu của mình, khi mới chỉ là một tướng trẻ, Bônapác
chỉ huy chiến dịch nước Ý mà ông đề xướng và Viện Đốc Chính (cơ quan hành pháp
cao nhất của chính quyền Pháp lúc đó) cho rằng không mấy quan trọng về mặt chiến
lược, Napôlêông đã thấy ngay công tác tình báo kiểu manh mún, mỗi tư lệnh đơn vị
tham gia chiến dịch trên đều có vài điệp viên, là thiếu hiệu quả, cần phải thay
thế bằng một cơ quan tình báo chính trị - quân sự tập trung đủ mạnh để có thể
thu thập thông tin có giá trị hơn một cách đồng bộ. Ông đã chọn đại tá kỵ binh
tên là Langdriơ (Landrieux) thực hiện việc này. Sự lựa chọn này thật không chê
vào đâu được. Langdriơ đã trở thành người “cái gì cũng biết, cái gì cũng làm được”.
Mạng lưới gián điệp của ông này giăng ra trong một khu vực rất rộng lớn, điệp
viên có mặt ở khắp nơi: Rôma, Turinô, Florenxia, Vơnidơ, Napôli, Viên, Pari, cả
trong Viện Đốc Chính, trong quân đội đối phương, trong chính đội quân của Bônapac.
Langdriơ có thể tiêu diệt từ trứng nước bất kỳ cuộc mưu phản, bạo loạn nào; có
thể làm cho cả một thành phố bỗng dưng nổi dậy… Có thể là do phản ứng lại việc
tàn sát tại Vêrône trong dịp lễ Phục sinh và với lý do Đốc Chính nhận được một
số báo cáo giả mà ông bị thuyên chuyển về nước. Nhưng Bônapác vẫn giữ lại và sử
dụng cái cơ quan tình báo mà Langdriơ đã lập ra. Nhờ có nó mà Bônapác chiếm được
đảo Manta không mất một viên đạn.
Ở Bộ Tổng tham
mưu có phòng tình báo do tướng Savary chỉ huy. Năm 1810, Savary thay Fusê làm Bộ
trưởng cảnh sát nhưng vẫn kiêm nhiệm chức Cục trưởng cơ quan tình báo quân sự và
như vậy, trở thành thủ trưởng chính của tất cả các cơ quan tình báo Pháp. Để thấy
Savary là người tài năng đến đâu, chỉ cần nhìn vào sự nghiệp tóm tắt của ông: là
sĩ quan mật vụ dưới chế độ Đốc Chính và Tổng Tài của cuộc cách mạng Pháp; năm
1800 là Tư lệnh hiến binh; năm 1803 được phong cấp tướng; năm 1807 được phong Công
Tước; 1810 là Bộ trưởng cảnh sát và Cục trưởng Cục tình báo quân sự; trung thành
tuyệt đối với Napôlêông, muốn theo Napôlêông đi đày ra đảo Thánh Bà Hêlen nhưng
bị người Anh bắt giam; năm 1816 vượt ngục trốn sang Cận Đông, rồi về Pháp; năm
1831 tái ngũ, được cử làm Tư lệnh quân đội Pháp ở Châu Phi.
Savary không có
cái thiên tài của Fusê nên trong việc bảo vệ nội bộ đã để xảy ra một sự kiện
nghiêm trọng. Số là Malet, lính ngự lâm quân, theo cách mạng, năm 1804 lên cấp
tướng, bị đuổi khỏi chức vụ rồi bị tống giam vì lập ra tổ chức bí mật bất hợp
pháp mang tên là “Anh em xanh”. Bị giam nhưng vẫn ngầm tổ chức được cuộc đảo chính
vào đêm 20-10-1812. Lúc đó Napôlêông đã đem quân đi đánh nước Nga xa xôi, 14 ngày
liền không có tin tức gì về ông. Malet tung tin hoàng đế đã chết và lôi kéo được
hai trung đoàn, bắt Savary đang ngủ, chiếm Bộ Nội Vụ và Cục Cảnh Sát rồi đưa
hai người theo y lên nắm hai cơ quan này. Nhưng tướng Aullin, Tư lệnh sư đoàn 1
không theo quân phiến loạn, liền bị Malet rút súng bắn chết. Các sĩ quan của Aullin
bèn xông vào tước súng và bắt giữ luôn tên này. Mất kẻ cầm đầu, cuộc bạo loạn
thất bại. Malet và mười hai đồng bọn bị xử bắn, còn Savary thì bị chế nhạo. Tuy
nhiên, khi trở về, Napôlêông vẫn quyết định cho Savary giữ chức vụ cũ. Công bằng
mà nói với những thành tích khác và nhất là việc tuyển mộ được Sumâytơ (Charles
Louis Schulmeister), Savary đã làm được nhiều việc đắc lực cho Hoàng đế, vẫn là
thủ trưởng đầy năng lực của cơ quan tình báo quân sự Pháp.
Sumâytơ là một
con người có những cá tính xung khắc nhau đến kỳ lạ. Là người đặc biệt có tài
trong nghề tình báo và được các nhà phân tích thừa nhận là một trong những điệp
viên vĩ đại nhất qua mọi thời đại. Ông sinh năm 1770 tại một vùng hẻo lánh bên
hữu ngạn sông Ranh. Cha ông là mục sư. Vì thèm khát danh vọng, ông thường tự
khoe mình là dòng dõi của một gia tộc cao quí ở Hunggari. Ông được giáo dục rất
cẩn thận và kết hôn với con gái một kỹ sư. Năm 1788, ông mở một tiệm nhỏ buôn bán
gia vị và thuốc lá tại Strasbourg.
Dần dà, tiệm nhỏ đó chỉ còn như một cái mác ngụy trang của một trùm buôn lậu trên
sông Ranh. Năm 1799, Savary hành quân trong xứ Rhénanie và biết đến ông. Năm
sau Sumâytơ được Savary tuyển dụng và bốn năm sau thì thực thụ vào nghề tình báo.
Sumâytơ đã phụng
sự hết sức nhiệt thành cho Hoàng đế và nước Pháp Đế chế bằng những chuyến công
tác đầy khó khăn nguy hiểm tại Áo, Đức, Hà Lan, Anh và Ailen.
Là một người rất
nóng tính, trong chuyến công tác tại Strabourg theo lệnh của Savary để điều tra
những âm mưu chia cắt nước Pháp, Sumâytơ đã rút súng bắn luôn hai thủ lĩnh mưu
phản. Ông là người vô cùng xảo quyệt nhưng chỉ với mục đích vì nước Pháp, muốn
làm cho nước Pháp của ông quang vinh. Không bao giờ ông phản phúc, mặc dù ở thời
đại ông, sự phản bội là một hiện tượng phổ biến (chúng ta nhớ lại Tanlâyrăng, Mácmông,
Murat, Morô…). Nhiều người cho rằng ông không có tình cảm, nhưng trong thực tế
thì ông có nhiều con nuôi và bao giờ cũng tỏ ra đại lượng với không chỉ bạn bè
mà cả những người không phải là bạn bè…
Sumâytơ được trả
lương như ông hoàng nhưng cũng có những thu nhập không chính đáng. Savary và ông,
thông qua một tay sai tên là Bernard thu tiền hồ các sòng bạc rồi hai người
chia nhau, hàng năm lên tới 9 triệu quan. Nhờ thế mà Sumâytơ có thời trở nên rất
giàu có. Ông có hai lâu đài, trong đó có một cái tên là Meinau. Meinau được người
ta ca tụng: một lâu đài sang trọng với 2 hécta vườn theo kiểu Anh và có 162 hécta
rừng bao quanh tuyệt đẹp. Chỉ lâu đài đó thôi, đã là một núi vàng rồi. Ông chỉ
còn ước ao đến một tấm huân chương bắc đầu bội tinh. Ấy vậy mà không hiểu sao, Napôlêông
đã từ chối việc khen thưởng đó bằng lời tuyên bố bất ngờ và có phần khinh mạn:
“Người ta thưởng gián điệp bằng vàng chứ không khen bằng huân chương”.
Có lẽ chiến công
lớn lao nhất của Samâytơ trong toàn bộ sự nghiệp tình báo của ông là đã đạo diễn
làm nên trận thắng của quân Pháp tại Ulm
vào năm 1805, mở đường tiến tới Viên - thủ đô nước Áo.
Khi chân ướt,
chân ráo tới Viên, Sumâytơ diễn lại vở cũ thời xưa của mình: xuất thân trong một
gia đình quí tộc cao quí Hunggari, di cư sang Pháp, nhưng phải trốn khỏi đó vì
ai cũng biết ông thân với dòng họ Habsbourg. Tướng Mark kết thân với ông và tiến
cử ông vào triều đình Áo. Khi chiến tranh nổ ra, tướng Mark dùng ông làm cố vấn
tình báo cho mình. Trên cương vị này Sumâytơ tuyển mộ và cộng tác chặt chẽ với
chỉ huy quân báo Áo là đại úy Word. Sumâytơ đã cố gắng làm cho tướng Mark tin rằng
quân lính Pháp đã chán ngấy chiến tranh và sẵn sàng nổi dậy chống Napôlêông, rằng
nhiều phần tử đang âm mưu phản loạn ở nước Pháp đã viết thư cho ông, và để chứng
minh, ông đã đưa trình cho tướng Mark những tờ báo kích động bạo loạn được in và
lưu truyền bí mật trong nước Pháp - mà thực ra là do Savary chế tác, làm cho vị
tướng này mê tít. Khi tướng Mark đưa bốn vạn quân tinh nhuệ nhất của Áo đến Souabe,
chờ hội quân với đạo quân Nga do tướng Cutudốp chỉ huy để lúc đó mới cùng tiến đánh
đạo quân Pháp do thống chế Ney chỉ huy, thì quân Pháp đột nhiên rút lui (theo âm
mưu sắp đặt trước của Sumâytơ). Sumâytơ ru ngủ Mark rằng quân Pháp rút chạy là
do binh lính chống đối, không chịu chiến đấu, và đây chính là thời cơ có một không
hai đánh tan quân Pháp. Mark bèn thay đổi quyết định, không chờ hội với quân
Nga nữa mà tổ chức tiến quân truy đuổi đạo quân của Ney. Quân Pháp rút từ từ đến
Ulm thì quân Áo
bắt kịp. Nhưng đến đây đạo quân của Ney đột nhiên dừng lại, không những không hoảng
loạn mà tỏ rõ quyết tâm nghênh chiến. Đã thế hai bên sườn quân Áo còn xuất hiện
hai đạo quân Pháp do hai tướng Soult và Dupont chỉ huy, cùng lúc đó đạo quân kỵ
binh Pháp của tướng Murát cũng đã có mặt sau lưng quân Áo. Lâm vào thế hoàn toàn
tuyệt vọng, tướng Mark đầu hàng ngày 19-10.
Tại Viên, người
ta vẫn chưa hay biết về sự thảm bại ở Ulm.
Sumâytơ đã tung ra những tin tốt lành của đạo quân trên thực tế đã không còn tồn
tại, khiến cho ông được giới thiệu lên quần thần của vua Áo cũng như vua Nga.
Thậm chí khi tin thất bại về đến Viên và Mark đã bị nhà vua bắt giam mà Sumâytơ
vẫn còn lừa gạt và giữ được tín nhiệm một thời gian nữa. Đến khi Sumâytơ lâm vào
tình thế nguy hiểm, sắp bị bắt thì cũng là lúc tướng Murát kéo quân vào Viên
(ngày 13-11). Lúc này Sumâytơ mới lộ nguyên hình là sĩ quan Pháp và được Napôlêông
giao trọng trách Tổng ủy viên cảnh sát thành Viên một thời gian ngắn. Nhưng chỉ
trong thời gian ngắn đó thôi ông cũng đã kịp đưa hàng loạt sách mang tư tưởng
tiến bộ của các nhà văn nổi tiếng Pháp như Vônte (Voltaire), Điđơrô (Didorot)…
vào thủ đô của nước Áo phong kiến cổ hủ.
Năm 1809, Sumâytơ
được giữ chức Tổng ủy viên các lực lượng tác chiến của Hoàng gia. Đây là đỉnh
cao nhất về danh vọng trong sự nghiệp của ông.
Năm 1814, khi
quân châu Âu Liên minh tràn vào nước Pháp, quân Áo đã không quên mối thù cũ, đốt
phá cả hai lâu đài của Sumâytơ. Ông đã không quỵ lụy để lấy lòng kẻ chiến thắng
như nhiều nhân vật cao cấp khác. Trong sự kiện “Một trăm ngày”, khi Napôlêông từ
đảo Elbe trở lại nắm quyền, Sumâytơ đến Pari và tức khắc bị cơ quan phản gián của
Phổ bắt giữ. Sau khi chấm hết thời đại Napôlêông ở Oatéclô, ông mới được thả với
khoản tiền chuộc phải chịu khá lớn.
Khi Lui XVIII lên
ngôi, Sumâytơ đã khôn khéo tránh được sự trả thù của ông vua này. Ra khỏi đời sống
chính trị, ông cho tu sửa lại hai lâu đài, gả con gái rất linh đình và làm phúc
khá tốn kém. Ông quay về nghề kinh doanh nhưng thua lỗ, phải bán cả hai lâu đài
rồi mua một ngôi nhà nhỏ ở quê hương Strasbourg.
Cuối đời, Sumâytơ sống an bình, rất đúng mực, được mọi người xung quanh tôn trọng.
Để thanh minh trước những dư luận không tốt về quá khứ của mình, ông cũng viết
hồi ký và cho xuất bản. Sumâytơ mất năm 1853, thọ 83 tuổi.
…
Lịch sử tình báo
thế giới là một kho khổng lồ những câu chuyện kỳ thú mà không ai có thể kể ra hết
được, nghe hết được. Đồng thời, cũng có thể coi đó như một vở bi hài kịch trường
thiên chưa dứt, như một tấn tuồng vĩ đại đầy hỉ nộ ái ố trên mọi phương diện, mọi
góc cạnh, mọi cung bậc, mọi ngóc ngách trong đời sống sinh động của tâm hồn con
người ở cả hai chiều nhân tính xấu xa và cao đẹp; mà nhiều khi rất khó phân biệt,
chọn lựa đúng - sai và đồng thuận được bởi sự đa tạp của quan niệm, đa chiều về
thị phi, cái đa nhân cách trong một cá tính, đối với những người trong cuộc, người
đương thời và cả đối với hậu thế.
