THỰC TẠI VÀ HOANG ĐƯỜNG 32/a
THỰC TẠI VÀ HOANG ĐƯỜNG (III)
ĐẠI CHÚNG
----------------------------------------
PHẦN III
Nguồn cội
“Đừng chê cõi trần nhơ
“Đừng chê cõi trần nhơ
Đừng khen cõi trần đẹp
Cõi trần là thản nhiên
Chỉ có đời nhơ, đẹp
Trần Hạnh Thu
Trần Hạnh Thu
CHƯƠNG X: TỘI
ÁC
“Với việc thiết lập bạo lực và giết nhau
trong loài của mình, con người tự đặt nó xuống dưới con thú.”
André Bourguignon
Vì rằng trước
nhận thức, Tự Nhiên Tồn Tại biểu hiện ra hoàn thiện, đầy đủ một cách vốn dĩ thế và không có Hư Vô nên Không Gian là một lực
lượng tuyệt đối được bảo toàn. Vì rằng Không Gian phải tuyệt đối được bảo toàn
nên đồng thời với quá trình tạo dựng là quá trình hủy diệt. Vậy thì loài người được
hun đúc nên từ đâu nếu không phải từ thiên nhiên hoang dã, trên con đường nào nếu
không phải là hủy diệt - tạo dựng và bằng cách nào nếu không phải là tiến hóa -
thích nghi?
Chính vì Tự Nhiên
Tồn Tại là vốn dĩ thế nên nó toàn năng mà cũng không toàn năng, tồn tại mà cũng
không tồn tại, phân biệt được mà cũng không phân biệt được, thống nhất mà cũng
không thống nhất, tạo dựng đồng thời với hủy diệt…, là cả hai mà cũng không phải
là cả hai và không thể bàn luận một cách dứt khoát được. Nhưng dù sao thì vẫn cứ
phải bàn luận để nhận thức vì còn con đường nào khác nữa đâu?
Khi đặc tính của
Tự Nhiên Tồn Tại được nhận biết như là sự trái ngược thì sự dàn trải của nó trước
quan sát, nhận thức cũng biểu hiện ra như thế, với một tổng thể các sự vật - hiện
tượng biến hóa không ngừng để vừa là chúng vừa không phải chúng, vừa “cố gắng”
tồn tại vừa bị làm cho hư vô đi. Đó chính là vận động. Vận động là quá trình thống
nhất của hai quá trình đồng thời là tạo dựng và hủy diệt của tất cả các sự vật
- hiện tượng, xảy ra đến “chân tơ kẽ tóc”, liên tục và bất tận, nhằm bảo đảm
cho Không Gian được bảo toàn.
Có cội nguồn là
Tự Nhiên Tồn Tại nên thiên nhiên hoang dã trước hết và trên hết phải mang những
đặc tính của Tự Nhiên Tồn Tại; phải tuân theo những nguyên lý vĩ đại của Tự Nhiên,
trong đó có đặc tính - nguyên lý “Phân biệt được”. Nhờ vậy, thiên nhiên hoang dã,
là bộ phận của Tự Nhiên Tồn Tại nhưng phân biệt được với Tự Nhiên Tồn Tại, nghĩa
là nó có đặc tính riêng, tính đặc thù trước một quan sát - nhận thức nhất định.
Điều đó cũng đã nói lên tính thống nhất đồng thời cũng không thống nhất của Thế
Giới, trong đó sự thống nhất có ý nghĩa nền tảng, tuyệt đối, khách quan, còn sự
không thống nhất có ý nghĩa nổi trội, tương đối, chủ quan.
Khi coi môi trường
thiên nhiên hoang dã như một nền tảng của tồn tại - hiện hữu thì nó cũng chính
là cội nguồn của mọi sự vật - hiện tượng hiện hữu trong lòng nó và mọi sự vật -
hiện tượng ấy cũng phải mang những đặc tính, tuân theo những nguyên lý của thiên
nhiên hoang dã (mà sâu xa nhất là của Tự Nhiên Tồn Tại) và thể hiện ra vừa có tính
chung vừa có tính đặc thù trước một quan sát - nhận thức (cũng vừa có tính
chung vừa có tính đặc thù). Điều này cho phép chúng ta khẳng định: không có hoa
hậu thế giới của mọi thời đại và hoa hậu thế giới có thể là một cô gái đẹp nhưng
không bao giờ là đẹp nhất đối với mọi gã đàn ông!
Vì là “hậu duệ”
của thế giới vô sinh nên muôn giống loài sinh vật cũng phải tuân thủ nguyên tắc
nói trên, cũng phải vận động, chuyển hóa không ngừng để vươn tới cân bằng, “cố”
duy trì hiện hữu đồng thời luôn “bị” hư vô hóa đi (ở đây, chúng ta nhắc lại: điều
kiện tiên quyết của hiện hữu là tồn tại nhưng tồn tại chưa chắc đã hiện hữu, và
hư vô, tùy vào trình độ quan sát - nhận thức mà trước tiên có nghĩa là không hiện
hữu và sau đó có thể là cả không tồn tại; tuy vậy, Tồn Tại thì vẫn còn đó một cách
vốn dĩ, không thể Hư Vô được!), nhưng dưới hình thức đặc thù là sinh - diệt, biến
hóa thích nghi trên con đường lựa chọn tự nhiên. Vì là “con em” của thế giới
sinh vật cho nên loài người cũng phải thuộc về thế giới ấy, phải tuân thủ thế
giới ấy, cũng phải “ở trong” môi trường thiên nhiên hoang dã cũng như “ở trong”
Vũ Trụ. Nhưng vì khác với các giống loài sinh vật khác là có tư duy nên sự tồn
tại và vận động của loài người cũng mang nét riêng, nét đặc thù, thể hiện ra chẳng
hạn như: tích cực tác động cải tạo thiên nhiên để thích nghi, chủ động hợp thành
quần thể, xã hội để mưu sinh; đấu tranh ngày một quyết liệt với môi trường luôn
biến đổi (với sự hiện diện của giống loài khác và cả của bầy đàn, quần thể xã hội
người khác!) nhằm cố gắng duy trì tồn tại - hiện hữu, nghĩa là mưu cầu sống còn
và thỏa mãn danh lợi… Có thể nói gọn lại: tính đặc thù của loài người so với giống
loài khác là sự hoạt động sống có ý thức của nó.
Nếu chúng ta gọi
hoạt động sống của loài vật là có tính vô ý thức hay là mù quáng thì hoạt động
sống của loài người đã hoàn toàn là có ý thức (hay cũng có thể nói là có ý thức
một cách tuyệt đối) chưa? Câu trả lời chỉ có thể là phủ định, nghĩa là hoạt động
sống của con người nói riêng và của loài người nói chung, cho đến ngày nay vẫn
chưa hoàn toàn có ý thức và chắc rằng trong tương lai cũng không bao giờ có thể
xuất hiện hiện tượng như thế. Hữu thức và vô thức là hai mặt tương phản của mối
quan hệ lưỡng nghi thống nhất, có thực trong nội tại của từng con người và ở cả
loài người. Sự chuyển hóa qua lại giữa hai mặt tương phản của mối quan hệ lưỡng
nghi ấy là tất yếu.
Nó không bao giờ
mất, vì đơn giản là trong âm phải có dương và trong dương phải có âm. Một khi đã
đến trạng thái tột độ thì lập tức phải quay về vì nếu không quay về tức là đã vượt
qua tột độ (trạng thái quá độ) làm cho một mặt nào đó toàn dương (và mặt kia toàn
âm) và mối quan hệ ấy sẽ chấm dứt tồn tại kéo theo nội tại của con người (hoặc
loài người) cũng chấm dứt tồn tại. Đã không còn nội tại thì làm sao mà hiện hữu
được ngay cả đối với hồn ma? Như đã nói, ngay cả những hình người, vật trong gương,
trong phim ảnh đều phải có nội tại, thì hồn ma nếu thực sự được quan sát thấy,
cũng phải có nội tại và trước sau gì loài người cũng nhận thức được nó. Đây là điều
mà chúng ta dám khẳng định!
Có thể giải thích
tính không hoàn toàn có ý thức trong hoạt động sống của loài người theo cách khác.
Nôm na là thế này: thế giới sinh vật, xét đến cùng là bộ phận của thế giới nền
tảng và phải tuân theo một cách nghiêm ngặt những nguyên lý, quy luật của thế
giới nền tảng. Tương tự, loài người thoát thai từ thế giới sinh vật và là bộ phận
của thế giới ấy nên hoạt động sống của nó dù rằng là có ý thức thì cũng phải phục
tùng những nguyên lý, những quy luật có tính cơ bản, chung nhất và hoàn toàn vô
thức của thế giới ấy. Có thể quan niệm phần hữu thức được hun đúc từ nền tảng vô
thức, hay để dễ thấy hơn là từ đại dương vô thức, trôi nổi trong cái đại dương
vô bờ bến đó và dù có vùng vẫy cỡ nào đi chăng nữa thì cũng không thể vượt ra
ngoài cái đại dương đó được. Con người có ý thức là nhờ bộ não biết tư duy, nhưng
hoạt động nền tảng để làm xuất hiện ra sự suy nghĩ lại hoàn toàn vô thức. Như vậy
rõ ràng hoạt động sống có ý thức của con người không thể vượt ra khỏi hoạt động
sống nói chung của thế giới sinh vật trên nền tảng vô ý thức vì nếu giả sử có xảy
ra như vậy thì con người không còn thuộc về thế giới sinh vật nữa, thậm chí không
còn là con người nữa. Lúc đó con người phải đi đâu? Đáng lẽ phải về thế giới vô
sinh và trở thành “cát bụi” nhưng vì chúng ta đã cho rằng nó hoàn toàn có ý thức
nên không thể được. Vì tính đầy đủ của Vũ Trụ nên còn có thế giới cả hai là vừa
hữu sinh vừa vô sinh. Hay là về đó? Nếu về đó thì cũng chính là về thế giới hữu
sinh (thế giới sinh vật) vì thực chất đây cũng là thế giới “hai trong một”. Vậy
thì con người ý thức hoàn toàn chỉ có thể về thế giới còn lại. Đó là thế giới
“không phải cả hai”: không hữu sinh mà cũng không vô sinh. Nhưng khi về thế giới
này, con người không còn là sinh vật nữa, cũng không thành sự vật vô tri hay cát
bụi được nên nó hoặc là thành ma hoặc là thành thần thánh. Theo quan niệm riêng,
vì chúng ta chỉ thấy cái thế giới lạ lùng này trong suy tưởng nên nó có tính ảo
và một khi hiện hữu trong thế giới ảo, không cần trao đổi chất với môi trường vẫn
sống nhăn răng thì ma quỷ và thần thánh, thậm chí là Thượng Đế cũng ảo nốt.
Nói thêm về một
sự kiện mang tính kỳ diệu. Rồi đây, trong tương lai, con người sẽ chế tạo được
những người máy về hình thức hoạt động sẽ rất giống loại sinh vật biết tư duy,
nghĩa là cũng biết làm lụng, tính toán điều hơn lẽ thiệt, biết đói khát, biết ăn
uống, biết tìm miếng ăn… và thậm chí là biết yêu ghét nữa, nói chung là biết
suy luận. Như thế, trong một chừng mực nhất định, phải cho rằng hoạt động của
những người máy đó là có ý thức. Vậy thì những người máy hoạt động có ý thức trên
nền tảng hoạt động vô thức và thụ động theo các quy luật vật lý có thuộc về thế
giới sinh vật không? Hiển nhiên là không rồi một khi chúng không biết tự trao đổi
chất để tổng hợp nên các chất nhằm khôi phục sự hao mòn của các chi tiết trong
quá trình sử dụng cho hoạt động “sống”, nhằm tự tăng trưởng và nhất là không
“biết cách” sinh sản như sinh vật. Chúng chỉ có thể là thuộc về thế giới vô
sinh. Một khi trong thế giới vô sinh cũng tồn tại những hoạt động có ý thức thì
có cần phải quan niệm lại rằng không hẳn bất cứ sự vật - hiện tượng nào trong
thế giới ấy cũng vô tri?
Tự Nhiên Tồn
Tại còn chứa chấp quá nhiều kỳ bí trong lòng nó!
Chúng ta không
“bay” nữa mà “hạ cánh” xuống tiếp tục nói về loài người.
Nói lại lần nữa
là loài người như mọi giống loài khác, cũng phải duy trì sự hiện hữu của nó
trong thiên nhiên hoang dã bằng cách đấu tranh sinh tồn. Thiên nhiên hoang dã
chỉ có “ngần ấy” lực lượng thôi và lực lượng ấy cũng không mất đi đâu cả nên đã
có sinh thì phải có tử, tạo dựng bao nhiêu thì đồng thời cũng đập phá đúng bấy
nhiêu, muốn bổ sung thêm thì phải tiêu thụ bớt đi… Đó chẳng qua là biểu hiện tính
bảo toàn lực lượng của thiên nhiên. Xét trên tổng thể thì lực lượng thiên nhiên
luôn bảo toàn (chúng ta tạm coi sự trao đổi lực lượng giữa Trái Đất và bên ngoài
là cân bằng). Nhưng các lực lượng bộ phận của nó trong mối quan hệ tương phản lưỡng
nghi giữa chúng là luôn luôn biến đổi để vươn tới cân bằng lưỡng nghi song lại
không bao giờ cân bằng được do sự phụ thuộc lẫn nhau “chằng chịt” của chúng và
chủ yếu là do chính bản thân thiên nhiên (trái đất) cũng vận động. Trái đất là
không thể bị cô lập tuyệt đối với Thái dương hệ và rộng hơn là cả Vũ Trụ được
cho nên trong quá trình hình thành và biến hóa của nó có thời đoạn làm xuất hiện
ra sinh vật để tham gia vào quá trình vận động tiến tới cân bằng của thiên nhiên.
Trong điều kiện thiên nhiên thuận lợi, sinh vật sẽ tăng trưởng nhanh chóng đến độ
mất cân bằng sinh thái nghiêm trọng. Đó là nguyên nhân làm cho sinh vật tiến hóa
thích nghi, và từ đó mà xuất hiện ra muôn loài sinh vật. Thuở đầu tiên sinh vật
phát triển vượt quá khả năng cung ứng chất hữu cơ đã làm cho hàng loạt sinh vật
phải chết đi. Các sinh vật còn sống sẽ biến đổi sao cho tiêu thụ được những “xác
chết” ấy để duy trì sự sống. Dần dà sự biến đổi thích nghi ấy đã làm cho những thế
hệ giống loài sinh ra sau lấy đối tượng là những giống loài sinh ra trước lạc hậu
hơn, yếu hơn làm nguồn thức ăn. Sau này, sự tiến hóa thích nghi ở mọi giống loài
đã làm xuất hiện mọi hình thức mọi kỹ năng mà chúng ta thấy như: ngụy trang, khả
năng phát hiện đối phương, cách trốn chạy, sự rình vồ, phương thức chống trả tự
vệ.v.v… để rồi làm hình thành nên bức tranh đấu tranh sinh tồn vĩ đại ở thế giới
sinh vật. Ngày nay giống loài nào cũng là “miếng ăn” của nhiều giống loài khác.
Loài người dù có bom nguyên tử thì “bầy đàn” vi khuẩn cũng chẳng “sợ” mảy may!
Muôn loài sinh
vật đều phải cạnh tranh nhau và trong những trường hợp nhất định thì ngay cả
trong nội bộ loài cũng xuất hiện cạnh tranh giữa các cá thể để sinh tồn. Một số
ít ỏi thực vật (cây tầm gửi, cây bắt côn trùng…) và ở toàn bộ động vật cũng như
những loài còn lại, trong hoạt động đấu tranh sinh tồn, đều ăn sinh vật để sống;
lấy hủy diệt sự sống làm “lẽ sống”. Như vậy, đấu tranh sinh tồn là nguyên tắc sống
phổ biến và có tính bắt buộc đối với mọi giống loài, mọi cá thể sống trong thế
giới sinh vật. Nói cách khác, đấu tranh sinh tồn là một qui luật cơ bản của tự
nhiên, thể hiện đặc thù trong thế giới sinh vật. Do đó nó không theo ý chí của
loài người mà trái lại, ý chí của loài người phải phục tùng nó. Sự tác động của
qui luật đó đối với mọi giống loài và kết quả mà nó gây ra là hoàn toàn tự nhiên,
hoàn toàn tất yếu mà nếu xét theo nhãn quan đầy thiên vị của loài người thì nó
hoàn toàn mù quáng. Loài người dù có ý thức đến mấy thì cũng không vượt thoát được
đại dương vô thức cho nên dù có duy ý chí đến mấy thì cũng không thể “tránh né”
được sự chi phối mù quáng của qui luật đấu tranh sinh tồn. Lý trí của con người
không thể biến cải nó mà chỉ có thể nhận thức nó để tự giác thỏa mãn nó một cách
khôn ngoan, biết chọn lựa, sáng tạo những hoạt động sống tối ưu, nhằm giảm đến
mức tối thiểu có thể những tổn thất về sinh mạng và của cải do mặt trái hủy diệt
và tàn phá của qui luật đấu tranh sinh tồn gây ra, và đồng thời như thế cũng chính
là làm cho sự tồn tại của loài người được duy trì lành mạnh và bền vững hơn. Hơn
nữa, một khi con người đồng lòng làm được như thế cho giống loài mình thì cũng
chính là làm cho Đức Huyền Diệu được thỏa mãn.
Nhưng than ôi,
như chúng ta đã thấy và đang thấy, đến tận ngày nay vẫn chưa xuất hiện một “lý
trí đồng lòng” để thực hiện điều đó. Vì sao vậy? Vì con người vẫn còn nhận thức
rất hời hợt (cũng có thể là chưa nhận thức được) tác động to lớn và đầy tai hại
của qui luật đấu tranh sinh tồn đối với một giống loài được trang bị tư duy nhưng
chưa đủ sáng suốt. Con người, khi Tạo Hóa ban cho trí khôn rồi thì bỗng trở nên
vô cùng kiêu ngạo. Sự kiêu ngạo đó cùng với sức ỳ sinh lý - tâm lý vốn có (cái
này và quán tính vật lý có cùng nguồn gốc không nhỉ?) đã làm cho con người trở
nên đầy bảo thủ. Hình như tất cả mọi “cái tôi”, khi đã nhận thức và đặt cược niềm
tin chân lý nào đó rồi thì thật khó lòng thuyết phục để thay đổi, nhiều khi là
không thể.
Tại như thế nên
con người luôn cho rằng nó đã đủ khôn ngoan để sống, đủ quyền uy để tự tung tự
tác thế giới sinh vật, để hoạt động sống hoàn toàn có ý thức và thoát ra ngoài
sự ảnh hưởng của qui luật đấu tranh sinh tồn. Để rồi nó cứ thắc mắc hoài và chưa
bao giờ giải đáp được nguyên nhân đích thực về sự thống khổ, tàn bạo, tham tàn,
chiến tranh… xảy ra thường xuyên ở loài người mà so ra thì ít thấy xảy ra và mức
độ cũng không đáng kể ở loài vật. Trong khi con người tưởng rằng nó đang sống
cuộc sống có ý thức hoàn toàn thì thực ra nó đang bì bõm trong biển vô thức. Bởi
vì trí khôn ngoan của con người vẫn còn chìm triền miên trong mê lầm cho nên
trong khi nó tưởng rằng hoạt động xã hội của nó là tự do, thuần túy lý trí thì
thực ra chỉ là làm nô lệ cho sự mù quáng một cách vô tình (nói đúng hơn là vô
thức).
Việc duy trì
sinh tồn trong điều kiện muốn tạo dựng thì phải phá hủy, muốn sống còn thì phải
“ăn” sống còn, sinh sôi nảy nở càng nhiều thì phải tiêu diệt sự sinh sôi nảy nở…
đã dẫn đến việc thứ hai là muốn không bị phá hủy thì phải phản kháng, muốn không
bị “ăn” thì phải thủ đoạn, muốn tránh bị tiêu diệt thì phải trốn chạy hoặc tự vệ
và ở “bước đường cùng” là phải tiêu diệt sự tiêu diệt. Hai việc tương phản đó xảy
ra thường xuyên và khắp nơi trong thế giới sinh vật, tạo nên sự mưu sinh bằng cạnh
tranh ở khắp các giống loài sinh vật, ảnh hưởng đến từng cá thể sinh vật và trở
thành như một “lối sống”. Đó chính là nội dung chủ yếu của qui luật đấu tranh
sinh tồn.
Sự vận động biến
đổi của môi trường sinh thái đã là duyên cớ trực tiếp làm xuất hiện qui luật
sinh tồn và sự đấu tranh sinh tồn giữa muôn loài sinh vật, đến lượt nó, tác động
trở lại làm cho môi trường sinh thái biến đổi. Qui luật đấu tranh sinh tồn, qua
tác động thường xuyên của nó, đã tạo nên tính hoang dại, dã man, hung dữ và cả
sự nhát sợ (mà người ta quen gọi là thú tính) ở động vật. Đồng thời, nhờ qui luật
đó mà thế giới sinh vật trở nên phong phú, đa dạng về giống loài và chính nhờ sự
tác động mù quáng của nó mà loài người được hun đúc nên. Vậy thì sự xuất hiện của
loài người trên Trái Đất này là định mệnh hay tình cờ? Có thể là cả hai! Qui luật
đấu tranh sinh tồn có nguồn gốc từ nguyên lý Tự Nhiên nên ở đâu có thế giới hữu
sinh tồn tại đủ dài lâu thì ở đó tất yếu xuất hiện giống loài biết tư duy như
con người. Tuy nhiên nếu điều kiện môi trường Trái Đất là một ngẫu nhiên có xác
suất thấp trong Vũ Trụ thì việc xuất hiện ra một giống loài biết tư duy có hình
dạng, cá tính giống hệt loài người là thật vô cùng hiếm hoi và có thể coi sự xuất
hiện loài người trên Trái Đất này là một sự tình cờ “thú vị”. Tuy nhiên, biết đâu
chừng trong lúc này đây, ở một nơi nào đó xa xôi trong mịt mùng Vũ Trụ, có một
giống loài nào đó đang ăn những trái táo hảo hạng nhất mà Trái Đất có và giao
tiếp với nhau bằng tiếng Anh chuẩn hơn cả người Mỹ!
Có thể nói không
ngoa lắm rằng qui luật đấu tranh sinh tồn đã tạo nên động lực cho mọi hoạt động
sống của sinh vật và mọi hoạt động sống của sinh vật đều nhằm mục đích đấu
tranh để sinh tồn. Ở loài người, điều đó không thể là ngoại lệ. Cho nên khi đấu
tranh sinh tồn tạo thành ở động vật cái gọi là thú tính như đã nói thì tương tự,
nó cũng tạo nên ở loài người một thú tính. Tuy nhiên vì loài người là động vật được
trang bị thêm tư duy nên thú tính ở loài người có tính đặc thù và chúng ta tạm
gọi để phân biệt là “nhân tính” (đừng hiểu nhân tính theo nghĩa tốt đẹp như chúng
ta vẫn thường hiểu).
Nhờ được trang
bị tư duy để nhận biết ngày một sâu sắc hơn về hiện thực và thân phận, loài người
đã hành động một cách chủ động, sáng tạo và ngày càng hiệu quả trong công cuộc đấu
tranh sinh tồn của mình để rồi thực sự trở thành lực lượng thống trị trong thế
giới sinh vật. Chính cái khả năng biết sử dụng năng lực của thiên nhiên để hỗ
trợ mình chống lại thiên nhiên đã đặt loài người lên ngôi chúa tể. Xét về cơ thể
sinh học thì rõ ràng con người yếu hơn nhiều loài vật khác nhưng nhờ có tư duy
mà con người biết tổ chức bầy đàn, quần thể chặt chẽ, hợp lý hơn, và chủ yếu là
có võ nghệ, vũ khí nên mạnh hơn hẳn loài vật. Chúng ta cho rằng khi con người lần
đầu tiên biết lấy một cành cây làm gậy hỗ trợ cho những bước đi chập chững bằng
hai chân của mình và dùng cây gậy đó để chống trả khi bị tấn công thì cũng là lúc
con người biết đến vũ khí, hơn nữa khi cây gậy đó (hay là hòn đá?) được ném về
phía “quân thù” thì nó cũng trở thành “mũi tên, hòn đạn” đầu tiên trong lịch sử
đẫm máu của loài người. Cũng nên nói thêm rằng loài người thời tối cổ xưa, với
nhận thức còn mông muội và vũ khí còn rất thô sơ (chủ yếu là nhờ chọn lựa và chế
tác thì chỉ là được chăng hay chớ), dù có thể đã nhận biết sức mạnh của mình nhưng
chưa đến độ “dám” tự phong mình là chúa tể muôn loài. Có thể rằng ở họ đã xuất
hiện tính kiêu ngạo, song sự “khiêm tốn” vẫn chế ngự mạnh mẽ trong lòng họ. Có
như vậy phải chăng chỉ là vì họ còn quá khiếp sợ trước sự thi triển sức mạnh quá
đỗi phi phàm, quá đỗi kinh hoàng như động đất, núi lửa, hồng thủy… của thiên
nhiên hoang dã?
Ưu thế vượt trội
về sức mạnh đã giúp loài người kiếm được miếng ăn dễ dàng hơn, cơ thể khỏe hơn,
đề kháng trước sự biến đổi khắc nghiệt của thời tiết, khí hậu tốt hơn do đó mà
cũng “thọ” hơn và con cái khi sinh ra có cơ may sống sót nhiều hơn. Điều đó dẫn
đến sự tăng trưởng nhanh chóng của loài người về mặt dân số. Sự tăng trưởng ấy đến
một mức độ nào đó sẽ lại gây ra tình trạng “khủng hoảng thiếu” miếng ăn (thiếu
miếng ăn là do nguồn cung cấp thức ăn không đủ và cũng do cách ăn nhiều hơn,
“ngon” hơn đã định hình trong thời kỳ sung túc, hay cũng có thể nói mức độ tiêu
dùng trên đầu người tăng lên). Tương lai thì chưa biết thế nào chứ lịch sử cho
thấy hiện tượng thiếu ăn do tăng dân số là có tính chu kỳ, tất nhiên và không
chỉ xảy ra ở loài người. Còn một kiểu thiếu ăn mà chúng ta gọi là ngẫu nhiên và
cũng có vẻ lặp lại. Đó là thiếu ăn do môi trường sinh thái bị biến đổi đột ngột
chẳng hạn như thiên tai, mất mùa, hạn hán, bão lụt.. và cả “địch họa” (loài khác
có sức mạnh ưu thế hơn đến tấn công) nữa.
Trước nạn thiếu
ăn kiểu tất nhiên đe dọa sống còn như thế, loài vật xử sự thế nào? Chỉ có hai cách:
giảm dân số và tìm nguồn thức ăn bổ sung có trong thiên nhiên. Do cấu tạo sinh
học cơ thể đã được định hình và do mù quáng nên cách thứ hai đem lại kết quả rất
hạn chế, do đó, để giải quyết cấp bách thì cách thứ nhất được ưu tiên lựa chọn
(thực ra thì Thượng Đế chọn cho chúng chứ chúng không tự chọn!). Nhưng giảm dân
số bằng cách nào? Bằng cách: một số sẽ phải chết đói, số còn lại phải mở rộng địa
bàn kiếm ăn (lan tỏa dân cư), trong đó có một số bị “lưu đày biệt xứ”, và giảm
tốc độ tăng trưởng dân số (tuổi thọ ngắn bớt, giảm sinh đẻ, giảm tỉ lệ sống sót
của con cái). Có một cách giảm dân số rất “hay”, vừa triệt để vừa kịp thời, đó
là ăn thịt lẫn nhau trong cùng giống loài. Ăn thịt lẫn nhau sẽ giải quyết nhanh
chóng cùng lúc hai vấn đề lớn: tạo được nguồn thức ăn mới (rất béo bổ!) và giảm
dân số. Thế nhưng trong thế giới sinh vật, điều đó đã không xảy ra, trừ một vài
trường hợp hiếm hoi và một đôi lúc ở trạng thái cùng cực hãn hữu. Trong thời hiện
đại, lịch sử đã ghi lại những hiện tượng phát triển đột biến về số lượng và tạo
ra những cuộc lan tỏa ào ạt dân cư như nạn châu chấu, nạn cóc nhái tràn ngập vào
thành phố. Ở đại dương, người ta cũng quan sát thấy những sự kiện cá nhảy lên bờ
chịu chết hàng loạt mà đến nay vẫn chưa biết dứt khoát tại nguyên nhân gì? Có bao
giờ nguyên nhân sâu xa chính là do sự đòi hỏi bức thiết phải giảm dân số nên chúng
đã rủ nhau tình nguyện “hy sinh” để cứu giống loài mình? Trong dân gian còn có
câu “Hổ dữ không ăn thịt con”. Tại sao hầu hết các giống loài thú ăn thịt lại
không ăn thịt lẫn nhau trong nội bộ giống loài dù bị đói? Đấu tranh sinh tồn là
để duy trì tồn tại. Nếu thiên nhiên để cho việc giống loài sống còn bằng cách tự
ăn thịt mình trở nên phổ biến thì hóa ra sẽ đi ngược lại qui luật đấu tranh
sinh tồn và giống loài đứng trên bờ tiêu vong (thậm chí là ngay từ buổi bình
minh xuất hiện giống loài). Đành rằng lúc “đói kém”, trong nội bộ loài có xảy
ra hiện tượng tranh đoạt, xâu xé nhau quyết liệt để giành miếng ăn và có thể dẫn
đến chết chóc. Nhưng đại đa số trường hợp là sự phải ra đi của những “kẻ hèn yếu”,
những kẻ thua cuộc trong cuộc “tranh hùng”, đến những vùng “hoang mạc” hoặc nơi
“thâm sơn cùng cốc” để rồi trong những điều kiện khắc nghiệt, một số sẽ không
chịu nổi, phải bỏ xác miền xa xứ, số còn lại, dẻo dai hơn đã cật lực “khai
hoang”, điều chỉnh lối sống để cố sống còn và một bộ phận dần dần biến thành giống
loài mới. Ở loài thú, hiện tượng trực tiếp tiêu diệt nhau trong nội bộ loài là
cá biệt, hiện tượng gián tiếp nhờ môi trường thiên nhiên làm giảm dân số là phổ
biến. Sự chết chóc làm giảm dân số của giống loài là một bộ phận kết quả do tác
động trái chiều của qui luật đấu tranh sinh tồn gây ra.
