THỰC TẠI & HOANG ĐƯỜNG 19
THỰC TẠI VÀ HOANG ĐƯỜNG (II)
ĐẠI CHÚNG
--------------------------------
CHƯƠNG VII: TIÊN NGHIỆM
“Bản tính của ta chỉ có thể có những trực
giác khả giác thôi, nghĩa là theo cách ta bị sự vật tác động vào, còn khả năng
suy tưởng những đối tượng của trực giác thì lại là công việc của trí năng.
Trong hai đặc tính này của tâm trí ta, không cái nào được coi là trọng hơn cái
kia. Không có cảm năng, thì không có một đối tượng nào sẽ được ban cho ta, và
không có trí năng thì không một đối tượng nào sẽ được ta suy tưởng. Thiếu nội
dung, các ý tưởng sẽ rỗng tuếch và thiếu quan niệm thì các trực giác sẽ mù
tịt.”
I. Kant
Đó là câu nói
mà chúng ta cho là rất hay của Kant. Tuy vậy, nó đúng nhưng chưa đầy đủ. Cảm
giác và quan niệm là hai vế được phân biệt tương đối nhưng một cách tuyệt đối
thì không thể tách rời nhau được. Ý niệm xuất hiện phải trên cơ sở của cảm giác
và cảm giác được là nhờ có ý niệm. Con ngựa bị quất roi vào mông có “cảm thấy”
gì không? Có! Nếu không, nó sẽ chẳng phản ứng (lồng lên, phi nhanh hơn…). Thế
nó cảm thấy gì, đau đớn khó chịu hay sung sướng? Chắc là không phải sung sướng
rồi, vì không thấy nó có vẻ thỏa mãn tý nào! Có lúc hình như nó khó chịu, nhất
là khi có người “lạ hoắc” ngồi trên lưng nó mà còn đánh nó, làm nó nổi điên lên,
cố hất bằng được kẻ trên lưng nó xuống đất. Có lẽ thông thường thì mọi con
người đều cảm thấy “đau” khi bị quất roi. Bị đau nên dẫn đến sợ, tìm cách chạy
trốn hoặc phi nhanh hơn cho vừa lòng “chàng kị mã”. Vậy thì con ngựa cũng “biết
đau” (khi bị đánh), “biết khó chịu” (khi bị người lạ cưỡi) và “biết khoái” (khi
được vuốt ve). Rõ ràng ba cảm giác ấy (và nhiều hơn thế nữa) là phân biệt được
và tiềm ẩn trong cùng một con ngựa. Cái gì làm cho các cảm giác “khác kiểu”
phân biệt được với nhau. Đó chính là hệ thần kinh với bộ não (ở sinh vật bậc
cao) đóng vai trò như trung tâm tổng hợp thông tin, điều khiển và mạng lưới
truyền tin với các đầu mối thu phát tín hiệu mà trong quá trình tiến hóa, thích
nghi đã phân định thành nhóm (tạo nên những giác quan tương đối khác biệt nhau
về cách thức nhưng vẫn trên cơ sở thống nhất là cảm giác và cảm giác được những
mức độ khác nhau của sự tác động): Ý niệm là gì nếu không phải là sự phân biệt
được của hệ thần kinh trung ương (bộ não) về mức độ, kiểu thức, vị trí của sự
tác động bên ngoài nào đó lên cơ thể, để từ đó hình thành nên một cảm giác
tương thích? Khi có một tác động đối với một bộ phận hay một vùng nào đó của cơ
thể thì ngay lập tức theo đúng luật tự nhiên, phải xuất hiện phản ứng. Phản ứng
ấy gọi nôm na là phản ứng “không sống” của chỉ bộ phận ấy, của riêng vùng “xác
thịt” ấy, hay tạm gọi là phản ứng sơ cấp. Phản ứng sơ cấp ấy tác động vào các
đầu mối thu phát tín hiệu của mạng lưới thần kinh và các thông tin truyền về
cho bộ não xử lý. Nhờ vào “kinh nghiệm” đã được tích lũy qua quá trình thích
nghi, tiến hóa lâu dài để đảm bảo sinh tồn mà bộ não “đánh giá” được mức độ
“lợi hay hại” của tác động để hình thành nên phản ứng thích hợp. Phản ứng ấy là
phản ứng của riêng bộ não. Tại đây, phản ứng ấy được phân định thành hai loại
tương đối là phản ứng vô thức và phản ứng hữu thức. Phản ứng vô thức là phản
ứng ở tầng sự sống vô thức, nghĩa là phản ứng của những đơn vị được định nghĩa
là sự sống của những cấu trúc bộ phận được gọi là sống - sống nhưng chẳng bao
giờ “tỉnh” mà luôn “ngủ say”; hoặc mê muội. Phản ứng này trở thành những tác
động đến các cơ quan chức năng hay cũng có thể là toàn bộ cơ thể, để từ đó mà
trong cơ thể có sự chuyển hóa tự nhiên làm xuất hiện những lực lượng nội tại
tác động trở lại, một cách có lợi cho bộ phận, vùng cơ thể đã bị bên ngoài tác
động (nói cho cùng là hoàn toàn tuân theo nguyên lý tương tác hay tác động-phản ứng của Tự Nhiên!)....
Phản ứng hữu
thức chính là cảm giác. Chúng ta cho rằng, khi nằm trong mối quan hệ với phản
ứng không sống, phản ứng hữu thức được gọi là phản ứng sống và trong mối quan
hệ tương phản với khái niệm phản ứng sơ cấp, nó là phản ứng thứ cấp. Đây là
loại phản ứng chỉ xuất hiện rõ rệt ở sinh vật bậc cao, với hệ thần kinh hoạt
động theo kiểu “nhà nước”, nghĩa là có một trung tâm điều khiển gọi là não bộ.
Phản ứng này làm cho cơ thể sống vận động (chuyển hóa, biến đổi) theo sự điều
khiển tiềm tàng của não bộ, tạo nên những tác động chủ động lên bộ phận, vùng
cơ thể bị bên ngoài tác động và thậm chí là lên cả tác động bên ngoài (nhằm hạn
chế, chấm dứt hoặc duy trì, tăng cường tùy theo bản chất lợi hay hại và mức độ
của tác động bên ngoài ấy).
Cơ thể luôn
luôn bị tác động (có lợi hoặc có hại) bởi môi trường và cả bởi chính quá trình
sống của cơ thể, đồng thời cũng luôn luôn phản ứng (tích cực hoặc tiêu cực)
trước những tác động ấy. Cơ thể vì thế ít khi chọn và “biết” chọn những tác
động có lợi cho bản thân mình, nó luôn bị trục trặc, tổn thương. Não bộ chính
là vị “đại nguyên soái”, chỉ huy các lực lượng có sẵn ở nội tại trong “công
cuộc” đấu tranh triền miên với các tác động bên ngoài, lập lại trật tự ở những
vùng cơ thể bị trục trặc, khôi phục, chữa lành các tổn thương. Trong hầu hết
các trường hợp, não bộ luôn hoàn thành vẻ vang sứ mạng của mình, hoàn thành
nhiệm vụ mà cơ thể sống giao phó (cơ thể là “tổng thống” hay là một “Tổ quốc”,
một “dân tộc”?!). Nhưng đôi khi nó trở nên bất lực hoàn toàn, đấu tranh một
cách vô vọng bởi không có “kinh nghiệm” trước những “đòn đánh lạ lùng và hiểm
độc” của “quân xâm lược” hoặc giả là bởi bản thân chủ quan, mất cảnh giác lúc
đầu trước chiến thuật kiểu láu cá, ru ngủ của đối phương để đến khi chúng lộ
diện, di căn, toàn phát thì đã quá muộn, đành chịu “mất nước” và mất cả… mạng
mình (rõ quá rồi!). Tuy nhiên, trong nhiều hoàn cảnh trầm trọng, hiểm nghèo,
ngàn cân treo sợi tóc như thế, nếu được hỗ trợ, chi viện thích đáng, kịp thời
từ môi trường (những tác động có lợi từ bên ngoài) thì “đại nguyên soái” vẫn có
cơ hội bảo vệ được “Tổ quốc” (cơ thể vượt qua bạo bệnh, hồi phục một cách thần kỳ!).
Nếu những suy
đoán của chúng ta về não bộ là đúng thì chúng có thể là cơ sở để giải thích
nhiều hiện tượng chưa hiểu được về tâm sinh lý học, cũng như nhiều hiện tượng
huyền bí trong y học - dưỡng sinh.
Điều dễ thấy là
nếu hoạt động của hệ thần kinh, trong đó có não bộ (đối với sinh vật bậc cao
thì não bộ mang tính quyết định!) thực sự bị chấm dứt thì cơ chế tự chữa bệnh
của cơ thể không còn nữa. Có lẽ mọi cách thức, phương pháp chữa bệnh muốn đạt
kết quả, dù có dù không có tác động tích cực từ bên ngoài đều phải nhận cơ chế
tự chữa bệnh làm nền tảng, làm cơ sở lý luận để tiến hành; đều chủ yếu phải
thông qua con đường tự chữa bệnh của cơ thể để làm lành bệnh tật (giải phẫu, để
loại bỏ hoặc cấy ghép là giải pháp cuối cùng, cấp bách và cần thiết để cứu
mạng; nhưng nếu không có thuốc thang hỗ trợ cho cơ chế tự chữa bệnh hoặc cơ chế
tự chữa bệnh không còn thì giải pháp ấy cũng chỉ là vô ích!). Một cơ thể, khi
đã mất đi cơ chế tự chữa bệnh thì việc đầu tiên là phải phục hồi lại cơ chế ấy,
còn không thì bất cứ sự can thiệp nào cũng sẽ không thể chữa được bệnh tật. Có
thể, bằng cách nhân tạo, chữa lành một vết ghẻ, chặn đứng bệnh tật và nuôi sống
một vùng nào đó, một cơ quan nào đó trên (và trong) một cơ thể đã hoàn toàn bị
đình chỉ cơ chế tự chữa bệnh, nhưng đây lại là chuyện khác, tương tự như nuôi
cấy một miếng da trong phòng thí nghiệm hoặc như nấm mọc “hồn nhiên” trên một khúc
gỗ trong thiên nhiên...
Một cơ thể bị
hôn mê sâu chưa hẳn là đã mất hết khả năng tự chữa bệnh mà chỉ là sự suy giảm
đáng kể, thậm chí là trầm trọng khả năng ấy mà thôi, vẫn còn một chút nào đó
được bảo tồn và vẫn hoạt động “thoi thóp” nhờ vào sự tác động có tính chất hỗ
trợ đắc lực của bên ngoài. Trong nhiều trường hợp cơ chế đó hồi phục, tạo tiền
đề cho sự sống sót của bệnh nhân. Đã xảy ra những trường hợp may mắn hiếm có,
sau vài năm và hơn nữa là mấy chục năm, cơ thể hôn mê sâu bỗng bừng tỉnh; biểu
hiện phản ứng hữu thức của não bộ (thành phần trọng yếu nhất trong cơ chế tự
chữa bệnh) đã hồi phục hoặc bước vào giai đoạn hồi phục, nghĩa là trong suốt
một quá trình dài, cơ chế tự chữa bệnh, nhờ vào sự hỗ trợ của những thiết bị y
học, đã “kiên trì” tự chữa cho mình và tiếp tục nhiệm vụ chữa trị cho cơ thể.
Nếu không có
những thành tựu to lớn, đầy hiệu quả của y học phương Tây thì không biết loài
người ngày nay sẽ ra sao?! Nhưng theo chúng ta nghĩ, y học phương Đông đã không
hiếm trường hợp làm nên những điều kỳ diệu trong việc chữa bệnh cứu người. Có
những trường hợp Tây y đã phải lắc đầu, bó tay nhưng nhờ Đông y điều trị không
cần phải qua giải phẫu, bệnh nhân đã chiến thắng được bệnh tật, tránh được lưỡi
hái của tử thần trong gang tấc, hết sức ngoạn mục. Những sự kiện đó nói lên
điều gì? Hoặc hiện tượng số lượng bệnh nhân được điều trị khỏi nhờ giả dược
(giả thuốc nhưng bệnh nhân vẫn tưởng mình uống đúng thuốc) có tỷ lệ hơn hẳn số
lượng bệnh nhân được điều trị khỏi nhờ uống thuốc thật, nói lên điều gì? Có những
người bị bệnh nan y tiến triển đến thời kỳ cuối cùng, được coi là vô phương cứu
chữa, vẫn kiên trì uống thuốc, bỗng dần trở lại bình thường, hoàn toàn khỏe
mạnh. Những trường hợp như thế nói lên điều gì?
Chỉ có thể trả
lời được thỏa đáng những câu hỏi đó nếu chúng ta tin vào sự tồn tại của cơ chế
tự chữa bệnh cũng như khả năng phi thường của nó. Một khi cơ chế tự chữa bệnh
được kích thích đến mức độ hoạt động cùng tột, nó sẽ trở thành bất khả chiến
bại trước bất cứ loại bệnh tật nào! Phải chăng y học - dưỡng sinh cổ truyền
phương Đông, hình thành trên cơ sở lý luận âm dương - ngũ hành cốt lõi là đúng
đắn, đã phần nào tiếp cận được sự thực ấy? Phải chăng tình yêu vô bờ đối với
cuộc sống, niềm tin mãnh liệt vào việc điều trị, sự hy vọng thiết tha khôn cùng
muốn khỏi bệnh, hay đơn giản là tinh thần lạc quan cao độ, thanh thản trước
sống chết, đã kích thích cơ chế tự chữa bệnh đạt đến trạng thái phi thường?
Cơ chế tự chữa
bệnh không đồng nghĩa với sự tự chữa bệnh của một cơ thể sống có ý thức (dù là
ở dạng sơ khai nào đó). Nhiều loài động vật (cũng có khi là tất cả) khi bị bệnh
vẫn đi tìm những thứ phù hợp có trong thiên nhiên như lá cây, chất khoáng…
(không phải là thức ăn truyền thống của chúng) để ăn nhằm mục đích tự chữa
bệnh. Cơ chế tự chữa bệnh tồn tại ở tầng vô thức, có nguyên nhân chủ yếu từ sự
phản ứng vô thức của não bộ. Muốn hiểu được cặn kẽ cơ chế ấy phải quan sát ở
tầng nền tảng của sự sống, thậm chí là sâu dưới nữa. Muốn có được sự phi thường
của cơ chế tự chữa bệnh có lẽ phải làm cho phản ứng vô thức ấy trở nên mãnh
liệt, tổng động viên được toàn bộ nội lực của cơ thể, tận dụng tối đa lực lượng
ở tầng nền tảng của môi trường (tập trung nhiệt, điều dẫn bức xạ… về nơi cần
thiết trong cơ thể!!!?) hướng vào việc chữa bệnh, nghĩa là phải tìm cách tác động
được vào cơ sở hạ tầng của hoạt động não bộ. Phải chăng dùng ý niệm cũng là một
trong những cách thực hiện được việc đó? Phản ứng hữu thức là một mặt của phản
ứng nói chung và có nguồn gốc từ vận động hạ tầng của não bộ, nhờ thế mà những
cảm giác như lạc quan, yêu thương, hy vọng mới có cơ hội, trong một chừng mực
tùy thuộc vào cường độ cảm giác tác động được đến cơ chế tự chữa bệnh. Hít thở
khí công được cho là một cách khác, có thể là chủ động hơn, rèn luyện để thông
qua não bộ mà hình thành, củng cố những ý niệm, tác động tích cực trở lại vận
động hạ tầng của nó, làm tăng cường khả năng tự chữa bệnh của cơ thể (hoặc đạt
được những công năng thượng thừa khác).
Đến đây, chúng
ta đã bắt đầu lơ mơ hiểu vì sao các cao thủ Yoga có thể nhịn ăn nhịn uống được
dài ngày, bị chôn xuống đất đến mấy chục ngày mà không chết. Họ đã chế ngự được
bộ não vận động ở mức tối thiểu, ở tầng tạm gọi là tiềm thức, rất gần với vô
thức với sự cung cấp năng lượng chỉ cần ở mức tối thiểu từ chính cơ thể họ hoặc
cũng có thể là sự trao đổi bức xạ với môi trường…
Cơ chế tự chữa
bệnh thực ra chỉ là một bộ phận của tổng thể vận động chuyển hóa của một cơ thể
sống có ý thức mà não bộ là cơ quan trọng yếu, có ý nghĩa sống còn đối với cái
tổng thể ấy. Do đó, nó cũng luôn tự ưu tiên bảo vệ mình (sự ngất xỉu, sự ngủ
nghê, sự quên lãng và đôi khi là sự hôn mê “nông”)…
… Nhưng mà
thôi! Nói cho hết ý tưởng đang ùn ùn kéo đến thì chẳng biết đến bao giờ mới
xong, trong khi công việc “đồng áng” của chúng ta vẫn còn ngổn ngang quá. Mai
đây, trong những lúc “nông nhàn”, nếu còn nhớ, chúng ta sẽ lại tiếp tục câu
chuyện này. Còn bây giờ, chúng ta trở lại vấn đề cảm giác.
Phản ứng hữu
thức của não bộ là kết quả của hàng loạt những tác động - phản ứng tuân theo
luật Tự Nhiên. Có thể cho rằng phản ứng hữu thức của não bộ làm nên cảm giác
hoặc chính là cảm giác của một cơ thể sống có ý thức.
Nói như thế
cũng có nghĩa rằng “đành phải” thừa nhận những sinh vật có hệ thần kinh với một
trung tâm điều khiển, trong một chừng mực nhất định đều phải được cho là có ý
thức hoặc cái gì đó tương tự như ý thức; thậm chí là có cả quan niệm nữa. Sự
trung thành của một con chó không thể cho là không có ý thức được. Một con chó
khi bị đòn, la “ăng ẳng” rồi rên “ư ử”, lấm lét, cụp đuôi tìm chỗ trốn thì phải
cho rằng nó biết đau, biết ấm ức, biết lo sợ và như thế phải cho rằng trong nó
cũng xuất hiện cảm giác đau và quan niệm về “sự đau”.
Có lẽ đã đến
lúc, để phân biệt giữa người và động vật, phải đưa ra những khái niệm mới như
“nấc thang” cảm giác, “nấc thang” quan niệm, “nấc thang” ý thức hoặc “nấc
thang” lý trí. Một con chó bị chủ đánh đau đến cùng cực và không còn lối thoát
may ra mới cắn lại chủ nhưng có thể cắn bất cứ người lạ nào vào nhà dù có hù
dọa nó, không thể không có lý trí ở “nấc thang” nào đó, dù thấp. Một con báo
nằm rình chờ thời cơ thuận lợi để xông ra bắt mồi thì phải là sự thể hiện của ý
thức.
Khi chúng ta
nhìn thấy một vật có nghĩa là ánh sáng phát ra từ nó (do phản chiếu hoặc phát
ra) đập vào mắt chúng ta, thông qua mắt mà tác động lên hệ thần kinh thị giác làm
hình thành nên cảm giác “nhìn thấy”. Tuy nhiên vì nó là một bộ phận cơ thể, vì
nền tảng của thị giác là cảm giác, tại mắt cũng tồn tại các đầu mối thần kinh
không thuộc hệ thần kinh thị giác nên sự tác động bên ngoài nào lên mắt cũng
làm cho não phát hiện, ngoài sự nhìn thấy, là những phản ứng vô thức và những
cảm giác khác thị giác (như khô mắt, nhức mắt, chói mắt, rát mắt…), mà ở tình
trạng mắt bình thường sẽ không phát hiện được.
Cảm giác nói
chung và những hình thức biểu hiện cảm giác nói riêng là do quá trình tiến hóa
sinh vật lâu dài mà có, cho nên dù rất mờ nhạt, khó nhận ra thì chắc chắn rằng
chúng được sinh ra từ kinh nghiệm, từ sự đúc kết, theo đòi hỏi của thích nghi
để sinh tồn.
Khi
chỉ xét
trong phạm vi cảm giác thôi thì đến lượt nó lại được phân định ra tương
đối
thành hai loại cảm giác trực tiếp và cảm giác theo kinh nghiệm. Cảm giác
trực
tiếp còn được gọi là trực giác, là loại cảm giác chỉ có được khi có tác
động cụ
thể, trực tiếp lên cơ thể từ bên ngoài. Còn cảm giác theo kinh nghiệm là
loại
cảm giác nảy sinh từ sự suy tưởng, phán đoán trên cơ sở kinh nghiệm đã
“gặt
hái” được, còn lưu nhớ được từ những lần trực giác đã từng xảy ra trong
quá
khứ. Ông bà ta nói: “miếng ngon nhớ lâu, đòn đau nhớ đời” là vì thế.(Sơ
sơ thế thôi chứ thực ra là phải bàn luận như một môn khoa học sâu rộng
thực sự!!!...).
Viết đến đây,
không thể dừng được, chúng ta đành “Lỡ bước sang ngang” một chút để nói về
Nguyễn Bính. Nguyễn Bính là nhà thơ Việt Nam mà phần thơ được sáng tác trong
giai đoạn “tiền chiến” của ông đã làm cho chúng ta mê ly, cảm giác thật dạt dào.
Hầu hết những bài thơ “thuở đó” của Nguyễn Bính, đọc nghe chẳng sang trọng,
uyên thâm hay “siêu thoát” gì; nó “ê a” tự nhiên như hơi thở, nó gần gũi, hồn
hậu, đằm thắm như cách nghĩ, cách nói của những thôn nữ ngây thơ, chất phác; nó
mộc mạc, chân thành và đôi khi bông phèng “nhẹ tưng” như những chàng trai “chân
quê”. Điều chúng ta hết sức tâm đắc là những vần điệu, câu chữ trong các bài
thơ ấy có vẻ nhàm quá mà sao cứ nhớ, có vẻ tầm thường quá mà sao cứ thích thú,
có vẻ như vụn vặt vô tình quá mà sao cứ rung động yêu thương.
Chỉ với gạo
quê, tương mắm, rau đồng mà nấu được bữa thơm ngon đáo để; chỉ với những “con
chữ”, “cái âm” nhặt nhạnh, hôi, mót đâu đó ở bờ ao, gốc rạ, đồng cạn, đồng sâu
trong thôn giã mà bện kết được những khúc, những đoạn dung dị đến tuyệt cú, thì
như thế, chúng ta tin rằng những bài thơ thời tiền chiến của nhà thơ Nguyễn
Bính sẽ còn sống rất lâu trong lòng đại chúng, nhân gian, đến xa sau hậu thế
một khi những ký ức về một vùng nông nghiệp lúa nước với cảnh làng quê đặc
trưng: cây đa, bến nước, con đò - bờ đê, ao cá, ví hò, ca dao… vẫn còn được
nâng niu, lưu giữ!
Thay vì thắp
một nén nhang, chúng ta trích ngâm vài đoạn, tỏ lòng nhớ về Nguyễn Bính!
“Thôn Đoài vào đám
hát thâu đêm
Em mải tìm anh chả
thiết xem
Chắc
hẳn đêm nay giường cửi lạnh
Thoi
ngà nằm nhớ ngón tay em.
Chờ mãi anh sang anh chả sang
Thế mà hôm nọ hát bên làng
Năm tao bảy tuyết anh hò hẹn
Để cả mùa xuân cũng nhỡ nhàng!”
(Trích “Mưa xuân”)
“Hôm nay dưới bến xuôi đò
Thương nhau qua cửa tò vò nhìn nhau
Anh đi đấy, anh về đâu?
Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm…”
(Trích “Không đề”)
“Nhà em có một giàn trầu
Nhà anh có một hàng cau liên phòng
Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Cau thôn Đoài nhớ giầu không thôn nào?”
(Trích “Tương Tư”)
“Cái ngày cô chưa có chồng
Đường gần tôi cứ đi vòng cho xa
Lối này lắm bưởi nhiều hoa …
(Đi vòng để được qua nhà đấy thôi)
Một hôm thấy cô cười cười
Tôi yêu yêu quá nhưng hơi mất lòng
Biết đâu rồi chả nói chòng:
“Làng này khối đứa phải lòng mình đây!”