Có đa chiều về
thị phi bởi có đa tạp về quan niệm; có đa tạp quan niệm là bởi vì con người có
trí khôn nhưng vẫn còn mù quáng vì duy ý chí đã không biết mình mù quáng; mù quáng
là vì còn nhận thức mơ hồ về bản thân cũng như về Tự Nhiên và chưa thấy được viên
ngọc quí sau manh áo vải thô, trong lòng Lão Tử. Chỉ khi nào nhận thức được đến
tận cùng căn nguyên của Tự Nhiên Tồn Tại, một cách triết học, lý trí con người
mới được cho là thông tỏ. Nhờ nhận thức xác đáng Tự Nhiên Tồn Tại mà con người
biết rằng chính áp lực của quy luật đấu tranh sinh tồn đã tạo ra tất cả những
suy nghĩ cũng như những hành động trái chiều nhau ở loài người. Tình cảm là cảm
giác bản năng được trang bị tư duy. Nhờ có tình cảm mà lý trí được hun đúc nên
và trái lại lý trí làm cho tình cảm thêm sâu sắc và mạch lạc. Hai cái đó hòa
quyện vào nhau, tương hỗ nhau làm nên nhân
tính. Từ nhận thức về có - không, còn - mất, sinh - tử và sự mách bảo bản năng
phải ưu tiên sống còn mà lý trí đã lựa chọn, phân biệt những suy nghĩ và hành động
trái chiều nhau nói trên ra thành hai lực lượng ưu tiên - không ưu tiên, đúng -
sai, tốt - xấu, có lý - vô lý, chính nghĩa - phi nghĩa, thiện - ác…, để rồi trên
phương diện tình cảm, những cái như đúng, tốt, chính nghĩa… hay đại loại là những
hành động, suy nghĩ phụng sự cho sự sinh tồn (từ đó mà cho những nhu cầu của
sinh tồn) trước hết là của con người, đều được qui về một cái gọi là Đạo Đức; số
còn lại được gọi là phi Đạo Đức.
Khi lý trí còn
mù quáng thì tình cảm còn nặng bản năng và trở nên ích kỷ; bởi vì thông thường
và cũng tự nhiên, con người bao giờ cũng ưu tiên cho sự sống còn của bản thân mình
trước tiên, rồi mới đến người thân, cộng đồng, chỉ có lý trí mới “nhắc nhở” đến
sự nhường nhịn, hy sinh.
Trong một xã hội
còn đầy ắp bạo lực với vô vàn lý trí mù quáng làm cho tình cảm thiên vị như thế
thì quan niệm thị phi không thể không hỗn tạp được và dẫn đến đủ mọi cách hiểu
về đạo đức. Mặt khác, tuân theo tự nhiên, bị chi phối bởi tính nước đôi của Tự
Nhiên (thể hiện ra trước quan sát) mà cái gọi là đạo đức đôi khi cũng chưa hẳn đạo
đức, ở đây gọi là đạo đức thì chưa chắc ở kia gọi là đạo đức, ở phạm vi này gọi
là đạo đức thì ở phạm vi khác biết đâu chừng bị gọi là phi đạo đức…
Tuy nhiên, xã hội
không đến nỗi siêu hình đáng sợ như thế. Cũng như Vũ Trụ, xã hội loài người hỗn
độn mà hài hòa. Xã hội tồn tại là vì nó phù hợp đạo lý, có một vận động nội tại
thống nhất, tuân theo nguyên lý Tự Nhiên. Cái “đống” hỗn độn đủ kiểu đạo đức ấy
cũng phân ra tương đối thành hai lực lượng quan niệm có tính xã hội là Đạo Đức
Xã hội và Phi Đạo Đức Xã hội.
Đạo Đức Xã hội
là tập hợp tất cả những quan niệm đạo đức phụng sự cho sự sống còn của toàn xã
hội trên cơ sở đảm bảo sự sống còn của từng cá thể, thành viên hợp thành xã hội
và vì thế mà cũng đòi hỏi xóa bỏ những cản trở, những tác hại đến sự tồn tại xã
hội. Nhân dân là nền tảng xã hội và Đại Chúng là đại diện của nhân dân nên Đạo Đức
Xã hội cũng chính là Đạo Đức của nhân dân và có thể gọi là Đạo Đức Đại Chúng.
Đạo Đức Nhân Dân
không phải tự dưng mà có, mà là sự nhận thức, kế thừa, hun đúc từ đời này sang đời
khác, từ thời đại này sang thời đại khác về một quan niệm sống mà nó cho là đúng
đắn (vì có tính phụng sự toàn xã hội nên phải là đúng nhất!) như: yêu hòa bình,
đoàn kết, tương thân tương ái, ghét áp bức cường quyền… Có thể nói Đạo Đức Nhân
Dân (nói chung!) là có tính chân lý và là bộ phận của (hay chính là) truyền thống
dân tộc. Vì cùng xuất phát từ mục đích phụng sự sống còn xã hội nên Đạo Đức Nhân
Dân của các nước trên thế giới là tương đối tương tự nhau. Vậy Đạo Đức Nhân Dân
có phải là Đức Huyền Diệu mà Lão Tử đã “sáng tạo ra” và chúng ta đã mượn “xài”
thoải mái từ trước tới giờ không? Đạo Đức Nhân Dân là tấm gương soi chân lý về
thị phi nên có thể cho nó là Đức Huyền Diệu. Nhưng vì nó mang cả tính thời đại,
bị “vướng víu” ít nhiều bởi những quan niệm còn hạn chế của thời đại nên chưa
thể là Đức Huyền Diệu đích thực. Đức Huyền Diệu đích thực là Đạo Đức của toàn
Nhân Loại khi lý trí Nhân Loại đã thông tỏ và không còn tính thời đại.
Tuy nhiên, để bám
vào hiện thực, chúng ta tạm cho rằng Đạo Đức Nhân Dân chính là Đức Huyền Diệu và
tiếng nói của Đại Chúng là đại diện cho Đức Huyền Diệu, hành động của Đại Chúng
là phụng sự cho Đức Huyền Diệu.
Cũng vì lẽ đó mà
một tư duy lành mạnh là “trùng” với tư duy Đại Chúng, quan niệm thị phi của nó
là trùng với quan niệm thị phi của Đại Chúng và đạo đức của con người mang tư
duy ấy là có bản chất của Đạo Đức Đại Chúng, tức là thuộc về Đức Huyền Diệu.
Khi đã có một tư duy lành mạnh thì tình cảm và lý trí cũng lành mạnh. Một lý trí
lành mạnh bao giờ cũng đánh giá thị phi theo quan niệm thị phi của Đức Huyền Diệu
và nhờ thế trước những sự vật - hiện tượng xuất hiện và tồn tại trong xã hội,
trước sự lựa chọn hành động cho mình, một lý trí lành mạnh, thông thường, xác định
được đúng - sai, thiện - ác… một cách rõ ràng, mạch lạc và đích xác, phù hợp với
thời đại.
Thế nhưng, như đã
nói, bản năng sinh tồn luôn “bắt” con người phải ưu tiên lựa chọn hành động cho
bản thân mình và vì bản thân mình, do đó mà tình cảm và lý trí cũng trở thành ích
kỷ: yêu mình trước, thậm chí là chỉ biết yêu mình thôi; vì mình trước và thậm
chí chỉ biết vì mình thôi, làm xuất hiện một đạo đức trái ngược với Đạo Đức Đại
Chúng, không thuộc Đức Huyền Diệu. Một hành động trên nền tảng đạo đức ấy, vì nặng
tính mù quáng nên chúng ta tạm gọi là hành động theo bản năng lý tính (xin nhắc
lại rằng những điều chúng ta vừa nói, nên hiểu một cách biện chứng, bởi vì tùy
góc độ qui ước mà có thể nói khác đi và vẫn đúng hoặc có thể còn đúng hơn do sự
chi phối của nguyên lý “nước đôi”).
Thật ra, Đức
Huyền Diệu đâu có loại bỏ tình cảm yêu mình và hành động vì mình! Mục đích tối
hậu của Đức Huyền Diệu là bảo đảm sự sinh tồn xã hội. Vì mục đích ấy mà trong
những trường hợp nhất định, buộc nó phải hy sinh (hoặc thậm chí phải ra tay tiêu
diệt) một bộ phận sinh tồn xã hội nào đó (đã cản trở hoặc định tiêu diệt sinh tồn
xã hội) để ưu tiên lựa chọn, để bảo vệ đa số sinh tồn xã hội - sinh tồn của Đại
Chúng. Nhưng bảo đảm sinh tồn trên bình diện xã hội thì cũng có nghĩa phải đảm
bảo sinh tồn được ở bình diện cá thể, ở từng thành viên làm nên xã hội (hoặc Đại
Chúng), vì nếu từng cá nhân không thể sinh tồn được thì xã hội (hoặc Đại Chúng)
cũng còn đâu nữa mà nói đến sinh tồn.
Rốt cuộc lại, Đức
Huyền Diệu dạy rằng: phải ưu tiên cho sinh tồn xã hội, nhưng đảm bảo được sinh
tồn xã hội thì cũng là đồng thời đảm bảo sinh tồn ở mỗi cá nhân, miễn sự đảm bảo
sinh tồn cá nhân của mỗi cá thể không gây cản trở, tác hại đến sự đảm bảo sinh
tồn toàn xã hội, nghĩa là hai sự đảm bảo sinh tồn ấy phải cùng chiều: Sống vì mình
thì cũng chính là vì cộng đồng xã hội và sống vì cộng đồng thì cũng chính là vì
mình; bảo vệ cộng đồng chính là bảo vệ mình và bảo vệ mình phải trên cơ sở bảo
vệ cộng đồng.
Khi đã thấu tỏ được
Tự Nhiên Tồn Tại thì cũng phải thấu tỏ Đức Huyền Diệu. Nhưng nếu phân Tự Nhiên
Tồn Tại ra thành tự nhiên và xã hội; Tồn Tại ra tồn tại và sống còn thì thấu tỏ
tự nhiên thôi là chưa hoàn thiện mà còn phải thấu tỏ xã hội nữa. Thấu tỏ được xã
hội thì cũng là thấu tỏ được xã hội và cá nhân. Loài người sống còn được là do con
người liên tục được sinh ra thay thế con người đã chết đi, và đó là đạo lý. Con
người được sinh ra để “chờ” ngày chết đi, cũng là đạo lý. Cái khoản “chờ” ấy được
gọi là sự sống, hay cuộc sống hay cuộc đời của mỗi con người. Có thể nói con người
sinh ra là để sống trước khi để chết. Con người suy nghĩ, trước sau gì cũng đặt
ra câu hỏi : tại sao lại được sinh ra để rồi phải chết đi, và sống để làm gì? Bởi
vì đạo lý đã định đoạt như vậy: đã có sinh thì phải có tử, là sự ngẫu nhiên
trong cái tất yếu, tưởng ưu tiên mà chẳng phải ưu tiên, tưởng rất quan trọng nhưng
chẳng là cái quái gì cả. Thế nhưng, đối với loài người thì cuộc sống con người
có tầm quan trọng bậc nhất: duy trì sự sống còn cho nó. Nếu thế thì con người sống
chỉ là vì loài người? Đúng, nhưng chưa đủ! Con người sống trước tiên là cho nó
chứ chẳng cần biết đến loài người nhưng nhờ thế mà loài người duy trì được sống
còn. Mặt khác, trong quá trình sống, con người suy nghĩ thấy sống “một mình” thì
“khó quá” nên nó phải liên kết với những con người khác để “chung lưng đấu cật”
cùng sống cho dễ dàng hơn và qua đó mà “vô tình” phụng sự cho sự sống còn của loài
người. Bản năng sinh tồn nói chung là “bắt” mọi sinh linh phải “cố gắng” đến tận
cùng khả năng để… sống. Ở con người suy nghĩ, bản năng sinh tồn ấy đã ngấm sâu
trong tim, óc, xương, tủy làm cho nó ghê sợ cái chết hơn bất cứ con vật nào khác
và do đó mà cố gắng hơn cả con vật, đem tất cả tài năng và nghị lực ra để duy
trì cuộc sống, kéo dài cuộc sống, ghê sợ cái chết làm thiết tha cuộc sống, tôn
vinh cuộc sống và làm xuất hiện một tình cảm gọi là Tình yêu cuộc sống.
Yêu cuộc sống của
mình thì cũng là yêu mình, mà yêu mình thì phải ưu tiên cho mình. Nhưng ưu tiên
cái gì? Đó là khi có khả năng (khi tạo được khả năng) thì ưu tiên cho mình sống
bớt đói khát, khổ đau hơn người khác, ưu tiên cho mình được sống sung túc hơn,
hạnh phúc hơn, được hưởng khoái lạc nhiều hơn. Đến đây, để trả lời câu hỏi: sống
để làm gì?, chúng ta nói: sống là để hưởng thụ cuộc sống, nhưng không có sẵn cái
để hưởng thụ nên phải làm việc mà tạo ra. Nếu có sẵn cái để hưởng thụ rồi thì
chẳng ai thèm làm việc, nếu đã thỏa tò mò rồi thì chẳng ai thèm nghiên cứu cho
mệt xác, nếu đã biết tỏng “cái gì đó” là cái gì rồi thì chúng ta chẳng dại gì mà
cặm cụi viết nhăng cuội cho đến ngày hôm nay làm “lãng phí” cuộc đời mình,
trong khi “em út ngoài kia” đang thiếu một tay chơi có hạng. Hay trong tục ngữ
Việt nam có câu:
“Có ăn vất vả đã cam
Không ăn ta ngủ, ta làm
làm chi”
Đã là con nguời
thì từ người khôn cho đến kẻ ngu, từ bậc có học cho đến mù chữ, từ đấng minh quân
cho đến thằng thất phu… đều thích hưởng thụ như nhau và nếu trong cuộc sống không
kiếm chác được gì để hưởng thụ cả thì nói chung, cũng “ngại” làm việc như nhau.
Trong một xã hội còn hỗn mang và ai ai cũng muốn mình được hưởng thụ tối đa thì
số hưởng thụ được tạo ra sẽ chẳng bao giờ đủ. Tình hình ấy gây ra tình cảm ích
kỷ, xui khiến ý chí mù quáng làm những việc bất chính như trộm cắp, tước đoạt… đồng
loại để có cái mà thỏa mãn hưởng thụ (một cách không chính đáng). Từ đó mà bạo
lực chiến tranh nổi lên, đày đọa và giết chóc lẫn nhau tràn lan khắp xã hội, đe
dọa đến tồn tại xã hội và dẫn đến đe dọa luôn sự sống còn của loài người. Mặt
trái của đạo lý đã trở nên nổi trội!
Khi mặt trái của
đạo lý đe dọa làm tiêu vong xã hội (và loài người) thì mặt phải của nó sẽ ra
tay ngăn chặn, trấn áp để bảo vệ và trong những trường hợp cực đoan, nó sẽ thông
qua Đại Chúng tiêu diệt thiểu số sống còn để duy trì đa số sống còn. Mặt trái của
đạo lý được gọi là vô đức và mặt phải của nó được gọi là có đức hay đức độ. Một
hành động muốn làm đức thì trước hết nó phải hiện hữu được trong hiện thực và muốn vậy nó phải phù hợp đạo lý. Do đó mặt
phải của đạo lý được gọi là đạo đức. Khi cách gọi tổng quát của đạo lý là Đạo Tự
Nhiên thì lúc đó, đạo đức sẽ được gọi là Đức Huyền Diệu.