Sau khi lan tỏa
dân cư, dân số khu vực giảm xuống, lực lượng ở lại đã tạm thời có cuộc sống ổn định
hơn. Tuy nhiên, nguồn thức ăn (là những giống loài sinh vật khác) cũng luôn biến
đổi thích nghi theo qui luật sinh tồn buộc giống loài đang nói tới phải biến đổi
theo cho phù hợp và rất có thể cũng trở thành một giống loài khác. Nhưng chắc
chắn phải cần đến một khoảng thời gian dài lâu.
Đến lượt loài
người xử sự như thế nào trước nạn đói triền miên do chủ yếu là sự tăng dân số gây
ra? Thuở đầu tiên, nó xử sự hoàn toàn tương tự như loài vật, tức là đầy thú tính.
Dần dần, nhờ có tư duy (hồi tưởng, suy nghĩ), loài người giải quyết vấn nạn đói
khát ngày một tự giác: có tổ chức chặt chẽ hơn, có chủ đích rõ ràng hơn, quyết
liệt hơn, tích cực tìm tòi học hỏi thiên nhiên hoang dã và từ đó mà tăng cường
mạnh mẽ khả năng sáng tạo. Khi lượng thức ăn truyền thống đã không đủ đáp ứng,
loài người cũng buộc phải cạnh tranh trong nội bộ loài để giành giật miếng ăn,
cũng phải di cư ngày một xa và lan tỏa dân cư ngày một rộng. Đồng thời, loài người
cũng chủ động khám phá ra những dạng thức ăn mới có trong thiên nhiên, từ hoa
quả, lá cành, đến rau cỏ củ rễ, rồi đến các loại côn trùng, các loài thú nhỏ,
cuối cùng là các loài thú dữ, to xác đều trở thành món ăn của họ. Quá trình đa
dạng hóa nguồn thức ăn đã buộc loài người phải tìm đến công cụ hỗ trợ, phát hiện
ra tính năng thứ hai của công cụ là vũ khí. Quá trình đó cũng dẫn dắt loài người
đến với trồng trọt chăn nuôi và cuối cùng là đến với nguồn thức ăn có tính ổn định
cao, đó là cây lúa. Hạt gạo bé nhỏ, nhưng vĩ đại khi nó trực tiếp nuôi sống con
người, gián tiếp cung cấp cho con người loại thực phẩm đã quen ăn và trở nên bức
thiết là thịt động vật. Cây lúa thời tối cổ chắc phải là loài cỏ dại, có sức sống
mãnh liệt và vì thế cũng dễ trồng. Nó đã đóng vai trò quyết định tới lối sống định
cư là chủ yếu ở loài người. Khi đã định cư với nghề trồng trọt chăn nuôi và có
miếng ăn đã dồi dào, loài người tăng dân số đột biến. Sự lan tỏa dân cư tất yếu
xảy ra, hình thành những cụm dân cư và cộng đồng xã hội ở khắp nơi trên thế giới.
Những khu vực dân cư ấy, hầu hết tiếp tục tăng dân số và sự mất cân đối cung không
đủ cầu thức ăn lại xảy ra và sự lan tỏa dân cư lại tiếp tục…
Khi sự đói khát
dần dần trở nên nghiêm trọng do sự tăng dân số hoặc đột ngột trở nên trầm trọng
hơn do thiên tai, hạn hán, lũ lụt… gây mất mùa, thất bát…, khả năng bị chết vì đói
hiện ra ngay trước mắt, thì hiện tượng tranh giành, xâu xé nhau vì miếng ăn
trong nội bộ loài người, trong khu vực bầy đàn, lãnh thổ quần cư cũng sẽ xuất
hiện. Lúc này công cụ hỗ trợ kiếm ăn bị biến tướng thành vũ khí để rồi theo thời
gian sẽ được cải tạo thành vũ khí chuyên dùng có hiệu quả sát thương cao trong
cuộc xung đột giành miếng ăn ấy. Nếu ở loài vật chết chóc do đấu đá nội bộ vì
miếng ăn là không đáng kể thì ở loài người với việc sử dụng vũ khí, sự giết chóc
lẫn nhau trong nội bộ loài một cách trực tiếp (chưa cần đến bàn tay của thiên
nhiên) trở nên ngày càng phổ biến. Có lẽ rằng trước khi có hiện tượng giết chóc
nhau trong nội bộ bầy đàn, nội bộ khu vực quần cư, đã có hiện tượng bầy đàn này
tấn công bầy đàn khác, lực lượng dân cư khu vực này kéo đến tấn công khu vực dân
cư khác nhằm chiếm đoạt thức ăn, thành quả lao động của nhau. Ở loài người, hiện
tượng ăn thịt lẫn nhau cũng hiếm thấy y hệt như ở loài vật. Nhưng giết chóc
nhau không ghê tay để chiếm đoạt thức ăn, chiếm đoạt thành quả lao động của
nhau thì cũng coi như ăn thịt lẫn nhau một cách gián tiếp.
Không dừng lại ở
đó, qua từng trải, sự hồi tưởng và suy diễn, sự cảm nhận của con người ngày một
sâu sắc và được lưu giữ khó phai mờ trong tâm khảm nó. Sự khổ sở vì đói khát,
những đau đớn vì giết chóc, cũng như khoái lạc khi giao cấu nam nữ, sự khoan khoái
trong cảnh sung túc đã là những ám ảnh thường trực của con người, làm cho cảm
giác ghê sợ và đồng thời là cảm giác thèm khát còn hời hợt, bản năng ở loài vật
trở nên rõ ràng, “dữ dội” ở loài người do có sự “chen vào” của ý thức (còn đắm
chìm trong mù quáng, chưa được cải tạo). Đến lúc này thì cuộc đấu tranh sinh tồn
ở loài người đã phát huy đến hết cung bậc của nó. Loài người chủ động, tích cực
tìm ra những biện pháp, những công cụ hỗ trợ hữu hiệu (trong đó có cả vũ khí) để
không những tấn công mạnh mẽ vào thiên nhiên, làm biến đổi ngày một toàn diện
thiên nhiên, mà còn tập hợp lực lượng tấn công quyết liệt đồng loại, tiêu diệt
một cách có ý thức những lực lượng phản kháng, tự vệ (để sống còn), nô dịch đồng
loại nhằm không chỉ vì miếng ăn để sống còn trước mắt, tích cốc phòng cơ cho tương
lai mà hơn thế nữa, còn vì muốn được sống một cuộc sống sung túc, dư thừa, phè
phỡn và an hưởng thật nhiều khoái lạc.
Có thể nói với
hành động giết chóc lẫn nhau “không thương tiếc” trong nội bộ loài, loài người đã
tự làm giảm dân số mình một cách có ý thức theo mệnh lệnh mù quáng của thiên
nhiên, của qui luật đấu tranh sinh tồn. Khi loài người khai thác một cách tàn
phá thế giới sinh vật, thiên nhiên hoang dã để thỏa mãn nhu cầu “khoái lạc” ngày
càng tăng của mình thì cũng là khi nó làm kiệt quệ nguồn sống của chính mình.
Khi loài người làm xảy ra sự giết chóc hàng loạt lẫn nhau giữa các bộ phận đồng
loại trong nội bộ loài để tranh đoạt vơ vét nguồn lợi một cách vị kỷ thì cũng là
khi nó tự tha hóa, tự hủy diệt mình. Việc người này giết người khác, tập đoàn
người này tiêu diệt tập đoàn người khác nhằm “kiếm chác”, cướp bóc danh lợi không
phải do bản thân tạo ra hòng làm “của riêng”, xét trên quan niệm Đức Huyền Diệu,
là sự chà đạp đến quyền được sống tự do, được mưu cầu hạnh phúc của con người và
đó cũng chính là tội ác.
Mưu cầu hạnh phúc
bằng bạo lực, bằng đấu tranh vũ trang, bằng tước đoạt sinh mạng và hạnh phúc đồng
loại là sự biểu hiện mặt trái của thú tính đã chuyển hóa lên thành mặt trái của
nhân tính. Nhân tính là thú tính đã được ý thức làm sâu sắc hóa đến cao độ. Loài
người yêu thương lắm thì cũng hận thù nhiều, càng coi trọng đề cao nhân mạng thì
càng tăng cường giết chóc triệt hạ nhân mạng, càng biết cuộc đời là ngắn ngủi,
chết là hết tất cả thì lại càng tham lam thèm khát tất cả… Có thể nói nhân tính
thánh thiện hơn thú tính bao nhiêu thì cũng xấu xa hơn thú tính bấy nhiêu. Và mặt
xấu xa của nhân tính đã làm chiến tranh trở thành tất yếu, như một định mệnh đau
thương, khốn nạn, đeo đẳng xã hội loài người suốt từ buổi đầu lịch sử đến nay.
Việc gây tội ác cũng vì thế mà chưa bao giờ ngưng nghỉ, thậm chí là ngày một tồi
tệ hơn, tàn bạo hơn.
Ấy vậy mà loài
người ngạo mạn và hợm hĩnh luôn tự gán cho mình những mỹ từ đẹp nhất, nào là văn
hóa, văn minh, nào là khôn ngoan tiến bộ, phát triển, nào là kỳ diệu, vĩ đại… và
chê loài vật đủ thứ, nào là hoang dại, mù quáng, nào là dã man, hung bạo, nào là
tàn ác, phi nhân tính (theo nghĩa xấu xa, chê bai)…
Thế thì sự xuất
hiện loài người trên Trái Đất này có thực sự kỳ diệu và bản thân loài người có
thực sự vĩ đại không? Có mà cũng không! Có, là vì con người tự thấy giống loài
mình như thế nên tự nhận, tự gắn nhãn mác cho mình như thế. Không, vì loài người
là giống loài điên rồ nhất mà Trái Đất đã “buộc” phải sản sinh ra theo sự áp chế
của qui luật đấu tranh sinh tồn “mù quáng”. Đối với Trái Đất thì loài người không
những chỉ là một lũ hoàn toàn vô tích sự, mà còn, do tính điên rồ của nó, đã và
đang tàn phá tất cả những tạo tác trong thiên nhiên hoang dã, tức là tàn phá chính
môi trường sống của nó, hủy diệt thế giới sinh vật, tức là hủy diệt chính nguồn
sống của chính bản thân nó. Cho đến tận ngày nay, tình hình vẫn vậy, chẳng có gì
thay đổi và có lẽ còn tệ hơn! Không thể tin được một giống loài khôn ngoan nhất
hành tinh lại có thể hành động như thế. Vậy thì chỉ có thể tin rằng loài người,
đến tận ngày nay, vẫn còn đang ở trạng thái tiến hóa: duy ý chí trong vô minh.
Vì thế loài người càng văn minh thì càng tàn ác.
Trong tương lai
gần, chắc chắn loài người không thể tiến hóa thích nghi thành một giống loài khác
bởi vì nó không ngu dại gì mà rời bỏ ngôi chúa tể và cũng vì nó đã biết cách biến
đổi môi trường phục vụ cho những đòi hỏi thích nghi của nó. Nhưng hy vọng rằng
trí não loài người sẽ nhận thức rõ ràng thân phận của nó để biết cách khai thác
triệt để thiên nhiên mà thiên nhiên vẫn muôn đời “tươi tốt” và biết làm cho chiến
tranh mất đi tính tất yếu của nó.
***
Chúng ta cho rằng
mục đích cuối cùng của chiến tranh là danh lợi. (Khái niệm “danh lợi” mang ý
nghĩa bao hàm hơn khái niệm “quyền lợi”). Có thể phân chia chiến tranh ra thành
hai loại lớn là chiến tranh xâm lược và nội chiến. Thường thì trong chiến tranh
xâm lược, kẻ âm mưu nô dịch và tước đoạt quyền lợi của dân cư lãnh thổ nào đó sẽ
khởi sự trước, còn trong nội chiến thì người bị áp chế, đứng trước nguy cơ mất
khả năng sống còn hoặc bị tước đoạt quyền lợi sẽ khởi sự trước. Trên quan niệm
của Đức Huyền Diệu, vì phải giết chóc, tiêu diệt nhau nên cả hai phía đối kháng
nhau, ít, nhiều đều gieo rắc tội ác và nếu bên này chính nghĩa hơn (phụng sự Đức
Huyền Diệu!) thì bên kia phi nghĩa hơn (mà nói tương đối là chính nghĩa và phi
nghĩa). Trong quá trình chiến tranh, chính nghĩa có thể chuyển hóa thành phi
nghĩa và ngược lại. Nói chung và cũng chỉ tương đối thôi, chính nghĩa là bảo vệ
quyền lợi cơ bản của con người (được sống và tự do mưu cầu hạnh phúc phi bạo lực)
và phi nghĩa là đi tước đoạt quyền lợi cơ bản ấy. Chiến tranh bao giờ cũng tàn ác,
kẻ phi nghĩa gây chiến bao giờ cũng mang tội ác và đồng thời là thủ phạm chống
lại loài người…
Chiến tranh xuất
hiện đầu tiên vào lúc nào trong lịch sử loài người?
Khó mà xác định
chính xác được!
Theo các nhà
kinh điển của triết học Mác - Lênin thì khi xã hội phân chia ra các giai cấp cũng
là khi xuất hiện các cuộc chiến tranh và chiến tranh chỉ tồn tại cùng với các hình
thái xã hội có giai cấp. Họ cho rằng chiến tranh là sự kế tục của chính trị, nhưng
không phải là hình thức thông thường của cuộc đấu tranh chính trị, mà là hình
thức đặc biệt của chính trị và đặc trưng của nó là việc sử dụng bạo lực vũ
trang.
Chúng ta đã biết:
chế độ có giai cấp đầu tiên trong lịch sử loài người là chế độ chiếm hữu nô lệ
và chế độ này đã xuất hiện từ thiên niên kỷ thứ IV TCN. Vậy thì chiến tranh chỉ
có thể xuất hiện vào lúc đó nếu tin theo quan niệm của triết học Mác - Lênin về
nguồn gốc chiến tranh.
Nhưng làm sao
chiếm hữu được nô lệ nếu không có bạo lực, giết chóc, khuất phục nhau bằng đấu
tranh vũ trang xuất hiện trước? Đành rằng đi liền với phân định giàu - nghèo là
sự cạnh tranh, đi liền với cạnh tranh là sự xuất hiện bạo lực. Tuy nhiên chúng
ta không hình dung được sự phân định giàu nghèo mang tính toàn xã hội lại có thể
dễ dàng thực hiện được nếu chưa có “kinh nghiệm” về bạo lực vũ trang. Có lẽ chính
cuộc đấu tranh có tổ chức, với những công cụ hỗ trợ là cành cây, hòn đá chống lại
loài vật để mưu sinh đã “gợi ý” cho con người đánh giết lẫn nhau bằng đấu tranh
vũ trang và hình thức đấu tranh này đã xuất hiện ngay từ khi chưa phân định giàu
- nghèo mà đơn thuần chỉ nhằm giành giật, chiếm đoạt miếng ăn của nhau. Khi hai
bầy đàn người nguyên thủy tấn công nhau bằng những công cụ hỗ trợ “chuyên dùng”
chống loài vật thì đó phải chăng đã là đấu tranh vũ trang hay còn gọi là chiến
tranh? Lúc này đã có chính trị chưa để chiến tranh xuất phát từ đó?
Nếu điều lập luận
vừa rồi của chúng ta có lý thì quan niệm của triết học Mác - Lênin về sự xuất
hiện chiến tranh là chưa thỏa đáng. Nó chỉ có thể đúng với nội chiến mà thôi.
Hay chúng ta nói chính chiến tranh đã làm xuất hiện chế độ chiếm hữu nô lệ chứ
không phải ngược lại, và nội chiến có khả năng đã xuất hiện đầu tiên trong xã hội
chiếm hữu nô lệ thời cổ đại. Chiến tranh trước thời đại chiếm hữu nô lệ không
thể là nội chiến nên chỉ có thể là chiến tranh xâm lược, bầy đàn này tấn công bầy
đàn kia, bộ tộc - bộ lạc này xâm lấn khu vực kiếm ăn, lãnh thổ cư ngụ của bộ tộc
- bộ lạc khác (có thể trong chế độ bộ lạc đã có sự phân hóa giàu - nghèo).
Quan niệm truyền
thống vẫn cho rằng sự xuất hiện của cải dư thừa đã là nguyên nhân chủ yếu làm
xuất hiện sự phân hóa dân cư thành giàu - nghèo trong xã hội. Chắc rằng không hẳn
như thế. Phải cho rằng sự phân hóa này có nguyên nhân đồng thời từ tự nhiên cũng
như xã hội, từ sự đói khát, thiếu thốn và cả no đủ, dư thừa. Sự vận động của một
cộng đồng xã hội luôn là sự kế tiếp nhau xen kẽ giữa các thời kỳ đói khát, thiếu
thốn và no đủ, dư thừa. Sự dồi dào, dư thừa về miếng ăn, cái mặc trong xã hội sẽ
làm giảm dần động lực đấu tranh sinh tồn, giảm sự tích cực để dành, tích cốc phòng
cơ. Chính sự ghê sợ cái chết do bị đói khát đã làm nảy sinh ra sự thèm muốn đến
quá đỗi tham lam, ích kỷ của con người. Sự thèm muốn quá đỗi danh lợi để được
vinh hoa phú quý cùng với “thói quen” sử dụng bạo lực vũ trang đã dẫn đến mọi hình
thức trộm cướp, chiếm đoạt đồng thời với mọi kiểu giết chóc dã man, tàn bạo mà
con người có thể nghĩ ra được.
Như vậy, có thể
thấy sự phân hóa giàu - nghèo bắt nguồn từ hai nguyên nhân trực tiếp; tự nhiên
và nhân tạo. Nguyên nhân tự nhiên là do điều kiện thiên nhiên ưu đãi hay bạc đãi,
thuận lợi hay bất lợi mà dẫn đến sự chênh lệch thu nhập thành khốn khó - sung túc.
Nguyên nhân nhân tạo gồm hai loại. Loại thứ nhất là do tinh thần và trình độ
lao động làm xuất hiện hiện tượng giàu - nghèo. Loại thứ hai là quá trình chiếm
đoạt lẫn nhau trong nội bộ loài người bằng thủ đoạn, tranh giành quyền lực và
chiến tranh làm phân hóa xã hội thành các cặp bộ phận có tính phổ biến là giàu
và nghèo, là thượng tầng cấu trúc và hạ tầng nền tảng, là lãnh đạo và quần chúng,
là thống trị và bị trị…
Nói khái quát,
sự vận động của mối tương quan giữa lực lượng thức ăn và lực lượng nhân khẩu đã
làm nên con người và những cấu trúc xã hội của nó. Loài người, từ bầy đàn lang
thang hái lượm - săn bắt, do khan hiếm thức ăn mà nghĩ ra thêm trồng trọt - chăn
nuôi với lối sống bán định cư và có được một cuộc sống no đủ hơn (nên cũng ít
tranh giành hơn). Nhưng rồi sự thiếu hụt thức ăn lại xảy ra và lần này thì họ tìm
ra loại cây lương thực (lúa gạo, lúa mì, ngô…) đóng vai trò một nguồn thức ăn cơ
bản, dồi dào và không bao giờ “cạn”. Khi lượng thức ăn quá đỗi dư thừa thì lao động
nhằm sản xuất ra cái mặc, cái tiện nghi, nghĩa là cái tiêu dùng phi lương thực
thực phẩm cũng tăng trưởng theo, làm xuất hiện sự trao đổi sản phẩm một cách phổ
biến. Lúc này lối sống định cư đã thực sự ổn định.
Có lẽ vào thời
kỳ đầu trồng trọt chăn nuôi, xã hội loài người vẫn nặng tính bầy đàn, quần hôn
và miếng ăn dư thừa vẫn “để lại đó”, lưu giữ trong thiên nhiên hoang dã mà hầu
như không “mang về nhà”. Đến thời kỳ khan hiếm thức ăn, nạn tranh giành trong nội
bộ bầy đàn người mà giờ đây được gọi là “thị tộc” không thể không diễn ra. Để
tránh cho thị tộc khỏi sự tiêu vong thì cuộc đấu tranh giành quyền lợi ấy sẽ tự
phát dẫn đến thỏa thuận: kẻ thủ lĩnh sẽ giám sát hoặc đứng ra chia chác, phân
phối lượng thức ăn “ít ỏi” thu hoạch được cho mọi người trong thị tộc, tương tự
như trong nền kinh tế thời chiến ngày nay. Chế độ đó là do tình thế bắt buộc và
gây nhiều “hậm hực” chứ chẳng có gì là vui vẻ cả; nhưng cũng tốt chán. Đồng thời
với biện pháp phân phối sản phẩm lương thực (trong đó có thể cả chiến lợi phẩm)
để giải quyết miếng ăn cho toàn bộ cái xã hội thị tộc - bầy đàn ấy là những cuộc
tấn công, chinh phục, xâm lấn các thị tộc - bầy đàn láng giềng. Chế độ công xã
thị tộc - được cho là chế độ tốt đẹp nhất thời nguyên thủy vì không có nạn
tranh giành - chỉ có thể hình thành và tồn tại trong thời kỳ xuất hiện cây lương
thực mà chủ yếu là cây lúa làm cho sự sung túc và dư thừa đến mức không phải
“lo lắng” gì và tình trạng đó được duy trì dài lâu. Sản phẩm lương thực sau khi
thu hoạch lúc đầu được đem về lưu trữ ở “nhà chung” để cùng ăn, sau này khi đã
xuất hiện cấu trúc xã hội với hình thức gia đình (kiểu như tam đại đồng đường),
có nhà riêng thì chia chác đem về ăn riêng. Cuối cùng thì không cần phải chia
chác sản phẩm lương thực nữa mà chia chác đất đai trồng trọt (hoặc tự lựa chọn
vì đất đai trồng trọt còn quá dư thừa) để làm riêng, ăn riêng. Thời đó, chẳng
ai tranh đoạt của ai làm gì cái mà không cần tranh đoạt cũng có “đầy nhà mình”
hoặc nếu cần thì xin ai cũng cho. Chẳng ai tranh đoạt không khí làm gì dù nó tối
cần thiết cho sự sống con người!
Có thể thấy rằng
thời đại tồn tại chế độ mà chúng ta vẫn gọi là Công xã nguyên thủy có lịch sử dài
lâu vì lượng đất đai trồng trọt vượt trội so với lực lượng sức lao động, cùng với
trình độ, sản xuất ngày một nâng cao làm cho tốc độ vận động đến cân bằng của mối
tương quan số lượng lương thực - số lượng nhân khẩu bị chậm lại.
Cuộc sống con
người dưới chế độ Công xã nguyên thủy thật tươi đẹp và hạnh phúc, có thể là tươi
đẹp và hạnh phúc nhất so với mọi chế độ xã hội từ trước đến nay. Chế độ Công xã
này tồn tại lần lượt qua hai giai đoạn: Cộng sản nguyên thủy, công hữu về tư liệu
sản xuất và tư sản nguyên thủy, tư hữu về tư liệu sản xuất.
Quan niệm trên đây
về chế độ Công xã nguyên thủy là trái ngược với quan niệm của triết học Mácxít.
Triết học này cho rằng sự công bằng và bình đẳng là “nguyên tắc vàng” của Chế độ
công xã nguyên thủy và trở thành như một điều vĩ đại. Điều vĩ đại ấy chỉ xuất
hiện trên cơ sở một nền sản xuất thấp kém, khi chưa xuất hiện của cải dư thừa.
Hay nói cách khác, điều vĩ đại ấy chỉ xuất hiện và tồn tại trong khuôn khổ “chật
hẹp” về trình độ sản xuất, tức là trong mối đe dọa của nguy cơ bị thiếu thốn lương
thực và đồ tiêu dùng phi lương thực.
Nói trình độ sản
xuất thời đó “chật hẹp” thì cũng đúng nếu so sánh với trình độ sản xuất thời
sau đó hoặc thời nay. Song một trình độ sản xuất luôn “đủ rộng” trong thời đại
của nó vì nó luôn phù hợp và đáp ứng thỏa đáng trình độ cũng như qui mô tiêu dùng
của thời đại đó. Cảm giác thỏa mãn vì sự sung túc, cảm giác về hạnh phúc của
con người là tương đối như nhau, dù ở những thời đại khác nhau!
Ph. Ăngghen viết:
“Cái vĩ đại mà cũng là cái chật hẹp của tổ chức thị tộc (công xã nguyên thủy)
chính là ở chỗ sự thống trị và sự nô dịch không thể tồn tại trong tổ chức đó được”.
Câu này không những thiếu minh bạch mà còn sai lầm nữa. Con người đã “biết”
tranh giành và gây hấn lẫn nhau từ trước đó rất lâu rồi!
Thiên tai, mất
mùa, hiện tượng tăng trưởng lạm phát nhân khẩu, trình độ và qui mô tiêu dùng ngày
một tăng cao… và cả chiến tranh xâm lược đã phá vỡ chế độ công xã nguyên thủy.
Sự phân hóa giàu - nghèo trong xã hội trở nên sâu sắc làm xuất hiện trở lại sự
tranh đoạt quyền lợi mà hình thức tột cùng là đấu tranh vũ trang làm biến đổi xã
hội: hình thái kinh tế - xã hội mới, có tính chất phân chia giai cấp, phân tầng
thành thống trị và bị trị ra đời mà chế độ đầu tiên chính là chế độ chiếm hữu nô
lệ. Có thể nói mọi sự thay đổi quyền lợi giai cấp, thay đổi chế độ xã hội một cách
sâu sắc đều được thực hiện thông qua đấu tranh giành quyền lực mà trong lịch sử
loài người cho đến nay, chúng ta thấy hầu hết là đấu tranh vũ trang, tức là chiến
tranh, tức là phải xâm lược hoặc nội chiến. Nếu chế độ Công xã nguyên thủy ra đời
trên cơ sở dồi dào đến dư thừa lương thực, của cải thì trái lại, chế độ Chiếm hữu
nô lệ ra đời trên cơ sở thường xuyên thiếu thốn lương thực của cải trong xã hội
và phải thông qua chiến tranh.
Chúng ta quay lại
câu hỏi: Chiến tranh xuất hiện từ bao giờ?
Qua khảo cổ, người
ta đã xác định những dấu vết người giết người có tính cá nhân đã xảy ra trong
thời đại Đồ đá cũ (cách nay đã hơn 40 ngàn năm). Nhưng những cuộc giết người có
tính tập thể hình như chỉ bắt đầu xảy ra vào thời Đồ đá giữa; khi mà con người đã
bước vào lối sống định cư. Có thể cho rằng đó là những cuộc chiến tranh có tính
sơ khai và có qui mô nhỏ hẹp do dân số còn thưa thớt (theo tính toán của một số
chuyên gia thì vào cuối thời kỳ hậu đồ đá cũ, dân số thế giới chỉ có khoảng từ
3 đến 9 triệu người). Thanh lao, ngọn giáo, cung tên không biết xuất hiện vào lúc
nào nhưng trong di tích của những cuộc người giết nhau sớm nhất mà khảo cổ phát
hiện được, đã thấy có cung tên.
Có lẽ cần phải
nhận định rằng vào lúc cuộc giết chóc tập thể lẫn nhau giữa người với người xảy
ra thì đó cũng là lúc biểu hiện thú tính đã chuyển hóa hoàn toàn thành nhân tính.