Một năm đến lắm là ngày
Mùa thu mùa cốm vào ngay mùa hồng
Từ ngày cô đi lấy chồng
Gớm sao có một quãng đồng mà xa
Bờ rào cây bưởi không hoa
Qua bên nhà thấy bên nhà vắng teo
Lợn không nuôi, đặc ao bèo
Giầu không dây chẳng buồn leo vào giàn
Giếng thôi mưa ngập nước tràn
Ba
gian đầy cả ba gian nắng chiều”
(Bài “Qua nhà”)
“ Tình tôi là giọt
thủy ngân
Dù
nghiền chẳng nát dù lăn vẫn tròn
Tình
cô là đóa hoa đơn
Bình
minh nở để hoàng hôn mà tàn
Lòng tôi rối
những tơ đàn
Cao
vời những ước đầy toàn những mơ
Lòng
cô chẳng có dây tơ
Ước
sao đến thấp mà mơ đến nghèo!
Hồn tôi giếng
ngọt trong veo
Trăng
thu trong vắt biển chiều trong xanh
Hồn
cô cát bụi kinh thành
Đa
đoan vó ngựa chung tình bánh xe”
(Bài “Tình
tôi”)
Bao giờ cũng
thế, cứ mỗi lần đọc thơ tiền chiến của Nguyễn Bính, lòng chúng ta cứ man mác
buồn. Tại nhà thơ hay tại chúng ta? Có lẽ tại cả hai! Nhà thơ là người buồn thứ
nhất vì bản thân đã từng trực giác đau thương trong quá khứ, để rồi sau đó, vốn
sẵn đa sầu đa cảm nên dễ bi hóa thân phận; để rồi với tâm trạng đã có “tỳ vết”
ấy mà trước thực tại, để “ tức cảnh sinh tình” đượm hơi hướng tiếc nhớ, dằn
vặt, ân hận, xót xa… và cứ thế mà… buồn thấm thía. (Có những nhà (gọi là) thơ
cố “rặn” ra nỗi buồn (vì chỉ có những bài thơ buồn mới có thể trở thành bất
tử!?) nhưng viết “ồn ào”, “sáng tạo” quá nên làm người đọc thấy… vui quá, hoặc…
nổi điên!). Chúng ta là người buồn thứ hai vì cũng đã từng chịu nhiều vết
thương lòng, đã từng nhiều lần có tâm trạng u sầu, chán nản nên dễ đồng cảm với
nhà thơ và cũng cứ thế mà buồn theo, man mác!…
Nỗi buồn của
Nguyễn Bính và nỗi buồn của chúng ta (bị “lây” bởi nỗi buồn Nguyễn Bính) chính
là cảm giác theo (hay qua) kinh nghiệm. “Chơi dao lắm cũng có ngày đứt tay”,
những ai chưa một lần đứt da rách thịt và không cảm giác lại được sự “đau
thương” của đứt da rách thịt thì sẽ rất coi thường lời cảnh báo ấy vì… chả hiểu
gì cả. “Có đi mưa mới biết lạnh”, “chưa thấy quan tài chưa đổ lệ” là những câu
có ý nghĩa tương tự.
Trong bài
“Viếng hồn trinh nữ”, ở khổ thơ cuối cùng, Nguyễn Bính viết:
“Tôi với nàng tuy
không biết nhau
Mà tôi thương tiếc
bởi vì đâu?
(…)
(…)”
Bởi vì đâu? Vờ
hỏi thế thôi chứ Nguyễn Bính biết và ông đã trả lời cặn kẽ bằng cả bài thơ đó
rồi. Nhà thơ thương tiếc vì đã thấy đám tang của cô gái trinh trắng đó; vì đã
cám cảnh mẹ cô:
“ Người mẹ già kia
tuổi đã nhiều
Đã
từng đau khổ biết bao nhiêu
Mà
nay lại khóc thêm lần nữa
Nước mắt còn đâu
buổi xế chiều”
của em cô:
“Những đứa em kia
chưa khóc ai
Mà nay phải khóc
một người rồi
Mà nay trên những
môi non ấy
Chẳng được bao giờ
gọi: Chị ơi!”
và của người
yêu cô:
“Nàng
đã qua đời để tối nay
Có chàng đi hứng
gió heo may
Bên hồ để mặc mưa
rơi rớt
Đếm mãi bâng quơ
những dấu giày”
Tất cả những
hoạt cảnh dù thực hay suy tưởng ấy đã tạo nên những cảm giác tang tóc, buồn bã,
xót xa, thông cảm… và những cảm giác đó đã đúc thành nỗi thương tiếc.
Tại sao những
hoạt cảnh mà nhà thơ “thấy” lại làm cho nhà thơ có nỗi niềm như vậy? Là tại
trước đó nữa nhà thơ đã gặp những trường hợp tương tự và đã cảm nhận tương tự
như vậy. Cuối cùng là bản thân nhà thơ trong một vài trường hợp đã trực giác được
sự đau khổ của tang tóc, chia lìa và một vài trực giác ấy đã khắc sâu trong tâm
khảm bản thân nhà thơ, trở thành những kinh nghiệm đầu tiên để từ đó, cùng với
sự liên tưởng, phán đoán, suy diễn mà dần nảy nở những cảm giác nói trên. Những
cảm giác đó là gián giác (chúng ta gọi cảm giác theo kinh nghiệm là cảm giác
gián tiếp và để đối ứng với từ “trực giác”, chúng ta dùng từ “gián giác”, thay
cho “cảm giác gián tiếp”). Tuy nhiên những gián giác càng lùi sâu vào dĩ vãng,
càng chuyển hóa gần trực giác. Khi đã “chìm” vào tiềm thức, chúng trở thành
những trực giác. Nói chung, không thể phân biệt được tuyệt đối giữa trực giác
và gián giác mà chỉ có thể bằng cách tương đối, trong sự qui ước.
Dù sao thì cũng
vẫn có thể nói sự từng trải của nhà thơ Nguyễn Bính đã làm nên bài thơ “Viếng
hồn trinh nữ” và sự thương tiếc của ông trong trường hợp này là một gián giác
(Xin nói nhỏ rằng nhận định này là của… Thầy Cãi. Chúng ta đừng cãi làm gì cho
tốn sức! Mới nhắc đến tên ông ta thôi mà đã thấy… mệt rồi!).
Gián giác “thương
tiếc” được hình thành nên từ những gián giác buồn bã, xót xa, ái ngại… mà lúc
đó đã đóng vai trò như những trực giác. Chà! Nghe ra cũng khá bùi tai!.
***
Tác động - phản
ứng (nói phản ánh cũng được thôi!), hay gọi một cách “cơ học hóa” là tác động
tương hỗ, là một trong những thuộc tính cơ bản nhất của Tự Nhiên Tồn Tại. “Công
lao” vĩ đại nhất của nó là tạo dựng nên… tất cả. Nhờ có nó mà có sự phân định
ra khách thể và chủ thể, mà có thực thể quan sát và thực thể bị quan sát. Con
người phải chịu ơn nó “đời đời” vì nó đã làm cho con người quan sát được và có
khả năng nhận thức được, đồng thời ban tặng cho con người “Thế giới khách quan”
(một bộ phận to lớn của Tự Nhiên Tồn Tại) để mà quan sát, để mà nhận thức; để
rồi dần dần “thấy” chính chân tướng của nó cũng như cảm giác được toàn bộ Tự
Nhiên Tồn Tại!…
Sự phản ứng là
căn nguyên của “giác”, làm cho sinh vật “giác” được và ở động vật bậc cao là
“trực giác” được. Trực giác là giác đã xuất hiện ý thức, đồng thời ý thức làm
cho các giác phân hóa thành đa dạng. Trực giác là tiền đề làm ra gián giác,
giữa chúng có mối liên hệ nhân quả đối với nhau, chuyển hóa nhau, lập thành một
“hệ thống” gọi là cảm giác.
Có thể cho rằng
ở loài vật chỉ có trực giác còn ở loài người thì có cả trực giác và gián giác
không? Thực là khó trả lời! Có lẽ không nên đồng nghĩ gián giác với cảm giác
theo kinh nghiệm mà phải phân biệt thế này: kinh giác (cảm giác theo kinh
nghiệm) là bộ phận của gián giác và là thể ở bậc thấp trong “hệ thống” các gián
giác. Như vậy loài vật chỉ có trực giác và kinh giác, còn con người thì “có đủ”
các loại cảm giác? Tạm chấp nhận vậy thôi chứ không hẳn thế!
Nếu nói trực
giác ở loài vật (nghĩa là không lẫn với “tạp niệm”?) là hình thức khởi đầu, sơ
khai của cảm giác (trước "giác"?) thì cũng có thế nói ý thức ở loài vật (không phải ý niệm hay
ý thức như ở loài người, đã thông qua sự suy nghĩ. Vậy thì là cái gì? Không
biết!) là dạng nguyên thủy, có tính chất đơn vị của khái niệm (để từ đó mà nảy
sinh ra khái niệm?). Hơn nữa, còn có thể nói ý thức (ở loài vật) là khái niệm
câm nín mù quáng và khái niệm là ý thức (ở loài vật) đã biết nói, “sáng tỏ” nhờ
nhận thức(?). Khi ý thức biết nói thì thú vật thành con người !!! Câu nói đó kể
cũng tạm được cho là hay. Nhưng câu nói sau đây hay hơn: mất đi khái niệm, con
người thành con vật, mất đi ý thức, con người không bằng con vật… đang thức.
Con người khi ngủ say, ngất xỉu, hôn mê là tạm thời rời bỏ vai trò làm người;
khi mộng mị, mê man, hoang tưởng là tạm thời rời bỏ thực tại, sống trong cõi
phiêu bồng với những “kinh nghiệm” về cảm giác và suy tư còn tàng trữ trong
tiềm thức. Lúc đó luật về tính trội tính lặn được phát huy để cõi phiêu bồng ấy
trở thành như một miền cực lạc hoặc buồn thương.
Nếu nhận định
trên là đúng thì mong mọi người đừng cố gắng tìm cách rời bỏ khái niệm vĩnh
viễn, dù rằng là vượt lên trên nó, “siêu thoát” khỏi nó, vì như thế sẽ chẳng
được lợi lộc gì, chẳng có thêm một “sáng kiến” gì mà lại rất chi là nguy hiểm.
Khi cơ thể rã rời, đầu óc rối bời căng thẳng thì nên… đi chơi, thư giãn, nghỉ
ngơi và cố mà ngủ cho được, nhưng có lẽ thực hành “thiền” là cách hữu hiệu
nhất, có tác dụng tích cực trên nhiều mặt đối với tâm, sinh, lý. Khí công dưỡng
sinh (trong đó có thiền) là một cứu cánh tuyệt vời đối với sức khỏe con người.
Chúng ta khẳng định vì đã trải nghiệm!
Tác động - phản
ứng là vốn dĩ thế vì thực ra không biết được cái đó là cái gì. Chỉ khi có khái
niệm, nhận thức (con người) mới gán cho nó nhãn mác như thế để từ đó mà qui ước
ra như thế, để rồi cũng chẳng phải như thế và cũng chẳng ai hiểu gì hết nếu không
giải thích, nhưng càng giải thích lại càng khó hiểu vì chưa qua… phiên dịch, mà
phiên dịch xong rõ ràng rồi đôi khi vẫn cứ… mù tịt. Tự Nhiên Tồn Tại ngay từ
đầu đã phô bày tất cả bản chất của nó ra trước mắt con người. Con người thấy
hết nhờ khái niệm và vì thế mà cũng mù lòa. Đó phải chăng là điều kỳ dị nhất
của Tự Nhiên Tồn Tại?! Hay Tự Nhiên Tồn Tại “giở trò” đó là có ý khuyên: hãy
nhìn kỹ đi, hãy thấy hết đi dù là trong màn sương mù lòa, rồi nhắm mắt lại suy
tưởng để mà “biết” cái đã, sau đó linh giác sẽ đến và cho thấy tất cả một cách
chân xác, “thấu suốt được cái tình của muôn vật”!
Linh giác? Đúng
vậy, linh giác là cảm giác đạt mức cao độ, hơn nữa là gần tột độ (Tột độ sẽ
không phản phục được mà đi tiếp vào… bệnh viện, chung thân ở đó!) là đỉnh cao
của tri giác (tri giác là đỉnh cao của gián giác; nhờ học sâu, biết rộng mới có
được). Cần phân biệt linh giác (hay còn gọi là linh cảm) với siêu giác (hay còn
gọi là siêu cảm). Trong nhiều trường hợp, những phản ứng ờ tầng nào đó sâu hơn,
thuộc vùng nền tảng (của sự sống), bình thường không thể giác được, được tích
hợp, kích hoạt mạnh mẽ do một nguyên nhân nào đấy (Chẳng hạn như sự tăng đột
ngột các bức xạ phát ra từ tâm chấn động gây nên sóng thần) đến mức có thể trực
giác được và đó là siêu giác. Về mặt nào đó, loài động vật hơn hẳn chúng ta về
loại cảm giác này. Con chó có mũi thính hơn mũi con người gấp hàng triệu lần và
đối với nó chỉ là chuyện bình thường nhưng đối với chúng ta, đó lại là một dạng
siêu giác. Cũng phải thôi, được cái này phải mất cái kia, con người được trí
thông minh (trên cả tuyệt vời rồi!) mà còn đòi có mũi nhậy như chó nữa, có mà…
loạn à?!
Thiền dưỡng
sinh là con đường đi tìm lại siêu giác và nếu có căn duyên thì sẽ tìm thấy được
phần nào đó. Không những thế, hơn con vật nữa, bằng thiền dưỡng sinh, con người
còn có thể điều chỉnh được quá trình tác động - phản ứng ở một tầng sâu nào đó
của cơ thể bằng lý trí.
Có thể giải
thích tác dụng chữa bệnh của khí công, những công phá thượng thừa của võ công
trên cơ sở của quan niệm vừa nêu không?
Ở
con người bình
thường, tuy hiếm hơn nhưng vẫn xuất hiện siêu giác. Thần giao cách cảm
là một
biểu hiện sự siêu giác. Ngoài ra, trạng thái lên đồng, nhìn thấy người
cõi âm,
nói chuyện với “vong”, tìm mộ từ xa… đều là những biểu hiện của siêu
giác…(Rồi đây sẽ phải có một môn học thực sự có tính khoa học bàn về sự
tồn tại của cái gọi là "linh hồn"!). Theo quan niệm của triết học duy
tồn thì chúng ta cho rằng hiện tượng "ngoại cảm" và sự tồn tại của linh
hồn là hoàn toàn có thật, không thể chối cãi được! Nhưng phải hiểu chúng
theo nghĩa...tồn tại, nghĩa là linh hồn chỉ tồn tại thực sự với những
linh hồn "sống" thực sự, những linh hồn biết..."ngoại cảm"!!!
Một khi siêu
giác kết hợp được với linh giác, chúng sẽ cộng hưởng tạo nên một trạng thái cảm
giác cao nhất của mọi loại cảm giác, đó là linh tri (hay còn gọi là tiên tri)???
Lần theo dấu
“tiến hóa” của khái niệm, chúng ta cũng đến cái đích là linh tri. Khi ý thức
“biết nói” thì nó trở thành khái niệm. Có thể phân định khái niệm thành hai
loại tương đối là khái niệm được “thốt ra” từ trực giác và khái niệm được “lôi
ra” từ gián giác. Loại khái niệm thứ nhất là “tên gọi”, là “nhãn mác” có được
trực tiếp từ trực giác và chỉ thế, không giải thích nên chưa có nội hàm, không
so sánh nên cũng chẳng có ngoại diên.
Không suy diễn
nên nó có tính đơn nhất rời rạc, không tính đếm nên nó có tính toàn thể, và…
hết. Loại khái niệm đó được tạm gọi là khái niệm trực tiếp.
Xưa thật là
xưa, vào thời mà con người chưa ra con người; còn nửa người nửa ngợm (nửa người
nhiều hơn nửa ngợm!?), có lẽ cái đám người ngợm ấy chỉ “biết” nhìn sự vật một
cách thuần túy trực giác. Họ “thông tin” cho nhau chỉ bằng hò hét và chỉ trỏ để
hàm ý: đây, kia (ở đây, ở kia), này, đó (cái này, cái đó)… Sự hò hét, chỉ trỏ
đó diễn ra, lặp đi lặp lại qua bao nhiêu thế hệ, bao nhiêu thời gian không biết
nữa. Chỉ biết rằng có những lúc hò đến độ gào thét, chỉ trỏ đến oải tay, lắc
gật đến sái cổ, dậm chân đến độ thốn đầu gối, vặn vẹo thân mình đến nhừ xương
mà kẻ nghe vẫn cứ ngơ ngơ ngác ngác, lầm lạc lung tung đến độ như… bị điếc. Có
như thế là vì mắt của “đám người ấy” ngày một sáng tỏ, nhìn thấy ngày một
nhiều, không chỉ thấy “đây, kia, này đó” mà còn “nhiều đây, nhiều kia, nhiều này,
nhiều đó”. Trong khi thông tin vẫn chỉ có hò la, chỉ trỏ: “đây, kia, này, đó”
thôi thì kẻ nghe làm sao mà biết được đây nào, kia nào, này nào, đó nào? Kẻ báo
tin gào thét, múa may quay cuồng để cố “giải thích” đã đành, kẻ nhận tin cũng
gào thét, múa may quay cuồng vì tức tối. Tình cảnh ấy đã làm cho bộ não “mủi
lòng”, dần tỉnh ngộ, biến cái nửa ngợm kia thành nửa người nốt. Từ đó cái đám
“trẻ người non dạ” ấy thích thì cứ hò la gào thét nhưng không cần phải hò la
gào thét một cách “ú ớ” để giải thích nữa vì đã có… khái niệm: này là (cái)
cây, (con) lợn… đó là cây, lợn…, lợn này, lợn đó, cây này, cây đó… Và cũng từ
đó con người báo tin cho nhau mạch lạc hơn, phong phú hơn rồi đến độ nói chuyện
được với nhau.
Có thể đoán
rằng hò hét thét gào trong kiếm ăn sinh tồn ở thời kỳ đó là những khúc ca bi
tráng đầu tiên của con người về cuộc sống và sự múa may quay cuồng kèm theo
đồng thời với sự hò hét gào thét đó là những vũ điệu đầu tiên của nhân loại. Ít
ra thì cũng như một sự tích!
Khái niệm trực
tiếp có tính tiền đề vì không thể định nghĩa. Đồng thời khái niệm trực tiếp
cũng mang tính lịch sử vì theo sự phát triển của nhận thức, một khái niệm trực
tiếp nào đó sẽ mất tích tiên đề đi, nhường chỗ cho những khái niệm “tinh vi”
hơn đóng vai trò tiên đề mà dựa vào chúng, khái niệm ban đầu (đã mất tính tiên
đề và như vậy sự “xuất thân” từ trực giác của nó cũng lu mờ đi) sẽ được định
nghĩa. Thí dụ, khái niệm “cây”, lúc mới xuất hiện, là khái niệm trực tiếp. Nó
không có định nghĩa. “Cây” là “cây”, thế thôi chứ không phải là bất cứ cái gì
khác và do đó cũng không biết là cái gì. Khi có kẻ “hỏi” “cây là gì?” thì người
ta chỉ có một cách “giải thích” duy nhất là dẫn kẻ đó đến cái cây và chỉ vào
nó: “là đó đó!”; nghĩa là bằng cách trực quan.
Tính đa dạng
của sự vật hiện tượng trong thiên nhiên buộc con người phải nhận thức ngày càng
sâu rộng, rõ ràng hơn nữa, cụ thể hơn nữa. Đến một lúc nào đó, không thể “định
nghĩa” bằng cách chỉ vào cái cây, bằng cách vạch vẽ trên đất đá (buổi tối ở
giữa sa mạc chẳng hạn!) được nữa, mà câu trả lời “cây là cây” rõ ràng là mù tịt
và dễ bị “nện cho một trận”, làm xuất hiện những khái niệm mới làm tiên đề, và
cái cây sẽ được định nghĩa bằng ngôn ngữ trên cơ sở các khái niệm ấy. Lúc này,
trước câu hỏi “cây là gì?”, câu trả lời sẽ đại loại là: “cây là một thân gỗ mọc
từ đất, có cành, nhánh, lá và lâu lâu có cả hoa quả trên cành nhánh”. Khi đã
được định nghĩa thì khái niệm cây đã không còn mang tính tiên đề nữa, giai đoạn
ấy đã vĩnh viễn trở thành lịch sử (khi định nghĩa rừng là khu vực có nhiều cây thì
dù khái niệm cây có mất tính tiền đề, nó vẫn còn tính cơ sở, tương tự như nếu
khu rừng là một thực thể thì cây là đơn vị làm nên thực thể ấy!). Tất cả những
khái niệm còn lại như: cành, nhánh gỗ, lá, hoa, quả, đến lượt chúng, đóng vai
những khái niệm tiên đề.
Khái niệm tiên
đề là khái niệm chưa qua nhận thức lý luận, chưa được hiểu một cách bản chất.
Những khái niệm
nào (kể cả khái niệm trực giác) có được thông qua định nghĩa trên cơ sở các
khái niệm tiên đề hoặc được coi là cơ sở, nghĩa là những khái niệm không cần
phải “tận mắt chứng kiến” vẫn “thấy” được nhờ nhận thức, đều là những khái niệm
gián giác(?).
Quá trình phát
triển của nhận thức làm cho các khái niệm trực giác thuần túy chuyển hóa thành
khái niệm gián giác (tuy vẫn giữ được cái gốc trực tiếp của nó), nhưng cũng
đồng thời xuất hiện các khái niệm hình thành trên cơ sở các khái niệm gián giác
khác. Trong loại khái niệm sau có một bộ phận (rất nhiều trong khoa học, triết
học) gọi là khái niệm trừu tượng. Khái niệm trừu tượng là khái niệm được xây dựng
nên từ phán đoán, suy lý… và cả hoang tưởng (!) nữa, thiếu hoặc hoàn toàn không
có tính biểu tượng vì chưa hoặc không thể trực giác. Cuối cùng, ở nấc cao đó sẽ
xuất hiện siêu niệm (cơ sở hình thành của nó và cũng là kết quả của nó là linh
giác). Xâu chuỗi các linh niệm lại sẽ làm nên linh tri, những lời tiên tri,
những câu “sấm truyền”…
Thế còn “tiên
đoán”? Tiên đoán là… lời đoán của “ông tiên”! Không phải! Đã là tiên thì cần gì
đoán, nói một cái là trúng phóc ngay! Vậy tiên đoán chỉ có thể là siêu phán
đoán và có nguồn gốc từ siêu giác.
Từ hồi nào tới
giờ chúng ta đã phán đoán biết bao nhiêu rồi. Không biết có cái nào được gọi là
tiên tri không nhỉ? Đừng có mà dở hơi dở hám ra đây! Tất cả chỉ là đoán mò từ
quá trình hoang tưởng vì… dại (khờ) trên cơ sở những… hoang niệm của bộ não
chứa đầy hoang giác(!).
Cũng vì đầy
hoang giác như thế nên dù chúng ta đã học được rất nhiều từ “Lôgic học” truyền
thống; dù “Lôgic học” vẫn là một phương tiện vô cùng hiệu quả trong rèn luyện
tư duy, trong quá trình nhận thức thực tại, thì cũng vẫn cứ thấy trong đó nhiều
quan niệm đã lỗi thời, cần phải điều chỉnh lại. Nhưng chúng ta không bao giờ
làm công việc đó vì chúng ta bị “thiểu năng trí tuệ”, không có được sự sáng
suốt tổng quát hóa và độ chín chắn cần thiết. Muốn giũa gọt một khối hoa cương
đang đẹp đẽ hơn phải cực kỳ thận trọng, không lành nghề thì đừng có “sờ” đến
nó, kẻo mắc tội với tiền nhân! Đối với “Lôgic học” cũng vậy, không đủ tài trí
thì hãy để nó nguyên trạng vì nó vẫn đang có lý, vẫn đang đúng! Đúng không nào?
Trong cuốn
“Lôgic học” của E.A.Khơmencô (NXB Quân đội nhân dân, 1976), chúng ta rất khoái
(chỉ khoái thôi!) những dòng này:
“Tên khoa học
của Lôgic học bắt nguồn từ chữ Hy lạp là lôgốt (logos), có nghĩa là lời nói, ý
nghĩa, lý lẽ. Khoa học logic là khoa học nghiên cứu về những qui luật, hình
thức và công cụ của tư duy nhằm nhận thức thế giới khách quan (…).