Trong xã hội loài
người, Đức Huyền Diệu là mặt có tính nền tảng, cơ sở, và cũng là kết quả ưu tiên
của Đạo Tự Nhiên, đồng thời cũng phù hợp với nguyện vọng thiết tha của nhân dân
là được yên ổn làm ăn, no đủ và hạnh phúc.
Một nhận thức đã
thấu tỏ xã hội thì không thể không thấu tỏ Đức Huyền Diệu. Thấu tỏ Đức Huyền Diệu
và biết nghe theo lời khuyên dạy của Đức Huyền Diệu thì gọi là giác ngộ. Khi nhận
thức chưa giác ngộ thì lý trí và tình cảm còn tương đối tách biệt nhau. Lúc này,
một hành động tự do thường là nghe theo sự mách bảo của con tim chứ không phải
bài giáo huấn của khối óc. Bởi vì một hành động tự do (tự giác) sẽ không bao giờ
biết đến chia sẻ, nhường nhịn, hy sinh (chưa nói đến sự hy sinh thân mình) nếu
nó không có cái động lực cao cả, thiêng liêng là tình yêu thương đồng loại, yêu
thương quê hương, tổ quốc. Yêu thương mình đồng thời với yêu thương đồng loại là
sự đảm bảo tự nhiên cho loài người sống còn và chính vì thế mà nó là nội dung cốt
lõi, cơ bản nhất của Đức Huyền Diệu. Suy ra, một nhận thức đã giác ngộ thì cũng
phải thấm nhuần cái nội dung ấy và cái nội dung ấy là tiên quyết không thể thiếu
được đối với một con người có đạo đức chân chính nào.
Đức Huyền Diệu
của dân tộc Việt đã có những lời nhắn nhủ cực hay:
“Bầu ơi thương lấy bí
cùng
Tuy rằng khác giống
nhưng chung một giàn”
“Nhiễu điều phủ lấy giá
gương
Người trong một nước
phải thương nhau cùng”
“Thương người như thể
thương thân”
“Dẫu xây chín bậc phù
đồ
Chẳng bằng làm phúc cứu
cho một người”
Khi nhận thức đã
giác ngộ thì lý trí và tình cảm trở nên lành mạnh, hòa hợp và nhất trí. Lúc này,
hành động theo con tim thì cũng là theo khối óc và vì thế mà nó cũng trở nên đích
đáng.
Đạo đức nhà Phật
cũng đề cao tình yêu thương chúng sinh nhưng không phải là Đức Huyền Diệu như
chúng ta quan niệm. Tình yêu thương chúng sinh mà Phật Giáo rao giảng cũng có một
phần đúng và trong suốt quá trình tồn tại của nó, nó đã có công lao to lớn
trong việc xoa dịu nỗi đau khổ triền miên của tâm hồn con người, của tâm hồn quần
chúng cần lao, cũng như đã có tác dụng nhất định trong việc thu phục ác tâm, “cải
tà qui chính”. Lịch sử đã cho thấy rằng Đại Chúng yêu mến nhà Phật vì tấm lòng
từ bi hỉ xả, vì lời khuyên chí tình là sống cho lương thiện và nhân ái của nhà
Phật. Thế thôi chứ Đại Chúng không đi theo nhà Phật mà vẫn đi theo con đường
thiết thân vì quyền sống cơ bản của mình - con đường của Đức Huyền Diệu (mà
trong một xã hội thanh bình yên vui, nó có vẻ đồng điệu, thậm chí là trùng với
con đường của đạo đức nhà Phật).
Đạo đức nhà Phật
dù có cái đúng như đã nêu nhưng cũng có cái sai. Cái sai của nó là cơ bản. Cái
sai đó chính là cái mà nhà Phật đã cố thoát ra và tưởng đã thoát ra được: sự vô
minh, mê lầm. Sự vô minh, mê lầm đã làm cho quan niệm yêu thương chúng sinh của
nhà Phật bị bao trùm bởi tính mù quáng.
Vì bị sự mù quáng
thao túng nên tình yêu thương kiểu nhà Phật trở nên nhạt nhòa, bi lụy, cải lương,
ảo tưởng và vô tình dung túng cái ác; đã không giúp được gì mà còn cản trở Đại
Chúng trên bước đường đi đòi lại quyền lợi sống còn cơ bản và chính đáng của mình.
Chính vì vậy mà lịch sử phát triển Phật Giáo - bộ phận của lịch sử phát triển
triết học thế giới - cũng đầy những trăn trở, dằn vặt, đầy những bất đồng dẫn tới
không ngừng phân ly phe phái, tan rồi hợp, hợp rồi lại tan. Chỉ riêng khái niệm
“Niết bàn” thôi đã có vô kể lý giải nhưng chưa có lý giải nào, kể cả của những
Phật gia thâm hậu nhất, được lên ngôi độc tôn, bởi vì không có lý giải nào mà
không mâu thuẫn (không phải là loại mâu thuẫn do nguyên lý nước đôi, mà do “kỹ
thuật” và có tính “cơ học”) với chính cái nền tảng lý luận đã sinh ra nó. Để rồi,
trước nguy cơ “dễ gây rạn vỡ lòng tin” phiền toái, người ta đã phải mở một lối để
“giải thoát” cho nó: Niết bàn là “bất khả thương nghị” vì nó ở bên ngoài, vượt
lên trên khái niệm, chỉ có thể “ngộ” được nó qua con đường tu tập Phật Giáo mà
thôi (!). Vì bị bao phủ bởi mù quáng như thế và là bộ phận của “xã hội ngoài đời”,
nên xã hội Phật Giáo cũng không thoát khỏi sự phân hóa trên - dưới, trước - sau
làm xuất hiện sự đua tranh mang bản chất danh lợi và vì danh lợi, cũng xuất hiện
đủ những cao thượng - thấp hèn, quân tử - tiểu nhân (tuy nhiên, có thể là do mức
độ không quá gay gắt, có phần ngấm ngầm nên cũng không bộc lộ ra một cách rõ ràng,
quyết liệt nhờ ở trong sự phủ dụ của tình yêu thương nhà Phật, trong sự răn đe ân
oán kiểu nhà Phật và cũng vì sợ làm hoen ố tấm gương mẫu mực của lối sống chay
tịnh, không thị phi, bất vụ lợi mà Phật Giáo đã trưng ra trước bá tánh). Nếu ngày
xưa vua chúa lấy lộc nước làm nguồn thu để sống và làm giàu thì ngày nay, có thể
nói sự tồn tại, sung túc, và công việc từ thiện của các chùa chiền Phật Giáo đều
dựa vào nguồn thu chủ yếu từ công quả đóng góp, hiến dâng của bá tánh. Đây là điều
rất đáng phải suy nghĩ!
Đức Huyền Diệu
có bản chất ưa chuộng hòa bình vì mục đính tối hậu của nó là phụng sự cho xã hội
loài người được sống còn một cách tốt đẹp. Nhưng mặt trái của đạo lý, trong xã
hội còn hỗn mang, làm xuất hiện những bộ phận người lấy giết chóc, cướp bóc đồng
loại làm lẽ sống. Muốn giết chóc, cướp bóc thì phải có quyền lực. Thoạt kỳ thủy,
quyền lực đó có được là do lạm dụng, “ăn cắp” cái quyền lực của nhân dân đã tín
nhiệm trao cho, dùng vào việc phụng sự nhân dân, phụng sự xã hội. Dần dần, quyền
lực ấy trở thành sở hữu riêng của bộ phận người chuyên đi cướp bóc và giết chóc
(không thể cướp bóc được mãi mà không giết chóc!). Khi đã giàu có của cải rồi thì
phải dùng một phần của cải cướp bóc được để nuôi dưỡng quyền lực, sử dụng bạo lực
nhằm bảo vệ của cải đã cướp bóc được và tiếp tục những cuộc cướp bóc, giết chóc
mới. Tình hình đó gây nên nạn đối xử với nhau bằng bạo lực và bạo lực tràn lan
trong xã hội; làm cho xã hội bị tàn phá ngày một ghê gớm, cuộc sống xã hội trở
nên ảm đạm, ngày một ngột ngạt, thê lương đến độ đe dọa bản thân sự sống còn của
chính xã hội. Lúc này, Đức Huyền Diệu bị đặt trước một thách thức nghiêm trọng:
hoặc là phải chịu khuất phục, rời bỏ cái sứ mạng thiêng liêng của nó hoặc phải
chiến đấu. Vâng theo Tạo Hóa, nó chọn con đường chiến đấu và Đại Chúng, như một
thiên sứ của nó, sẽ thực hiện trong thực tế nhiệm vụ mà nó đã lựa chọn ấy bằng
bạo lực và tột đỉnh của bạo lực là đấu tranh vũ trang.
Trong xã hội,
khi một bộ phận người đã trở nên phản động, ra sức bóc lột, đàn áp, giết chóc bộ
phận đa số còn lại thì coi như nó đã không xem số còn lại đó là đồng loại của nó
nữa. Do đó, Đại Chúng cũng coi đám thiểu số ấy là lạc loài, là như một kẻ ngoại
bang tàn bạo đến xâm lược và đô hộ. Vì vậy, để sống còn, để tránh bị tiêu diệt,
Đại Chúng chỉ còn cách tiêu diệt cho bằng được quyền lực của kẻ lạc loài đó và
buộc phải giết chóc sinh linh.
Đức Phật không
khuyên Đại Chúng làm như thế mà khuyên nên cam chịu, bất bạo động. Lời khuyên ấy
có thể là đúng trong sinh hoạt dân sự bình thường giữa các cá thể với nhau và câu
“Lấy oán báo oán, oán oán chất chồng” của nhà Phật cũng đúng trong trường hợp này.
Nhưng sẽ trái đạo lý trong trường hợp Đại Chúng phải đứng lên giành lại quyền sống
cơ bản đã bị tước đoạt của mình trước mũi tên, hòn đạn của cường bạo. Đây chính
là điểm khác biệt cơ bản, có tính nguyên tắc giữa hai quan niệm về tình yêu thương
đồng loại: đạo đức nhà Phật và Đức Huyền Diệu.
Mục đích của Đức
Huyền Diệu là phụng sự sự sống còn của nhân loại, mong muốn của Đức Huyền Diệu
là xã hội thanh bình, tươi vui. Vì lẽ đó mà Đức Huyền Diệu rất ghét chiến tranh
nhưng cũng vì lẽ đó mà trong những trường hợp vạn bất đắc dĩ, nó cũng không chối
bỏ và thậm chí là đi gây chiến tranh. Tuy nhiên, Đại Chúng tiến hành chiến
tranh chỉ là nhằm đánh tan cái quyền lực đè đầu, cưỡi cổ, bóp nghẹt cuộc sống họ
để tự giải thoát và hơn nữa đó là cuộc chiến đấu vì sự sống còn xã hội, có tính
chính nghĩa, nhân đạo cao cả nên trước khi phải giết chóc, nó luôn cân nhắc, không
để xảy ra nạn giết chóc bừa bãi, vô cớ.
Chúng ta cho rằng
Lão Tử là nhà hiền triết sớm nhất và cũng là người duy nhất cho đến nay thấy được
căn nguyên đích thực của Tự Nhiên Tồn Tại, giải thích nhất quán được một cách
triết học những hiện tượng tự nhiên cũng như xã hội trên cùng một cơ sở duy nhất
là Đạo Tự Nhiên (vì đúng là như thế thật, xét cho cùng thì chúng đều có cùng
nguồn gốc, vận động theo cùng một nguyên lý cơ bản và duy nhất với những biểu
hiện đặc thù để phân biệt được mà thôi). “Đạo Đức Kinh” là tác phẩm triết học vô
giá của loài người đồng thời cũng là một pho giáo huấn bất hủ về lẽ sống con người
và ứng xử xã hội. Do lối hành văn hết sức “kiệm lời” bởi hạn chế thời đại và của
văn tự tượng hình mà đám hậu thế chúng ta, dù đã hơn 2500 năm trôi qua vẫn chưa
hiểu đúng và hiểu hết được ý tình Lão Tử gửi gắm trong kiệt tác này. Chúng ta sẽ
lại trích vài lời bàn luận về xã hội và chiến tranh của nhà hiền triết số một này
để… đỡ nhớ lão:
“Hết sức giữ
cho (tinh thần) cực hư, cực tĩnh, để quan sát vạn vật sinh trưởng, ta sẽ thấy được
luật phản phục (qui luật tuần hoàn).
Vạn vật phồn thịnh
rồi thì đều trở về căn nguyên của chúng (trạng thái cân bằng, tĩnh tại). Trở về
căn nguyên (qui căn) thì tĩnh, để lại (bắt đầu làm) theo mệnh. Theo mệnh là luật
bất biến. Nhận thức được luật bất biến (qui luật) thì gọi là sáng tỏ, không nhận
thức được luật bất biến thì vọng động mà gây họa.
Nhận thức được
luật bất biến thì bao dung, bao dung thì công bằng, công bằng thì vẹn toàn, vẹn
toàn thì phù hợp tự nhiên, phù hợp tự nhiên thì phù hợp đạo, hợp đạo thì bền vững
lâu dài, cả đời không nguy”.
“Cai trị thiên
hạ bằng cưỡng bức là điều mà ta thấy không thể (thành công) được. Thiên hạ (nhân
dân) có thần khí (linh diệu) nên không thể cưỡng bức, khống chế họ bằng bạo lực.
Cai quản bằng bạo lực sẽ thất bại, thống trị bằng áp chế sẽ bị lật đổ.
Mọi người trong
thiên hạ (là không giống nhau), có người đi trước có kẻ theo sau, có người thở
chậm có kẻ thở nhanh, có người mạnh khỏe có kẻ ốm yếu, có người yên ổn có kẻ hoạn
nạn. Cho nên thánh nhân (cai trị thiên hạ) phải loại bỏ những hành xử thậm tệ,
từ bỏ xa hoa, không đòi hỏi quá quắt (như tăng cường bóc lột chẳng hạn)”.
“Người giữ đạo
mà phò vua thì không dùng binh lực ức hiếp thiên hạ. Vì làm như vậy sẽ có tác dụng
ngược (làm cho binh lực thiên hạ mạnh lên).
Chiến trận xảy
ra ở đâu, ở đó tan hoang, gai góc mọc đầy. Vì vậy mà sau những cuộc chiến tranh
lớn thường xuất hiện mất mùa, đói kém.
Người khéo dùng
binh, khi đạt được kết quả, mục đích thì thôi, không huênh hoang mạnh hơn thiên
hạ. Đạt được mục đích không lấy làm tự phụ, không khoe công lao, không kiêu hãnh,
mà phải cho đó là việc bất đắc dĩ. Đạt được mục đích rồi thì không thể hiện sự
hùng mạnh nữa (bãi binh).