Hay nói khác đi, cuộc chiến tranh đầu tiên trên thế giới đã là cột mốc đánh dấu
sự kết thúc của quá trình tiến hóa (hay biến hóa!) từ người vượn chuyển thành
người.
Cuộc người giết
người mang tính tập thể xưa nhất mà người ta biết được, đã xảy ra vào khoảng thời
gian 10 ngàn năm trước Công nguyên. Ở châu Âu và Bắc Phi, nhiều bộ xương người
thời đại Đồ đá giữa đã được khám phá có những mũi tên mắc vào, thường ở tầm vùng
cột sống. Ở Ai Cập, người ta tìm thấy hố chôn 60 bộ hài cốt thuộc đủ các lứa tuổi
cùng với 116 mũi tên nằm ở độ sâu khác nhau trong thi thể các nạn nhân, có niên
đại như đã nói ở trên. Điều này cho thấy vào thời đó, sự tiêu diệt có tính tàn
sát vô tội vô vạ đã xảy ra.
Từ thời đại Đồ đá
giữa trở đi, bạo lực vũ trang đã ngày một lan tràn, mở rộng. Những phát hiện khảo
cổ không thể chối cãi được về những làng mạc đầu tiên có tổ chức bố phòng để tự
vệ đã xuất hiện từ rất sớm, trong khoảng thời gian 3 - 4 ngàn năm trước Công
nguyên.
Người ta nói xã
hội loài người vận động theo chiều đi lên, ngày một phát triển, tiến bộ; loài
người đi ra từ dã man và nhờ trí thông minh mà biết lựa chọn hướng vươn lên cuộc
sống ngày một văn minh, tươi đẹp. Nói như thế là rất đúng và đồng thời cũng rất
không đúng. Có thể so sánh hiện tại với quá khứ nhưng cũng không thể so sánh được.
Chỉ duy nhất hiện tại có khả năng và có quyền lên tiếng về tất cả theo ý mình
muốn. Còn quá khứ và tương lai chẳng bao giờ có thể bàn cãi “tay đôi” với hiện
tại được, do đó mà cũng chẳng tự biện hộ và la mắng vào mặt hiện tại được. Hơn
nữa theo quan niệm của triết học duy tồn và trên cơ sở Đức Huyền Diệu thì nói như
thế là mù quáng và hợm hĩnh. Làm sao có thể nói được như thế khi mà loài người đang
ở chế độ công xã nguyên thủy đầy tự do - bình đẳng - bác ái như thế lại từ bỏ nó
để đến với chế độ chiếm hữu nô lệ đầy bất công - bạo lực - tàn ác; khi mà càng
tiến bộ, càng văn minh thì nạn giết chóc trong nội bộ giống loài càng trở nên
khủng khiếp với đủ mọi cách thức ghê rợn nhất, với số lượng nạn nhân trong một
cuộc tàn sát càng trở nên khổng lồ (hay vĩ đại?!).
Khi bước vào chế
độ chiếm hữu nô lệ thì có nghĩa là có những bộ phận người đã chọn cách giải quyết
sự bức bách trong “mưu sinh” bằng việc thiết lập bạo lực vũ trang để đi chinh
phục, chiếm đoạt tài nguyên thiên nhiên và thành quả lao động của những bộ phận
người khác. Những bộ phận người khác ấy, trước mối đe dọa đến sự sống còn của họ,
cũng phải thiết lập bạo lực vũ trang để kháng chiến tự vệ và rồi sau đó, trong
nhiều trường hợp, cái lực lượng vũ trang có mục đích ban đầu là tự vệ ấy cũng lên
đường đi chinh phục (vì khi đã có bạo lực đủ mạnh thì đi cướp bóc những kẻ yếu
hơn là cách kiếm ăn hiệu quả nhất, cách làm giàu nhanh nhất trong thời buổi mọi
thứ đều thiếu thốn!). Lúc đầu là tự phát, sau là tự giác thiết lập và duy trì bạo
lực vũ trang.
Nhờ những yếu tố
như có sức mạnh hơn, có kinh nghiệm hơn, khôn hơn, giỏi hơn, giàu có hơn hoặc cũng
có thể là may mắn hơn mà một cá nhân được cộng đồng tôn lên làm thủ lĩnh. Từ đó
cũng sẽ hình thành một nhóm người gọi là lãnh đạo có uy quyền (mà uy quyền tối
cao thuộc về thủ lĩnh). Ban đầu, uy quyền này không phải do thủ lĩnh hay nhóm
người lãnh đạo tạo ra mà do cộng đồng tin phục, trao cho vì lợi ích của toàn bộ
cộng đồng, trong đó có thủ lĩnh và nhóm lãnh đạo. Nhờ có uy quyền, thủ lĩnh và
nhóm lãnh đạo mới tập hợp được lực lượng tạo thành một công cụ bạo lực nhằm giải
quyết các vấn đề tranh chấp giữa các thành viên trong cộng đồng theo ý chí của
toàn thể cộng đồng (theo “khế ước xã hội” như sau này Giăng Giắc Rútxô (Jean
Jacques Rousseau) đã gọi và bàn đến), nhằm bảo vệ cộng đồng trước sự tấn công của
“ngoại bang” và thậm chí cũng nhằm để chinh phục cộng đồng khác (có thể theo hoặc
không theo ý chí của cộng đồng). Khi đã có uy quyền và bạo lực thì sự tham muốn
ích kỷ và mù quáng vốn có sẽ không còn bị chế ngự và sớm muộn gì cái nhóm người
lãnh đạo ấy và thủ lĩnh ấy cũng sẽ trở thành tầng lớp thống trị và đại đa số còn
lại của cộng đồng sẽ trở thành Đại Chúng bị trị. Sự phân hóa ấy cũng chính là sự
phân hóa giàu - nghèo nhân tạo kiểu thứ hai. Trong thời đại mà loài người còn
duy ý chí trong vô minh thì sự phân hóa thành thống trị - bị trị, giàu - nghèo
là không thể đảo ngược. Ngay cả vị thủ lĩnh quyền uy nào muốn phá bỏ sự phân hóa
đó đều sẽ bị ý chí của tầng lớp thống trị hạ bệ, xử chết. Khi xã hội ở trong tình
trạng đó thì quyền lợi cộng đồng xã hội đã bị lũng đoạn, phân ly thành hai quyền
lợi tương phản nhau, gọi là quyền lợi Đại Chúng và quyền lợi chính quyền.
Tình hình xảy
ra trong một nước như vậy thì tình hình thế giới cũng đại loại như thế. Một nước
có sức mạnh vượt trội thì trước sau gì cũng trở thành đế quốc, thành bá chủ và
các nước còn lại phải trở thành chư hầu hoặc bị nô dịch.
Toàn cảnh nổi bật
của thời đại chiếm hữu nô lệ có thể là: có những bộ phận người này biến những bộ
phận người khác thành công cụ bạo lực vũ trang để đi chinh phục và đồng thời có
những bộ phận người kia biến những bộ phận người khác nữa thành công cụ bạo lực
vũ trang để chống lại sự chinh phục đó.
Sau một cuộc
chiến tranh thì sức lực của cả hai phía đều bị tàn phá, thiệt hại cả về người lẫn
của cải. Mục đích ban đầu của chiến tranh xâm lược là đánh đuổi, tiêu diệt, bắt
khuất phục để chiếm đoạt của cải rồi thôi. Nhưng có những cuộc chinh phục, sau
khi giành thắng lợi, thành quả thu được cũng không thể bù đắp được thiệt hại. Sức
lao động trong nước bị huy động vào chiến tranh, do chết chóc hàng loạt, đã không
thể một sớm một chiều hồi phục lại được. Hơn nữa sự đòi hỏi phải duy trì một công
cụ bạo lực vũ trang mạnh nhằm tiếp tục chinh phục càng làm cho đất nước thêm kiệt
quệ nếu thành quả của những cuộc chinh phục không đủ đáp ứng. Mục đích của
chinh phục là gây chiến tranh để mưu cầu danh lợi nhưng danh lợi chiếm đoạt được
không những không làm mất đi gánh nặng cưu mang đội quân đi chinh phục của đất
nước mà còn không bù đắp nổi những tổn thất về người và của của đội quân ấy, làm
cho nó suy yếu đi, thì đi chinh phục để làm gì? “Vốn liếng” của đất nước là có
hạn, do đó yêu cầu đối với một cuộc đi chinh phục là phải mau chóng “kiếm chác”
danh lợi sao cho tối thiểu thì cũng tự nuôi và tự bổ sung tổn thất cho nó được,
nghĩa là phải làm sao lấy chiến tranh nuôi chiến tranh rồi sau đó mới có thể kiếm
chác gì thì kiếm chác. Nhưng thực hiện “điều hay ho” đó bằng cách nào? Có thể bù
đắp được về mặt của cải, vật chất, nhưng còn đối với sự tổn thất về nhân mạng? Hơn
nữa, do nhiều nguyên nhân như: qui mô và trình độ của chiến tranh ngày một tăng
cao làm cho sự tàn phá của nó ngày một nặng nề, đối tượng bị chinh phục “nghèo
mạt rệp”… mà của cải vơ vét được nhiều khi cũng chẳng bù đắp được chi phí chiến
tranh. Con người thông minh với não trạng duy ý chí trong vô minh đã tìm ra được
một phương thức tối ưu để thực hiện mỹ mãn “điều hay ho” đó: sự nô dịch. Để đạt
được tối đa về danh lợi, mục đích của gây chiến chinh phục lúc này không những đơn
thuần là cướp đoạt tài nguyên thiên nhiên, thành quả lao động quá khứ nữa mà còn
cả thành quả lao động tương lai của lực lượng người bị chinh phục. Hình thức nô
dịch đầu tiên là chiếm hữu nô lệ. Sau một cuộc chiến tranh, bộ phận người còn sống
sót của bên bại trận sẽ bị bắt làm nô lệ, lao động không công trong xiềng xích
và dưới tầm vũ khí của kẻ thắng trận, phục vụ không điều kiện cho kẻ thắng trận.
Có thể nói trong giai đoạn đầu của thời đại chiếm hữu nô lệ, một bộ phận người đã
thông qua bạo lực bắt một bộ phận người khác phải quay về sống cuộc đời cầm thú
như trâu, bò, ngựa…, thậm chí hơn thế nữa, trở thành công cụ như cái cuốc, cái
xẻng…, buộc phải câm nín dù vẫn còn suy nghĩ. Phải chăng đây là cách thức làm tăng
cung, giảm cầu đầu tiên do ý chí con người tạo ra trong nền kinh tế hàng hóa? Có
thể cũng nhờ thế mà những nước có chế độ chiếm hữu nô lệ, ở nửa đầu tồn tại của
chúng đã trở nên phồn vinh (sự phồn vinh có được nhờ gây ra tội ác!).
Trong thời đại
chiếm hữu nô lệ, lúc đầu, phần lớn các nước áp dụng cách thức tuyển quân bắt buộc.
Mọi đàn ông là của một nước đều phải chấp hành nghĩa vụ quân sự. Số quân thường
trực nhờ thế được duy trì để bảo vệ chế độ. Thanh niên phải qua lớp đào tạo quân
sự cơ bản trong các đơn vị đặc biệt và phải chịu chế độ quân dịch cho đến già.
Khi có chiến tranh, nhà nước huy động ngay được số quân cần thiết có khi lên đến
hàng triệu người. Dần dà, do chiến tranh kéo dài và xảy ra liên miên làm cho
nguồn bổ sung quân số từ chế độ quân dịch bắt buộc không đáp ứng nổi. Do đó xuất
hiện thêm hình thức tuyển mộ tình nguyện. Những công dân nghèo khổ xung phong đi
lính, lấy đó làm kế sinh nhai, trợ giúp gia đình. Nhiều nô lệ tình nguyện đi
chiến đấu để đổi lấy tự do. Quân đội ngày càng được chuyên nghiệp hóa, vũ khí được
cải tiến, chế tạo mới theo hướng tăng khả năng sát thương, cách thức tổ chức
chiến đấu, tiến hành chiến tranh thắng lợi cũng được đúc kết, nghiên cứu, nâng
lên thành lý luận mà sau này được gọi là “nghệ thuật quân sự”.
Theo các nhà
nghiên cứu thì trong giai đoạn suy tàn và sụp đổ của chế độ chiếm hữu nô lệ,
nghề đi lính đánh thuê biến thành chế độ cơ bản của sự tuyển mộ quân sự. Chế độ
tuyển mộ quân tình nguyện hình thành ở Hy Lạp cổ đại vào thế kỷ thứ IV TCN, ở
La Mã cổ đại được hình thành vào thế kỷ thứ II TCN. Ph. Ăngghen cho rằng sau cuộc
chiến tranh Puních (vào năm 208 - 101 TCN), “quân đội La Mã dần dần được tuyển
dụng bằng những người tình nguyện trong giai cấp nghèo khổ hơn, do đó tạo thành
đội quân chuyên nghiệp thay cho đội quân cảnh sát trước kia là đội quân bao gồm
tất cả mọi người công dân”.
Với bản chất tàn
bạo, ngược với Đức Huyền Diệu như vậy nên chế độ chiếm hữu nô lệ chỉ có thể tồn
tại được dưới tầm khống chế khắc nghiệt của bạo lực ở khắp nơi. Ăngghen nói: “Đó
là chế độ cảnh sát trong xã hội dựa trên cơ sở chế độ chiếm hữu nô lệ”, kể ra cũng
đúng. Để có thể duy trì được một lực lượng nô lệ to lớn và nuôi sống một lực lượng
bạo lực vũ trang khổng lồ như vậy mà vẫn “khư khư” được quyền lợi vô độ của mình,
tầng lớp thống trị không còn sự lựa chọn nào khác là phải tổ chức tiến hành đi
gây chiến chinh phục, mở rộng chiến tranh. Trong tình hình qui mô chiến tranh
ngày một tăng lên cả bề rộng lẫn bề sâu (phạm vi và sự ác liệt) thì không những
mục tiêu đề ra không đạt được mà còn làm cho bộ máy bạo lực dùng để áp chế nô lệ
trong nước suy yếu dần đi, dẫn đến sự chống đối của lực lượng nô lệ ngày càng tăng.
Đến đây, trong một nỗ lực bảo vệ các chế độ đã đem đến cho mình nhiều đặc quyền,
đặc lợi, trước sự phản kháng trong nước và sự đe dọa tấn công xâm lấn từ bên ngoài,
tầng lớp thống trị lại cũng chỉ còn có cách “hay nhất” là buộc phải “nhả” bớt
quyền lợi cho tầng lớp cùng khổ và nô lệ để “mua” lòng trung thành. Đó là nguyên
nhân sâu xa làm cho chế độ chiếm hữu nô lệ biến thái dần sang chế độ phong kiến
và cũng chính là biểu hiện sự tác động “âm thầm” của qui luật đấu tranh sinh tồn
trong xã hội loài người.
Quan niệm như
trên cho thấy vào giai đoạn suy tàn của chế độ chiếm hữu nô lệ, người nô lệ đã được
tháo bỏ bớt xiềng xích và nhận lại được một phần dù ít dù nhiều quyền sống con
người. Thậm chí, trong những điều kiện và hoàn cảnh nhất định, kiếp sống nô lệ
còn sướng hơn kiếp sống tự do. Sống tự do trong đói khát và bế tắc chắc gì đã tự
do hơn sống nô lệ mà no đủ và yên ổn hơn. “Tự do” và “nô lệ” chỉ là hai nhãn mác
gắn cho hai nội dung qui ước cố định. Khi tình hình thay đổi thì hai nội dung đó
cũng chuyển hóa, biến đổi theo trong khi hai nhãn mác đó vẫn bị “đóng đinh” bởi
nhận thức siêu hình của tư duy. Tư duy lôgic máy móc sẽ chẳng bao giờ hiểu được
điều này: đã tự do thì đúng là tự do và đã nô lệ thì đúng là nô lệ; nhưng có lúc
tự do là nô lệ và nô lệ mới tự do; cũng nhiều khi tự do nô lệ hơn cả nô lệ và
ngược lại nô lệ tự do hơn cả tự do…
Nếu chiến tranh
chinh phục là bà đỡ cho chế độ chiếm hữu nô lệ ra đời thì cũng chính nó đào mồ
chôn chế độ ấy để nhường chỗ cho chế độ phong kiến. (Có thể rằng phân biệt rạch
ròi giữa hai chế độ chiếm hữu nô lệ và phong kiến là không đúng vì chúng cùng
thuộc chế độ quân chủ chuyên chế; chúng ta mượn tạm chế độ phong kiến để nói về
cái chung nhất, vì dù sao xã hội phong kiến cũng mang nhiều nét điển hình, và
chế độ phong kiến của chúng ta là mang đậm màu sắc Phương Đông). Có thể nói rất
tương đối thôi rằng đặc trưng của thời đại phong kiến là nội chiến: khởi nghĩa
nông dân và đấu tranh huynh đệ tương tàn.
Grotius đã hỏi
một câu thâm thúy: “Đã có người từ bỏ quyền tự do để làm nô lệ cho một ông chủ,
thì cả một dân tộc sao lại không thể từ bỏ quyền tự do để làm thần dân của một ông
Vua?”.
Rútxô đã trả lời
câu hỏi ấy trong “Bàn về khế ước xã hội” chúng ta trích đoạn:
“Từ bỏ có thể là
cho hoặc bán. Một con người chịu làm nô lệ chẳng tự đem mình mà cho không: anh
ta bán mình để sinh tồn. Còn một dân tộc thì việc gì mà phải tự bán mình? Dù là
ông vua có cung cấp cho thần dân điều kiện sinh tồn, thì chính ngay nhà vua cũng
được sinh tồn nhờ có thần dân… Chẳng lẽ các thần dân hiến mình cho vua mà còn để
vua lấy nốt cả tài sản của mình ư? Thế thì phần họ còn lại cái gì nữa!
…
Từ bỏ tự do của
mình là từ bỏ phẩm chất con người, từ bỏ quyền làm người và cả nghĩa vụ làm người.
Không thể không có tí đền bù tất yếu nào cho người đang từ bỏ tất cả. Bản chất
con người không thể dung hòa với sự từ bỏ vô điều kiện như thế. Làm cho ý chí
con người mất hết tự do tức là tước bỏ đạo lý trong hành động của con người. Cuối
cùng, thật là mâu thuẫn và vô nghĩa nếu ta ghi vào công ước một bên là quyền hành
tuyệt đối và bên kia là sự phục tùng vô hạn độ”.
Grotius đã hỏi
một câu thật sâu sắc và Rútxô đã trả lời rất hay. Nhưng có lẽ cả hai người chưa
thấy điều mà chúng ta đã nói ở trên và bây giờ chúng ra nói lại hơi khác một chút:
một người nếu không bị điên rồ và không có bất cứ lý do gì thì chẳng bao giờ rời
bỏ tự do để đến với xiềng xích, còn nếu một người tỉnh táo bỗng dưng làm như vậy
thì ắt hẳn phải có lý do; sự hy sinh phải có một giá trị nào đó; nhưng nếu không
phải là sự hy sinh cao quí và cũng không vì bất cứ một lý do nào khác nữa thì
chỉ còn cách phải hiểu rằng người tỉnh táo đó đã rời bỏ tự do đến với xiềng xích
để sống còn, nghĩa là thà bị xiềng xích để sống còn còn hơn là tự do mà tiêu
vong và như vậy nhìn bề ngoài thì là rời bỏ tự do để đến với xiềng xích nhưng
thực ra là đang rời bỏ xiềng xích để đến với tự do. Lệ thuộc nào mà không có tự
do và tự do nào mà không có lệ thuộc?
Chúng ta sẽ nói
một chút về xã hội phong kiến Phương Đông, một xã hội có tính điển hình trong lịch
sử loài người, dưới dạng như một phác thảo đơn giản nhất và coi đó như là một
“tham luận” nhỏ “mua vui” cùng Rútxô.
Trong “Đạo đức
kinh”, Lão Tử có nói:
“Trong thiên hạ
không có gì mềm yếu bằng nước nhưng chống lại những thứ cứng rắn thì không gì bằng
nó, không gì thay nó được…
Yếu thắng mạnh,
mềm thắng cứng. Ai cũng biết lẽ đó song không ai thực hành được.
Cho nên thánh
nhân bảo: “Chịu nhận khuất phục trong nước mới làm chủ xã tắc được, gánh vác được
tai họa cho nước mới làm vua thiên hạ được.
Lời nói đúng thì
như ngược đời”.
Thoạt nghe Lão
Tử nói như vậy, cũng thấy ngược đời thật. Cũng giống như thoạt nghe Khổng Tử nói
đến “chính danh”, thấy chí lý thật. Nhưng khi nghe Nguyễn Trãi nói đại ý: cưu
mang thuyền cũng là dân mà lật thuyền cũng là dân, chúng ta mới thấy cái chí lý
của Lão Tử; khi nghe Rútxô nói: chẳng có thỏa thuận tự do nào mà một bên được hưởng
quyền hành tuyệt đối và bên kia chịu chấp nhận một cách “vui vẻ” sự phục tùng vô
hạn độ; chúng ta mới thấy cái ngược đời của Khổng Tử?
Bị
sự chi phối
của qui luật đấu tranh sinh tồn mà có chân lý này của muôn đời: ở đâu có
áp bức
thì ở đó có đấu tranh, ở đâu có danh lợi thì ở đó có tranh giành. Ở đâu
có đấu tranh, có tranh giành, ở đó đương nhiên phát sinh tội ác!
Mục đích của
tranh giành danh lợi là cố gắng khuất phục những kẻ khác để chiếm hữu danh lợi ấy vì mục đích cuối cùng là sống còn.
Vì ai cũng cố gắng như thế cả nên ai cũng cần đến sức mạnh vượt trội hơn để có
thể đánh bại, loại bỏ “đám còn lại” khỏi cuộc đua tranh (để tăng cường sức mạnh,
có nhiều cách như: tự cường, lôi kéo qui tụ, liên minh liên kết… để cùng hưởng
lợi…). Do đó, muốn chiếm hữu danh lợi thì việc trước tiên phải làm là đua tranh
tạo lực, tích lũy lực, tập hợp lực lượng… (mà ngày nay, một trong những biểu hiện
của sự chuẩn bị này là hiện tượng chạy đua vũ trang). Chỉ khi tự thấy có đủ lực
rồi thì mới “dám” đua tranh, mới có “quyền” (do tự nhận hoặc được kẻ khác đánh
giá, thừa nhận) được đua tranh và khi cái lực đó là nổi trội áp đảo so với các
lực khác hoặc đã đánh bại các lực khác thì nó cũng có quyền nổi trội áp đảo hoặc
toàn quyền (do tự nhận và cũng do những kẻ yếu hơn hoặc đã bị thần phục thừa nhận)
trong việc chia chác, định đoạt danh lợi.
Một cái gì đó,
chỉ được (hay bị?!) gọi là danh lợi khi nó tạo ra sự tham muốn của nhân tính. Một
danh lợi, dù đã được (hay bị?!) kẻ nào đó chiếm hữu thì nó vẫn luôn gây ra sự
“nhòm ngó”, kích thích, tranh giành ở những kẻ khác. Do đó kẻ chiếm hữu luôn phải
duy trì lực ở mức cần thiết để đề phòng, khống chế, triệt tiêu mọi sự tranh chấp,
bảo vệ quyền “hợp pháp” của mình trong việc chiếm hữu và hưởng thụ danh lợi.
Như vậy, đi liền
với danh lợi là quyền lực, muốn có danh lợi thì phải tranh đấu, muốn giữ danh lợi
thì phải có quyền lực. Quyền lực được danh lợi nuôi dưỡng thao túng để bảo vệ
danh lợi, đồng thời làm tăng trưởng danh lợi. Khi sức mạnh được thi triển ra nhằm
tranh đua quyền lực để giành giật danh lợi mà gây nên thống khổ, chết chóc, đau
thương trong nội bộ loài người thì đó gọi là bạo lực. Một khi ý chí mù quáng tạo
ra bạo lực chống lại Đức Huyền Diệu thì Đức Huyền Diệu cũng bị thôi thúc tạo ra
bạo lực để chống lại: vì Đức Huyền Diệu là ý chí, nguyện vọng của Đại Chúng, là
thuộc về phía tốt đẹp nhất của nhân tính, là bản năng sống còn của cả giống loài
có ý thức nên nó cũng đại diện cho một quyền lực tối thượng, vô địch và luôn giành
được thắng lợi cuối cùng trong mọi cuộc đua tranh, dù có thể là đẫm máu đến đâu
chăng nữa. (Không có giống loài nào tự diệt chủng được mình mà chỉ thiên nhiên
mới có đủ quyền lực tạo sinh ra cũng như làm tiêu vong đi! Hay là có?). Ở đâu có
danh lợi thì ở đó trước sau gì cũng xuất hiện quyền lực. Quyền lực mất đi thì
khả năng tranh đấu đểhưởng thụ danh lợi cũng không còn. Do danh lợi và quyền lực
đi liền với nhau như hình với bóng và quyền lực thực chất đã chuyển hóa thành
danh lợi nên người ta thường gộp chung hai thứ đó lại và gọi là quyền lợi.
Trong một thế giới mà não trạng con người vẫn còn “ưa thích” đối xử với nhau bằng
bạo lực thì việc duy trì công cụ gây bạo lực (gồm vũ khí, lực lượng vũ trang) là
đương nhiên. Càng có nhiều đặc quyền đặc lợi thì càng phải tăng cường công cụ bạo
lực. Đỉnh cao của tranh chấp quyền lợi là sử dụng công cụ bạo lực mà ở mức độ tột
cùng của nó là đấu tranh vũ trang, là chiến tranh. Chiến tranh chà đạp lên quyền
được sống và làm thiệt mạng hàng loạt, hàng khối người, làm tổn thương Đức Huyền
Diệu nên dù đứng ở góc độ quan sát nào, từ phía chính nghĩa hay phi nghĩa, đều
thấy nó tàn bạo.
Trong xã hội
mang hình thái quân chủ chuyên chế hay còn gọi là xã hội phong kiến, nội chiến
xảy ra thường xuyên. Nguyên nhân cơ bản của hiện tượng đó là nỗi thèm khát được
chiếm hữu và hưởng thụ quyền lợi đến vô độ một cách mù quáng và không kiềm chế được
của tầng lớp thống trị mà tiêu biểu là vua chúa, quí tộc. Để thỏa mãn sự thèm
khát ấy, tầng lớp thống trị, đứng đầu là vua chúa chỉ có thể bóc lột quyền lợi
càng nhiều càng tốt từ Đại Chúng bị trị thông qua một chế độ hà khắc và một bộ
máy bạo lực khổng lồ. Việc đó làm xuất hiện trong xã hội hai quyền lợi tương phản
nhau (thường xuyên mâu thuẫn nhau) là quyền lợi của Đại Chúng bị trị và quyền lợi
của thiểu số thống trị. Trong những điều kiện nhất định, sớm hay muộn gì thì mâu
thuẫn ấy cũng đạt đến đối kháng gay gắt, đòi hỏi phải giải quyết thậm chí là
theo hướng một mất một còn. Lúc đó chính là lúc nổ ra khởi nghĩa nông dân, Đại
Chúng tự vũ trang đi đòi quyền lợi cơ bản và tối thiểu của mình: được yên ổn làm
ăn và sống còn trong no đủ. Bên cạnh đó, sự đua tranh quyền lực trong nội bộ tầng
lớp thống trị (vua chúa, quí tộc, quan lại) nhằm giành giật danh cao lộc nhiều
cũng làm xuất hiện nội chiến. Chốn cung đình là nơi tập trung cao độ quyền lực
và danh lợi nên cũng là nơi xảy ra đấu đá khốc liệt nhất, biểu hiện đến cùng cực
những dã tâm, độc địa, man rợ, hèn hạ, đểu giả… vẫn thường tiềm ẩn rất sâu
trong những tâm hồn con người tham muốn danh lợi đầy vị kỷ và đến điên cuồng.
Xã hội phong kiến
là xã hội mà trong đó việc giải quyết tranh chấp giữa quần chúng với triều đình,
giữa các thế lực trong triều đình với nhau thường được “ưu tiên” đối xử bằng bạo
lực, làm xảy ra liên miên các cuộc khởi nghĩa nông dân và các cuộc chiến tranh
huynh đệ tương tàn.
Điền Tương Như
sống vào đời Chu bên Trung Quốc đã viết trong
“Tư mã binh pháp”: “Thời xưa, khi lấy nhân dân làm gốc, lấy nghĩa cai trị thì gọi
là chính. Chính sử dụng không được vừa ý thì dùng quyền”. Nghĩa là trước sau gì
cũng phải “đụng đến” bạo lực, dùng bạo lực để răn đe, trấn áp, vì đến mức độ nào
mới được gọi là “vừa ý”, nhất là ý của ông vua đang làm “cha thiên hạ”, ý của đám
quần thần chỉ biết nhờ ơn vua mà hưởng “lộc nước”, ý của những kẻ luôn túc trực
trong đầu sự si mê danh lợi và đang “cầm nắm” quyền lực.