(…)
Về mặt nội
dung, tư duy là sự phản ánh những qui luật của hiện thực xuất phát từ những qui
luật chung nhất của sự phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy chú ý đến
phép biện chứng khách quan của đối tượng thế giới và quá trình phản ánh đối
tượng ấy vào trong ý thức con người, khoa học lôgic dựng nên phương pháp khoa
học, biện chứng.
Đồng thời, quá
trình tư duy cũng có cơ cấu bên trong của nó. Quá trình đó được thực hiện thông
qua những hình thức đã hình thành một cách tự nhiên như khái niệm, phán đoán và
suy lý. Sử dụng những khái niệm, phán đoán để thu được những sự hiểu biết mới,
những kết luận trong sự duy lý, tất cả những cái đó hợp thành bộ máy hình thức
lôgic của tư duy (…).
Phát triển trên
cơ sở của lao động xã hội, kết cấu bên trong của quá trình tư duy được hình
thành phù hợp với qui luật của tự nhiên và đặc tính của bộ óc người. Hình thức
lôgic được quyết định bởi những đặc tính chung nhất, thường gặp nhất, bởi những
mối quan hệ và quan hệ đơn giản nhất của thế giới thực tại. Vì vậy, hình thức
lôgic phản ánh tính qui luật của những đặc trưng bền vững nhất của bất kỳ một
sự tư duy chính xác nào.
(…)
Các nhà duy tâm
phủ nhận tính khách quan của những hình thức và qui luật của tư duy. Họ cho
rằng, những qui tắc lôgic là sản phẩm của lý trí con người chứ không có chút
nào phản ánh những mối quan hệ và thuộc tính của bản thân hiện thực (…).
Con người không
phải là “xếp đặt” tự nhiên cho phù hợp với cấu tạo chủ quan của mình; mà ngược
lại, sự suy nghĩ của chúng ta về nội dung cũng như về hình thức chỉ là phản ánh
những mối quan hệ khách quan của thế giới hiện thực. Sự suy nghĩ theo một trật
tự nhất định, được thực tiễn kiểm nghiệm, lặp lại hàng ngàn triệu lần, được
củng cố trong ý thức con người dưới dạng hình thức lôgic vững chắc, qui tắc và
qui luật và trở thành chân lý, tiên đề (…).
Trong khi xuyên
tạc bản chất của quá trình tư duy, chủ nghĩa duy tâm mưu lợi dụng một vài nét
đặc trưng của hình thức lôgic vào mục đích phản khoa học. Một trong những nét
đặc trưng ấy là hình thức lôgic của tư duy được áp dụng vào mọi lĩnh vực của
tri thức, bao trùm mọi nội dung khác nhau của đối tượng. Từ đó các nhà duy tâm
rút ra kết luận rằng hình thức lôgic dường như không phụ thuộc vào nội dung của
suy nghĩ, là cái gì ở ngoài đối tượng, tiên nghiệm, trước kinh nghiệm. Nhà
triết học duy tâm Đức, Im. Căng (Kant) là người bảo vệ quan niệm đó.
Thế nhưng cái
thuộc tính bao trùm ấy của hình thức lôgic không chứng minh gì cho tính trống
rỗng, tính tiên nghiệm của hình thức lôgic mà chỉ nói lên một điều là hình thức
đó phản ánh những thuộc tính và quan hệ đơn giản nhất, đông đảo nhất của thế
giới hiện thực, chung nhất cho mọi đối tượng và hiện tượng của thực tại khách
quan. Vì vậy mà hình thức lôgic của tư duy trong khi phản ánh những thuộc tính
và quan hệ ấy đã được ứng dụng một cách phổ biến trong mọi lĩnh vực của khoa
học. Tính bao quát chung của hình thức lôgic không phải là xóa bỏ mà là càng
khẳng định nội dung khách quan của nó.
(…)
Những tri thức
của con người là sự phản ánh thế giới bên ngoài, là bản sao nguyên bản khách
quan. Hình thức lôgic cũng vậy, nó không tồn tại ở thế giới bên ngoài mà chỉ
tồn tại trong tư duy, là biểu hiện cơ cấu bên trong của tư duy. Vì vậy không
thể bắt buộc đi tìm sự tương ứng của thế giới bên ngoài cho mỗi “biểu tượng”
riêng biệt của hình thức lôgic. Bởi vì điều đó sẽ dẫn tới việc xóa bỏ sự khác
nhau về chất giữa cơ cấu bên trong của suy nghĩ và quá trình khách quan của sự
vật.
Đồng thời, hình
thức lôgic và qui luật của sự tư duy chính xác phải gắn liền với thực tại.
Những hình thức và qui luật lôgic ấy phản ánh cơ cấu có tính qui luật của quá
trình tư duy, nhận thức quá trình này, đến lượt nó lại phản ánh trật tự và mối
liên hệ khách quan của sự vật, phản ánh những thuộc tính chung nhất của đối
tượng thế giới.
(…)
Việc nghiên cứu
những hình thức lôgic của tư duy đã được tiến hành ngay từ hồi thế kỷ thứ VI -
V trước CN (…). Ở Hy Lạp thời cổ, những nhà triết học duy vật như Đêmôcrit
(khoảng 460 - 375 TCN), Eetxki Hêraclit (khoảng 540 - 480 TCN) là những người
đầu tiên nghiên cứu những vấn đề của lôgic học. Ngay từ những bước ban đầu mới
xuất hiện của nó, lôgic học đã được coi là một bộ phận cấu thành của tri thức
triết học.
Nhà tư tưởng Hy
Lạp cổ đại Arixtốt (384 - 322 TCN) có quyền được coi như là thủy tổ của khoa
học lôgic. Ông đã nghiên cứu một cách toàn diện những vấn đề cơ bản của khoa
học lôgic; hệ thống hóa những hình thức của tư duy như khái niệm, phán đoán,
suy lý; dựng nên những qui luật lôgic như những qui luật đồng nhất, qui luật
mâu thuẫn, qui luật bài trung; rút ra những qui luật logic của phép suy lý diễn
dịch và của luận chứng.
(…)
(…)
(…) Sự phân
tích cụ thể đối với thế giới đã quyết định sự phát triển của lôgic học qui nạp
với tư cách là một phương pháp để rút ra những nguyên lý chung có khả năng phát
hiện ra những qui luật của khoa học từ những tri thức kinh nghiệm. Nhà triết
học duy vật người Anh, Phrăng xoa Bêcơn (1561 - 1626) là người đã nghiên cứu
theo khuynh hướng mới đó của khoa học lôgic. Về sau này, rất nhiều nhà tư tưởng
cũng nghiên cứu về lôgic học, trong số đó cần phải chú ý đến nhà triết học
người Pháp, R. Đêcáctơ (1596 - 1650), nhà triết học và toán học người Đức,
Lêpnitxơ (1646 - 1716).
Những thành tựu
ban đầu của khoa học thực nghiệm thế kỷ XVI - XVII là những thành tựu về sự
phát triển của toán học, cơ học vật thể và thiên thể. Sự hạn chế của việc nhận
thức khoa học thời kỳ đó đã dẫn đến sự hình thành quan điểm siêu hình đối với
tự nhiên, coi tự nhiên như là một hệ thống cứng đờ và bất biến. Về sau này
phương pháp tư duy siêu hình đã ảnh hưởng đến quan niệm về đối tượng của lôgic
học hình thức. Người ta đã phán cho các qui luật của lôgic hình thức tính chất
tuyệt đối, nghĩa là những qui luật của nó không những chỉ tác động đối với tư
duy mà còn tác động cả đối với thế giới khách quan bên ngoài. Hình thức lôgic
được coi là nguyên tắc của tồn tại. Qui luật mâu thuẫn của lôgic hình thức được
coi là nguyên tắc khởi điểm của phép siêu hình. Tư duy của chúng ta không được phép
có mâu thuẫn, lôgic lại được lấy làm luận chứng khẳng định rằng bản thân hiện
thực không tồn tại mâu thuẫn (…).
Nhà triết học I.
Kant đã chống lại sự tuyệt đối hóa các qui luật lôgic nhưng đứng trên lập
trường duy tâm. Ông ta đã lập luận về lôgic thông thường một cách rất hình
thức, hoàn toàn tách rời khỏi nội dung của suy nghĩ. Căng đề xướng ra một kiểu
lôgic học khác (lôgic học tiên nghiệm). Theo lôgic học này thì mọi hình thức
của lôgic được coi như là những thuộc tính tiên nghiệm (trước kinh nghiệm) của
lý trí. Những thuộc tính này quyết định khả năng hiểu biết chung nhất, cần
thiết về hiện tượng của kinh nghiệm (…).
Giêoócgiơ
Phriđrich Hêghen (1770 - 1831) là người đã phê phán tỉ mỉ chủ nghĩa tiên nghiệm
(và chủ nghĩa bất khả tri) của Căng. Nhưng ông ta đã phê phán lôgic học hình
thức nói chung như đối với lôgic học “siêu hình”. Thái độ của ông ta đối với
lôgic học hình thức là xuất phát từ nguyên lý duy tâm khách quan về sự đồng
nhất giữa qui luật của tư duy và tồn tại. Theo ông, qui luật lôgic mang tính
phổ biến và được áp dụng vào mọi lĩnh vực của hiện thực (…).
C.Mác và
Ph.Ăngghen đã chỉ ra sai lầm căn bản của phép biện chứng duy tâm. Phép biện
chứng duy tâm tách khỏi cơ sở vật chất và biến thành một hệ thống tư biện về sự
tự thân vận động của ý niệm tuyệt đối. Mác và Ăngghen đã tước bỏ cái vỏ ngoài
thần bí của phép biện chứng Hêghen và đã gắn liền phép biện chứng một cách hữu
cơ với chủ nghĩa duy vật và đã làm cho nó trở thành môn khoa học về những qui
luật phát triển chung nhất của thế giới khách quan và của tư duy.
(…)
(…)
Những qui luật
của tư duy được hình thành thích ứng với những qui luật của thế giới khách
quan. Chỉ có xuất phát từ nguyên lý duy vật ấy mới có thể hiểu vì sao những qui
luật lôgic mang tính bền vững và tính chung của loài người.
Các nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác bao giờ cũng nhấn mạnh sự thống nhất giữa những qui luật
của tồn tại và của tư duy. Ph. Ăngghen viết: “Tư duy chủ quan của chúng ta và
thế giới khách quan đều phải tuân theo những qui luật và do đó, hai cái ấy, xét
đến cùng, không thể mâu thuẫn với nhau mà tất nhiên phải nhất trí với nhau
trong những kết quả của chúng - sự thật đó chi phối một cách tuyệt đối toàn bộ
tư duy lý luận của chúng ta”.
(…)
(…)
Tư duy của
chúng ta khác với những mầm mống của hoạt động tâm lý của động vật trước hết ở
chỗ con người có khả năng suy nghĩ một cách khái quát về đối tượng và hiện
tượng của thực tại khách quan dưới hình thức các khái niệm. Sự nhận thức thế
giới được thực hiện bằng cách xây dựng nên những khái niệm và sử dụng những khái
niệm ấy. Khái niệm xuất hiện với tư cách vừa là yếu tố khởi đầu của sự nhận
thức vừa là kết quả của sự nhận thức. Bất cứ một hình thức lôgic nào cũng đều
mang tính khái niệm.
(…)
(…)
Không nên hiểu
một cách giản đơn nguyên lý cho rằng khái niệm phải trùng hợp với đối tượng suy
nghĩ và đi tìm cho mỗi khái niệm một mô hình trực tiếp trong tự nhiên cũng như
trong xã hội. Có nhiều khái niệm trong khoa học không trực tiếp giống với đối
tượng bên ngoài. Nhưng trong hệ thống của nó, những khái niệm khoa học bao giờ
cũng phản ánh hiện thực khách quan.
(…)
(…)
Đặc điểm của
khái niệm với tư cách là một hình thức lôgic của tư duy là nó mang tính chung
của loài người. Sự suy nghĩ của chúng ta chỉ có thể thực hiện được trong hình
thức lôgic là khái niệm. Không có sự suy nghĩ nào mà không cần đến khái niệm.
Chỉ có trên cơ sở các khái niệm mới có thể có những hình thức khác của tư duy:
phán đoán và suy lý. Cũng dưới hình thức lôgic là khái niệm, chúng ta mới nhận
thức được thế giới bên ngoài. Sự phát triển của nhận thức cũng biểu hiện ở các
khái niệm. Bức tranh khoa học của thế giới là: một hệ thống khái niệm với con
số vô tận những sự phản ánh quá trình phát triển theo qui luật của thực tại
khách quan.
(…)
(…)
Bất cứ khái
niệm nào dù là trừu tượng nhất cũng bằng cách này hay cách khác có liên hệ với
cảm giác; tri giác, biểu tượng, là những cái nảy sinh ra do sự tác động của đối
tượng vật chất vào các giác quan của chúng ta.
(…)
(…)
Khái niệm được
biểu hiện bằng ngữ từ mang cái vỏ ngoài vật chất có thể tri thức được bằng cảm
giác. Bản chất của khái niệm với tư cách là hình ảnh của thế giới khách quan
trong suy nghĩ đòi hỏi phải có sự biểu hiện bằng cảm giác. Ngôn ngữ là hoạt
động trực tiếp của suy nghĩ. Còn ngữ từ là công cụ, là điều kiện cần thiết để
hình thành khái niệm. Nhưng nếu như không thể có ý nghĩa, không có ngôn ngữ thì
hệ thống công cụ ngữ ngôn cũng không thể tồn tại được nếu không có quá trình tư
duy phản ánh thực tại vào bộ óc con người. Khái niệm và ngữ từ không thể nào
tách rời nhau từ lúc xuất hiện cũng như trong quá trình hoạt động.
Ngữ từ là hình
thức biểu hiện bằng cảm giác của khái niệm, khái niệm là ngữ từ mang nội dung
của suy nghĩ. Giữa âm thanh của ngữ từ với bản chất của đối tượng, cũng như với
sự phản ánh đối tượng vào khái niệm không có mối liên hệ trực tiếp”.
Thế nào, theo
duy tâm hay theo duy vật? Chúng ta theo cả hai, hay nói đúng ra thì không “chê”
ai cả. Đã là những người đi đào bới lịch sử để tìm ngọc thì chúng ta không từ
chối bất cứ khu vực nào, miễn là không bị “những cái đầu nóng” cấm cản, bắt
phải kiêng kỵ hoặc không cho phép được “phạm húy”. Kinh nghiệm đã cho thấy rằng
hầu như ở bất cứ đâu trong lịch sử cũng đều có ngọc quý. Chúng ta hãy tranh thủ
lượm lặt ngọc được đến đâu hay đến đấy để bắt chước tổ tiên chúng ta sắp xếp,
may ra được một cái gì đó có tính trung dung và nếu được thì cũng đặt tên là
“lạc thư” (cuốn sách lạc lõng).
Nhắc đến Lạc
thư, chúng ta lại nhớ về nó. Chúng ta đã đột ngột bỏ nó trong khi duyên nợ với
nó vẫn còn. Phản phục? Đúng, phải trở lại để giải quyết nốt những dở dang!
Nhưng trước khi
trở lại, chúng ta nói thêm một chút nữa cho xong vấn đề ở đây kẻo lại gây ra
thêm một dở dang nữa.
Tại sao con
người thông minh hơn con vật? Vì con người biết suy nghĩ. Tại sao con người
biết suy nghĩ? Vì có khái niệm. Vì sao con người có khái niệm? Nhờ vào cảm
giác. Vì sao con người có cảm giác? Vì phải tuân theo luật tác động - phản ứng
của tự nhiên. Vì sao lại có luật đó? Vì có sự được tạo dựng và đồng thời tạo
dựng. Vì sao có quá trình đó? Vì có sự “cạnh tranh” được hiện hữu. Vì sao lại
muốn hiện hữu? Vì tồn tại là có tính phân biệt được. Vì sao tồn tại có tính ấy?
Vì như thế mới Tồn Tại. Thế Tự Nhiên Tồn Tại? Là
Tự Nhiên. Còn Tự Nhiên? Là vốn dĩ thế. Vốn dĩ thế? Vâng, vốn dĩ thế, đó là khái
niệm tiên đề của mọi khái niệm. Thế khái niệm tiên đề là gì? Là chịu, không thể
trả lời được nữa! Thua rồi chứ gì? Đúng! Thế thì hỏi hướng khác: Con vật có cảm
giác không? Có! Vậy thì nó phải có khái niệm hay đại loại cái gì đó tương tự?
Đồng ý! Vậy tại sao nó không suy nghĩ được? Vì cái gì đó đại loại tương tự như
khái niệm thì chưa phải là khái niệm nên con vật chỉ có vẻ như “nghĩ” thôi chứ
chắc chắn là không có “suy”. Sao lạ thế? Đó là vấn đề trí nhớ. Con vật có trí
nhớ là con người, con người không có trí nhớ là con vật. Này, nói thế mà cũng
nói được à? Nói được chứ sao không! Đành rằng ở rất nhiều con vật có “cái sự
nhớ” rất siêu phàm, qua bao nhiêu năm tháng, “lang bạt kỳ hồ” khắp nơi vẫn “đến
hẹn lại lên” qui cố hương để sinh sản (cá hồi, rùa biển…), thăm lại “mái nhà
xưa” (những đàn chim thiên di). Nói đâu xa, ngay ở loài chó thôi, sau vài năm
“gửi thân xứ người”, dù no đủ đến mấy vẫn không quên chủ cũ. Vì thế mà không lạ
gì khi loài chó trở thành biểu tượng của lòng trung thành vô bờ. Nói chung,
bình thường vẫn có sự nhớ ở loài vật, nếu không thì không thể giải thích hiện
tượng có cảm giác ở chúng và cảm giác đó được phân biệt với những cảm giác
khác, được “định dạng” trong suốt cuộc đời chúng. Vậy thì đâu có thể dùng trí
nhớ để phân biệt người với con vật được? Nhưng rất rõ ràng là nếu bỗng dưng mất
hẳn trí nhớ, chúng ta lập tức phải trở về với thế giới loài vật hoặc ở mức độ
đỡ hơn là thành vừa người vừa ngợm (mà phần ngợm lấn áp phần người!). Để bảo
lưu ý kiến của mình, chúng ta cho rằng ở loài vật vẫn tồn tại sự nhớ nhưng cái
nhớ ấy chỉ ở dạng sơ khai của trí nhớ, là sự không quên một cách vô thức hoặc
thiếu ý thức; như một ấn tượng có được từ cảm giác thuần túy trực giác và ở mức
siêu việt, từ siêu giác thuần túy. Cái sự nhớ sơ khai, cái sự không quên nhưng
chưa phải là trí nhớ ấy chỉ xuất hiện trong não bộ của loài vật khi các giác
quan của chúng bị tác động trực tiếp (trực giác thuần túy) từ nguyên nhân bên
ngoài hay cũng có thể có nguyên nhân từ các cơ quan nội tại và nói chung (vì có
thể cũng có cá biệt) là tồn tại trong thời gian không lâu (phản xạ vô điều kiện
kiểu “cơ học”, không cần phải thông qua bộ não được cho là một hiện tượng khác,
không liên quan đến vấn đề ở đây) sau tác động. Nếu những tác động tương tự như
vậy lặp đi lặp lại, sẽ tạo nên ấn tượng và được “khắc ghi” trong vô thức mà
cũng có thể là tiềm thức con vật. Nó chẳng nhớ nhưng cũng không quên. Sau một
thời gian, tác động giống thế xảy ra, nếu “khắc ghi” đó chưa mờ, ấn tượng sẽ
xuất hiện trong não con vật. Việc thiết lập được phản xạ có điều kiện trên loài
vật có thể là nhờ nguyên tắc này!
Chúng ta biết
đau thì con vật cũng “biết” đau. Nhưng trong khi con vật chỉ thấy đau như một
ấn tượng câm nín thì chúng ta vừa thấy như thế, vừa thấy như một khái niệm;
trong khi loài vật không chủ động lưu nhớ ấn tượng ấy thì con người nhớ lại
được cái quá trình bị đau ấy và vì thế mà “thấm thía” hơn con vật. Đàn chim
thiên di không bao giờ “nhớ nhung” xứ sở, nhưng nó sẽ không quên đường về xứ sở
khi bị tác động trực tiếp, theo chu kỳ nào đó của thiên nhiên. Còn con người
khi “tha phương cầu thực” thì lại đau đáu một nỗi niềm “viễn xứ hoài cố hương”
nhưng đôi khi lại không nhớ đường về. Sự hồi tưởng là một đặc ân mà cũng là
hình phạt của Tạo Hóa trao cho con người, làm con người vì có nó mà cảm thấy
hạnh phúc cũng như khổ đau. Nói thế chứ hỏi “đau” là gì, đố ai mà trả lời cho
suông sẻ được. Cùng lắm cũng chỉ có thể trả lời: đau là một trong những ấn
tượng có được nhờ cảm giác. Nhưng ấn tượng đó là gì thì chắc chắn là “cứng
họng”! Điều đó dễ hiểu thôi: “đau” là một khái niệm trực tiếp, có tính tiên đề.
Như vậy, sự
không quên hay sự nhớ sơ khai ở loài vật mang tính thụ động, rời rạc, mù quáng;
sự nhớ ở người cũng như thế nhưng hơn loài vật là còn thêm được tính chủ động,
liên tục và khả năng lưu nhớ, tàng trữ vừa đủ lâu về thời gian, vừa đủ nhiều về
số lượng các ấn tượng (rồi đến biểu tượng), tạo tiền đề cho sự hồi tưởng, liên
tưởng xuất hiện để từ đó mà hình thành nên được những khái niệm (có vẻ như)
không liên quan gì đến sự trực giác nữa (khái niệm trừu tượng) mà chỉ loài
người mới có. Nói gọn lại, “nhớ” ở loài vật là sự không quên thụ động; “nhớ” ở
người là sự nhớ chủ động, có “trí” đằng trước nên còn gọi là “trí nhớ”.
Trí nhớ ấy có
được từ khi nào? Khi bắt đầu “biết” vạch vẽ để “đếm” đồng thời biết “đặt nhãn
mác”, “gọi ra được” tên các sự vật - hiện tượng, trên cơ sở phân biệt, so sánh
và qua đó mà xuất hiện sự hồi tưởng.
Xét một cách
tổng thể thì mọi quá trình vận động, chuyển hóa, biến đổi trong Vũ Trụ là liên
tục một cách tuyệt đối để không xuất hiện Hư Vô. Nhưng xét trong một phạm vi
hẹp, một tầng nấc cụ thể, có hạn độ nào đó, với những khả năng quan sát nhất
định, khả năng trực giác nhất định thì nhiều quá trình, chuyển hóa, biến đổi
lại thể hiện ra một cách tương đối gián đoạn. Tuy nhiên, nếu xét vấn đề theo
một quan niệm khác, trên một góc độ khác, chúng ta sẽ thấy rằng vì Tự Nhiên Tồn
Tại muốn thể hiện được thì Nó phải được phân biệt đến “chân tơ kẽ tóc” nên tính
gián đoạn có ý nghĩa tuyệt đối, trong khi tính liên tục lại chỉ mang ý nghĩa
tương đối. Và xét đến cùng thì để vừa lòng “mọi nhà”, không còn cách nào khác,
chúng ta phải dùng cách trả lời nước đôi: “Vậy mà không phải vậy, là cả hai mà
cũng không phải cả hai”.
Tự Nhiên Tồn
Tại là duy nhất và thống nhất, nhưng trước nhận thức, nó thể hiện ra như là hai
cái trái ngược nhau, làm cho ngay từ buổi đầu nhận thức tới nay, triết học
phương Đông “không biết Nó là cái gì”, còn triết học phương Tây phân thành hai
lực lượng “đấu đá” nhau kịch liệt. Điều lạ lùng nhất là ai cũng trưng ra được
những lý lẽ rất xác đáng, những “pho lập luận” toàn tập dày cộp chứa không phải
là ít chân lý, châu ngọc trong đó.