Vật gì cũng vậy,
đạt đến cường tráng thì sẽ già suy. Như vậy cương cường là không hợp đạo, không
hợp đạo thì sớm bị diệt vong”.
“Binh khí là vật
bất tường (nguy hiểm, gây họa) ai cũng ghét nên người giữ đạo không thích dùng
nó. Người quân tử khi ở nhà thì trọng bên trái (dương, sự sống), khi dùng binh
thì trọng bên phải (âm, sự chết).
Binh khí là thứ
bất tường, không phải là của người quân tử, cho nên chỉ bất đắc dĩ mới dùng đến,
mà dùng đến thì nên điềm đạm (bình tĩnh, cân nhắc kỹ càng) là hơn cả. Thắng cũng
không cho là hay, nếu cho là hay tức là thích giết người. Kẻ nào thích giết người
thì không thể vui sống, đắc chí với thiên hạ được.
Lúc yên lành (cát)
thì trọng bên trái (quan tâm, chú ý nhiều hơn đến sự sống), lúc nguy nan (hung)
thì trọng bên phải (quan tâm, chú ý nhiều hơn đến cái chết). Phó tướng ở bên trái,
thượng tướng ở bên phải để (tỏ rõ rằng) coi việc dùng binh như tiến hành tang lễ.
Giết hại nhiều người thì nên lấy lòng bi ai mà khóc; chiến thắng rồi thì nên lấy
tang lễ mà xử”.
***
Theo cách hiểu
của chúng ta về Đức Huyền Diệu và về chiến tranh của tư tưởng Lão Tử mà chúng
ta đã trình bày từ trước đến nay thì rõ ràng, trong chiến tranh thế giới thứ
hai, quân dân Liên Xô đã là đại diện chân chính nhất của nhân loại, là lực lượng
vũ trang trung tâm, mã thượng nhất, nhân đạo nhất, mạnh mẽ nhất, cương quyết nhất,
tiên phong nhất và có công lao nhất của Đại Chúng thế giới trong sự nghiệp tiêu
diệt, đập tan bạo lực phát xít, bộ phận phản động định bắt cả thế giới phải sống
trong vòng nô dịch. Trong đó, không thể không kể đến những chiến công bất diệt
của các chiến sĩ tình báo Xôviết (người Nga cũng như những người dân tộc khác,
có quốc tịch khác). Chúng ta sẽ nói một đôi điều cô đọng về họ để coi như là một
nén nhang thương nhớ sự xả thân thầm lặng vì mục đích cao cả của họ và cũng như
là phần kết cho chương “Tội ác” đã quá dài dòng.
W. F. Flike, vốn
là nhân viên phản gián Đức trong chiến tranh thế giới thứ hai, thừa nhận:
“… Mạng lưới tình
báo Liên Xô có đến 35.000 người. Họ được tuyển chọn trong giới thượng lưu châu Âu,
những người trí thức, các nhà công nghiệp, các viên chức cao cấp vì căm thù chủ
nghĩa phát xít mà đã trở thành những người có thiện cảm với chủ nghĩa cộng sản”.
Domigo Pastor
Petít, trong tác phẩm “Công tác gián điệp” của mình cũng có viết:
“Chỉ riêng
trong mạng lưới tình báo của Radô ở Thụy Sĩ đã có 11 sĩ quan Đức mà tên tuổi đến
nay vẫn chưa được biết, thường xuyên thông báo các tin tức quan trọng và bí mật
của bộ tham mưu Quốc xã cho tình báo Liên Xô, tổng số báo cáo của 11 quân nhân
này dài tới 12.000 trang đánh máy”.
Những người am
hiểu công tác tình báo đều thừa nhận: “Rote Kapelle (khi chiến tranh nổ ra, tin
tức tình báo gửi qua làn sóng vô tuyến điện của các chiến sĩ tình báo Xôviết, từ
nước Thụy Sĩ và nước Đức về Liên Xô rộ lên đến mức được gọi là “Dàn nhạc đỏ”) đã
gửi cho Mátxcơva những tin tức về số lượng và chất lượng chưa từng có trong toàn
bộ lịch sử công tác tình báo”.
Chúng ta sẽ liệt
kê một số tin tình báo gửi về Mátxcơva từ nước Đức và Thụy Sĩ hồi đó trong hồ sơ
lưu trữ.
Ngày 10-5-1940,
có một bức điện mật mã từ Đức:
“Có tin từ các
giới của Bộ Ngoại giao là các hoạt động quân sự chống nước Nga đã được vạch ra…
Cuộc chiến tranh này đang đến sát ngưỡng cửa…”.
Ngày 21-2-1941,
một bức điện đóng vai trò như khúc dạo đầu của “dàn nhạc đỏ” trên đất Thụy Sĩ cất
tiếng:
“Theo tin tức
nhận được từ một sĩ quan Thụy Sĩ thông thạo tình hình, Đức hiện có 150 sư đoàn ở
phía Đông. Theo người này thì Đức sẽ tấn công vào cuối tháng 5”.
Ngày 18-12-1940,
kế hoạch “Barbarosa” nhằm tấn công Liên Xô của quân Đức đã được chuẩn y. Hitle đã
ra lệnh “đánh lạc hướng địch” bằng cách tạo cho được ấn tượng rằng việc đổ bộ lên
đất Anh vẫn đang được xúc tiến, rằng việc triển khai lực lượng cho chiến dịch Barbarosa
chỉ là màn kịch, “là sự nghi binh vĩ đại nhất trong lịch sử chiến tranh, làm người
ta nghĩ rằng Đức sẽ không có ý định tấn công vào Anh nữa”. Nhưng các chiến sĩ tình
báo Xôviết đã sớm biết và đã gửi nhiều tin tức về báo cho đất nước nguy cơ này.
Trong số đó có một bức điện gửi từ Béclin vào cuối tháng 2-1941:
“… Việc chuẩn bị
cho cuộc chiến tranh chống Liên Xô đã được đẩy mạnh… Đã thành lập 3 cụm tập đoàn
quân đặt dưới sự chỉ huy của thống chế Bốc, Runstet và Phôn Lép. Cụm tập đoàn
quân “Kênixberg” sẽ tiến công theo hướng Lêningrát, cụm tập đoàn quân “Vácxava”
theo hướng Mátxcơva, cụm tập đoàn quân “Pôdnan” theo hướng Kiép. Thời gian tấn
công từ 20-5. Có kế hoạch đánh lớn tại khu đầm lầy Pinxki với sự tham gia của
120 sư đoàn Đức. Đã chế tạo các loại tàu bọc thép theo khổ đường ray Nga”.
Vào những ngày đầu
tháng 3-1941, cũng nguồn tin này báo về:
“Có những hiện
tượng khác nói lên cuộc tấn công của Đức chống Nga sắp sửa xảy ra. Thời hạn từ
15-5 đến 15-6. Có tin khẳng định là tại Ba Lan có 120 sư đoàn…”.
Ngày 7-6, lại
nguồn tin này báo về:
“Nước Nga hiện
nay là trung tâm của sự chú ý. Hitle đã đích thân lệnh cho Himle xác định xem
ai đã tung tin về chiến tranh với nước Nga… Hàng ngày, cũng như trước đây, có tới
15 đoàn tàu chở quân và hàng hóa quân sự đi về phía Đông… Các tướng lĩnh sợ có
khó khăn trong việc cung cấp nhiên liệu vì chiến tranh với Nga đòi hỏi mỗi ngày
phải có 24 đoàn tàu chở nhiên liệu. Trong khi đó, quân đội chỉ mới đáp ứng được
có 16 đoàn tàu. Có nguy cơ là lực lượng xe tăng không thể đi quá Kiép…”.
Cuối cùng, ngày
16-6, 6 ngày trước khi nổ ra chiến tranh, nguồn tin gửi thêm một bức điện nữa:
“Trong Bộ Tổng
tham mưu tối cao Đức đã loan tin về cuộc tấn công Liên Xô vào khoảng từ ngày 22
đến 25-6”.
Ngày 6-4-1941,
một bức điện gửi về từ Thụy Sĩ:
“Quân đội Đức
trước đây tập trung ở biên giới Thụy Sĩ đã được chuyển đến phía đông mạn biên
giới Liên Xô”. Đến cuối tháng 5, từ đây gửi về thêm bản tin: “quân Đức sẽ tấn công
Liên Xô vào rạng sáng ngày 22-6…”; và sáng ngày 22-6 là bức điện: “Trong giờ phút
lịch sử này, chúng tôi nguyện sẽ hết sức trung thành và sẽ nhân đôi sức mạnh, đứng
vững trên vị trí tiền tiêu”.
Ngay trong những
ngày đầu chiến tranh, cơ quan phản gián Đức (Ápve) đã phát hiện một số đài phát
tín hiệu mật mã lạ đặt ngay tại Béclin. Các chuyên gia về mật mã của Đức được lệnh
cấp tốc giải mã các bức điện thu được nhưng bất lực. Sự việc đã được báo cáo lên
trên nhưng cả Bộ Tổng tham mưu Ápve cũng như Cục an ninh đế chế Đức đã không xem
trọng báo cáo này. Có lẽ do ngây ngất với chiến thắng ban đầu mà thủ trưởng các
cơ quan này đã quá chủ quan, nghĩ rằng cho dù đó là những tin tức tình báo của đối
phương gửi về cho Trung tâm ở Mátxcơva thì phỏng có ích gì: mới sau hai tuần
chiến sự mà quân Đức đã chiếm được Riga, Minxcơ, đã tới gần Đơnhiép, đã đi được
nửa đường đến Mátxcơva… Ngày 3-7-1941, Ganđe, Tham mưu trưởng lục quân Đức, ghi
trong nhật ký quân sự của mình: “Sẽ không cường điệu khi nói rằng chiến dịch chống
Nga sẽ thắng lợi trong vòng 14 ngày…”.
Thời gian trôi đi,
Cuộc tấn công vào Liên Xô diễn tiến chậm dần lại. Trong khi đó, Dàn nhạc đỏ hay
như phản gián Đức gọi là “Những kẻ chơi Pianô” cứ thản nhiên “dạo” những “ca khúc”
bí ẩn ngay bên tai, tại đâu đó trong Béclin. Hitle đã nổi cơn cuồng nộ khi nghe
Himle thông báo chuyện này và dọa sẽ trừng trị đích đáng những kẻ bất lực, không
tìm ra được kẻ địch ngay trong nhà mình. Cơ quan tình báo, phản gián Đức lúc này
mới bắt đầu một kế hoạch qui mô nhằm quyết tâm truy quét, tiêu diệt Dàn nhạc đỏ
trên đất Đức, bắt đầu từ thủ đô Béclin.
“Những kẻ chơi
pianô” vẫn lúc ẩn, lúc hiện, nơi này, nơi khác phát đi những bản “ca khúc” bí ẩn
lên làn sóng điện mà mãi sau này mới rõ là:
“Hitle đã ra lệnh
chiếm Ôđécxa trước ngày 15-9. Việc trì hoãn chiến dịch đường không ở miền Nam là do có
thay đổi kế hoạch của Bộ chỉ huy Đức. Tại mặt trận phía Đông, phần lớn các sư đoàn
Đức đã mất sức chiến đấu vì bị tổn thất nặng nề. Những đơn vị mới thành lập chỉ
có quân số tối thiểu…”.
“… Mục tiêu tấn
công có thể là giành tuyến Áckhanghen Mátxcơva - Axtrakhan vào cuối tháng 11…”.
“… Các đoàn tàu
chở pháo hạng nặng đã đi qua vùng Kênhiếcxbec theo hướng tới Mátxcơva. Tại
Pilau đang đưa lên tàu những khẩu đội pháo bờ biển hạng nặng và số vũ khí này cũng
sẽ được chuyển tới đó”.
“… Tin tức đã
nhận được từ một sĩ quan cao cấp của Bộ Tổng chỉ huy các lực lượng vũ trang Đức.
Đã thông qua quyết định không đánh chiếm Lêningrát mà chỉ bao vây phong tỏa nó”.
“Tổn thất thực
tế của quân đội Đức sau 3 tuần chiến đấu đầu tiên tại mặt trận phía Đông là gần
100 ngàn tên… Cũng thời gian đó, quân Đức đã mất 1.500 xe tăng - chiếm nửa tổng
số xe tăng vào đầu chiến dịch trên mặt trận phía Đông…”.
“Ở Đức hiện đang
thành lập 26 sư đoàn mới. Mọi việc sẽ xong vào đầu tháng 9”.
…
Nhưng đột nhiên,
trong lúc tình hình chiến sự ở ngoại ô đang rất căng thẳng thì tin tức tình báo
gửi từ Béclin về Mátxcơva ngưng hẳn. Trung tâm đã cố bắt lại liên lạc nhưng vô ích:
Béclin ngưng bặt trả lời khi được hỏi. Về sau này người ta mới biết nguyên nhân:
hiệu thính viên ở Béclin đã nhầm lẫn thời gian liên lạc với Trung tâm. Một sơ sót
nhỏ mà đầy tai hại!
Tuy nhiên, sau
một thời gian cố gắng, mạo hiểm cử liên lạc đến tận Béclin, Trung tâm đã nối lại
được đường dây điện báo. Đài phát bí mật tại Béclin lại tiếp tục hoạt động. Vì
các báo cáo bị dồn ứ nhiều đến nỗi các hiệu thính viên chuyển không kịp, một phần
lớn tin tức phải chuyển qua lực lượng giao thông viên tín cẩn. Đó là những tin
tức quan trọng. Đơn cử như báo cáo dưới đây:
“… Kế hoạch số
3 có liên quan đến đợt tấn công vào Kápkadơ vào tháng 11 đã được hoãn lại tới mùa
xuân năm sau… Việc đảm bảo kỹ thuật như tích trữ đạn dược, vật tư thiết bị… sẽ
phải hoàn tất trước ngày 1-2-1942. Các lực lượng tiến công vào Kápkadơ sẽ được
triển khai trên tuyến Lôdôvaia - Truguép - Bengôrớt - Áctứcka - Kraxnôgrat. Bộ
tham mưu cụm tập đoàn quân đóng ở Kháccốp…”.
Trong thông báo
này, Bộ chỉ huy Liên Xô đã được thông báo về ý đồ chiến lược và hướng tấn công
dự định của quân Đức cho mùa hè năm 1942, trước sự kiện xảy ra đến 8 tháng.
Để có được những
thông tin có giá trị lớn như thế, các chiến sĩ tình báo Xô Viết trên đất Đức,
nhất là ở Béclin đã phải hoạt động hết công suất và lực lượng tình báo ở đây cũng
đã phải chịu những tổn thất lớn lao. Biết bao nhiêu người đã bị bắt, bị tra tấn
dã man và hy sinh anh dũng.