Hoàng Thạch Công
thời nhà Hán, “khẳng khái” hơn, nói toẹt ra mà cũng sai bét: “Hào kiệt cúi đầu
thì nước mới vững, vua giữ quyền sinh sát thì nước mới yên”. Câu nói này khét lẹt
mùi bạo lực! Khi vua đã trở thành bạo chúa thì hào kiệt phải “cúi đầu” và nước
phải “yên” là cái chắc! Nhưng cái “cúi đầu” nhẫn nhục ấy, cái “yên” trong lầm
than ấy như một khối nổ đã ngấm ngầm được châm ngòi để chờ ngày bùng phát thành
“đại họa”!
Khi nắm bạo lực
trong tay và không muốn bị sứt mẻ quyền lợi của mình thì bất cứ kẻ nào cũng sẽ
và phải làm theo lời khuyên của hai ông trên kia vì đó là hai lời khuyên rất thực
tế, rất “xuôi đời”. Hèn gì mà Lão Tử than rằng ông nói “ngược đời”.
Khoảng 1500 năm
sau, tức vào thế kỷ thứ XVI, ở bên trời Âu, Machiavelli, nhà hoạt động chính trị
của nước Ý và đồng thời là nhà lý luận quân sự đầu tiên của tầng lớp tư sản vẫn
còn quan niệm như Điền Tương Như, nhưng nói rõ hơn: “Ta phải xác nhận có hai phương
thức đấu tranh, một là dựa trên pháp luật, hai là dựa trên sức mạnh. Phương thức
thứ nhất phù hợp với bản tính loài người, phương thức thứ hai có tính thú vật.
Nhưng trong cuộc đấu tranh, phương thức thứ nhất không đủ hiệu lực nên phải sử
dụng phương thức thứ hai. Vị chúa phải biết xử sự vừa như con vật, vừa như con
người”. Nói như vậy, nghe qua thật dễ hiểu, nhưng nghe kỹ thì hóa ra khó hiểu
quá! Ông này không nói rõ pháp luật ở đây là pháp luật của ai và dành cho ai;
vua ở ngoài (ở trên) hay ở trong (ở dưới) pháp luật, và ai có thể xử được vua.
Một vị vua anh minh thì không thể là thú vật được, còn nếu đã là thú vật (theo
nghĩa dã man, vô cảm) thì phải là thú vật mang nhân tính, như thế chỉ có thể là
một hôn quân, bạo chúa và một hôn quân, bạo chúa thì làm sao xử sự như một vị
vua anh minh được? Rốt cuộc thì thế này: “Tao giành cho mày chút quyền lợi để sống
mà phục vụ cho tao, nghĩa là mày được quyền sống nhưng phải tuân theo luật của
kẻ mạnh. Nếu mày làm trái ý tao, xúc phạm đến quyền lợi của tao thì tao sẽ giết
mày, khỏi nói lôi thôi gì hết!”
Trong một xã hội
ngập tràn bạo lực, lấy bạo lực làm lựa chọn ưu tiên trong tranh chấp như vậy,
thì hiện tượng cá nhân tự trang bị võ nghệ, vũ khí, hiện tượng, tự tổ chức lực
lượng bạo lực vũ trang trở thành phổ biến là điều dễ thấy. “Thói quen” dùng bạo
lực để đối xử với nhau không phải là lỗi của chế độ phong kiến mà như một hiện
tượng tất yếu trong xã hội còn phân tầng giàu - nghèo của một giống loài tuy đã
biết suy nghĩ, có ý chí cao nhưng vẫn còn chìm đắm trong vô minh để trở thành cực
đoan.
Chủ động thích
nghi là tác động có chủ đích vào môi trường tự nhiên - xã hội cũng như sự cải tạo
bản thân theo hướng có lợi cho bản thân làm cho cuộc sống bản thân phù hợp hơn
với môi trường, làm xuất hiện những yếu tố đáp ứng được đòi hỏi của bản thân (mà
trước hết là tâm sinh lý bản năng). Muốn thực hiện được chủ động thích nghi thì
trước hết phải quan sát, học hỏi, tìm hiểu rồi sau đó là cân nhắc và lựa chọn hướng
tác động. Đó chính là quá trình của tư duy và làm hình thành nên cái gọi là lý
trí ở loài người. Lý trí là linh hồn của thân xác hoạt động bản năng. Lý trí và
bản năng lập thành hai đặc tính sống tương phản nhau trong mối quan hệ lưỡng
nghi khăng khít, vận động và chuyển hóa trong môi trường tự nhiên - xã hội, làm
cho đặc tính này là tiền đề tồn tại của đặc tính kia, nhưng bản năng luôn mang
tính ổn định, vốn dĩ, khởi thủy, nền tảng, còn lý trí thì mang tính bất ổn, ngẫu
nhiên, hậu duệ, nổi trội. Vì vậy, sự thèm khát hay dục vọng trong nhân tính cùng
với quá trình tìm kiếm, cân nhắc, lựa chọn phương hướng và cách thức thực hiện
nhằm thỏa mãn chúng và do đó mà cả ý chí, ở loài người nói chung và con người nói
riêng đều chịu sự chi phối, thôi thúc bởi những động lực vừa lý trí, vừa bản năng.
Loài thú hoạt động
theo bản năng (tạm gọi là bản năng thuần túy, nguyên thủy hay sơ cấp, và chỉ tương
đối thôi, vì ở những giống loài động vật bậc cao như cá heo, vượn dạng người… đã
lờ mờ tính người) nên vô tri trước thị phi, không có gì để nói và dù có “động
chạm”, gây tổn thất nào đó cho con người thì cũng là vô tình, hoàn toàn có thể
tha thứ được.
Lý trí thuần túy
là một khái niệm máy móc, siêu hình, có tính lý tưởng, siêu việt nhằm để chỉ tính
tự giác tuyệt đối của một não trạng đã “giác ngộ” hoàn toàn Tự Nhiên Tồn Tại.
Đã
là lý trí thì
phải thuộc nhân tính và một khi còn tồn tại Đức Huyền Diệu thì nó cũng
phải nằm
trong vòng thị phi, làm cho bản thân nó cũng nhuộm màu đúng - sai. Sự
đúng hoặc
sai của một lý trí không mang tính ổn định theo thời gian và cả không
gian, tùy
thuộc vào quan niệm thị phi của con người mà quan niệm ấy lại phụ thuộc
vào tập
quán, trình độ nhận thức, vào thành kiến thời đại, vào cả tư tưởng, tình
cảm,
thậm chí là cả tâm sinh lý của mỗi người đánh giá về nó. Mặt khác, như
đã nói,
lý trí và bản năng luôn vận động trong mối quan hệ lưỡng nghi khăng khít
tác động
nhau và chuyển hóa nhau trong sự biến động không ngừng của điều kiện,
hoàn cảnh
tự nhiên - xã hội, trong sự tương tác lẫn nhau giữa chúng và môi trường
tự nhiên
- xã hội ấy làm cho có hiện tượng bản năng biến dần thành ý chí và đồng
thời ý chí cũng biến dần thành bản năng. (Có thể rằng đây cũng là một
quá trình phổ biến
trong thế giới sinh vật).
Tương phản lưỡng
nghi là trong âm có dương và trong dương có âm nên khó mà có được bản năng thuần
túy cũng như lý trí thuần túy. (Tuy nhiên cũng có thể có được nếu muốn, nếu “thích”,
nhưng phải thông qua qui ước. Hãy nhớ đến đặc tính nước đôi của Tự Nhiên Tồn
Tại trước quan sát!). Ở loài người, trong “vòng vây” của thị phi, quá trình
chuyển hóa lưỡng nghi bản năng - lý trí làm xuất hiện “một thứ hỗn hợp” lạ lùng
không hẳn là bản năng cũng không hẳn là lý trí, vừa bản năng vừa lý trí, nhưng
mang nặng tính bản năng và có thể tạm gọi là "ý chí" (?). Vẫn gượng lắm! Chẳng biết gọi thế nào cho phải “đạo” nên bắt chước Lão
Tử, tạm gọi là “bản năng lý tính” vậy (cũng có thể tạm gọi là bản năng thứ cấp).
Bản năng lý tính của con người cũng phải chịu sự đánh giá của thị phi nên cũng
phân thành hai loại đúng và sai, đẹp đẽ và xấu xa. Có thể liệt kê một số ra đây.
Về loại bản năng lý tính đẹp đẽ có: lòng nhân hậu, tình yêu thương đồng loại,
thích hội hè, ham lao động… Về loại bản năng lý tính xấu xa có: lòng đố kỵ, tính
ghen ghét đồng loại, thích giết đồng loại, muốn làm biếng, nghiện ngập, hung bạo…
Ở người say rượu, khi lý trí “tỉnh táo” đã “đua nhau bỏ đi” bớt thì bản năng lý
tính cũng trỗi dậy thấy rõ.
Từ lối sống bầy
đàn giản đơn, nhờ tính chủ động thích nghi, loài người đã chuyển sang lối sống
quần cư - xã hội có cấu trúc nội tại phức tạp hơn, chặt chẽ hơn, đảm bảo chắc
chắn hơn cho sự sống còn của từng cá thể và sau đó là của cả giống loài.
Phân biệt được đến
tận “chân tơ kẽ tóc” mà cũng không phân biệt được đến tận “chân tơ kẽ tóc” là đặc
tính của Tự Nhiên Tồn Tại. Hay nói khác đi, Vũ Trụ vừa rời rạc vừa liền lạc đến
từng chi tiết. Cộng đồng xã hội cũng phải mang đặc tính chung đó và thể hiện ra
một cách đặc thù bởi nguyên tắc: toàn thể là cái bao hàm của bộ phận cho nên bộ
phận phải mang bản chất của toàn thể nhưng trước quan sát, bộ phận không phải là
toàn thể nên sự thể hiện của nó phải mang tính đặc thù, tính riêng biệt. Vậy, cộng
đồng xã hội là một cơ thể vừa rời rạc vừa gắn bó. Mỗi con người đều có thể nhờ
kẻ khác “làm hộ” để mà có miếng ăn, để giàu sang phú quí nhưng chắc chắn không
thể nhờ “ăn hộ” mà sống được. Ở tầng sâu khó thấy, tác động của qui luật đấu
tranh sinh tồn đã làm xuất hiện con người có ý thức và thông qua ý thức ấy mà nó
cũng làm xuất hiện lối sống theo cộng đồng xã hội loài người. Con người là một
thực thể sinh vật nên phải tự ăn tự sống, hay nói tương đối là phải độc lập kiếm
sống. Nhưng để kiếm sống hiệu quả hơn, để có cuộc sống dễ dàng hơn, thì con người
có ý thức phải tìm cách tạo ra quyền lực ngày một lớn hơn, mạnh mẽ hơn nhằm trước
tiên là đấu tranh chinh phục quyền lực thiên nhiên, “thu hoạch” miếng ăn cái mặc
từ thiên nhiên và như vậy, sớm muộn gì con người cũng phải “tìm đến” lối sống tập
thể, cộng đồng có phân công, phối hợp, cùng làm cùng ăn, chung lưng đấu cật,
chia ngọt sẻ bùi. Có thể nói, con người độc lập sống nhưng có nhiều khả năng
sinh tồn nhẹ nhàng hơn, dễ dàng hơn nhờ cộng đồng xã hội, do đó mỗi con người
trong khi sống vì mình thì đồng thời cũng vì sự tồn tại của cộng đồng một cách
tự phát và sau đó là cả tự giác. Vận động là không thể ngừng cho nên môi trường
tự nhiên - xã hội luôn biến đổi, chuyển hóa tạo ra những điều kiện, hoàn cảnh,
những thời kỳ thuận lợi và bất lợi kế tiếp nhau đối với đời sống con người,
trong đó có những giai đoạn vô cùng khó khăn. Điều đó đã làm cho tác động của
qui luật đấu tranh sinh tồn ở loài người, thông qua ý thức không chỉ gây ra những
hiện tượng phù hợp Đức Huyền Diệu mà còn cả những hiện tượng không phù hợp Đức
Huyền Diệu trong xã hội, đó là: nạn giết chóc, sự phân tầng giàu - nghèo, thống
trị - bị trị… làm cho cộng đồng xã hội luôn có nguy cơ tan rã.
Có nguy cơ phân
rã nhưng cộng đồng xã hội lại không tan rã được bởi vì ngay từ đầu nó đã là phương
thức sống được lựa chọn tự nhiên nhằm mục đích sống còn của con người có ý thức.
Nó chỉ có thể và phải đổi mới cho phù hợp với tình hình mới. Một trong những yếu
tố quyết định đến sự hình thành và tồn tại bền vững của cộng đồng xã hội là sự đoàn
tụ, liên kết, quan hệ gắn bó giữa mỗi con người, giữa mỗi bộ phận người với
nhau, hay còn gọi ngắn gọi là “sự đoàn kết”. Sự đoàn tụ sẽ tạo nên một lực lượng
nhưng một lực lượng sẽ không thể hiện được sức mạnh hay quyền lực khi các cá thể,
thành viên làm nên lực lượng ấy hành động hoàn toàn rời rạc, lạc điệu, không có
tính phương hướng. Muốn cái lực lượng ấy thực sự thể hiện ra được sức mạnh bạo
lực của nó (trước thiên nhiên cũng như trước lực lượng đồng loại khác) thì các
cá thể, thành viên làm nên nó phải đoàn kết gắn bó keo sơn, kết hợp hành động một
cách nhịp nhàng, đồng lòng nhất trí, cùng chung chủ đích. Nhưng làm sao mà đoàn
kết nhất trí được khi trong cộng đồng xã hội là những con người cụ thể mang lý
trí độc lập tạo nên một tập hợp với đa dạng quan niệm và vì thế mà cũng đa chiều
thị phi, đa mức đòi hỏi? Để hòa thuận được thì lẽ đương nhiên là phải bàn bạc,
thỏa thuận với nhau được giữa các thành viên để mà xuất hiện ra cái gọi là “thỏa
ước”. Thỏa ước chính là “chuẩn mực thị phi” được đại đa số người trong cộng đồng
thừa nhận và “nghe” theo. Mục đích nguyên thủy của nó là đảm bảo sự công bằng xã
hội, đảm bảo cho mọi con người trong xã hội đều có cơ hội và điều kiện như nhau
trong cuộc mưu sinh và được tự do hưởng thụ thỏa đáng danh lợi do lao động chính
đáng của bản thân tạo ra. Để thực hiện được thỏa ước ấy, để phân xử những vi phạm
thỏa ước, cũng như để thể hiện sức mạnh của cộng đồng lúc cần thiết, thì thông
qua thỏa thuận làm hình thành nên thỏa ước, cộng đồng cũng sẽ làm xuất hiện ra
một “ông trọng tài”, được cộng đồng trao quyền để theo dõi việc tuân thủ thỏa ước
cũng như điều hành, phối hợp mọi hoạt động trong cộng đồng thành hành động
chung của toàn cộng đồng xã hội. “Ông trọng tài” đó chính là đầu lĩnh, thủ lĩnh,
ban lãnh đạo, nhà nước… và chúng ta cứ tạm gọi một cái tên chung là “nhà nước”.
Nhà nước thuở ban đầu là một bộ phận người được cộng đồng xã hội tín nhiệm chọn
ra, bầu ra làm đại diện cho cộng đồng, được cộng đồng ủy quyền làm cái nhiệm vụ
chung của cộng đồng là: theo dõi, giám sát, phân xử… trong việc hoạt động tuân
theo thỏa ước của mọi thành viên, mọi công dân trong cộng đồng, đảm bảo cho thỏa
ước được thực thi trong toàn xã hội, đại diện cộng đồng để ứng xử, thỏa thuận với
những cộng đồng khác, tổ chức huy động lực lượng vào những lúc cần thiết… Khi cộng
đồng có qui mô nhỏ, cấu trúc giản đơn và sơ khai thì nhà nước cũng giản đơn, sơ
khai, chỉ xuất hiện lúc cần thiết để chủ yếu là hòa giải, không có đặc quyền đặc
lợi. Khi cộng đồng đã phát triển về qui mô dân số cũng như lãnh thổ, khi xã hội
bị phân biệt giàu nghèo và sự hành xử giữa người với người bằng bạo lực đã trở
thành “thói quen” và trở nên “phổ biến” thì nhà nước cũng được “chuyên môn hóa”,
trở thành hiện tượng thường xuyên, được mọi thành viên trong cộng đồng trích ra
một phần thu nhập nhất định theo thỏa ước nuôi sống, để chuyên làm công việc
chung cho cộng đồng, thỏa mãn ý chí chung của cộng đồng như đã nêu và khi thỏa ước
đã “kín kẽ” thành pháp luật thì cũng còn gọi là thực thi nhiệm vụ hành pháp và
lập pháp (điều chỉnh, thay đổi pháp luật theo ý chí của cộng đồng cho phù hợp với
tình hình mới). Để có thể hoàn thành nhiệm vụ đó, nhà nước cũng được trao quyền
tổ chức ra bộ máy đóng vai trò công cụ bạo lực trên danh nghĩa là của cộng đồng
nhưng thực tế là do nhà nước chỉ huy, thao túng. Nhà nước cùng với công cụ bạo
lực ấy được gọi là chính quyền. Khi chính quyền xuất hiện thì cũng là lúc cộng đồng
xã hội phân định thành cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.
Sau đây, chúng
ta sẽ “nhai lại” lần nữa vấn đề pháp luật, nhà nước, chính quyền, vì trình bày
như trên vẫn chưa cảm thấy thỏa mãn tí nào.
Để đảm bảo cho
một cộng đồng xã hội đầy những thị phi đoàn kết thành một khối gắn bó trước mối
đe dọa thường trực của sự phân rã thì buộc phải có một thỏa ước giữa các thành
viên tập hợp nên cộng đồng ấy. Thỏa ước chính là chuẩn mực thị phi của cộng đồng
xã hội. Chuẩn mực thị phi thể hiện ra là hệ thống qui ước, qui định có tính bắt
buộc, được đại đa số dân cư trong cộng đồng thừa nhận và mọi người trong cộng đồng
đều phải tuân thủ, phục tùng, phải ứng xử, mưu cầu danh lợi trong phạm vi “cho
phép” của nó và chỉ như thế mới được cộng đồng đảm bảo quyền lợi. Hệ thống qui ước,
qui định đó còn được gọi là luật lệ. Để luật lệ được thực thi thì phải có một cá
nhân, một bộ phận người đứng ra (được bầu ra), gọi là chỉ huy, lãnh đạo nhằm
theo dõi, giám sát, xét xử vi phạm và để có thể hoàn thành nhiệm vụ này, nó phải
tự tổ chức ra một công cụ bạo lực để trấn áp những chống đối có thể xảy ra
trong xã hội, trên cơ sở được cộng đồng ủy quyền.
Nội dung của luật
lệ, không thể khác được, phải là những đúc rút từ kinh nghiệm, tập quán, từ những
tinh hoa văn hóa và quan niệm phổ biến về thị phi trên cơ sở trình độ nhận thức
của đương thời. Các cộng đồng người có nét chung vì nó hoàn toàn tự nhiên trong
quá trình hoạt động sống của loài người nhưng cũng có nét riêng theo khu vực lãnh
thổ có điều kiện và hoàn cảnh sống khác nhau. Theo đó, các luật lệ cũng có nét
chung và nét riêng. Có thể nói phiến diện rằng những cộng đồng xã hội khác nhau
thì có luật lệ mang hình thức khác nhau. Một cộng đồng xã hội luôn vận động, biến
đổi, chuyển hóa theo thời gian nên luật lệ của nó, vì là sản phẩm của đương thời
nên cũng vận động, biến đổi, chuyển hóa theo thời gian một cách tương ứng, phù
hợp. Luật lệ, vì được hình thành nên từ định kiến, quan niệm đã định hình của một
đương thời nhằm phục vụ cho yêu cầu sống còn của cộng đồng xã hội đương thời nên
nó cũng phản ánh đời sống kinh tế - chính trị của cộng đồng xã hội ở đương thời
đó và có tính bảo thủ, tụt hậu, đòi hỏi phải luôn được điều chỉnh, cải biến cho
phù hợp với thời kỳ vận động mới của cộng đồng xã hội. Nói khác đi: luật lệ chỉ
có tính ổn định tương đối.
Sự chênh lệch về
trình độ kiếm sống (kể cả mưu cầu danh lợi), sự phân bố không đồng đều về thuận
lợi và khó khăn (có tính tự nhiên và xã hội, theo không gian và thời gian; có kể
đến cả nguyên nhân từ sự tranh đoạt trong nội bộ giống loài, nội bộ cộng đồng bằng
bạo lực) sẽ làm phân tầng giàu - nghèo trong xã hội; làm xuất hiện những hình
thức sở hữu với những khái niệm tư hữu, công hữu… Sự định cư, lấy sản xuất nông
nghiệp làm phương thức sống chủ yếu sẽ dẫn đến hiện tượng chiếm giữ, sở hữu đất
đai và cộng đồng xã hội, trong quá trình chuyển hóa thăng trầm của nó cũng như
trong mối tương quan, tác động, cạnh tranh, ảnh hưởng lẫn nhau giữa các cộng đồng
xã hội cũng sẽ làm xuất hiện ra những thực thể, hiện tượng đặc thù với những khái
niệm như: gia đình, làng xóm, quê hương, tổ quốc, đất nước, lãnh thổ, lãnh hải,
phân tán và lan tỏa dân cư, di cư, hội nhập và qui tụ dân cư…
Khi một cộng đồng
xã hội cùng với lãnh thổ mà nó chiếm giữ để sống còn đã là một đất nước thì luật
lệ được gọi là pháp luật, bộ phận lãnh đạo cộng đồng được gọi là nhà nước. Đứng
đầu nhà nước thường là một cá nhân, tùy nơi, tùy thời, tùy thích mà được gọi bằng
đủ mọi thứ tên như: thủ lĩnh, quốc trưởng, vua, chúa, nguyên thủ quốc gia, thủ
tướng, tổng thống… Để đảm bảo điều hành, duy trì sự ổn định chính trị cho nội tình
đất nước và bảo vệ đất nước trước nạn xâm phạm của “ngoại bang” thì nhà nước phải
có quyền lực, nghĩa là nó phải có một bộ máy bạo lực đủ mạnh để thực thi quyền
hành. Do đó mà xuất hiện công cụ bạo lực nhà nước gồm hai bộ phận là cảnh sát và
quân đội. Nhà nước cùng với guồng máy thực thi pháp luật của nó, trong đó có “đồ
chơi” bạo lực của nó, hợp thành một cái gọi là “chính quyền”. Trong một đất nước,
chính quyền trở nên như một thực thể nổi trội có tính độc lập tương đối trên cái
nền tảng Đại Chúng của nó và trong những chừng mực nhất định nó biến tướng thành
lực lượng đi thống trị mà kẻ bị trị là Đại Chúng và cũng chính nó lúc đó đã
dung túng cho sự làm giàu không chính đáng cũng như tạo ra những thống khổ không
đáng phải chịu trong xã hội.
Thời công xã
nguyên thủy, khi mà danh lợi chẳng được coi là “cái đinh” gì, hoặc cũng có thể
vào những buổi đầu xây dựng một chính quyền mới, dù xã hội lúc đó đã có hiện tượng
chênh lệch giàu - nghèo, nhưng khi cái ý nghĩa tự do, bình đẳng, bác ái, được
hiểu đúng nghĩa theo quan niệm Đức Huyền Diệu, thỏa mãn ý nguyện Đại Chúng, thì
nhà nước thuần túy là do quần chúng tín nhiệm bầu ra và nó cũng hoạt động đơn
giản là vì dân một cách (hầu như) tự nguyện, thực sự vì quyền lợi quốc gia, vì
quyền lợi Đại Chúng (trong đó có phần của nó!) và liêm khiết đến nỗi khi vua
Nghiêu cố nhường ngôi cho, Hứa Do lắc đầu chối đây đẩy, rồi hãi hùng quá, bỏ trốn
luôn!
Sự phân biệt giàu
- nghèo trong xã hội là hiện tượng có thực nhưng thuở ban đầu không phải có
nguyên nhân từ sự bóc lột, cướp đoạt. Sự giàu có do cần cù lao động, do may mắn
hơn, tài năng hơn mà có là có tính chính đáng và chỉ có ích cho xã hội. Sự nghèo
khổ do gặp hoàn cảnh bất lợi, thiếu may mắn là nên được cảm thông và chia sẻ,
giúp đỡ. Sự nghèo hèn do biếng nhác, cờ bạc, rượu chè là đáng chê trách và thậm
chí là tội lỗi vì nó chỉ gây hại cho xã hội. Sự nghèo hèn này dễ dẫn đến “bần cùng
sinh đạo tặc” theo đúng nghĩa đen.
Sự giàu có chính
đáng theo quan niệm của Đức Huyền Diệu ở mỗi con người không những không đối kháng
với quyền lợi của Đại Chúng mà còn là nguyện vọng thiết tha của Đại Chúng.
Trong một đất nước ở thời kỳ thái bình, thịnh vượng, công bằng, bác ái thì chính
sự “phất lên” giàu có của một số người lại nhận được sự nể phục, lại là tấm gương
cho những người khác phấn đấu noi theo và dù sự phân biệt giàu - nghèo là có thực
thì xã hội cũng chẳng phân tầng giai cấp giàu - nghèo, cũng chẳng phải là vấn đề
nổi trội “ghê gớm” gì cả. (Nếu sự giàu - nghèo ấy có phân tầng thì cũng chỉ phân
tầng trong những bộ não suy luận siêu hình, máy móc, cực đoan!). Sự giàu có chính
đáng không thiếu tình yêu thương đồng loại. Chỉ có sự giàu có bằng những thủ đoạn
đen tối, bằng bạo lực để tước đoạt đồng loại mới thiếu tình yêu thương!
Tuy nhiên bản
chất tác động đồng thời theo hai chiều ngược nhau của qui luật đấu tranh sinh tồn
đã làm cho loài người, một giống loài còn trong giai đoạn có ý thức nhưng vẫn mù
quáng, duy ý chí tưởng mình hoàn toàn tỉnh táo nhưng thực ra là đang “say khướt”
vô minh, làm được nhiều điều thánh thiện bao nhiêu thì cũng gây ra những điều tội
lỗi bấy nhiêu. Nhân tính của nó tốt lành bao nhiêu thì cũng tha hóa bấy nhiêu.
Sự thể đó dẫn đến thói quen giải quyết đói khát, giải quyết những khó khăn về
sinh tồn bằng cách sử dụng bạo lực, quyền mưu, vũ khí tấn công giết chóc lẫn
nhau để trộm cướp, chiếm dụng phương tiện, nguồn sống của nhau, ở loài người
ngay từ thời hồng hoang.
Khi một cộng đồng
xã hội ở vào thời cực thịnh thì thói quen tranh đoạt bằng cách hãm hại, giết chóc
đồng loại đó lặn đi và bình thường, vì có luật lệ nên cũng không phải là hiện tượng
nổi trội. Khi cộng đồng xã hội lâm vào hoàn cảnh khó khăn, bi đát, nạn đói xuất
hiện lan tràn thì cũng là khi trộm cướp và cả giết chóc nổi lên như rươi, trở
thành vấn nạn. Nếu lúc đó cộng đồng xã hội (hay quốc gia) cùng với cơ quan quyền
lực của nó không giải quyết, khắc phục kịp thời những khó khăn, thiếu thốn, đói
khát của đời sống xã hội thì rất có thể xã hội sẽ trở nên hỗn loạn, thậm chí là
hoàn toàn vô chính phủ vì ngay cả cái lực lượng đóng vai trò công cụ bạo lực cũng
bắt đầu “kiêu binh”, dễ dàng đi ăn cướp. Trong tình hình xấu nhất, những nhà giàu
có phải tự tổ chức công cụ bạo lực để bảo vệ của cải của mình và vì giàu có, họ
có đủ khả năng làm được điều đó. Nhưng có lẽ, thường thì họ nhờ cậy nhà nước,
thao túng nhà nước bằng của cải, lợi lộc để nhà nước với công cụ bạo lực có sẵn
trong tay, sẽ bảo vệ họ, làm theo nguyện vọng của họ. Các thành viên hợp thành
nhà nước, trong lòng vốn tiềm ẩn tham muốn và có sẵn công cụ bạo lực trong tay
chẳng tội gì mà không nhân cơ hội đó “đục nước béo cò”, làm giàu (một cách mờ ám
và bẩn thỉu!).