Nêu vấn đề đó
ra để thấy rằng dựa vào sự xuất hiện trí nhớ, nếu không thì là vạch vẽ, không
nữa thì dựa vào ngôn ngữ, nếu không được nữa thì cuối cùng là dựa vào sự xuất
hiện của chữ viết, dứt khoát chúng ta sẽ phân biệt được loài người với loài
vật. Nhưng nếu xét theo một cách hiểu nào đó thì cũng không thể phân biệt dứt
khoát được loài người với bộ phận còn lại của sự sống. Hơn nữa, xét trong quá
trình tiến hóa liên tục thì không thể khẳng định chính xác được thời điểm loài
người thoát thai khỏi thế giới động vật, dù khảo cổ học có thể phát hiện những
di tích hóa thạch có vẻ thuyết phục đến mấy chăng nữa, vì đó là quá trình “tiến
thoái lưỡng nan” dài lâu.
Có thể nguyên
nhân bên ngoài là quan trọng, nhưng không mang tính quyết định mà chính nguyên
nhân bên trong mới là trực tiếp và chủ yếu làm chuyển hóa từ vượn sang người.
Sự mất đi các giống loài cũ và xuất hiện các giống loài mới là kết quả của quá
trình tiến hóa thích nghi trước những biến đổi có tính chất bất thường của thời
tiết, khí hậu và theo yêu cầu của cân bằng sinh thái. Lẽ tự nhiên, nếu tự do,
sẽ có vô vàn cách thức thích nghi nhưng vì có sự ràng buộc của tổng thể nên chỉ
có một số lượng giới hạn (dù rất nhiều) cách thức thích nghi phù hợp nhất được
ưu tiên triển khai làm xuất hiện đa dạng giống loài. Tính kế thừa (hay di
truyền) đã là nguyên nhân cho sự “hao hao”, không giống mặt này cũng giống mặt
khác giữa một số lớn các giống loài và toàn bộ đều mang trong lòng chúng những biểu
hiện về một nguồn gốc tổ tiên chung. Cũng vì phải theo yêu cầu của thích nghi,
chịu sự ràng buộc của tổng thể mà sự xuất hiện đa dạng các giống loài không thể
là tùy tiện. Thiên nhiên khó lòng dung nạp một con hổ có năm chân; một con voi
muốn có thật nhiều chân thì phải biến thành con… rết; con trăn không có chân
hóa ra lại tiện, bò vùn vụt, có thể dùng thân “bóp chết” một con hươu và cái
miệng nó, bình thường thì nhỏ dễ thương thế nhưng nhờ có cấu tạo của bộ răng và
dạ dày, khi “điên lên” nó có thể nuốt gọn một con voi (theo Hoàng Tử Bé!).
Ở một giai đoạn
nào đó của sự tiến hóa, trong giới động vật kiếm ăn trên mặt đất sẽ xuất hiện
một hướng sống thích nghi mới, đó là leo trèo hái quả thay vì đứng dưới chờ
“sung rụng”. Nhiều loài chọn lối sống ấy để “hớt tay trên” những “đồ làm
biếng”.Trong số đó có một loài là tổ tiên của loài vượn. Lúc đầu, nhờ thiên
nhiên ưu đãi nên loài này cũng sống “tạm ổn”. Sự cân bằng sinh thái luôn luôn
bị phá vỡ bởi sự bất thường của môi trường thiên nhiên và sự tăng trưởng dân cư
của những giống loài tương đối có ưu thế hơn trong cạnh tranh để sinh tồn, và
cũng luôn có xu thế đạt tới cân bằng nhờ sự phân bố lại trong thế giới sinh vật
về lực lượng cũng như bằng con đường thoái hóa của giống loài không kịp biến
đổi để thích nghi và một bộ phận tiến hóa, dần thích nghi được trong điều kiện
mới.
Loài tổ tiên ấy
trong điều kiện thức ăn (hoa quả) trên cây ngày càng khan hiếm trước số lượng
“nhân khẩu” đã quá đông đảo có được từ thời kỳ “thịnh vượng” đã qua, chưa kể
lực lượng cạnh tranh của giống loài khác sẽ phải xử sự như thế nào? Với “tướng
tá” khá “kềnh càng” lỡ có được từ thời sống thường xuyên trên mặt đất, không
thể bỗng chốc mà hóa ngay thành chim được. Chỉ còn hai hướng khả dĩ: “suy dinh
dưỡng” và quay về lại với cuộc sống thường xuyên trên mặt đất. Hướng “suy dinh
dưỡng”, đói khát làm một bộ phận tiêu vong, bộ phận kia hóa nhỏ lại để vừa
“tiết kiệm” thức ăn, vừa có điều kiện hái được những quả mọc ở chót vót đầu
cành, cạnh tranh với “đám” có dạng như sóc, thỏ… Hướng “qui cố hương”, vì đã
thích nghi quá lâu với đời sống “đánh đu” trên cây nên cấu trúc cơ thể đã không
còn phù hợp với cách đi bốn chân trên mặt đất nữa. Một bộ phận trong số đó
“đành” tiêu vong. Bộ phận còn lại ăn tất cả những gì vớ được: trái cây, hoa cỏ,
củ rễ, côn trùng… (và cả những loài thú nhỏ may ra bắt được?). Quá trình tiến
hóa thích nghi lại phân bộ phận còn lại này thành những bộ phận nhỏ: có bộ phận
lại gặp được điều kiện thuận lợi mới nên quay lại đời sống trên cây nhưng không
thường xuyên, có bộ phận trú ngụ trên cây nhưng kiếm ăn ở dưới đất, có bộ phận
“định cư” dưới gốc cây, loanh quanh kiếm ăn gần đó, luôn đấu tranh sinh tồn với
muông thú nên trở thành “hộ pháp”… Nhưng có một bộ phận tiến hóa theo hướng “lạ
hoắc”. Do gặp điều kiện khắc nghiệt hơn những bộ phận vừa nói, phải “trường
chinh” lang thang đi kiếm ăn khắp khu rừng này đến khu rừng khác, trong khi
phải “bồng bế” con cháu (con, cháu chúng do vẫn còn được di truyền những cách
thức cơ bản của cuộc sống trên cây nên không thể mau chóng tự theo cha mẹ được
(?)) và lý do quan trọng hơn cả là với cấu trúc cơ thể “nghều ngoào”, chỉ phù
hợp với việc đu cành (cơ thể thường thẳng đứng so với mặt đất!) thì không thể
“phi” nhanh như ngựa hoặc ít ra là như heo được, mà chỉ có thể là bò lồm cồm,
cho nên một lựa chọn duy nhất đúng cho hướng tiến hóa thích nghi là đứng lên,
đi bằng hai chân, lúc đầu chệch choạc một tý nhưng bù lại, đôi tay quá khỏe (vì
từng đu cành) “cơ bắp cuồn cuộn” đã được giải phóng, trở thành vũ khí lợi hại
“nghênh chiến” với cọp beo. Đây chính là thủy tổ trực tiếp của loài vượn người.
Loài thủy tổ
ấy, với đôi tay “gang thép”, khi đã vững vàng trên đôi chân trải qua vạn dặm,
đã không còn khiếp sợ trước mãnh thú; thậm chí họ đã trở thành “nỗi kinh hoàng”
của chúng. Đặc biệt với đôi tay đã quen với cầm nắm (khi đu cành, hái quả), họ
đã xé xác con vật bằng tay trước khi ăn thịt. Tiền đề cho việc sử dụng công cụ
hỗ trợ đã sẵn sàng!
Sự biến đổi đột
ngột của môi trường thiên nhiên do thiên tai có thể tiêu diệt một bộ phận hay
thậm chí là tuyệt diệt toàn bộ sinh vật trên trái đất nhưng lại không có khả
năng ảnh hưởng một cách quyết định tới xu thế của quá trình tiến hóa thích nghi
sinh vật. Xu thế ấy có định mệnh của nó. Chính sự vận động nội tại của thế giới
sinh vật đưa đến định mệnh đó; chính mối tương quan, sự tác động qua lại làm
biến đổi chuyển hóa lẫn nhau giữa các lực lượng sinh vật trong một khu vực sinh
thái nói riêng và trên toàn Trái Đất nói chung theo những qui luật hoàn toàn tự
nhiên đã quyết định cái xu thế ấy.
Đã ở trong cùng
một quá trình thích nghi tiến hóa, đã ở trong một cơ thể thích nghi tiến hóa
với vai trò chủ đạo làm nên sự tiến hóa thích nghi thì bộ não không thể “tụt
hậu”. Tùy theo hướng tiến hóa thích nghi mà bộ não phát triển một cách phù hợp.
Nó có thể được tăng cường siêu giác hoặc tăng cường khả năng lưu giữ “thông
tin” (về số lượng thông tin, độ dài thông tin, thời gian lưu giữ).
Với cấu trúc cơ
thể đặc thù, với phương thức kiếm ăn săn bắt hái lượm theo bầy đàn, nhất là với
bàn tay luôn “muốn” cầm nắm đã làm cho bộ não của loài thủy tổ của vượn người
phát triển theo hướng thứ hai và đến khi có ngôn ngữ, chữ viết (hai phương tiện
hỗ trợ đắc lực cho trí nhớ) thì bộ não đó đã mang tính đặc thù của não người và
trở thành vô địch.
Như vậy, người
mẹ thiên nhiên đã sinh thành nên bàn tay quen cầm nắm. Và bàn tay quen cầm nắm
thời xa xăm cổ xưa ấy đã đẽo tạc nên loài người.
Cũng bàn tay ấy
đã dẫn con người đến sự đếm để từ đó mà tiến thẳng, dứt khoát lên văn minh.
Chính nhờ đôi
tay ấy mà có được Hà Đồ - Lạc Thư danh bất hư truyền làm cội nguồn cho một
triết thuyết phương Đông đến ngày nay còn mê hoặc lòng người.
Nhưng tại sao
bàn tay đó lại có đúng năm ngón? Vô tình hay tiền định?
Phải chăng đó
là một bí ẩn vĩnh viễn?
***
Đối với một
người nào đó, thật khó mà nhớ rành mạch được quãng đầu tiên, từ bốn tuổi trở về
trước, của cuộc đời mình. Thậm chí là hầu như chẳng còn nhớ gì. Hồi đó chúng ta
có trí nhớ không? Hay sớm hơn nữa, lúc một tuổi chẳng hạn, chúng ta có trí nhớ
không? Có thể là không, không có trí nhớ mà chỉ có sự nhớ mù quáng thôi, bởi vì
chúng ta đã có cảm giác trực giác: đói, khát là khóc, té đau là khóc. Đã ai dạy
cho đâu mà chúng ta “biết” đói, khát, đau. Rõ ràng trong đầu chúng ta chưa thể
hình thành khái niệm đói, khát, đau. Đó chỉ là những ấn tượng câm lặng. Nhờ có
mẹ mà dần hình thành nên trong chúng ta hết khái niệm này đến khái niệm khác,
và cũng từ đó, chúng ta dần biết nói.
Cùng lúc, có
thể muộn hơn hay sớm hơn một chút, nhưng có thể cho là song hành với quá trình
đến với khái niệm là quá trình từ nằm ngửa rồi ngọ nguậy, rồi lật, rồi trườn,
bò, ngồi, rồi đứng lên, tập đi và thuần thục cách di chuyển vị trí bằng bước đi
của hai chân. Quá trình này là tự nhiên hay nhờ mẹ dạy? Có lẽ cả hai, giai đoạn
đầu là tự nhiên, giai đoạn sau, nhất là khi tập đi là nhờ một phần tự học từ
trực quan và một phần là mẹ dạy. Điều thú vị là trước tất cả các bước ấy là
việc sử dụng đôi tay để cầm nắm, nghĩa là trước tất cả, khi còn nằm ngửa, thì
đứa bé đã thao tác cầm nắm, đã sử dụng đôi tay rồi. Hành động đó gợi nên cái
nguồn gốc “đu cành” của loài người.
Tất cả những sự
kiện nêu trên nói lên điều gì? Rằng là: Sự tiến hóa thích nghi trong thế giới
sinh vật là quá trình “gạn đục khơi trong”, biến đổi, tổ chức lại cấu trúc cơ
thể cho phù hợp với điều kiện sống mới trên cơ sở của nguyên tắc kế thừa. Đó là
một quá trình liên tục, thể hiện ra thành hai mặt của một mối quan hệ tương
phản nhau: di truyền và biến dị. Di truyền là để chế ngự biến dị và biến dị là
để củng cố tính di truyền.
Di truyền và
biến dị là những quá trình (có thể cho là một vận động thống nhất gồm hai quá
trình và tạm gọi là vận động kiến tạo lại sự sống?) xảy ra ở tầng cơ sở của sự
sống “vô tri vô giác” có tính cơ học và hoàn toàn “câm nín”. Bản thân hai quá
trình đó lại là kết quả của nhiều quá trình tác động - phản ứng giữa môi trường
và cơ thể sống, giữa các lực lượng trong nội tại cơ thể sống, vừa ngẫu nhiên
vừa tất yếu, vừa là thiên tạo, vừa là tự tạo và cũng có thể là nhân tạo.
Vì có tính “cơ
học” mù quáng như thế cho nên di truyền và biến dị có thể tác động, làm biến đổi
đến cấu trúc “vật chất” của sự sống, tác động có giới hạn đến phương thức hoạt
động, đến việc lưu trữ, thu phát, phối hợp và truyền thông tin của phương thức
hoạt động ấy của “bộ máy” là cơ thể sống. Nghĩa là chỉ có thể di truyền từ đời
này sang đời khác cách thức cấu tạo, sắp xếp của một “bộ máy” cùng với những cơ
phận, chi tiết của nó chứ không thể di truyền được “kinh nghiệm hoạt động” của
nó. Nhưng chính những kinh nghiệm ấy, với sự lặp đi lặp lại ở các đời lại là
một trong những nguyên nhân làm biến đổi di truyền để tạo ra một bộ máy được
“cải tiến”, hoạt động bao gồm cả cách “bắt chước” hoàn toàn hoặc phần cốt lõi
của kinh nghiệm ấy. (Có rất nhiều những thí dụ trong thiên nhiên cũng như trong
xã hội chứng giám cho chúng ta về sự phán đoán này!).
Nếu thế thì
kinh nghiệm của đời trước truyền cho đời sau một cách trực tiếp, bằng cách nào?
Bằng cách dạy và học! Dạy và học không phải là đặc quyền của con người. Ở loài
động vật, hiện tượng dạy và học cũng rất phổ biến.
Như vậy, việc
cho rằng sự tiến hóa thích nghi chỉ bằng con đường di truyền và biến dị là chưa
đầy đủ. Sự tiến hóa thích nghi, đến một giai đoạn tới hạn nào đó, khi mà sự đòi
hỏi của nó vượt qua khả năng đáp ứng kiểu “cơ học”, thụ động của biến dị, di
truyền, thì chính biến dị, di truyền sẽ phải “cố gắng” tạo thêm “chức năng”
hoạt động bản năng (xuất hiện ấn tượng trước tác động trực giác đặc thù nào
đấy) dạy hoặc học cho bộ máy “cơ thể sống”, một cách trực quan.
Chúng ta sẽ làm
một cuộc thực nghiệm trong… hoang tưởng. Có một khu rừng rậm, ở giữa khu rừng
ấy, chúng ta quây lại một vùng (nhằm chống thú dữ xâm nhập nhưng vẫn để nguyên
phong cảnh tự nhiên) rồi đưa mấy chục trẻ sơ sinh tới đó. Chúng ta sẽ nuôi đám
trẻ đó và tác động một cách tối thiểu nhất đến chúng, sao cho chúng không cảm
nhận được sự hiện diện của chúng ta, nghĩa là chúng sống và lớn dần lên một
cách hoàn toàn tự nhiên như muông thú, không có bất cứ một sự can thiệp nhân
tạo nào. Sẽ xảy ra chuyện gì khi chúng đã là những đứa trẻ khoảng 6 – 7 tuổi
(là tuổi cắp sách đến trường)? Điều khẳng định đầu tiên là chúng hoàn toàn
không biết nói. Chúng thậm chí cũng không biết đi một cách mạch lạc, thường
xuyên và chưa có ý thức về bầy đàn, đồng loại. Thức ăn thì “chỉ có thế”, hoa
quả có sẵn ở dưới đất không đủ đáp ứng cho những cơ thể ngày một lớn, ngày một
đòi hỏi lượng thức ăn hàng ngày nhiều hơn. Hoa quả trên cây thì còn nhiều. Khi
đói quá, chúng có tìm cách trèo lên cây để hái ăn không, hay tìm cây để khoèo,
cầm đá để chọi? Chúng sẽ chọn cách thứ nhất (cách trực tiếp), cách “dễ dàng”
đối với cấu trúc cơ thể “vốn có” của chúng. Hai cách kia chúng đã được học đâu
mà biết sử dụng? Dần dà, vào lúc muộn hơn, rất có thể nhờ quan sát (rung cành
thì trái rụng, tay vô tình đụng phải, trái cũng rụng…) mà chúng cũng sẽ biết sử
dụng hai cách sau. (Nhưng cũng khó mà tưởng tượng ra nổi điều đó!).
Khi trên cây
cũng hết “thức ăn” thì chúng làm sao? Hoặc “ngồi đó” chịu chết một cách trái
bản năng hoặc tuân theo bản năng, chúng phải tản ra tìm thức ăn xung quanh.
Chúng tự nhiên theo cách thứ hai. Rồi thì xung quanh cũng khan hiếm thức ăn.
Chúng lại phải “đi” xa hơn nữa; ra khỏi khu rừng ấy. Trước mặt là cả một không
gian rộng lớn, choáng ngợp mà chúng chưa từng thấy. Không thể loanh quanh, ngẫu
hứng như đi trong rừng được. Cần phải chọn một hướng đi và chúng sẽ chọn hướng
đi mà chúng quan sát thấy có nhiều khả năng tìm được thức ăn nhất. Chúng theo
nhau đi về hướng “ai” cũng công nhận là “hay” nhất và thành… bầy đàn. Cuộc hành
trình đầu tiên đó của “lũ trẻ bất hạnh” mà giờ đây đã lớn (nhưng chưa khôn)
chính là lặp lại những bước đi đầu tiên của thủy tổ loài người thời xa xưa tối
cổ, những bước vừa đi vừa học từ thiên nhiên hoang dã, vừa đúc kết kinh nghiệm,
truyền dạy cho thế hệ sau biết sống ngày một tốt hơn, văn minh hơn…
Rồi chúng ta
rút thêm được ra điều gì nữa? Điều hiển nhiên này: dạy và học tất yếu phát sinh
từ yêu cầu của tự nhiên; là một bộ phận hợp thành của sự tiến hóa thích nghi.
Nếu gọi di truyền và biến dị là quá trình thụ động thì dạy và học là quá trình
chủ động của tiến hóa thích nghi. Khi môi trường sinh thái biến đổi thì toàn bộ
lực lượng sinh vật trong môi trường sinh thái ấy phải biến đổi theo về lượng
cũng như về chất (cần hiểu môi trường sinh thái ở đây không chỉ là khí hậu, đất
đai, sông ngòi mà còn bao gồm cả các lực lượng sinh vật ngoài lực lượng sinh
vật đang nói tới, đang được khảo cứu), nghĩa là có sự phân bố lại giữa các lực
lượng, điều chỉnh lại phương thức hoạt động sống, cải tạo lại cấu trúc của từng
cá thể trong bản thân mỗi lực lượng sinh vật. Đó là một quá trình có lúc “trội”
có lúc “lặn”, lúc âm ỉ lâu dài, lúc bùng phát nhanh chóng, nhưng liên tục đến
“thiên thu” một khi môi trường sinh thái còn tồn tại. Nó biểu hiện ra như là sự
chọn lọc của tự nhiên của môi trường sinh thái đối với các lực lượng nội tại
làm nên nó và là nguyên nhân của di truyền và biến dị ở từng lực lượng giống
loài nhằm mục đích tiến hóa thích nghi trước sự biến đổi. Đối với những loài
động vật có cơ chế hoạt động tinh vi, phức tạp ở mức cao, sự di truyền và biến
dị để tiến hóa thích nghi trở nên (tương đối) chậm chạp, không đáp ứng kịp thời
được đòi hỏi có tính cấp bách của giống loài trước biến đổi sâu rộng của môi
trường sinh thái; chúng sẽ phải đứng trước nguy cơ của sự diệt vong. Trong
trường hợp chưa đến nỗi cực đoan, di truyền và biến dị sẽ tạo lập một cơ chế
thay thế tạm thời, đó là dạy và học. Con vật thế hệ cha mẹ, sau những lần
“thoát chết trong gang tấc”, những lần vồ hụt con mồi để phải đói “nhăn răng”
(do môi trường sinh thái đã biến đổi không còn phù hợp với “thói quen” nữa) đã
“đúc kết được kinh nghiệm” và truyền dạy lại cho thế hệ con cái. Quá trình dạy
và học ấy lặp đi lặp lại mãi trong nội bộ giống loài, đến lượt nó, tác động trở
lại sự di truyền và biến dị, làm cho cái cơ chế tạm thời vừa nói, cùng với “nội
dung” của truyền dạy trở nên cố định, vững chắc như một bản năng vốn có sẵn ở
mỗi cá thể. Đến đây, việc dạy và học “môn” nào đó đã hoàn thành sứ mạng và
không cần thiết phải tồn tại nữa (cũng có thể không cần thiết phải dạy và học
“môn” đó nhưng vẫn cần thiết dạy và học “môn” khác).
Đến đây, xuất
hiện một câu hỏi “cực kỳ”: Trường hợp ở loài người, khi nội dung của dạy và học
đã trở nên trừu tượng hóa, mang ý nghĩa như là sự nhận thức về tự nhiên, thì
đến một lúc nào đó, dù là triệu năm nữa, các nội dung ấy không qua con đường
dạy và học nữa, mà qua con đường di truyền để lưu giữ, bảo tồn được không? Đố
Tạo hóa làm được điều đó đấy!!! (Những chú bé “thần đồng” chỉ là sự biểu hiện
của siêu giác!).
Biến dị và di
truyền có thể làm được rất nhiều điều kỳ diệu. Tuy nhiên biến dị và di truyền
chỉ có khả năng, điều chỉnh, lưu giữ, truyền đi những thông tin vô cảm để trên
cơ sở đó mà hình thành nên những cấu trúc, những cơ chế sống và hoạt động vừa
có tính kế thừa vừa có tính cách mạng nhằm phù hợp, và phù hợp hơn đối với môi
trường sinh thái đã biến đổi. Biến dị và di truyền, vì không biết đến cái gọi
là “tinh hoa”, cái gọi là “tinh thần” nên những cái đó cũng không bao giờ là
đối tượng của nó.
Sự tiến hóa
thích nghi, thông qua quá trình biến dị, di truyền đã tạo ra thủy tổ loài
người, tạo ra sự dạy và học sơ khai kiểu trực quan để tạo ra vượn người rồi
người vượn. Sự đòi hỏi phải thích nghi với điều kiện săn bắt, hái lượm luôn
biến đổi đã là đầu mối của việc hợp đồng, liên kết để cùng ăn chia trong nội bộ
bầy đàn. Đồng thời và kết hợp với sự kiện ấy, quá trình dạy và học sơ khai, tự
phát đã làm hình thành nên vạch vẽ, tiếng gọi để trên cơ sở đó mà xuất hiện
ngôn ngữ, chữ viết. Cùng với sự xuất hiện ngôn ngữ, chữ viết, người vượn bước
những bước đi đầu tiên trên cương vị con người đúng nghĩa: người tối cổ.
Trước đây chúng
ta có nói rằng khi đã xuất hiện khái niệm, gọi tên và ký hiệu, nửa ngợm sẽ
chuyển hóa thành nửa người nốt. Nhận định đó có lẽ không phải. Sự thực nửa
người kia sẽ trở nên nổi trội, lấn át nửa ngợm. Nửa ngợm được cải hóa thành
tính người một phần, còn phần lớn thì “lặn” xuống, phủ phục “ở đó” cho đến tận
ngày nay chứ không bỏ đi đâu cả và luôn rình rập, “tranh quyền đoạt lợi” với
nửa người. Những thứ như thèm khát, tham lam, vị kỷ, độc ác, man rợ đều là sự
biểu hiện của nó. Phải chăng cái nửa ngợm ấy là nguyên nhân sâu xa của chém
giết huynh đệ, hận thù sắc tộc và những cuộc chiến tranh xâm lược, cướp bóc dã
man, tàn bạo?