Cũng đồng thời
với khoảng thời gian đó, bộ phận tình báo Xô Viết trên đất Thụy Sĩ hoạt động tỏ
ra đắc lực, hết sức hiệu quả, thu thập được nhiều tin tức hết sức quan trọng, có
giá trị cao về quân sự. Chúng ta xin liệt kê vài ba báo cáo của họ gửi về Trung
tâm để phần nào thấy rõ điều đó:
Trong khi Đức đang
chuẩn bị đòn tấn công vào miền Nam
nước Nga, theo hướng Kápkadơ và hạ lưu sông Vônga thì Trung tâm nhận được các
thông báo từ nguồn Thụy Sĩ:
“Thời hạn cuối
cùng để hoàn tất chuẩn bị cho cuộc tấn công mùa xuân là ngày 22-5. Cuộc tấn công
có thể bắt đầu trong khoảng từ ngày 31-5 đến ngày 7-6”.
“Tại Đức đang
thành lập 4 sư đoàn xe tăng mới, một sư đoàn hiện đang đóng tại khu vực Pari…”.
“Vào đầu tháng
4, trên lãnh thổ của Liên Xô bị Đức chiếm đóng, đã có nhiều đơn vị Đức tới để
chuẩn bị cho cuộc tấn công vào mùa xuân. Quân số và đặc biệt là chất lượng kỹ
thuật rõ ràng là hơn nhiều so với tháng 6-1941… Tất cả những con đường hướng
nam mặt trận đầy những xe tải chuyên chở vật liệu”.
Để chuẩn bị cho
cuộc phản công lớn của Hồng Quân tại Stalingrát, Trung tâm đã không ngừng yêu cầu
nguồn Thụy Sĩ trả lời những câu hỏi mới. Ngay từ tháng 8-1942, nguồn Thụy Sĩ đã
báo về:
“Theo tin tức của
giới quân sự cao cấp, Hitle đã ra lệnh chiếm Maiakốp và Grôdnưi trong tháng 8.
Bộ chỉ huy quân sự Đức hy vọng có thể khôi phục lại được trung tâm công nghiệp
dầu mỏ ở Kápkadơ trong vòng nửa năm dù người Nga trước khi rút lui có phá hủy các
dàn khoan đi chăng nữa. Toàn bộ các chuyên gia lớn về dầu khí đã tập trung ở Béclin
đợi lệnh đi Kápkadơ”.
Đầu tháng
11-1942 có một thông báo:
“Bộ chỉ huy Đức
tin rằng quân đội Liên Xô không thể tập trung quân tại đông - nam Stalingrát, từ
phía các cánh đồng lau sậy trong các vùng đất đen hoang vu, cằn cỗi. Vì thế cánh
phải của quân Đức đang hoạt động tại ngoại ô Stalingrát đã để hở sườn. Đoạn này
được xem là khu vực phụ của mặt trận. Tại đây chỉ có những đơn vị chiến đấu kém
của tập đoàn quân Rumani số 4. Các sư đoàn Đức đã được điều từ khu vực này đến
những nơi có hoạt động tích cực hơn ở ngoại ô Stalingrát”.
Sau đó vài ngày,
Trung tâm hỏi:
“Các trận địa
phòng ngự trong hậu phương của Đức tại các tuyến tây - nam Stalingrát và dọc sông
Đông nằm ở đâu…”.
Và câu hỏi này
cũng được nguồn Thụy Sĩ trả lời.
Như chúng ta đã
biết, ngày 19-11-1942, Hồng quân Liên Xô bắt đầu mở cuộc phản công. Cánh trái của
mặt trận Stalingrát đã xuất phát ngay từ các cánh đồng lau sậy, trong vùng đất
hoang vu, cằn cỗi…
Sau hai năm chiến
tranh, quân đội Đức đã không còn thế và lực như hồi năm 1942. Những thất bại tại
Mátxcơva, Stalingrát… đã làm cho quân Đức thiệt hại không thể hồi phục được. Bộ
chỉ huy tối cao Đức chỉ còn có thể vạch kế hoạch tấn công vào một tuyến nhất định,
nhưng muốn thế phải biết quân đội Liên Xô định tổ chức phản công trên tuyến nào,
khu vực nào để đối phó, tổ chức phòng ngự ở đó. Qua thám sát bằng không quân và
phân tích tin tức tình báo có được, Bộ chỉ huy Đức xác định, Hồng quân Liên Xô
sẽ tấn công trên hướng Bắc của mặt trận Trung tâm. Từ phán đoán đó, quân Đức
quyết định tiến hành xây dựng một phòng tuyến vững chắc mang tên “Chiến lũy phương
Đông”. Đây là một kế hoạch tuyệt mật, được cất trong két sắt bảo mật đặc biệt của
Bộ chỉ huy tối cao Đức.
Ấy vậy mà ngày
29-3-1943, một báo cáo từ Thụy Sĩ đã về đến Trung tâm:
“… Thượng khẩn.
Ngày 25-3, quân Đức đã xác định rằng việc tập trung quân đội Liên Xô tại vùng cận
Vônkhốp và tại Lêningrát vẫn đang tiếp diễn. Bộ chỉ huy tối cao Đức cho rằng
trong những tuần gần đây, có một số lượng lớn vật liệu quân sự đã được đưa đến Lêningrát
qua Muốcmanxcơ và Vonogđa, còn quân đội thì được tung bằng đường không qua
Slixenbuốc. Bộ chỉ huy tối cao Đức dự đoán: quân Nga sẽ tăng cường hoạt động
trong các khu vực Nêva, Vonkhốp, Xviri. Vì lẽ đó, Bộ chỉ huy Đức quyết định trước
hết phải đẩy mạnh việc xây dựng những tuyến phòng thủ và phòng tuyến “chiến lũy
phương Đông” trên hướng bắc của mặt trận mà cụ thể là tại Extônhia và Látvia”.
Sau 2 tuần, lại
có báo cáo:
“Thượng khẩn. Rất
quan trọng. Kế hoạch “Chiến lũy phương Đông” từ Tetdi… Đội xây dựng “Nord” đang
thi công 2 tuyến “Chiến lũy phương Đông” - một tuyến chống tăng và một tuyến đề
kháng… Dọc theo “Chiến lũy phương Đông” cũng như trên tuyến đề kháng đều có những
lô cốt bê tông, những đường hào, bẫy chống tăng… Kế hoạch chung và nhiệm vụ đặt
ra cho đội xây dựng “Nord” chứng tỏ quân Đức có ý định tiến hành những trận đánh
phòng ngự mang tính chất chiến lược…”.
Tin tức tình báo
từ Thụy Sĩ tiếp tục được gửi về đều đặn đã nói về việc bố trí lại các cụm quân Đức,
về lực lượng dự bị khổng lồ trong hậu phương trung tâm của mặt trận. Điều này
cho thấy rằng Bộ chỉ huy tối cao Đức định đánh một đòn lớn vào Hồng quân trong
khu vực vòng cung Cuốcxcơ.
Vòng cung Cuốcxcơ
nằm hõm sâu vào trận địa của quân Đức là khu vực chiến tuyến có tầm quan trọng
vô cùng cho cả hai phía. Đối với quân đội Liên Xô thì đây có thể là bàn đạp để
tấn công về hướng Đơnhiép. Đối với quân đội Đức Quốc Xã thì đây là căn cứ để phát
triển vòng vây về phía Nam và Bắc để tiêu diệt ít nhất hai phương diện quân đối
phương, giành khoảng không chiến lược, tạo điều kiện tiến thẳng vào Mátxcơva, đi
đến thắng lợi hoàn toàn trên mặt trận phía Đông.
Tháng 4-1942, một
cuộc họp trong đại bản doanh của Hitle đã thảo luận và lên kế hoạch phân bố lực
lượng dự bị cho hè - thu năm 1943. Trong đó có quyết định triển khai chiến dịch
tấn công mang tên “Xitađen” tại vùng Cuốcxcơ vào tháng 5 (tuy nhiên, để chuẩn bị
chu đáo, chắc ăn hơn, Hitle đã thay đổi thời điểm mở chiến dịch và phải đến tháng
7, chiến dịch mới xảy ra trên thực tế).
Trong quá trình
chuẩn bị, quân Đức đã cố gắng giữ tuyệt mật chiến dịch, nhưng đối với Đại bản
doanh Hồng quân, nó đã sớm không còn là bí mật nữa.
Các tin tức tình
báo từ Thụy Sĩ tiếp tục được gửi về:
“Từ đầu chiến
tranh đến ngày 30-5-1943, thiệt hại của quân Đức là: 1.940.000 quân chết,
565.000 bị bắt, 1.000.000 tên bị thương. Tổng thiệt hại là 3.772.000 tên”.
“Quân Đức đã phát
hiện là Nga đã tập trung một số lớn quân trong khu vực Cuốcxcơ, Viadam và Cánh
cung vĩ đại. Bộ chỉ huy tối cao Đức cho rằng quân đội Liên Xô có thể chuẩn bị tấn
công mạnh mẽ cùng một lúc trên nhiều khu vực mặt trận…”.
Trước lúc mở màn
trận đánh, một nguồn tin khác báo về trung tâm khẳng định báo cáo của nguồn Thụy
Sĩ.
“Quân Đức đã xác
định rằng từ ngày 2-5, quân Nga đã tập trung những lực lượng cơ giới mới tại
khu vực Cuốxcơ, gần phía đông Kháccốp để đối đầu với việc bố trí lại lực lượng
của tập đoàn quân Mastein. Đức không thể để cho quân Nga tiếp tục tập trung lực
lượng ở phía tây và tây - nam Cuốxcơ nữa, vì nếu quân Nga tiến công trên hướng
này sẽ gây ra tình trạng nguy ngập cho toàn bộ mặt trận Trung tâm. Đức cần phải
chủ động tấn công chặn trước đòn đánh của Hồng quân…”
Nhờ những tin tức
tình báo quí giá từ bên kia chiến tuyến gửi về kết hợp với những phân tích tình
báo tại chỗ, Đại Bản Doanh của Hồng quân đã báo cho các tư lệnh phương diện quân
bố trí trên khu vực vòng cung Cuốxcơ trước 3 ngày về việc quân Đức có thể tiến
công trong khoảng từ ngày 3 đến ngày 6-7-1943. Hồng quân Liên Xô đã trong tư thế
sẵn sàng chiến đấu.
Đêm 4, rạng ngày
5-7, lực lượng trinh sát Xô Viết bắt được một lính công binh Đức. Sự việc được
báo cáo lên ngay cho nguyên soái Giucốp. Tên này khai rằng lệnh tấn công của Hítle
đã được phổ biến xuống các đơn vị và thời điểm mở màn là vào khoảng 3 giờ sáng.
Nguyên soái
Giucốp, Tổng chỉ huy chiến dịch nhanh chóng hạ mệnh lệnh tấn công phủ đầu bằng
pháo binh vào đội hình quân Đức. Đúng 2 giờ 20 phút, hỏa lực của tất cả các loại
pháo của Hồng quân bắn phá mãnh liệt sang trận địa quân Đức. Cuộc bắn phá này làm
chậm thời điểm tấn công đã dự định của quân Đức đến hai tiếng rưỡi. Mãi đến 5
giờ 30 phút, quân Đức mới có thể tổ chức đợt tấn công đầu tiên.
Và như đã kể,
chiến dịch “Xitađen” của quân phát xít Đức đã bị thất bại thảm hại, mở ra bước
ngoặt có tính quyết định đến chiến thắng của quân dân Xô Viết trong cuộc chiến
tranh vệ quốc vĩ đại.
Nhiều năm sau,
nguyên soái Giucốp, vị tướng thiên tài của đất nước Liên Xô và là danh tướng thế
giới đã ghi trong hồi ký của mình về nguyên nhân thắng lợi của Hồng quân trong
trận đánh tại vòng cung Cuốxcơ:
“Bất cứ ai có
chút ít kiến thức quân sự đều hiểu rằng do dâu mà có thắng lợi quân sự. Muốn giành
thắng lợi, đòi hỏi phải đánh giá đúng đắn toàn bộ tình hình, lựa chọn chính xác
hướng tấn công chủ yếu, bố trí đội hình khéo léo, có sự tính toán và hiệp đồng
chặt chẽ tất cả các loại vũ khí; các chiến sĩ phải có tinh thần chiến đấu cao và
kỹ thuật chiến đấu tốt, phải có sự lãnh đạo kiên quyết và linh hoạt, nắm vững
thời cơ và nhiều yếu tố khác nữa…
Tình báo giỏi cũng
là một trong những nguyên nhân đảm bảo thắng lợi cho trận đánh vĩ đại này.”
Công lao của các
chiến sĩ tình báo Xô Viết (có nhiều quốc tịch khác nhau) hoạt động tại Châu Âu,
đối với cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của quân dân Liên Xô và qua đó mà đối với
cả nhân loại tiến bộ là to lớn, không thể kể hết được. Sự hoạt động hiệu quả của
lực lượng này đã được ngay chính Hítle, kẻ hãnh tiến điên cuồng, cũng phải thừa
nhận. Sau chiến tranh vài năm, Vante Phôn Selenbéc, thủ trưởng cục 6 của cơ
quan an ninh đế chế Đức, đã viết trong hồi ký:
“Hítle lại quay
sang công tác phản gián của chúng tôi, thường xuyên hỏi và yêu cầu báo cáo. Hítle
nói rằng cơ quan tình báo bí mật của Nga có hiệu lực hơn của Anh hay của bất cứ
một nước nào khác. Hítle đã ra lệnh tập trung tất cả lực lượng để đối phó lại với
tình báo Liên Xô, chống lại mạng lưới đang lan nhanh một cách ghê gớm trong nước
Đức và trong những vùng bị Đức chiếm đóng”.
Và sự hy sinh của
họ cũng to lớn.
Trong tác phẩm
“Trong những tháng năm của cuộc Đại chiến”, tác giả I.M.Kôrônkốp đã viết những
lời tôn vinh như thế này:
“Những dòng chữ
khắc ghi trên bia mộ, những tượng đài kỷ niệm các vị anh hùng, những cặp tài liệu
lưu trữ bên ngoài đề: “Giữ vĩnh viễn”, thôi thúc ta quay nhìn lại quá khứ. Thêm
vào đó, còn có vô vàn ký ức của những người tham gia vào các sự kiện đã qua. Nhưng
con người ta đâu có tồn tại mãi mãi, họ lần lượt theo thời gian, giã từ cuộc sống,
mang theo mình những kỷ niệm đã ăn sâu vào tâm trí. Vẫn còn có biết bao nhiêu
những nấm mồ vô danh của các đồng chí chúng ta nằm lại trên các chiến trường xưa.
Ngọn lửa vĩnh cửu trên ngôi mộ Người Chiến Sĩ Vô Danh sẽ cháy mãi để khắc ghi công
ơn của những người đã ngã xuống. Nhưng những ngọn lửa tiếc thương của nhân dân,
những ngọn lửa vinh quang dành cho người lính không thể kể cho ta nghe về những
chiến công cụ thể của họ được. Một nhà thơ đã ghi trên mộ Người Chiến Sĩ Vô
Danh bài thơ sau:
Bạn tiễn đưa
anh, con người đã khuất
Không có quân hàm,
chẳng thấy huân chương
Ở sâu kia, tận
trong lòng trái đất.