Bức tranh thô
phác nhưng “có vẻ” điển hình ở trên có thể dùng để mô tả quá trình hình thành sự
phân tầng giai cấp trong xã hội loài người. Chúng ta thấy rằng quá trình vận động
tự nhiên của xã hội cùng với ý thức mù quáng của con người đã làm cho một chính
quyền thuở ban đầu là “do dân, vì dân” chuyển biến dần thành “do nó và vì nó”.
Quá trình đó cũng chính là sự phân hóa lực lượng xã hội ra thành những tầng lớp
mà hai tầng lớp cơ bản, chủ yếu quyết định đến mọi hoạt động của một xã hội đã
phân tầng lớp, được gọi là tầng lớp thống trị và tầng lớp bị trị, hay còn gọi là
giai cấp thống trị và giai cấp bị trị.
Hiện tượng phân
tầng thành hai giai cấp cơ bản đó không phải là kết quả trực tiếp của sự phân hóa
giàu - nghèo tự nhiên mà là kết quả của sự hình thành chính quyền (nhà nước và
quyền lực nhà nước) kết hợp với lòng tham muốn mù quáng danh lợi của con người.
Từ sự nhận định này, chúng ta cho rằng trong xã hội, chỉ có sự phân định lực lượng
dân cư thành hai lực lượng chính quyền và Đại Chúng là có tính phổ biến, còn phân
tầng giai cấp thành thống trị và bị trị là không phổ biến và chỉ khi xuất hiện
hai giai cấp thống trị và bị trị mới đồng thời xuất hiện hai giai cấp tương phản
nhau là giàu và nghèo. Bởi vì, khi một chính quyền thuần túy do dân và vì dân
thì nó chỉ phục vụ Đại Chúng (cả kẻ giàu và người nghèo) nên chẳng thống trị
ai, do đó cũng chẳng có sự phân tầng thống trị - bị trị, làm cho hiện tượng “có
giai cấp” trong xã hội lặn đi. Khi một chính quyền đã nhuốm màu “do nó và vì nó”
thì nó cũng biểu hiện ra tính thống trị và lúc đó cũng sẽ xuất hiện sự phân
chia giai tầng. Dưới chế độ tư sản thời kỳ đầu và chế độ thực dân ở các nước
thuộc địa, sự phân chia giai tầng thống trị - bị trị và kéo theo là sự phân
chia giai cấp giàu - nghèo trở nên rõ ràng. Nhưng những biểu hiện đó rõ ràng nhất
dưới chế độ phong kiến, khi mà chính quyền quân chủ chuyên chế đưa cái tinh thần
“do nó và vì nó” lên cao độ.
Sự phân hóa giàu
- nghèo làm xuất hiện sự thèm khát, tham muốn danh lợi. Sự thèm khát, tham muốn
ấy, ở những con người có sẵn trong tay quyền lực, đã kích thích ghê gớm họ lợi
dụng quyền lực ấy để vơ vét của cải, mưu cầu vinh hoa phú quý. Đó là một trong
những nguyên nhân chủ yếu làm xuất hiện chế độ quân chủ chuyên chế, với nhà nước
lúc này được gọi là triều đình và kẻ đứng đầu triều đình là ông vua. Nói chung
thì chính quyền nào cũng phải nhờ vào sự đóng góp của Đại Chúng hay còn gọi là
nhờ “lộc nước” mới sống và hoạt động được. Nhưng điều đặc biệt ở chính quyền
phong kiến là lấy sự làm giàu từ “lộc nước” làm lẽ sống và sống vinh hoa phú quí
bằng cách vơ vét “lộc nước”. Vua là kẻ có quyền lực cao nhất nên cũng có danh lợi
cao nhất và cũng tự cho phép mình vơ vét “lộc nước” nhiều nhất phục vụ cho cuộc
sống xa hoa và thỏa lòng tham vô độ của mình. Quyền lực của vua là tối cao cho
nên vua cũng đứng trên pháp luật và thao túng pháp luật. “Chức vị” vua không còn
là do cộng đồng xã hội tín nhiệm bầu lên như thời Nghiêu, Thuấn nữa mà là cha
truyền con nối. Đến đây thì chính quyền “nhân dân” đã biến thái thành chính quyền
phong kiến, một chính quyền hoàn toàn do nó và vì nó mà trước hết là do vua và
vì vua.
Đúng ra là vua
muốn hưởng hết một mình cả về danh lợi lẫn quyền lực. Nhưng “tiếc thay”, vua không
thể sống an lạc, phè phỡn một mình với bầy hoàng hậu, thứ phi, cung tần mỹ nữ
xinh như mộng mà có cả những thứ ấy được. Vì như thế, vua làm sao đủ “chân tay”
để hành pháp, đi khắp nơi thu gom “lộc nước”, thể hiện quyền lực trên khắp đất
nước rộng lớn được?. Do đó, vua đành phải “nhả ra” một phần “lộc nước” để nuôi
sống một bộ phận người là quần thần, quan lại để làm những việc đó cho vua, lo
toan việc nước theo ý vua, được vua ủy quyền cai quản, duy trì công cụ bạo lực để
phục vụ vô điều kiện trong việc bảo vệ quyền lợi của nhà vua. Nhưng khi thực hiện
sự ủy quyền quyền lực cho cái đám người cũng đầy lòng tham muốn và thèm khát
danh lợi ấy thì đồng thời vua cũng đặt mình vào tình trạng không còn trực tiếp
nắm quyền nữa và có nguy cơ bị phế truất bất cứ lúc nào. Để khắc phục tình trạng
đó, vua lại phải nghĩ ra hàng loạt biện pháp nhằm thâu tóm, nắm chắc quyền lực
trong khi vẫn phải ủy quyền quyền lực. Như một tất yếu, chúng ta thấy trong lịch
sử, mọi ông vua đều thực hiện những biện pháp có các điểm chung sau đây:
Thứ nhất là sử
dụng ưu tiên các hoàng thân quốc thích, những quần thần theo vua trung thành nhất
vào các vị trí quan trọng, xung yếu trong triều đình, đồng thời ban cho họ nhiều
đặc quyền đặc lợi mà theo lời vua là: “cùng trẫm chung vui hưởng lộc nước”. Thứ
hai là tưởng thưởng hậu hĩnh về danh lợi cho những kẻ đã cúc cung tận tụy phục
vụ triều đình, sống hết lòng vì vua. Thứ ba là áp dụng những hình thức xử phạt
nặng nề nhất, hung tợn nhất, tàn bạo nhất đối với những kẻ phản vua, lừa dối
vua, chẳng hạn như: chém bêu đầu, thả vào vạc dầu sôi, tứ mã phanh thây, cho
voi dày hổ xé, lột da sống, tùng xẻo, tru di tam tộc… Thứ tư là tăng cường dò
la, nghe ngóng để sớm phát hiện kẻ “bất trung” mà trừ khử đi phòng hậu họa (và điều
này đã là một yếu tố làm xuất hiện quanh vua, nhất là đối với những ông vua nhu
nhược, một đám nịnh thần chuyên dèm pha kẻ khác để mong nhận được “ơn mưa móc”
của vua và do đó đã làm nhiều quần thần, quan lại bị giết một cách oan uổng, uất
ức). Thứ năm, thường thấy ở thời kỳ vua mới dựng được cơ đồ, lên ngôi báu, đó là
“thỏ hết thì giết chó săn” như chúng ta đã kể. Những người kề vai sát cánh với
vua trong những năm tháng dấy nghiệp thường là những người can trường, khẳng khái,
cương trực và có tài. Họ là những kẻ đã “biết tỏng” vua và đôi khi cũng xem thường
vua. Khi nghiệp đã thành thì vua “suy bụng ta ra bụng người”, sợ họ ỷ công lao,
kể lể mất thể diện vua, thậm chí là có thể “tạo phản” đòi chia chác giang sơn với
vua, do đó vua một mặt thì ban thưởng danh lợi hậu hĩnh cho họ, mặt khác chờ họ
“hớ hênh”, thậm chí là cố tình vô cớ gán tội cho họ, bắt họ phải chết đi (bức tử)
rồi sau đó vua tỏ ra ân hận (thật lòng hay không đố ai biết!), “khóc rống lên”
giải oan cho họ, phục hồi chức tước thậm chí là còn thăng thêm phẩm hàm chức tước
cho những kẻ đã chết, chu cấp tươm tất bổng lộc cho con cháu, hậu duệ của họ (để
tỏ lòng ân hận thương xót mà cũng có thể để triệt đi cái mầm oán thù gây họa về
sau!). Thứ sáu, và đây được coi là cách “khôn ngoan” nhất, “hay” nhất, đem lại
kết quả nhất mà ít “tốn kém” nhất: ràng buộc về tư tưởng cái tinh thần phụng sự
nhà vua một cách triệt để và vô điều kiện. Muốn thế vua phải tìm kiếm cho ra và
cài đặt cho được một hệ tư tưởng nghe thật bùi tai, mùi mẫn, dương cao ngọn cờ
“vì dân vì nước” nhưng thực chất thì vẫn là chỉ vì vua; vào đời sống triều đình
nói riêng và đời sống xã hội phong kiến nói chung. Hệ tư tưởng đó thực tế đã xuất
hiện và tựu trung thì nó thế này: đã là thần dân thì phải trung thành với vua và
yêu nước (trung quân ái quốc), phụng sự cho vua thì cũng có nghĩa là phụng sự đất
nước, phục vụ dân tộc. Vua là con trời (thiên tử), được trời cử xuống cai quản
thiên hạ, đứng trên thiên hạ để trị vì và lo toan cho muôn dân. Trời định ra như
vậy nên thiên hạ là của vua, đất nước cũng là của vua. Vì thế mà vua có quyền
sinh sát thiên hạ và có quyền hưởng lộc nước tùy thích. Đồng thời khi vua là
“cha” thiên hạ thì cũng có lòng yêu thương, cũng quan tâm chăm sóc dân như con,
trị vì là nhằm chăm lo cho cuộc sống của thần dân được sung túc, nhằm lo toan đến
hưng vong, an nguy của quốc gia, giúp thần dân được sống trong cảnh thái bình.
Vua dù có hưởng “hơi nhiều” lộc nước một tí thì có đáng là bao so với công lao đó
của vua. Xét cho cùng thì vua là người phải làm biết bao nhiêu là công việc, khó
nhọc trăm bề (!). Kẻ bình thường còn phải có trách nhiệm đối với sự hưng vong của đất
nước (quốc gia hưng vong, thất phu hữu trách) huống chi vua được trời giao cho
cái nghĩa vụ to tát đến thế! Vì những lẽ đó, các thần dân phải một lòng mà phò
vua, các hiền nhân quân tử phải ra sức mà giúp vua, các quan lại, quần thần được
vua ban bổng lộc lại càng phải cúc cung tận tụy làm việc cho vua. Trung với vua
là trung với nước, giúp vua là giúp nước, vì vua thì cũng là vì dân.
Thế là rốt cuộc
lại, hệ tư tưởng phong kiến yêu cầu một điều cơ bản nhất, cốt yếu nhất và trước
nhất là mọi thần dân và bề tôi đều phải “trung quân”. Trung quân trở thành tiêu
chí số một của đạo đức phong kiến. Đối với phong kiến Phương Đông thì trung quân
đã trở thành một thứ xiềng xích thiêng liêng trói chặt tâm hồn các bậc sĩ phu,
quan lại triều đình. Làm trái hai chữ ấy là đáng hổ thẹn, là ô nhục, không đáng
sống trên đời. Phản vua là loạn thần tặc tử và phải bị trừng trị lập tức với hình
phạt nặng nề, khủng khiếp nhất. Giá đỡ cho hệ tư tưởng phong kiến Á Đông chính
là học thuyết xã hội của Nho Giáo. Chúng
ta nhớ lại câu: “Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung; phụ xử tử vong, tử bất
vong bất hiếu” mà… nổi da gà!
Nhưng anh hùng,
hào kiệt bốn phương không phải ai và không phải lúc nào cũng tin tưởng vào cái
tư tưởng trung quân mù quáng và đầy mị dân ấy. Họ có suy nghĩ khác!
Và lạ nhất là
ngay cả nhiều đứa hoàng thân quốc thích “ăn không ngồi rồi” nhờ đặc quyền đặc lợi
vua ban, nhiều thằng trong đám bề tôi tưởng thực lòng cúc cung tận tụy để hưởng
“những trận mưa móc” không ít bổng lộc từ vua, lại cũng nghĩ khác và thậm chí là
còn rắp tâm, mưu tiếm đoạt ngôi báu của vua. Thật là lũ khốn nạn!
Rõ ràng, chính
quyền phong kiến là chính quyền mang bản chất hoàn toàn do nó và vì nó, mà cụ
thể là do vua và vì vua. (Chúng ta mở ngoặc để nói thêm cho rõ hơn. Bất cứ chính
quyền nào thì cũng không thể hoàn toàn do dân và vì dân, cũng như hoàn toàn do
nó và vì nó được. Khi chúng ta nói chính quyền phong kiến hoàn toàn do vua và vì
vua là chúng ta nói theo cái ý rằng: “Vua là người “đẻ” ra triều đình nên triều
đình là của vua và luôn phục tùng ý chí của vua. Cái triều đình ấy đã nhân danh
vua thiết lập một chính quyền và điều hành nó hoạt động nhằm mục đích duy nhất
là phục vụ triều đình mà thực chất là phục vụ cho quyền lợi nhà vua. Tuy có là
một ông vua tham tàn vô độ lượng đi nữa thì cũng không thể coi toàn bộ miếng ăn,
của cải của thần dân là “lộc nước” để mà vơ vét hết được. Làm như thế vua khác
nào là kẻ ngoại bang xâm lược đi cướp bóc và giết chóc con dân vô tội của mình
và quan trọng hơn, nếu làm dân chết đói hết thì vua trị vì ai và nếu dân khổ đến
cùng cực rồi thì “lộc nước” đâu còn mọc được ra nữa để mà “hái” đợt sau? Vì vậy
nên dù không muốn thì vua cũng buộc phải “nhường lại” mức độ nhất định quyền lợi
nào đó cho thần dân được sống còn và đủ sức làm lụng để dâng “lộc nước” lên làm
giàu dài dài cho vua và cho cả cái triều đình của vua).
Như vậy, một
khi chế độ quân chủ chuyên chế được thiết lập thì trong xã hội cũng phân chia lực
lượng cư dân một cách tương đối thành hai giai tầng thống trị và bị trị, mà đại
diện cho giai tầng bị trị là Đại Chúng (nhân danh thần dân). Đó là hai lực lượng
tương phản nhau nhiều mặt. Trong khi biểu hiện của Đại Chúng là: đa số đông đảo,
của cải chia bình quân đầu người ít ỏi nên còn gọi là nghèo; phải đóng góp “lộc
nước”, quyền lực phân tán, ẩn dấu, danh lợi hèn kém… thì biểu hiện của triều đình
là thiểu số ít ỏi, của cải chia bình quân đầu người to lớn nên còn gọi là giàu;
được hưởng “lộc nước”, quyền lực tập trung nổi trội, danh lợi ngút trời…
Trong nhiều mặt
tương phản ấy, sự tương phản cơ bản nhất, quyết định đến số phận của sự phân
giai tầng và là nguyên nhân làm xuất hiện nhiều biến động lớn lao trong xã hội
phong kiến, đó là tương phản về quyền lợi mà một biểu hiện khác của nó, rất dễ
thấy trong hiện thực lịch sử là tương phản giàu - nghèo. Giàu và nghèo ở đây không
phải chỉ có nguyên nhân tự nhiên mà chủ yếu là nguyên nhân từ xã hội phong kiến,
có tính nhân tạo và bất chính. Nghèo bất chính là do bị bóc lột quá đáng nên
nghèo đi. Giàu bất chính là giàu do được hưởng vô tội vạ “lộc nước” mà giàu lên.
Nhất là trong những thời đoạn đói kém do thiên tai, mất mùa, hoặc vì lý do nào đó
triều đình tăng thuế thì tương phản giàu - nghèo càng trở nên sâu sắc và do đó
mà cũng càng bất chính. Hiện tượng tăng dân số khi xã hội còn thịnh vượng và “lộc
nước” không giảm đi lúc xã hội suy thoái cũng là một yếu tố làm tăng mức độ tương
phản giàu nghèo bất chính.
Nói thêm rằng,
trong xã hội phong kiến đã phân giai tầng và vào thời đoạn xã hội khó khăn, đói
kém, loạn lạc thì bộ phận giàu có nhờ làm ăn chính đáng trước đó, cũng phải phân
hóa. Họ là những người hầu như không có quyền lực hoặc nếu có thì cũng yếu ớt.
Do bị cấu xé từ cả hai phía bởi nạn trộm cướp và quan lại thoái hóa nên một số
không chịu đựng nổi đành phải “nghèo đi” trở về với Đại Chúng, số khác giàu hơn
thì đút lót, mua chuộc, “mượn” quyền lực triều đình bảo vệ cho mình, rồi dần dần
cũng tạo được thế lực trong chính quyền phong kiến và gia nhập hẳn về giai tầng
thống trị để tiếp tục làm giàu. Sự giàu có về sau của số này trở thành bất chính.
Những kẻ làm giàu bất chính dễ dàng trên “lộc nước”, nhờ vào quyền lực triều đình,
thường là ích kỷ nhưng xa hoa, kênh kiệu mà đê hèn, dối trá trong nỗi hổ thẹn sâu
thẳm, và để bảo vệ cái danh lợi do thủ đoạn mà có ấy, nó dễ dàng gây tội ác!
Cộng đồng xã hội
muốn tồn tại bền vững thì đương nhiên phải xuất hiện nhà nước để thống nhất hành
động vì quyền lợi cộng đồng. Trong quá trình hoạt động, nhà nước đã được cộng đồng
xã hội ủy quyền, trao cho quyền lực để thực thi nhiệm vụ. Trực tiếp nắm quyền lực
trong tay, nhà nước biến thái dần. Trong thời đại phong kiến, nhà nước thành
triều đình, thống nhất hành động vì quyền lợi nhà vua và qua đó mà cũng vì quyền
lợi của những người theo vua mưu cầu danh lợi. Điều đó làm phân hóa xã hội ra
thành hai giai tầng lực lượng chủ yếu là Đại Chúng và triều đình, đồng thời cũng
là hai giai tầng nghèo và giàu, bị trị và thống trị. Hai lực lượng ấy tạo nên
hai tương phản về quyền lợi, trong một mối quan hệ lưỡng nghi thống nhất, vận động
bằng cách tác động lẫn nhau, chuyển hóa nhau, gây ra những hiện tượng đặc thù của
xã hội phân tầng giai cấp, điển hình là xã hội phong kiến.
Pháp luật trong
thời đại phong kiến là pháp luật của kẻ mạnh, thiên vị phục vụ cho kẻ mạnh, và
kẻ mạnh ở đây, không ai khác, chính là lực lượng thống trị, đứng đầu là nhà
vua. Tuy nhiên khi có được ông vua hiền, thương dân thì tính chất “do dân và vì
dân” của triều đình được nâng cao, làm cho tương phản giàu - nghèo giảm xuống,
quyền lợi của Đại Chúng và quyền lợi của triều đình có thể dung hòa, thỏa thuận
được. Lúc này, đất nước trở nên thái bình, sung túc, an vui và thịnh vượng. Đất
nước sung túc, thịnh vượng tất yếu làm tăng nhu cầu tiêu dùng cá nhân trong xã
hội. Với bản chất thích an hưởng xa hoa của triều đình phong kiến, sự thịnh vượng
cũng làm mức tiêu dùng của nó nhảy vọt tăng cao. Ngoài nhu cầu ăn uống phè phỡn,
trưng diện diêm dúa và trang điểm xa xỉ, còn có nhu cầu xây dựng lầu son gác tía,
đền đài lăng tẩm cầu kỳ, nguy nga đồ sộ. Mức tiêu dùng ấy làm hao tổn ghê gớm
“lộc nước” và cũng làm giảm đáng kể sức lao động trong sản xuất nông nghiệp. Quá
trình đó làm cho Đại Chúng và cả triều đình cùng “nghèo” bớt đi. Đến đời vua
sau, vì đã quen sống trong hưởng lạc và quyền uy nên cũng bớt “hiền” đi, vẫn tiêu
dùng theo mức độ vua cha từng tiêu dùng sẽ làm cho đến một lúc nào đó ngân khố
bị kiệt quệ. Ông vua con (cũng có thể là đến đời vua cháu) và cả cái triều đình
ấy đến một lúc nào đó “đành phải” tìm cách tăng cường bóc lột thêm “lộc nước” từ
Đại Chúng vốn đã nghèo đi từ thời vua cha. Tình hình cứ thế tiến triển có thể
chậm hoặc nhanh do những tác động ngẫu nhiên đem lại, có lợi hay bất lợi đối với
đời sống Đại Chúng, nhưng cũng phải đi đến kết cục là sự tương phản giữa hai
quyền lợi đã trở nên sâu sắc và trầm trọng đến nỗi không thể dung hòa, thỏa thuận
hoặc cam chịu được nữa đối với Đại Chúng. Trạng thái tương phản quyền lợi gay gắt
đó đòi hỏi triều đình phải giải quyết vì trong xã hội đã xuất hiện những rối loạn,
phản kháng và chống đối ở nhiều nơi của thần dân. Triều đình giải quyết sự căng
thẳng của mối tương phản đó bằng cách nào? Đây là lời khuyên chí tình của Lão Tử:
“Dân mà không sợ sự uy hiếp (đàn áp) của vua thì sự uy hiếp lớn (bạo động, nổi
dậy) của dân sẽ đến với vua. Đừng bó buộc đời sống của dân, đừng áp bức cách
sinh nhai của dân. Vì không áp bức dân nên dân mới không bức hại vua”
Đáng lẽ ra triều
đình phải giải quyết theo hướng giảm bóc lột (hoặc giảm tối đa mức độ tiêu dùng
của mình để trả bớt “lộc nước” lại cho Đại Chúng); tổ chức, phân bố lại lao động,
kích thích sản xuất, nhất là làm tăng qui mô sản xuất nông nghiệp cả về bề rộng
lẫn bề sâu (tăng năng suất, khai khẩn những vùng đất hoang xa xôi…), tóm lại là
phải hành động cùng toàn dân và vì toàn dân (thục hiện trấn áp là bất đắc dĩ).
Thế nhưng, vì là đại diện cho giai tầng đã “quen” thống trị, tham lam vị kỷ và
giàu có chủ yếu là nhờ bất chính, không dễ gì từ bỏ sự “ăn sung mặc sướng”, cũng
vì là ngay trong nội bộ triều đình luôn ngấm ngầm xảy ra cuộc đua tranh đấu đá
quyền lực vì danh lợi làm cho mặt xấu xa của nhân tính lấn át mọi tốt đẹp của nó
và thói quen sử dụng vũ lực trở thành nổi trội, nên triều đình đã chọn hướng ưu
tiên là sử dụng công cụ bạo lực có sẵn trong tay để tiến hành trấn áp, đàn áp
những hành động (tự phát đòi quyền lợi) bị cho là phản loạn, nghịch tặc, khi quân
xuất hiện trong giai tầng Đại Chúng. Cách giải quyết đó của triều đình vô hình
dung, đã xâm phạm trắng trợn vào quyền lợi sống còn chính đáng của Đại Chúng vốn
đã bị sự “thống trị” làm giảm đi đáng kể trong thời gian trước đó. Làm như thế,
triều đình cũng đồng thời (vô tình bởi mù quáng) kích hoạt việc tổ chức vũ lực
trong Đại Chúng cần lao đang bị dồn tới ranh giới của những vinh - nhục, còn -
mất, sinh - tử.
Thiên tai và nạn
dịch họa từ bên ngoài có thể làm cho đất nước điêu đứng, suy tàn. Nhưng đó là
những sự cố tương đối ngẫu nhiên, có vẻ đột ngột và vô cớ. Trong nhiều trường hợp,
nhất là trường hợp do thiên tai, những sự cố đó là có thể lường trước, chế ngự,
ngăn chặn, hóa giải kịp thời được, còn không thì cũng mau chóng khắc phục được.
Sự điêu tàn ở một vài khu vực, đối với riêng bản thân nó thôi, chẳng có ý nghĩa
đáng kể nào trước sự thịnh - suy của một đất nước. Chúng ta quan niệm rằng điêu
tàn là một kết quả chứ không phải là nguyên nhân của sự suy vi có tính xã hội.
Ngay cả nạn địch họa từ bên ngoài (ngoại xâm), cũng chỉ là sự làm mất mát đi chứ
không phải là làm suy vi xã hội đi. Nói lạ lùng như thế bởi chúng ta nghĩ thịnh
vượng hay suy vi mang ý nghĩa bao hàm, không phải chỉ nói lên của cải vật chất
nhiều hay ít, sung túc hay không sung túc, mà còn nói lên trạng thái tinh thần
xã hội lành mạnh hay suy đồi nữa.
Vào thời kỳ thịnh
vượng, điều dễ thấy nhất là giai tầng Đại Chúng nói chung được ấm no sung túc,
có của ăn của để, làng quê rộn rã tiếng cười nói, hội hè thường xuyên, chùa chiền
cũng tươi rói vàng son, khách viếng chùa không ngớt, mâu thuẫn quyền lợi giữa Đại
Chúng và triều đình tạm lắng xuống, nhân tính con người giảm hẳn “ác” đi mà dồn
về hướng “thiện” làm cho tinh thần xã hội trở nên trẻ trung, lành mạnh. Vào thời
kỳ suy vi, cũng dễ thấy nhất là Đại Chúng nói chung lầm than đói rách, trâu bò
dơ xương, nhà cửa xơ xác, làng xóm tiêu điều, trộm cướp, giặc giã xoành xoạch,
hội hè thưa thớt lạnh tanh, chùa chiền cô quạnh vắng đanh, mâu thuẫn quyền lợi
giữa Đại Chúng và triều đình nổi lên nhức nhối, nhân tính con người mất dần lương
thiện để quay về với những thủ đoạn thấp hèn, tàn nhẫn, vị kỷ làm cho tinh thần
xã hội già nua, suy đồi.
Có thể nói đại
khái rằng: thịnh, suy là những quá trình kế tiếp nhau trong sự vận động nội tại
của một xã hội có nền sản xuất hàng hóa, là kết tụ của nhiều quá trình, nhiều yếu
tố xảy ra trong xã hội, mà nổi bật lên là sự vận động của hai lực lượng tương
phản trong mối quan hệ lưỡng nghi thống nhất: yêu cầu tiêu dùng và khả năng
cung ứng. Thực ra, thịnh - suy là quá trình có tính phổ quát trong Tự Nhiên và
biểu hiện đặc thù trong xã hội loài người nên nền sản xuất hàng hóa khó lòng hủy
bỏ nó, nhưng con người khôn ngoan và tỉnh táo có thể giảm thiểu mức độ tương phản
giữa thịnh và suy. Vì rằng trong thịnh có suy và trong suy có thịnh và cũng vì
rằng con người ngày một khôn ngoan hơn, biết cách tác động có lợi hiệu quả hơn
vào quá trình thịnh suy nên nhiều khi khó nhận biết được đâu là thịnh, đâu là
suy.
Trong xã hội sản
xuất hàng hóa phong kiến, do bản chất của chế độ quân chủ chuyên chế mà quá trình
suy vi thường đưa xã hội đến trạng thái hết sức thảm hại, Đại Chúng bị dồn đến đường
cùng, buộc phải đứng dậy đấu tranh vũ trang, giành lại quyền lợi. Lúc đó mới là
lúc mở ra khả năng cho một quá trình thịnh đạt mới. Nói một cách siêu hình thì
trong một quốc gia phong kiến, nếu trời bày ra sự suy vi thì chính “con trời” cùng
với triều đình của nó phải chịu trách nhiệm trực tiếp và chính yếu đến thảm cảnh
loạn lạc, can qua, huynh đệ tương tàn, đói khát thê lương xảy ra tràn lan.
Cũng là thịnh rồi
suy, suy rồi lại thịnh… như phong kiến châu Âu, nhưng xã hội phong kiến phương Đông
có một đặc trưng lớn: vòng đời của một vương triều thường mở đầu bằng quá trình
thịnh đạt đến trạng thái thịnh vượng, rồi từ đó bắt đầu quá trình suy vi, kết
thúc trong trạng thái suy tàn. Khi vương triều cũ tiêu vong thì đồng thời xuất
hiện vương triều mới. Vương triều mới này nếu không “chết yểu” thì cũng sống một
cuộc đời có vòng đời giống hệt vương triều cũ, nghĩa là cũng thịnh đạt đến thịnh
vượng, rồi suy vi và “băng hà” trong suy tàn, nhường chỗ cho một vương triều tiếp
theo…
Như đã nói, trạng
thái thịnh vượng làm xuất hiện những yếu tố đưa xã hội vào quá trình suy vi.
