THỰC TẠI VÀ HOANG ĐƯỜNG 10/A* (hoàn chỉnh)(Hoàng Lão)

TT&HĐ 10 

THỰC TẠI VÀ HOANG ĐƯỜNG

                                                                                                  ĐẠI CHÚNG

                                                    ____________________________

 

PHẦN I:     CÓ MỘT CÁI GÌ ĐÓ

“Tại sao có một cái gì đó chứ không phải là không có gì?”
 
CHƯƠNG VIII: HOÀNG LÃO

Không biết mà nói là ngu, biết mà không nói là hiểm.
CHU-HI

 
Ở đời cái gì thung dung thì còn, cấp bách quá thì mất. Việc mà thung dung thì có ý vị. Người mà thung dung thì sống lâu.
Làm việc nghĩa chớ kể thiệt hại. Luận anh hùng chớ kể hơn thua.
Tâm niệm trầm tĩnh thì lẽ gì nghĩ chẳng tới. Chí khí cao rộng thì việc gì làm chẳng xong.
Tầm thuật quý nhất là sáng suốt. Tướng mạo quý nhất là chính đại. Ngôn ngữ quý nhất là giản dị, Chân thật.
Khí kiêng nhất là hung hăng. Tâm kiêng nhất là hẹp hòi. Tài kiêng nhất là bộc lộ.
Tâm phải rộng để dung nạp người trong thiên hạ. Tâm phải công bằng để làm việc trong thiên hạ.Tâm phải trầm tĩnh để xét lý trong thiên hạ. Tâm phải vững vàng để chống lại những biến cố trong thiên hạ.
Việc sắp xảy ra mà ngăn được, việc đang xảy ra mà cứu được, đó là quyền biến. Chưa có việc mà biết việc sắp đến, mới có việc mà biết được việc sau, có tài năng. Định việc mà biết việc xảy ra thế này, thế nọ, như vậy là biết lo xa. Người như thế là người có kiến thức rộng rãi.
LÃ-TƯ-PHÚC

Khiến người ta nể lời, Không bằng khiến người ta tin lời.
Khiến người ta tin lời, Không bằng khiến người ta vui vẻ nhận lời.
Đem họa phước mà răn dọa là khiến người ta sợ.
Đem lý lẽ mà răn dụ là khiến người ta tin
Dùng tâm lý mà giác ngộ là khiến người ta vui lòng mà nghe theo.

VƯƠNG DƯƠNG MINH

Biết đủ trong cái đủ của mình thì luôn luôn đủ.
Biết người là trí, biết mình là sáng
Không có lỗi nào to bằng ham muốn; Không có tai hoạ nào to bằng không biết đủ.
Lo thắng người thì loạn; Lo thắng mình thì bình.
Lời thành thật thì không đẹp; Lời đẹp thì không thành thật.
LỄ KÝ

“Lời của ta rất dễ hiểu, rất dễ làm, mà thiên hạ không ai hiểu được, làm được. Lời của ta có tôn chỉ, việc của ta có căn bản. Vì thiên hạ không hiểu ngôn luận của ta nên không biết ta. Người hiểu ta rất ít, người theo ta được là rất hiếm. Cho nên thánh nhân mặc áo vải thô mà ôm ngọc quý trong lòng.”
Lão Tử

                                                         

   Ở đầu thời nhà Hán, tư tưởng triết học của phái Đạo Gia được gọi một cách phổ thông là Hoàng Lão; chỉ đến cuối nhà Hán mới đổi tên gọi là Lão Trang.

Trang ở đây là Trang Chu, thường gọi là Trang Tử, một hiền triết nổi tiếng của Đạo Gia. Ông là người nước Tống, huyện Mông, ở khoảng giữa hai tỉnh Sơn Đông và Hồ Nam ngày nay; sinh và mất ở khoảng 369 - 286 TCN. Thời sau đánh giá ông là người phát triển thêm, đưa học thuyết triết học của Lão Tử lên tầm hoàn chỉnh của nó. Quan niệm sống của ông được Tư Mã Thiên, ở mục Lão Trang thân hàn liệt truyện trong “Sử ký” lột tả rất rõ ràng qua lời kể một sự việc:

“Vua Uy Vương nước Sở nghe nói Trang Chu là người hiền trong thiên hạ, sai sứ đem hậu lễ đón, muốn mời về làm Tướng quốc. Trang Chu mỉm cười bảo với sứ giả rằng: Lợi ngàn vàng đáng trọng thật, địa vị khanh tướng đáng quí thật, ngươi không thấy con bò làm đồ lễ hy sinh ngày tế đình sao? Được nuôi nấng bao nhiêu năm, rồi được trang sức văn vẻ để đưa vào Thái miếu. Lúc ấy dù có muốn làm con lợn mồ côi há còn được nữa không? Ngươi bước đi ngay, đừng đến làm nhục ta. Thà ta chơi ở trong bùn lầy dơ bẩn còn thấy vui hơn là để cho kẻ có nước trói buộc ta…”

Khi trước đây chúng ta nói rằng cuốn “Quỉ Cốc tử” viết được như vậy là nhờ nó dựa trên một nền tảng triết thuyết thâm hậu nào đó. Bây giờ, sau một hồi lang thang va vật trong thời Xuân Thu - Chiến Quốc, chúng ta đã biết cái triết thuyết cao vời ấy chính là Hoàng Lão.

Học thuyết triết học Lão Trang, dựa chủ yếu trên hai trước tác “Đạo đức Kinh” và “Nam Hoa Kinh”. Nhưng để hiểu được trọn vẹn hơn hệ thống tư tưởng triết học ấy, có lẽ chúng ta nên chú ý đến cả “Xung hư chân kinh” và “Quỉ Cốc tử” nữa.

Chúng ta đã mạnh miệng bênh vực, ca ngợi, tâng bốc cái hệ thống tư tưởng triết học ấy lên tận mây xanh. Tại sao vậy? Tại vì nó được sinh ra từ tự nhiên, từ chính bản thân cuộc sống, là học thuyết được phát triển có kế thừa từ những kết tinh của hàng ngàn đời chiêm nghiệm thực tiễn của người Phương Đông cổ đại nói chung, chứ không riêng gì của người Trung Hoa cổ đại nói riêng (!?), là sự chắt lọc đúc kết của muôn vàn góc độ quan sát và suy tư xuất sắc nhất về thiên nhiên. Từ đó mà học thuyết đã đạt đến một nhận định đặc biệt thiên tài: đời sống xã hội có nguồn gốc từ Tự Nhiên, là bộ phận phụ thuộc không thể tách rời của Tự Nhiên, có mối quan hệ tương tác qua lại với Tự Nhiên và do đó, vận động xã hội phải tuân theo những quy luật mà nếu xét đến cùng thì cũng chính là những quy luật Tự Nhiên, hoặc xuất phát từ những nguyên lý nền tảng của Tự Nhiên. 
Cũng vì những lẽ đó mà quan niệm về nhân sinh của học thuyết mang tính giản dị, mộc mạc mà hợp lý cao độ; mang hơi thở của đại chúng, không cố tình, gượng ép mà trở thành như tâm sự của đại chúng, nguyện vọng của đại chúng và như thế nó cũng mang tính nhân đạo sâu sắc và tính chính nghĩa cao cả. Một con người đại chúng, khi được sinh ra, trước hết và trên hết là để làm người, để sống và chỉ mong cầu một đời được ấm no, được hưởng hạnh phúc trong an bình chứ không phải để làm anh hùng, quân tử hay vua chúa gì. Thuở đầu tiên, khi mới thoát thai khỏi loài vật, cũng như con vật, con người tìm ăn,tìm mặc trong thiên nhiên hoang dã, no ấm rồi thì thôi, không ham hố tích lũy làm gì. Mối quan hệ tương hỗ giữa xã hội con người với giới tự nhiên làm biến đổi điều kiện sống ở từng kỳ thuận lợi hay bất lợi (do thiên tai, phát triển dân số…), làm nảy sinh ra ở con người một thứ gọi là tình cảm (cảm giác sâu sắc về tinh thần làm nảy sinh những cặp khái niệm tương phản như yêu-ghét, vui-buồn...?), làm xuất sinh những ý niệm nhận thức như: sự tư hữu, sự phân định gọi là giàu-nghèo, rồi mạnh-yếu, có quyền lực-không có quyền lực,..., từ đó mà xuất hiện khái niệm danh lợi. Chính danh lợi đã làm biến dạng sự mong cầu ban đầu vốn chừng mực, giản dị, trong sáng của con người thành đục ngầu thèm khát vị kỷ, hắc ám mê muội dục vọng!

Không cương cứng như thuyết Khổng, không thái quá như thuyết Mặc, thuyết Lão - Trang có cái vẻ nhu mì nhưng lại hàm chứa được cái siêu đẳng, vĩ đại. Rất nhiều khả năng nhiều ý tưởng triết học cốt lõi về Tự Nhiên của Phật giáo Trung Hoa sau này được rút tỉa ra từ học thuyết Lão – Trang. Thậm chí không ít nhà nghiên cứu Trung Hoa thời trung đại về triết học sử còn suy đoán rằng hệ thống tư tưởng của Phật Giáo nguyên thủy (thời Đức Phật Thích Ca còn tại thế) có xuất pháp điểm từ Đạo Gia hoặc là kết quả ban đầu của quá trình tiến triển phân nhánh, mà nhánh thứ hai chính là Đạo Giáo (một đàng tu thân thành Phật, một đàng tu thân thành Tiên, và đều lấy "Thiền" làm phương thức tu tập cơ bản). Suy đoán đó không phải là không có lý!!!

Bây giờ chúng ta sẽ cố gắng tìm hiểu kỹ hơn về học thuyết Lão - Trang, được đến đâu hay đến đấy.

 ***

Nếu so sánh về thời gian tính đang được thừa nhận trong lịch sử triết học thế giới thì phải cho rằng triết học cổ đại Ấn Độ là "người" đầu tiên nhận chân được Tự Nhiên Tồn Tại, dù còn ở dạng suy lý ngây thơ.

Con đường nhận thức của loài người là từ ngây ngô vô thần đến hữu thần, từ đa thần đến nhất thần và cuối cùng, trước sau gì cũng đạt đến quan niệm vô thần (đã được tri giác đúng!). Triết học Ấn Độ cũng không đi chệch con đường ấy. Ngay từ buổi bình minh của mình, triết học Ấn Độ, trong quá trình nhận thức, luôn trằn trọc với những câu hỏi “Tại sao?” về thế giới các sự vật hiện tượng đã quan sát thấy.

Chúng ta có thể tạm gọi thời gian từ 1500 - 1000 năm TCN là thời kỳ đầu Vêđa và cũng là thời kỳ tiền triết học của Triết Học Ấn Độ. Thời kỳ này là thời kỳ lưu truyền trong xã hội các thánh ca (Kinh) Vêđa mà theo Paul Oltramare thì:

“Những thánh ca Vêđa rõ rệt về vấn đề thần linh, lại hoàn toàn không biết đến vấn đề liên quan đến nhân sinh. Về vận mệnh của linh hồn, chúng không có một lời đề cập. Trái lại, chúng chú ý nhiều đến vấn đề nguồn gốc nguyên lai. Những câu hỏi “tại sao” kế tiếp nhau mà đặt ra. Trong các cuộc hội họp, trong khi kẻ đọc, hay hát sửa soạn cuộc lễ, còn có người Bà La Môn ở chỗ này, chỗ kia thảo luận về nguyên lai của vạn vật”.

Đúng vậy, trong kinh Rig Vêđa, chúng ta đọc được nhiều đoạn dồn dập câu hỏi, hỏi rồi tự trả lời, rất hay. Chẳng hạn như bài ca ngợi Vicvakarman - thần kiến thiết:

“Lúc khai thiên lập địa

Ngài ở đâu,

Ngài Vicvakarman vĩ đại?

Người chứng kiến sự bất tử của muôn vật

Đã thúc đẩy cuộc sáng tạo như thế nào?

Với cái gì?

Làm thế nào mà Ngài đã phô diễn vòm trời kia?

Và mặt đất ở dưới này.

Tai và mắt Ngài đâu đâu cũng có!

Diện mục Ngài ở khắp mọi nơi!

Ngài ở trong tất cả bàn tay

Tất cả bàn chân

Thượng đế duy nhất vận động cánh và tay

Và đây Ngài tạo ra đất và trời

Với rừng nào?

Với gỗ nào?

Ngài đã dùng làm chất liệu để tạo thành trời đất?..."

Hay ở chỗ khác:

“Ai biết, ai có thể nói cho ta ở đây

Từ đâu mà sinh ra có tạo vật

Chư vị Thần linh không thể nói được

Vì các Ngài ra đời sau cuộc sinh thành tạo thiên lập địa.

Vậy thì ai biết từ đâu sinh ra tạo vật?

Từ đâu mà có thế giới này?

Thế giới này là sáng tạo hay không phải sáng tạo?..."

Cuối cùng, qua bao nhiêu những tự vấn như thế, qua bao nhiêu trầm tư mặc tưởng, trăn trở như thế, các thánh triết Ấn độ cổ đại cũng cảm nhận được cái mà chúng ta gọi là Tự Nhiên Tồn Tại:

“Ở thuở ấy chưa có hiện diện một vật gì mà cũng không phải là trống không

Bấy giờ chưa có địa giới này và cũng chưa có bầu khí xa vời và cao tít trên đầu. Đã có không  biết cái gì, bao phủ hai thế giới chưa?

Có ai sống bấy giờ và ở đâu? Ở đây chỉ có một sự Nghiêm Nghị với Nghiêm Nghị mà thôi

Thuở ấy chưa có chết và không chết, Ngày và Đêm, chưa có gì khác nhau giữa ngày với đêm. Bấy giờ chỉ có cái Một hồn nhất, Tự Tại tối cao không chút gợn, yên lặng không một hơi thở. Sự thực chỉ có cái Một mà thôi…

Bấy giờ đêm dày bao phủ lấy đêm dày, tất cả còn chưa phân; tất cả chìm trong Hồng Thủy

Hiện Hữu còn chìm bên trong Vô Hữu; cái vĩ đại của nó chỉ biểu hiện ra là Nghiêm Nghị với Nghiêm Nghị mà thôi.

Bấy giờ một ý muốn đầu tiên xuất hiện trong cái Thức vũ trụ hóa, từ cái chí dục đầu tiên ấy nảy nở mầm mống của tất cả sự vật!

Các đại hiền đã thực hiện trong hành động của tâm, sự sinh thành của thực tại từ cái hư vô.

Cái Một ấy cũng chính là cái mà chúng ta (tạm gọi) là Tự Nhiên Tồn Tại, là cái thế giới khách quan chưa được nhận thức; “hiện ra” trước khi hữu thức, hữu tri. Do đó mà Cái Một cũng là cái vô hữu (không, chưa hiện hữu!!!) vĩ đại, mọi hiện hữu “chìm” trong đó. Nếu chúng ta lạc vào một vùng đồi núi hoang vu, xa vắng; đứng đó một mình cô đơn, trong một đêm khuya tịch mịch không sao mà cũng không trăng, và không gian hoàn toàn yên ắng; ngước nhìn lên cao, rất có khả năng chúng ta sẽ nhìn thấy Cái Một đầy nghiêm nghị!

Khoảng thời gian 1000 - 750 năm TCN được gọi là thời kỳ Vêđa - Brahman hay có người gọi là Giao thời Brahman. Thời kỳ này mang nặng tính nghi lễ. Người ta không chú ý nhiều đến thần linh nữa mà tập trung xem trọng việc cúng bái tế lễ vì họ cho rằng đó là những nghi thức tác động được đến thần linh.

“Mặt trời sẽ không mọc lên được nếu thầy cúng lúc bình minh không làm lễ Cúng Lửa” (Brahmana).

Có lẽ niềm tin vào sự linh nghiệm của công việc lẽ bái, cúng tế xuất phát từ quan niệm này:

“Thế giới này sự thực khởi kỳ thủy là không có gì hết! Không có trời cao, không có đất thấp, không có không trung. Cái thực tại phi hữu ấy là một ý tưởng: Ta muốn có!”.

(Brahmana)

Nếu ở đầu thời Vêđa, triết học Ấn Độ đã phát hiện một cách tài tình ra Cái Một, cái Tự Nhiên Tồn Tại chưa qua nhận thức thì ở thời kỳ này, họ cũng xuất sắc làm xuất hiện hai khái niệm hết sức cơ bản không chỉ cho riêng triết học cổ đại Ấn Độ, là Brahman (Đại Ngã, Phạn Thiên, Tinh thần Vũ Trụ) và Atman (Tiểu Ngã, cái tôi, Tinh thần Cá Nhân). Rõ ràng, với hai khái niệm ấy, các hiền triết thời đó đã nhận thức được tính phân định của thế giới mà ở đây Brahman đóng vai trò (cũng có nghĩa như) Thế giới khách quan (Khách thể, đại Vũ Trụ) và Atman đóng vai trò (cũng có nghĩa như) thế giới chủ quan (chủ thể, tiểu Vũ Trụ). Nguyễn Đăng Thục, trong cuốn “Lịch sử triết học phương Đông”, tập 3, có viết: “Sự tìm tòi một nguyên lý cùng tột của thế giới, dần dần càng ngày càng đi đến điểm kết chung vào hai ý niệm sớm xuất hiện từ cổ xưa để rồi trở nên hai then chốt của tư tưởng: ấy là ý niệm Brahman và Atman. Chữ Brahman là một danh từ thiêng liêng trong Vêđa, là tiếng nói vật linh có hiệu lực như lời thần chú. Kế đến cái đức nó đã hiện thân vào đấy, và sau cùng là cái quyền năng siêu nhiên hiện ở tại gốc các cuộc cúng lễ và đại diện cho cái nguyên chất khởi thủy của tất cả hiện hữu. Còn Atman là cái nhân, của một nhân cách, cái tồn tại ở một cá nhân sau khi đã từ bỏ hết cả những gì có tính cách ngẫu nhiên. Hai ý niệm ấy xuất hiện ở các địa hạt tư tưởng thì ngay ở tại các câu thơ Brahmana đã thấy đồng nhất cái nọ với cái kia rồi”.

Khỏang thời gian từ năm 750-550 TCN được gọi là thời kỳ Vêđa - Upanishad. Đến thời kỳ này, sự nhận thức hồn nhiên khách quan đã mất dần đi, nhường chỗ cho những suy tưởng tâm linh hướng về nhân thế. Xảy ra hiện tượng ấy là do các nhà Upanishad đã đồng nhất hóa Brahman với Atman nhưng lại cho rằng Brahman là cái gì đó phi vật chất, bất diệt:

“Thân thể vật chất thì tiêu diệt. Trong cái ấy có ngự Tuyệt đối với Brahman là phi vật chất và bất diệt. Ở tạm trong thân thể như là linh hồn cá nhân. Ngài vui và buồn bởi vì Ngài đồng nhất bằng ý nghĩ với cái thân thể có vui và buồn. Chừng nào Ngài giải thoát khỏi thân thể này, trở nên linh hồn Vũ Trụ, Ngài không còn vui buồn nữa, nhưng không bị diệt vong vì vui buồn. Trái lại, bình thản và an định, Ngài là Tự Ngã Tuyệt Đối”.

(Chadogya Upanishad)

Đó là một nhận thức thụt lùi rất đáng tiếc. Việc phát hiện một cách tuyệt vời ra Cái Một và xuất sắc thấy được thế giới gồm có Brahman và Atman, đã không còn được phát huy hơn nữa.

Chúng ta quan niệm rằng Cái Một được Vêđa mô tả như thế, chính là Tự Nhiên Tồn Tại chưa qua nhận thức (và như vậy nó là vô hữu). Trước nhận thức, nó hiện hữu ra (biểu hiện ra) thành vạn vật - hiện tượng mà nhận thức cũng là một sự vật - hiện tượng trong số đó. Tính phân biệt được của thế giới các sự vật - hiện tượng đã phân định một cách tự nhiên ra chủ thể quan sát (cái nhận thức) và khách thể bị quan sát (cái được nhận thức) hay thế giới chủ quan và thế giới khách quan. Hai cái đó chính là Atman và Brahman. Atman là bộ phận của Brahman và cả hai đều là sự thể hiện ra của cái Một, cái vận động vật chất ở tầng nền tảng; có cùng nguồn gốc là Cái Một. Cái vận động vật chất ở tầng nền tảng chính là cái mà Upanishad gọi là Cái Ấy. Nếu Cái Một là Tự Nhiên Tồn Tại chưa qua nhận thức thì Cái Ấy chính là Tự Nhiên Tồn Tại đã được nhận thức tuyệt đối. Như vậy Atman và Brahman vì là hai sự vật - hiện tượng độc lập tương đối với nhau nên không thể đồng nhất được; vì có cùng nguồn gốc xuất hiện nên cũng lại có tính đồng nhất. Atman có thể mất đi và trở về với Cái Ấy nhưng Brahman thì chỉ biến đổi chứ không bao giờ mất, hoặc chỉ mất đi để trở về với Cái Một khi toàn bộ Atman mất đi!