Anh vẫn là anh,
người lính bình thường
Mãi mãi ngàn năm
đất mẹ thân thương
Ấp ủ cho anh, ơi
người chiến sĩ
Canh giữ cho
anh đời đời yên nghỉ
Một dải Ngân Hà
rực sáng hào quang.
Cảm động thay
khi ta đọc những vần thơ đó. Thế nhưng chỉ có các tác phẩm của các nhà sử học,
nhà văn mới có thể kể đầy đủ chi tiết về những sự kiện đã qua, về những con người
đã lập nên những chiến tích, về những tính cách kiên cường, phi thường của họ mà
thôi…”.
Trong những năm
tháng chiến tranh ấy, có một nhà tình báo Xô Viết nổi bật hẳn lên, tiêu biểu về
tài năng cũng như đức độ và tinh thần bất khuất, tên ông ta là Rishớc Soócgiơ. Rishớc Soócgiơ (Richard Sorge) đã đi vào lịch sử tình báo thế giới với những chiến công
bất tử. Tên tuổi ông gắn với hai sự kiện phi thường là: cảnh báo cuộc
xâm lược của Đức chống Liên Xô và đặc biệt là báo tin Nhật không tấn
công Liên Xô trong năm 1941.
Ngày nay ở Nhật
Bản, trong nghĩa trang Tama, có một ngôi mộ bằng đá trên có tấm bia khắc bằng
chữ Nhật và chữ Đức:
“RISHỚC
SOÓCGIƠ
1895
- 1944
Nơi đây an nghỉ
một người anh hùng đã hy sinh tính mạng của mình để chống chiến tranh và vì hòa
bình thế giới. Sinh tại Bacu năm 1895. Đến Nhật Bản năm 1933. Bị bắt năm 1941.
Bị giết hại ngày 7-11-1944”.
Không chỉ ở Liên
Xô (hiện nay là nước Nga) mà tại một công viên lớn ở Nhật, Soócgiơ cũng được dựng
đài tưởng niệm. Trong số các sách viết về ông ở một số nước như Anh, Pháp, Mỹ…,
các tác giả đã tôn vinh ông bằng những danh xưng đẹp đẽ, như: người tình báo vĩ
đại, nhà tình báo thượng thặng (super espion), vị thượng lưu trong bóng tối, người
điệp viên bậc thầy (maitre sepion)…
Được mệnh danh là 1 người đào hoa nhưng lắm tài nhiều tật, Richard Sorge
(1895) được sinh ra tại Baku, nước Nga. Cha ông là một kỹ sư hầm mỏ
người Đức làm việc tại đây. Mẹ ông là người Nga. Sau khi công việc của
người cha kết thúc, cả đại gia đình gồm vợ chồng và chín người con trở
lại Đức sinh sống.
Năm 1914, Sorge gia nhập quân đội Đức chiến đấu trong Chiến tranh thế
giới thứ 1. Sorge bị thương nhiều lần trên chiến trường, một vết thương
còn khiến ông bị tật nhỏ ở chân trong suốt phần còn lại của cuộc đời.
Trong thời gian nằm viện để chữa trị vết thương , Sorge bắt đầu làm quen
với chủ nghĩa Marx thông qua đọc sách báo và những người bạn. Một trong
những người bạn của Sorge trên thực tế từng làm thư ký cho Karl Marx.
Năm 1919, chiến tranh thế giới lần thứ nhất đang đi vào những giai
đoạn cuối, chủ nghĩa cấp tiến phát triển rất mạnh ở Đức và Sorge ngả
theo cánh tả. Cùng năm đó, ông nhận bằng tiến sĩ và gia nhập Đảng Cộng
sản Đức.
Sorge tham gia tích cực vào hoạt động tuyên truyền của
phe tả trong những người thợ mỏ. Phải thừa nhận rằng, Sorge là người đàn
rất có tài. Không những thế ông còn đẹp trai và quyến rũ, rất ít phụ nữ
có thể chống lại sức hút của ông.
Trong khi đó, đàn ông thì vừa khâm phục vừa ghen tỵ trước khả năng
này của Sorge. Một trong những người phụ nữ đã không thể cưỡng lại ma
lực của Sorge, chính là Christiane Gerlach - vợ của một giáo sư, người
từng dạy anh.
Sorge đã thuyết phục được vị giáo sư chấp nhận một
cuộc chia tay nhẹ nhàng với vợ. Sau đó, Sorge và Christiane kết hôn vào
năm 1922, nhưng cuộc hôn nhân này chỉ tồn tại vài năm.
Nhiều năm
sau đó, Christiane Gerlach kể lại cảm giác lần đầu tiên trông thấy
Sorge: “Giống như một tia sét đánh ngang người tôi. Từ khoảnh khắc đó,
tôi cảm nhận rằng có điều gì nguy hiểm, u mê, nhưng tôi không thể cưỡng
lại được... dường như nó đang tấn công tôi”.
Sau thời gian chia tay với Gerlach, Sorge đã gặp khá nhiều rắc rối với cảnh sát, vì ông công khai ủng hộ phong trào cánh tả.
Năm
1924, ông quyết định rời khỏi nước Đức để đến miền đất hứa mới – nước
Nga Xô viết. Ở đó, ông tham gia tổ chức quốc tế mới - Quốc tế Cộng sản
và phụ trách công tác quan hệ với các đảng cộng sản nước ngoài.
Năm
1929, Rishớc Soócgiơ được
tuyển vào cơ quan An ninh Xôviết. Ông bắt đầu đảm nhận công việc của một sĩ quan tình báo quân sự
và Cục tình báo quân sự Liên Xô (GRU) đã cử ông sang hoạt động ở Trung
Quốc. Ông được dạy những kiến thức chính trị, quân sự cũng như những
nguyên tắc cơ bản của việc ngụy trang giữ bí mật.
Sau ba năm hoạt động gián điệp thành công ở Trung Quốc, Sorge trở lại
Moscow năm 1933. Vốn là người có ma lực quyến rũ đàn bà, Sorge lao vào
cuộc tình với một sinh viên đang theo học chuyên ngành sân khấu là Katya
Maximova và họ nhanh chóng kết hôn trong năm đó.
Nhưng ngay sau đó, ông được cử sang Nhật Bản. Nhiệm vụ của Sorge là
thành lập một mạng lưới gián điệp hoạt động ở Nhật Bản và tìm hiểu ý
định của phát xít Nhật đối với Liên Xô.
Sorge sang Nhật trong vỏ
bọc phóng viên. Một tờ báo tại đây đã đồng ý nhận ông làm cộng tác viên.
Ông được giới thiệu với một sĩ quan quân đội của phát xít Đức - Đại tá
Eugen Ott, tùy viên quân sự mới của Đức ở Tokyo.
Trong mạng lưới của Richard Sorge có khoảng 160 người. Họ là các bộ
trưởng, giới quân sự, các nhà công nghiệp và các nguồn khác đã vô tình
chia sẻ với Richard những thông tin rất có giá trị cho tình báo Liên Xô.
Hết ngày này qua ngày khác, Richard đã thiết lập một nhóm điệp viên rộng khắp, theo nhiều nguồn tin, bao gồm từ 15 đến 38 người.
Nhóm của Richard không có yêu cầu trợ cấp đặc biệt từ cơ quan tình
báo Liên Xô - tất cả các thành viên của nhóm Richard đều có thể tự kiếm
được tiền kha khá.
Nhân viên điện đài Max Clausen đặc biệt thành
công - ông đã mở một công ty chuyên sản xuất các bản sao tài liệu và
công ty này đã trở nên phổ biến đối với người Nhật. Vì vậy, trong toàn
bộ thời gian hoạt động của nhóm Richard, chỉ có 40.000 USD được tình báo
Liên Xô phân bổ.
Nhà báo Hotsumi Ozaki đã trở thành người thân
cận của Richard. Ozaki là một người quen cũ mà nhà tình báo Liên Xô tìm
kiếm ngay sau khi đến Nhật Bản. Vào năm 1938, Ozaki trở thành cố vấn
không chính thức cho người bạn học cũ của ông, Thủ tướng Nhật, Hoàng tử
Fumimaro Konoe.
Richard nhận tất cả thông tin kỹ thuật từ Matxcơva
thông qua các liên lạc viên. Nhà tình báo đã tổ chức cả một hệ thống
các ký hiệu quy ước: chẳng hạn, để nhận ra nhau, người nhận tin và người
chuyển tin phải đồng thời châm điếu thuốc hoặc mang theo những cuộn
giấy có màu sắc nhất định đến chỗ hẹn. Richard còn sử dụng nơi gặp gỡ
trong một nhà hàng nhỏ ở Tokyo, nơi không có người nước ngoài lui tới.
Người
liên lạc, trong vai là một vị khách đến muộn, phải gọi một món ăn đặc
trưng của Nhật Bản. Người được Richard cử đến nói chuyện với người liên
lạc về điều này, ví dụ như hỏi xem món này có ngọt không... Sau khi trao
đổi mật khẩu đã được thỏa thuận từ trước, họ phải thỏa thuận về việc
chuyển giao tài liệu.
Hoạt động của nhóm Richard chủ yếu nhằm
hướng đến việc ngăn chặn chiến tranh giữa Nhật Bản và Liên Xô. Ngoài ra,
Richard còn the dõi trạng thái quân sự của Đức và đồng minh. Trong tay
ông là những thông tin quan trọng về sản xuất động cơ máy bay, luyện kim
màu và công nghiệp hóa chất ở Nhật Bản. Các bức điện tín sau khi mật mã
hóa lần lượt được gửi về Matxcơva - tất cả thông tin gửi về đều được
Richard đích thân phân tích kỹ lưỡng.
Một số bức điện vô tuyến đã
bị các nhân viên phản gián tóm được, nhưng người Nhật không thể hiểu
được chúng, vì để biên soạn các báo cáo, Richard đã sử dụng niên giám
thống kê của Đế chế Đức và liên tục thay đổi mã. Các nhân viên phản gián
cũng không biết rằng những dấu chấm thông thường ở cuối các bức thư gửi
về Liên Xô thực ra là những bức ảnh vi mô, được các chuyên gia trong
nhóm Richard đặt vào các bức thư một cách khéo léo.
Mặc dù công việc của Richard được giới lãnh đạo Liên Xô đánh giá cao,
nhưng theo một số nguồn tin, vào năm 1937-1938, họ muốn triệu hồi ông
về Mátxcơva. Vào thời điểm này, giai đoạn "làm trong sạch bộ máy" bắt
đầu trên đất nước Liên Xô. Một số người nghi ngờ Richard thông đồng với
Đức Quốc xã để bắt đầu gửi những thông tin sai lệch cho tình báo Liên
Xô. Tuy nhiên, Richard đã linh cảm thấy có điều gì đó không ổn, nên đã
thẳng thừng từ chối thực hiện các yêu cầu của nhà chức trách, sau khi
gửi đi một bức điện tín.
"Căn cứ vào tình hình đang diễn ra, tôi
thấy khó có khả năng rời Nhật Bản, thậm chí là trong một thời gian
ngắn", bức điện tín của Richard Sorge có đoạn viết.
Tuy nhiên,
theo một giả thuyết khác, không ai nghi ngờ Richard có quan hệ với người
Nhật. Hơn nữa, chính ông cũng xin được phép trở lại Liên Xô, nhưng lần
nào cũng bị từ chối bởi người ta không thể tìm được một sĩ quan tình báo
nào có kỹ năng và khả năng làm việc tại Nhật Bản như ông.
Vào tháng 6/1938, để trốn chạy "cuộc trong sạch hóa" tại Liên Xô,
Trưởng phòng Dân ủy Nội vụ Viễn Đông, Ủy viên An ninh Quốc gia Genrikh
Lyushkov đã chạy trốn sang Nhật Bản. Sau khi cảm thấy đã an toàn,
Lyushkov ngay lập tức cung cấp cho người Đức và Nhật Bản tất cả các
thông tin tình báo, mật mã và những thông tin mà ông ta có trong tay về
các đơn vị quân đội Liên Xô ở Viễn Đông.
Vào thời điểm đó, Richard
đã trở thành thư ký báo chí của Đại sứ quán Đức. Theo ông, "kho thông
tin tổng hợp lớn, kiến thức sâu rộng về Trung Quốc và nghiên cứu chi
tiết về Nhật Bản" đóng vai trò quyết định trong việc bổ nhiệm này.
"Nếu
tôi sống trong một môi trường xã hội và chính trị hòa bình, có lẽ tôi
sẽ trở thành một nhà khoa học, và chắc chắn tôi sẽ không trở thành một
sỹ quan tình báo", Richard Sorge từng nói.
Cương vị mới cho phép
Richard tiếp cận thông tin mật, vì vậy trong tay ông có tất cả các tài
liệu có lời khai của Lyushkov. Ông đã chụp lại tất cả các trang tài liệu
và gửi hình ảnh cho tình báo Nga. Sau khi kiểm tra dữ liệu, ban lãnh
đạo Liên Xô đã khẩn trương thay đổi tất cả các bảng mật mã, bằng cách đó
làm giảm giá trị hầu hết thông tin từ Lyushkov.
Cũng trong năm 1938, sứ mệnh của Richard và tính mạng của ông bị đe
dọa nghiêm trọng. Chiếc mô tô của Richard bị mất lái và ông gặp tai nạn.
Vấn đề phức tạp ở chỗ Richard mang theo người tài liệu mật và một số tiền khá lớn bằng USD.
May
mắn thay, khi bị tai nạn, Richard bị chấn thương và gãy xương hàm,
không bất tỉnh nên đã kịp bí mật giao giấy tờ và tiền mặt cho Max
Klausen, nhân viên mật mã của nhóm, người đã nhanh chóng lao đến bệnh
viện.
Không chần chừ một phút, Klausen lại lao thật nhanh đến căn
hộ của Richard, và trước khi có sự xuất hiện của các nhân viên đại sứ
quán Đức, anh đã lấy và cất giấu tất cả các tài liệu có thể buộc tội
Richard. Richard không muốn nói về những gì đã xảy ra và trong những bức
thư gửi cho vợ ông đã nhắc đến vụ tai nạn một cách hài hước.
"Anh
bị tai nạn, sau đó phải nằm viện mất vài tháng... Anh không còn đẹp
trai như trước. Có thêm một số vết sẹo, còn số lượng răng lại giảm đáng
kể... Tất cả những điều này là kết quả của một cú ngã xe máy. Bây giờ
thì anh trông giống một hiệp sĩ rách nát hơn", Richard Sorge viết trong
một bức thư gửi vợ.