Khi đã trao cho
loài người ngôn ngữ và chữ viết rồi, thì Tạo Hóa phán rằng: đến lúc tiến hóa
thích nghi chủ yếu bằng con đường biến dị, di truyền đã chấm dứt; con người
phải tự đảm đương vai trò đó bằng cách tự giác dạy và học một cách thường
xuyên, có hệ thống để nhận thưc và từ nhận thức mà ngày càng nâng cao. Đó là
quá trình đúc kết kinh nghiệm và sáng tạo trên nền tảng kinh nghiệm ấy. Chỉ có
trên con đường đó, loài người mới có thể tiếp tục tiến hóa và thích nghi, hay
nói cho có “bài bản” là ngày một có văn hóa hơn và văn minh hơn.
Tạo Hóa cũng sẽ
phán điều đó cho bất cứ loài nào khác chứ không phải cho riêng loài người, miễn
loài đó biết nói và biết viết!
Loài thủy tổ đã
mau mắn vượt lên trước thành loài người phát triển về mọi mặt một cách mạnh mẽ
và áp đảo. Ngày nay, quá trình tiến hóa thích nghi sinh vật vẫn hàng ngày hàng
giờ tiếp diễn, nhưng sẽ không một giống loài nào có đủ điều kiện đạt đến trình
độ có ngôn ngữ và chữ viết được nữa. Dưới sự lăm le tàn sát và kiềm tỏa của con
người, bộ phận còn lại của sự sống trên trái đất sẽ không bao giờ có chữ viết
đích thực.
Giả sử rằng
loài người bị tuyệt diệt, Trái Đất này sẽ như một tất yếu, xuất hiện một loài
biết nói biết viết mới, nhưng không phải từ bất cứ loài nào mà phải từ loài có
cấu trúc hình thể đáp ứng tốt nhất với hướng tiến hóa thích nghi ấy để có cơ
may vượt lên trước. Loài đó có lẽ lại cũng là loài trước tiên phải có hai tay
biết cầm nắm chăng?
Và bàn tay cầm
nắm đó phải có đúng năm ngón để lại một lần nữa xuất hiện ra Hà Đồ - Lạc Thư ở
đâu đó trong “gầm trời” này?
***
Nhớ về thời thơ
ấu, có một lần xem đấu bóng chuyền, chúng ta thấy ông trọng tài viết lên một cái
bảng như thế này:

Hỏi ra mới biết đó là tỷ số của hai đội đang chơi và biểu thị bằng ký hiêu số là: 12:8 (Mười hai và tám).
Hỏi ra mới biết đó là tỷ số của hai đội đang chơi và biểu thị bằng ký hiêu số là: 12:8 (Mười hai và tám).
Tại sao ông
trọng tài không ghi rõ ra bằng ký hiệu số mà phải ghi như vậy? Tại vì ghi như
thế sẽ không phải xóa đi viết lại mỗi khi một đôi có thêm điểm và nếu biết “sử
dụng” thì cũng rõ ràng và gọn, khó mà “ăn gian” được. Vô tình (?), như bây giờ
chúng ta mới biết, cách ghi đó là biểu thị sự đếm theo chục 5, mỗi hình vuông
gạch chéo là biểu thị một chục gồm năm đơn vị. Chúng ta có thể đọc lượng đơn vị
của từng bên, lần lượt là: hai chục hai đơn vị và một chục ba đơn vị.
Hình vuông gạch
chéo là một thực thể gồm 5 đơn vị (5 gạch chéo) tương tự như bàn tay có 5 ngón.
Giữa chúng có mối liên quan bản chất nào không, hay sự xuất hiện của chúng có
dựa trên một nguyên lý chung, dù xa xôi, nào không?
Một câu hỏi thực
là nực cười! Nhưng biết đâu chừng lại không phải là phi nghĩa!
Tự Nhiên Tồn
Tại là có lý hay phi lý, là vô nghĩa hay có nghĩa? Nếu không có quan sát và
nhận thức về Nó thì Nó chẳng là gì cả; hoàn toàn vô hình. Khi “xuất hiện” trước
quan sát và nhận thức, Nó là tất cả, vừa vô lý vừa có lý; vừa vô nghĩa vừa có
nghĩa và trở nên hữu tình.
Nhưng chỉ có Tự
Nhiên Tồn Tại mới có cái “đặc ân” ấy một cách tuyệt đối, còn lại, tất cả những
tồn tại, hiện hữu vì tuyệt đối phải nằm trong vòng tạo dựng nên phải có lý, có
nghĩa và hữu tình một cách tuyệt đối đồng thời cũng lại chỉ tương đối thôi, tùy
theo quan niệm, “sở thích” chủ quan của từng “cá thể” quan sát và nhận thức mà
cũng vô lý, vô nghĩa và vô tình (vì cứ như thể từ trên trời rơi xuống, chẳng
biết để làm gì, mà thờ ơ, chẳng chút “thị phi”). Đúng ra thì vĩnh viễn không
bao giờ thấy được tồn tại nếu nó không hiện hữu. Một tồn tại được quan sát dù
là trong phán đoán, suy tưởng thì có nghĩa là đồng thời cũng hiện hữu rồi. Khi
đặt câu hỏi: “có ma không?” thì ma mặc nhiên tồn tại và đã hiện hữu, dù là
trong não (người đặt câu hỏi) dưới dạng ý niệm. Không chú ý đến câu hỏi đó thì…
thôi, có hay không kệ xác. Nhưng một người “quan tâm”, hỏi lại: “Thế ma là
gì?”. Chắc chắn người hỏi đầu tiên sẽ mô tả được đại khái “hình hài” con ma vì
nếu không có khái niệm “ma” thì đã không đưa ra được câu hỏi ấy. Người thứ hai,
khi nghe mô tả xong thì ma đã hiện hữu trong đầu anh ta rồi. Và anh ta, một
người đã “thấm nhuần” triết học duy vật biện chứng từ A tới Z sẽ thốt lên: “Phi
lý hết sức, vô nghĩa hết sức. Đúng là chuyện tào lao!”. Thế nên mới nói: Không
thể tưởng tượng được cái gì đó ở bên ngoài Tự Nhiên Tồn Tại , vì Nó là Tất cả,
tuyệt đối đầy đủ!
Hướng tiến hóa
thích nghi để làm xuất hiện con người là hoàn toàn xác định vì vậy mà hệ thống
cảm giác của con người cũng mang tính đặc thù: cảm giác bằng mắt trở thành ưu
tiên nổi trội. Từ đó mà chúng ta có một thói quen nhận định (không đúng) là chỉ
có những sự vật hiện tượng trong thực tại được nhìn thấy bằng mắt mới được cho
là hiện hữu. (Và hơn nữa còn cho rằng hiện hữu = tồn tại). Nhưng thực ra, nên
quan niệm lại rằng nghe ngóng bằng tai, ngửi bằng mũi… cũng là quan sát và như
thế, âm thanh nghe được bằng tai, mùi ngửi được bằng mũi, nhiệt cảm được bằng
da… đều phải là những hiện hữu (và những hiện hữu đó phải là biểu hiện của
những tồn tại, mặc dù không “thấy” được, không biết chúng như thế nào. Cho đến
khi khám phá ra chúng thì chúng lại đương nhiên trở nên hiện hữu, thể hiện
những tồn tại ở “dưới” nữa và lại không biết, là cái gì. Cái trò “bịt mắt bắt dê”
đó làm cho nhận thức tò mò, hứng khởi “kinh khủng” !!!).
Phải công nhận
rằng Kant là một nhà triết học trong hàng ngũ các nhà triết học kiệt xuất nhất
của nhân loại. Ông là người đầu tiên trên thế giới xem xét mối quan hệ giữa
nhận thức và thực tại một cách có hệ thống. Cốt lõi hay hạt nhân của toàn bộ hệ
thống triết học vửa đồ sộ, vừa khó nắm bắt ấy chính là cuốn “Phê phán lý trí
thuần túy” trong bộ ba cuốn: “Phê phán lý trí thuần túy”, “Phê phán lý trí thực
tiễn” và “Phê phán khả năng phán đoán” của ông. Trước Kant, triết học cũng đã
phân biệt được “thực tại đã qua nhận thức” và “thực tại vốn dĩ thế”. Tuy nhiên,
vì chưa nhận thức được ý nghĩa có tầm quan trọng đặc biệt của sự phân định tất
yếu ấy nên nó đã không được quan tâm đúng mức, thậm chí là còn mù mờ, dẫn đến
những lầm lẫn, ngộ nhận đáng tiếc và có vẻ như bị lãng quên suốt một thời gian
dài. Kant chính là người được Thượng Đế giao cho trọng trách phải “hồi ức” lại,
phải đặt ra việc tìm hiểu mối quan hệ giữa nhận thức và thực tại lên tầm xứng
đáng trong triết học. Muốn thế, cái trước tiên cần phải thực hiện là tìm hiểu
một cách toàn diện sự nhận thức của con người, nghĩa là phải tìm cách nhận thức
cho được chính bản thân sự nhận thức. Kant đã thực hiện được xuất sắc nhiệm vụ
đó, và đó cũng chính là sự biểu hiện nét kiệt xuất, hơn người của Kant. (Tuy
nhiên, nếu không có Kant này thì Thượng Đế cũng phải chọn Kant khác vì triết
học đã phát triển đến độ chín muồi của nó thì trước sau gì, vấn đề “nhận thức
về nhận thức” cũng phải được đặt ra để mà con người có thể tiếp tục bước đường
nhận thức thế giới!).
Kant đã đề ra
những câu hỏi cần phải giải thích, như lời Kant nói: “Lĩnh vực triết học qui về
bốn câu hỏi này: 1- Tôi có thể tri thức gì? ; 2- Tôi phải làm gì? ; 3- Tôi có
quyền hy vọng gì? ; 4- Con người là gì?”. Ông có nói thêm: “Tất cả chỉ là vấn
đề con người, bởi vì ba câu hỏi đầu tiên qui về câu hỏi thứ bốn”.
Chúng ta thấy
ngay: bốn câu hỏi trên thực ra chỉ là sự biến tướng không hoàn hảo của bốn câu
hỏi: “Tôi là gì? Tôi từ đâu đến? Đến đây để làm gì? Và tôi đi về đâu?”, đã xuất
hiện rất lâu trước Kant, bàng bạc đâu đó ở phương Đông thời cổ đại. Tựu trung
thì cả hai cách hỏi ấy đều phải dẫn đến câu hỏi cơ bản đầu tiên và cũng là cuối
cùng của triết học: “Tồn tại là gì?”. Điều lạ lùng là câu hỏi đó đã được trả
lời từ buổi bình minh của triết học, đã từng được trả lời trong suốt quá trình
nhận thức triết học và đến bây giờ vẫn chưa được trả lời thỏa đáng.
Và chúng ta cũng
thấy ngay câu hỏi “Tôi có thể tri thức gì?” đã đặt dứt khoát vấn đề phải làm rõ
mối quan hệ giữa nhận thức và thực tại lên bàn tròn “thời sự” của tranh luận
triết học.
Veda -
Upanishad đã phân định Tồn Tại và con người theo tên gọi là Brahman và Atman,
đã quan niệm được Atman là bộ phận của Brahman, từ Brahman đến và trở về Brahman.
Đạo Hoàng - Lão gọi Tồn Tại là Đạo và coi như nó đã được nhận thức một khi hiểu
được cái nguyên lý duy nhất là nguyên lý tự nhiên trên nền tảng quan niệm âm
dương. Phật giáo, “tiến bộ” hơn, đã “biết” phân nhận thức ra làm hai là nhận
thức “trần tục” đầy mê lầm và nhận thức chân xác có được từ thiền ngộ trực
giác, nhưng nếu xét rõ ra thì không mê lầm cũng hoang tưởng. (Xin nhớ rằng
thiền chưa bao giờ là con đẻ của Phật giáo mà là của thuật dưỡng sinh có nguồn
gốc từ Đạo gia! Linh cảm mách bảo chúng ta điều này vì cố tật ham danh không
chỉ chúng ta mới có!). Phương Đông khơi nguồn được đến đó, còn phương Tây là
“câu chuyện trong hang” của Platon. Tất cả đại khái là thế!.
Quá khứ chỉ có
thế, nhưng thế cũng là đủ cho Kant, dù gián tiếp đi nữa, kế thừa. Một uyên bác
kế thừa sẽ dẫn đến sáng tạo và ba cái đó hun đúc nên một kiệt xuất.
Lần đầu tiên,
bản chất của nhận thức đã được Kant mổ xẻ một cách chi tiết, trình bày một cách
có hệ thống, và theo ý kiến chúng ta là có tính khoa học thực sự.
Trong các tác
phẩm của Kant, chúng ta thấy rất nhiều nhận định ban đầu thấm đẫm chân lý nhưng
lại bị những nhận định chưa thỏa đáng hoặc thậm chí là lầm lẫn làm lu mờ đi
(một cách rất đáng tiếc).
Khi bàn về
nguồn gốc và khả năng của nhận thức, Kant đã làm hình thành nên một loạt khái
niệm mới theo những thuật ngữ mà ông đặt ra.
Theo Kant,
những năng lực nhận thức và các công cụ thể hiện năng lực ấy ở con người là cái
đã có sẵn mang tính tiên thiên, và không bao giờ thay đổi. Ở đây, chúng ta thấy
hiện diện thuật ngữ “tiên thiên” (hay có người còn gọi là “tiên nghiệm”). Theo
Kant thì tiên thiên là cái có trước kinh nghiệm, nhờ vào đó mới có thể “xây
dựng” nên kinh nghiệm và thể hiện như nhau ở mọi người, ở mọi trình độ học
thức. Thuật ngữ này thực hiện những chức năng rất khác nhau trong triết học
Kant. Ông viết: “Nghĩa tiên thiên vốn có ở mọi điều kiện trước kinh nghiệm (tức
các chức năng nhìn nhận và lý trí không bắt nguồn từ kinh nghiệm mà qui định
nó), cũng như vốn có ở các ý niệm theo nghĩa chân thực của chúng, như các
nguyên tắc và định đề của lý tính”.
Kant cũng thừa
nhận rằng điểm xuất phát duy nhất của các tri thức của con người là kinh
nghiệm, là cảm giác. Kant cũng đã đúng khi ông phân biệt tri thức ra làm hai
loại là “tri thức thường nghiệm” và “tri thức thực nghiệm” hay còn gọi là “tri
thức bình dân” và “tri thức khoa học”. Tri thức bình dân, cũng theo Kant, là
tri thức có được nhờ kinh nghiệm sống, nó có tính vụn vặt, bất tất và hạn hẹp;
còn tri thức khoa học mới là tri thức đích thực, nó minh bạch, chắc chắn, mang
tính phổ quát và tất yếu. Tuy nhiên theo thiển ý của chúng ta, Kant đã phạm
phải một sai lầm nghiêm trọng, có tính chất cơ bản khi cho rằng tri thức khoa
học chỉ dựa trên cái gọi là “những điều kiện tất yếu của kinh nghiệm” chứ không
dựa trên kinh nghiệm, nghĩa là không phải từ kinh nghiệm mà có được và như vậy
triết học này mang tính tiên thiên. Ông viết: “Như vậy, nếu một mệnh đề (tức
một phán đoán) hàm nghĩa một tính chất tất yếu, thì chắc đó là một phán đoán
tiên thiên. Thứ đến, không bao giờ kinh nghiệm có thể ban cho các phán đoán một
tính chất phổ quát thực sự, mà chỉ là thứ phổ quát giả tỉ và tương đối như
kiểu: qua những lần quan sát, chúng tôi không thấy một trường hợp ngoại trừ nào
đối với định luật này”.
Thoạt nhìn, một
cách trực giác, người ta rất dễ đồng thuận với Kant. Rõ ràng “ngôn ngữ” của
khoa học mà điển hình là của toán học không thể nào có được từ cuộc sống đời
thường; không thể quan sát thấy ở bất cứ đâu trong thiên nhiên những đường
thẳng tuyệt đối, những hình đều tuyệt đối cùng với những tính chất, những tương
quan chặt chẽ giữa chúng với hình học Ơclít; một chất điểm chuyển động trong
vật lý không thể là kết quả rút ra được từ kinh nghiệm “thường nghiệm”. Nói
chung, “rất dễ” thấy rằng tri thức khoa học có được là nhờ vào năng lực trí tuệ
“siêu nghiệm”, hoạt động trên cơ sở của “trực giác thuần túy”, do đó mà nó cũng
có tính tiên nghiệm, vượt trên kinh nghiệm. Kant dùng thuật ngữ “siêu nghiệm”
để hàm nghĩa là khả năng thuần túy như: “cảm giác siêu nghiệm”, “lý luận học
siêu nghiệm”…; có ý rằng: đó là khả năng nhận biết được trước khi có cảm giác
thực sự (?!). Về vấn đề làm sao có thể có “trực giác thuần túy”, Kant trả lời:
“Nếu trực giác của ta là biểu tượng của những vật tự thân, thì ta có thể có
trực giác thường nghiệm thôi, không thể có trực giác tiên thiên. Sự thực thế
nào? Sự thực là chúng ta chỉ biết vạn vật theo phương diện chúng ảnh hưởng đến
cảm giác của ta chứ ta không biết gì về bản tính tự thân của chúng”. Trực giác
tiên thiên thì cũng có nghĩa như trực giác thuần túy. Khi bàn về toán học, Kant
viết: “Cũng như toán học phải hình dung các quan niệm của nó bằng trực giác,
thì toán học thuần túy cũng hình dung các quan niệm của nó bằng trực giác thuần
túy, nghĩa là bằng cách kiến tạo nên chúng”. Những trích dẫn này lại làm xuất
hiện một thuật ngữ mới nữa, đó là “vật tự thân” (hay cũng gọi là “vật tự nó”).
Theo quan niệm của Kant, ở bên ngoài chúng ta có tồn tại những sự vật mà tự
chúng thì ta hoàn toàn không hề biết một tý gì, nhưng chúng ta có thể cảm nhận
được chúng dựa theo những ấn tượng mà chúng đã tạo nên trong ta khi tác động
vào giác quan. Những sự vật ấy được Kant gọi là “vật tự thân”. Khi những vật tự
thân tác động lên chúng ta, sẽ tạo nên trong ta những trạng thái, những ấn
tượng và chính những trạng thái, những ấn tượng ấy là tiền đề, là điểm xuất
phát cho mọi tri thức của chúng ta. (Quan niệm vật tự thân của Kant cũng gần
với quan niệm của chúng ta về những tồn tại chưa hiện hữu; có thể hình dung
rằng “vật tự nó” vĩ đại nhất, bao gồm toàn bộ “vật tự nó” chính là Tự Nhiên Tồn
Tại!).
Thoạt nhìn dễ
thấy thế, mà nếu nhìn kỹ cũng dễ thấy như Kant thấy vì tri thức khoa học đã ở
rất xa cội nguồn sinh ra nó, đã là một nhà quí tộc có dòng dõi trâm anh thế
phiệt trước đám “hạ tiện” là tri thức bình dân. Thậm chí còn được tôn xưng là
Hoàng đế, Nữ hoàng!
Kant là nhà
khoa học xuất sắc trước khi là nhà triết học kiệt xuất. Do đó Kant không đến
nỗi hời hợt để đi đến quan niệm sai lầm như thế. Chắc rằng Kant đã suy tư rất
nhiều trước hiện tượng đó và một uyên bác suy tư thì không thể… “đùa” được. Vậy
thì tại sao? Có lẽ tiến trình nhận thức là một tất yếu lịch sử và ở thời đại
của mình, Kant đã phải “chấp nhận” lối tư duy siêu hình, cứng nhắc mà chính
Kant đã “vô tình” cởi mở cho Hêghen sau này tìm cách “chối bỏ”. (Chúng ta cho
rằng, dù có cố chối bỏ thì cũng không bao giờ chối bỏ hoàn toàn được tính siêu
hình trong tư duy nhận thức. Khả năng trí tuệ của con người, hay bất cứ “con”
nào trong Vũ Trụ, dù siêu việt đến mấy chăng nữa thì cũng không thể tư duy lý
luận về thực tại mà không “mổ xẻ” nó ra từng bộ phận, không bắt nó “tạm dừng”
chuyển hóa lại để mà suy xét từng khía cạnh trong nhiều khía cạnh, từng mối
quan hệ trong tổng thể mối quan hệ tác động đan xen, đồng thời. Như thế, đã là
siêu hình rồi! Còn nếu cho như thế là không mang tính siêu hình thì kể cũng lạ!
Thậm chí phải cho rằng siêu hình là đặc tính bản chất của tư duy, có nguồn cơn
ngay từ sự cảm giác, biểu tượng. Tuy nhiên, nên thấy rằng phép siêu hình là
phương thức không thể chối bỏ của tư duy nhưng không phải là kết quả của tư
duy. Khi nhận thức đã đạt được thành quả rồi thì phải “nhìn” thành quả ấy một
cách biện chứng, nghĩa là cố gắng nhìn sự vật đã qua nhận thức như nó chưa từng
được nhận thức! Làm như vậy rất có thể lại dẫn đến… mù tịt, nhưng là sự “mù tịt
thần thánh”).
Nói Kant phạm
sai lầm cơ bản ngay từ bước khởi đầu xây dựng học thuyết triết học của mình
không phải là chê Kant. Đối với chúng ta Kant vẫn luôn là nhà triết học lỗi
lạc, không có Kant thì không có Hêghen, không có Hêghen thì không thể có Mác
được. Còn nếu không có Mác? Không có Mác thì thế kỷ XX đã “nát bét” bởi chủ
nghĩa tư bản và đế quốc với bản tính tham lam, vị kỷ một cách mù quáng, thiếu
tình người. Nhưng Mác chưa phải là cái đích cuối cùng của triết học…
Chúng ta có
quyền bêu riếu dĩ vãng không? Không! Chúng ta có quyền đánh giá lại quá khứ không?
Có! Vì sao? Vì chúng ta thấy được nhiều điều mà quá khứ không thấy được! Tại
sao, tại trí năng siêu nghiệm của chúng ta chăng? Không! À, mà cũng có! Trí
năng siêu nghiệm của chúng ta cũng có được từ tiên thiên, nhưng là thứ tiên
thiên có được từ sự thừa hưởng những hun đúc kinh nghiệm của thời cổ đại, của
thời trước Kant, của bản thân Kant và của thời sau Kant; nghĩa là từ những tinh
hoa, từ những đúng - sai trong lịch sử nhận thức. Trí năng ấy thực ra chỉ là
siêu nghiệm đối với chúng ta thôi và chưa chắc đã là… lẽ phải! Nhưng trong
trạng thái hoang tưởng (chúng ta luôn ở trạng thái ấy để tránh né khổ đau
thường nhật, tìm vui chút chốn mông lung) chúng ta cứ nhận lẽ phải về mình. Ai
ơi hãy tin đi, tự nhiên bao giờ cũng thể hiện ra tính phân biệt được đối với
quan sát - nhận thức! Như vậy, Tự Nhiên cũng cho phép lựa chọn và buộc nhận
thức phải lựa chọn nếu còn muốn… nhận thức. Nhờ vậy mà Aristốt mới “chấp bút” ra được “lôgíc học”. Lôgíc học
là một cấu trúc mang tính qui ước chủ quan đầy những thị phi của con người cho
nên cũng mang nặng tính siêu hình. Nó có ích cho suy tư cá thể nhưng vô nghĩa
trên bàn tròn tranh luận. Siêu hình là một con dao hai lưỡi trước Tự Nhiên vô tình,
không thị phi!
Vâng, chúng ta
tự nhận lẽ phải về mình! Chúng ta có chính kiến. Một khi đã có chính kiến mà
cam tâm từ bỏ nó một cách vô cớ thì đau xót biết chừng nào! Chúng ta hãy cứ hồn
nhiên bênh vực cho lẽ phải dù “phạm thượng”. Miễn sâu thẳm đáy lòng, chúng ta
luôn ngưỡng mộ, kính phục và biết ơn quá khứ!.
Tạo sao lại cho
rằng đó, cái quan niệm tri thức khoa học là tiên thiên, không do kinh nghiệm mà
có, là sai lầm căn bản của Kant? Vì Kant đã “thần thánh hóa” trí năng (năng lực
trí tuệ) của con người. Kant từng viết: “Tất cả mọi tri thức của ta bắt đầu với
kinh nghiệm… Nhưng nói thế không có nghĩa là tri thức của ta hoàn toàn do kinh
nghiệm; vì trong tri thức ta còn có phần trí năng không lệ thuộc vào kinh nghiệm”.