Đến đây, tự nhiên bật ra một câu hỏi cũng thuộc “ngàn đời” của triết học: Linh hồn có tồn tại ngoài thể xác không; còn tồn tại khi thể xác đã mất đi rồi không?
Câu hỏi đó là một thử thách vàng đá đối với mọi học thuyết triết học. Vì vậy mà nó cũng đặt ra một đề tài vô cùng hóc búa nhưng cũng vô cùng hấp dẫn đối với mọi bộ não tò mò. Nếu sau này còn kịp thời gian thì chúng ta sẽ quay lại với câu hỏi đó, làm cái công việc tương tự như bác sĩ thần kinh Freud đã làm (nhưng không thể chuyên sâu vào ngành y như thế mà chỉ hời hợt trên bình diện triết học thôi). Còn bây giờ chúng ta chỉ có thể nói rằng trả lời, phủ định hay khẳng định câu hỏi trên đền không đúng vì thực tế đã chứng minh điều đó. Khi thân xác mất đi thì cấu trúc của vật chất vận động nền tảng có thể bị phá hủy theo hoặc do một nguyên nhân bí ẩn nào đó, vẫn còn có thể tồn tại một thời gian vài năm, vài trăm năm thậm chí là vài ngàn năm… rồi lúc đó mới thực sự bị phá hủy. Do đó cái gọi là Atman, quan niệm một cách tương đối thôi, vẫn có thể tồn tại ngoài thể xác nhưng chắc chắn là “mờ nhạt” và ngày càng mờ nhạt. Nhưng từ đó những hiện tượng về vong, hồn ma, nhập hồn và hãn hữu là cả sự đầu thai nữa cũng có thể xảy ra …Một cách tuyệt đối thì phải dứt khoát khẳng định rằng, linh hồn tồn tại ngoài thể xác là sự "bộc lộ" ra trong hiện thực của một hư vô (một thể thức tồn tại chưa biết, chưa nhận thức được!) chứ không phải của một Hư Vô (tuyệt đối không có gì!), vì chúng ta đã luận giải rồi: dù có cố gọi là Hư Vô thì cứ vẫn là Tồn Tại!

 
                                                                      ***

Đang nói chuyện Hoàng Lão, chúng ta lại nhắc đến Vêđa và Upanishad vì chúng ta có cảm giác thấy hai nền triết học cổ đại Trung Quốc và Ấn Độ có những điểm tương đồng sâu sắc một cách bất thường. Hình như ngay từ đầu đã có sự giao lưu về tư tưởng văn hóa giữa hai nền văn minh cổ đại ấy và sự “học hỏi lẫn nhau” giữa hai nền triết học ấy kéo dài suốt quá trình tồn tại của chúng. Hơn nữa, điều này mới thực sự lý thú, nếu xem xét chi tiết trên tinh thần tổng quan và bất chấp những nhận định chủ quan từ trước đến nay về tiền sử của triết học Phương Đông - khoảng nửa đầu thời cổ đại, thì sẽ thấy hiển hiện ra một tồn nghi khổng lồ là hình như hai nền triết học cổ đại ấy, và rất có thể là toàn bộ nền triết học thế giới thời cổ đại đều nếu không trực tiếp thì cũng gián tiếp, nếu không hình thành nên từ sự chủ động thừa hưởng thì cũng từ tàn dư của duy nhất một quan niệm về thực tại khách quan đã xuất hiện vào thời đại còn cổ xưa hơn nữa, tạm gọi là thời đại văn minh trước Đại Hồng Thủy nếu thực sự đã từng xảy ra biến cố Đại Hồng Thủy - một thiên tai nước-lửa vĩ đại có phạm vi toàn cầu, mang tính hủy diệt khủng khiếp nhất đối với loài người từ trước đến nay và vì thế cũng tạc thành ấn tượng không phai mờ trong tâm trí con người dù trải qua hàng ngàn thế hệ, thể hiện ra bàng bạc ở truyền thuyết, huyền thoại của hầu như mọi dân tộc trên khắp thế giới!

Nếu không là thế thì không thể hiểu được quan niệm về cái gì đó được gọi là Thực Thể Tối Cao cùng với những khái niệm Cái Một, Cái Ấy, Brahman, Atman của Vêđa - Upanishad lại "đồng chí hướng" với quan niệm về cái gọi là Đạo của Hoàng Lão đến thế, trong khi khó mà khẳng định dứt khoát khái niệm Đạo là rút ra từ quan niệm Brahman một cách trực tiếp được. Hay chúng ta đang nổi cơn điên rồ nhỉ!??? Vậy thì...thôi, hãy quên sự tồn nghi đi, và cứ cho rằng trong quá trình xây dựng khái niệm "Đạo" của mình, Lão Tử đã "ngộ"được mặt hợp lý trong suy tư của Vêđa - Upanishad và tiếp nhận nó! Tạm thế đã, cho...đỡ mệt!
 Chúng ta đã nói về Cái Một, còn Cái Ấy thì chúng ta sẽ nói thêm cho rõ hơn, qua lời của triết gia Ấn Độ, Radhaksishnan:

“Chúng ta là phần tử hữu hạn, chúng ta không thể xác định tính chất của thực tại lý tưởng, tuy rằng Upanishad nhấn mạnh rằng cái thực tại ấy không phải là trống rỗng. Tuy vậy, để phản đối những ý tưởng sai lầm về cái tối cao và để vạch rõ sự thật là Cái Ấy không phải sự trừu tượng, Kinh Upanishad đã ngã vào những khái niệm không thích đáng. Nói gọn lại, chúng ta không có thể nói gì về thực tại ấy được. Nhưng vì mục đích bàn luận, chúng ta bắt buộc phải dùng đến những khái niệm tri thức với giá trị hữu hạn của chúng”.

Trong Tathiriya Upanishad có đoạn:

“Sự thực, cái do đấy tất cả vật thể sinh xuất, cái nhờ đấy chúng sinh sống, cái mà chúng trở về đấy lúc chết, chính là Cái Ấy phải tìm kiếm, Cái Ấy là Brahman”.

Còn Đạo thì như chính Lão Tử nói:

“Có một vật hỗn độn mà thành trước cả trời đất. Nó yên lặng (vô thanh) trống không (vô hình), đứng một mình mà không thay đổi (vĩnh viễn bất biến), vận hành khắp vũ trụ mà không ngừng, có thể coi nó là mẹ của vạn vật trong thiên hạ. Ta không biết tên nó là gì, tạm đặt tên cho nó là Đạo, miễn cưỡng gọi nó là Lớn (vô cùng)”.

Phải chăng Lão Tử nói về Cái Một, và khi “tạm đặt tên cho nó là Đạo” thì lại là Cái Ấy và “miễn cưỡng gọi nó là Lớn” chính là Thực tại Tối Cao, Brahman hay là cái mà ngày nay chúng ta gọi: Tự Nhiên Tồn Tại?

Nếu sự phán đoán của chúng ta là đúng thì xét về thời điểm ra đời, cần phải cho rằng khởi thủy quan niệm về Tự Nhiên Tồn Tại như cái được gọi là Đạo của Đạo Gia, là có nguồn từ quan niệm về cái Thực tại Tối Cao của triết học Ấn độ cổ đại, còn xét về những nét khác biệt của hai quan niệm ấy thì phải cho rằng chúng phát xuất từ cùng nguồn gốc, hình thành và tồn tại tương đối độc lập nhau, nhưng "song hành" bên nhau và có sự liên hệ với nhau ở mức độ nhất định.

Tiếp thu được mặt hợp lý của cái quan niệm còn ở mức sơ phác nhưng phần nhiều là đúng hướng ấy của các hiền triết Ấn Độ cổ đại; kết hợp với thuyết âm dương biến đổi đã xuất hiện trước đó của bản thân dân tộc mình (do Bá Dương Phụ đề xướng, có nhiều khả năng là dựa trên ý niệm lưỡng phân-lưỡng hợp đã xuất hiện trước đó rất lâu rồi, tận thời tối cổ, của tổ tiên người Lạc Việt!), Lão Tử đã xây dựng được một học thuyết triết học tương đối hoàn chỉnh, mà nền tảng lý luận của nó là Đạo, và về đại thể là một nhận thức trác tuyệt về Tự Nhiên Tồn Tại.

Kính thưa Lão Tử, hôm nay hậu thế đã bắt đầu hiểu Ông! Chúng con xin mượn viên ngọc quí mà Ông đã giữ trong lòng suốt 2500 năm, để trưng ra cho người đời chiêm ngưỡng. Mong Ông không còn phải ngậm cười nơi Chín Suối nữa mà thoải mái mở miệng cười  ha hả trong cõi thần tiên nào đó, âm rền vang vọng đến vô thủy vô chung Quỉ Cốc!

 ***

Để trình bày được rõ ràng hơn và cũng nhằm dễ bề luận giải thuyết Hoàng Lão, chúng ta cũng bắt chước Nguyễn Hiến Lê khi chú giải Đạo Đức Kinh, phân định tương đối ra thành ba phần: vũ trụ quan, nhân sinh quan và chính trị quan.

Trước hết chúng ta nói về vũ trụ quan Hoàng Lão.

Không có quan sát thì không có vũ trụ quan. (Quan sát xét cho đến cùng cực chính là kết quả của cảm giác, có nguồn gốc từ đặc tính phân biệt được của thế giới và mối quan hệ tương hỗ giữa các sự vật - hiện tượng. Để khỏi phải dông dài lan man, chúng ta “khóa” lại: quan sát chỉ bắt đầu từ động vật). Vũ trụ quan của động vật là cái gì đó còn đầy hỗn độn, rối rắm, mờ mịt, nói chung là còn hầu như bất minh. Vũ trụ quan của con người tư duy trừu tượng, nhờ có hồi ức và vì đã qua nhận thức ngày một sâu sắc nên khác hẳn của loài động vật. Đó là một thế giới sâu rộng đến cùng cực, vô cùng sống động với vô vàn sự vật - hiện tượng biến hóa, xoay vần, sinh sinh diệt diệt có lớp có lang, vừa minh định tỏ tường vừa khôn lường kỳ ảo …Do đó, Vũ Trụ mà con người quan sát được có thể "tạm" hiểu được, nhưng khó lòng mà hiểu cặn kẽ được. Thậm chí, không thể hiểu tuyệt đối được!

Viết đến đây, chúng ta chợt thấy u hoài:

                              Em không nghe mùa thu

                              Lá thu kêu xào xạc

                              Con nai vàng ngơ ngác

                              Đạp trên lá vàng khô

(Thơ Lưu Trọng Lư)

Em đã từng nghe tiếng đàn bầu nhỏ giọt buồn hằng cửu chưa em? Chính là cái thanh âm ấy đấy. Ôi, tiếng lo âu của ngàn lá xào xạc trước sự bỡn đùa của ngọn gió thời gian? Và nai ơi, sao còn vô tình đạp lên lá vàng cho rợn tiếng vụn vỡ của xương khô và biết gì không mà ngơ ngác?! Đất trời có thấy phong cảnh đó, Vũ Trụ có nghe khúc hòa tấu đó như chúng ta thấy và nghe không nhỉ?! …

Có một cái gì đó vừa có vẻ rành mạch vừa vô cùng mông lung, bao trùm lên tất cả, chứa đựng tất cả, kể cả “cái tôi nhận thức”. Không biết nó là cái gì, không biết gọi nó là gì cho đúng, cho phải. Các hiền triết Vêđa - Upanishad đành tạm gọi nó là Cái Một, Cái Như Nhất, Cái Ấy; Lão Tử tạm gọi là Đạo, và chúng ta tạm gọi là Tự Nhiên Tồn Tại .

Tuy đều nhằm chỉ “cái gì đó” tối cao nhưng Cái Một, Cái Ấy, Cái Như Nhất mới chỉ là những nhãn mác giản đơn có ý nghĩa sơ phác thì Đạo lại là một khái niệm hàm chứa một nội dung rộng đến vô cùng; vừa dùng để chỉ cái thực thể của Tối Cao (mà chúng ta gọi là Tồn Tại) vừa dùng để chỉ cái nguyên lý vận hành của cái Thực thể Tối cao ấy (mà chúng ta gọi là Tự Nhiên). Có thể nói toàn bộ vũ trụ quan của Hoàng Lão được gói gọn trong chữ Đạo ấy.

Mở đầu “Đạo Đức Kinh”, Lão Tử viết:

“Đạo mà có thể diễn tả được thì không phải là đạo vĩnh cửu bất biến; tên mà có thể đặt ra để gọi nó (Đạo) thì không phải là tên vĩnh cửu bất biến.

“Không”, là gọi cái bản thủy của trời đất; “Có” là gọi mẹ sinh ra muôn vật

Cho nên, tự thường đặt vào chỗ “Không” là để xét cái thể vi diệu của Đạo, tự thường đặt vào chỗ “Có” là để xét cái (dụng) vô biên của nó.

Hai cái đó (Không và Có) cũng từ Đạo mà ra, chỉ khác tên, và đều là huyền diệu.

Huyền diệu rồi lại thêm huyền diệu, đó là cửa của mọi biến hóa kỳ diệu”.

Không thể áp đặt cho Tồn Tại bất cứ một ý nghĩa hữu hạn nào vì nó vô nghĩa. Nhưng nếu đặt nó là “vô nghĩa” cũng sai, vì nó rõ ràng là một sự thực, vẫn cảm nhận được nó, nó vẫn có nghĩa đối với nhận thức, thậm chí là toàn nghĩa! Tạm gọi nó là "Đạo" chứ nó không phải là Đạo, cũng không phải với bất cứ danh xưng nào. Lão Tử nói như vậy là đã thấy được cái tính nước đôi của Tồn Tại, dù rằng ông chưa thấy được cái tính nước đôi ấy do chính nhận thức mà ra: Tồn Tại là duy nhất nhưng qua nhận thức đã bị phân định thành hai Tồn Tại: thực và ảo, hiện và ẩn, danh và thực…

Lão Tử còn có một phát hiện thứ hai mà chúng ta cho là tuyệt diệu không kém, đó là đặc tính đồng nhất và dị biệt cùng thể hiện của Tồn Tại. Nếu nhìn thế giới xung quanh vào ban ngày, chúng ta sẽ phân biệt được rõ ràng, minh bạch vạn vật thì cũng cái thế giới ấy trong một đêm tối mịt, chúng ta chẳng thấy được gì hết ngoài một khối đồng nhất, đen kịt. Nếu ban đêm nhìn lên trời cao, chúng ta thấy cả một bầu sao sáng huyền vĩ thì ban ngày lại chẳng thấy gì và nếu ngày đó là quang mây thì chúng ta sẽ chỉ thấy một nền xanh đồng nhất. Hoặc cũng tương tự như chúng ta đang nhìn và rồi nhắm mắt lại: hiện thực vẫn ở đó, các sự vật vẫn hiện hữu nhưng chúng ta nào có phân biệt được gì nữa đâu (?), mà chỉ có thể suy tưởng ra được từ kinh nghiệm trước đó mà thôi. Do vậy mà xuất hiện cặp khái niệm Hữu và  Vô (Có và Không). Đồng nhất, không phân biệt được chính là Không (không phải trống rỗng!) nhưng cả cái thế giới đồng nhất ấy, lại là Có. Một vật khi không phân biệt được với xung quanh thì phải là Không, khi phân biệt được với xung quanh (dị biệt) thì nó phải là Có.

Khi nhìn lên bầu trời xanh, chúng ta nói không có sao, nhưng thực ra là sao vẫn ở đó, chỉ có điều tại mắt ta vào ban ngày không thấy đó thôi.

Như thế đoạn “… đặt vào chỗ “Có” là để xét cái (dụng) vô biên của nó” theo cách dịch của Nguyễn Hiến Lê, nên hiểu là “… đặt vào chỗ “Có” là để xét cái sự phân biệt của nó”.

Với cặp khái niệm Có - Không này, Lão Tử đã đạt đến một khám phá thứ ba (thật tài tình) về Tồn Tại, đó là đặc tính tương phản. “Có” hay “Không” thì cũng là tồn tại, từ Tồn Tại mà ra, là một cặp khác tên gọi nhưng cũng xuất hiện từ một gốc, “đều là huyền diệu”, cùng làm nên huyền diệu.

Chúng ta đã cho rằng cặp khái niệm Có - Không là gốc của hệ thống khái niệm tương phản. Có - Không cũng là gốc của mọi hình thức tương phản giữa các sự vật - hiện tượng, và thể hiện ra như một tình thế làm xuất hiện động lực vận động của Tồn Tại. Ở đây, Lão Tử cũng cho là như thế: “đó là cửa của mọi biến hóa kỳ diệu”.

Với từng đó câu chữ (nguyên văn chữ Hoa còn ngắn hơn nữa!). Lão Tử nói lên tất cả những gì cơ bản nhất, thiết yếu nhất về Đạo, về Tự Nhiên Tồn Tại, và nếu đó thực sự là  chân lý thì quả ông phải là một thiên tài. Bản thân Lão Tử đã coi đó là chân lý tối thượng và mọi câu nói về Đạo khác trong “Đạo Đức Kinh” của ông chỉ nhằm mục đích dẫn giải cho rõ hơn, mở rộng, làm sâu sắc hơn, cụ thể hơn chân lý ấy để dựa vào mà luận chuyện thiên hạ, để mà phân định đúng - sai trong họat động xã hội - nhân sinh. Chúng ta sẽ liệt kê những đoạn nói về Đạo của ông trong “Đạo Đức kinh”, chỗ nào thấy cần thiết “khua môi” thì chúng ta “múa mép” một chút, thấy không cần thì thôi:

Ông nói về sự tương phản trong quan niệm:

“Ai cũng cho cái đẹp là đẹp, do đó mà phát sinh ra cái gọi là xấu; ai cũng cho điều thiện là thiện, do đó mà phát sinh ra điều gọi là ác”. Là vì “có” và “không” sinh lẫn nhau; dễ và khó tạo nên lẫn nhau; ngắn và dài làm rõ lẫn nhau; cao và thấp dựa vào nhau; trước và sau theo nhau”.

Ông nêu thí dụ rất hay về tính tương đối cũng như mối quan hệ “keo sơn” của cặp khái niệm “có - không”:

“Ba mươi tay hoa cùng qui vào một cái bầu, nhưng chính nhờ khoảng trống không trong cái bầu mà xe mới dùng được. Nhồi đất sét để làm chén bát, nhưng chính nhờ khoảng trống không ở trong mà chén bát mới dùng được. Đục cửa chính và cửa sổ để làm nhà, chính nhờ cái trống không đó mà nhà mới dùng được.

Vậy ta tưởng cái “có” (bầu, chén bát, nhà) có lợi cho ta mà thực ra cái “không” mới làm cho cái “có” hữu dụng”.

Để diễn giải cái vi diệu của Đạo, Lão Tử nói:

“Đạo, bản thể thì hư không mà tác dụng thì cơ hồ vô cùng, nó huyền ảo mà tựa như làm chủ tể vạn vật”

Hình như ông đã cảm nhận được có một cái gì đó ở tầng nền tảng, cái không thể nắm bắt được nhưng lại là “chủ tể vạn vật”:

“Nhìn không thấy gọi là di, nghe không thấy gọi là hi, nắm không được gọi là vi. Ba cái đó (vô sắc, vô thanh, vô hình) truy cứu đến cùng cũng không biết gì được, chỉ thấy trộn lộn làm một thôi. Ở trên không sáng, ở dưới không tối, thâm viễn bất tuyệt, không thể gọi tên, nó lại trở về cõi vô vật, cho nên bảo là cái trạng không có hình trạng, cái tượng không có vật thể. Nó thấp thoáng, mập mờ. Đón nó thì không thấy đầu, theo nó thì không thấy đuôi…”

Ở chỗ khác:

“Có một vật hỗn độn mà thành trước cả trời đất. Nó yên lặng, trống không, đứng một mình mà không thay đổi (vĩnh viễn bất biến), vận hành cùng khắp mà không ngừng, có thể coi nó là mẹ của vạn vật trong thiên hạ. Ta không biết nó tên là gì, tạm đặt tên là Đạo, miễn cưỡng gọi nó là Lớn.

Lớn thì lưu hành, lưu hành thì ra xa, ra xa thì về gần. Cho nên Đạo lớn, trời lớn, đất lớn, người cũng lớn. Trong vũ trụ có bốn cái lớn mà người là một. Người làm theo đất, đất làm theo trời, trời làm theo Đạo, Đạo làm theo Tự Nhiên”.