Năm 1939, Richard chuyển cho Trung tâm tình báo Liên Xô thông tin về
cuộc xâm lược Mông Cổ của quân Nhật sắp xảy ra. Nhóm của Richard đã nắm
được thông tin về việc chuyển quân của quân Nhật, số lượng thiết bị quân
sự, vị trí của các sân bay Nhật ở biên giới, chi tiết về kế hoạch cho
trận chiến sắp tới ở Khalkhin Gol. Cuộc tấn công vào Mông Cổ cuối cùng
đã bị đẩy lùi thành công.
Cùng với các sĩ quan tình báo khác,
Richard liên tục cảnh báo giới lãnh đạo Liên Xô về cuộc tấn công sắp xảy
ra của Đức. Đồng thời, Richard đã thông báo về các ngày chuẩn bị tấn
công khác nhau theo kế hoạch: lúc đầu là vào khoảng tháng 3/1941, sau đó
là khoảng cuối tháng 5. Dự đoán chính xác nhất của Richard về thời điểm
tấn công của Đức Quốc xã là vào khoảng nửa cuối tháng 6/1941, nhưng dự
báo này đã bị bỏ qua mà không được quan tâm đúng mức.
Tuy nhiên,
thông báo của Richard rằng Nhật Bản dự định sẽ tập trung lực lượng chống
lại Đông Nam Á và không tấn công Liên Xô ít nhất là cho đến đầu năm
1942 đã được tiếp nhận một cách nghiêm túc. Một bức điện quan trọng được
gửi đi vào ngày 14/9/1941, khi quân Đức tiến ngày càng gần Matxcơva.
Sau
khi tiếp nhận các dữ liệu mà sĩ quan tình báo gửi về, ban lãnh đạo Liên
Xô đã chuyển số quân dự bị (tổng cộng 26 sư đoàn) từ Viễn Đông và từ
Siberia về để phòng thủ thủ đô.
Ngoài ra, Richard còn đưa ra thông
báo giả cho quân Đức về số lượng quân đội Liên Xô tại các khu vực này.
Matxcơva cuối cùng đã được bảo vệ - chiến dịch Typhoon của quân phát xít
Đức đã bị sụp đổ.
Công việc đầy khó khăn đã khiến Richard mất nhiều năng lượng. Theo hồi
ức của nhà tình báo, có lần, ông tỉnh dậy trong một căn phòng khách sạn
và vì quá mệt mỏi, ông không thể nhớ được mình cần phải dùng ngôn ngữ
nào.
Trên đất Nhật,
nhờ tài năng và tư cách của mình, Soócgiơ trở thành người “tâm phúc” và cố vấn
các vấn đề về nước Nhật của viên đại sứ Đức Quốc xã. Từ Nhật, ông đã báo cáo về
cho Tổ quốc Xôviết của ông những tin tức vô cùng quan trọng và chính xác mà những
điệp viên tài giỏi cũng khó ngờ tới. Dưới đây là một số thông tin tình báo tiêu
biểu mà Soócgiơ đã gửi về Trung tâm:
Ngày
18-12-1942, Hitle ra “chỉ thị số 21” tuyệt mật về chiến dịch Barbarosa tấn công
Liên Xô. Mười ngày sau, dù không biết về chỉ thị tuyệt mật đó, nhưng thông qua
các tin tức khác nhau và qua cuộc trao đổi với các quân nhân Đức, Soócgiơ đã điện
từ Nhật về Mátxcơva, lần đầu tiên thông qua nguy cơ Đức phát động chiến tranh
chống Liên Xô:
“Hiện nay, quân
Đức có 80 sư đoàn ở biên giới phía Đông của chúng, kể cả ở biên giới Rumani. Mục
đích là nhanh chóng tấn công Liên Xô. Đám sĩ quan mới từ Đức đến Tôkiô nói rằng
quân đội Đức có thể chiếm đóng lãnh thổ Xôviết tới tuyến Kháccốp - Mátxcơva - Lêningrát.
Bức điện ngày
11-3-1942:
“Các sĩ quan
cao cấp và giới thân cận của Himle đều tỏ thái độ chống Liên Xô. Tùy viên quân
sự Đức ở Tôkiô cho rằng khi kết thúc chiến tranh với nước Anh, nước Đức sẽ tiến
hành một cuộc chiến tranh quyết liệt với Liên Xô”.
“Khi trở về đến
Nhật Bản, Mátxuôka (sau khi sang Đức hứa hẹn cùng chung sức đánh Liên Xô, rồi
sang Liên Xô ký hiệp ước trung lập Xô - Nhật !) đã hứa với Ốt (đại sứ Đức) là
trong trường hợp có chiến tranh Đức - Nga, Nhật sẽ hủy bỏ ngay hiệp ước trung lập
với Nga…”.
“11-4-1941, Sĩ
quan của Bộ Tổng tham mưu Đức qua Tôkiô xác minh rằng cuộc chiến tranh chống Liên
Xô sẽ bắt đầu ngay sau khi kết thúc chiến tranh châu Âu”.
Bức điện ngày
17-4-1941:
“Theo phái viên
của Himle ở Tôkiô, chiến tranh Xô - Đức có thể bắt đầu khi Mátxuôka trở về Tôkiô.
Bộ Tổng tham mưu Đức đã sẵn sàng.
Đại sứ quán Đức
đã nhận được điện của Ripbentrốp (Bộ trưởng ngoại giao Đức) nói rằng cuộc chiến
tranh sẽ ngắn ngày và kết thúc bằng sự thất bại hoàn toàn của Liên Xô”.
Bức điện ngày
2-5-1941:
“Hitle đã quyết
định gây chiến tranh và tiêu diệt Liên Xô để tận dụng nguyên liệu và lương thực
ở khu vực lãnh thổ thuộc châu Âu của Liên Xô. Thời điểm quyết định để gây chiến
tranh có thể là:
-
Nam Tư hoàn toàn bại trận
-
Cuối mùa gặt
-
Kết thúc cuộc đàm phán Đức - Thổ Nhĩ Kỳ
Đến tháng 5,
Hitle sẽ quyết định thời gian bắt đầu chiến tranh”.
Bức điện ngày
19-5:
“Nhiều đại diện
của chính phủ Đức ở Tôkiô được lệnh trở về nước vào cuối tháng 5. Họ cho rằng
chiến tranh với Liên Xô bắt đầu vào khoảng thời gian này. Theo sứ quán Đức cho
biết, hiện nay Đức có 9 tập đoàn quân, 150 sư đoàn đã sẵn sàng để tấn công vào
Liên Xô… Chúng sẽ vận dụng các kinh nghiệm cuộc chiến tranh với Ba Lan trong
chiến tranh với Liên Xô”.
Bức điện ngày
21-5:
“Nếu nổ ra cuộc
chiến tranh Xô - Đức, nước Nhật vẫn trung lập, ít nhất là trong những tuần lễ đầu.
Nếu Liên Xô thua trận, Nhật sẽ tấn công Vlađivôxtốc…”.
Bức điện ngày
30-5:
“Béclin báo cho
Ốt là Đức sẽ tấn công Liên Xô vào nửa cuối tháng 6. Cánh quân trái sẽ là hướng
chủ yếu. Ốt tin chắc là chiến tranh sắp nổ ra nên đã chỉ thị cho tùy viên quân
sự không gửi tài liệu qua đường Liên Xô nữa. Tất cả các chuyên viên kỹ thuật không
quân Đức đã được lệnh trở về Đức”.
Bức điện ngày
1-6:
“Trung úy Shun,
tùy viên quân sự ở Băngcốc vừa từ Béclin đến Tôkiô. Người này cho rằng chiến
tranh giữa Đức với Liên Xô sẽ bắt đầu ngày 15-6 và hướng tiến công chủ yếu là cánh
trái của quân Đức”.
Bức điện ngày
2-6:
“Đức đã tập
trung từ 170 đến 190 sư đoàn xe tăng và cơ giới ở biên giới phía Đông. Cuộc tiến
công sẽ tiến hành trên toàn chính diện và có những mũi tấn công lớn hướng vào Mátxcơva,
Lêningrát và Ucraina. Sẽ không có tuyên bố chiến tranh…”.
Ngày 15-6-1941,
có 3 bức điện liên tục gửi về Trung tâm:
Bức thứ nhất:
“9 tập đoàn quân
Đức đã tập trung ở biên giới Xô - Đức. Theo các nguồn tin Mỹ, Đức đã dàn ra 90
vạn quân trên tuyến một ở biên giới Liên Xô và chuẩn bị một triệu quân dự bị”.
Vài giờ sau là
bức điện thứ hai:
“Cuộc chiến
tranh chống Liên Xô chắc chắn sẽ xảy ra vào cuối tháng 6”.
Sau đó là bức điện
thứ ba:
“Chiến tranh sẽ
nổ ra ngày 22-6. Cuộc tấn công sẽ bắt đầu trên một mặt trận rất rộng, vào rạng
sáng ngày 22-6”.
Bức điện ngày
22-6:
“Chúng tôi xin
gửi lời chào chiến đấu và nguyện sát cánh với các đồng chí trong những ngày khó
khăn này. Chúng tôi xin tiếp tục hoàn thành nhiệm vụ”.
Ngày 10-7 có
hai bức điện gửi về Trung tâm, bức thứ nhất:
“Ripbentrốp đã
ra lệnh cho đại sứ Đức thúc đẩy phía Nhật tham chiến càng sớm càng tốt…”.
Bức thứ hai:
“Ốt cho biết Nhật
sẽ tham chiến nếu Đức tiến tới Svéclopok”.
Bức điện ngày
13-7:
“Đại sứ Đức vận
động chính phủ Nhật tham gia chiến tranh nhưng trong lúc này, Nhật vẫn giữ thái
độ trung lập. Nếu Hồng quân bị đánh bại, Nhật sẽ tham chiến…”.
Vài ngày sau, một
bức điện có nội dung rất quan trọng được gửi về Trung tâm:
“Nếu nước Nhật
gây chiến tranh với Liên Xô thì cần có 2 tháng để chuyển 50 vạn quân bằng đường
biển. Các tàu biển của Nhật sẽ bị tàu ngầm và máy bay Liên Xô gây trở ngại lớn.
Ngoài ra còn phải cung cấp vũ khí, quân trang cho các lực lượng được động viên
và nuôi dưỡng các lực lượng đó. Vấn đề nhiên liệu không thể giải quyết được một
cách dễ dàng. Do đó, điều chắc chắn là nước Nhật chưa dám tấn công Liên Xô, trừ
trường hợp nước Đức giành được thắng lợi quyết định ở mặt trận Xô - Đức”.
Bức điện ngày
12-8:
“Đức ngày càng
thúc ép Nhật tham gia chiến tranh chống Liên Xô. Nhưng thất bại của Đức trước Mátxcơva
hôm chủ nhật đã làm nguội lạnh nhiệt tình của Nhật Bản”.
Bức điện này được
trình lên Xtalin.
Bức điện ngày
23-8:
“Dôihara và Tôgiô
cho rằng chưa đến lúc Nhật gây chiến với Liên Xô. Đức rất bất mãn bởi thái độ đó
của Nhật”.
Ngày 14-9 có 4
bức điện gửi về Trung tâm.
Bức điện lúc 11
giờ 30 phút:
“Chính phủ Nhật
Bản đã quyết định không tiến công Liên Xô trong năm nay, nhưng vẫn để lực lượng
ở Mãn Châu để sẵn sàng tiến công vào mùa xuân, nếu Liên Xô thất bại trong chiến
tranh với Đức”.
Bức điện lúc 13
giờ thông báo về dự trữ nhiên liệu của hải quân và lục quân Nhật.
Bức điện lúc 13
giờ 50:
“Đại sứ Ốt đã hoàn
toàn thất vọng về việc Nhật Bản không tiến hành chiến tranh với Liên Xô”.
Bức điện lúc 14
giờ:
“Theo đại sứ Ốt,
một cuộc chiến tranh giữa Nhật và Liên Xô không còn đặt ra nữa”.
Bức điện ngày
3-10, vào lúc 23 giờ 25 phút:
“Khi chuẩn bị tấn
công Liên Xô, Bộ tư lệnh đội quân Quan Đông đã ra lệnh động viên 3 ngàn nhân viên
đường sắt để tổ chức việc vận chuyển quân sự trên tuyến đường sắt Tây Bá Lợi Á.
Nay lệnh đó đã được bãi bỏ, một số đơn vị đã được chuyển về các đảo ở hướng
nam. Điều đó chứng tỏ trong năm nay chưa thể có chiến tranh với Liên Xô. Lực lượng
của Nhật còn lại vẫn tập trung ở khu vực Vladivốtxtốc và Vôrôsilốp”.
Đây là bức điện
cuối cùng gửi Trung tâm trước khi nhóm tình báo chiến lược do Soócgiơ đứng đầu
bị phản gián Nhật phá vỡ, và Soócgiơ cùng các đồng chí trung thành của ông (gồm
người Nam Tư, người Nga, người Nhật) lần lượt bị bắt:
“Nhiệm vụ của
chúng tôi ở Nhật Bản đã hoàn thành. Cuộc chiến tranh giữa Liên Xô và Nhật Bản đã
không xảy ra. Đề nghị cho chúng tôi về Liên Xô hoặc phái chúng tôi sang Đức”.
Những thông tin
tình báo xác định một cách chắc chắn và kịp thời của Soócgiơ về việc nội các Nhật
quyết định hoãn cuộc tấn công miền Xibêri - Liên Xô để tập trung tấn công Mỹ vào
cuối năm (trận Trân Châu Cảng) đã giúp Đại Bản doanh khẩn trương rút các đơn vị
Hồng quân từ phòng tuyến Viễn Đông về, góp phần quan trọng bẻ gãy cuộc tấn công
hòng chiếm Mátxcơva của phát xít Đức.
Vào ngày 18/10/1941, ông bị bắt tại ngôi nhà nằm trên phố
Nagasaki-machi. Nhiều thành viên trong nhóm của ông cũng bị bắt. Cho tới
nay vẫn chưa rõ vì sao phản gián Nhật có thể phát hiện ra Richard.
Theo một số báo cáo, một thành viên của nhóm - họa sĩ Etoku Miyagi,
người đã tình cờ rơi vào tay cảnh sát đã khai ra hoạt động của nhóm.
Miyagi
không thể sống đến khi phiên tòa xét xử. Ông này đã bị tra tấn đến chết
ở giai đoạn thẩm vấn. Theo thông tin khác, quân Nhật đã phát hiện được
mối liên hệ trực tiếp giữa tình báo viên với nhân viên của đại sứ quán
Liên Xô.
Richard thừa nhận quan điểm cộng sản của mình, nhưng
không từ bỏ chúng. Ông nhận toàn bộ trách nhiệm về mình, cố gắng che
chắn cho các thành viên trong nhóm, nhưng điều này đã không cứu được họ
khỏi án tù. Trong khi đó, tin tức về vụ bắt giữ Richard gây hoang mang
và phẫn nộ ở Đức. Người bạn của ông, Thiếu tướng Eugen Ott, đóng vai trò
quan trọng trong việc tạo dựng nên hình ảnh Richard - một người lương
thiện bị Nhật vu oan.