Câu đó hoàn toàn
đúng nếu hiểu kinh nghiệm là kinh nghiệm “thường nhật” và trí năng là khả năng
suy lý, sáng tạo trên cơ sở kinh nghiệm hay những thành tựu đạt được trước đó.
Tuy nhiên nó trở thành sai lạc khi Kant, một cách siêu hình, bó hẹp khái niệm
“kinh nghiệm” ở mức “bình dân thường nghiệm”, đồng thời đưa “trí năng” vượt khỏi
sự “quản thúc” của “kinh nghiệm” một cách “duy tâm” để “hoàn toàn chỉ dựa trên
tiên thiên và trên những quan niệm mà thôi” (lời của Kant).
Từ đâu mà Kant
có ý niệm về tiên thiên? Lại là từ một quan niệm cũng vừa đúng vừa sai của ông.
Theo Kant, về nguyên tắc là không thể biết được thế giới vật tự nó. Nhờ có các
giác quan mà con người cảm nhận được thế giới ấy ở mức độ giới hạn nào đó và
theo cách nào đó mà thôi. Và cái thế giới vừa hạn chế vừa phi thực ấy được Kant
gọi là thế giới khả giác hay “thế giới hiện tượng”. Ông viết: “Chúng ta không
thể tri thức các hữu thể khả niệm kia nơi bản tính tự thân của chúng, nghĩa là
không thể tri thức chúng một cách xác định, nhưng chúng ta có thể chấp nhận chúng
trong tương quan của chúng đối với thế giới khả giác và dùng lý trí để đặt một
liên hệ giữa chúng và thế giới giác quan”. Trong cái thế giới hiện tượng ấy, đến
lượt trí năng lý tính, cùng với những quan niệm và trực giác thuần túy sẽ làm cái
nhiệm vụ “phán đoán tổng hợp” để từ đó mà làm xuất hiện những “mệnh đề tổng hợp
tiên thiên” có tính tất yếu và phổ quát. Những mệnh đề tổng hợp tiên thiên ấy
chính là những biểu hiện của thế giới vật tự nó trong thế giới hiện tượng theo
cách mà con người khả giác (do đó mà chưa đầy đủ?!). Kant cho rằng: “Bản tính vạn
vật là sự hiện hữu của vạn vật xét như sự hiện hữu này được xác định bằng những
định luật phổ quát. Bởi vì nếu danh từ bản tính có nghĩa là sự vật tự thân, thì
chúng ta không thể biết gì về các vật đó dù là cách tiên thiên hay cách hậu
nghiệm (nhờ kinh nghiệm). Do đó, cũng là lời của Kant: “Chúng ta không có cách
nào khác để nghiên cứu bản tính sự vật ngoài cách tìm biết những điều kiện và
những định luật phổ quát (mặc dù chủ quan) nhờ đó mà ta có thể có tri thức về vạn
vật, tức có thể có kinh nghiệm về sự vật”.
Về cái thế giới
vật tự nó đã bị “phi thực hóa” và “biến dạng hóa” bởi cảm năng con người và thông
qua cảm năng con người ấy, Kant nói rõ hơn: “Thế giới khả giác không là cái gì
khác ngoài một chuỗi những hiện tượng được nối lại với nhau bằng những định luật
phổ quát. Như vậy thế giới khả giác không có nền tảng vững chắc nơi chính mình
nó: nó không phải là vật tự thân và nhất thiết đòi một cái gì đó làm nền tảng
cho bản chất hiện tượng của nó”. Vì thế mà ông nhắn nhủ: “Chúng ta không nên tìm
những định luật phổ quát của vật lý nơi thiên nhiên, nhờ kinh nghiệm; mà trái lại
chúng ta chỉ nên tìm hiểu về tính chất vạn vật luôn phù hợp với các qui luật, và
tìm hiểu điều này nơi những điều kiện của cảm giác và tri giác ta, tức những điều
kiện làm cho có thể có kinh nghiệm”.
Với quan niệm
như trên, dù vô tình hay hữu ý, dù là trong tiềm thức, Kant đã thừa nhận rằng Vũ
Trụ này là cái gì tuyệt đối, là vật tự nó có tính tổng thể, bao gồm các vật tự
nó; một vật tự thân có thật, có trước, có sẵn và “tự nó” một cách trật tự, ngăn
nắp, và chí lý, làm nền tảng cho cái thế giới khả giác đầy biểu tượng làm nên
những hiện tượng cùng với những định luật phổ quát mang tính đã có sẵn, có trước,
nghĩa là tiên thiên (hay tiên nghiệm). Mặt khác cái thế giới khả giác đó là do
cảm năng của con người mà có nên cái cảm năng ấy chỉ mang tính thường nghiệm thôi,
thì làm sao giải thích được sự xuất hiện của những “mệnh đề tổng hợp tiên thiên”
trong thế giới hiện tượng (thế giới của kinh nghiệm)? Để vượt qua “cơn tai biến”,
Kant một cách hoàn toàn tự nhiên, phải mở rộng khái niệm cảm năng. Lúc này, cảm
năng không chỉ là khả năng cảm giác thường nghiệm nữa mà còn được thêm một bộ
phận gọi là khả năng “cảm giác siêu nghiệm” hay “cảm giác thuần túy” - có tính
tiên nghiệm, có trước kinh nghiệm, không lệ thuộc vào kinh nghiệm và như vậy
nghĩa là phải “tiên thiên”.
Khó mà tiếp cận
được cảm giác thuần túy nếu Kant không “lôi” không gian và thời gian vào làm
hai hình thái thể hiện của nó. Theo Kant, không gian là cảm năng thuần túy của
ta đối với những sự vật ở ngoài ta; còn thời gian là cảm năng thuần túy của ta đối
với những biến chuyển ở trong ta và ở ngoài ta. Không gian không phải là một
quan niệm thường, do kinh nghiệm tác tạo nên. Nó là một biểu tượng tất yếu và
tiên thiên; là điều kiện, là nền tảng tất cả các tri giác của ta về vạn vật (có
thể tưởng tượng một Vũ Trụ không có gì hết nhưng không thể tưởng tượng một Vũ Trụ
mà không có không gian!). Thời gian cũng tương tự, không phải là một quan niệm
thường niệm mà là một biểu tượng tất yếu, tiên thiên (có thể quan niệm một Vũ Trụ
không có biến cố gì hết nhưng không thể quan niệm trong Vũ Trụ lại không có sự
“trôi qua” của thời gian).
Kant lý luận rằng
nếu chỉ dựa vào cảm giác thường nghiệm thì con người chỉ mới cảm nhận được cái
gì đó tồn tại mơ hồ, lộn xộn, phi hình hài, không đầu không cuối. Nhờ có cảm giác
thuần túy thể hiện ra dưới hai hình thái tiên thiên, không gian và thời gian mà
tất cả trở nên trật tự, rõ ràng, và xác định như ta vẫn đang thấy hàng ngày
trong đời sống kinh nghiệm của mình. Và cái thế giới đã được làm “sáng tỏ” nhờ
cảm giác thuần túy tiên thiên ấy cũng được gọi là thế giới hiện tượng.
Đưa ra khái niệm
Cảm giác thuần túy cùng với hai hình thái của nó là không gian và thời gian,
Kant đã phạm thêm một sai lầm cơ bản nữa. Sai lầm này, cùng với sai lầm đã nêu ở
trên đã làm lu mờ đi nhiều những nhận định triết học có tính chân lý của ông và
đồng thời đã làm nên một học thuyết mà chính ông tự gọi là “duy tâm siêu nghiệm”;
một học thuyết ẩn giấu bao biện và đầy thần bí.
***
Kant sinh năm
1724 tại Kênisbéc, nước Đức. Năm 1745, ông tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Kênisbéc
và trở thành gia sư. Năm 1755 ông là phó giáo sư và từ năm 1770 là giáo sư của Đại
học Tổng hợp Kênisbéc. Là một trong những học giả uyên bác nhất đương thời, ông
đã giảng dạy về siêu hình học, lôgic học, toán học, cơ học, địa chất học, tự
nhiên đại cương…
Năm 1755 ông đã
đưa ra giả thuyết giải thích nguồn gốc sự hình thành Vũ Trụ, trong đó có Thái Dương
Hệ. Năm mươi năm sau, nhà toán học Laplace cũng
đã đưa ra mô hình toán học cho một giả thuyết về sự ra đời của Thái Dương Hệ,
giống như mô hình của Kant. Sau này giả thuyết ấy được gọi là giả thuyết Kant -
Laplace.
Kể ra như vậy để
thấy trên cương vị là một nhà vật lý học, chắc chắn Kant đã thấm nhuần quan niệm
của Niutơn về không gian và thời gian, cho rằng: không gian và thời gian là có
tính tuyệt đối, là những thực tại khách quan, tồn tại bên ngoài con người, thuộc
về cái thế giới vật tự nó.
Không biết vì lẽ
gì mà Kant đã từ bỏ quan niệm đó, một quan niệm đã được thừa nhận rộng rãi
trong vật lý học, có tính phổ quát như thế để đi đến quan niệm cho rằng không
gian và thời gian là những hình thức tiên thiên thuộc năng lực cảm tính của con
người; có tính chủ quan như thế? Phải chăng là từ sự quan niệm có tồn tại một
thế giới hiện tượng của ông? Không bao giờ có thể nhận thức trực tiếp được thế
giới vật tự nó; con người chỉ có thể nhận thức được trực tiếp thế giới hiện tượng
và thông qua đó mà nhận biết được phần nào cái thế giới nền tảng ấy. Đó là một
phát kiến triết học xuất sắc của Kant. Tuy nhiên, vì trong cái thế giới khả giác
ấy, hiển nhiên, dễ dàng nhận ra là phải có không gian và thời gian, nếu không
thì thế giới ấy “sụp đổ”, cho nên Kant vừa phải thừa nhận sự hiện diện của chúng
vừa bắt chúng cũng phải là những hiện tượng thôi, nhưng là những hiện tượng có
sẵn, siêu việt hơn những hiện tượng khác để “phục vụ” cho nhận thức con người.
Trong khi thừa nhận các hiện tượng trong thế giới hiện tượng là do tác động của
vật tự nó lên giác quan con người mà có thì đối với không gian và thời gian, vì
quá rõ ràng là không thể tưởng tượng được có nguồn gốc từ tác động của vật tự nó
nào cả, nên Kant “buộc” phải trao trách nhiệm đó cho cảm năng chủ quan của con
người nhưng phải là cảm năng… tiên thiên! (“Tiên thiên” đã là cây đũa thần khỏa
lấp mọi chuyện!).
(Cần nói thêm rằng
Kant còn chia trí năng thành hai hình thức là “lý trí thuần túy” và “lý trí thực
tiễn”. “Lý trí thuần túy” làm nên tri thức khoa học (là sự nhận thức được những
“tiên thiên” trong thế giới hiện tượng). Tuy nhiên, đến một giới hạn nào đó, muốn
vượt khỏi thế giới hiện tượng để hòng tìm hiểu bản tính thực sự của “vật tự nó”
thì lý trí thuần túy sẽ mất hiệu lực. Lúc đó mâu thuẫn sẽ phát sinh. Chẳng hạn đối
với lý trí thuần túy thì câu hỏi “Vũ Trụ là gì?” là không thể xác định được vì
sẽ có hai cách trả lời kèm hai chứng minh, trái ngược nhau nhưng đều đúng. (Đối
với chúng ta thì thực ra đó là biểu hiện tính nước đôi của Tồn Tại dưới “màu sắc
Kant” mà ở chừng mực nào đó, lại cũng là một phát kiến xuất sắc của Kant!). Để
có thể tiếp cận được với vật tự nó (như Vũ Trụ, linh hồn, chúa…) thì phải bằng
lý trí thực tiễn (không có lý luận gì ở đây hết!) mà xét cho cùng ra là trực giác
thuần túy, là đức tin và thực chất là tín ngưỡng không hơn không kém (tương tự
như sự giác ngộ trong Phật giáo!). Vì chúng ta không đi sâu vào học thuyết của
Kant nên chỉ nói thêm, không bàn luận về vấn đề này).
Chúng ta đã từng
có quan niệm riêng của bản thân mình về không gian và thời gian. Theo quan niệm
ấy thì cả Niutơn lẫn Kant đều đã hiểu không gian và thời gian một cách phiến diện,
thậm chí ngay cả Anhxtanh cũng đã chưa thấy được thực chất của không gian và thời
gian.
Không gian và
thời gian là những biểu hiện thuộc hàng dễ hiểu nhất mà cũng khó hiểu nhất của
của Tự Nhiên Tồn Tại. Không có không gian, Vũ Trụ là không có, không có thời
gian, Vũ Trụ thành cứng đờ; nhưng có không gian, Vũ Trụ lại không thể xác định
và có thời gian, Vũ Trụ hóa ra như một mê cuồng. Không có không gian, con người
không thể có, không có thời gian, con người cũng không có luôn, nhưng có không
gian, con người chỉ thấy siêu hình, và có thời gian, con người lại phởn chí nghĩ…
lung tung!
Không gian và
thời gian thực chất chỉ là hai khái niệm, hai tên gọi về hai cái gì đó thuộc thực
tại. Hai cái gì đó ấy chẳng qua là tồn tại và chuyển hóa. Không gian và thời
gian là tồn tại và chuyển hóa tồn tại khi đã được nhận thức còn tồn tại và chuyển
hóa tồn tại là không gian và thời gian chưa được nhận thức.
Phát biểu như
trên chỉ mang tính ước lệ và không chân xác vì thực ra tồn tại và chuyển hóa tồn
tại cũng chỉ là những khái niệm, hơn nữa là những khái niệm tương đồng một cách
hình thức với không gian và thời gian. Nếu Kant cho ra thế giới hiện tượng thì
chúng ta cũng có quyền cho ra thế giới khái niệm. Nếu Kant nhận biết phần nào
thế giới vật tự nó thông qua thế giới hiện tượng thì chúng ta nhận thức Tự Nhiên
Tồn Tại thông qua hệ thống khái niệm và cũng có một thế giới hiện tượng. Nhưng
hai thế giới tuy có vẻ giống nhau, lại khác nhau về bản chất. Thế giới này xuất
thân từ kinh nghiệm thì thế giới kia “đứng được” nhờ tiên thiên.
Theo chúng ta
thì không gian và thời gian theo quan niệm của Niutơn, không gian và thời gian
theo quan niệm của Kant chỉ là hai sự thể hiện khác nhau của duy nhất một Tự
Nhiên Tồn Tại.
Không gian là
thuần nhất khi nó là sự biểu hiện của Tồn Tại và là không thuần nhất khi nó là
biểu hiện của nhiều cá thể tồn tại. Tương tự như vậy, thời gian là thuần nhất
khi nó là biểu hiện của Tự Nhiên và là không thuần nhất khi nó là biểu hiện của
nhiều cá thể chuyển hóa. Nếu không gian có hai chiều về vô cùng lớn - vô cùng
nhỏ thì thời gian cũng có hai chiều là từ hiện tại về quá khứ hoặc đến tương
lai. Nếu không gian có vô vàn tồn tại thì thời gian cũng có vô vàn hiện tại; nếu
những tồn tại ấy chuyển hóa thì hiện tại gắn trên chúng cũng trôi. Nếu tồn tại
luôn biến đổi để tồn tại thì hiện tại cũng luôn là quá khứ để hiện tại; tồn tại
mới thì hiện tại mới, tồn tại ở dạng khả năng thì đó chính là tương lai. Có thể
nói không gian và thời gian là biểu hiện của tồn tại và chuyển hóa; tồn tại và
chuyển hóa rốt cuộc cũng chỉ là tồn tại, Tự Nhiên và Tồn Tại rốt cuộc chỉ là Một.
Khi không gian
và thời gian của Kant đã bị lột bỏ đi cái “bộ cánh” tiên thiên của nó thì cảm
giác thuần túy theo Kant nghĩ, sẽ cũng bị “thủ tiêu” và cái thế giới hiện tượng
chỉ còn được xây dựng nên từ cảm năng thường nghiệm và trí năng… cũng thường
nghiệm nốt (tất cả “công năng đặc dị” không qua luyện tập, tất cả những biểu hiện
thần đồng chưa qua học hành chỉ là những biểu hiện cá biệt, riêng lẻ, có tính nổi
trội về cảm giác; là những siêu giác và dù có là gì đi chăng nữa thì cũng không
bao giờ có thể là biểu hiện của một trí năng thuần túy tiên thiên; dù có vẻ như
là tiên nghiệm đối với những cá nhân đó nhưng thực ra vẫn là sự kế thừa, trong
vòng kinh nghiệm và dựa trên kinh nghiệm của bộ phận hoặc toàn thể loài người).
Không thể phủ
nhận được rằng các mệnh đề tổng hợp tiên thiên, hay những định luật tất yếu phổ
quát là những thể hiện của cái gì đó có sẵn, có trước và bất biến trong thế giới
hiện tượng. Nhưng không thể cho rằng chúng là những phát hiện của một trí năng
siêu phàm kiểu tiên nghiệm như Kant nghĩ.
Tự Nhiên Tồn
Tại là vốn dĩ như thế! Đó là một chân lý tuyệt đối và theo chúng ta thì không nên
tốn sức cãi cọ nhau làm gì nữa. Trong nhận thức lý luận, chân lý ấy đóng vai trò
như một tiền đề tuyệt đối (nằm ngoài mọi sự lý giải, chứng minh), duy nhất, vĩ đại;
là tiền đề của mọi tiền đề và là điểm xuất phát đầu tiên trên con đường đi nhận
thức thế giới.
Vì là vốn dĩ thế
nên Tự Nhiên Tồn Tại không “thị phi” nghĩa là không đúng không sai. Nhưng Tự
Nhiên Tồn Tại phải thể hiện! Nếu giả sử rằng Nó không thể hiện thì không thể có
cái chân lý tuyệt đối vừa nói, nghĩa là không có sự vốn dĩ thế cũng như không có
chính bản thân Nó. Rốt cục, thay cho Tự Nhiên Tồn Tại là Hư Vô. Hư Vô thì làm
sao bàn luận được khi chúng ta biết chắc rằng đâu đó trong Vũ Trụ đang diễn ra
một cuộc bàn luận, được bắt đầu từ mấy ngàn năm trước? Mặt khác, nếu nói được là
Hư Vô thì Hư Vô (lúc này ở vị trí của Tự Nhiên Tồn Tại) là vốn dĩ thế và phải
thể hiện ra được điều ấy. Cuối cùng thì đến lượt Hư Vô chỉ là tên gọi khác (hoặc
theo một ngôn ngữ khác!) của Tự Nhiên Tồn Tại. Thể hiện ra được nghĩa là phải có
sự phân biệt; mà đã là phân biệt được thì phải có khách thể và chủ thể để “thực
thi” sự thể hiện ấy thông qua tác động và phản ứng; phải xuất hiện chủ quan
quan sát và nhận thức cũng như đối tượng của nó là thế giới khách quan.
Tự Nhiên Tồn Tại
không “thị phi” nhưng nhận thức phải lựa chọn giữa có lý và vô lý, chính nghĩa
và phi nghĩa. Không gian và thời gian là hai biểu hiện cơ bản của Tự Nhiên Tồn
Tại làm nên tính siêu hình và biện bác của nhận thức đồng thời cũng là nguyên
nhân sâu xa của sự lựa chọn. Sự lựa chọn trong nhận thức là một tất yếu. Ở buổi
đầu, khi khả năng còn hạn chế, thì sự lựa chọn trong tư duy có tầm quan trọng
quyết định đến quá trình phát triển của nhận thức. Thậm chí có thể nói rằng không
thể nhận thức được nếu không có lựa chọn.
Sự lựa chọn đầu
tiên của triết học là “Tồn tại hay Không tồn tại?” và “Tồn tại” là cái được chọn,
vì nếu chọn cái “Không tồn tại” thì triết học… “tự sát” và chấm dứt… tồn tại
(không thể hiện hữu!). Tương tự, trước lựa chọn: “Tự Nhiên Tồn Tại là có lý hay
vô lý?”, chúng ta chắc chắn phải chọn “có lý” vì nếu chọn “vô lý”, chúng ta
ngay lập tức trở thành những “bóng ma” (bóng ma chứ chưa được là ma!) và như thế
cũng thành vô lý nốt. Trong đời sống xã hội, nếu hỏi bất cứ ai, từ hạ dân hèn kém
đến vua chúa kiêu sang rằng theo chính nghĩa hay phi nghĩa, thì có lẽ họ đều chọn
“theo chính nghĩa” cho dù khi hành động có thể… không theo. (Nhận thức là một
chuyện còn thực hành lại là chuyện khác. Sự đời thường là thế nên mới có câu “Nói
một đàng, làm một nẻo”!).
Trước quan sát
và nhận thức chủ quan của con người, thế giới khách quan (bộ phận hiện hữu, phần
biểu hiện trước con người của Tự Nhiên Tồn Tại) đóng vai trò là một thực tại, một
hiện thực, một thực thể và hoàn toàn… có lý. Con người là của Tồn Tại nên có những
nét mang tính phổ quát nhất của Tồn Tại, nó cũng vừa là tồn tại trong một môi
trường có hoàn cảnh điều kiện cụ thể, tương đối độc lập với Tồn Tại nên đồng thời
cũng có những nét cá biệt, đặc thù của cục bộ, địa phương. Vì lẽ đó cái thế giới
khách quan mà con người quan sát được, nhận thức được bằng những “phương tiện”
riêng có ở con người cũng đượm màu chủ quan của con người, trở thành “dở dở ương
ương” vừa khách quan, vừa chủ quan và là của riêng con người; sự có lý của thế
giới ấy cũng là sự có lý theo cách nhìn nhận của con người về Tồn Tại, phù hợp
với tư duy con người.
Có thể nói đối
với con người, thế giới khách quan hiển nhiên là có lý, hợp lý vì sự hiện hữu
hiển nhiên của nó, hay nói ngược lại: sự hiện hữu hiển nhiên, bền vững, lâu dài
của Thế giới khách quan là một minh chứng hiển nhiên trước con người về tính có
lý, có tình của nó.
Thế giới khách
quan là một hiện thực có lý thì nguyên nhân làm nên nó, nghĩa là mọi vận động,
tương tác, chuyển hóa, biến đổi ở tầng tồn tại nền tảng, trong nội tại nó, cũng
phải mang tính hợp lý và hơn nữa phải tuân theo những nguyên lý có tính tất yếu,
phổ quát. Những nguyên lý này khi được nhận thức, chính là những “mệnh đề tổng
hợp tiên thiên” hay những “định luật tất yếu phổ quát” theo cách nói của Kant,
trong cái thế giới toàn là hiện tượng theo quan niệm cũng của Kant luôn.
Thế thì những
nguyên lý ấy có từ đâu và vì sao lại mang tính tất yếu và phổ quát, không lẽ lại
do sự qui ước của con người, một tồn tại nhỏ nhoi, không lấy gì làm đáng kể
trong Vũ Trụ?
Tự Nhiên Tồn Tại
là có lý, là một sự Có Lý, duy nhất; vì là vốn dĩ thế nên Có Lý cũng là Tất Yếu.
Tự Nhiên Tồn Tại là tất yếu thì thực thể Tồn Tại cũng tất yếu và nguyên lý Tự
Nhiên cũng tất yếu. Thực thể Tồn Tại theo nguyên lý Tự Nhiên để tồn tại; nguyên
lý Tự Nhiên bảo toàn Tồn Tại để tự nhiên! Dù thế nào đi nữa thì Tồn Tại vẫn là
Tồn Tại và chỉ Tồn Tại mà thôi!