Tự nhiên là luật vận hành của Đạo, là nguyên lý tối thượng mà vạn vật phải theo. Vạn vật phải theo nhưng lại như không theo, không cảm thấy sự cưỡng bức mà làm như vốn dĩ, làm như thế là lẽ phải, hồn nhiên mà tồn tại, cho nên gọi là Tự Nhiên. Theo Lão Tử thì Đạo là duy nhất, do đó mà nguyên lý Tự Nhiên ấy cũng không thể ngoài Đạo mà thuộc về Đạo, chính là Đạo và gọi là Đạo lớn (nhằm phân biệt với những nguyên lý nhỏ, cục bộ địa phương, hay còn gọi là qui luật (luật bất biến); có nguồn gốc xuất phát từ nguyên lý Tự Nhiên. Ông viết:

“Đạo lớn lan tràn khắp, có thể qua bên trái, qua bên phải. Vạn vật nhờ nó mà sinh trưởng mà nó không can thiệp vào, công thành rồi mà không nhận là của mình; nó nuôi dưỡng vạn vật mà không làm chủ vạn vật. Nó vĩnh viễn là “không”, vô vi, cho nên có thể bảo nó là ẩn vi (vô hình); muôn vật qui về nó mà nó không làm chủ, cho nên có thể bảo nó là lớn. Vì cho tới cùng, nó không tự nhận nó là lớn cho nên mới hoàn thành được cái vĩ đại của nó”.

Hay:

“Âm nhạc với mỹ vị làm cho khách qua đường ngừng lại, còn Đạo mà nói ra thì nó nhạt nhẽo, vô vị, nhìn kỹ nó không thấy, lắng nghe nó không thấy. Nhưng dùng nó thì không bao giờ hết”.

Và đây chính là một trong những cơ sở lý luận của các nhà tư tưởng, xây dựng nên học thuyết "xuất thế vô vi":

“Đạo vĩnh cửu thì không làm gì (vô vi vì là tự nhiên), mà không gì không làm (vô bất vi, vì vạn vật nhờ nó mà sinh, mà lớn, mà tồn tại)”.

Lão Tử nói về nội dung của cái nguyên lý tối cao ấy như sau:

“Luật vận hành của Đạo là trở lại lúc đầu, diệu dụng của Đạo là khiêm nhu.

Vạn vật trong thiên hạ từ “có” mà sinh ra; “có" lại từ “không” mà sinh ra”.

Rõ ràng, Lão Tử đã thấy được tính xoay vần, chu kỳ, sự chuyển hóa qua lại giữa các mặt tương phản trong sự vận động của vạn vật, của Vũ Trụ. Ông còn viết:

“Đạo sinh ra một, một sinh ra hai, hai sinh ra ba, ba sinh ra vạn vật. Vạn vật đều cõng âm mà ôm dương, điều hòa bằng khí trùng hư”.

Về câu này, nhiều người hiểu khác nhau. Theo chúng ta hiểu thì cái gốc của mọi hình thức tương phản là cặp có - không. Sự chuyển hóa qua lại giữa có và không là cái gốc của huyền diệu, của biến hóa. Nhưng có và không muốn tồn tại để chuyển hóa, để “sinh lẫn nhau” được thì phải có cái ở giữa, cái trung dung, cái không có mà cũng không không. Cái đó là gốc của gốc cho nên gọi nó là “một”. Nhờ cái một ấy mà có sự phân định ra có và không, ra hai thể tương phản nhau. Hai thể tương phản ấy tác động chuyển hóa lẫn nhau thông qua “ông trọng tài” tên là Một mà thành ra ba. Ba cái đó hợp thành nên một thực thể tế vi hoàn chỉnh và sống động. Vạn vật đều được cấu tạo nên từ những thực thể tế vi đó và nội tại của chúng cũng phân định thành những lực lượng tương phản nhau gọi là âm và dương, tương tác chuyển hóa nhau thông qua lực lượng trung dung, gọi là “khí trùng hư” (năng lượng?). Theo quan niệm thời đó, âm và dương là hai nguyên khí, hai thể cơ bản, có tính tương phản nhau (quan hệ, tương tác với nhau cực kỳ uyển chuyển chứ không cực đoan, siêu hình, "cứng còng" như quan niệm "mâu thuẫn" của Hêghen mà Mác đã tiếp thu hầu như trọn vẹn!), làm nên Vũ Trụ. Hình tượng “cõng âm và ôm dương” cho ta thấy có cái ở giữa. Chính cái ở giữa ấy làm cho âm, dương điều hòa, hướng đến cân bằng mà vật tồn tại được. Nhưng vận động toàn thể của cái tổng thể (thực thể) ấy lại có nguyên nhân sâu xa của cái bên ngoài nó, của môi trường: nhằm mục đích hòa hợp với môi trường (môi trường tác động lên thực thể cũng nhằm hòa hợp với thực thể, cho nên gọi là tác động tương hỗ). Cuối cùng tất cả những cái đó đều tuân theo những qui định của nguyên lý Tự Nhiên; là Tự Nhiên. Lão Tử viết:

“Hết sức giữ được cực hư, cực tĩnh xem vạn vật sinh trưởng, ta thấy được quy luật phản phục (vạn vật từ vô sinh ra rồi trở về vô).

Vạn vật phồn thịnh đều trở về căn nguyên của chúng (qui căn, tức Đạo). Trở về căn nguyên thì tĩnh (cân bằng, hài hòa), trở về căn nguyên là “trở về mệnh” (trạng thái ban đầu?). Trở về mệnh là luật bất biến (qui luật) của vật. Biết luật bất biến thì sáng suốt, không biết luật bất biến thì vọng động mà gây họa. (Đòi tự do-dân chủ bất chấp luật bất biến rõ ràng là vô lối, cùng một giuộc với đòi vô chính phủ, vô hiệu hóa tính nghiêm minh của luật pháp. Một xã hội vô chính phủ tất yếu ngay lập tức lâm vào trạng thái hoang mang, hỗn loạn và đầy bạc ác!).

Biết luật bất biến thì bao dung, bao dung thì công bằng (vô tư), công bằng thì bao khắp, bao khắp thì phù hợp với tự nhiên, phù hợp với tự nhiên thì phù hợp với Đạo, hợp với Đạo thì vĩnh cửu, suốt đời không nguy”.

Toàn bộ vũ trụ quan của Hoàng Lão, cốt yếu chỉ có thế, ngắn gọn nhưng thâm sâu, không hiểu được nó thì cho là huyền bí, duy tâm, hiểu được nó thì thấy thật giản dị, duy vật. Chúng ta cho rằng tất cả những quan niệm về Tồn Tại (về Vũ Trụ) rải rác trong các sách Liệt Tử, Trang Tử… đều là những luận giải làm rõ ràng hơn, cụ thể hơn và có thể bổ sung, điều chỉnh chút ít (nhưng không cơ bản) giúp cho việc nhận thức những luận điểm cốt yếu ấy được dễ dàng hơn mà thôi.
                                                                   ***
Trong sách Liệt Tử có những đoạn giảng giải về cái Đạo Huyền Diệu, cái Nền tảng, cái Tối cao, cái có thể cảm thấy được mà không nhận diện được:

“Có một vật sinh ra các vật khác mà không được vật nào sinh ra cả; biến hóa các vật khác mà tự nó không biến hóa. Vậy cái không được sinh ra có thể sinh (làm chủ tể) các vật được sinh ra, cái không biến hóa có thể biến hóa các vật biến hóa. Mà cái được sinh ra không thể không sinh ra cái khác; do đó mà sinh sinh, hóa hóa hoài, không thời nào không sinh, không thời nào không hóa. Do đó có âm dương, bốn mùa. Cái không được sinh ra, là đồng nhất, vô thủy vô chung; cái không biến hóa là trong khoảng vô cùng; cái đạo của cái duy nhất không thể dò được”.

Trong “Đạo Đức Kinh”, chúng ta thấy có một câu là lạ, mang tính thần thoại: “Thần hang bất tử, gọi là Huyền Tẫn. Cửa của Huyền Tẫn là gốc của trời đất, dằng dặc như bất tuyệt, tạo thành mọi vật mà không mệt”. Trong “Liệt Tử” cũng dẫn câu này và cho là của Hoàng Đế(?). Theo truyền thuyết, Hoàng Đế là một thánh quân, tên là Hiên Viên, làm vua một trăm năm (2698 - 2598 TCN), viết một cuốn sách gồm bốn thiên, gọi là Hoàng Đế Thư, đã thất truyền. Có thể câu đó là truyền ngôn của những đời trước, Lão Tử chép lại; có vẻ như mô tả cảnh quan của bầu trời đêm của Vũ Trụ. Huyền Tẫn (Mẹ nhiệm màu) là cái tên có nghĩa như tên gọi ngày nay là Vũ Trụ chăng? Trong bầu trời đêm, chúng ta như đang đứng trước cửa của một cái hang vĩ đại, “dằng dặc như bất tuyệt”!

Sau câu trích đó, sách Liệt Tử viết tiếp:

“Vì vậy mà vật nào sinh ra các vật khác thì không được sinh ra; vật nào biến hóa các vật khác thì không biến hóa. Nó tự sinh, tự hóa, tự thành hình, tự thành sắc, sáng suốt, tự có sức mạnh, tự tăng giảm. Nó tự nhiên như vậy, chứ không phải cố ý mà sinh hóa, thành hình, thành sắc, sáng suốt, có sức mạnh, tăng giảm”.

Đoạn khác:

“Sự vận chuyển không bao giờ ngừng. Trời đất biến chuyển bí mật, ai mà biết được? Cho nên, vật giảm ở phía này thì tăng ở phía khác, đầy ở kia thì vơi ở đây. Tăng, giảm, vơi, đầy, sinh ra lẫn nhau rồi chết; qua lại nối tiếp nhau mật thiết, ai mà thấy được sự biến chuyển?”

Liệt Tử giảng về vô vi:

“Cái từ sống mà sinh ra là cái chết, nhưng cái sinh ra cái sống thì bất tuyệt; cái từ cái hình gây nên là cái thực (chất), nhưng cái khiến cho thành hình thì không hề có (nghĩa là cái vô?); cái từ thanh âm gây nên là thính giác, nhưng cái khiến cho thành thanh âm thì không hề phát nên tiếng; cái từ màu sắc gây nên là thị giác, nhưng cái khiến cho thành màu sắc thì không hề hiện ra; cái từ mùi vị gây nên là vị giác, nhưng cái khiến cho thành mùi vị thì không hề lộ ra.

Tất cả những cái đó đều là vô vi mà ra cả. Vô vi có thể âm, có thể dương, có thể nhu, có thể cương, có thể dài, có thể ngắn, có thể tròn, có thể vuông, có thể sinh, có thể tử, có thể nóng, có thể lạnh, có thể nổi, có thể chìm, có thể là âm trầm, có thể là âm bổng, có thể hiển hiện ra, có thể biến mất, có thể tím đen, có thể vàng, có thể ngọt, có thể đắng, có thể tanh hôi, có thể thơm tho.

Vô vi tuy vô vi, vô năng mà không gì là không biết, không gì là không làm được”.

Nền tảng triết học Trang Tử cũng là của triết học Lão Tử. Quan niệm về Đạo của Trang Tử hoàn toàn đồng thuận với quan niệm về Đạo của Lão Tử. Tuy nhiên trong tư tưởng triết học của Trang Tử, đã xuất hiện những bộ phận mới có tính chất như bổ sung, điều chỉnh, mở rộng thêm về lý luận trong việc nhận thức tự nhiên - xã hội. Trang Tử đã nêu ra được mối quan hệ giữa nhận thức và thực tại; tính nước đôi, tương đối của khái niệm… Tất cả những quan niệm mới ấy có thể là do Trang Tử đã chịu ảnh hưởng của một trường phái triết học mà ở thời đại nhà Hán gọi là Danh Gia (ở thời Chiến Quốc được gọi là Hình Gia hay Biện Gia): Có thể nói đại biểu của Danh Gia là Huệ Thi và Công Tôn Long. Công lao của họ đối với triết học có lẽ là từ những biện bác có vẻ như phi lý của mình, họ đã vạch ra được tính hữu hạn, tính bất ổn, nước đôi, tính tương đối của khái niệm mà suy cho cùng là tính chủ quan tất yếu của nhận thức trước một thực tại khách quan. Tư Mã Đàm, trong “Sử ký” của mình (chương 20) đã đánh giá khá xác đáng về Danh Gia:

“Danh Gia xét tỉ mỉ các điểm trong những nhận định phức tạp công phu làm cho kẻ khác không thể phủ nhận ý tưởng của mình được. Họ chuyên định nghĩa các danh từ nhưng bỏ quên mất cảm tính của nhân loại. Bởi vậy, tôi nói rằng: họ đưa người ta vào sự tô điểm danh từ làm cho người ta dễ quên mất chân lý. Tuy nhiên bắt danh từ phải diễn tả được sự thực và như thế nghiên cứu trật tự hợp lý để không còn lầm lẫn nữa, ấy là nhiệm vụ cần phải tìm tòi khảo cứu”.

Trước đây đã có lần chúng ta nói về sự bất ổn của khái niệm rồi. Ở đây chúng ta không đề cập sâu tới vấn đề đó nữa.

Huệ Thi không để lại sách gì ngoài mười câu phi lý nổi tiếng cho hậu thế. Trang Tử đánh giá Huệ Thi là:

“Đem bàn tung ra cả vạn vật mà không chán. Rút lại được tiếng là tay biện bác giỏi. Tiếc thay tài của Huệ Thi, lồng lộng mà không có đức!”

Sách của Công Tôn Long còn lưu đến ngày nay là cuốn “Công Tôn Long tử”, gồm sáu thiên. Ở chương một sách đó có đoạn nói:

“Công Tôn Long là biện sĩ ở thời đại Chiến Quốc. Ông ghét sự tán loạn của danh với thực, và dùng cái tài sở trường của mình để thảo luận về điểm giữ cái trắng. Ông mượn vật làm tỷ dụ để luận bàn về vấn đề giữ trắng… Ông muốn suy rộng cách biện thuyết như thế để chỉnh đốn lại danh với thực và làm thay đổi cả thế giới”.

Chính Công Tôn Long đã nói về mình:

“Cái học thuyết của Long là cho rằng ngựa trắng không phải là ngựa. Bắt Long bỏ thuyết ấy đi thì Long này không còn lấy gì mà dạy nữa.”

Chúng ta trở về với Thái Thượng Lão Ông!

Hãy nghe về Đạo qua cách nói của Trang Tử:

“Đạo có thực và tồn tại, nhưng vô vi mà không có hình trạng, có thể truyền nó được nhưng không thể tiếp nhận nó được, hiểu nó được mà không thấy nó được. Nó tự là gốc của nó, trước khi có trời đất đã có nó rồi. Nó tạo ra quỉ thần, thượng đế, nó sinh ra trời đất. Nó ở trên thái cực mà không cao, ở dưới lục cực mà không sâu, có trước trời đất mà không phải là trường cửu, có trước thời thượng cổ mà không phải là già.”

Đó là Đạo theo nghĩa thực thể Tối Cao; còn Đạo theo nghĩa là Nguyên lý Tối Thượng thì:

“Biết được Thiên Đạo và nhân sự, đó là đạt được mức cao nhất của tri thức. Biết được Thiên Đạo là biết rằng vạn vật do Tự Nhiên sinh ra, vậy thì phải theo Tự Nhiên (…) Như vậy là tri thức cao minh nhất. nhưng tri thức đó cũng có cái lụy của nó, vì tri thức nào cũng phải có đối tượng (có cái mốc, cái chuẩn mực rồi mới biết được đúng sai), mà đối tượng lại không xác định được (bất định, tùy thuộc). Chẳng hạn làm sao biết được cái mà tôi gọi là trời đó không phải là người, và cái tôi gọi là người đó không phải là trời? Với lại chỉ bậc chân nhân mới có được chân tri.”

Và:

“Vạn vật đều ngang nhau, có vật nào dài, vật nào ngắn đâu? Đạo không có đầu và cuối. Vật sinh rồi chết, đừng trông cậy khi nó thành tựu vì vật có lúc đầy lúc vơi, không có hình thể bất biến. Tuổi không thể lùi lại được, thời gian không thể ngừng lại được. Có tăng thì có giảm, có đầy thì có vơi, có chung thì có thủy. Có thể coi đó là xu hướng của Đại Đạo, tình lý của vạn vật.”

Qua đó, rõ ràng rằng vũ trụ quan của Trang Tử chỉ là sự tiếp thu trọn vẹn vũ trụ quan của Lão Tử, không có gì mới. Có mới chăng là cái nhận thức nặng chủ nghĩa hoài nghi do ảnh hưởng của Danh gia. Điều này thể hiện rất rõ trong chương “Tề vật luận” (mọi vật ngang nhau) của “Nam Hoa Kinh”.

Lão Tử ngay từ đầu, khi cho rằng Đạo không thể gọi đúng tên được thì có nghĩa rằng ông đã biết tính hữu hạn của khái niệm; khi nói rằng “không” và “có” cùng từ Đạo mà ra và chỉ khác tên gọi thôi thì có nghĩa rằng ông đã biết về tính tương phản của thế giới, cái tương đối của khái niệm. Do đó mà ông đã rào trước đón sau, là chỉ tạm dùng cái có ý nghĩa hữu hạn, tương đối để nói về cái có vẻ vô cùng, tuyệt đối.

Khi ta nói vật này là âm, vật kia là dương thì cũng có thể nói vật này là dương và vật kia là âm, vì âm, dương chỉ là tên gọi, do ta qui định và chỉ đúng cho riêng ta thôi. Đó chính là tính tương đối khách quan của khái niệm. Nhưng dù có đặt tên thế nào đi nữa thì tính tương phản của hai vật đó cũng không thay đổi, đó là sự thực khách quan. Cần biết rằng sự tương phản của thế giới do tính đầy đủ của Tự Nhiên Tồn Tại mà có.

Hiện thực là thực tại khách quan đã qua nhận thức. Nó luôn phiến diện và nặng tính qui ước của chủ quan nhận thức. Cùng một thực tại khách quan, tùy vào trình độ tư duy, góc độ (đối với thực tại xã hội thì là lập trường) của quan sát và độ bảo thủ của nhận thức mà có nhiều hiện thực khác nhau. Tính chủ quan của hiện thực thể hiện ra như là thành kiến của nhận thức. Đó là nguồn gốc làm hình thành nên cái gọi là tính tương đối chủ quan của khái niệm.

Trang Tử đã chưa phân biệt được hai tính chất tương đối ấy của khái niệm nên sa dần vào chủ nghĩa hoài nghi đối với khả năng nhận thức, và đó là bước thụt lùi về tư tưởng của ông.

Trong khi Lão Tử dứt khoát:

“Ai cũng cho cái đẹp là đẹp, do đó mà phát sinh ra cái xấu; ai cũng cho điều thiện là thiện, do đó mà phát sinh ra điều (khái niệm) ác”, thì Trang Tử luận cụ thể hơn, qua đó mà nêu bật được tầm quan trọng thiết yếu của "thực chứng", dù là trong "tâm trạng hoang mang":

“Mình là người khác; người khác cũng là mình. Người kia có quan niệm của họ về thị, phi (đúng, sai). Mình cũng có quan niệm của mình về thị, phi. Có một sự khu biệt thực nào giữa mình và người kia không? Mình và người đừng chống đối nhau nữa, cái cốt yếu của Đạo ở đó. Cái cốt yếu ở trung tâm cho nên ứng với các biến hóa vô cùng. Cái thị biến hóa vô cùng, mà cái phi cũng biến hóa vô cùng. Cho nên mới bảo: không gì bằng dùng trực giác.”

“Giả sử tôi tranh biện với anh mà anh thắng tôi thì có nhất định là anh phải, tôi trái không? Nếu tôi thắng anh thì có nhất định tôi phải, anh trái không? Trong chúng ta có một người phải một người trái? Hay là cả hai chúng ta đều phải cả hoặc đều trái cả? Anh và tôi làm sao biết được điều đó? Mà một người thứ ba nào khác thì cũng hồ đồ không biết được, lựa ai sáng suốt làm trọng tài đây? Hỏi một người cùng một ý kiến với anh, thì người đó do lẽ cùng ý kiến với anh, làm sao có thể phê phán được? Nếu là một người cùng ý kiến với tôi, thì người này do lẽ cùng ý kiến với tôi, làm sao có thể phê phán được? Nếu là một người ý kiến khác cả tôi lẫn anh, hoặc giống cả tôi lẫn anh thì cũng làm sao phán đoán được? Vậy anh, tôi và người thứ ba đó đều không quyết được ai phải, ai trái. Có nên đợi một người thứ tư nữa không?”