Triều đình phong kiến nói chung không những không khắc phục được mà còn đẩy quá
trình đó tiến triển nhanh hơn. Việc giải quyết những bất đồng quyền lợi giữa
hai tầng lớp bằng cách sử dụng vũ khí của triều đình nhằm trấn áp, đàn áp Đại
Chúng đã kích hoạt một vài bộ phận của Đại Chúng tổ chức khởi nghĩa vũ trang chống
lại.
Trong hai giai
tầng thống trị và bị trị thì giai tầng bị trị - tức là quần chúng nhân dân mà Đại
Chúng cần lao là đại diện - đóng vai trò nền tảng. Cũng tương tự như Tự Nhiên
Tồn Tại đối với Vũ Trụ, tương tự như thiên nhiên hoang dã đối với thế giới sinh
vật, tương tự như thế giới sinh vật đối với loài người, cái nền tảng nhân dân ấy
không làm nhưng không phải không làm (vô vi, vô bất vi), không làm mà làm tất cả.
Khi sự sống còn của nhân dân bị đe dọa nghiêm trọng, cũng có nghĩa là cộng đồng
xã hội có nguy cơ chấm dứt tồn tại bởi cái triều đình đáng lẽ ra phải có nhiệm
vụ duy trì sự tồn tại ấy, thì nó sẽ lên tiếng, sẽ “làm tất cả” thông qua đại diện
của nó là Đại Chúng. Khi khởi nghĩa vũ trang của bộ phận Đại Chúng nổ ra thì cũng
là lúc quyền lực tản mát của Đại Chúng bắt đầu quá trình qui tụ về, cũng là lúc
Đại Chúng bắt đầu cuộc sử dụng bạo lực để không những đi tước đoạt lại danh lợi
từ tay giai cấp thống trị mà còn và chủ yếu là đi đòi lại quyền lực mà trước đây
đã ủy quyền cho vua và vua đã chiếm giữ một cách bất chính đem “trang bị” cho
triều đình. Nhà vua đâu có thể ngờ rằng trong thiên hạ, ngoài quyền lực mà vua đã
trang bị cho triều đình (nên cũng tạm gọi là quyền lực triều đình, hay quyền lực
của giai cấp thống trị) còn có một quyền lực khác, tương phản với nó là quyền lực
Đại Chúng có tính ẩn dấu. Khi vua làm thuận lòng dân thì quyền lực của vua trở
nên vô địch, quyền lực Đại Chúng lặn đi, và nếu sự “thuận lòng dân” ấy là hoàn
toàn vì dân thì cũng có nghĩa vua đã làm được việc thống nhất quyền lợi giữa
hai giai tầng, xóa đi sự phân tầng xã hội, lúc này trong xã hội chỉ tồn tại duy
nhất một quyền lực, không phải của vua, không phải của Đại Chúng mà là của cộng
đồng nhân dân mà vua được ủy quyền đại diện. Đây là trường hợp lý tưởng, nhưng
một cách tương đối, gần đúng thì cũng có thể quan sát thấy trong lịch sử: đó là
trường hợp cộng đồng xã hội Công xã nguyên thủy, hay sự đồng lòng của quân dân
nhà Trần - Việt Nam
trong thời đoạn ba lần đại thắng quân Nguyên… Khi vua làm nghịch lòng dân thì
quyền lực nhà vua trở nên suy yếu, quyền lực Đại Chúng nổi lên phản kháng lại
quyền lực nhà vua và nếu nhà vua sử dụng vũ lực trấn áp thì nó cũng sẵn sàng
“nghênh chiến”. Khi sự “nghịch lòng dân” ấy trở nên quá ư bạo ngược, hoàn toàn
phản động thì cũng là khi vua làm cho quyền lực Đại Chúng lớn mạnh nhanh chóng
và trở nên vô địch; tự làm cho quyền lực của mình tiêu tan đi để rồi cả vua lẫn
triều đình không thể tránh khỏi bị diệt vong và giai tầng thống trị vì thế cũng
tan rã theo. Khi trong xã hội thực sự chỉ còn một quyền lực tối cao nhằm bảo vệ
một cách bình đẳng, quyền lợi của mọi công dân, nghĩa là bảo vệ sự tồn tại lành
mạnh của cả cộng đồng thì xã hội đó được gọi là phi giai cấp. Lúc này, mọi sự
tranh giành danh lợi xảy ra trong xã hội, thậm chí là bằng vũ lực đều không phải
là đấu tranh giữa giai tầng và giai tầng mà chỉ có tính chất cá nhân, cá thể, cá
biệt giữa công dân với công dân, có nguồn gốc từ sự “chênh lệch” quan niệm, nhận
thức về thị phi cũng như từ sự biểu hiện đa dạng của nhân tính. (Từ đây, chúng
ta thấy rằng không phải nền sản xuất hàng hóa làm phân chia giai tầng mà chính
là sự xuất hiện nhà nước và sự lũng đoạn nhà nước bởi lòng tham mù quáng của
con người mới là nguyên nhân sâu xa của hiện tượng xã hội đó).
Vào thời xã hội
suy vi, quyền lực Đại Chúng và quyền lợi triều đình trở nên trái chiều ngày càng
rõ rệt. Lúc đầu, hai quyền lợi ấy dù đã trái chiều, dù đây đó đã có hiện tượng
“trên bảo dưới không nghe, dưới kêu trên không thấu”, nhưng vẫn ở mức độ hoà hoãn,
chịu đựng nhau được, vì bản chất của Đại Chúng (cũng chính là Đức Huyền Diệu) là
muốn sống yên ổn mà mưu cầu hạnh phúc, ưa chuộng hòa bình, do đó mà thường là
nhẫn nhịn, cam chịu. Triều đình nhờ vậy mà vẫn còn dư sức áp chế bằng bạo lực và
vẫn điều hành được đất nước. Tuy nhiên, theo thời gian, mâu thuẫn giữa hai quyền
lợi đó sẽ tăng đến mức độ “hết chịu nổi nhau”, đối kháng gay gắt, thậm chí là đòi
hỏi phải một mất một còn. Khi lòng dân không còn hướng về triều đình nữa thì cũng
là khi khởi nghĩa quần chúng nổ ra thường xuyên và khắp nơi. Giai tầng thống trị
và triều đình của nó với bản chất tham lam, ích kỷ khư khư giữ cho bằng được
quyền lợi bất chính của mình, và có sẵn lực lượng vũ trang to lớn trong tay, chỉ
còn cách ra tay đàn áp quyết liệt. Thế nhưng, càng đàn áp khốc liệt thì triều đình
càng phơi bày cái bộ mặt tàn bạo, phản dân hại nước của nó cũng như của giai tầng
thống trị và vì thế càng làm cho quần chúng tỉnh ngộ, càng kích thích sự hội tụ
quyền lực của Đại Chúng. Sự phơi bày ra cái bản chất xấu xa, phản động của triều
đình còn làm phân hóa ngay trong nội bộ guồng máy thực hiện quyền lực và bạo lực
của nó. Lực lượng bạo lực của triều đình được huy động từ đâu nếu không phải từ
Đại Chúng trong quá khứ. Họ là ai nếu không phải là con em Đại Chúng? Vì những
lẽ đó mà trong khi quyền lực Đại Chúng mạnh lên thì quyền lực triều đình lại yếu
dần đi. Sự tổn thất của phong trào kháng chiến và khói lửa chiến tranh sẽ hun đúc
nên trong lòng đại chúng, nhất là từ bộ phận có học thức, thấy được thời cuộc và
có lòng với dân với nước, làm xuất hiện ra những hào kiệt, anh hùng. Để rồi sẽ
nổi lên một nhân vật có tài thao lược, có đủ đức độ của phong trào kháng chiến,
trở thành lãnh tụ kháng chiến để lòng dân hướng về, được Đại Chúng tin tưởng ủy
quyền quyền lực, ủng hộ mọi mặt, làm xuất hiện một lực lượng vũ trang mạnh mẽ, đủ
sức đánh bại lực lượng triều đình.
Ngoài ra còn một
yếu tố quan trọng nữa làm suy yếu quyền lực của giai tầng thống trị phải kể đến,
đó là: cũng bắt nguồn từ cái bản chất tham lam, ích kỷ, vụ lợi bất chính của một
chính quyền do nó và vì nó mà thường xuyên và nổi trội nhất vào thời xã hội suy
vi, nảy sinh những mưu đồ, xuất hiện những xâu xé hãm hại nhau nhằm tranh giành
quyền lợi trong nội bộ tầng lớp thống trị: nạn dèm pha, bè phái trong triều
đình, nạn tham quan lại nhũng không còn kiềm chế được trong bộ máy chính quyền,
nạn kiêu binh, lưu manh hóa, bất tuân thượng lệnh khó lòng chữa trị được trong
lực lượng vũ trang - công cụ thực hiện bạo lực của triều đình… (Nội chiến cũng
thường xuất phát từ đây và được gọi là chiến tranh huynh đệ tương tàn).
Cuối cùng thì điều
đương nhiên sẽ xảy ra: bị Đại Chúng công phá dữ dội, cái triều đình đã kiệt quệ
và tan rã hoàn toàn quyền lực ấy phải sụp đổ, bại vong trong cô đơn (vì các
giai tầng thống trị mà nó đại diện đã mạnh ai nấy thoát thân hoặc lẩn trốn chờ
thời bằng đủ mọi cách, đủ mọi hình thức, kể cả đê tiện nhất, tự bao giờ rồi!).
Công cuộc đấu
tranh tự giải phóng của nhân dân đã toàn thắng!
Vị lãnh tụ kháng
chiến kia thường thì “chẳng còn con đường nào khác” và như thông lệ, lại “phải”
lên ngôi vua. Một triều đình mới được thiết lập và cái lực lượng vũ trang từng kéo
đi đánh triều đình cũ lại trở thành công cụ bạo lực của triều đình mới. Than ôi!
Triều đình đó lại đưa đất nước đi theo con đường thịnh - suy, phân tầng xã hội
và nội chiến như triều đình trước đã đi.
May phúc gặp được
ông vua hiền, bầy tôi sáng (vì dù sao thì họ cũng đã từng ở trong lòng Đại Chúng,
đã từng chiến đấu dưới ngọn cờ chính nghĩa vì Đại Chúng và được Đại Chúng tin yêu)
thì nhân dân sẽ được hưởng thái bình, thịnh vượng lâu vài ba đời. Chẳng may vị
lãnh tụ kia vừa lên ngai vàng đã nhanh chóng biến thành hôn quân, bạo chúa thì ôi
thôi, chưa kịp vượt qua cuộc lầm than vừa qua, chưa kịp phục hồi mất mát do chiến
tranh thì nhân dân đã lại rơi vào tình cảnh cơ cực, khổ đau vì sưu cao, thuế nặng,
lao dịch triền miền, can qua không dứt. Và rồi… thôi, không nói nữa!
Nhưng vì sao
sau khi đập tan triều đình cũ, Đại Chúng không xóa bỏ vĩnh viễn nhà nước, nghĩa
là xóa bỏ chế độ quân chủ chuyên chế đi để khỏi còn bị đè đầu cưỡi cổ rồi ai về
nhà nấy vui thú điền viên, chỉ phải lo làm mà hưởng “lộc trời”? Như thế có hay
hơn không? Chẳng hay hơn chút nào mà có lẽ là không thể làm thế được. Trong lịch
sử xã hội phong kiến, hình như chưa có vị lãnh tụ khởi nghĩa quần chúng nào,
sau khi giải phóng lại “dám” từ bỏ quyền lực mà mình đang nắm giữ để rồi tuyên
bố giải tán tất cả. Cũng có những vị lãnh tụ, “xong việc” rồi thì tự nguyện rút
lui, nhưng đó là trường hợp sau khi đã “gửi gắm” quyền lực lại cho máu ruột mình,
hoặc giả đã yên tâm với những kẻ tâm phúc ở lại nắm chính quyền. Sự xuất hiện
nhà nước là kết quả của quá trình chủ động thích nghi, là do yêu cầu sống còn của
một cộng đồng xã hội người đầy nhân tính đòi hỏi. Con người duy ý chí mù quáng
có thể “điên lên” mà xóa bỏ nó, nhưng rồi chẳng mấy chốc sẽ không thể chịu đựng
nổi tình trạng “vô chính phủ”, sẽ lại phải rước nó về, dựng nó lên. Thời đó, một
đất nước không có nhà nước, sẽ trở nên yếu xìu và chỉ tổ làm mồi ngon cho ngoại
xâm xơi tái.
Đã không thể loại
bỏ nhà nước thì có thể loại bỏ kẻ độc đoán, chuyên quyền, đứng trên pháp luật là
ông vua, chỉ giữ lại triều đình thôi có được không? Gay go đấy! Tập thể lãnh đạo;
nghe sao mà bùi tai và thấy cũng “dân chủ” nữa, nhưng hơi “lập dị”, vừa thiếu vừa
thừa. Đã là một nhà nước thì phải mang tính tập thể lãnh đạo rồi. Nhưng một tập
thể gồm những thành viên ngang hàng với đa chiều nhận thức và đa dạng tính khí
thì cũng như một cộng đồng xã hội thu nhỏ, cũng có những vấn nạn vốn có không tự
giải quyết được, và như vậy tập thể lãnh đạo đó cũng cần đến một “nhà nước” cho
nó mà vì là xã hội thu nhỏ nên “nhà nước” cũng thu nhỏ thành một đầu lĩnh, một
thủ lĩnh chỉ huy. Rốt cục thì phải có một ông vua và nếu ông vua đó nhỏ tuổi quá
thì phải kèm thêm một nhiếp chính (thường là mẹ của vua). Ở góc độ khác, bản chất
của quyền lực là phân tán trên cơ sở tập trung. Quyền lực phải phân nhánh để
lan tỏa khắp phạm vi mà nó “nắm giữ”; phải phân cấp để phối hợp hành động nhịp
nhàng giữa các nhánh, điều động, tăng cường sức mạnh đến những nơi cần thiết, xung
yếu. Sự phân cấp tất nhiên phải dẫn đến tập trung quyền lực vào một ý chí duy
nhất để đảm bảo và phát huy được sức mạnh vốn có của nó. Ý chí duy nhất ấy phải
có tính cá nhân, có lực trước các biến cố, và đó là ông vua (tổng thống, chủ tịch
nước, thủ tướng… ở thời hiện đại). Không thể hình dung được một tập thể lãnh đạo
không có chỉ huy và các thành viên trong đó có địa vị ngang nhau trong việc sử
dụng cùng một quyền lực. Ngay trong một gia đình cũng không thể có hiện tượng
hai vợ chồng cùng lúc sở hữu và thi triển chung một quyền lực. Chỉ có thể hoặc
vợ hoặc chồng nắm quyền lực gia đình (và đôi khi cũng bị “đảo chính” như chơi!),
hoặc hai người thay phiên nhau nắm một cách vô thức, một cách tự nguyện nhường
nhịn nhau, hết người này thì đến người kia “tiền hô hậu ủng” để bảo toàn hạnh
phúc.
Sau khi đã nói
năng lủng củng, lỉnh kỉnh đến kinh hồn bạt vía, chúng ta kết luận rằng thời đại
phong kiến (lan sang cả thời cận đại và liên lụy đến tận ngày nay) là thời đại
mà đối với một quốc gia là nội chiến cốt nhục, huynh đệ tương tàn, đối với thế
giới là cuộc chiến tranh xâm lược, chinh phục, chém giết không thương tiếc lẫn
nhau. Nếu là họa sĩ, chúng ta sẽ vẽ một bức tranh để tả lại “phong cảnh” của thời
đại đó bằng ba màu: đỏ lòm, trắng phếu và vàng chóe. Vàng chóe dùng để thể hiện
những lâu đài, cung điện, lăng tẩm đồ sộ và cực kỳ nguy nga tráng lệ. Trắng phếu
dùng để thể hiện núi non, cây cối, rừng rú. Đỏ lòm dùng để thể hiện ao, hồ, sông,
suối và đại dương. Rồi chúng ta sẽ đặt tên cho bức tranh đó là: DI TÍCH CỦA NHỮNG
OAN HỒN.
***
Tiếp thu được
những nhận thức bước đầu về tự nhiên từ thời cổ xưa hơn của phương Đông huyền bí,
nhưng không theo hướng của triết học Ấn Độ cổ đại và Trung Hoa cổ đại là đi vào
“thân phận” con người để “mổ xẻ” tâm linh rồi từ đó suy ra thế giới, triết học
Hi Lạp cổ đại hướng tập trung chủ yếu sự chú ý ra “bên ngoài”, soi mói “khách
thể” để cố gắng mô tả hình dáng, cấu trúc của Vũ Trụ. Có lẽ vì thế mà Hi Lạp cổ
đại với những đứa con kiệt xuất của nó, đã trở thành quê hương trù phú của nền
triết học kiểu kinh viện và khoa học thực chứng Châu Âu. Vượt qua Đêm trường
trung cổ, khoa học thực chứng châu Âu đã phát triển như vũ bão thành khổng lồ và
phân nhánh thành nhiều ngành khoa học tự nhiên khác nhau mà mỗi ngành lại phân
ra thành nhiều bộ phận, nhiều hướng nghiên cứu riêng biệt.
Trên cơ sở phát
triển vũ bão của khoa học mà nền công nghiệp tập trung qui mô lớn đã sớm ra đời
ở châu Âu, thúc đẩy trình độ sản xuất hàng hóa lên đến mức cao chưa từng thấy
trước đó. Một xã hội với nền sản xuất công nghiệp hóa, tập trung qui mô lớn, lấy
cạnh tranh làm lẽ sống còn, được đặt tên là “Xã hội Tư bản” xuất hiện.
Từ rất xa xưa,
tại khu vực Cận Đông và Châu Âu, nói tương đối thôi thì hình như hình thức chiến
tranh chủ yếu là chiến tranh thôn tính lẫn nhau giữa các nước láng giềng, hay gọi
chung là chiến tranh chinh phục. Hình thức chiến tranh xâm lấn và đi chinh phục
tiếp tục nổi trội trong thời đại phong kiến ở đó.
Chiến tranh xảy
ra liên miên đặt ra đòi hỏi bức thiết về việc phải nâng cao trình độ chế tạo vũ
khí, khí cụ chiến tranh cả về số lượng lẫn chất lượng, nghĩa là không những phải
đáp ứng kịp thời trang bị cho lực lượng quân đội ngày càng đông đảo (có nguyên
nhân từ việc tăng dân số tự nhiên và qui mô mở rộng chiến tranh) mà còn phải cải
tiến, sáng chế ra các loại vũ khí ngày càng tinh xảo, đạt hiệu quả sát thương
cao trong chiến đấu. Mặt trái tác dụng của khoa học kỹ thuật và nền công nghiệp
tập trung, cơ khí hóa Châu Âu đã đáp ứng “mỹ mãn” đòi hỏi đó của “trò chơi vũ lực”
Thoát thai từ xã
hội phong kiến và kế thừa cả mặt tốt lẫn mặt xấu của cái xã hội ấy, cộng thêm với
bản chất lấy cạnh tranh làm lẽ sống còn, đồng thời đã có trong tay các loại vũ
khí tiên tiến hơn hẳn, hỏa lực mạnh, sát thương cao, đã có các phương tiện, khí
cụ phục vụ chiến tranh cho phép đưa chiến tranh đi xa hơn nhiều…, xã hội tư bản
châu Âu đã đưa hình thức chiến tranh xâm lược, chinh phục thời phong kiến của nó
lên mức bùng phát, lan tỏa khắp thế giới với mức độ ngày càng khốc liệt và do đó
mà sự chết chóc cũng không thể nào kể xiết.
Trong chiến dịch
chinh phục Ai Cập của mình, Napôlêông có lần thốt lên khinh bạc: “Châu Âu chỉ là
một cái hang chuột”. Lúc đó chắc ông ta chưa mường tượng ra được là chính ông,
bắt đầu từ chiến dịch nước Ý, là nhân vật chính mở đầu cho một thời kỳ chiến
tranh hiện đại ngày một đẫm máu, kéo dài lê thê đến tận chiến dịch Béclin trong
thế chiến lần thứ hai, làm tan nát biết bao nhiêu của cải và sinh mạng trong cái
“hang chuột” ấy. Hơn thế nữa, có thể cho rằng suốt thời kỳ trước cả lúc phát động
chiến dịch nước Ý của Napôlêông đến sau cả khi kết thúc chiến dịch Mãn Châu của
Hồng quân Liên Xô, nghĩa là suốt nửa cuối thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX, cái
“hang chuột” ấy vừa là chiến trường của chính nó vừa là lò lửa gieo rắc chiến
tranh ra khắp thế giới, nhằm chinh phục, xâm lược, nô dịch để vơ vét của cải, tài
nguyên thiên nhiên của các quốc gia khác, của các dân tộc khác. Việc gây ra chiến
tranh, đua nhau đốt phá, giết chóc, cướp bóc như thế đã là phạm tội ác chống lại
nhân loại chưa?
Đã là chiến
tranh thì phải đi liền với tàn bạo. Điều đó ai cũng biết nhưng điều trớ trêu nhất
là mức độ tàn bạo lại cũng đi liền với mức độ văn minh, nghĩa là càng tiến bộ văn
minh lại càng tàn bạo độc ác, và điều này nghiệm đúng cho đến tận ngày nay!
Chúng ta đã cố
chứng minh tính tất yếu của chiến tranh trong lịch sử loài người từ trước đến
nay, cố gắng chứng minh nội chiến là không thể tránh khỏi trong xã hội phong kiến
để cố “thông cảm” cho nó khi mà con người vẫn còn khôn ngoan trong mê muội, chưa
được sáng suốt, khi mà tình yêu thương đồng loại vẫn chưa áp đảo được lòng tham
ích kỷ vô độ lượng. Thế nhưng sự tàn bạo đến mức vô cảm của nó, những cuộc giết
chóc hàng loạt vô cùng quá trớn và mang tính hận thù do nó gây ra đối với thường
dân vô tội đã làm cho tâm hồn chúng ta không những không thể thông cảm được mà
còn căm ghét nó, hận thù nó!
Tuy nhiên, đối
với xã hội loài người của ngày hôm qua (chúng ta không bàn luận đến hôm nay và
mai sau!) thì không thể không có chiến tranh. Vì nếu chỉ có bộ phận người dùng
vũ lực để đi bóc lột và cướp đoạt những bộ phận người khác mà không có chiến
tranh thì nhân loại đi về đâu? Lùi trở lại loài động vật thiểu năng và vô tri
chăng? Rốt cuộc, phải xuất hiện một vũ lực được gọi là vũ lực của Đức Huyền Diệu
để chống lại, để tiêu diệt cái vũ lực vô đạo đức kia nhằm bảo vệ sự sống còn của
giống loài. Vậy thì, chúng ta không những thông cảm mà còn phải ủng hộ những cuộc
kháng chiến của Đại Chúng (hoặc phục vụ nguyện vọng Đại Chúng) khi họ không còn
con đường nào khác trong việc bảo vệ quyền sống cơ bản của mỗi con người, mỗi dân
tộc, mỗi quốc gia và của cả thế giới loài người. Cuộc kháng chiến đó không phải
chỉ đơn thuần là phòng thủ mà có cả tấn công tiêu diệt nên nó cũng gây ra sự tàn
bạo, chết chóc, nhưng mức độ thường là tối thiểu, không vô lối, bừa bãi, mà chỉ
trong những tình huống bắt buộc, chẳng đặng đừng mới phải ra tay triệt hạ, giết
chóc.
Nếu chúng ta đã
“tặng” cho xã hội phong kiến một bức tranh ba màu với tên gọi: “Di tích của những
oan hồn” thì cũng với ba màu ấy, chúng ta vẽ “tặng” cho xã hội tư bản ở nửa đầu
thế kỷ XX như thế nào? Chúng ta sẽ bôi màu trắng làm nền, lấy màu vàng vẽ nước
Nhật và dùng màu đỏ vẽ hai cái nấm khổng lồ mọc lên từ đó. Còn tên gọi của bức
tranh thì chúng ta đặt là: “TƯỢNG ĐÀI CỦA VĂN MINH”
Đúng là càng văn
minh thì chiến tranh càng tàn bạo và độc ác. Nếu chiến tranh thế giới lần thứ
nhất (1914 - 1918) đạt “thành tích” giết chóc là 13,6 triệu người, làm bị thương
và tàn tật là 20 triệu người, đạt “thành tích” phá hoại là 388 tỷ đôla, thì sau
đó hơn 20 năm, chiến tranh thế giới thứ hai đã nâng “thành tích” lên nhiều lần,
giết chóc được 60 triệu người, làm bị thương và tàn tật được 90 triệu người, phá
hoại được 4.000 tỷ đôla.
So sánh những
con số, chúng ta thấy chiến tranh thế giới thứ hai chỉ sau chiến tranh thế giới
thứ nhất có hơn 20 năm thôi mà “kỹ nghệ giết chóc” do văn minh đem lại đã tăng
tiến vượt bậc đến cỡ nào. Cũng chỉ so sánh trên các con số thôi, không một ai
không đồng ý rằng chiến tranh thế giới thứ hai có qui mô lớn nhất, nhiều nước
tham gia nhất, xảy ra ác liệt nhất với những trận đánh kinh hoàng nhất, thường
dân chết nhiều nhất, gây tan hoang nhất trong lịch sử loài người. Nhưng không
chỉ có thế thôi. Trên thực tế, trong chiến tranh thế giới lần thứ hai còn xuất
hiện những hiện tượng giết thường dân vô tội một cách điên cuồng có hệ thống, có
chủ đích, không vì bất cứ sự đòi hỏi nào của yêu cầu quân sự và số thường dân
chết vì nguyên nhân đó là vô cùng nhiều. Do đó, phải nói thêm rằng chiến tranh
thế giới lần thứ hai mang tội ác chống nhân loại ngút trời nhất, gây đau thương
cho nhân loại nhiều nhất và có nhiều hiện tượng điên rồ nhất, khó hiểu nhất về
hành vi con người trong suốt chiều dài của lịch sử loài người từ thuở mới lò dò
bước đi đến thời đại “đủ lông đủ cánh” bay ngang dọc bầu trời.
Trong chiến
tranh thế giới thứ hai có rất nhiều cuộc tàn sát dân lành ở qui mô diệt chủng
không thể gọi bằng cái tên nào khác phù hợp hơn cái tên: TỘI ÁC THUẦN TÚY NHÂN
TÍNH. Chúng ta liệt kê một số gọi là “vĩ đại” nhất:
-
Cuộc tàn sát nhân dân Liên Xô của Phát xít Đức.
-
Cuộc tàn sát nhân dân Ba Lan của Phát xít Đức.
-
Cuộc tàn sát có tính diệt chủng dân tộc Do Thái
của Phát xít Đức.
-
Cuộc tàn sát nhân dân Trung Quốc của phát xít Nhật.
-
Cuộc làm chết đói nhân dân Việt Nam của
Phát xít Nhật.
-
Cuộc tàn sát nhân dân Nhật của Đế quốc Mỹ.
…
Trong những cuộc
tàn sát, bức tử “vĩ đại” đó, chúng ta thấy chúng chẳng mang lại một ý nghĩa quân
sự nào cả, chẳng có lợi gì cho chiến tranh cả. Giả sử cứ cố mà cho rằng có đi
chăng nữa thì cũng không đáng kể chút nào.
Chúng ta đã
“tuyên bố hùng hồn” rằng mọi cuộc chiến tranh đều phải có mục đích danh lợi. Vậy
thì các cuộc tàn sát đó là vì danh lợi gì? Hay là chẳng có cuộc tàn sát nào cả
và chúng ta chỉ bịa chuyện? Không, đó là sự thực, đã được “tạo dựng” rồi, cũng đã
được ghi tạc đậm nét trong lịch sử và di tích (và cả di chứng!) còn lưu truyền đến
ngày nay cơ mà!
Đã là kết quả thì
phải có nguyên nhân, đã là cuộc tạo dựng thì phải có lý do. Chính xác là phải
như thế! Nhưng là những lý do gì? Trước hết, vì những cuộc tàn sát đó cũng phải
tốn công tốn của, cũng phải hao mòn súng đạn mà chẳng gặt hái được thành quả quân
sự đáng kể nào cả, nên những lý do của chúng phải là tột độ bất chính và tột cùng
bất minh. Nhận định đó gợi ý cho chúng ta “tìm đến” tâm thần của những kẻ ra mệnh
lệnh, vì chỉ có ở não trạng của những kẻ đó mới có thể thấy được cái động lực
thúc đẩy ý chí ra mệnh lệnh quái gở, tàn sát hàng khối người một cách tưởng chừng
như hoàn toàn vô cớ.