Ở dạng thực thể,
Tồn Tại chính là Vũ Trụ. Vì Tồn Tại là đầy đủ nên Vũ Trụ là một tổng thể vô cùng
phong phú, vô cùng đa dạng các sự vật - hiện tượng. Vì Tồn Tại cũng lại thiếu
thốn nên Vũ Trụ trở thành “chốn thư hùng” của tất cả vạn vật - hiện tượng, chúng
tranh nhau tồn tại, tác động nhau, giành giật nhau, chuyển hóa nhau, làm nên một
cuộc sinh sinh diệt diệt vô tiền khoáng hậu đến bất tận. Tuy nhiên Vũ Trụ chẳng
hề hấn gì, Tồn Tại vẫn là Tồn Tại vì đã được nguyên lý Tự Nhiên đảm bảo! Nguyên
lý Tự Nhiên ra lệnh cho toàn thể các lực lượng trong Vũ Trụ rằng: “Chúng mày muốn
làm gì thì làm, muốn phá phách tạo dựng kiểu gì cũng được, muốn tranh giành, chém
giết, “ăn thịt” nhau thế nào mặc kệ, yêu thương thù ghét nhau đến mức nào mặc lòng,
miễn không làm cho Vũ Trụ bị “sứt mẻ” để cho Thủy Tổ của chúng mày, lão Tồn Tại
ấy, được nghỉ ngơi và bản thân Tao, vợ của lão, được… an nhiên!”. Để chắc ăn, đảm
bảo được tuyệt đối Tồn Tại, nguyên lý Tự Nhiên đã “cụ thể hóa” thành vô vàn những
“đạo luật” vừa phổ quát vừa đặc thù cho phù hợp với từng lực lượng, từng nhóm sự
vật - hiện tượng “hao hao” nhau, thậm chí là đến từng cá thể, từng vùng, từng tầng
nấc qui mô để chúng… dễ thực hiện “ý chỉ”! Và đúng như thế thật, việc thực hiện
luôn luôn ở mức… toàn hảo tuyệt đối! (Nhưng không biết bằng cách nào mà nguyên
lý Tự Nhiên, chưa qua tiến hóa thích nghi lại nói được và các lực lượng khổng lồ
trong Vũ Trụ với hầu hết là “vô ý thức” ấy lại hiểu được và phục tùng đến mức hơn
cả tuyệt vời như vậy? Chúng ta vĩnh viễn mù tịt về điều này!).
Những “điều luật”
của nguyên lý Tự Nhiên cũng chính là những nguyên lý chúng ta đang bàn tới. Chúng
có tính tất yếu và phổ quát vì là sự thể hiện của nguyên lý Tự Nhiên, cái bao hàm
và vốn dĩ thế.
Tuy nhiên, nên
thấy rằng các nguyên lý ấy không phải chỉ có tính tất yếu và phổ quát mà còn có
tính ngẫu nhiên và đặc thù. Vì ngay từ đầu chúng ta đã chọn “có lý” rồi nên đối
với chúng ta (và cả đối với Kant nữa), tính tất yếu và phổ quát trở nên nổi trội
còn tính ngẫu nhiên và đặc thù trở nên chìm lặn theo qui luật tính trội tính lặn
trong di truyền học của Men-đen. (Vận dụng như thế thật là khiên cưỡng và có vẻ
lố lăng nhưng có lẽ không hơn việc cho Tự Nhiên là một người đàn bà!!!).
Để nhận thức được
nguyên lý Tự Nhiên cùng với những “điều luật” - những dạng đã “cụ thể hóa” của
nó, con người không có cách nào khác là quan sát sự biểu hiện của chúng trong
thế giới khách quan (của con người!) thông qua hệ thống khái niệm của mình (mà
ban đầu chưa hoàn chỉnh) dùng trí năng để phát hiện, khám phá ra, phát biểu thành
những nguyên lý theo cách thức của tư duy, ngôn ngữ, trên cơ sở những quan niệm
đã đạt được trước đó (cũng theo một quá trình tương tự).
Trí năng của
con người từ đâu mà có? Chúng ta đã quan niệm: từ quá trình tiến hóa thích nghi
mà có. Trí năng con người, vào giai đoạn đầu tiên của sự xuất hiện loài người, được
hình thành nên từ những quan sát trực giác và là sự đặt ra khái niệm rồi trên cơ
sở đó đúc kết kinh nghiệm từ những lần quan sát ấy, bằng cách lưu nhớ, hồi ức,
liên tưởng, so sánh… Có thể nói một cách tương đối và đại khái, khi phân biệt được
thế giới dưới dạng khái niệm thì con người đã có trí năng và đã nhận thức. Nhờ
có trí năng mà con người nhận thức, nhờ có nhận thức mà trí năng phát triển và
trí năng phát triển, đến lượt nó, làm cho nhận thức ngày càng sâu rộng. Cái gốc
của nhận thức là cảm giác, quan sát và hồi ức. Nhờ biết hồi ức mà con người biết
lựa chọn hành vi được cho là phù hợp trong hoạt động thực tiễn của mình (cũng là
một biểu hiện của tiến hóa thích nghi!). Quá trình đó tái đi diễn lại trong suốt
đời người, làm nên sự từng trải, làm nên kinh nghiệm ở mỗi con người. Trên cơ sở
khái niệm với cách thức biểu hiện là nói và viết (vạch vẽ), những kinh nghiệm có
được ở mỗi con người sẽ được lưu truyền, tiếp thu trong cộng đồng người; được chiêm
nghiệm, đính chính, tu bổ, đúc kết lại thành tinh hoa kinh nghiệm, thành kiến
thức chung của cộng đồng người ấy để cùng ứng dụng, để lưu truyền cho thế hệ
sau qua con đường dạy và học.
Sự tiến hóa thích
nghi của bộ não, về mặt thuần túy sinh học xảy ra từ từ và có hạn độ, phù hợp với
tổng thể cấu trúc sinh học của toàn cơ thể. Do đó, để đáp ứng kịp thời những đòi
hỏi nảy sinh từ lối sống chủ động thích nghi, bộ não biết suy nghĩ đã chọn dạy
và học (có sẵn trong thực tại!) làm phương thức chủ yếu cho tiến trình tiến hóa
thích nghi của mình. Có thể nói di truyền và biến dị, dạy và học là hai phương
thức cơ bản của sự tiến hóa thích nghi có tính tương phản nhau; quá trình này tương
đối chậm nhưng bền vững thì quá trình kia tương đối nhanh nhưng dễ mất. Giữa chúng
có mối quan hệ khăng khít, giúp nhau tồn tại nhưng cái trước là nền tảng của cái
sau.
Từ hồi ức, suy
tưởng, so sánh mà nảy sinh ra sự phán đoán. Phán đoán là quá trình rút ra, suy
luận ra từ kinh nghiệm, từ kiến thức đã có sẵn, những nhận định mới về bản chất
sự vật hiện tượng mới phát hiện hoặc những nhận định có tính khái quát hơn, đúng
đắn hơn những nhận định cũ. Những nhận định ấy có thể đúng mà cũng có thể sai nên
cũng chỉ ở dạng khả năng chứ chưa là kiến thức mới. Chỉ sau khi đã được thực chứng,
được cộng đồng người thừa nhận, chúng mới định hình thành kiến thức dưới dạng
những mệnh đề có tính “tổng hợp, tất yếu, khái quát và tiên thiên” (cũng chưa
chắc đã đúng hẳn!). Chức năng phán đoán của bộ não làm cho nó có khả năng sáng
tạo. Sự sáng tạo ở con người có nguồn gốc từ tính tạo dựng có sẵn trong tự nhiên;
là sự nghiên cứu tìm tòi để tạo dựng ra cái mới, một cách có chủ đích.
Đến đây, chúng
ta thấy rằng con người không chỉ nhận thức mà còn sáng tạo. Nhờ nhận thức mà kiến
thức được lưu truyền, tàng trữ, nhờ sáng tạo mà kiến thức được điều chỉnh, sửa
chữa thành tinh túy, ngày một mở rộng cũng như chuyên sâu. Khả năng nhận thức và
sáng tạo làm nên trí năng ở mỗi con người. (Thế còn khả năng hoang tưởng? Đi mà
hỏi ông tổ ngành phân tâm học, ngài Ximôn Phrớt (Sigmund Freud) ấy!).
Quan sát là một
tất yếu có nguyên nhân từ đấu tranh sinh tồn và mục đích ban đầu của nó là vì
sinh tồn. Sau này nó còn có nguyên nhân từ yêu cầu của nhận thức và mục đích vì
nhận thức. Nhận thức và sáng tạo là tiếp thu kinh nghiệm, kiến thức cũ và là quá
trình quan sát, tìm hiểu thế giới khách quan, trên nền tảng kinh nghiệm đã được
tích lũy để đúc kết nên kiến thức mới. Biểu hiện rõ rệt nhất của nhận thức là sự
học hành (“Không thầy đố mày làm nên”; “Học thầy không tày học bạn”; “Học ăn học
nói, học gói học mở”; “Con thi trường học, mẹ thi trường đời”…).
Tự Nhiên Tồn Tại
là phải thể hiện; muốn thể hiện thì phải phân định. Nhờ có phân định mà có thế
giới chủ quan quan sát và đối tượng quan sát là thế giới khách quan! Không có
quan sát thì không có nhận thức; không có nhận thức thì không có sáng tạo. Thế
giới chủ quan cũng mang tính khách quan vì nó là bộ phận của thế giới ấy, ngược
lại, thế giới khách quan cũng bị pha màu chủ quan vì nó bị “bao phủ” bởi quan sát
chủ quan. Đó là chân lý! Chân lý đó dẫn đến hệ lụy là nhận thức chủ quan về cái
khách quan và sáng tạo chủ quan theo cách khách quan, nghĩa là thế giới khách
quan khi đã qua nhận thức sẽ không còn thuần túy là khách quan nữa; tất cả mọi
sáng tạo chủ quan, muốn trở thành chân lý, muốn là thành tựu của trí tuệ đều phải
phục tùng khách quan, phù hợp với khách quan và thuộc về thế giới khách quan.
(Chúng ta “ní nuận” như thế có hợp “nôgic” không mà sao thấy “nộn” xộn, “núc”
trong “núc” ngoài, “nung” tung quá!!!???).
Nhận thức và sáng
tạo là hai giai đoạn (được phân chia hoàn toàn mang tính tương đối) của một quá
trình nhận thức: trong nhận thức có sáng tạo và trong sáng tạo có nhận thức; là
hai tương phản, chuyển hóa nhau trong hoạt động tư duy: ở giai đoạn đầu nhận thức là cơ bản, nổi
trội, thì ở giai đoạn sau, sáng tạo trở nên lấn át, rõ ràng hơn. Kiến thức là
kinh nghiệm được đúc kết và do đó cũng chính là kinh nghiệm. Kiến thức là nhận
thức đã được chiêm nghiệm, đã được thừa nhận nên nó cũng là một bộ phận của nội
dung nhận thức. Có thể gọi kiến thức là “kinh nghiệm tổng hợp” hay “nhận thức của
quá khứ”. Nhưng chúng ta cứ gọi cho gọn là “kinh nghiệm”, vì xét cho cùng một
nhận thức, khi đã được thừa nhận sẽ thành nhận thức ở quá khứ, trở thành cơ sở
cho nhận thức ở hiện tại, nghĩa là nó đã chuyển thành kinh nghiệm. Do đó quá trình
nhận thức là nhận thức và nhận thức lại; là nhận thức kinh nghiệm, trên cơ sở
kinh nghiệm đó mà nhận thức hiện tại, tạo tiền đề cho sáng tạo tương lai. Quá
trình nhận thức thực ra không suôn sẻ, “đầu xuôi đuôi lọt” như thế, mà là vì kinh nghiệm thì có đúng có sai, có
đúng ít có đúng nhiều, lúc phù hợp lúc không còn phù hợp nữa, nên quá trình đó đầy
lận đận gian lao, và hơn nữa vì có tính chất “tiến hóa thích nghi” nên nó vừa là
tiến trình từ thấp lên cao vừa gồm những chu trình phát triển tương tự nhau từ
quan sát - rút kinh nghiệm - nhận thức - sáng tạo nên trông có vẻ như đó là quá
trình tiến dzích dzắc nếu nhìn ở góc độ chi tiết và có quĩ đạo xoắn trôn ốc nếu
nhìn trên bình diện tổng quan.
Rốt cuộc, một cách hoàn toàn tự nhiên, có
nguồn gốc từ chân lý khách quan, được hun đúc từ quá trình tiến hóa thích nghi,
trí năng con người đã thực hiện vẻ vang sứ mạng của mình là làm nên tri thức trác
tuyệt ở con người và đồng thời quá trình hình thành nên tri thức trác tuyệt ấy đã
nâng trí năng lên tầm siêu phàm, kỳ diệu.
Chúng ta xin nhấn mạnh; nếu giả sử loài
người, hiện nay, do một biến cố nào đó mà “quên béng” tri thức đi thì trí năng
của họ chưa chắc hơn gì trí năng của người cổ đại, nhưng ở thời cổ đại, trí năng
con người không thể đùng một cái mà nghĩ ra được thuyết tương đối rộng của
Anhxtanh. Nếu không có tri thức “tiên thiên” đã tiếp thu được ở trường Đại học
tổng hợp Kênisbéc và học vấn đúc kết được của hàng chục năm hoạt động khoa học
trong thực tế, chắc rằng Kant sẽ không thể sáng tạo được học thuyết triết học
“duy tâm siêu niệm” của mình.
Khi sáng tạo ra thế giới vật tự thân,
Kant khẳng định rằng thế giới đó là bất khả tri đối với con người. Điều đó có đúng
không? Không thể khẳng định hay phủ định được. Chúng ta không trả lời câu hỏi ấy,
tuy nhiên, sẽ nói về quan niệm riêng của mình.
Có thể phân chia thế giới thành hai hay
nhiều thế giới. Nhưng đó là việc làm mang tính chủ quan và tương đối. Khi làm cái
việc phân chia ấy, chúng ta đừng quên rằng chỉ có một thế giới là chân thực một
cách tuyệt đối, đó là cái thế giới đầu tiên, bao gồm toàn bộ các thế giới có được
từ sự phân chia. Các thế giới có được từ sự phân chia chỉ là hình ảnh, là bộ phận
của cái thế giới đầu tiên, chân thực tuyệt đối. Và điều quan trọng nhất là không
bao giờ được quên tính thống nhất tuyệt đối của cái thế giới duy nhất, chân thực
tuyệt đối ấy trong suốt quá trình suy tư, chiêm nghiệm của mình.
Sự phân chia thế giới của con người là
mang nặng tính chủ quan con người, nhưng chỉ là “mang nặng” thôi vì khách quan
mà nói thì cũng có sự phân định ấy. Khi sự phân chia là hợp lý, phù hợp với sự
phân định khách quan thì bản thân sự phân chia cũng mang tính khách quan. (Chẳng
biết nói thế nào cho đạt hơn được nữa dù biết rằng chưa đạt! Khái niệm thật là
hữu hạn, rời rạc và siêu hình!!!).
Thế giới khách quan của con người là phần
biểu hiện của Tự Nhiên Tồn Tại mà con người quan sát được bằng cảm giác, tri giác,
bằng công cụ, thiết bị hỗ trợ, bằng tri thức, suy tưởng, chiêm nghiệm…, hay nói
gọn lại: quan sát và nhận thức được. Tùy vào trình độ quan sát và nhận thức mà
thế giới khách quan ấy nông, hẹp hay sâu rộng, biến dạng nhiều hay ít, giống
nhiều hay ít so với Tự Nhiên Tồn Tại. Trước đây thế giới khách quan của con người
chỉ ở dưới “gầm trời”; có khi là hợp thành của ba thế giới: Trần Gian, Thiên Đường
và Địa Ngục, có khi chỉ là hai: Trần Tục và Niết Bàn. Sau đó, xuất hiện một thế
giới khách quan rộng hơn là Thái Dương Hệ với Trái Đất là trung tâm, Mặt Trời và
các hành tinh quay quanh, trong một cái phông “gắn” các vì sao… Ngày nay, nhờ
khoa học tự nhiên, nhất là vật lý học và thiên văn học, thế giới khách quan của
người, trong tri thức khoa học đã sâu rộng đến không ngờ mà về qui mô, đã “gần
bằng” Tự Nhiên Tồn Tại: đó là Vũ Trụ gồm hai bộ phận vi mô và vĩ mô (nói là “gần
bằng” để mai này nếu có phát hiện ra Vũ Trụ của chúng ta chỉ là bộ phận của một
Vũ Trụ khác lớn hơn nó nữa, thì chúng ta sẽ đỡ bị “quê”!).
Chúng ta luôn trực tiếp tiếp cận với Tự
Nhiên Tồn Tại theo cách đặc thù mà chính Tự Nhiên Tồn Tại, thông qua bộ phận của
Nó, đã ban cho chúng ta (nếu có lần nào đó chúng ta đã nói ngược lại thì xin lỗi
vậy!). Nhưng chúng ta không thể nhận thức được trực tiếp Tự Nhiên Tồn Tại mà phải
thông qua thế giới khách quan, trên hệ thống khái niệm của mình (cũng được rút
ra một cách chủ quan từ thế giới ấy).
Quá trình tìm hiểu thế giới khách quan làm
cho trình độ quan sát và nhận thức ngày càng sắc xảo và đúng đắn, đồng thời thế
giới khách quan cũng ngày càng sâu rộng và sáng tỏ, thấu suốt và chân xác hơn. Đến
một lúc nào đó (tràn trề hy vọng lắm lắm!) con người, khi đã đến trạng thái “thần
minh” nhờ có “vạn linh tâm”, “thuận phong nhĩ” và “thiên lý nhãn”, sẽ nhận thức
được trọn vẹn cái thế giới khách quan mà bấy giờ đã như một bức ảnh chụp sắc nét,
hay đúng hơn là một hồ sơ đầy đủ của bộ ảnh cắt lớp về Tự Nhiên Tồn Tại. (Có lẽ
nói ảnh chụp là hơi quá mà nên nói là hình vẽ khéo léo của con người thì hợp hơn!).
Chúng ta thấy điều thú vị này: thế giới
khách quan thuở ban đầu toàn khách quan mù tịt, khi con người bắt đầu suy nghĩ
về nó, nó bắt đầu le lói một vài chủ quan sáng tỏ, tiếp tục suy nghĩ, chủ quan
dần rạng rỡ để chỉ còn một vài khách quan mù tịt, suy nghĩ nữa, chủ quan lại hóa
ra mù tịt và bắt đầu có nhen nhúm khách quan sáng tỏ, suy nghĩ đến tột cùng thì
chủ quan chỉ còn không đáng kể để tràn ngập rạng rỡ khách quan. Thế rồi tiếp
theo? Loài người chắc gì còn tồn tại mà nói về điều đó?!
Như vậy con người luôn tiếp xúc với Tự
Nhiên Tồn Tại nhưng không bao giờ có thể “thấy” được Nó một cách tổng thể; có
thể nhận thức được Tự Nhiên Tồn Tại (khả tri!) bằng cách phán đoán thông qua việc
nhận thức trọn vẹn trực tiếp thế giới khách quan. Một câu hỏi đặt ra là: nhận
thức trọn vẹn, đúng đắn thế giới khách quan đã là chân lý cuối cùng mà nhận thức
cần đạt đến chưa? Và câu hỏi tiếp theo là: chân lý ấy có đồng thời là chân lý về
Tự Nhiên Tồn Tại không? Đối với những cái đầu “rực rỡ” hoang tưởng thì đó là
hai câu đố… quá dễ! Thế giới khách quan hiển hiện ra trước con người là của con
người. Đó là một miền tự nhiên hoang vu nhưng con người đã khai phá, đặt mốc, cắm
cờ, vạch dấu, ký hiệu và định nghĩa nó, rồi gieo trồng, gặt hái thu hoạch từ nó
(giống như Mặt Trăng, chỉ mới cắm cờ, quăng mốc lên đó, chưa kịp làm ra phương
tiện lưu thông thuận lợi nào đi từ Trái Đất đến đó, mà người ta đã ra công chứng
xác nhận chủ quyền, “xẻ thịt” mua đi bán lại rầm rộ gần hết đất trên đó rồi. Thật
hết biết!). Như vậy con người có quyền nhận thức nó. Nhưng con người nhận thức
nó cho ai và để làm gì? Chắc chắn là nhận thức không phải cho loài hổ hay loài
kiến chẳng hạn; không phải cho sao hỏa, Mặt Trời chẳng hạn, mà cho chính bản thân
con người. Con người nhận thức cho bản thân mình để mục đích đầu tiên là phục vụ
sinh tồn, rồi để muốn thỏa mãn sự tò mò tọc mạch vốn có của quan sát, để thỏa
niềm si mê trước cái kỳ vĩ, để… nói chung là còn nhiều “để” nữa, nhưng gút lại
là, hơi thô thiển nhưng có lẽ “hay” nhất, để tìm danh kiếm lợi cho mình và cả
cho mọi người. Khi nhận thức đã đạt đến đầy đủ, trọn vẹn và minh xác về thế giới
khách quan rồi, đã là một chân lý sáng ngời của con người rồi thì cần gì hơn thế
nữa, vì thực ra đó cũng là chân lý về Tự Nhiên Tồn Tại theo cách biểu đạt của
con người và trở thành tiên đề cuối cùng, không thể chứng minh, cũng không thể
suy luận: tiên đề của mọi tiên đề. Nhưng biết đâu cái tiên đề ấy lại chưa phải
là tiên đề mà chỉ nói lên giới hạn của nhận thức con người? Để trả lời câu hỏi
này thì cần phải biết chờ đợi và chờ đợi. Chờ đợi cho đến khi nào “lùng” ra được
một “ông bạn” đâu đó trong Vũ Trụ, ở tầng qui mô khác, có một cấu trúc cơ thể
khác hẳn chúng ta và do đó cũng “sở hữu” một thế giới khách quan khác hoàn toàn
cái của chúng ta. Giả sử rằng ông bạn đó đã nhận thức được hoàn hảo thế giới khách
quan đó và cũng đúc kết thành một chân lý mang tính tiên đề. Nếu sau khi phiên
dịch (chắc là khó khăn mệt mỏi lắm!), hoặc dùng phép qui chiếu kiểu gì đó, mà
hai chân lý của hai thế giới khách quan trùng nhau về nội dung thì lúc đó, cả
chúng ta và “ông bạn” sẽ cùng ca khúc khải hoàn vì tính tiên đề của hai chân lý
đã được chứng thực và rõ ràng, hai chân lý đó là hai cách phát biểu của một chân
lý duy nhất, và là tiên đề cuối cùng, cơ bản nhất, bao hàm nhất của Tự Nhiên Tồn
Tại.
Chắc rằng Kant sẽ không đồng thuận được cái
quan niệm “tự nhiên chủ nghĩa” vừa rồi mà chúng ta đã sáng tạo. Nhưng bản thân
cuộc đời khoa học của Kant đã đủ xác định mức độ chân lý của học thuyết tiên
nghiệm mà Kant đã sáng tạo ra. Dù sao đi nữa, Kant vẫn luôn là một câu chuyện rất
hay và bổ ích về sự suy tư triết học, trong lịch sử nhận thức của nhân loại. Đọc
học thuyết của ông, chúng ta có một ám ảnh lạ lùng. Chúng ta cứ thấy lởn vởn thấp
thoáng trong đó hình bóng Đức Chúa Jêsu hát vang bài ca Đức tin, hình bóng
Platon chập chờn trên vách hang kể say sưa câu chuyện về ý niệm, hình bóng Đức
Phật Thích Ca tay lần tràng hạt, lim dim giảng dạy về cõi tạm vô thường và Niết
bàn vĩnh cửu, hình bóng của Lão Tử phong phanh áo vải thô, trầm mặc ngồi viết Đạo
đức kinh. Hình như học thuyết triết học của Kant là điểm hội tụ của các phương
chiều “đồng sàng dị mộng” trong quá khứ ấy!...
***
Nhớ lại thời thanh niên, chúng ta vẫn thường
theo anh em bốc vác để kiếm tiền tiêu thêm vì đồng lương thời đó, ôi thôi, ít vô
cùng và bị gọi đích danh là “đồng lương chết đói”. Chúng ta nhỏ con và hồi đó còn
non nớt thư sinh lắm nên được anh em thượng luôn cho chúng ta vào vai đứng đếm
(tiền chia đều như nhau). Nhất là anh chàng tổ trưởng tổ bốc xếp, luôn luôn bênh
vực chúng ta nếu có ai đó tỏ ra cự nự: “Nó yếu quá, thấy nó vác mà phát mệt. Với
lại nó có học, cho nó đứng đếm là đúng rồi!”. Một anh chàng hồ hởi, hay hò hát
và rất quí chúng ta. Thế mà anh ta lại chết quá đột ngột ở tuổi đời còn rất trẻ.