“Đạo bị cái gì che lấp tới nỗi phải phân biệt chân với ngụy? Lời bị cái gì che lấp tới nỗi phân biệt phải với trái? Khi nào thì đạo không còn, khi nào thì lời không chấp nhận được? Đạo bị thành kiến nhỏ nhen che lấp; lời nói bị sự hoa mỹ phù phiếm che lấp. Do đó mà phái Nho và phái Mặc tranh luận với nhau. Cái gì phái này cho là phải thì phái kia cho là trái; cái gì phái này cho là trái thì phái kia cho là phải. Muốn thấy điểm phải trong chỗ họ cho là trái, thấy điểm trái trong chỗ họ cho là phải, thì không gì bằng dùng trực giác.”

“Để cho thành kiến của mình làm thay mình, sai khiến mình, như vậy ai cũng có thầy hết, còn cần gì nhận người khác làm thầy nữa? Vì tinh thần của mình làm thầy mình, cho nên người ngu cũng có thầy rồi. Kẻ nào muốn vượt thành kiến của mình để phân biệt thị phi thì cũng không khác gì bảo rằng hôm nay đi qua nước Việt mà đã tới đó từ hôm qua rồi, nghĩa là coi cái không có là có. Về điểm đó, thần minh như ông Vũ (người khởi nghiệp nhà Hạ) cũng không thể biết được. Tôi làm sao mà biết được?”

Và Trang Tử đi đến kết luận:

“Cái Đạo mà minh thị ra rồi thì không phải là Đạo; biện mà phải dùng lời nói thì không đạt được chân lý”.

Với câu nói này thôi, Trang Tử đã hiểu sai ý của Lão Tử về sự không đặt một cái tên mang một ý nghĩa giới hạn nào cho cái tạm gọi là Đạo. Từ đó mà ông kêu gọi:

“Đừng suy luận gì hết thì thấy được Đạo!”

Đó cũng chính là luận điểm xuyên suốt, có tính sống còn của Thiền học sau này. 
Thiền cho rằng không thể đạt được chân lý bằng tư duy lý luận; không thể tiếp cận được thực tại đích thực bằng tri giác; muốn nhận chân được Tồn Tại, muốn “ngộ” được chân lý tuyệt đối hay Thực Tại Tối Cao thì không có con đường nào khác ngoài con đường trực giác, vượt lên trên mọi khái niệm, vứt bỏ mọi khái niệm để tu tập, thực hành chiêm nghiệm tâm linh trực tiếp (chứ không phải bằng tư duy trừu tượng!!!). Phải chăng Lão Tử là người gợi mở nhưng chính Trang Tử mới là người đầu tiên đề xướng ra cách thức "Thiền" với hy vọng đạt được đến nhận thức tuyệt đích về thực tại khách quan? Và cũng từ đây, để vượt qua trạng thái bế tắc về lý luận của Đạo Gia, nó đã tất yếu phân ly thành hai ngả: ngả hình thành Đạo Giáo tu tập thành tiên và ngả hình thành Đạo Phật tu tập thành chính quả!? Có thể lắm!

莊子


Zhuangzi.gif
Trang Tử
Sinh Trang Chu
Hà Nam, Trung Quốc
Công việc triết gia

Nhưng nếu không có một chút suy nghĩ nào, không tiếp thu được một trình độ nhận thức nào gọi là đủ thì biết thế nào là loại bỏ tạp niệm, (chứ chưa cần nói đến loại bỏ hết khái niệm), vượt lên trên mọi khái niệm để mà chiêm nghiệm bằng con đường tâm linh, trực tiếp nhận chân được Tồn Tại??? Một pho tượng đá thì dù có ngồi thiền tu đến một triệu năm, cũng chẳng ngộ thêm được điều gì ngoài cái mà hồn đá đã “ngộ” được từ trước!

Thực ra, Trang Tử (và không riêng gì Trang Tử!) đã không thấy được điều giản dị này: khách quan và chủ quan là hai yếu tố có tính tương phản trong nhận thức, giữa chúng có mối quan hệ qua lại khăng khít với nhau, là tiền đề của nhau, chuyển hóa lẫn nhau, y hệt như mối quan hệ của cặp Có - Không, hay cặp Âm - Dương vậy. Làm gì có nhận thức tuyệt đối khi bản thân nhận thức đã bị lệ thuộc Trái Đất này rồi? Làm gì có "đốn ngộ" tuyệt đối khi Cõi Niết Bàn chỉ là sự phủ dụ đầy yếm thế và mông lung để mưu cầu giảm bớt khổ đau trên thế gian này thôi? Làm gì có "tịnh độ" khi trong cõi "Nhà Phật" còn bộn bề sự khát vọng không thể giải chấp được bằng sự khuyên răn chí tình nhưng quá viển vông của chính Đạo nhà Phật!?

Đứng ở vị trí trung dung, chúng ta nói: nếu chỉ bằng tư duy lý luận đơn thuần, con người sẽ không nhận thức được tuyệt đối Tồn Tại bởi vì năm giác quan của con người không cho phép nó nhìn thấy hết, bao quát được thực tại vốn dĩ, nhất là ở tầng nền tảng siêu vi mô cũng như ở tầng siêu vĩ mô! Ít ai để ý rằng ngay từ buổi đầu xuất hiện, một quá trình nhận thức đã bao gồm bốn yếu tố cơ bản là Thấy-Suy-Chứng-Biết. Bốn yếu tố ấy có mối tương quan mật thiết với nhau: Không Thấy, thì sao Suy, Suy mà không Chứng thì sao Biết chắc? Mặt khác, Biết sẽ làm cho Thấy thêm sâu rộng và qua đó "chắp thêm cánh" cho Suy, kích thích tăng cường Chứng để Biết chắc hơn nữa cũng như tỏ tường hơn nữa… Ở một tầm cao tri thức nào đấy, cái Thấy ấy cũng chính là Thực Chứng (Khoa học tự nhiên), cái Biết ấy chính là Tri Thức Lý Luận (Triết học) và cái Suy ấy chính là Chiêm Nghiệm Tâm Linh (giác quan thứ sáu hay tổng giác, là sự thăng hoa của tri giác ở trạng thái tột độ). Đến một trình độ nào đó, bốn yếu tố ấy sẽ làm nên một nhận thức tối hậu, đủ nhìn thấy được bản chất tuyệt đối của Tồn Tại, ở góc độ quan sát của con người (chỉ thế thôi chăng?!)

Rốt cuộc, cái Đạo Huyền Diệu của Lão Tử, qua Trang Tử diễn giải, vừa sáng tỏ hơn vừa huyễn hoặc hơn, đầy đủ thị phi mà cũng vượt trên thị phi, ăm ắp hơi thở của Thiền:

“Đông Quách Tử hỏi Trang Tử:

- Cái ông gọi là Đạo ấy, nó ở đâu?

Trang Tử đáp:

- Ở khắp nơi.

- Phải chỉ ra chỗ nào mới được chứ.

- Trong con kiến.

- Sao mà thấp vậy?

- Trong cọng cỏ.

- Còn thấp hơn nữa ư?

- Trong mảnh sành.

- Sao càng thấp quá vậy?

- Trong cục phân.

Đông Quách Tử không hỏi nữa. Trang Tử bảo:

- Những câu hỏi của ông không đi đôi thực chất vấn đề. Như viên xét thuế hỏi người coi chợ về cách dẫm lên con heo để biết nó mập hay không: chân càng lún xuống thì heo càng mập. Ông đừng nên chỉ hẳn một vật nào mà hỏi, như vậy ông sẽ không bỏ sót. Cái Đạo tối cao như vậy, mà lời nói cao cả cũng vậy: bao hàm, phổ biến, và đủ cả. Ba danh từ đó tuy khác mà ý nghĩa như nhau (tính toàn diện của Đạo - NV).

Người nào đã tiêu dao ở cõi hư vô, bao gồm mà nghị luận thì biết được Đạo là vô cùng. Người nào đã vô vi thì điềm đạm mà an tĩnh, tịch mịch mà thanh hư, điều hòa mà nhàn dật. Bỏ tham vọng của ta đi, đi mà không biết để tới đâu, về mà không biết sẽ ngừng ở đâu, đi và về đều không có mục đích. Bàng hoàng ở trong cảnh giới mênh mông hư vô mà bậc đại trí cũng không biết giới hạn của nó, Chủ tể của vật (tức Đạo) với vật đều không có giới hạn (vì Đạo ở trong vật, vật ở trong Đạo), nhưng vật với vật thì có giới hạn, đó là giới hạn của vật. Cái không có giới hạn (tức Đạo) nắm trong cái giới hạn (tức vật), Đạo tuy nằm trong vật có giới hạn mà chính nó không có giới hạn. Như cái người ta gọi là đầy rỗng, suy diệt. Đạo tuy ở trong cái đầy rỗng mà không phải là đầy rỗng; ở trong cái suy diệt mà không phải suy diệt; ở trong gốc và ngọn mà không phải là gốc, ngọn; ở trong cái tích tụ và tiêu tán mà không phải là tích tụ, tiêu tán.”

Đọc “Quỉ Cốc Tử” chúng ta thấy tác giả đã nói đến vấn đề quan sát (trì khu), nghĩa là tác giả đã phân định ra cái thế giới nội tại bên trong của quan sát (thuyết âm phù) và cái bên ngoài, đối tượng của quan sát, nhưng chưa thấy được mối quan hệ hết sức sâu xa giữa hai thế giới ấy, mối quan hệ có tính tương phản, tiền đề "sống còn" của nhau. Điều đặc sắc nhất theo chúng ta nghĩ, trong tác phẩm Nam Hoa Kinh của mình, Trang Tử đã là người đầu tiên của triết học cổ đại Trung Quốc chính thức đưa ra ý niệm rõ ràng về sự phân định khách quan giữa “cái tôi” và Vũ Trụ, giữa chủ thể nhận thức và khách thể nhận thức. Ông nói:

“Không có cái không phải là ta thì không có ta. Nhưng không có ta thì không thể hiện được sự biến hóa của tự nhiên. Như vậy, ta với tự nhiên thật mật thiết với nhau. Nhưng không ai biết được chủ tể (nguyên nhân) của Vũ Trụ (toàn bộ sự việc đó) là gì.”

Ta, cũng như trời đất, cũng như vạn vật, đều từ Đạo mà ra, đều cùng gốc, xét ở góc độ này thì ta cũng như trời đất, vạn vật chẳng khác gì nhau cả. Ta chưa sinh ra thì đối với ta, cả ta, vạn vật, trời đất đều chưa có; chỉ khi có ta (vì ta thấy), trời đất, vạn vật mới có (xuất hiện). Có lẽ vì thế mà Trang Tử mới nói: “Trời đất với ta cùng sinh ra, vạn vật với ta là một.”

Phụ họa theo, chúng ta ngâm:

Có trời đất mới có tôi

Có tôi, trời đất lần hồi hiện ra.

Trời cao đất thấp bao la

Cho tôi ở giữa để mà buồn vui

Đất gần, trời tít xa vời

Nên đời tôi ngắn, đến rồi lại đi…

Phải chăng hội ngộ, chia ly
                                  Để về với đạo qui y đất trời 
                                                                                     ***

Bây giờ chúng ta nói sang nhân sinh quan Hoàng Lão.

Toàn bộ quan niệm về nhân sinh - hành vi của Lão Tử đều lấy Vũ Trụ quan của ông làm cơ sở lý luận. Theo Lão Tử thì “Đạo sinh ra vạn vật”, do đó con người cũng sinh ra từ Đạo. Hay nói cách khác con người sinh ra từ Tự Nhiên, sống trong Tự Nhiên và chết về Tự Nhiên, giống như vạn vật, và như thế cũng chẳng có gì đặc biệt, cũng chỉ là lẽ thường tình. “Trời đất bất nhân, coi vạn vật như chó rơm” là câu bộc lộ rõ rệt cái quan niệm duy vật, vô thần triệt để của Lão Tử. Ngày xưa người ta dùng rơm kết thành hình con chó để dùng vào việc cúng bái. Khi chưa bày cúng thì những con chó rơm ấy được cất kỹ, bao bọc bằng gấm vóc; sau khi bày cúng rồi thì bị vứt liệng ra đường hoặc dùng để nhóm lửa đun, nấu. Trời đất thản nhiên, vô tình đối với vạn vật (trong đó có con người) cũng như con người đối với con chó rơm vậy thôi!

Đạo là duy nhất, vừa là bản thể, vừa là nguyên lý, mà lại sinh ra vạn vật, nên vạn vật chính là sự thể hiện của Đạo, và sự tồn tại biến hóa của chúng cũng chính là sự thể hiện của Đạo lý. Nhưng nếu chỉ thế thôi thì làm sao mà vạn vật phân biệt với nhau được, mà nếu không phân biệt được thì làm sao mà biến hóa được? Để trả lời được câu hỏi này, Lão Tử, dù chưa rõ ràng thì cũng phải thừa nhận tính độc lập tương đối, tính tự do tương đối của vạn vật, và ông đã giải quyết được một cách tài tình đến bất ngờ:

“Đạo lớn lan tràn khắp, có thể qua bên trái, có thể qua bên phải. Vạn vật nhờ nó mà sinh trưởng mà nó không can thiệp vào, công thành rồi mà không nhận là của mình; nó nuôi dưỡng vạn vật mà không làm chủ vạn vật.”

Con người và xã hội loài người, không phải là ngoại lệ và nhờ thế mà khác (tương đối) với xung quanh.

Tuy vậy, dù có độc lập, tự do tương đối đi nữa thì vạn vật (trong đó có cả con người) vì đều là sự thể hiện của Đạo lý (Đạo lý ở đây là nguyên lý Tự Nhiên chứ không được hiểu như đạo đức) nên luôn luôn hợp Đạo lý; là một sự an bài, không thể can thiệp được. Điều đó lý giải được nhiều điều trong thực tại, chẳng hạn như con người đói thì tìm ăn, khát thì tìm uống, hoặc có sinh thì có tử, không ai thoát được cái chết…; nhưng lại không giải thích được nhiều điều khác, như vì sao người này sống thọ hơn người kia; hay như vì sao có người làm quần quật mà không đủ ăn, có người không làm mà phè phỡn, thừa mứa, vì sao có những hành vi trái ngược trong cõi nhân sinh như thế. Những hành vi, những hiện tượng trái ngược có hợp Đạo lý không? Nếu chúng thực sự xảy ra thì phải cho rằng hợp Đạo lý (không phải đạo đức - xin nhắc lại!). Một con thuyền trôi xuôi theo dòng sông đương nhiên là hợp Đạo lý vì nó phục tùng qui luật. Nhưng nếu thấy con thuyền đó “trôi” ngược dòng lên thượng nguồn thì hiện tượng đó cũng hợp Đạo lý (chỉ có điều chưa phát hiện ra nguyên nhân nào, gió thổi cánh buồm hay có động cơ quay chân vịt…). Nhưng nếu không có bất cứ một tác động nào mà chỉ có nước chảy xuôi thôi thì không thể xảy ra hiện tượng con thuyền trôi ngược dòng sông được, vì đó là phi Đạo lý, trái với nguyên lý Tự Nhiên.

Vậy thì những hành động bạo ngược, tàn ác của vua Kiệt, vua Trụ, vì đã xảy ra nên cũng phải coi là hợp Đạo lý? Mà nếu đã hợp Đạo lý thì sao có thể lên án được?

Câu hỏi đó đã điểm đúng yếu huyệt của toàn bộ triết thuyết Hoàng Lão nói chung và nhân sinh quan của nó nói riêng. Vì nhân sinh quan Hoàng Lão được xây dựng hoàn toàn dựa trên nền tảng là vũ trụ quan của nó và chúng hợp thành một hệ thống thống nhất, không thể tách rời được, do đó tính chân lý của học thuyết Hoàng Lão hoàn toàn phụ thuộc vào cái nhân sinh quan ấy. Đến lượt nhân sinh quan Hoàng Lão có khách quan hay không khách quan, hợp lý hay không hợp lý, nhân đạo hay không nhân đạo… lại tùy thuộc vào việc trả lời câu hỏi nêu trên. Lão Tử đã đứng trước một thách thức thực sự to lớn, không dễ gì khuất phục được!

Đạo sinh ra vạn vật , nuôi dưỡng vạn vật nhưng đồng thời cũng bỏ mặc vạn vật, tiêu diệt vạn vật vì Đạo là vô tình. Thế thì cái tình thể hiện "đầy ắp" trong cõi nhân gian từ đâu mà có? Hay Đạo vừa vô tình lại vừa hữu tình? Vậy thì phải "thêm" cho Đạo cái hữu tình nữa để làm "đối trọng" với cái vô tình mới đầy đủ? Không thể nhưng cũng không không thể! Đến đây, bằng sự suy ngẫm cao độ, bằng cảm nghiệm linh giác, Lão Tử đã có một bước đi vừa gượng ép, vừa thiên tài của ông, đó là đưa ra khái niệm Đức Huyền Diệu.

Nghĩa đen cổ xưa của khái niệm “đức” là gieo hạt xuống đất; sau này nó hàm chỉ những tính cách được cho là tốt đẹp của con người. Khi nói một người có đức thì người đó được công nhận là người tốt. Theo quan niệm của Đạo Nho, người toàn đức (tốt toàn diện) phải gồm đủ các đức: nhân, lễ, nghĩa, trí, tín… Khổng Tử nói: “Người mà không có đức thì không hiểu sao thành người được”. Đó là câu nói mù quáng, phạm sai lầm lôgic! Theo Mặc Tử thì người có đức chính là “kiêm ái”, yêu thương tất cả mọi người và hành động vì tình yêu thương ấy. Đó là quan niệm "cương cứng", không phù hợp với suy nghĩ đời thường, hơn nữa, yêu người đến quên yêu mình thì thông thường, vẫn chưa đủ đức!

Còn theo quan niệm của Lão Tử thì một người có đức là một người biết Đạo, làm theo Tự Nhiên, mà theo Tự Nhiên thì cũng có nghĩa là làm theo lẽ phải mà làm theo lẽ phải thì nhất định là phải yêu mình, yêu người; vì mình mà không hại người và vì người nhưng cố đừng để lụy mình; rốt cuộc sẽ dẫn đến hành động vì quyền lợi hòa hợp của mình và của thiên hạ. Như vậy giềng mối của cái tốt chính là đức nhân; nguồn gốc của đức nhân không gì khác, đó chính là Đức Huyền Diệu. Đức Huyền Diệu không phải là Đạo nhưng từ Đạo mà ra, gắn liền với Đạo. Nói chính xác hơn: Đức Huyền Diệu là biểu hiện mặt nuôi dưỡng, bảo toàn tồn sinh trong vận hành "vô vi" (không làm mà làm tất cả) của Đạo.  Lão Tử viết trong “Đạo Đức Kinh”:

“Đạo sinh ra vạn vật, Đức bao bọc mỗi vật, vật chất tạo nên hình thể vật, hoàn cảnh làm cho vật thành hoàn chỉnh. Vì vậy mà vạn vật đều tôn sùng Đạo và quý Đức. Đạo sở dĩ được tôn sùng, Đức sở dĩ được quý là vì Đạo và Đức không can thiệp, không chi phối vạn vật mà để vạn vật tự nhiên phát triển”.

"Khi Đạo đã sinh ra vạn vật thì Đức bao bọc, bồi dưỡng, nuôi lớn tới thành thục, che chở vạn vật. Tuy sinh dưỡng vạn vật mà không chiếm cho mình, làm mà không cậy công, để cho vạn vật tự lớn lên mà mình không làm chủ, như vậy gọi là Đức Huyền Diệu”

Thế thì thực chất của Đức Huyền Diệu là gì? Chúng ta biết rằng vạn vật sinh sinh, diệt diệt, biến hóa không ngừng. Đạo là nguyên nhân của tất cả sự vận động ấy nhưng lại cũng vô cảm, thản nhiên trước những quá trình sinh, dưỡng, lão, tử ấy. Điều nên đặc biệt chú ý là chỉ khi nói đến sự nuôi dưỡng, bảo tồn, phát triển sự sống, Lão Tử mới cho khái niệm “Đức” xuất hiện. Lão Tử còn nói: “Những biểu hiện của Đức lớn là đều tuân thuận theo Đạo” (Khổng đức chi dung, duy đạo thị tòng). Nhưng thử hỏi, nếu Đạo sinh ra một con quỉ khát máu thì việc che chở nuôi dưỡng nó có phải là thể hiện của Đức Huyền Diệu không? Thật khó trả lời!!!

Trong cuốn “Lão Tử - Đạo Đức Kinh” (NXB Văn Hóa, 2006), tác giả Nguyễn Hiến Lê viết đầy băn khoăn:

“Chữ “Đức” ở đây Lão Tử dùng với một nghĩa rất mới, không phải chữ đức mà nhà Nho thường dùng như đức nhân, đức tín, đức trung, đức hiếu.