Chính Hitle, thông
qua nhà nước phát xít Đức, đã bị hắn làm cho phục tùng tuyệt đối và trở nên mù
quáng (mà chỉ có thể giải thích được trên cơ sở tâm linh), đã ra tay tàn sát nhân
dân Liên Xô chỉ vì thâm thù quái đản đất nước Cộng Sản; tàn sát nhân dân Ba Lan
chỉ vì thù kẻ đã ngoan cường bất phục quân đội Đức, đập vào cái mồm hợm hĩnh của
hắn; tàn sát diệt chủng một cách có hệ thống dân tộc Do Thái chỉ vì sự điên rồ,
hoang tưởng bệnh hoạn về quyền được tồn tại duy nhất của dân tộc Đức “thượng đẳng”
(trong khi bản thân hắn vẫn còn phần máu của người Do Thái; thế mới quái quỉ!).
Nếu Hitle là một
kẻ yếu đuối, bệnh hoạn (hiểu theo nghĩa thông thường) thì không có cách nào đứng
đầu nhà nước Quốc Xã với nhiều đầu sỏ thông minh và thực sự có năng lực như thế
được và nếu chỉ có một mình thôi thì Hitle cũng không thể thực hiện được những
cuộc chém giết khổng lồ như thế. Nghe đâu Hitle đã từng tham chiến trong chiến
tranh thứ nhất và đã bị thương, mất tinh hoàn. Có thể qua cú sốc này, trong con
người Hitle đã có sự biến đổi đột biến về tâm sinh lý? Não bộ của hắn đã bị kích
hoạt lên trạng thái hoạt động tinh thần đặc biệt mãnh liệt và thiên hẳn về phía
“quỉ ám” của nhân tính. Sự hoạt động mãnh liệt của bộ não đó đã bức xạ ra những
xung điện sinh học đủ mạnh có tác dụng làm tê liệt sự phản kháng về tinh thần,
tác dụng ru ngủ, phủ dụ, tạo đức tin tương tự như thôi miên… đối với những bộ não
xung quanh, thậm chí là ở khoảng cách khá xa (thường những người có tài hùng biện,
những người được công nhận là lãnh tụ lớn trong những thời kỳ “nước sôi lửa bỏng”
đều ít nhiều có khả năng này). Bên cạnh đó là sự tuyên truyền nhồi sọ, trạng thái
bị kích thích của xã hội trong không khí chiến tranh cùng với hiện tượng chết
chóc thường xuyên và đủ kiểu do thời buổi chiến tranh gây ra đã làm cho nhân tính
con người “nghiêng dần” sang sự coi mạng người chẳng ra gì, chai lỳ và vô cảm
trước cái chết của kẻ “xa lạ”; thích bắn giết để “trả thù”, thậm chí là chỉ để
tiêu khiển! Chỉ có như thế mới hiểu vì sao mà cả một bộ phận lớn những con người
được cho là tài năng, ưu tú răm rắp đi theo kẻ loạn trí và huy động cả dân tộc
lên đường thực hiện một cuộc giết chóc dân thường man rợ và khủng khiếp nhất lịch
sử nhân loại.
Cuộc tàn sát
nhân dân Trung Quốc của phát xít Nhật thì có phần dễ hiểu hơn và có thể “đổ
thừa” cho phong trào đấu tranh chống xâm lược của nhân dân Trung Quốc cũng
chẳng ai thèm nói gì. Nhưng tội ác thì bản thân nó không thể tự biện minh được
và cũng được lợi hại gì mà phải biện minh!
Đối với cuộc
bức tử, làm chết đói trên dưới 2 triệu dân thường (nhiều nhà khá giả, có của cũng
chết vì đói!) Việt Nam
vào năm 1945 của phát xít Nhật thì cũng tương tự. Trên đất nước Việt Nam, trong
suốt quá trình lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt, đã biết bao nhiêu
phen đói khát và chết vì đói khát xảy ra, nhưng chưa có lần nào mà cái đói,
trong một thời gian ngắn ngủi (chừng một năm) lại gây chết chóc nhiều đến thế.
Có thể đổ vấy tất cả cho thiên tai, hạn hán, mất mùa không khi mà đất nước này
là một xứ sở nhiệt đới gió mùa, khi mà lương thực có thể huy động được từ vựa lúa
Nam Kỳ để cứu trợ cho Bắc Kỳ; khi cái chết do đói là kết quả của một quá trình
thiếu ăn xảy ra từ từ trong thời gian chứ không phải do những thiên tai tương đối
đột ngột như động đất, sóng thần, núi lửa, thiên thạch rơi…? Tại sao phát xít
Nhật lại bắt dân Việt nhổ lúa (cây lương thực tạo nên miếng ăn chủ yếu, có tính
nền tảng của họ), để trồng đay, một loài cây phi lương thực đóng vai trò như là
một nguyên liệu của sản xuất công nghiệp? Tại sao trong khi nạn đói xảy ra thì
các kho thóc của phát xít Nhật do cướp đoạt, vơ vét được từ những người nông dân
Việt, vẫn đầy ắp, và thậm chí là còn đem thóc đốt thay than để chạy máy? Cướp bóc,
vơ vét hết lương thực của một dân tộc để phục vụ cho cuộc chiến tranh xâm lược của mình, như thế phát xít Nhật có
phạm vào tội ác diệt chủng?
Cho đến tận ngày
nay, nhiều người vẫn còn mơ hồ, tranh cãi nhau về động cơ gây chiến tranh của Napôlêông.
Chúng ta thấy rằng nếu không có Napôlêông thì vì chiến tranh đã xảy ra nên vẫn
tiếp tục xảy ra, tuy diện mạo và mức độ có thể khác, “dịu” hơn. Cái tất yếu của
thời cuộc đó phải là như thế. Có điều, Napôlêông đã kích hoạt chiến tranh lên tầm
qui mô cao nhất cả về phạm vi lẫn sự khốc liệt. Nhưng sự xuất hiện của Napôlêông
là một sự tình cờ “thú vị” hay là định mệnh của nước Pháp và của cả Châu Âu? Chúng
ta cho là cả hai. Sự hội ngộ giữa nhân vật Napôlêông và đương thời là kết quả của
những cuộc đến đi, gặp gỡ vừa là do sự dun dủi của số phận vừa đồng thời là do ý
chí của Napôlêông, một tài năng chiến tranh bẩm sinh, vượt trội biết bao nhiêu
so với những nhân vật chiến tranh khác. Hơn nữa sự ra đời của Napôlêông có thể
là sự ngẫu nhiên về mặt thể xác nhưng về mặt tinh thần thì phải cho rằng là kết
quả của sự hun đúc tâm linh của những thời cuộc liên miên chiến tranh trước đó,
thậm chí là từ hàng mấy thế kỷ (nhờ có bàn tay “thò ra” ở tầng rất sâu, có tính
nền tảng của “bà đỡ” có tên gọi là Chủ Động Thích Nghi!?)
Từ đó, chúng ta
thấy Napôlêông gây chiến tranh vì đã “lỡ” ngồi lên lưng ngựa và đã rút gươm ra
khỏi vỏ trước những kẻ đã ngồi trên lưng ngựa cũng đã lăm lăm tay gươm. Nhưng
trước hết và trên hết, Napôlêông gây chiến tranh vì muốn thỏa mãn nỗi đam mê
“trò chơi” chém giết bằng vũ lực của cá nhân ông ta một cách hoàn toàn vị kỷ.
Cuộc tàn sát nhân
dân Tây Ban Nha của Napôlêông là hiểu được dễ dàng. Đó là do tinh thần đấu
tranh bất khuất vô song của nhân dân Tây ban Nha chống lại kẻ xâm lược Pháp; do
yêu cầu đòi hỏi về mặt chiến lược của cuộc chiến tranh giữa Napôlêông và toàn
châu Âu phong kiến.
Dù sao thì hành
động tàn sát ấy cũng vẫn cứ là tội ác. Cái sai của nó là không thể biện minh được.
Cái sai ghê gớm
của sự tàn sát và bức tử hàng loạt dân thường do phát xít Đức và phát xít Nhật gây
ra là không bao giờ có thể phủ nhận được. Tuy rằng cũng có thể cố gắng mà hiểu được
khi phe phát xít đã là đại diện cho những gì gọi là tồi tệ nhất thuộc về mặt trái
suy đồi của nhân tính.
Nhưng chúng ta
sẽ không bao giờ hiểu được sự tàn sát nhân dân Nhật Bản của Đế quốc Mỹ nếu cho
rằng trong chính phủ Mỹ lúc đó đầy những điều tốt đẹp của mặt phải nhân tính vì
rằng nước Mỹ đang ở trong phe Đồng Minh, chống phát xít, đang là bộ phận của lực
lượng đại diện cho Đức Huyền Diệu.
Sự tàn sát thường
dân Nhật một cách có chủ đích của Mỹ xảy ra vào giai đoạn cuối cùng của cuộc
chiến tranh thế giới lần thứ hai, khi mà phe Trục đã tan tác, khi mà phát xít Ý
và phát xít Đức đang giãy chết, còn phát xít Nhật thì đã hoàn toàn bị bao vây,
bị dồn đến sát chân tường và đang trên đà suy yếu trầm trọng không thể khắc phục
được. Nhất là khi Hồng quân Liên Xô đã mở chiến dịch Mãn Châu thì số phận phát
xít Nhật coi như đã được định đoạt: hoàn toàn tuyệt vọng chờ phe Đồng Minh xóa
sổ.
Một trong những
cuộc tàn sát man rợ nhất, gây nên cái chết đau đớn nhất là trận máy bay Mỹ dội
bom cháy (bom napan) xuống thủ đô Tôkiô của Nhật vào giữa đêm mồng 9 rạng ngày
mồng 10 tháng 3 năm 1945. Xét ở góc độ hoàn cảnh xảy ra sự kiện và việc gây ra
quá nhiều cái chết quằn quại, đau đớn thì cuộc tàn sát đó hơn cả tội ác của
Anh - Mỹ ở Đrexđen và Hămbuốc.
Báo chí Anh và
Pháp gọi đó là chiến dịch “đánh vào khu cầu nguyện”. Bởi vì cuộc tàn sát đó không
nhắm vào bất cứ mục tiêu quân sự nào. Không một căn cứ quân sự, kho tàng, doanh
trại hay sân bay nào bị đánh. Khu vực mà Mỹ thả bom oanh tạc là vùng đông dân cư,
khu buôn bán và là nơi tập trung nhiều đền chùa. Nhà cửa ở đó, do thường có động
đất nên hầu như đều làm từ gỗ, ván ép, lợp lá cho nhẹ.
Sử gia Mỹ, Sanz
Bâytxơn, sau chiến tranh đã nhận xét: “Tối man rợ! Một sự hủy diệt lớn hơn bất
cứ đâu dù là châu Âu hay ở Thái Bình Dương, đã có trước và sau đó. Nó xóa sạch
mọi thứ. Một “dàn thiêu khổng lồ” chỉ có bom hạt nhân mới sánh được”.
Ngày 18-4-1944,
đại tá không quân Mỹ tên là Đu Litơn (Doo Little) cùng với cả biên đội gồm 3
chiếc B25 (Mitchell) đã lọt vào được Tôkiô, ném một loạt bom tượng trưng. Ngày
24-11-1944, 10 máy bay B29 bay từ Saipan đến Tôkiô không có máy bay hộ tống, ở độ
cao 10.000 mét, vượt chặng đường đi và về tổng cộng là 5.560 km, không ném bom
và cũng không bị công kích. Những cuộc thăm dò đó cho người Mỹ thấy Tôkiô không
còn là “đất thánh” bất khả xâm phạm nữa.
B29 là loại máy
bay chiến đấu có 4 động cơ cánh quạt, nặng 65 tấn (kể cả 6 tấn bom), bay cao 10
km, tốc độ bay là 600 km/h, trang bị vũ
khí gồm 1 pháo 20 ly, 12 trọng liên 12,7 ly trên các tháp súng bố trí ở trước,
sau và cả hai bên sườn. Thời đó chưa có tên lửa đất đối không cũng như tên lửa
không đối không nên người Mỹ cho rằng đó là loại máy bay không có đối thủ, đặt
tên là “Pháo đài bay siêu hạng” (Super flying fortress) và xem như thần tượng về
sức mạnh vô địch của không lực Mỹ thời bấy giờ.
Ngày 19-1-1945,
thiếu tướng không quân Mỹ tên là Curtiss Le May, còn có xú danh là “tướng dịch
hạch”, thay tướng Hensơ (Hansell) chỉ huy tập đoàn không quân số 21 ở Thái Bình
Dương.
Ngày 25-2-1945,
tướng Le May cho 172 chiếc B29 đánh vào 4 kho chứa magnêsium và chất cháy khác ở
ngoại ô Tôkiô, gây ra đám cháy có diện tích 2km vuông. Qua trận này, Le May rút
ra kết luận: dùng B29 bay đêm, bay thấp, bất ngờ thả bom cháy xuống khu đông dân
ở phần đông - bắc Tôkiô, nơi tập trung dân lao động, người nghèo, nhà cửa toàn
làm bằng vật liệu dễ cháy nằm san sát nhau để đạt được hiệu quả tiêu diệt cao, đánh
một đòn tâm lý chiến mạnh mẽ về sức mạnh không tưởng của không lực Mỹ, tạo ra một
sự “nhắc nhở sấm sét” đối với chính phủ Nhật. Từ đó Le May, một viên tướng không
quân nhiều kinh nghiệm, ưa mạo hiểm, gan lỳ, tàn bạo, muốn chơi trội, đã đề ra
phương án, lập kế hoạch trận đánh và sau khi được chấp nhận thì cũng là người
trực tiếp chỉ huy trận đánh.
Lệnh xuất kích được
Le May đưa ra vào lúc 17 giờ 55 phút tại Sở chỉ huy ở Meriơn (Marianes). Lực lượng
tham gia chiến dịch gồm 334 chiếc B29, tuần tự xuất phát từ các căn cứ Saipan,
Guam, Tinian. Mỗi chiếc máy bay này đều tháo bỏ
hết pháo và trọng liên, rút gọn kíp bay từ 12 người xuống còn 5 hoặc 6 người để
mang được nhiều bom. Không mang bom nổ, chỉ mang toàn bom cháy gồm 180 thùng chứa
napan loại M47-A2, M69, rất dễ cháy trong mọi thời tiết.
Một trong những
sự nham hiểm nhất của đòn đánh này là cố ý chọn đúng thời điểm mà theo tín ngưỡng
cổ truyền, người dân Nhật đang tập trung làm lễ cầu nguyện ở các đền chùa hoặc ở
từng khu vực cộng đồng.
Nửa đêm, thành
phố Tôkiô vẫn còn đông người như thường lệ, đèn phố vẫn sáng rực. Đến 00 giờ 15
phút thì mọi người bắt đầu nghe thấy tiếng ầm ì vọng tới, sau đó là tiếng gầm,
rú, rít của nhiều máy bay bay tầm thấp. Còi báo động chưa kịp hú lên thì những
khối lửa từ lưng chừng trời đã bùng lên từng đợt, ụp xuống bốc cháy dữ dội. Gặp
gió, lửa lan rộng rất nhanh làm sáng rực cả Tôkiô. Một vành đai lửa bỗng chốc
khép kín cả khu vực đông dân cư. Người trong đó được xem như không một ai thoát
nạn. Tai nạn ập đến quá bất ngờ, nặng nề và vô cùng bi thảm. Mọi người đều bàng
hoàng, rụng rời, gào thét thảm thiết. Họ xô chạy tán loạn, hết phía này đến phía
khác nhưng đâu đâu cũng dày đặc lửa. Nhiều người chết đau đớn sau cơn phỏng nặng;
người nọ ôm choàng lấy người kia như hóa rồ hóa dại đến tột cùng; từng mảng da đầu,
chân, tay, thân thể phồng rộp lên, lột ra từng mảng để lộ những khối thịt tươi đỏ
lòm máu hoặc đã bị nướng chín. Nhiều người chạy như một cây đuốc sống rồi gục
xuống cháy thành than. Một giàn thiêu thực sự khổng lồ đã quây cháy liên tục
trong mấy tiếng đồng hồ liền đã thiêu tàn tất cả. Hàng vạn xác người đen đúa,
co quắp ở khắp nơi làm xông lên mùi da thịt cháy nồng nặc, ghê rợn.
Trong nhiều cái
chết thì chết cháy do bom napan là thuộc loại những cái chết đau đớn nhất, quằn
quại nhất. Trong trận bom cháy đêm mồng 9 rạng ngày 10-3-1945, mọi chữa cháy giữa
cơn bão lửa đều vô hiệu. Nhiều người trong đó mong thoát nạn khi chạy trốn vào
các khu phố ở Fukagawa và các trường học kiên cố ở Honjo. Ngót 15.000 người ở các
nơi đó tưởng rằng đã có thể sống sót. Nhưng không, lửa như những cái lưỡi khổng
lồ, theo các vệt xăng đặc, crếp napan… chảy lan, thè lè dài ra, nhanh chóng liếm
láp hết cả. Nhà sập, kính cửa vỡ thành những mảnh sắc rơi xuống. Cái chết ập xuống
trong nỗi tuyệt vọng biết trước: chết cháy, chết nướng, chết luộc, chết ngạt,
chết đè, chết vùi, chết trong nhà, chết ngoài đường phố, chết trong chùa chiền,
thánh thất, chết dưới hầm, chết đuối dưới sông Arakawa.
Theo thống kê
thì “chiến tích” của “tướng dịch hạch” sau trận không tặc này là:
-
20% diện tích Tôkiô thời đó, tức 26 km2
bị thiêu rụi thành tro tàn.
-
83.793 người chết và mất tích.
-
40.918 bị thương.
-
1.008.005 người mất nhà ở.
-
267.171 công trình bị thiêu rụi.
Chưa hết, chưa đầy
một tháng sau, chính xác là ngày 13-4-1945, 327 chiếc B29 lại một lần nữa tàn
phá Tôkiô tại khu vực Tây bắc, thiêu tàn thêm một diện tích là 18 km2
nữa. Tổng cộng lại, theo ước tính của nhà sử học Pháp là Rôbe Ghilanhm, tác giả
cuốn “Tôi thấy Tôkiô bốc cháy”, thì số
thương vong là 300.000 người, trong đó chết ngay đợt đầu là 120.000 người do phỏng
quá nặng, không thể cứu chữa được do vết phỏng ăn sâu của napan.
“Thành công” của
những cuộc tàn sát này đã được không quân Mỹ “thích thú” áp dụng ở Nagoia,
Kobe, Oasaka, Yokohama… và có đến 66 thành phố Nhật Bản bị thiêu cháy từ 5 đến
20 km2 diện tích mỗi nơi.
Đối với Lầu Năm
Góc thì đó là “thành công xuất sắc” của tướng không quân Le May. Nhưng đối với
dân tộc Nhật và cả với loài người có lương tri, thì đó là tội ác tột cùng man rợ,
là sự ô nhục của “tướng dịch hạch” nói riêng và của quân lực Mỹ nói chung.
Sau chiến
tranh, chẳng có mống nào thuộc phe Đồng Minh nhất là của Mỹ, phạm tội ác mà bị đưa
ra xét xử, và đó chính là sự xúc phạm ghê gớm đến Đức Huyền Diệu.
Trong Chiến
tranh thế giới thứ hai, tàn sát dân thường bằng bom cháy ở Tôkiô là tội ác tột
cùng về sự man rợ nhưng chưa phải là tội ác tột cùng về sự hủy diệt sự sống. Tột cùng về
sự hủy diệt phải là sự kiện Mỹ thả hai quả bom nguyên tử xuống hai thành phố của
Nhật là Hirôsima (vào ngày 6-8-1945, làm chết 247 ngàn người vô tội, chưa kể những
người nhiễm xạ chết sau này) và Nagadaki (vào ngày 9-8-1945, làm chết 200 ngàn
người vô tội, chưa kể những người nhiễm xạ chết sau này).
Việc chế tạo ra
vũ khí hạt nhân, phải chăng là đỉnh cao của văn minh đồng thời là trũng thấp của
hoang dại, phải chăng là loài người đã đạt đến sự cao vời của trí khôn mà cũng đạt
đến thấp tận cùng của ngu si, phải chăng là sự biểu hiện rõ ràng không thể chối
cãi được về hiện tượng càng có lý trí thì lại càng mù quáng, càng duy ý chí
trong cõi vô minh?
Trong “Nam Hoa
Kinh”, Trang Tử có kể câu chuyện Tử Lộ gặp ông lão làm vườn. Khi Tử Lộ hỏi ông
lão sao không dùng cái máy múc nước (cái cần vọt) để tưới cho nhanh và đỡ mệt,
thì ông này bảo: “Lão nghe thầy lão nói rằng hễ dùng cơ giới thì tất có cơ sự,
có cơ sự thì tất có cơ tâm, có cơ tâm thì không còn là thiên tính trong trắng nữa
mà tâm thần không yên ổn, tâm thần không yên ổn thì Đạo sẽ lánh xa, không che
chở mình nữa, lão không phải không biết cái lợi của cơ giới, nhưng cho rằng dùng
nó là nhục, thế thôi!”
Tại sao ông lão
làm vườn lại cho việc sử dụng máy móc là nhục? Ngày nay, đọc câu chuyện đó ai mà
không thấy ông lão có vẻ quá quắt, lẩm cẩm. Nhưng nếu bỏ “cái nhìn trực giác” đi
thì chúng ta sẽ thấy câu chuyện ấy mang một nội dung tư tưởng rất lớn, rất sâu,
rất tài tình của triết học Hoàng - Lão.
Khi trong tâm
trí con người xuất hiện ý niệm về danh lợi thì cũng chính là sự thèm khát giản đơn
có chừng mực của thú tính đã chuyển hóa thành sự thèm khát sâu sắc, vô độ của
nhân tính. Đã là sự thèm khát và trong xã hội, người nào cũng dung túng sự thèm
khát ấy nên phải có sự tranh giành. Đã là sự tranh giành có lý trí thì phải dùng
trí xảo, thủ đoạn, mưu mô và hình thức cực đoan là dùng vũ lực (một cách có quyền
mưu). Quá trình đấu tranh sinh tồn và tích cực thích nghi ở loài người đã làm
xuất hiện xã hội, xuất hiện sản xuất hàng hóa cùng với trình độ tiêu dùng ngày
một nâng cao, xuất hiện phân hóa giàu nghèo. Lúc này, ngoài những cái gọi là “lợi”
có thể gặt hái được trực tiếp từ thiên nhiên, còn có những cái “lợi” tạm gọi là
do nhân tạo, thông qua bàn tay cải tạo, chế biến của con người mới có (chẳng hạn
như đồ dùng bằng gốm, bằng đá, bằng gỗ…). Sự cạnh tranh trong xã hội làm xuất
hiện ý niệm về “lực” và “thế”. Mức độ khác nhau của “thế” và “lực” sẽ tạo nên ý
niệm về “danh” và “quyền”. Muốn tranh đoạt nhiều “lợi” thì phải có chức vụ cao
(nghĩa là danh cao) vì danh là sự thừa nhận của xã hội theo qui ước về sự nổi
trội nào đó của một người trong xã hội (về học vấn, tài năng, đức độ, sức mạnh…)
và nói chung danh cũng gắn liền với quyền hạn (danh phận chẳng ra gì thì quyền
hạn cũng không có) và thế lực. Vậy muốn tranh đoạt danh lợi thì trước hết phải
phấn đấu đua tranh để giành quyền lực bằng ý chí giữa đồng loại với nhau, và một
khi loài người còn chưa tỉnh ngộ thì để đạt được ước mơ danh lợi, con người sẽ
phải phát huy mọi khả năng, áp dụng đủ mọi cách cao thượng cũng như đê hèn, lành
mạnh cũng như xấu xa, chính đáng và cả bất chính. Quá trình đó làm xuất hiện thị
phi xã hội về nhân tính, trong đó có ý niệm về “vinh” và “nhục”. Có thể nói
vinh - nhục gắn liền với cách thức tiến hành tranh đoạt danh lợi. Khi nỗi thèm
khát danh lợi một cách nhân tính đã túc trực trong tâm khảm con người rồi thì lòng
người trở nên sôi động, đâu còn hồn nhiên, thuần phác nữa, trong đó đã vọng động,
manh nha vinh - nhục mất rồi.
Có lẽ với quan
niệm đại loại như thế mà 2.500 năm trước, Lão Tử đã viết trong “Đạo Đức Kinh”:
“Người đời được vinh hay bị nhục thì lòng đều sinh ra rối loạn, sợ vạ lớn thì
sinh ra rối loạn. Tại sao vinh, nhục sinh ra rối loạn? Là vì vinh thì được tôn,
nhục thì bị hèn; được thì lòng (mừng rỡ mà) rối loạn, mất thì lòng (rầu rĩ mà)
rối loạn; cho nên bảo là vinh - nhục sinh ra rối loạn? Tại sao sợ vạ lớn lại
sinh ra rối loạn? Chúng ta sở dĩ sợ vạ lớn là vì ta có cái thân (thèm danh lợi).
Nếu ta không có thân (quên mình có thân đi, cũng nghĩa là quên danh lợi đi) thì
còn sợ gì tai vạ nữa…”.
Như thế, theo Lão
Tử thì được vinh hay bị nhục đều chẳng hay ho gì, hơn nữa vinh - nhục đều là kết
quả của trí xảo, tranh thắng nên không những đã không hay ho mà chỉ có hại, đều
là nhục mà thôi và Lão Tử khuyên: “… ngoài thì biểu hiện sự mộc mạc, trong thì
giữ sự chất phác, giảm tư tâm, bớt dục vọng”. Thật chí lý mà cũng thật là khó
thực hiện!
Ông lão làm vườn
cho rằng “xài” máy móc là làm cho lòng tham lợi và như vậy là nhục, là trái lời
dạy Lão Tử và do đó nên biết là lợi nhưng vẫn “quyết” không “xài”. Kể ra như thế
là quá khắt khe! Thưa ông lão làm vườn đáng kính, nếu không chịu xài máy móc thì
loài người sẽ đi về đâu và cuộc sống ngày nay có an bình hơn không?
Chắc rằng ý Lão
Tử không đến mức cực đoan như thế vì ông cũng có nói: “Họa không gì lớn bằng không
biết thế nào là đủ, hại không gì bằng tham muốn cho được nhiều. Cho nên biết thế
nào là đủ và thỏa mãn về cái đủ đó thì mới luôn luôn thấy đủ”.
Tuy nhiên,
trong tình trạng còn vô minh thì không nhiều người biết được “thế nào là đủ”. Đó
mới chính là vấn nạn!
Tính tích cực
trong đấu tranh sinh tồn đã thôi thúc loài người tìm đến với công cụ hỗ trợ mà
một bộ phận của nó là vũ khí chuyên dùng để giết chóc. Cũng chính tính tích cực
ấy cũng thúc đẩy con người tìm hiểu thiên nhiên ngày một sâu sắc hơn, học hỏi
thiên nhiên ngày một chính xác hơn, sáng tạo ra những công cụ ngày càng tinh xảo
hơn, hiệu quả hơn trên bước đường đi chinh phục thiên nhiên và cả chinh phục chính
đồng loại của nó. Triết học cũng như khoa học - kỹ thuật ra đời và phát triển
trên cơ sở đó là một tất yếu.
Triết học hay
khoa học - kỹ thuật đều bắt nguồn từ yêu cầu của cuộc sống, từ thực tiễn sinh động
của cuộc mưu sinh. Lúc đầu có thể là kỹ thuật chế tác công cụ giản đơn, sau đó
là những phát kiến khoa học sơ khai như số đếm, đoán biết thời tiết, nắng mưa…
rồi đến giải thích những hiện tượng trực quan xung quanh bằng cái gọi là “triết
học thần linh”. Sự tác động trở lại, “không lường được” của thiên nhiên hoang dã
trước một bộ não tích cực tư duy không ngừng đã làm cho triết học và khoa học
(từ đó mà cả kỹ thuật) phải liên tục tiến đến phía trước. Khoa học kỹ thuật phát
triển mở ra những câu hỏi mới cho triết học trả lời và triết học phát triển sẽ
khái quát, gợi ý, định hướng cho các ý tưởng khoa học. Bắt đầu là tìm hiểu bản
chất của những sự vật - hiện tượng trong thiên nhiên gần gũi xung quanh với mục
đích trực tiếp phục vụ cuộc sống con người. Nhưng vì cái thiên nhiên nhỏ bé ấy
chỉ là bộ phận của Vũ Trụ, tuy có những tính chất chung nhất của Vũ Trụ nhưng cũng
đồng thời có những tính chất riêng, đặc thù. Do đó, muốn nhận thức đến cội rễ các
sự vật - hiện tượng trong cái thiên nhiên nhỏ hẹp đó thì trước sau gì cũng phải
đi đến việc phải nghiên cứu để nhận thức cho được toàn diện Tự Nhiên Tồn Tại, từ
xa thẳm Vũ Trụ đến sâu thẳm tâm linh con người, từ vô cùng lớn đến vô cùng nhỏ…
Mục đích của quá trình nhận thức ngày càng sâu rộng và “thoát ly thực tiễn” ấy,
dù có tạm thời khoác những cái áo như: đam mê khoa học, yêu mến sự thông thái,
thỏa chí tò mò… thì cuối cùng cũng quay về, “tham gia” vào công cuộc chinh phục,
tạo dựng vì miếng cơm manh áo, vì quyền lợi của con người.