Thật là tiếc thương! Sau này, mỗi lần nhớ lại khuôn mặt linh hoạt và hay cười ấy,
lòng chúng ta lại ỉu xìu, phiền muộn. Trái đất này khốn khổ có lẽ một phần vì
nhiều con người tài năng và tốt bụng chết quá sớm!
Mỗi lần đứng đếm, chúng ta lấy phấn ra, bắt
chước ông trọng tài khi xưa, vạch lên đâu đó những hàng ô vuông gạch chéo, chẳng
bao giờ lầm lẫn. Anh chàng tổ trưởng khoái ra mặt: “Cái “vụ” này hay thiệt đó
nha!”.
Chúng ta cũng khoái vì vẫn còn nhớ và áp
dụng cách “điểm quân” đơn sơ nhưng “khỏe cả người” ấy: không cần nói, không cần
nhẩm, không cần tính toán, không cần nhớ, không cần nghe; chỉ cần nhìn đừng bỏ
sót và… vạch. Khi việc bốc vác đã xong, để tổng kết lại, chúng ta đếm một cách
hồn nhiên như… chơi trốn tìm: năm, mười, mười lăm, hai mươi, hai lăm, ba mươi…
một trăm”, rồi đánh dấu lại, tiếp tục đếm như thế và cứ thế cho đến kết quả cuối
cùng; chẳng hạn: “một trăm, hai trăm, ba trăm… anh em ơi, chúng ta vác được hai
trăm ba mươi tám bao!...”.
***
Cha của chúng ta là một người lính thợ đã
từng qua hai cuộc kháng chiến, đã từng có mặt ở mật trận Lào, Campuchia, đã từng
vào Nam ra Bắc, nhưng chủ yếu là phục vụ trong binh đoàn đảm nhiệm việc:
“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương
lai”
(Thơ Tố Hữu)
Nước nhà giải phóng được vài năm, ông xuất
ngũ; “về vườn” theo đúng nghĩa đen. Trong cái thời buổi mà đời sống quá ư hạn hẹp,
thiếu thốn ấy, ông đã hành động mà cả bạn bè chiến hữu lẫn bà con họ hàng của ông
đều ngỡ ngàng, cho là ngược đời. Có người hỏi: “Vì sao?”, ông cười vang, ồn ào:
“Có được làm tướng cũng không thèm ở lại huống hồ là vài ba đặc quyền đặc lợi
nhỏ nhoi; “đời chúng ta, đâu có giặc là ta cứ đi”, nhưng bây giờ hết mẹ nó giặc
rồi thì phải về thôi! Tôi là một tráng sĩ già và dốt, cả đời trong chiến tranh
nên chỉ quen với công việc sống chết của chiến tranh chứ có biết làm gì khác đâu?
Dù sao thì tuy chẳng xuất sắc gì, nhưng tôi cũng đã làm tròn nghĩa vụ đối với Tổ
quốc, tạm gọi là đền xong nợ nước. Đã đến lúc vứt gươm xuống ngựa mà về thôi, về
để… trả thù nhà!”. Và ông đã “trả thù nhà” thật! Hành động ấy của ông đã vô tình
làm bản thân ông lâm vào khốn khó, làm cho gia đình ông chịu nhiều thiệt thòi vật
chất nếu so với gia đình của nhiều chiến hữu, nhưng chắc chắn rằng ông chẳng
bao giờ mảy may nhận ra điều đó.
Hơn chục năm sau thì cha của chúng ta “trở
chứng”. Chúng ta cấp cứu ông vào bệnh viện dù chưa biết rồi đây lấy tiền đâu mà
lo chữa chạy nhưng phải cứu cái đã! Chúng ta nói với bác sĩ:
- Thưa bác sĩ, bệnh tình của ông thế nào ạ?
Mong bác sĩ cố cứu giúp dùm!
Vị bác sĩ nhìn chúng ta, không, hình như
là nhìn bộ quần áo công nhân bạc thếch và lấm lem của chúng ta như cách nhìn của
ông thợ may thì đúng hơn, rồi chậm rãi nói:
- Ông già bị nặng lắm, đã hôn mê rồi. Nhưng
có lẽ là còn khả năng. Chắc là phải nằm viện điều trị lâu, tốn kém tiền bạc lắm
đấy!...
- Vâng, chúng tôi biết! Trăm sự nhờ bác sĩ.
Chuyện tiền bạc chúng tôi lo được, có gì bác sĩ chỉ dạy dùm - chúng ta mạnh miệng
nói thế.
Vị bác sĩ nhìn xuống có vẻ đăm chiêu, lẩm
bẩm: “Chi phí nhiều lắm!...”. Khi rời ghế nhà trường vào đời, vì ngơ ngác không
biết “chi phí” mà chúng ta đã bị phân bổ công tác một cách tréo ngoe, với thâm ý
“đày đọa”. Hỏi ra mới biết nhiều người bị như thế: kẻ muốn làm việc cho Lạc
Long Quân thì bị đưa lên phục vụ bà Âu Cơ, người muốn lên “hầu” bà Âu Cơ lại bắt
xuống đầu quân cho ông Lạc Long Quân. (Mà cái “lũ ấy”, sau chiến tranh, ở đâu
ra mà lắm thế! Trong chiến tranh ác liệt, có thấy mấy đâu? Lúc đó “chúng” trốn
chui nhủi ở đâu nhỉ?!). Sự kiện đó đã đóng đinh vào tâm khảm chúng ta như một
“kinh nghiệm đau thương”. Và chúng ta biết vị bác sĩ muốn gì!...
Chúng ta đang lựa tìm câu nói thích hợp nào
đó để cho vị bác sĩ ngầm hiểu rằng chúng ta đã sẵn sàng chấp nhận tất cả thì ông
ta ngẩng lên, điềm đạm:
- Ông già có công với Cách mạng không? Nếu
có chứng nhận, tôi sẽ lo giúp bớt được tiền viện phí…
Chúng ta đã thủ thế nhầm đối tượng!
Trong cái hoàn cảnh lo buồn ấy, có một cái
gì đó dâng trào trong lòng, không biết có phải là niềm vui hay hi vọng không nữa,
nhưng nhẹ hẳn người, làm chúng ta nhanh nhảu:
- Có, ông già ngày xưa là Quân Giải phóng
mà, ổng còn có thẻ thương binh, cấp tá…
- Không chịu nói sớm… Thế thì tốt quá rồi
còn gì! Phải đưa ông già qua bệnh viện quân đội ngay!
Chẳng hiểu ất giáp gì, chúng ta nói khờ
khạo:
- Vừa đưa đến đây lại đưa đi, như thế có
sao không bác sĩ? Hay là cứ để ổng được điều trị ở đây vài ngày rồi tính sau, có
được không ạ?
Nhớ lại, hình như vị bác sĩ hơi sững người:
- Tùy mấy anh thôi! Nhưng theo ý tôi thì
nên chuyển sang đó ngay. Ở bên đó, họ có đầy đủ trang thiết bị hơn, đội ngũ bác
sĩ cũng giỏi. Vả lại bác nhà sẽ được hưởng chế độ, hoàn toàn miễn phí… Tôi khuyên
thật lòng đấy! Thế nào?...
Chúng ta lúng túng thật sự.
Thời đó chưa có taxi. Chúng ta chở cha mình
đi cấp cứu bằng xích lô. Bấy giờ cứ nghĩ cha đang tình trạng như thế mà chở bằng
xích lô lần nữa thì quá nguy hiểm, mà nếu nhờ xe bệnh viện thì chắc chắn là không
đủ tiền, phải chạy đâu đó mượn thêm. Hơn nữa, nói là hơn mười phút chứ đến đó lại
chờ lại đợi thì thật là tội nghiệp cho cha quá… Tóm lại là rối bời!
- Thuê xe bệnh viện tốn bao nhiêu hả bác
sĩ?...
Ông ta vừa xua tay, vừa lắc đầu, cười nhẹ:
- Không tiền bạc gì cả đâu. Sẽ có xe cấp
cứu của bệnh viện đưa đi, có một cô y tá đi theo, và các anh cho một người cùng
đi… Chuyển nhé!... Rồi, để tôi lo… - vị bác sĩ đứng dậy, trước khi đi, còn nói
- Mấy anh ra với bác nhà và chuẩn bị đi, xe cấp cứu đến tức thì bây giờ đấy…
Qua bên đó ông già sẽ có cơ may nhiều hơn…
Cho đến nay, chúng ta chưa một lần gặp lại
vị bác sĩ ấy. Đáng lý ra, khi xong việc, chúng ta phải biết ghé lại để chí ít cũng
nói được một lời cảm ơn. Nhưng chúng ta đã quên khuấy mất điều đó. Có lẽ vì
trong suốt thời gian sau đó, chúng ta tập trung lo chăm sóc cho cha và rồi cuối
cùng cha cũng không qua khỏi được. Có lẽ cũng vì một sự kiện đau buồn khác nữa…
Nhưng dù sao, chúng ta vẫn có lỗi trước một người hành nghề y theo lời thề của
Hyppôcrát (Hyppocrates, 460 – 377 TCN, được coi là ông tổ ngành y - dược).
Chuyển sang bệnh viện quân đội, cha nằm ở
khoa “hồi sức cấp cứu” được khoảng hai tuần thì mất. Thở máy hơn một tuần, cha đã
có dấu hiệu hồi phục; các bác sĩ cũng như hộ lý ở đó đều phấn khởi. Buổi chiều
trước ngày cuối cùng, có bác sĩ còn ra ngồi chơi với chúng ta, bảo: “Chắc chắn
là sẽ qua được. Ông cụ khỏe ghê thật!”. Và chúng ta cười đáp lại: “Lính mà!”.
Thế mà chiều hôm sau thì cha đi! Người ta
thay ống thở cho cha và giao công việc đó cho hai thanh niên thực tập. Hai người
này khi rút ống thở cũ ra thì lại không đút được ống mới vào đúng vị trí. Họ luống
cuống một hồi rồi một người chạy vội vào kêu bác sĩ trực hoặc trưởng khoa mà đến
giờ chúng ta không còn nhớ rõ (nhưng tên vị bác sĩ tắc trách thì chúng ta không
hề quên!).
Trong khi đó cha cứ rống lên ồ ồ như bò bị
chọc tiết. Chúng ta đứng ngoài cửa sổ nhìn vào mà lòng xót xa, đau khổ đến tột
cùng; mắt trừng trừng ráo hoảnh mà lệ thì xối xả đầy ngập cõi lòng.
Khi hai vị bác sĩ hối hả chạy được đến nơi
thì không kịp nữa rồi. Họ làm đủ mọi cách cấp cứu nhưng than ôi linh hồn cha đã
tức tưởi rời bỏ trần thế và không quay về được nữa!
Họ gắn lại ống thở, máy thở vẫn thở đều đều,
nhưng da cha thì xuất hiện những tím tái. Cha đã chết ngạt!
Chúng ta thấy được tất cả, nghe được tất
cả (tiếng họ thầm thì, tiếng họ hoảng loạn, tiếng họ la mắng nhau và cả tiếng
im lặng nhằm che giấu lấp liếm sau đó nữa). Chúng ta có thể chất vấn, có thể la
lối, có thể kiện cáo, nhưng không thể vì thế mà cứu được cha. Có thể họ tắc trách,
có thể là sơ sảy nhưng chắc rằng lòng họ không bao giờ muốn xảy ra như thế, và
họ còn có tương lai, nhất là hai anh chàng thực tập nọ.
Chúng ta hiểu hết tất cả để rồi im lặng và
trước họ, còn ra vẻ như không biết chuyện gì đã xảy ra. Chúng ta chỉ nói với người
em trai của mình: “Thôi em ạ, âu cũng là số phần của cha như thế. To chuyện thì
cũng đã rồi, chẳng ích gì nữa cả, chỉ tội họ thôi!”
Không bao giờ có thể quên được ngày hôm ấy!
Chúng ta còn nhớ lúc đưa cha xuống nhà xác, ông già trông coi ở đó mặt đỏ như gà
chọi, nói giọng tưng tửng: “Ông già này hên quá, là người đầu tiên khai trương
hệ thống tủ đông lạnh!”
Chúng ta thì nhớ mãi nhưng chắc rằng những
người tham gia làm ra sự kiện bi thảm đó đã quên từ lâu và có lẽ không một lần ân
hận. Người ta thường nói đến tòa án lương tâm với cái nghĩa công minh của nó.
Nhưng chúng ta không tin. Sự từng trải đã dạy chúng ta rằng rất ít những tòa án
lương tâm có quan tòa, công tố tài giỏi, công tâm và đủ lòng dũng cảm. Thường là
bên biện hộ giành thắng lợi. Cho nên nếu những người đó còn đôi khi nhớ tới thì
sự kiện đó chỉ hiện ra như một kinh nghiệm đơn thuần về chuyên môn mà thôi…
Chúng ta còn rất nhiều kỷ niệm về người
cha mà chúng ta hằng yêu quí, nể trọng. Ông là người xuề xòa, “vui đâu chầu đấy”,
không phân biệt giai tầng, tuổi tác, cứ “hạp” là chơi, không định kiến. Sau giải
phóng, lúc còn trong quân ngũ, cứ mỗi lần về quê, đi đâu thì đi, cha cũng dành
thời gian đến nhà mấy “tay” sĩ quan ngụy khề khà rượu chè. Vài “phe ta” làm ở
chính quyền, thấy vậy, chê trách. Cha “độp”: “Tao, mấy đứa mày, với chúng nó hồi
nhỏ đều là bạn bè một lũ với nhau. Chỉ vì thời cuộc mà thành kẻ thù của nhau; gây
nên cảnh nồi da xáo thịt. Cái thời cuộc ấy đã qua rồi, công tội thì cứ việc mà
luận sao cho đúng, cho có tình chứ không lẽ lại vẫn cứ “nồi da xáo thịt”, không
lẽ chỉ vì chính kiến, lầm lỗi của quá khứ mà không thể nối lại được nghĩa bạn bè
khi xưa, nhất là bọn mình đã là người chiến thắng?...”. “Phe ta” độp lại: “Nhưng
chúng nó rõ ràng là bán nước, cam tâm làm tay sai cho giặc…”. Cha cười: “Chúng
mày nói thế thì kệ chúng mày! Hồn tao, tao giữ nhưng tao không thể bỏ chúng nó được!
Trong chiến tranh, bắn giết nhau trên chiến trường là chuyện dễ tha thứ. Vô cớ đốt
phá, vô cớ bắn giết, thì dù là ở thời chiến cũng nặng tội rồi. Có tội thì cứ xử,
thậm chí là xử tử; xong thì thôi. Không nên thù ghét dai dẳng, chẳng lợi lộc gì
cho sự hòa hợp cả, đôi khi lại là có tội vì đi ngược với truyền thống vị tha của
dân tộc”…
Có lần cha con ngồi uống rượu, chúng ta hỏi
vui: “Hồi đó, sao ba biết Cách mạng là đúng mà ba theo hả ba?”. Cha cười khà khà:
“Nhỏ quá, có biết quái gì đâu! Thời “Nam Bộ kháng chiến” có đoàn Vệ quốc quân đến
quê mình, đóng ở đó. Có một tổ ở nhà bà nội con. Họ hồn nhiên ca hát suốt ngày,
vui lắm. Bà nội “úy lạo” đủ thứ cho họ. Làng xóm yêu quí họ, bà nội yêu quí họ,
cứ xưng hô với nhau “má má con con” tối ngày. Vì lẽ đó mà ba cũng mến mộ họ và
cũng vì lẽ đó mà một cách tự nhiên, ba cảm nhận rằng họ chiến đấu vì chính nghĩa.
Thế rồi mặt trận vỡ, họ rút đi. Trong đoàn quân rút lui một cách chỉnh tề ấy có
một người đánh trống. Nghe tiếng trống rộn ràng cứ ngày một nhỏ dần, đột nhiên
ba vô nhà quơ vội bộ quần áo cuộn tròn lại, ra nói với bà nội con: “Con đi theo
mấy anh đây, má ơi!”, rồi chạy vụt đi. Bà nội con gọi í ới. Bây giờ nghĩ lại thấy
tức cười quá!”.
Cha “ực” thêm một tợp rượu, nói tiếp: “Lần
đó, ngoài ba ra còn có năm đứa cùng xóm nữa, trở thành Vệ quốc quân. Ba tin rằng
cả bọn, kể cả ba, đi theo Cách mạng không phải vì đã giác ngộ Cách mạng; chẳng
biết tí gì về chủ nghĩa này nọ, chẳng hiểu tí gì về những từ đại loại như “vô sản”,
“giai cấp”… thế mà cứ cắm đầu, cắm cổ chạy theo… kể cũng lạ kỳ!”
“Có lẽ tại ở lứa tuổi thanh thiếu niên,
ai cũng thích bay nhảy, hoặc có khi nhà nghèo, muốn thoát ly vì lính vệ quốc đã
gây ấn tượng về cuộc sống đồng đội vui vẻ, lại được rày đây mai đó thỏa chí
tang bồng…”. Chúng ta đưa ra nhận định.
Cha lắc đầu: “Nhà mình ngày xưa khá giả
nhất nhì ở quê đấy; lúc nào trong nhà cũng thuê năm ba người làm mà lại…”
Bây giờ ngồi ngẫm lại, chúng ta đã hiểu điều
mà cha nói: “Kể cũng lạ kỳ!” ấy. Đối với con người như cha, có thể cũng đúng một
phần là tuổi trẻ thích bay nhảy. Nhưng chắc chắn cái nguyên nhân sâu xa, mang tính
quyết định làm cho cha đột ngột chạy theo Cách mạng, nằm ở chỗ khác. Nếu không
thấy được cái dung dị, trong sáng của nghĩa quân, không thấy được mối quan hệ
quân - dân đằm thắm, không thấy được sự ủng hộ nhiệt tình của gia đình, làng xóm,
không nghe được những bài hát, những tiếng trống thúc giục hào hùng lẫm liệt của
đoàn nghĩa dũng thì chắc gì cha đã đi theo Cách mạng, hoặc giả có đi theo thì có
thể cũng chỉ một hai năm là quay đầu về vì khó mà chịu được những khó khăn,
gian khổ, thiếu thốn mọi thứ, cũng như những hiểm nguy rình rập của đời người lính
trong buổi đầu của cuộc kháng chiến. Thế mà cha đã đi, tình nguyện đi, vui vẻ đi
ròng rã hơn 30 năm, qua hai cuộc kháng chiến “thần thánh”. Thế thì vì lẽ gì nếu
không phải là vì lòng yêu nước?
Lòng yêu nước ấy có được là từ những câu
chuyện kể, những lời dạy bảo, những hành động thờ cúng tổ tiên, thờ cúng những
anh hùng dân tộc, những bậc tiền bối có công với nước, của ông bà, cha mẹ, thầy
cô. Nó được lưu truyền từ đời này tới đời khác và một phần đã ngấm dần vào xương
tủy. Nhờ có lòng yêu nước đã sẵn ẩn chứa tiềm tàng trong tâm hồn, mà khi nghe và
thấy những hiện tượng gợi nhớ như thế, tình cảm trước cảnh đất nước đang lâm
nguy trong cha đã nổi dậy mãnh liệt, thúc giục ông chạy theo “tiếng gọi của non
sông”.
Theo lẽ tự nhiên thì ở mỗi con người đều
có tình yêu quê hương bản quán và từ đó mà cũng có tình yêu đất nước. Trong mỗi
người Việt Nam
cũng vậy. Không những thế, đó là một tình yêu nồng nàn được hun đúc trong suốt
mấy ngàn năm liên tục phải chống giặc ngoại xâm và trở thành truyền thống của cả
một dân tộc.
Nếu mọi người Việt Nam đều có sẵn lòng yêu
nước thì vì sao trong hai cuộc kháng chiến ấy vẫn cứ xuất hiện lực lượng gọi là
“ngụy”, làm tay sai cho ngoại bang, cam tâm bán nước? Chỉ giải thích được điều
tưởng như mâu thuẫn này nếu cho rằng con người Việt Nam ở trong cái lực lượng ấy cũng có
lòng yêu nước. Tuy nhiên đối với giới chóp bu thì vì sự hận thù mù quáng nào đó,
vì mù lòa trước lòng tham danh lợi không cưỡng được, cũng nhiều khi là vì bất đồng
chính kiến đối với Cách mạng, và đôi lúc lại chỉ là sự bất mãn thông thường đã
làm cho họ quan niệm khác đi về lòng yêu nước. Còn phần lớn đều là do tuyên
truyền, ép buộc hoặc đơn giản là vì miếng cơm manh áo. (Thời Pháp thuộc, có một
tầng lớp công chức đông đảo làm cho Pháp, hợp tác với Pháp. Không thể đánh đồng
toàn bộ cái lực lượng ấy là không yêu nước, là bán nước được!). Trong chiến
tranh, thanh niên trai tráng không thể đứng ở “cửa giữa”, mà hoặc là theo bên này
hoặc đi với bên kia. Sự tuyên truyền đã tác động đến họ, hình thành nên chính
kiến ở họ và đó cũng là một nguyên nhân làm cho họ phân hóa. Dù là lực lượng bên
này hay bên kia thì khi tuyên truyền đều phải đề cao lòng yêu nước vì đó là chính
nghĩa, là tình cảm của đại chúng.
Nhưng lòng yêu nước sẽ phải hiểu khác đi ở
mỗi lực lượng. Một lực lượng, dù có sai trái đến mấy, có phản động đến mấy thì
cũng không ngu dại gì mà tự nhận mình là bán nước. Tuy nhiên sự đúng sai của một
quan niệm về lòng yêu nước sẽ được thể hiện ra ở hành động thực tiễn, được đánh
giá bởi đại bộ phận dân chúng, thậm chí là phải đợi đến đánh giá của hậu thế…
Chúng ta cho rằng cha đã hành xử đúng. Trong
bất cứ trường hợp nào không phải là chiến đấu trực tiếp một mất một còn thì tình
yêu thương con người phải được đặt lên hàng ưu tiên để mà cân nhắc, quyết định.
Và tình yêu thương con người ấy phải trùng khớp với tình yêu đồng loại mà Đại
Chúng quan niệm.
***
Cái sáng kiến đếm bao bằng hình vuông gạch
chéo làm chúng ta thầm thích thú thực sự. Một lần, chúng ta khoe với cha. Tưởng
sao, ông nói làm chúng ta chưng hửng: “Thời của ba toàn làm thế, ai mà không biết!
Còn một cách nữa cũng rất hay. Hồi ở Trường Sơn, để tránh sự đánh phá ác liệt bằng
máy bay của địch, từng đoàn xe chở súng đạn, quân trang quân dụng vào chi viện
cho chiến trường hầu như phải chạy đêm. Mỗi lần có một đoàn xe qua binh trạm, đều
phải đếm số lượng xe để báo cáo với cấp trên. Trong đêm tối và phải hạn chế tối
đa ánh sáng đèn đóm thì việc ghi chép rất phiền phức, đôi khi là không thể. Người
ta đã nghĩ ra cách đếm rất hay là “bẻ que”, nghĩa là lấy nứa chẻ sẵn một bó giống
như lạt buộc nhưng dày hơn một chút; khi có đoàn xe thì lấy một “sợi” ra, mỗi
xe qua thì bẻ gập một đoạn, cứ thế bẻ qua bẻ lại dích dắc, hết sợi này đến sợi
khác; sau đó chỉ việc đếm các vết gấp ấy là có kết quả …”
Lúc đó, ngồi nghe cha kể mà mắt chúng ta
cứ trố ra. Một cách cũng thật là đơn giản mà quá hay! Cha còn nói cách đó là sáng
kiến rút ra được khi thấy một số người Thượng vẫn dùng dây thắt nút để lưu nhớ
một cái gì đó, một sự việc gì đó, chẳng hạn như số voi, số gà…
Từ việc nhớ lại lần trò chuyện đó với
cha, chúng ta liên tưởng ngay đến tục thắt nút thời Trung Hoa sơ sử. Không biết
giữa hai hiện tượng “thắt nút” cách nhau đến năm, sáu ngàn năm và có lẽ hơn cả
từng đó ngàn cây số, có mối liên quan gì không nhỉ?
Có những kinh nghiệm từ thời cổ đại,
trong một hoàn cảnh nào đó của thời nay, việc ứng dụng chúng vẫn đem lại những
kết quả hữu hiệu không ngờ. Phải chăng đó cũng là điều kỳ lạ?.
Nhận xét
Đăng nhận xét