Cứ theo đoạn dẫn ở trên - Đức nuôi lớn mỗi vật và câu “Khổng đức chi dung, duy đạo thị tòng”: những biểu hiện của Đức lớn đều tùy theo Đạo; cứ theo những câu đó thì chúng ta đoán rằng “Đức” là một phần của Đạo: khi chưa hiển hiện trong mỗi vật thì là Đạo, khi đã hiển hiện rồi thì phần hiển hiện trong mỗi vật là “Đức”. Mỗi vật đều có “Đức” mà Đức của bất kỳ vật nào cũng từ Đạo mà ra, là một phần của Đạo, cho nên Đức nuôi lớn mỗi vật và luôn luôn tùy theo Đạo.

Lão Tử không thể giảng rõ hơn được. Tùy chúng ta muốn hiểu sao thì hiểu. Có người cho Đạo là tổng nguyên lý của vạn vật, mà Đức là nguyên lý của mỗi vật. Cũng không rõ gì hơn.

Có người cho Đức là tác dụng của Đạo.

Người khác bảo Đức là tính năng động của Đạo.

Vài học giả cho nó là “năng lực ngấm ngầm mà cũng là công dụng của Đạo”.

Một nhà khác cho nó là “ái lực”, một sức giữ cho vật chất khỏi tan rã, nhờ đó mà nguyên tố Đạo cấu thành muôn vật mới không bị rã rời.

Cũng có thể coi nó là bản năng sinh tồn của mỗi sinh vật: đói thì kiếm ăn, khát thì kiếm uống; bản năng tự vệ, mệt thì nghỉ ngơi, tìm sự an toàn, tránh nguy hiểm, bản năng truyền chủng v..v… Nhờ những bản năng đó đều phú bẩm, nên rất thuận luật tự nhiên, rất hợp với Đạo, luôn luôn “duy Đạo thị tòng”. Có thể như vậy chăng?”

Dù còn mập mờ khiên cưỡng và nặng hình thức, nhưng việc đưa ra khái niệm Đức Huyền Diệu và đặt Đức Huyền Diệu là thuộc về Đạo, là một bộ phận của Đạo đồng thời cho rằng Đức Huyền Diệu là mức tột bậc của Đức (đức nhân), làm cho triết thuyết Hoàng Lão trở nên chặt chẽ hơn về mặt lý luận; quan niệm về nhân sinh hành vi nhất quán hơn với quan niệm về Đạo mà cũng phù hợp hơn với đời sống tinh thần vốn dĩ rất sinh động của con người trong thực tiễn. Cha mẹ sinh con ra thì đùm bọc, che chở, nuôi nấng cho con lớn khôn mà đâu có kể công, đâu vì cậy nhờ, đó chính là cái lý của tự nhiên nó thế, cái tình của Đức Huyền Diệu nó thế. Chính vì thế mà con cái (vạn vật) tôn sùng cha mẹ (Đạo) đã cho họ cuộc sống và quý cái tình của cha mẹ (Đức) đã nuôi họ lớn khôn. Phải chăng khái niệm Đức Huyền Diệu được Lão Tử rút ra từ hiện tượng đó? Chúng ta không thể nào biết được!

 Tại sao Đạo thì được tôn sùng mà Đức chỉ được quí thôi? Đó là vì Đạo sinh ra vật, cho vật “cuộc đời” rồi sau đó Đức mới ra tay nuôi dưỡng. Nếu không nhờ Đạo thì vật làm sao được “sống” để Đức có cái mà nuôi dưỡng? Trong thực tiễn có những cha mẹ đẻ con ra mà bỏ con thì con cái dù có cúi đầu chịu cái công sinh thành thì cũng không thể quí cái tình cha mẹ được, thậm chí còn khinh khi nữa. Từ trường hợp này chúng ta suy ra: cái Đức có thể là phát nguyên từ Đạo nhưng có tính độc lập tương đối so với Đạo. Do đó nếu có những sự vật - hiện tượng hợp Đạo lý và có Đức thì cũng có thể có những sự vật - hiện tượng hợp Đạo lý mà không có Đức. Chỉ có thế thì mới giải thích được sự kiện con quỉ khát máu và hiện tượng Kiệt, Trụ mà thôi.

Lão Tử chắc chắn là chưa nhận chân được bản chất thật sự của Đức cho nên cái khái niệm Đức Huyền Diệu mà ông đưa ra thật mông lung, thiếu căn cứ, làm cho các thế hệ sau này phải suy đoán già non mãi. Nhưng chỉ với việc cho rằng đức nhân có nguồn gốc từ Tự Nhiên thôi, Lão Tử đã thể hiện một giác ngộ tâm linh cao vợi rồi.

Đức nhân, nói đơn giản, là biểu hiện sự tốt lành, sự hợp lẽ phải. Con người có đức nhân thì ai cũng quí mến. Quí mến là cái tình. Đức hợp tình nên được quí mến. Do đó Đức cũng chính là cái tình phù hợp. Cha mẹ nuôi nấng che chở cho con cái, đối với vạn vật, chủ yếu là bản năng; đối với loài vật có tư duy hay con người là cái Đức Huyền Diệu. Đức Huyền Diệu ấy là sự thể hiện ra, là kết quả của tình yêu thương. Mà tình yêu thương ấy lại có xuất phát điểm từ sự yêu cuộc sống, yêu mình và cuối cùng thì nguồn gốc sâu xa của tình yêu ấy lại chính là sự đòi hỏi sống còn của bản năng; là từ tự nhiên. Có thể nói căn nguyên của Đức chính là tình yêu thương, một thứ tình cảm chỉ ở con người mới có. Tình yêu thương vừa có tính khách quan vì có nguồn gốc từ bản năng vừa mang tính chủ quan vì nó cũng đồng thời hình thành nên từ trải nghiệm cuộc sống, tự giác nhận thức và lý trí cảm nhận.

Cũng có thể tán hươu tán vượn về Đức theo cách khác. Từ đặc tính phân biệt của Tồn Tại mà có các sự vật - hiện tượng hay nói gọn là vạn vật. Vạn vật là thể hiện của Tồn Tại và cũng chính là tồn tại nên chúng đều phải tuân theo nguyên lý Tự Nhiên. Mặt khác vạn vật là những bộ phận của Tồn Tại, phân biệt được với nhau nên việc tuân theo nguyên lý Tự Nhiên của chúng được thể hiện ra theo những cách khác nhau, thể hiện ra những qui luật đặc thù cho riêng mỗi vật (mỗi loại vật). Vạn vật là những bộ phận của Tồn Tại, phân biệt được với nhau nên cũng có nghĩa là chúng độc lập, tự do tồn tại tương đối so với nhau và cũng có nghĩa là một cách tương đối, chúng tự thân vận động để duy trì cái tồn tại tương đối ấy trong một tổng thể tác động tương hỗ, chuyển hóa, biến thái, hòa hợp, sinh diệt nhau không ngừng.

Tự thân vận động để duy trì tồn tại ở vạn vật vô sinh thể hiện thành bản năng sinh tồn ở vạn vật hữu sinh và thành ra tự giác sinh tồn ở loài người. Từ cái quá trình sinh tồn vừa bản năng vừa tự giác ấy, qua trải nghiệm và nhận thức mà con người thấy được cuộc sống của mình là quí giá, đi đến chỗ quí mình, yêu mình, và tôn sùng quí mến cha mẹ, yêu thương con cái, anh em ruột thịt… Đó là mầm mống của đức nhân.

Đi liền với quí, yêu là khinh, ghét. Mọi trạng thái, mức độ tình cảm của con người sinh ra từ đó và từ đó mà cũng xuất hiện ra cặp khái niệm thị phi (đúng-sai). Đã là đúng thì bao giờ cũng đức, mà đức thì bao giờ cũng duôc cho là hợp lẽ phải. Sự thực có lẽ vậy?

Yêu mình yêu người là đức nhân, vì mình hại người là thất đức, yêu mình ghét người là vô đức, quên mình yêu người là… Mặc Tử, ghét mình yêu người là… dở hơi, và ghét mình ghét người là vô...đạo!

Như chúng ta đã nói, bắt nguồn từ tình yêu cuộc sống mà mọi người, toàn nhân loại, ai ai cũng đều có một ước mong tối thiểu là được yên ổn làm ăn trong hòa bình, được sống no đủ, hạnh phúc trọn đời. Đơn giản thế thôi mà lạ lùng thay, từ thuở hồng hoang đến nay vẫn chỉ là ước mơ xa vời của đại chúng nhân loại. Trên trái đất này lúc nào cũng thấy khói lửa ngút trời, máu chảy đầu rơi tràn lan, đói khổ nghèo hèn, bất công áp bức la liệt khắp gầm trời. Cái Đức Huyền Diệu ở đâu, kính thưa Lão Tử?!

Bức tranh ảm đạm của xã hội loài người có trái Đạo lý không? Không, vì nếu không phù hợp với nguyên lý Tự Nhiên thì làm sao nó tồn tại được? Vậy phải cho là nó hợp Đạo lý; nó tồn tại được là vì hợp Đạo lý; nhưng tồn tại ảm đạm đầy đau buồn như thế là vì thiếu Đức Huyền Diệu.

Đến đây chúng ta đã thấy được cái thực chất của khái niệm Đức Huyền Diệu mà Lão Tử đã bày ra. Trước mắt chúng ta là một phong cảnh thiên nhiên tràn đầy sức sống, đất đai phì nhiêu, bốn mùa hài hòa mưa nắng, cỏ cây cứ theo đó mà nảy nở, vươn mầm xanh lá, ngàn hoa khoe sắc cho nặng trĩu trái cành; muông thú cứ theo đó mà sinh sôi nên bầy đàn hồn nhiên mà vui sống. Có được bức tranh thủy mặc ấy là nhờ Đạo, nhờ nguyên lý Tự nhiên. Những bức tranh thủy mặc đều tuyệt đẹp. Cái đẹp ấy chính là sự phô diễn của cái mà Lão Tử nói là Đức và sự phô diễn cái đẹp tuyệt mỹ chính là Đức Huyền Diệu (là cái Đức ở trạng thái tối cao, tuyệt đích).

Thế rồi chúng ta lại nhìn thấy một quang cảnh khác, tương phản với quang cảnh ban đầu: khô cằn, hạn hán, bão tố liên miên; núi phun lửa cháy ngút ngàn; rừng cây, hoa, lá theo đó mà tan hoang, chồi mầm thành than, không nhú; muông thú chết chìm chết nổi, chết đói chết thui. Đó là một bức tranh điêu tàn và ghê rợn. Có được bức tranh tả chân ấy là vì Đạo, vì nguyên lý Tự nhiên. Nhưng cái điêu tàn trong bức tranh này đâu phải là sự phô diễn của cái Đức mà là cái ngược với nó: cái Vô Đức.

Đạo là vô tình mà làm tất cả; làm ra nảy nở tốt tươi là nó và làm ra thui chột điêu tàn cũng là nó. Vô Đức hay Hữu Đức thì cùng như nhau cả thôi, Đạo chẳng yêu hay ghét gì!

Không thấy Lão Tử nói đến cái Vô Đức. Như vậy là ông đã thiên vị?

Vũ trụ quan của Lão Tử là hoàn toàn duy vật. Quan niệm Đạo mang tính khách quan cao độ, rất hợp lý. Chỉ khi nói đến Đức thì ông lại chỉ chú trọng tới mặt “sinh ra vạn vật” mà quên mất “chức năng” thứ hai của nó là “tiêu diệt vạn vật”. Do đó mà lòng ông coi toàn cảnh thiên nhiên được mô tả chỉ như phong cảnh thứ nhất mà chúng ta thấy: bốn mùa xoay vần hài hòa mưa nắng, cây cỏ, muông thú nảy nở, sinh sôi tràn trề sức sống. Đạo sinh ra, Đức nuôi dưỡng lấy mà được như thế. Đức nuôi dưỡng vì thế mà cũng là lẽ đương nhiên, là tự nhiên, phù hợp Đạo lý. Có lẽ từ đây mới hình thành nên quan niệm cho rằng: sống đúng là sống theo tự nhiên, sống theo tự nhiên là có đức, có đức nghĩa là biết yêu thương mình và cả yêu thương người mà làm cho mình cùng cả cho người; sống như thế là đức độ, hợp Đạo lý. Vì thế, ngày nay đã thành thông dụng, khi nói là hợp Đạo lý thì cũng có nghĩa là Đức, là lẽ phải?

Cuối cùng, Lão Tử đã coi làm Đức cũng chính là hợp Đạo lý, là hợp Tự Nhiên và do đó là đúng, là lẽ phải ở đời. Làm Đức có nghĩa là nuôi dưỡng, bao bọc, che chở. Mà muốn làm được như thế phải có lòng yêu thương con người. Và người có đức nhân cũng chính là người có lòng nhân hậu.

Nhưng, như chúng ta đã phân tích thì đối với Đạo, Đức hay Vô Đức cũng chẳng có gì là đúng hay sai cả. Việc Lão Tử cho rằng chỉ có Đức (nuôi dưỡng, bao bọc, che chở vạn vật) là hợp Đạo lý thôi, là cái lẽ phải theo, là chân lý nên theo, thì đó là ý kiến riêng của ông, là qui ước hoàn toàn chủ quan của ông. Cũng như chúng ta khen chê đẹp hay xấu, tươi tốt hay điêu tàn là theo ý chủ quan của chúng ta thôi, chứ Đạo thì chẳng có “ý kiến” gì.

May thay cái tác dụng của Đức Huyền Diệu (là sự qui ước “riêng tư” của Lão Tử) lại phù hợp với ước vọng đời đời (mà chúng ta đã nói ở phần trên) của đại chúng. Mà cái ước vọng ấy, nếu xét trong một chừng mực nhất định là có tính chủ quan, nhưng xét đến cùng lại hoàn toàn mang tính khách quan (có nguồn gốc bản năng, nảy sinh ra từ thực tiễn xã hội đầy biến loạn, đầy bấp bênh, trắc trở). Do đó Đức Huyền Diệu trở thành chuẩn mực để định nghĩa đúng sai, là nền tảng của đạo đức con người. Trong xã hội, bất cứ người nào, thế lực nào, thời kỳ nào, làm theo Đức Huyền Diệu ấy, đều là làm điều nhân nghĩa, đều được gọi là có đức nhân và đều được cho là ở về phía chính nghĩa.
Lão Tử đã may mắn vì đã có được cái trực giác tâm linh siêu thoát, thiên tài!
                                                                       ***

Xuất phát từ Đạo (nguyên lý Tự Nhiên) và Đức (lẽ phải cần theo, hợp ý hợp tình đại chúng) như vậy, Lão Tử đã xây dựng nên một quan niệm rất sâu sắc về nhân sinh - hành vi. Chúng ta có thể rút ra ở đó hàng loạt danh ngôn về cách sống. Dưới đây chúng ta sẽ trích lược những đoạn cho là cần và hay và lạm bàn vào ít thôi chứ không “bàn tán xôn xao” như trên nữa (bàn nhiều quá, lòi hết cái dốt ra thì nguy!!!)

Lão Tử viết:

“Vàng ngọc đầy nhà, làm sao giữ nổi; giàu sang mà kiêu là tự rước lấy họa. Công thành rồi thì nên lui về, đó là đạo trời.”

Lạm bàn: - Phạm vào luật phản phục; phạm vào đức, gây thù chuốc óan

               - Phạm Lãi được hưởng tuổi già vì hiểu đạo trời nhờ Lão Tử chăng?

 Lão Tử viết:

“Ngũ sắc làm cho người ta mù mắt; ngũ âm làm cho người ta ù tai; ngũ vị làm cho người ta tê lưỡi; ruổi ngựa săn bắn làm cho lòng người ta mê loạn; vàng bạc châu báu làm cho hành vi người ta đồi bại. Cho nên thánh nhân cầu no bụng mà không cần vui mắt, bỏ cái này mà lựa cái kia.”

Lạm bàn: - Lão Tử khắt khe quá!

                - Cảm giác ngon như bản năng; món ăn đã dở òm thì khó lòng mà ăn được, chứ chưa nói đến ăn no, đã ngán thì dễ thấy no

Lão Tử viết:

“Đạo lớn bị bỏ rồi mới có nhân quả; trí xảo xuất hiện rồi mới có trá ngụy; gia đình (cha mẹ, anh chị, vợ chồng) bất hòa rồi mới sinh ra hiếu, từ; nước nhà rối loạn mới có tôi trung.”

Lạm bàn: - Câu này rất hay, có thể dùng nó để làm ví dụ sự hình thành khái niệm tương phản; còn gợi nhớ các câu như “cháy nhà ra mặt chuột”, "thời thế tạo anh hùng", "bần hàn sinh đạo tặc"...

Lão Tử viết:

“Kẻ biết người là khôn, kẻ tự biết mình là sáng suốt. Thắng được người là có sức mạnh, thắng được mình là kiên cường. Kẻ tri túc (biết thế nào là đủ) là người giàu; kẻ mạnh mẽ (hoặc gắng sức làm) là người có chí…”

Lạm bàn: - Thường chúng ta chỉ thấy cái hay, dở của người chứ mấy ai thấy cái hay, dở của chính mình

                - Đâu phải nhiều bạc tiền mới là giàu. Giàu có, biểu diễn theo toán học là thế này: Giàu có = Phước x Lộc x Thọ ; Không Phước thì Lộc như núi cũng khốn khổ, không Lộc mà Phước như biển cũng bần hàn, đoản Thọ mà Lộc, Phước đầy nhà thì… hết nói!

Lão Tử viết:

“Người có đức cao thì không có ý cầu đức, cho nên có đức; người có đức thấp có ý cầu đức, cho nên không có đức.

Người có đức cao thì làm mà như không làm (vô vi); người có đức thấp thì cố làm mà như không làm.

Người có đức cao thì làm điều nhân, chứ không có ý làm; người có lòng nghĩa cao thì làm điều nghĩa mà có ý làm; người có đức lễ cao thì giữ lễ nghi, và nếu không được đáp lại thì đưa cánh tay ra kéo người ta bắt phải giữ lễ nghi như mình. Cho nên đạo mất rồi thì sau mới có đức, đức mất rồi thì sau mới có nhân, nhân mất rồi sau mới có nghĩa, nghĩa mất rồi sau mới có lễ. Lễ là biểu hiện sự suy vi của sự trung hậu thành tín, là đầu mối của sự hỗn loạn. Dùng trí tuệ để tính toán trước, thì chỉ là cái lòe loẹt của đạo, mà là nguồn gốc của ngu muội. Cho nên bậc đại trượng phu (người hiểu đạo) giữ trung hậu thành tín mà không trọng lễ nghi, giữ đạo mà không dùng trí xảo, bỏ cái này mà giữ cái kia”.

Lạm bàn:    - Ngày nay rất nhiều người làm từ thiện. Đi làm mà tự nhiên như không thì thực sự thương người, nên đức cao. Đi làm mà ra vẻ là làm thì chỉ vì danh lợi, nên đức thấp. Tuy vậy, còn hơn thất đức, vô đức

                - Đức, nhân làm nảy sinh ra lễ, nghĩa; lễ, nghĩa đề cao đức, nhân. Khi lễ, nghĩa xa rời đức, nhân thì bỏ lễ, nghĩa để giữ lại đức, nhân, như thế là hợp đạo trời.

                - Nhà nước đã thất lễ, bội tín, bất nhân với dân thì dân việc gì phải giữ lễ, tín, nhân với nhà nước?

Lão Tử viết:

“Danh tiếng với sinh mệnh cái nào quí? Sinh mệnh với của cải cái nào quan trọng?

Được danh lợi mà mất sinh mệnh, cái nào hại? Cho nên ham danh quá thì phải hao tổn nhiều, chứa của cải nhiều thì mất mát nhiều. Biết thế nào là đủ thì không nhục, biết lúc nào nên ngừng thì không nguy mà có thể sống lâu được”.

Lạm bàn:    - “Người ta có cái nguồn sống là tối linh”, “cho nên tùy tâm mà động, không trái với cái thích tự nhiên”. Ôi, nhớ Dương Chu quá!

Lão Tử viết:

“Khéo dựng thì không nhổ lên được, khéo ôm thì không thoát ra được, con cháu mà khéo dựng, khéo ôm thì việc tế tự sẽ đời đời không dứt. Lấy đạo mà tu thân thì đức sẽ đầy đủ; lấy đạo mà lo việc nhà thì đức sẽ có dư; lấy đạo mà lo việc làng xóm thì đức sẽ lớn ra; lấy đạo mà lo việc nước thì đức sẽ thịnh; lấy đạo mà lo việc thiên hạ thì đức sẽ phổ cập.

Lấy thân mình mà xét thân người, nhà mình xét nhà người, làng mình xét làng khác, nước mình xét nước khác, thiên hạ này xét thiên hạ thời xưa và thời sau. Làm sao ta biết được thiên hạ thế này hay thế khác? Là do lẽ đó”.