Chúng ta đã
quen với quan niệm cho rằng khoa học - kỹ thuật ra đời đã là cứu cánh cho loài
người vượt ra khỏi thế giới hỗn mang để đến với giá trị cuộc sống ngày một nâng
cao trong một xã hội ngày càng văn minh thịnh vượng, và vào những lúc lạc quan
tếu táo nhất nhiều kẻ trong chúng ta còn cho rằng con người đã sắp sửa vượt qua
cả quyền lực của Tạo Hóa. Nghĩ ngây thơ như thế nên hiếm ai biết rằng loài người
là thuộc về Tự Nhiên mà trước hết là thuộc về thế giới sinh vật nên tiến trình
năng động, sáng tạo của nó chỉ là bộ phận của quá trình tự nhiên và không thể
không tuân theo những nguyên lý của Tự Nhiên, không thể không chấp nhận cái số
phận mà Tự Nhiên đã đặt bày cho nó. Nó tưởng là đã “qua mặt” được Tạo Hóa khi nó
tạo dựng ra được những công trình mà nó cho là vĩ đại, lạ lẫm và cao siêu. Nhưng
thực ra nó nhào nặn được những công trình ấy là do Tạo Hóa mách bảo và ra lệnh.
Bất cứ một giống loài có tư duy bậc cao nào trong Vũ Trụ bao la này đều phải hành
động theo đúng cách như thế dù có thể có chút ít khác biệt (cũng là tuân theo
nguyên tắc đặc thù).
Giờ đây chúng
ta biết rằng tất cả những phát kiến khoa học, những phát minh kỹ thuật, những sáng
chế máy móc thiết bị không phải chỉ có mặt phải cứu cánh mà còn có mặt trái gây
tai ương cho xã hội loài người nữa. Quá trình khám phá, sáng tạo đó trong khi mở
ra cho xã hội một tương lai dồi dào của cải, đủ chủng loại hàng hóa với biết
bao nhiêu hồ hởi hy vọng được sống trong no đủ, dư thừa thì cũng đồng thời kích
thích trình độ tiêu dùng tăng cao cả về số lượng lẫn chất lượng, gây nhiều lãng
phí tài nguyên thiên nhiên, tạo thêm gánh nặng lo toan cho xã hội và hơn nữa, làm
xuất hiện nhiều không kể xiết các chủng loại vũ khí, phương tiện chiến tranh ngày
càng hoàn thiện tính năng phục vụ cho qui mô chiến tranh ngày càng to lớn, vì
thế mà cũng ngày càng khốc liệt. Rốt cuộc thì cái mặt phải cứu cánh của quá trình
khám phá sáng tạo đã tự nó làm khổ nó, kích thích tiêu dùng tăng trưởng để rồi
phải chạy theo bở hơi tai để thỏa mãn tiêu dùng, trong đó có một phần bị nướng
vào chiến tranh nhằm mục đích chỉ là để giết người. Trong lịch sử thế giới, nếu
bỏ qua thời kỳ Công xã nguyên thủy và nhìn chung, bao quát toàn thể, thì loài
người chưa bao giờ biết đến giàu có, chưa bao giờ biết đến hòa bình, tính từ thời
đại Chiếm hữu nô lệ đến hết thế kỷ XX.
Không thể nói
khác được: khoa học - kỹ thuật, khi duy ý chí còn quay cuồng trong đêm trường vô
minh, khi danh lợi còn làm mờ mắt lương tri, thì nó như con thuyền đưa loài người
đến bến bờ tự do và cùng lúc cũng đưa loài người vào vòng xoáy nô lệ, cái nô lệ
do chính loài người gây ra cho bản thân mình.
Trong một tình
trạng xã hội như vậy, với trình độ khoa học - kỹ thuật đã chín muồi thì việc tạo
ra bom nguyên tử là không đến nỗi khó hiểu.
Alferd Doblin,
người Đức, sau này bị Hitle truy đuổi hầu như đến tận cùng trời đất, đã viết vào
tháng 10-1919: “Các cuộc tiến công quyết định chống lại nhân loại ngày nay bắt đầu
từ các bản vẽ và từ các phòng thí nghiệm”.
Năm 1921, nhà vật
lý học người Đức, Walter Nernst, người được giải Nôben (Nobel), viết: “Có thể nói
rằng chúng ta đang sống trên một hòn đảo làm bằng chất pyroxylin (một loại chất
nổ cực mạnh). Nhưng, nhờ ơn Chúa, hiện nay chúng ta chưa tìm ra que diêm có thể
đốt cháy nó”.
Nhà vật lý học
Hungari, Leo Szillard, là một người thực tế. Có lần, ông nhớ lại: “… vào tháng
10-1933 tôi nảy ra ý nghĩ rằng phản ứng dây chuyền có thể thành hiện thực, nếu
ta tìm ra được một nguyên tố sao cho khi hấp thụ một nơtrôn, nó lại phóng ra được
hai nơtrôn”. Ngay từ năm 1935, Szillard đã đặt ra cho nhiều nhà bác học nguyên
tử câu hỏi rằng liệu họ có cho việc không công bố, hoặc ít nhất là tạm thời không
công bố kết quả nghiên cứu của họ là khôn ngoan, chín chắn không, vì có thể phải
nghĩ đến những hậu quả nghiêm trọng, thậm chí là nguy hiểm nữa. Số đông những
người mà ông hỏi đến đều khước từ đề nghị của ông. Tuy nhiên cũng có vài nhà bác
học khác bị những ý nghĩ đáng lo ngại đó làm không yên lòng. Trong đó có Paul
Langevin. Ông này từng nói với một sinh viên: “Hitle? Sẽ chẳng còn bao lâu nữa
hắn ta cũng gãy cổ như mọi tên bạo chúa khác thôi. Tôi còn lo ngại hơn nhiều về
một cái khác. Đó là một cái gì có thể làm cho thế giới bị thiệt hại hơn rất nhiều,
hơn hẳn cái thằng điên rồ này, nó sớm muộn rồi cũng phải xéo thôi. Đó là một cái
mà bây giờ ta không còn có thể thoát khỏi được nữa; tôi muốn nói đến nơtrôn”.
Szillard, sau
khi di cư từ Anh sang Mỹ, vẫn cố gắng vận động thực hiện đề nghị: Các nhà bác học
nguyên tử tự mình gánh lấy chức năng tự nguyện kiểm duyệt những công trình của
mình. Dần dần, ở Mỹ, đề nghị đó được chấp nhận. Tiếp theo, nhóm Szillard tìm cách
đạt được sự thỏa thuận của các nhà bác học nguyên tử châu Âu về việc giữ bí mật
mọi công trình sau này về vật lý hạt nhân. Từ tháng 2-1939, Szillard đã viết
cho Joliot Curie: “… Nếu có nhiều hơn một nơtrôn được tách ra, thì phản ứng dây
chuyền sẽ có thể xảy ra được. Trong những hoàn cảnh nhất định, điều đó có thể dẫn
đến việc chế tạo ra bom nguyên tử, vô cùng nguy hiểm cho nhân loại”. Szillard đã
đề nghị Joliot thông báo đại thể lập trường của mình. Tuy nhiên Joliot đã im lặng.
Ít lâu sau, các
nhà bác học Anh cũng ngả theo đề nghị của Szillard.
Cuối cùng thì
Joliot đã không chấp nhận đề nghị của Szillard. Ông này cho rằng đề nghị đó là
không chính thức, chỉ xuất phát từ thiểu số các nhà bác học mà đáng lý ra phải
xuất phát từ Viện hàn lâm khoa học Mỹ. Thực ra, nguyên nhân cơ bản lại là danh
lợi. Một người trong tập thể nghiên cứu của Joliot nói toẹt ra: “Chúng tôi biết
trước rằng phát minh của chúng tôi sẽ được báo chí chào mừng như là thắng lợi của
nền khoa học Pháp, và vào những ngày đó chúng tôi cần bằng bất cứ giá nào làm
cho mình được chú ý, nếu như chúng tôi muốn được chính phủ ủng hộ những công việc
tương lai của mình một cách hào phóng hơn”.
Sự kiện đó đã làm
cho đáng kể các đồng nghiệp Mỹ của Szillard trở nên căm phẫn sự tự kiểm duyệt mà
trước kia họ đã đồng tình. Ý đồ tốt đẹp của Szillard phá sản. Bản thân ông phải
miễn cưỡng đồng ý tuyên bố những tài liệu về các nghiên cứu của ông trong lĩnh
vực phản ứng dây chuyền ở Urani. Trong quá trình tranh luận, Wignet đã đưa ra một
đề nghị mà sau này đã dẫn đến những hậu quả quan trọng, rằng cần phải thông báo
“tình hình urani” cho chính phủ Mỹ. Ông này chứng minh rằng hành động đó là cần
thiết để tạo cho chính quyền khả năng kịp thời ứng phó với bất kỳ sự đe dọa
nguyên tử nào từ phía Hitle. Szillard ngả theo ý đó và trở thành người tham gia
thực hiện.
Ở Đức, Hahn là
người đã khám phá ra hiện tượng phân hạch. Song trong giới cầm quyền cao cấp cũng
như trong giới khoa học, người ta biết rõ Hahn không ủng hộ chế độ Quốc xã. Tiến
sĩ Flugge, một trong những người bạn gần gũi và có tài năng nhất của Hahn, đã có
phản ứng trái ngược với các đồng nghiệp Mỹ bên kia đại dương. Ông cho rằng mối
nguy hiểm cho nhân loại sẽ tăng lên to lớn bội phần nếu những phát minh khoa học
có thể gây hậu quả nghiêm trọng lại bị đặt ra ngoài sự theo dõi và giám sát của
xã hội. Do đó, ông đã viết một bản tường trình về phản ứng dây chuyền trong
Urani, đăng trên số tháng 7-1939 của một tạp chí Đức. Sau đó, ông tiếp tục giải
thích vấn đề một cách dễ hiểu hơn trong cuộc phỏng vấn của một tờ báo ôn hòa Đức.
Đáng tiếc là sự trình bày công khai của tiến sĩ Flugge làm tăng thêm nỗi lo lắng
ở Mỹ. Người Mỹ không thể hình dung được những lời tuyên bố như vậy trên báo chí
lại không được chính phủ Đức chuẩn y. Họ lập luận rằng: “Nếu như bọn Quốc Xã tự
cho phép đăng trên báo nhiều điều như vậy về vấn đề Urani, thì họ phải biết rõ
ràng nhiều hơn hẳn thế. Vậy thì chúng ta phải khẩn trương lên…”
Mùa hè năm 1939
lại xuất hiện một cơ hội nữa hoàn toàn bất ngờ, để tiếp xúc với các nhà bác học
nguyên tử Đức. Đó là khoảng thời gian Heisenberg đang viếng thăm nước Mỹ. Người
ta đã đề nghị nhà vật lý học tài năng Đức nhận chức vụ giáo sư và khuyên ông ở
lại Mỹ. Nhưng Heisenberg đã khước từ. Ngay lúc đó ông đã thổ lộ rằng Hitle nhất
định sẽ bại trận, và trong thời kỳ thảm họa sắp tới, chính ông cần phải có mặt ở
Đức để gìn giữ những gì quá giá nhất trong nước này.
Về sau
Heisenberg đã nói: “Mùa hè năm 1939, có 12 người vẫn còn đủ khả năng ngăn cản được
việc chế tạo bom nguyên tử, nếu họ thỏa thuận được với nhau”. Bản thân Heisenberg
và Fermi cũng ở trong số đó. Đáng lẽ phải tích cực nắm lấy chủ động thì hai ông
lại đã bỏ lỡ cơ hội.
Sau chiến
tranh, Weizseker đã nhận xét: “Nếu chỉ có một việc là chúng ta, các nhà vật lý
học, hợp thành một gia đình nhất trí, thì vẫn là chưa đủ. Có lẽ chúng ta còn phải
tổ chức ra hiệp hội quốc tế với một kỷ luật duy nhất cho tất cả mọi thành viên.
Nhưng nếu xét đến tính chất của khoa học hiện đại thì liệu điều đó có thể thực
hiện được chăng?”
Mùa hè năm
1939, những tin tức truyền về Mỹ từ nguồn công khai và cả bí mật về những gì liên
quan đến việc nghiên cứu “phản ứng dây chuyền trong Urani”, đã làm cho các nhà
vật lý nguyên tử Mỹ rất lo ngại. Szillard và Wigner đã tích cực tìm cách tác động
đến chính phủ Mỹ chú ý đến và hơn nữa là tài trợ, thúc đẩy nhanh những nghiên cứu
về nguyên tử. Để thực hiện được điều đó, Sxillard đã tìm đến Anhxtanh
(Einstein) để tranh thủ uy tín lớn lao cũng như danh tiếng lẫy lừng của nhà bác
học này cho ý đồ. Và Szillard đã thuyết phục được Anhxtanh.
Ngày 2-8-1939,
vì Wigner có việc phải đi California nên Szillard đi cùng với Edward Teller, người
đồng hương trẻ tuổi của ông và cũng là người sau này sẽ đóng vai trò hết sức
quan trọng trong việc chế tạo bom khinh khí (mạnh hơn nhiều bom nguyên tử), đến
Long Island để gặp Anhxtanh xin chữ ký vào bức thư gửi tổng thống Mỹ lúc bấy giờ
là Roosevelt.
Sau này
Szillard có giãi bày: “Theo như tôi nhớ, Anhxtanh đọc cho Teller ghi bức thư bằng
tiếng Đức. Tôi đã sử dụng bản văn của bức thư đó làm cơ sở để viết thêm hai bản
khác nhau nữa, một bản tương đối vắn tắt và một bản khá dài. Cả hai bản đều gửi
cho tổng thống. Tôi để cho Anhxtanh chọn bản nào mà ông ưng và ông đã chọn bản
viết dài. Tôi cũng chuẩn bị cả một bản bị vong lục, coi như là bản chú thích thêm
bức thư của Anhxtanh. Cả bức thư lẫn bản bị vong lục đều được tiến sĩ Sacks đưa
tới tổng thống vào tháng 10-1939”
Nhưng cả Teller
lẫn Anhxtanh đều khẳng định rằng ngày hôm đó, Szillard đến với bức thư đã thảo
xong trong túi. Teller khẳng định chắc chắn: “Anhxtanh chỉ ký vào thư thôi. Tôi
cảm thấy rằng vào lúc đó, ông không hình dung được rõ ràng lắm chúng tôi đang làm
gì trong vật lý hạt nhân”. Sacks cũng khẵng định với một chút trắng trợn: “Thực
ra, chúng tôi cần đến chữ ký của Anhxtanh chỉ nhằm để tạo uy tín cho Szillard,
vì vào lúc đó Szillard hầu như không được ai biết đến ở Mỹ”. Sau chiến tranh,
Anhxtanh đã nói với Antonina Vallentin, bạn cũ và cũng là người viết tiểu sử ông:
“Tôi thực ra đã đóng vai trò không hơn cái hòm thư. Họ mang đến cho tôi bức thư
đã thảo xong và tôi chỉ có ký thôi”. Lúc đó, nhà bác học được cho là vĩ đại nhất
thế kỷ XX cũng đã tỏ ra hối tiếc về hành động của mình.
Dù hữu ý hay vô
tình thì Anhxtanh cũng đã hoặc mù quáng hoặc vô trách nhiệm trong việc quyết định
phát tín hiệu mở đường cho sự chế tạo vũ khí kinh khủng nhất trong số tất cả các
vũ khí hủy diệt. Quyết định đó chắc rằng càng làm cho Anhxtanh ân hận sâu sắc hơn
nhiều, khi ông biết rằng mối nguy cơ bom nguyên tử Đức mà ông cũng như những người
ảnh hưởng đến ông thành thực tin là có thật chỉ là một bóng ma ngáo ộp.
Có bốn yếu tố cản
trở việc chế tạo bom nguyên tử của nước Đức phát xít. Thứ nhất là sự vắng mặt hầu
hết các nhà vật lý học có đủ trình độ chuyên môn vì đã bị Hítle trục xuất. Thứ
hai là bộ phận lãnh đạo nhà nước Quốc Xã đã tin tưởng mù quáng vào thắng lợi một
khi bất ngờ gây ra cuộc chiến bằng những vũ khí thông thường có sẵn, do đó đã
“lơ đãng” trong việc tổ chức công tác nghiên cứu khoa học phục vụ chiến tranh và
cũng không hiểu hềt tầm quan trọng của nó. Thứ ba là cũng do không được chú trọng
đến mà các phòng thí nghiệm trang bị kém cỏi, không đủ các dụng cụ tương xứng để
có thể tiến hành những nghiên cứu phức tạp. Thứ tư là các chuyên gia, bác học Đức
hoạt động trong công tác nghiên cứu nguyên tử, hầu hết đều hoặc không tin tưởng
hoặc không tích cực trong nghiên cứu hướng tới chế tạo vũ khí nguyên tử, thậm
chí là ngấm ngầm bất hợp tác, đánh lạc hướng quan tâm của chính quyền đối với
việc chế tạo thứ vũ khí vô nhân đạo đó.
Trong mùa đông
năm 1939 - 1940, Heisenberg đã hoàn thành những công trình lý thuyết giải thích
được sự khác biệt về nguyên tắc giữa lò phản ứng urani, trong đó phản ứng dây
chuyền được kiểm soát, với bom urani, trong đó người ta để cho dòng thác nơtrôn
tự do tăng lên vượt giới hạn gây bùng nổ. Ngày 17-7-1940, Weizseker đã phát biểu
trên giấy một số ý kiến của ông, trong đó có gợi ý rằng có thể thu được từ lò
phản ứng urani một chất có thể sử dụng để làm chất nổ cho vũ khí nguyên tử (sau
này được gọi là plutoni).
Tuy nhiên tất cả
những phát hiện đó không lọt ra ngoài một nhóm rất hạn hẹp các cộng tác viên của
Heisenberg. Họ đã thận trọng tránh không phổ biến những nghiên cứu lý thuyết sơ
bộ của họ và cố gắng không làm cho ngay cả những cộng tác viên gần gũi nhất chú
ý đến khả năng chế tạo bom nguyên tử. Khi các nhà bác học khác đề xuất việc
nghiên cứu chế tạo loại vũ khí này, Heisenberg không bác bỏ chúng như là những
vấn đề về nguyên tắc không thể thực hiện được, nhưng ông phát biểu: “Hiện nay,
trong điều kiện chiến tranh, chúng ta không thể có những phương pháp thực tế để
chế tạo bom nguyên tử với những tài nguyên mà nước Đức hiện có. Tuy nhiên, vấn đề
này phải được nghiên cứu sâu, để có thể tin chắc được rằng Mỹ cũng không thể chế
tạo được bom nguyên tử”.
Ngoài
Heisenberg và Weizseker, nước Đức còn có một nhà vật lý học lớn nữa, đó là
Fritz Houtermans, người đã từng có lúc tham gia xây dựng giả thuyết về các công
trình nhiệt hạch trên Mặt Trời. Vào khoảng năm 1940 - 1941, Houtermans đã tìm
ra rằng có thể chế tạo được bom nguyên tử khá nhanh chóng sau khi đã tạo được
trong lò phản ứng urani một chất nổ mới.
Houtermans đã vô
cùng lo lắng khi nghe tin Heisenberg và Weizseker đang nghiên cứu một cách nghiêm
túc vấn đề ứng dụng thực tế của phản ứng dây chuyền. Ông hỏi ý kiến Vôn Laue,
nhà bác học được giải thưởng Nôben, và nhận được câu trấn an: “Bạn đồng nghiệp
thân mến, chưa từng bao giờ có ai lại phát minh được một cái gì đó mà anh ta thực
sự không muốn phát minh”. Mùa đông năm 1941, trong một buổi nói chuyện kín đáo
với riêng Weizseker, Houtermans đã thông báo về những công trình của mình và nói
thêm rằng ông giữ rất bí mật tất cả những gì liên quan đến việc chế tạo bom
nguyên tử. Sau khi bàn bạc, hai nhà vật lý đi đến kết luận: nhiệm vụ đầu tiên và
quan trọng nhất là phải giữ sao cho các cục, vụ của chính quyền Quốc xã không
biết được khả năng hiện thực của việc chế tạo bom nguyên tử.
Ngoài ba nhà bác
học nói trên, ít nhất còn có 10 nhà vật lý học Đức có tiếng khác nữa đã thỏa
thuận với nhau rằng cần phải tránh, không cộng tác với bộ máy chiến tranh của
Hitle, hoặc chỉ làm ra vẻ cộng tác thôi…
Kể ra như thế để
chúng ta thấy được sự trái ngược, trớ trêu này: các nhà vật lý học Đức sống
trong hoàn cảnh khủng bố, truy sát dưới chế độ độc tài hung bạo thì cố gắng tìm
mọi cách ngăn chặn việc chế tạo bom nguyên tử, trong khi đó thì các đồng nghiệp
của họ ở các nước dân chủ, không bị bất kỳ một áp lực nào từ trên dội xuống, trừ
một số ngoại lệ hiếm hoi, lại tập trung mọi nỗ lực của mình cho việc chế tạo
nhanh chóng thứ vũ khí tàn bạo đó.
Khoảng 15 năm
sau, một trong số các nhà bác học Đức thời đó đã cố gắng giải thích trong một bài
diễn văn: “Tất nhiên, chúng tôi không hơn các đồng nghiệp nước ngoài của mình về
đạo đức cũng như về trí tuệ. Nhưng lúc sắp bắt đầu chiến tranh, chúng tôi đã có
được kinh nghiệm đắng cay của gần 7 năm sống dưới chính quyền Hitle, và chỉ một
cái đó thôi cũng đã khiến chúng tôi nghi ngờ và dè dặt đối với nhà nước này và
các cơ quan hành chính của nó. Còn các đồng nghiệp của chúng tôi ở các nước khác
thì cũng đúng lúc ấy lại có thể hoàn toàn tin cậy vào sự lương thiện và công
minh của các chính phủ của mình”. Nói đến đây, diễn giả ngập ngừng giây lát rồi
nói thêm: “Tiện đây, xin nói thêm là tôi nghi ngờ, không biết ngày nay, tình hình
đúng như vậy có còn chiếm ưu thế trong các nước đó không”.
Tới tháng
7-1941, trong bị vong lục của Ủy ban Thomson, trên cơ sở những công việc đã thực
hiện được ở Anh, nói rằng có thể chế tạo được bom nguyên tử trước khi chiến
tranh kết thúc. Cuối cùng, ngày 6-12-1941, đúng một ngày trước khi Nhật tấn công
Trân Châu cảng và Mỹ chính thức tham chiến, chính phủ Mỹ đã quyết định dành một
nguồn tài chính và kỹ thuật đáng kể để nghiên cứu chế tạo vũ khí nguyên tử.
Nhiều nhà bác học
lúc đó được cổ vũ bởi lòng tin chân thành rằng chỉ có con đường họ đã chọn mới
ngăn chặn được việc sử dụng vũ khí nguyên tử trong cuộc chiến tranh thế giới thứ
hai. Họ tin tưởng mãnh liệt vào sự nghiệp chính nghĩa của các nước Đồng Minh.
Những người được chọn vào chương trình nghiên cứu tuyệt mật này đã làm việc quên
mình, không biết mệt mỏi vì họ đều có chung suy nghĩ rằng: “Chúng ta phải có phương
tiện giáng trả thích hợp để đối phó với bất kỳ sự đe dọa chiến tranh nguyên tử
nào từ phía Đức. Nếu như chúng ta chế tạo được loại vũ khí đó thì thì cả Hitle
lẫn chúng ta bắt buộc phải từ bỏ việc sử dụng nó”.
Nhưng sự uyên bác
cũng chẳng thuộc được chữ “ngờ”!
Bắt đầu từ ngày
13-8-1942, toàn bộ chương trình nghiên cứu chế tạo bom nguyên tử được mang tên
gọi qui ước là “Đề án Manhattan”.
Ngày 17-9-1942, thiếu tướng Lesley Richard Groves được chỉ định làm người lãnh đạo
hành chính của toàn bộ Đề án Manhattan.
Ông này đã từng chỉ huy xây dựng một số lượng lớn các công trình quân sự, trong
đó có việc xây dựng Lầu năm góc - trụ sở mới của Bộ chiến tranh.
Trong số các nhà
bác học nguyên tử, Robert Oppenheimer (gọi thân mật là Oppi) không những nổi
danh là nhà lý thuyết mà còn là người có tài tổ chức. Ông chính là người mà cả
thế giới sau này còn biết đến với biệt danh: “Cha đẻ bom nguyên tử”.
Năm 1927, Oppi
tốt nghiệp đại học một cách xuất sắc dưới sự chỉ đạo của nhà bác học vật lý Max
Bohr tại Gottingen.
Ông bắt đầu sự nghiệp đời mình bằng việc giảng dạy tại trường đại học tổng hợp California, ở Berkeley.
Rất nhiều những bài báo khoa học mà Oppi gửi đăng trên các tạp chí nhiều nước là
một sự đóng góp quí giá vào tòa nhà đang
lớn lên của vật lý học hiện đại.
Oppi đã nghĩ đến
bom nguyên tử từ khi trong một buổi giảng của Bohr, lần đầu tiên ông nghe nói về
sự phá vỡ urani dẫn đến hiện tượng giải phóng một năng lượng to lớn.
Năm 1939, trong
một cuộc họp ở Washington,
nhà bác học người Đan Mạch, Bohr, đã báo cáo về công trình của Hahn và cũng nhắc
đến các kết luận của Frish và Meitner. Việc đó đã gây chấn động mạnh đến nỗi làm
một số nhà vật lý học không đợi được đến khi kết thúc buổi thuyết trình, quay vội
về phòng thí nghiệm của mình để tái tạo lại những thí nghiệm vừa nghe được. Nhà
bác học người Đức là Gentner, lúc đó đang làm việc ở phòng thí nghiệm phóng xạ
Berkeley, nhớ lại rằng đúng vào những ngày đó, Oppi đã tính toán một cách gần đúng
khối lượng tới hạn cần thiết để gây ra sự nổ nguyên tử.
Mùa thu năm
1941, theo yêu cầu của nhà bác học A. H. Compton (người được giải thưởng Nôben),
Oppi đã tham dự cuộc họp hai ngày của Ủy ban đặc biệt Viện hàn lâm khoa học quốc
gia, được tổ chức, triệu tập để tham khảo ý kiến về vấn đề áp dụng năng lượng
nguyên tử vào chiến tranh. Sau cuộc họp này, số phận đã hướng cuộc đời Oppi ngoặt
sang một con đường mới. Ông đã dành nhiều thời gian cho việc nghiên cứu sự nổ
nguyên tử và với sự phụ giúp của hai sinh viên, ông đã có được phát minh cho phép
hạ giá thành của việc tách các đồng vị urani bằng phương pháp điện từ, xuống 50
- 70%.
Công trình đó của
Oppi đã gây cho Compton
một ấn tượng mạnh mẽ. Đầu năm 1942, khi công việc chế tạo bom nguyên tử của các
nhà vật lý ở Mỹ bắt đầu có qui mô lớn, Compton đã đề nghị Oppi hoàn toàn chuyển sang làm việc cho
Đề án Manhattan.
Tháng 7 năm đó, Oppi lãnh đạo một nhóm nhỏ và làm việc hiệu quả đến mức, theo Compton nhớ lại: “Dưới sự
lãnh đạo của Oppi, họ đã làm ra được một cái gì đó hiện thực, sờ thấy được, và
làm nhanh chóng một cách đáng kinh ngạc”.
Trong quá trình
làm việc, Oppi đã đi đến kết luận rằng để tránh sự lặp lại một cách lãng phí không
cần thiết các công việc nghiên cứu, thí nghiệm thì cần phải thống nhất, tập
trung vào một chỗ rất nhiều phòng thí nghiệm rải rác khắp nước Mỹ, cũng như ở
Anh và Canada. Ý kiến này đã dẫn đến cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa Oppi và Groves vào mùa thu năm 1942, và việc Thứ trưởng Bộ chiến
tranh Mỹ là John Maccloy ký lệnh mua vùng Los Alamos thuộc bang Nem Mexico
để xây dựng một trung tâm thí nghiệm siêu đẳng vào ngày 25-11-1942. Compton đề nghị giao cho
Oppi lãnh đạo trung tâm thí nghiệm đó.
Tháng 7-1943, Los Alamos bắt đầu hoạt động tìm kiếm những khám phá, phát
minh mới trong vật lý hạt nhân.
(còn nữa)
***
Nhận xét
Đăng nhận xét