Đại sứ Đức phản
ứng kịch liệt khi được tin Rishớc Soócgiơ, nhà báo nổi tiếng, người cộng sự không
gì chê trách được, và hơn nữa, là người bạn gần gũi của chính Đại sứ, bị mật vụ
Nhật bắt. Mâyxingiơ, tùy viên an ninh, đại diện cho Himle ở Tôkiô cũng không
tin những lời buộc tội Soócgiơ của Nhật. Không thể tin nổi một đảng viên đảng
Quốc Xã già dặn; một người được Ripbentrốp, Kâytin và cả Hitle tin dùng lại là
một gián điệp Cộng sản! Chỉ mới chưa đầy một tháng trước khi bị bắt, Bộ Ngoại
giao Đức đã chính thức tuyên bố Rishớc Soócgiơ là “nhà báo ưu tú nhất của Đức ở
khu vực Đông Á”.
Với tư cách là đại sứ của Đức, Ott vô cùng tin tưởng Sorge, thậm chí
đôi khi còn để ông một mình trong văn phòng của mình, điều mà Richard
ngay lập tức tận dụng: ông chụp ảnh các tài liệu bí mật nằm trên bàn.
Ott hiểu rằng mối quan hệ của ông ta với sĩ quan tình báo Liên Xô sẽ bị
trừng phạt nên đã cố hết sức thuyết phục ban lãnh đạo về sự vô tội của
Richard.
Lúc đầu, Đức Quốc xã yêu cầu Nhật phải thả Richard. Tuy
nhiên, sau khi Ivar Lissner, nhân viên của Abwehr (Cơ quan tình báo quân
sự và phản gián của Đế chế Đức) ở Viễn Đông, được cung cấp tài liệu và
tư liệu từ các cuộc thẩm vấn các thành viên của nhóm Richard, Đức Quốc
xã đã thay đổi quan điểm và bắt đầu khăng khăng đòi phải được dẫn độ kẻ
phản bội về Đức. Tuy nhiên, điều này đã bị Nhật từ chối. Còn Ott, mặc dù
thoát khỏi sự trừng phạt nghiêm khắc, nhưng đã bị buộc phải từ chức.
Thời gian đầu,
khi bị hỏi cung, Soócgiơ giữ thái độ im lặng ngoài câu nói duy nhất trước viên
chánh án Nhật là Matxukô Nakamura: “Tôi là công dân Xôviết”.
Sau một thời
gian, cơ quan phản gián Nhật đã tìm cách dịch được các bức điện mật mã do hiệu
thính viên của Soócgiơ tên là Clauden truyền đi. Chính bản thân Clauden cũng bất
ngờ trước tổng số thông tin mà mình đã gửi đi trong 5 năm: hàng trăm ngàn nhóm điện.
Đến đây, cơ quan phản gián Nhật đã biết được toàn bộ hoạt động của nhóm tình báo
do Soócgiơ đứng đầu.
Trong một lần hỏi
cung, nhân viên phản gián Nhật đã đưa cho Soócgiơxem các bản sao của tất cả các
bức điện mà nhóm của ông đã gửi đi, kể cả luật mật mã của nhóm và tên đài nhận
là Oêthađen. Từ đó, Soócgiơ quyết định nói với điều kiện không nói gì về những điều
bí mật, về những kỹ thuật cũng như về phương pháp hoạt động của ông.
Khi Soócgiơ quyết
định nói, viên biện lý Yôshikaoa hí hửng đọc một câu phương ngôn Nhật: “Một ngày
sống trên thế gian này còn hơn một ngàn ngày ở thế giới bên kia”. Nghe vậy, Soócgiơ
điềm tĩnh nói:
- Một người chiến
sĩ không tránh được cái chết ở trận địa. Tôi không đặt chút hy vọng nào vào các
cây tre năm nay, nhưng tôi hy vọng vào các măng non của tương lai.
Trong các biên
bản hỏi cung còn sót lại sau chiến tranh, người ta đọc thấy những dòng này:
“Vấn: - Tiến sĩ
Soócgiơ, tại sao ông thành người Cộng sản?
Đáp: - Tôi đã
tham gia chiến tranh và tôi đã thấy rõ chiến tranh là điều khủng khiếp nhất đối
với thế giới. Tôi đã nghiên cứu chính trị - kinh tế học, lịch sử, và tôi đã đi đến
kết luận là chỉ có Chủ nghĩa cộng sản mới có thể xóa bỏ nghèo khổ và đói rách. Ông
nội tôi, Friđric Annbe Soócgiơ, là thư ký của Mác, nhưng điều đó không phải là ảnh
hưởng quyết định đối với tôi. Tôi bắt đầu đọc các tác phẩm của Mác khi phải nằm
bệnh viện do bị thương. Sau đó, tôi đã thấy rõ sự sụp đổ của nước Đức quân chủ.
Sau chiến tranh, tôi đã thấy sự khổ cực của hàng triệu con người. Tất cả điều đó
đã củng cố lòng tin của tôi đối với Chủ nghĩa cộng sản.
Vấn: - Ông bắt đầu
tin Chủ nghĩa cộng sản từ bao giờ?
Đáp: - Từ năm
1918. Cuộc đại chiến thế giới lần thứ nhất đã ảnh hưởng sâu sắc tới cuộc sống của
tôi. Chưa nói đến các lý do khác, chỉ riêng lòng căm thù của tôi đối với chiến
tranh cũng đủ làm tôi trở thành người cộng sản.
Vấn: - Nhóm của
ông là nhóm gián điệp, và ông là một kẻ gián điệp…
Đáp: - Cái nghĩa
mà người ta thường gán cho từ “gián điệp” không có quan hệ gì với việc mà chúng
tôi làm. Những người gọi là gián điệp thường tìm những chỗ yếu về chính trị,
kinh tế của Nhật Bản để giáng những đòn mạnh mẽ vào đấy. Nhưng nhóm chúng tôi sưu
tầm các tin tức của Nhật Bản là nhằm mục đích khác, với tinh thần khác. Năm
1935, Khi Clauden và tôi từ biệt thủ trưởng cục 4 của Hồng quân, ông đã nói với
chúng tôi: “Tôi muốn rằng các hoạt động của các anh phải nhằm làm sao tránh được
cuộc chiến tranh giữa Nhật và Liên Xô…”. Những người Xôviết từ nhiều năm nay đã
tìm cách tránh những va chạm và những nguồn có thể gây xung đột với Nhật Bản. Đã
có nhiều ví dụ để chứng minh. Khi xảy ra sự kiện Khanka, Liên Xô đã chấp nhận
ngừng bắn, tuy phía Liên Xô đã giành được chiến thắng quân sự. Hơn nữa, Liên Xô
đã nhượng cho Nhật tuyến đường sắt Mãn Châu để duy trì hòa bình giữa hai nước.
Và còn nhiều ví dụ khác nữa… Khi Bộ trưởng ngoại giao Nhật là Mátxuôka sang thăm
châu Âu, Liên Xô đã ký ngay hiệp ước trung lập sau khi nắm được tình hình do tôi
báo cáo. Tất nhiên, tôi không nói rằng chỉ do các hoạt động của nhóm chúng tôi
mà Liên Xô và Nhật Bản có quan hệ tốt với nhau, nhưng chúng tôi bao giờ cũng làm
việc với tinh thần đó. Đó là điều khác biệt giữa chúng tôi với những người được
gọi là gián điệp, và cũng là điều khác biệt giữa lập trường của chúng tôi với lập
trường của họ. Và đó cũng chính là điều mà tôi viết trong bức điện cuối cùng gửi
về Mátxcơva hôm trước khi tôi bị bắt, trong đó tôi nói rõ là nhiệm vụ của chúng
tôi đã hoàn thành vì sẽ không có chiến tranh giữa Nhật và Liên Xô, và tôi xin
trở về Mátxcơva hoặc sang Đức”.
Theo một số báo cáo, chính phủ Nhật Bản đã đàm phán với nhà lãnh đạo
Liên Xô Joseph Stalin về việc trao đổi nhà tình báo để lấy một số tù
nhân Nhật Bản. Tuy nhiên, vị Đại nguyên soái Liên Xô được cho là đã
không bật đèn xanh cho thỏa thuận này: vì trong thời chiến, bất kỳ sự
hợp tác nào với kẻ thù của các nước Đồng minh đều có thể bị coi là phản
bội.
Cùng với người bạn đồng hành trung thành là Ozaki, Richard bị kết án tử
hình bằng cách treo cổ. Phán quyết do Thẩm phán Takada Tadashi, một
người quen của nhà báo Ozaki từ thời học tại Đại học Tokyo, thông qua. Sau này, trong hồi ký, Tadashi có viết: ""Tôi đã bị sốc trước sức mạnh ý chí của Ozaki và Richard. Quyết định thực hiện án tử hình không dễ dàng đối với tôi"!
Mùa hè năm
1944, phía Nhật báo cho sứ quán Đức là Soócgiơ muốn gặp một quan chức của sứ quán
trước khi chết. Việc đó làm náo động sứ quán Đức. Người ta bàn tán, đoán già đoán
non…
Hammel, phiên dịch
của sứ quán Đức được cử đến nhà tù nơi Soócgiơ bị giam giữ chờ ngày hành quyết.
Trước mắt viên phiên dịch là một con người xanh xao, rất gầy, kiệt lực, đôi mắt
đỏ sọc sau cặp kính, nhưng rất bình thản. Người đó nói một cách nhẹ nhàng:
- Tôi mong rằng
mẹ tôi, Nina Sêmiônôva Kôbêlêva Soócgiơ hiện ở Hămbuốc, không bị làm rầy rà. Mẹ
tôi không hề biết gì về cuộc sống cũng như về các hoạt động của tôi. Đó là điều
mong muốn cuối cùng của tôi.
Ngày hành quyết,
theo luật định, viên giám đốc đọc bản án và báo cho Soócgiơ biết ông sẽ bị xử tử
ngay trong ngày. Các nhân viên nhà tù kể lại rằng Richard nhận được tin báo về cái chết
sắp tới với một sự bình tĩnh và thậm chí ông còn cảm ơn sự tử tế của các
nhân viên nhà tù trước khi vào phòng thi hành án. Không nói gì thêm, Soócgiơ thong thả ra khỏi phòng giam, qua sân nhà
tù, bước vào một căn phòng nhỏ. Một nhà sư tiến tới hỏi: “Người có cần cầu nguyện
không?”. Soócgiơ lắc đầu, quan sát thấy một vòng tròn chỉ chỗ đứng, ông bước vào
chỗ đó. Đúng lúc đao phủ quàng sợi dây thòng lọng vào cổ, Soócgiơ hô:
- Đảng Cộng sản,
Liên Bang Xôviết và Hồng quân muôn năm!
Soócgiơ chết vào
buổi sáng ngày 7-11-1944. Đêm hôm đó, những tràng pháo hoa sáng rực bầu trời của
các thành phố Xôviết: Liên Xô kỷ niệm lần thứ 27, ngày Cách Mạng Tháng Mười Nga
thành công.
Trong khi cuộc điều tra vụ án Richard đang được tiến hành thì vợ của ông
là Ekaterina Maksimova cũng bị bắt tại Liên Xô vì có kẻ tố cáo sai về
mối quan hệ của bà với Đức Quốc xã và bà bị đày tới Siberia. Nguồn gốc
xuất thân của bà đóng một vai trò đáng buồn trong việc này - giống như
chồng, bà cũng mang một nửa dòng máu Đức. Cuộc đời của Maksimova kết thúc một cách bi thảm: Bà qua đời vào mùa hè năm 1943.
Năm 1951, chính phủ Mỹ đã cố tình buộc tội Richard gián tiếp tạo điều
kiện cho cuộc không kích của Nhật Bản vào căn cứ hải quân của Mỹ tại
Trân Châu Cảng, Hawaii.
"Richard được cho là đã sử dụng các mối
quan hệ của mình để thúc đẩy cuộc tấn công vào Trân Châu Cảng. Thông qua
Ozaki, thông qua Hoàng tử Konoe, cố gắng gây ảnh hưởng để làm chệch
hướng đòn tấn công từ Liên Xô và hướng nó về phía nam", nhà sử học tình
báo Andrey Vedyaev viết.
Tuy nhiên, người ta đã không tìm thấy
bằng chứng quan trọng nào về sự dính líu của nhà tình báo này trong vụ
tấn công: vào ngày xảy ra vụ tấn công ở Hawaii, Richard đã ở tù được hai
tháng, và trong những bức điện cuối cùng của ông gửi về Trung tâm tình
báo Liên Xô không hề nói về một cuộc tấn công vào Trân Châu Cảng.
Song,
Richard dù sao cũng nhận thức được các kế hoạch gần đúng của chính phủ
Nhật Bản, tuy nhiên ông lại phỏng đoán trước một kết cục tương tự của
các sự kiện.
Ông không thể im lặng: thông qua một thành viên trong
nhóm là Branko Vukelich, Richard đã trao một số tài liệu quý giá cho
một trong những nhà báo Mỹ. Dựa trên nội dung, khả năng Nhật Bản tấn
công Mỹ là rất cao. Nhưng thông tin này đã bị chính phủ Mỹ phớt lờ.
Richard Sorge được chôn cất trong một ngôi mộ chung ở nghĩa trang nhà
tù. Năm năm sau, hài cốt của nhà tình báo được Hanako Ishiya, một cô
gái người Nhật rất mực yêu quý ông, tìm thấy. Sau khi án tử hình được
thi hành, cô luôn hy vọng tìm được mộ của ông.
Những nỗ lực tuyệt
vọng của cô đã được một nhân viên quản trang chú ý vì trong nghĩa trang
đó có xác của những người bị kết án được cải táng sau khi Thế chiến II
kết thúc.
Ishiya sau đó đã nhận dạng Richard qua một số đặc điểm,
trong đó có chiếc kính tròn mà ông đã đeo trong ngày bị hành quyết.
Richard cuối cùng đã được an nghỉ tại nghĩa trang Tama.
Ít lâu sau, câu chuyện về Richard được công khai, và Ishiya bắt đầu
nhận được tiền trợ cấp với tư cách là góa phụ của một sĩ quan đã hy sinh
trong khi làm nhiệm vụ. Năm 1964, chính phủ Liên Xô đã truy tặng
Richard Sorge danh hiệu Anh hùng Liên Xô.
Sau khi Ishiya mất,
những người thân trong gia đình đã làm giấy tờ thủ tục chuyển giao quyền
mai táng cho Đại sứ quán Nga tại Nhật Bản.
Trên phần mộ của nhà
tình báo vĩ đại có ghi tên những cộng sự của ông. "Nơi đây, những chiến
sỹ chiến đấu vì hòa bình trên trái đất, những người đã hy sinh cuộc sống
của mình trong cuộc đấu tranh chống lại chiến tranh, đã yên nghỉ", dòng
chữ trên mộ của Richard Sorge viết.
***
Nhận xét
Đăng nhận xét