Lạm bàn:    - Làm theo đạo thì sẽ biết đức

       - Ôn cố tri tân là con đường cốt yếu của nhận thức

Lão Tử viết:

“Người nào có đức dày thì như con đỏ. Độc trùng không chích, mãnh thú không vồ, ác điểu không quắp. Xương yếu gân mềm mà tay nắm rất chặt, chưa biết giao hợp mà con cu dựng đứng, như vậy là tinh khí sung túc. Suốt ngày gào thét mà giọng không khàn, như vậy là khí cực hòa. Biết hòa thì gọi là bất biến, biết bất biến thì gọi là sáng. Tòng dục tham sinh thì gọi là họa. Để cho lòng dục sai khiến cái “khí” thì gọi là cường. Vật nào cường tráng thì sẽ già, như vậy là không hợp đạo, không hợp đạo thì sớm chết”.

Lạm bàn:    - Cái gốc của thuật dưỡng sinh ngày nay chăng?

     - Cách nói của Lão Tử là tuyệt đích, chân phác chứ không phải tục!

Lão Tử viết:

“Kẻ kiễng chân không đứng được (vững), kẻ xoạc cẳng không đi được (lâu), kẻ tự biểu hiện thì không sáng tỏ, kẻ tự cho là phải thì không chói lọi, kẻ tự kể công thì không có công, kẻ tự phụ thì không trường cửu. Đối với đạo thì những thái độ đó là “những đồ ăn thừa, những cục bướu, ai cũng ghét”. Cho nên kẻ theo đạo không làm vậy”.

Lạm bàn:    - Không dám bàn vì rất có thể có cả chúng ta trong đó! Ngu gì mà tự chê bai mình!

Lão Tử viết:

“Ít nói thì hợp với tự nhiên

Cho nên gió lốc không hết buổi sáng, mưa rào không suốt một ngày. Ai làm nên những điều ấy? Trời đất. Trời đất còn không thể lâu được, huống hồ là người?

Cho nên theo đạo thì sẽ hòa đồng với đạo; theo đức thì sẽ hòa đồng với đức; theo sự mất đạo mất đức thì sẽ là một với mất. Hòa đồng với đạo thì sẽ vui được đạo; hòa đồng với đức thì sẽ vui được đức; là một với mất thì sẽ vui với mất”.

Lạm bàn:    - Tại sao lại vui được với mất nhỉ?! Tại vì mất cái nhọt đau tấy trên lưng chẳng hạn  là vui rồi! Nói chung mất thì thường là buồn. Mất tiền mà chẳng được gì cả thì phải buồn thôi. Nhưng nếu biết mất cái gì đó là "của đi thay người" thì sẽ lại rú lên vì sung sướng!
 ***

Tư tưởng chính trị của Lão Tử cũng hoàn toàn dựa trên nền tảng lý luận về Đạo và Đức. Nó thực ra cũng chỉ là quan niệm về nhân sinh- hành vi được nâng lên áp dụng cho vua chúa và được thể hiện trong những đoạn nói về thuật cai trị, về mối quan hệ giữa thống trị và bị trị. Vì hợp Đạo và Đức là sinh thành, bao bọc, nuôi nấng, dưỡng sinh nên hiển nhiên "thương dân" là tuyệt đích nhân hậu, "hợp lòng dân" là tuyệt đích chính nghĩa. Trên cơ sở nhận thức ấy mà Lão Tử luôn là người của đại chúng, nói theo tiếng nói của đại chúng và vì quyền lợi của đại chúng. Đương nhiên, cũng vì thế mà quan niệm của Lão Tử về nhân quần, xã hội cũng mang tính nhân đạo cao cả.

Có lẽ những gì gọi là cốt lõi nhất của học thuyết Hoàng Lão, chúng ta đã bàn luận hết cả rồi. Nên ở đây chúng ta cứ thế tiếp tục cái công việc trích đoạn và lạm bàn. Dù có thể gây ra ít nhiều nhàm chán nhưng đó là cách nhanh nhất giới thiệu đầy đủ một triết thuyết trong điều kiện thời gian đã trở thành vàng, ngọc.

Biện minh thế cũng đủ, chúng ta tiếp tục!

Lão Tử viết:

“Cho nên thánh nhân xử sự theo thái độ “vô vi”, dùng thuật “không nói” mà dạy dỗ, để cho vạn vật tự nhiên sinh trưởng mà không can thiệp vào, khéo nuôi dưỡng vạn vật mà không chiếm làm của mình, làm mà không cậy khéo, việc thành mà không quan tâm tới. Vì không quan tâm tới nên sự nghiệp mới còn hoài”.

Lạm bàn:    - Hợp đạo lý cũng chính là hợp lòng dân. Hợp lòng dân thì dân tự làm, khỏi phải “nhắc nhở”.

                 - “Có đức mặc sức mà ăn”

                 - Các bậc phụ huynh nên theo lời dạy này mà dạy dỗ con cái, tối ưu đấy!

Lão Tử viết:

“Không trọng người hiền để cho dân không tranh, không quí của hiếm để cho dân không trộm cướp, không phô bày cái gì gợi lòng ham muốn, để cho lòng dân không loạn.

Cho nên chính trị của thánh nhân là làm cho dân: lòng thì hư tĩnh, bụng thì no, tâm chí thì yếu, xương cốt thì mạnh”

Lạm bàn:    - Thiên nhiên ở ngoài vòng danh lợi, con người ở trong vòng danh lợi. Sao lại “đòi” và có thể làm mất chí tiến thủ của con người được?

                - Chỉ cần kẻ trị vì bớt thèm muốn thái quá đi, biết “sống là tạm đến, chết là tạm đi”, thế cũng là đủ cho thiên hạ bình trị rồi!

               - Hình như ngay từ thời đại đó, Lão Tử đã thấy được thực trạng ngày nay: quảng cáo rùm beng, kích thích tiêu dùng thái quá, theo mới nới cũ xoành xoạch, lúc nào cũng thèm khát, không biết đến đâu là đủ. Và có lẽ vì thế mà sự khốn nạn đầy dẫy, và khổ vẫn hoàn … khổ!

Lão Tử viết:

“Cho nên người nào trọng thiên hạ như bản thân mình thì có thể giao thiên hạ cho được; người nào yêu thiên hạ như yêu mình thì có thể gửi thiên hạ cho được”

Lạm bàn:    - Vì như thế là phù hợp với lẽ tự nhiên.

                       - Nhưng sao trước đó Lão Tử nói không nên trọng người hiền? Vì có thể ông cho làm thế để tránh những ganh đua vị kỷ chăng? Hay ông chê trách tệ sùng bái cá nhân?

Lão Tử viết:

“Bậc trị dân giỏi nhất thì dân không biết có vua, thấp hơn một bậc thì dân yêu quí và khen; thấp hơn nữa thì dân sợ; thấp nhất thì bị dân khinh lờn.

Vua không đủ thành tín thì dân không tin. Nhàn nhã, ung dung (vì vô vi mà dân tự làm cả) mà quí lời nói. Vua công thành, việc xong rồi mà trăm họ đều bảo: “Tự nhiên mình được vậy”.

 Lạm bàn:    - Đúng thế! Đức Huyền diệu là vô hình. Có thể sắp xếp thứ tự từ cao xuống thấp như sau: Đức trị, danh trị, pháp trị, xảo trị. Có thể thêm: trước đức trị là vô trị, sau xảo trị là bất trị.! Mà đã là bất trị rồi thì, dạ thưa thánh thượng, mày cũng đéo là … cái đinh gì!

Lão Tử viết:

“Dứt thánh bỏ trí, dân lợi gấp trăm; dứt nhân bỏ nghĩa, dân lại hiếu từ; dứt xảo bỏ lợi, không có trộm giặc

Ba cái đó (thánh trí, nhân nghĩa, xảo lợi) vì là cái văn vẻ (hình thức bề ngoài) không đủ để khiến dân qui thuận về điều này: ngoài thì biểu hiện sự mộc mạc, trong thì giữ sự chất phác, giảm tư âm, bớt dục vọng”

Lạm bàn:    - Dùng để tu thân luyện tâm cho mỗi người thì may ra còn được. Chứ đem áp dụng cho cả thiên hạ thì e rằng xã hội sẽ thành … phong cảnh thiên nhiên mất.!

Lão Tử viết:

“Thiên hạ có đạo thì ngựa tốt không dùng vào chiến tranh mà dùng vào việc cày cấy; thiên hạ vô đạo thì ngựa dùng vào chiến tranh và ngựa mẹ sinh con ở chiến trường.

Họa không gì lớn bằng không biết thế nào là đủ, hại không gì bằng tham muốn thái quá. Cho nên biết thế nào là đủ và thỏa mãn về cái đủ đó thì mới luôn luôn thấy đủ”

Lạm bàn:    - Cày cấy sẽ dẫn đến no đủ. Chiến tranh là muốn ngon nhiều mà không phải cày cấy: đó là cái hại dẫn đến cái họa!

Lão Tử viết:

“Nếu ta hốt nhiên hiểu biết thì ta đi theo con đường lớn, chỉ sợ con đường tà. Đường lớn thật bằng phẳng, mà người ta lại thích con đường quanh co.

Triều đình thật ô uế, đồng ruộng thật hoang vu, kho lẫm thật trống rỗng; mà họ mặc áo gấm thêu, đeo kiếm sắc, ăn uống chán mứa, của cải thừa thãi. Như vậy là trùm trộm cướp chứ đâu phải hợp đạo!”

Lạm bàn:    - Vì thế mà tính theo đường chim bay thì dù đã 2500 năm rồi mà sao thấy gần quá: lời Lão Tử còn phả hơi nóng hầm hập tính thời sự!

               - Ông vốn từ tốn khiêm nhường mà sao lúc này lại lớn tiếng, gay gắt thế? Hay có đứa quan nào trong vùng đã đến hoạnh họe ông?!

              - Dễ dàng thông cảm được sự giận dữ của Lão Tử, vì đến tận ngày nay, những kẻ cơ hội, lọc lõi, du thủ du thực khoác áo quan để mượn oai hùm (quyền lực nhà nước) nhằm hà hiếp muôn dân, cả những người xác xơ, để trục lợi, đục khoét, cướp trắng, tương tự như thời ông, thiếu cha gì?

Lão Tử viết:

“Dùng đạo mà trị thiên hạ thì quỉ không linh; chẳng những quỉ không linh mà thần cũng không làm hại được người; chẳng những thần không làm hại người mà thánh nhân (tức vua) cũng không làm hại người. Hai bên không làm hại nhau, cho nên đức qui cả về dân”.

Lạm bàn:    - Có thể đó là cách thuyết giảng phù hợp cho những người còn mê tín mù quáng chứ bản thân Lão Tử là một nhà duy vật chân chính.

                 - Hiểu đạo ông thì mới biết quỉ, thần, thánh là không có. Không có thì chẳng thể hại ai.

                 - Khổng Tử cứ đau đáu vào danh, lấy “chính danh” làm mục đích sống ở đời, thì làm sao mà hiểu được cái cao siêu, lồng lộng mà giản dị, an nhiên của Lão Tử!

Lão Tử viết:

“Nước lớn nên ở chỗ thấp, chỗ qui tụ của thiên hạ, nên như giống cái trong thiên hạ. Giống cái nhờ tĩnh mà thắng giống đực, lấy tĩnh làm chỗ thấp. Cho nên nước lớn mà khiêm hạ đối với nước nhỏ thì được nước nhỏ xưng thần; nước nhỏ mà khiêm hạ đối với nước lớn thì được nước lớn che chở. Như vậy là một bên khiêm hạ để được, một bên khiêm hạ mà được. Nước lớn chẳng qua chỉ muốn gồm nuôi nước nhỏ, nước nhỏ chẳng qua chỉ muốn thờ nước lớn. Khiêm hạ thì cả hai đều được như ý muốn; nhưng nước lớn phải khiêm hạ trước mới được."

Lạm bàn:    - Đòi một mụ vợ “sư tử Hà Đông” khiêm hạ với chồng thì hơi bị khó. Có mấy mụ chịu ở chỗ thấp đâu, toàn chọn chỗ đè đầu cưỡi cổ, làm nhiều đức ông chồng sợ vãi đái mà đành phải khiêm hạ, đành phải xưng vợ là thần để chờ hứng vài cơn mưa móc.

                 - Cho đến tận ngày nay, những nước lớn vẫn chưa biết khiêm hạ. Tại sao vậy?

Lão Tử viết:

“Thời xưa, người khéo dùng đạo trị nước thì không làm cho dân khôn lanh cơ xảo (láu cá), mà làm cho dân đôn hậu chất phác. Dân sở dĩ khó trị là vì nhiều trí mưu. Cho nên dùng trí mưu trị nước là cái họa cho nước, không dùng trí mưu trị nước là cái phúc cho nước. Biết hai điều đó là biết được phép tắc trị dân. Biết phép tắc thì gọi là có “Đức Huyền Diệu” (Huyền Đức). Đức Huyền Diệu sâu thẳm, cùng với vạn vật trở về gốc rồi sau mới đạt được sự thuận tự nhiên (hợp Đạo lý)”.

Lạm bàn:    - Đường lối, chính sách phải phù hợp, trong sáng, thiết thực, đáp ứng được nguyện vọng của đại chúng.

               - Còn nếu thấy không có khả năng làm được như thế thì tự giác về sống lại cuộc đời dân dã đi, cố bám vào cái ghế tước vị mãi làm gì? Hay là có lòng thương dân, vì dân mà phục vụ … cho bản thân mình và gia đình riêng của mình được … sung sướng?

Lão Tử viết:

“Sông biển sở dĩ làm vua trăm khe lạch vì khéo ở dưới thấp nên mới làm vua trăm khe lạch. Thánh nhân muốn ở trên dân thì lời nói phải khiêm hạ, muốn ở trước dân thì phải lùi lại sau. Vì vậy thánh nhân ở trên, dân không thấy nặng cho mình, ở trước dân mà dân không thấy hại cho mình; nhờ đó mà thiên hạ vui vẻ đẩy thánh nhân lên trước mà không chán. Không tranh với ai cho nên không ai tranh giành với mình được”.

Lạm bàn:    - Thánh nhân làm theo thế trong thời bình, thì còn “xơ múi” được chứ trong thời chiến thì coi chừng hại đến bản mạng vì trước làn tên mũi đạn mà được binh lính “đẩy… lên trước mà không chán” và “không ai tranh giành với mình được” thì thật… hết chỗ nói!

             - Nói vui thế thôi chứ thực ra Lão Tử nói quá thâm thúy và… tuyệt đúng nữa.

Lão Tử viết:

“Dân sở dĩ đói là vì nhà cầm quyền thu thuế nặng quá cho nên dân đói

Dân sở dĩ khó trị là vì nhà cầm quyền dùng chính lệnh phiền hà, cho nên dân khó trị

Dân sở dĩ coi thường sự chết là vì nhà cầm quyền tự phụng dưỡng mình quá hậu, cho nên dân coi thường sự chết (vì khổ quá).

Nhà cầm quyền mà vô dục, đạm bạc thì hơn là quí sinh, hậu dưỡng”.

Lạm bàn:    - Đó là nhà cầm quyền phi nghĩa và vô (đạo) đức.

                        - Nhưng đời thuở nào, một nhà cầm quyền như thế, đang nắm giữ quyền lực, lại bỗng dưng tự “hạ mình” mà nhận như thế!?

Lão Tử viết:

“Đạo trời không tranh mà khéo thắng, không nói mà khéo đáp, không gọi mà vạn vật đều tự tới, bình thản vô tâm mà khéo mưu tính mọi việc. Lưới trời lồng lộng, thưa mà không lọt”.

Lạm bàn:    - Hãy sống và hành động theo đạo trời

                 - Con người có thể làm ra luật, có thể dựng chiêu bài nhân nghĩa, có thể mạo nhận chân lý. Nhưng phán xét cuối cùng về thị phi là lưới trời, thấy thì thưa đấy mà đừng hòng lọt (tội).

                 - Hình như vẫn lọt!

                - Chỉ có dân ngu thì cứ mãi là… cu đen vì không bao giờ có thể thoát được sự hạnh họe, ăn hiếp của lũ quan tham nhũng, cậy quyền, ỷ thế và bẩn cũng ăn!

 ***

Đến đây, chúng ta tạm coi như đã trình bày xong học thuyết Hoàng Lão. Qua công việc trình bày đó, chúng ta cũng đồng thời thấy được cái gốc của lòng nhân hậu, của tình yêu thương con người; cái gốc của thị phi và biết như thế nào là nhân đức, chính nghĩa …

Xưa kia, chúng ta đã lầm tưởng Đạo Gia chỉ như một trường phái tư tưởng được hình thành nên từ sự cảm thấy chán nản, bế tắc trước một thời cuộc hỗn loạn dữ dội mà đề xướng nên chủ trương xuất thế vô vi, trọng sinh khinh vật, vị ngã đầy yếm thế và vị kỷ. Nhờ vô tình đọc được cuốn “47 quỉ kế” do Trần Sáng biên dịch và chú giải bổ sung từ cuốn “Quỉ Cốc Tử” mà chúng ta không thể cầm lòng được, đã làm một cuộc hành trình bất chấp hiểm nguy đến thời loạn Xuân Thu - Chiến Quốc, để trực tiếp mắt thấy tai nghe những gì đã xảy ra. Rồi từ lòng ngưỡng vọng mà chúng ta quên hết sợ hãi, như những kẻ mộng du, lần theo dấu vết của các hiền nhân quân tử đương thời như Lão Tử, Khổng Tử, Mặc Tử, Quỉ Cốc Tử … Rất nhiều lần chúng ta còn được họ cho xem những trước tác bản gốc bằng thẻ tre, tuy rất “kiệm chữ” nhưng đáng tiếc là chúng ta “mù tịt” vì quá dốt “tiếng Tàu” (huống hồ là tiếng Tàu cổ!). Dù sao, từ cái trực quan sinh động ấy, mà chúng ta thu lượm được nhiều điều bất ngờ mà bất ngờ lớn nhất là phái Đạo Gia.

Xét ở góc độ hoàn chỉnh, có lý luận chặt chẽ và nhất quán từ gốc chí ngọn thì trong thời Xuân Thu - Chiến Quốc chỉ có một học thuyết triết học duy nhất, đó là học thuyết Hoàng Lão. Ngay từ đầu Chiến Quốc, học thuyết Hoàng Lão đã bộc lộ đầy đủ hầu hết những ý niệm cơ bản của triết học và được tu chỉnh, sau định thành sách ở thời Vương Thiệu lão Tổ. Chính nó là nguồn cảm hứng, là tiền đề phát sinh ra mọi học phái triết học nửa vời của thời Chiến Quốc. Đạo Khổng tuy không xuất phát từ Hoàng Lão nhưng càng về sau càng chịu ảnh hưởng sâu sắc của thuyết này, cả Vũ Trụ quan lẫn nhân sinh quan (nhưng như chúng ta đã nói, Nho Giáo không thể tạo ra sự nhất quán giữa hai bộ phận ấy để có được một tổng thể triết học thống nhất được).

Chúng ta đừng tưởng hồi đó xuất thế vô vi là những kẻ chán đời, tản mát đâu đó nơi hoang sơ vắng vẻ, nơi thâm sơn cùng cốc. Trái lại đó là một chủ trương cố ý, có cơ sở lý luận mà người đề xướng là Lão Lai. Do đó, hầu hết những người xuất thế đều là những người thấm nhuần tư tưởng Đạo Gia, coi xuất thế vô vi là hành động hợp lý nhất để tác động trở lại thời cuộc một khi có cơ hội, bằng cách này hay cách khác, bằng cái thế vô danh. Do đó những người xuất thế theo phái Đạo Gia không nhiều thì ít luôn có những liên hệ nhất định với nhau, thậm chí là mối liên hệ ấy đã mang tính có tổ chức. Họ xuất thế, mai danh ẩn tích, nhưng vẫn ở đó trong dân dã, vui vẻ hồn nhiên và đầy sức sống. Chúng ta biết chắc điều đó vì đã nhiều lần bù khú rượu chè với không ít người trong số họ và từ đó mà cũng tin rằng trên cõi đời này, chẳng có ai thanh thản, chân phác và giàu lòng hiếu khách như những người xuất thế thuộc phái Đạo Gia thời đầu Chiến Quốc!

Học thuyết triết học Hoàng Lão là cái tên mà chúng ta gọi, là đánh giá của hậu thế. Chứ sự thật thì ngoài cái ý nghĩa “triết thuyết” ngầm chứa ra, nó còn (và có thể là chức năng chủ yếu lúc bấy giờ) đóng vai trò như một tuyên ngôn, một tôn chỉ hành động của một học phái đang thành hình và thực tế đã thành hình manh nha của một đảng chính trị như khái niệm về sau này.

Chính vì lẽ đó mà trong “Đạo Đức Kinh”, “Xung hư Chân Kinh” hay “Quỉ Cốc Tử”, chúng ta đều thấy toát lên niềm tôn quí cuộc sống, trọng nghĩa khinh tài, tinh thần tích cực biện hộ cho quyền lợi của đại chúng và khát vọng cứu nhân độ thế (nhưng theo cách thức gọi là vô vi). Riêng việc công khai bất hợp tác với vua chúa đã là một hành động sáng suốt và hướng thiện không thể chối cãi được.

Dù có thể còn điều này điều kia hạn chế, dù có thể ở chỗ này chỗ nọ còn thể hiện sự ngây thơ hay siêu hình chủ nghĩa, nhưng theo chúng ta nghĩ, học thuyết Hoàng Lão (mà Trang Tử là người thừa kế có tài) mãi mãi là viên ngọc ngời sáng, quí nhất trong lịch sử triết học cổ - kim của nhân dân Trung Quốc nói riêng và của toàn thể loài người nói chung. Ngày nay, ngay trong thế kỷ XXI, bất cứ nhà nước nào thấm nhuần được tư tưởng của Đạo Gia và lấy đó làm kim chỉ nam trong lập pháp và hành pháp, chắc chắn sẽ đạt được quốc thái dân an, xã hội thịnh bình. Nhưng muốn thế, trước hết, bản thân nhà nước đó phải "trong sạch, sáng sủa" mới được!

Để chứng minh rằng sự kiện chúng ta có mặt ở thời Xuân Thu-Chiến Quốc là hoàn toàn thật, chúng ta sẽ trình làng vài ba câu chuyện đã nghe được từ chính miệng Liệt Tử và Trang Tử kể (thông qua sự dịch thuật và chú thích của Nguyễn Hiến Lê!!!)
 ***

Liệt Tử kể:

1-. Nước Tống có người làm trò Sơn Đông xin diễn trò cho vua Nguyên (nước Tống) coi. Vua Nguyên cho gọi vô. Anh ta đứng lên hai cây cà kheo cao gấp hai anh ta mà vừa chạy vừa nhảy. Rồi lấy bảy cây kiếm tung lên trời và bắt, lúc nào cũng có năm cây ở trên không. Vua Nguyên ngạc nhiên lắm, thưởng cho anh ta vàng và lụa.

Một người làm trò khác có tài đánh đu hay tin đó, tới xin làm trò cho vua Nguyên coi. Vua Nguyên nổi giận, bảo:

- Trước đã có một người làm trò lạ xin ta cho diễn. Trò đó vô dụng, nhưng gặp lúc ta vui vẻ cho nên thưởng hắn vàng, lụa. Tên này chắc nghe vậy mà tới, cũng mong được ta thưởng nữa đây. bắt giam và làm nhục nó đi.

Một tháng sau hắn mới được thả!

2-. Vua Tần Mục Công bảo Bá Nhạc (người nổi tiếng coi ngựa thời cổ)

- Ông đã già rồi, con cháu có người nào sai tìm ngựa tốt được không?

Bá Nhạc đáp:

- Ngựa tốt, coi hình dáng, gân cốt thì biết được. Nhưng con ngựa nhất thiên hạ thì có cái gì đó như ẩn như hiện, như có như không, cảm được chứ không thấy được, nó chạy thì không tung bụi lên (tuyệt trần), không để lại dấu xe nữa. Bầy con của thần đều bất tài, giảng cho chúng hiểu thế nào là ngựa tốt mà không giảng cho chúng nhận thức được con ngựa tuyệt trần. Thần có một người bạn cùng chở củi và rau, tên là Cửu Phương Cao, coi ngựa không kém thần, đại vương nên vời người đó tới.

Mục Vương vời người đó tới, sai đi tìm ngựa. Ba tháng sau người đó về tâu:

- Được ngựa rồi, ở Sa Khâu.

Mục Vương hỏi:

- Ngựa ra sao?

- Ngựa cái vàng.

Sai người đi bắt ngựa, thì là một con ngựa đen. Mục Vương bất bình, vời Bá Nhạc tới bảo:

- Hỏng! người ông giới thiệu đi tìm ngựa, không phân biệt nổi ngựa đực ngựa cái, màu đen màu vàng, thì làm sao biết được ngựa?

Bá Nhạc bùi ngùi, thở dài rồi tâu:

- Tới mức đó ư? Thế thì anh ấy hơn thần cả ngàn vạn lần rồi. Cái mà anh Cao xét là cái huyền vi của trời; anh ấy nhận thấy cái tinh thần mà quên cái thô thiển, xét cái ở trong mà quên cái ở ngoài; cái gì đáng thấy thì thấy, không đáng thấy thì thôi; cái gì đáng nhìn thì nhìn, không đáng nhìn thì bỏ. cái thuật đó của anh Cao có phải chỉ để coi tướng ngựa thôi đâu, còn quí hơn vậy nữa.

Khi ngựa dắt về, quả nhiên không ngựa nào bằng.

3-. Ở phía đông có một người tên là Viên Tinh Mục, đi xa, giữa đường gần chết đói. Một tên cướp ở Hồ Phủ, tên là Khâu trông thấy, đổ nước vào miệng và đút thức ăn cho. Ba lần như vậy, Viên Tinh Mục mới tỉnh, mở mắt nhìn thấy tên cướp, hỏi:

- Ông là ai vậy

Đáp:

- Tôi là người Hồ Phủ, tên Khâu đây

Viên Tinh Mục bảo:

- Ấy, vậy anh là một tên cướp hả? Sao lại cho ta ăn uống? Ta trọng nghĩa, không nhận thức ăn của anh đâu

Nói xong, hai tay chống xuống đất, người đó cố mửa thức ăn ra, không được, chỉ nghe thấy tiếng ọc ọc trong bụng, rồi ngã gục xuống, chết.

Người Hồ Phủ đúng là một tên cướp, nhưng cứu sống người đói, không phải là một hành vi cướp bóc. Viên Tinh Mục lấy lẽ người đó là kẻ cướp mà không chịu ăn thức ăn của người đó (vì cho là của bất nghĩa) như vậy là lầm danh với thực.

4-. Dân Hàm Đan có lệ ngày nguyên đán đem chim ngói dâng Giản Tử (tức Trịnh Giản Tử, được phong ấp ở Hàm Đan). Giản Tử mừng lắm, thưởng họ rất hậu. Một người khách hỏi tại sao, ông đáp:

- Ngày nguyên đán mà phóng sinh thì tỏ rằng mình có lòng thương loài vật.

Người khách nói:

- Dân chúng biết ông muốn phóng sinh, tất tranh nhau bắt chim ngói, và nhiều chim sẽ bị chết. Nếu ông muốn cho chim sống thì không gì bằng cấm dân đừng bắt; bắt rồi phóng sinh thì lòng tốt của ông không đủ bù cái hại.

Giản Tử nghe ra, đáp:

- Đúng vậy!

5-. Họ Điền nước Tề tế thần đường sá (tương tự như cúng đầu xe ở ta) ở trong sân, thực khách tới số ngàn. Giữa bữa tiệc, có người dâng lên món cá và món chim nhạn. Họ Điền nhìn rồi thở dài:

- Trời hậu đãi loài người thật! Sinh ra ngũ cốc, các chim để chúng ta ăn.

Một người khách đến tán thưởng ầm ĩ.

Một đứa con họ Bảo mới mười hai tuổi, dự vào hàng dưới, tiến lên thưa:

- Không đúng như lời ngài nói, Vạn vật trong Trời đất với chúng ta đều là sinh vật cả, không loài nào quí, không loài nào hèn. Chỉ dùng trí khôn và sức mạnh mà khuất phục lẫn nhau, ăn thịt lẫn nhau thôi, chứ không có loài nào sinh ra cho loài khác ăn thịt. Loài người thấy cái gì ăn được là ăn, trời đâu có vì người mà sinh ra các loài đó. Muỗi mòng kia đốt da ta, hổ lang kia ăn thịt ta, có thể nói là trời vì chúng mà sinh ra chúng ta không?

6-. Dương Chu nói:

- Vạn vật sống thì khác nhau mà chết thì như nhau hết. Sống, có kẻ hiền người ngu, kẻ sang người hèn, thế là khác nhau; chết thì xác tan ra, hôi thối, tiêu diệt, ai cũng như ai. Hiền hay ngu, sang hay hèn, không phải mình muốn mà được. Cho nên sống không phải do mình, chết không phải do mình, hiền hay ngu không phải do mình, hèn hay sang không phải do mình, mà là vạn vật cùng sống, cùng chết, cùng hiền, cùng ngu, cùng sang, cùng hèn cả. Sống mười năm hay trăm năm thì rồi cũng chết, thánh hiền cũng chết, ngu ác cũng chết. Sống là Nghiêu, Thuấn, chết là thịt rã xương mục. Đều là thịt rã xương mục thì ai mà phân biệt được là Nghiêu, Thuấn hay Kiệt, Trụ? Thế thì cứ hưởng đời đi, nghĩ làm quái gì đến chuyện sau khi chết!

7-. Cầm Tử hỏi Dương Chu:

- Nhổ một sợi lông trên mình ông để cứu đời, ông chịu không?

Dương Chu đáp:

       - Đời đâu có thể cứu được bằng một sợi lông?

       - Cho rằng cứu được đi thì ông chịu không?

Dương Chu không đáp.

Cầm Tử bước ra ngoài, kể lại với Mạnh Tôn Dương. Mạnh Tôn Dương bảo:

- Ông không hiểu được ý của Phu Tử, để tôi giảng cho. Nếu để người ta cắt da thịt mà được vạn cân vàng, ông chịu không?

     - Chịu.

     - Để cho người ta bẻ gãy tay chân mà được một nước thì ông chịu không?

Cầm Tử làm thinh.

Một lát sau, Mạnh Tôn Dương bảo:

- Một sợi lông không quan trọng bằng da thịt, da thịt không quan trọng bằng tay chân, điều đó hiển nhiên. Nhưng nhiều lông thì thành da thịt, nhiều da thịt thì thành tay chân; một sợi lông chỉ là một phần vạn của thân thể, nhưng tại sao lại khinh nó?

Cầm Tử đáp:

- Tôi không thể trả lời ông được, nhưng đem lời của ông nói với Lão Đam, Quan Dõan thì hợp với họ, mà tôi đem lời của tôi nói với Đại Vũ, Mặc Địch thì cũng hợp với họ.

Mạnh Tôn Dương quay lại nói qua chuyện khác với môn đệ.

8-. Dương Chu nói:

- Các việc lớn thời thái cổ đã dứt rồi, ai có thể ghi lại được? Hành vi của Tam Hoàng tới nay như còn như mất, hành vi của Ngũ Đế như tỉnh như mộng, hành vi của Tam Vương (vua Vũ nhà Hạ, vua Thang nhà Thương, vua Văn Vương nhà Chu) như ẩn như hiện, một ức việc không biết chắc được một việc. Ngay những việc đương thời ta đây, hoặc được nghe hoặc được thấy mà vạn việc cũng không biết chắc được một việc; những việc trước mắt ta đây, hoặc còn hoặc mất, ngàn việc cũng không biết chắc được một việc.

Từ thời thái cổ tới nay, có biết cơ man nào là năm, mà từ thời vua Phục Hi tới nay, cũng đã trên ba ngàn năm rồi. Hiền ngu, gian ác, thành bại, thị phi, không có gì là không bị tiêu diệt, chỉ sớm hoặc muộn mà thôi. Coi trọng tiếng khen tiếng chê một thời mà làm cho tinh thần hình hài tiều tụy, muốn lưu lại cái danh hão mấy trăm năm sau khi chết, nhưng chết rồi, có cách nào làm cho nắm xương tàn tươi lại, tái sinh mà hưởng lạc được không?


9-. Dương Chu nói:

- Nhà sang, áo đẹp, thức ăn ngon, vợ đẹp, có bốn thứ ấy thì có cầu gì khác nữa? Có bốn thứ đó rồi mà còn cầu thêm nữa là tham lam vô độ, tham lam vô độ là loài mọt của âm dương (trời đất).

Trung với vua không đủ để làm cho vua được yên mà đủ làm nguy cho bản thân mình; giữ nghĩa không đủ để làm lợi cho người mà đủ làm hại cho đời sống của mình. Sự an ổn của người, trên không nhờ đức trung, vậy nên bỏ tiếng trung đi; sự lợi ích của người khác không do ta giữ nghĩa, vậy nên bỏ tiếng nghĩa đi. Vua tôi đều được yên ổn, người và ta đều được lợi đó là đạo của cổ nhân.

Làm điều lợi cho người thì được hậu quả tốt, làm điều oán cho người thì sẽ hại tới thân . Phát ở ta mà ứng ra ngoài, đó là tình đời (lẽ thường). Cho nên người hiền minh thì thận trọng về  hành động của mình.

10-. Người láng giềng của Dương Tử mất cừu, đã sai tất cả người trong nhà đi tìm, lại xin Dương Tử cho trẻ tìm hộ nữa. Dương Chu hỏi:

- Ôi! Mất có một con cừu, sao mà cần nhiều người thế?

Người kia đáp:

- Vì đường có nhiều ngã rẽ

Lại hỏi:

- Tìm được không?

- Không

- Sao lại không tìm được?

Đáp:

- Theo một ngã rẽ lại gặp ngã rẽ khác, không biết theo ngã nào, đành phải về.

Dương Chu rầu rầu nét mặt, một hồi lâu không nói gì cả, suốt ngày hôm đó không cười. Môn đệ lấy làm lạ, đánh bạo hỏi:

- Một con cừu có đáng giá gì đâu, mà con đó lại không phải của thầy, sao thầy lại rầu rĩ tới không nói, không cười như vậy?

Dương Chu không đáp và môn đệ không hiểu ý thầy ra sao

Mạnh Tôn Dương trở ra nói với Tâm Đô Tử:

- Xưa ba anh em nhà nọ đi chơi nước Tề, nước Lỗ. Cả ba cùng học một thầy, đạt được đạo nhân nghĩa rồi về. Người cha hỏi:

- Đạo nhân nghĩa ra sao?

Người con lớn đáp:

- Theo đạo nhân nghĩa thì con phải yêu cái thân con mà coi thường cái danh.

Người con giữa đáp:

- Theo đạo nhân nghĩa thì con phải hủy cái thân con để thành danh.

Người con thứ ba đáp:

- Theo đạo nhân nghĩa thì con phải giữ cho vẹn cả cái thân lẫn cái danh của con.

Ý kiến ba người đó trái ngược nhau mà họ đều học chung một thầy cả, vậy biết ai phải ai trái?

Dương Tử đáp:

Xưa có một người sống ở bờ sông, quen với nước, can đảm bơi lội, chở đò cho người qua sông, kiếm tiền nuôi được trăm miệng ăn. Nhiều người đem lương thực lại xin học, nhưng có tới một nửa chết đuối. Họ học lội chứ không học chết đuối, mà hại như vậy. Theo anh thì ai phải, ai trái?

Tâm Đô Tử làm thinh bước ra. Mạnh Tôn Dương trách:

- Anh hỏi gì mà quanh co vậy? Và thầy trả lời sao mà khó hiểu thế? Tôi hoang mang quá.

Tâm Đô Tử đáp:

- Vì con đường lớn có nhiều ngã rẽ cho nên không tìm được cừu. Vì có nhiều ý kiến, cho nên hại cho người học đạo. Sự học, gốc thì như nhau, là một, mà ngọn thì khác nhau. Cho nên chỉ người nào biết quay về chỗ đồng nhất mới khỏi bị nguy hại. Anh làm môn đệ của thầy từ lâu, tập đạo của thầy mà không hiểu ý thầy, đáng buồn thật.

11-. Dương Chu nói:

Người làm điều thiện không phải để cầu danh mà danh tự nó tới. Danh không hẹn gì với lợi mà lợi theo nó. Lợi không hẹn gì với sự tranh giành mà tranh giành cứ đến với nó. Vì vậy, người quân tử phải thận trọng mà làm đức thiện.

 ***

Trang Tử kể:

1-. Lão Tử bảo:

- Đạo lớn tới nỗi không biết đâu là cùng, mà nhỏ đến nỗi không sót một vật nào. Cho nên vạn vật đều có đủ trong đó. Nó rộng tới nỗi cái gì cũng dung nạp được, sâu tới nỗi không ai dò được. Hình thể, đạo đức, nhân nghĩa chỉ là những nhánh nhỏ của tinh thần, chỉ bậc chí nhân mới cho chúng một định nghĩa được. Chỉ bậc chí nhân mới thấu triệt được thế giới để mà không bị lụy về nó; mọi người đều tranh nhau quyền bính, chí nhân thì không dự vào. Chí nhân giữ kỹ cái Đạo, không vì lợi lộc mà đổi lòng. Biết rõ được bản chất của sự vật, giữ được cái bản nguyên chung, cho nên vượt được trời đất, bỏ lại vạn vật mà tinh thần hoàn toàn tự do. Chí nhân hiểu Đạo hợp nhất với Đạo, gạt nhân nghĩa ra, bỏ lễ nhạc, nên lòng được yên tĩnh.

2-. Đã năm mươi mốt tuổi mà vẫn chưa được nghe về Đạo nên Khổng Tử đi xuống đất Bái ở phương Nam để yết kiến Lão Đam.

Lão Đam bảo:

- Ông lại đấy ư? Tôi nghe nói ông đã là người hiền phương bắc. Ông hiểu Đạo không?

Khổng Tử đáp:

- Tôi chưa hiểu.

- Ông tìm Đạo cách nào.

- Tôi tìm Đạo trong độ số (thuật số trong Kinh Dịch?), năm năm mà không được.

- Rồi làm sao nữa?

- Rồi tôi tìm nó trong âm dương, mười hai năm mà không được. Trời có vận chuyển không? Đất có đứng im không? Mặt trời mặt trăng có tranh chỗ nhau không? Ai làm chủ tể cái đó? Ai duy trì cái đó? Ai vô sự mà đầy cái đó, khiến nó chạy? Hoặc giả có một cái máy bí mật bất đắc dĩ chạy hoài chăng? Hay là vũ trụ tự nhiên vận chuyển mà không tự ngưng được chăng? Ai vô sự mà cao hứng gây ra cái đó? Gió nổi ở phương Bắc, khi thì thổi qua Tây, khi thì thổi qua Đông, có lúc lại xoáy ốc, mà cuốn lên cao. Ai hô hấp mà thành vậy? Ai vô sự mà hướng gió về phía này phía khác và làm nó ngừng? Xin hỏi ông nguyên do ở đâu.

Lão Đam bảo:

- Tự nhiên! Nếu Đạo mà có thể dâng cho người khác được thì ai cũng đem dâng nó lên vua rồi; nếu nó có thể tặng được thì ai cũng tặng nó cho cha mẹ rồi; nếu nó có thể bảo cho người khác hay được thì ai cũng bảo cho anh em rồi; nếu nó có thể cho được thì ai cũng đem nó cho con cháu rồi. Nhưng không được! Nguyên do thế này: trong lòng không có bản chất của Đạo thì Đạo không lưu lại trong đó được; ngoài không phối hợp với đối tượng thì Đạo không vận hành được. Nếu phát động ở trong mà ngoài không tiếp thu được thì thánh đức không hiện (nguyên văn: thánh nhân bất xuất); nếu phát động ở ngoài mà trong lòng không có sẵn bản chất của Đạo thì thánh đức không lưu lại.

Danh vọng là của người khác cho mình, không nên nhận nhiều quá. Nhân và nghĩa là quán trọ của tiên vương, chỉ nên ghé đó một đêm, không nên ở lâu, ở lâu thì bị nhiều điều trách móc.

Bậc chí nhân thời xưa mượn con đường “nhân” mà đi, ghé quán “nghĩa” mà nghỉ (rồi đi tiếp chứ không ở lâu), thảnh thơi tiêu dao, sống đạm bạc và độc lập. Tiêu dao thì vô vi, sống đạm bạc thì dễ được thỏa mãn, độc lập thì không bị tổn thất. Đời xưa cho như vậy là giữ được bản chân.

Ai nhắm việc làm giàu thì không từ bỏ được lợi lộc; ai nhằm sự vinh hiển thì không từ bỏ được cái danh; ai ham quyền thế thì không nhường quyền bính cho người được; nắm giữ nó thì run sợ mà buông ra thì rầu rĩ. Những kẻ đó không có gì để tự răn mà hãm bớt sự thị dục, họ bị trời hành hạ. Oán, ân, lấy, cho, khuyên răn, dạy bảo, sinh, sát, tám cái đó, là khí cụ của chính quyền. Chỉ người nào thuận theo sự biến hóa tự nhiên là dùng được những khí cụ ấy. Cho nên bảo: “Tự sửa mình cho ngay rồi mới cai trị được người”. Trong lòng không theo qui tắc ấy thì thiên cơ không mở ra đâu!

3-. Khổng Tử nói với lão Đam:

Khâu tôi nghiên cứu lục Kinh: Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch, Xuân Thu, tự cho là đã tốn công và hiểu được kỹ. Tôi đã yết kiến bảy mươi hai ông vua, bàn luận về đạo của tiên vương, giảng rõ về chính sách của Chu Công và Thiệu Công (cũng là con của vua Văn Vương), không một ông vua nào dùng lời của tôi cả. Quá lắm! Tại khó thuyết phục bọn họ hay tại khó làm sáng được đạo?

Lão Tử đáp:

- Không gặp được một ông vua nào biết trị nước, là may cho ông đấy. Vì lục kinh chỉ là cái di tích cổ hữu của tiên vương, đâu phải là cái tinh thần tiên vương lưu lại. Những lời họ nói ngày nay cũng là dấu vết thôi. Như giày dẫm lên đất để lại một cái dấu, dấu đó không phải là giày. Loài ngỗng trắng, con trống con mái nhìn nhau trừng trừng, con ngươi không cử động mà tự nhiên sinh sản; con sâu đực kêu lên ở trên, ở dưới con cái hòa theo, mà cũng tự nhiên sinh sản. Hễ có con đực con cái cùng một loài thì sinh sản dễ dàng. Không thể đổi được thiên tính cùng vận mệnh; bốn mùa không thể ngừng lại được, đại đạo không thể bị nghẽn lấp. Đạt được đạo thì làm gì cũng được, để mất nó thì không làm gì được cả.

Khổng Tử nghe rồi ba tháng không ra khỏi cửa (?)!

4-. Thôi Cồ hỏi Lão Đam:

- Không trị thiên hạ thì làm sao cải hóa được lòng người?

Lão Đam đáp:

- Phải cẩn thận, đừng làm dao động lòng người. Lòng người, hễ đè thì nó ép xuống, kích thích thì nó bồng lên. Ép xuống rồi bồng lên hoài thì nó không được thảnh thơi. Nhu thắng được cương. Ai vụ danh thì tổn hại bản tính, lòng có lúc nóng như lửa, có lúc lạnh như đá (dễ rạn vỡ?). Tư tưởng biến đổi rất mau, tới nỗi chỉ trong thời gian cúi đầu và ngửng lên, nó đã đi ra ngoài bốn bể rồi trở về rồi. Khi nghỉ thì nó lặng lẽ như cái vực; khi động thì nó như treo trên trời. Lòng người thật kiêu căng và không gì cưỡng chế được.

Xưa, vua Hoàng Đế là người đầu tiên dùng nhân nghĩa làm dao động lòng người, rồi vua Nghiêu và vua Thuấn mới hy sinh tới nỗi bắp vế tiêu hết thịt, ống chân trụi hết lông, để lo cho hình thể nhân dân được an thích; hai ông ấy làm tiều tụy ngũ tạng để lo việc nhân nghĩa, khô kiệt khí huyết để đặt ra pháp độ mà vẫn không thành công. Rồi vua Nghiêu phải đày Hoan Đâu lên núi Sùng, đánh đuổi rợ Tam Miêu tới Tam Nguy, trục xuất Cung Công tại U Đô, như vậy chẳng phải là thất bại ư?

Tới đời tam Đại (Hạ, Thương, Chu), thiên hạ đại loạn. Kẻ đê hèn thì như Kiệt, Chích, người cao thượng thì như Tăng (Sâm), Sử (Ngự). Nho, Mặc xuất hiện. Kẻ vui thích và kẻ bất bình nghi ngờ lẫn nhau, người ngu và kẻ trí khinh bỉ lẫn nhau, người thiện và kẻ ác chê bai lẫn nhau, người ngay thẳng và kẻ gian dối trách mắng lẫn nhau, mà thiên hạ suy. Khi cái Đức lớn không được mọi người cùng theo thì xã hội tán loạn. Khi thiên hạ thích tri thức thì mọi người kiệt lực vào việc học. Do đó người ta chế tạo ra cái rìu, cái cưa để xẻ, dùng dây và mực để vạch dấu mà đẽo, cái búa, cái dùi để đục, mà thiên hạ rối bời. Lỗi về những kẻ làm dao động lòng người. (Ngày nay có một bộ phận trí thức có lẽ do học và đọc "đủ thứ" nhiều quá nên hóa rồ, quên mất chuyên môn mình, quên mất sự sống mình, quên luôn cả trách nhiệm đối với gia đình, vợ con mình, cứ chăm chăm "chúi mũi" vào chuyện "Ngu Công dời núi", tụ tập nhau lại bù khú rượu thịt không phải để hưởng đời mà là để "tiền hô hậu ủng" rú gào thảm thiết: "Bình thiên hạ!Bình thiên hạ! Bình thiên...". Thật không hiểu nổi! Bó tay!!!)

Từ đó người hiền ẩn cư trên núi cao, trong hang đá, mà những ông vua mười ngàn cỗ xe (vua nước lớn) lo lắng, sợ sệt ngồi trên miếu đường. Ngày nay, những kẻ bị tử hình nằm chồng chất lên nhau, đâu đâu cũng thấy những kẻ bị tra tấn, xử tội và Nho, Mặc mới từ trong cảnh cùm xích đó, gắng sức cứu đời. Hỡi ơi! Sao mà họ không thấy xấu hổ, không biết nhục nhỉ! Thì ra thành trì chỉ để tạo ra những gông cùm và làm sao biết được Tăng Sâm, Sử Ngư chẳng tiếp tay cho tên Kiệt và tên Chính?

Cho nên bảo: “Tuyệt thánh khí trí rồi thiên hạ sẽ thái bình”. (Trí thức nói chung là nguyên khí quốc gia, nhưng nếu không biết kìm chế, coi chừng lại thành xú khí làm nhục quốc thể).
 
5-. Tử Cống (môn đệ của Khổng Tử) sau khi xuống nước Sở ở phương Nam, trở về Tấn, đi qua đất Hán Âm, thấy một ông lão đang làm vườn. Ông ấy xuống một đường hầm, vô một cái giếng, rồi xách lên một vò nước để tưới rau. Cực nhọc mà kết quả chẳng được bao. Tử Cống nói với ông lão:

- Có một cái máy một ngày có thể tưới được một trăm luống rau, cụ muốn dùng không?

Ông lão ngẩng lên nhìn Tử Cống hỏi:

- Cái máy ấy ra sao?

- Máy ấy bằng gỗ đục, phía sau nặng, phía trước nhẹ, đưa (vò) nước lên như thể kéo bằng tay vậy, mau như nước sôi tràn nồi. Tên nó là cái “cần vọt” (cần kéo).

Ông lão làm vườn nghe xong, nổi giận, đỏ mặt lên, nén cười nhẹ, bảo:

- Lão nghe thầy lão nói rằng hễ dùng cơ giới thì tất có cơ sự (việc máy móc), có cơ sự thì tất có cơ tâm (lòng máy móc) có cơ tâm thì không còn thiên tính trong trắng nữa mà tâm thần không yên ổn, tâm thần không yên ổn thì Đạo sẽ lánh xa, không che chở mình nữa. Lão không phải không biết cái lợi của cơ giới, nhưng cho dùng nó là nhục, thế thôi.

Tử Cống xấu hổ, cúi đầu không đáp. Một lát sau, ông lão làm vườn mới hỏi:

- Chú là ai?

- Thưa, một đệ tử của Khổng Khâu.

- Chú phải thuộc hạng người muốn học cho rộng để đòi làm ông thánh, hô hào để thiên hạ theo mình, gảy đàn, ca hát than thở để chuốc danh đấy không? Chú nên quên thần khí, bỏ hình hài của chú đi thì may ra mới tới gần được Đạo. Thân chú, chú còn không “trị” được thì làm sao trị được thiên hạ? Thôi đi đi, để lão làm việc. Tử Cống xấu hổ, tím mặt lại, sợ sệt. Không trấn tĩnh lại được ngay. Đi ba chục dặm rồi tâm thần mới định.

Bọn đệ tử hỏi Tử Cống:

- Người lúc nãy là ai vậy? Tại sao thầy biến sắc tới suốt ngày như vậy?

Tử Cống đáp:

- Trước kia ta cho rằng trong thiên hạ chỉ có mỗi một người (là Khổng Tử), không ngờ lại còn có ông lão này. Ta nghe thầy ta dạy: “Hành động thì phải hợp thời cơ, cộng nghiệp thì phải tính sao cho thành công. Dùng sức ít mà kết quả nhiều, đó là đạo của thánh nhân”. Lời ông lão hôm nay khác hẳn: hễ giữ được Đạo thì cái Đức được toàn vẹn, Đức toàn vẹn thì hình thể được toàn vẹn, hình thể toàn vẹn thì tinh thần được toàn vẹn; Giữ cho tinh thần toàn vẹn là đạo của thánh nhân; thánh nhân sống tạm ở đời này cũng như mọi người, không biết (chết rồi) về đâu. Thật là hoàn toàn trong sạch. Người nào chỉ nghĩ tới cái lợi mà dùng cơ giới là không giữ được cái tâm như ông lão ấy. Ông ấy chỉ theo ý chí của mình, hành động theo lòng mình. Dù được cả thiên hạ khen và theo lời mình, ông ấy cũng thản nhiên, dù bị cả thiên hạ chê là lời ông ấy không theo được, ông ấy cũng không buồn. Khen hay chê cũng chẳng làm ông ấy thay đổi gì cả, người như vậy là toàn đức. Ta chỉ là hạng người dễ bị ảnh hưởng của người khác như làn sóng dưới gió.

Về tới Lỗ, Tử Cống kể lại chuyện ấy với Khổng Tử. Khổng Tử bảo: “Người đó hiểu lầm đạo thuật của thời nguyên thủy hỗn mang. Người đó biết một mà không biết hai, biết trị nội tâm mà không biết trị ngoại vật. Giữ cái tâm sáng suốt, chất phác, vô vi để trở về với tự nhiên, giữ được bản tính và tinh thần, ngao du trong cõi thế tục, cái đó có đáng gì cho anh ngạc nhiên? Đạo thuật của thời nguyên thủy hỗn mang, có đáng gì cho thầy trò mình biết?”.

6-. Cực Thanh hỏi Vô Cùng:

- Anh biết Đạo không?

Vô Cùng đáp:

- Không.

Cực Thanh hỏi Vô Vi:

- Anh biết Đạo không?

- Biết.

- Anh biết Đạo, vậy có thể nói được nó ra sao không?

- Được.

- Vậy nó ra sao?

- Theo tôi, nó có thể quí hay tiện, tụ hay tán. Đó, nó như vậy.

Cực Thanh kể lại những lời của Vô Cùng và Vô Vi cho Vô Thủy nghe và hỏi:

- Vô Cùng không biết Đạo, mà Vô Vi biết. Như vậy ai phải ai trái?

Vô Thủy đáp:

- Người nào không biết mới là sâu sắc, người nào biết thì nông cạn. Không biết là cảm được cái bề trong, biết chỉ là thấy bề ngoài.

Cực Thanh gật đầu, than:

- Vậy không biết mới là biết, mà biết lại là không biết. Ai biết được cái biết mà là không biết?

Vô Thủy bảo:

- Đạo không thể nghe được; cái gì nghe được thì không phải là Đạo. Đạo không thể thấy được; cái gì thấy được thì không phải là Đạo. Đạo không thể đem ra giảng được, cái gì giảng được thì không phải là Đạo. Ai biết được rằng cái gì sinh ra hình thể thì không có hình thể. Đạo, không thể dùng tên mà gọi được.

Vô Thủy nói tiếp:

- Có người hỏi về Đạo mà mình trả lời tức là không biết Đạo. Nói cái việc hỏi về Đạo đủ tỏ rằng chưa nghe gì về Đạo. Đạo thì không thể đem ra hỏi được, mà hỏi thì không trả lời được. Đã không thể hỏi được mà còn hỏi thì câu hỏi đó rỗng không, đã không đáp được mà còn đáp thì lời đáp đó vô nghĩa. Dùng lời vô nghĩa mà đáp một câu hỏi rỗng không, như vậy là ngoài thì không quan sát Vũ Trụ, trong thì không biết nguồn gốc, tất không vượt được núi Côn Lôn, mà ngao du ở cõi Thái Hư. (Côn Lôn là dãy núi lớn nhất ở phía tây Trung Hoa. Ở đây chỉ cảnh giới cực cao xa. Cõi Thái Hư đây tức là cõi “vô hà hữu chi lương” chỗ hư vô tịch mịch).

7-. Ánh Sáng Rực Rỡ hỏi Không Có:

- Thấy là có hay không có?

Hỏi mà không được đáp. Ánh Sáng Rực Rỡ bèn chăm chú nhìn trang mạo của Không Có, chỉ thấy tối tăm và hư không. Suốt ngày nhìn Không Có mà không thấy gì cả, nghe mà không nghe gì cả, sờ mó mà không nắm được gì cả. Ánh Sáng Rực Rỡ thán phục:

- Thật là cao xa! Ai mà đạt được. Ta có thể hiểu được sự hư không, nhưng không thể cho cái hư không là không có, đến như không có mà là có thì làm sao đạt được cảnh giới ấy.


8-. Khổng Tử là bạn của Liễu Hạ Quí. Liễu Hạ Quí, tức Liễu Hạ Huệ, họ Triển, tên Cầm, nhà ở dưới gốc cây liễu, nên gọi là Liễu Hạ, nổi tiếng là trong sạch; có người em tên là Đạo Chích (là tướng cướp tên Chích). Đạo Chích cầm đầu chín ngàn bộ hạ hoành hành trong thiên hạ, xâm đoạt các nước chư hầu, đào tường khoét vách, lùa ngựa bò, bắt cóc vợ và con gái người ta, tham lợi tới quên cả thân thích, không đoái hoài tới cha mẹ anh em, không cúng giỗ tổ tiên. Họ qua nơi nào, nếu là nước lớn thì cố giữ thành, nước nhỏ thì nấp sau lưng, dân tình khốn khổ.

Liễu Hạ Quí bảo Khổng Tử:

- Làm cha thì phải răn đe con, làm anh thì phải dạy bảo em. Nhưng nếu con, em không chịu nghe lời cha, anh thì dù có tài biện thuyết như ông, phỏng làm được gì không? Mà thằng Chích lòng sôi như suối nóng, ý chí như bão táp; nó mạnh đủ để đương đầu với mọi kẻ thù, bẻm mép đủ để che giấu, tô điểm những tật của nó, hễ thuận ý nó thì nó thích, trái ý nó thì nó giận, mắng chửi liền. Ông đừng nên đi!

Khổng Tử không nghe, cứ đi. Nhan Hồi đánh xe, ngồi bên trái, Tử Công ngồi bên phải, thấy Đạo Chích đương nghỉ ngơi với bộ hạ ở phía nam núi Thái Sơn. Họ băm gan người làm món ăn bữa chiều. Khổng Tử xuống xe, tiến lại gần người canh gác, nói:

- Tôi là Khổng Khâu nước Lỗ, nghe tiếng tướng quân là người nghĩa khí cao, muốn xin yết kiến.

Nói rồi ông vái hai vái.

Người đó vào thông báo, Đạo Chích nghe xong, nổi giận tới nỗi mắt sáng như ngôi sao (nảy lửa), tóc dựng ngược muốn hất cái mũ lên. Hắn nói:

- Tên Khổng Khâu đó, phải là kẻ xảo trá ở nước Lỗ đấy không? Ra bảo nó như vầy cho ta: “Mày là tên bày đặt ra lời này lẽ nọ rồi nói thác ra của vua Văn vua Vũ, mày đội cái mũ trang sức lòe loẹt, đeo cái dây lưng bằng da bò. Mày ba hoa nói bậy, không cày mà ăn, không dệt mà mặc! Mày khua môi múa mỏ, bày đặt ra điều thị phi để mê hoặc bọn vua chúa, khiến kẻ sĩ trong thiên hạ không trở về bản tính được; mượn cớ trọng hiếu đễ mà thực là chỉ cầu được phong hầu mà hưởng phú quí. Tội của mày nặng lắm. Cút ngay đi, nếu không tao bằm gan mày để ăn bữa trưa!”.

Nhưng Khổng Tử vẫn xin vô thông báo lần nữa, bảo:

- Tôi may mắn được quen ông Liễu Hạ Quí, xin được vô bái kiến dưới trướng.

Người canh gác lại vào thông báo lần nữa. Đạo Chích nói:

- Cho nó vô!

Khổng Tử vội vàng tiến vô, không dám ngồi vào chiếu, lùi lại, vái Chích hai vái. Chích nổi giận đùng đùng, duỗi hai chân, đặt tay lên chuôi kiếm, ngó Khổng Tử trừng trừng, giọng dữ như con cọp cái đương cho con bú mà bị quấy phá. Hắn bảo:

- Khâu, lại đây! Mày nói mà thuận ý tao thì được sống, nếu trái thì sẽ mất mạng đấy.

Khổng Tử bảo:

- Khâu tôi nghe nói trong thiên hạ có ba đức quí: thân thể cao lớn, dung mạo đẹp đẽ vô cùng, bất luận già trẻ, sang hèn trông thấy đều thích, đó là đức quí thứ nhất; trí tuệ bao quát trời đất, biên biệt được mọi vật, đó là đức quí thứ nhì; dũng mãnh quả cảm, qui tụ được nhiều binh lính mà thống lĩnh họ, đó là đức thứ ba, thấp hơn cả. Ai mà có được một trong ba đức đó thì đáng làm vua trong thiên hạ. Nay tướng quân có đủ cả: cao tám thước hai (một thước thời đó bằng khoảng một gang tay), diện mục đều sáng, môi đỏ như son, răng trắng như vỏ sò nước Tề (nước Tề có biển), tiếng vang như chuông. Vậy mà người ta gọi tướng quân là “tướng cướp tên Chích”, tôi lấy làm xấu hổ cho tướng quân, lẽ nào lại chịu như vậy. Nếu tướng quân chịu nghe lời tôi thì tôi sẽ vì tướng quân đi sứ Ngô, Việt ở phương Nam; Tề, Lỗ ở phương Bắc; Tống, Vệ ở phương Đông; Tấn, Sở ở phương Tây. Tôi sẽ thuyết phục người ta xây một cái thành lớn mấy trăm dặm, lập một ấp lớn mấy trăm ngàn nhà, tôn tướng quân làm vua chư hầu, mà mở một cuộc đời mới từ nay: bãi binh, cho lính về, tập hợp anh em, nuôi nấng họ và cúng giỗ tổ tiên. Đó là hành vi của bậc thánh nhân và kẻ sĩ có tài, thiên hạ chỉ mong được như vậy.

Chích vẫn chưa nguôi giận, đáp:

- Khâu, lại đây! Kẻ nào bị thuyết phục vì lợi, hoặc nghe lời khuyên mà sửa tính, kẻ đó chỉ là hạng ngu xuẩn, tầm thường. Nay tao cao lớn, dung mạo đẹp đẽ, ai trông thấy cũng thích, đó là cái đức cha mẹ tao di truyền lại, chẳng đợi mày khen, tao cũng biết. Mà tao nghe nói kẻ nào thích khen trước mặt người khác thì sau lưng sẽ nói xấu người ta. Mày hứa sẽ cho tao một thành lớn với nhiều nhiều dân, là muốn dùng lợi mà dụ dỗ tao, coi tao như hạng tầm thường. Nếu được như thế đi nữa thì phỏng tao giữ được bao lâu? Thành dù lớn tới mấy cũng không bằng cả thiên hạ được. Nghiêu, Thuấn làm chủ thiên hạ đấy mà con cháu không có một miếng đất cắm dùi; Thang và Vũ làm thiên tử đấy mà đời sau tuyệt diệt; như vậy chẳng do nắm được cái lợi lớn đấy ư?

Vả lại tao nghe rằng đời xưa cầm thú nhiều mà người ít, cho nên dân mới phải làm ổ để ở mà tránh chúng; ban ngày lượm hạt dẻ, trái lật, ban đêm ngủ ở trên cây, cho nên mới gọi là “thời ở trong ổ” (Sáo thị chi dân).

Đời xưa, con người không có quần áo, mùa hè chất chứa cành cây để mùa đông đốt mà sưởi, cho nên gọi là “thời biết cách sống” (Tri sinh chi dân). Thời Thần Nông, người ta ngủ ngon, sáng dậy thư thái. Người ta chỉ biết có mẹ mà không biết có cha (thời mẫu hệ!), sống chung với hươu nai, cày ruộng mà ăn, dệt vải mà mặc, không có ý hại nhau. Đó là thời Đức tuyệt cao (thời Thế giới đại đồng?).

Nhưng rồi Hoàng Đế kém Đức, giao chiến với Si Vưu ở cánh đồng Trác Lộc, máu chảy tới trăm dặm. Rồi Nghiêu, Thuấn cầm quyền, đặt ra quan chức; Thang đuổi vua đi, Võ Vương giết Trụ. Từ đó về sau, kẻ mạnh ức hiếp kẻ yếu, đa số đàn áp thiểu số (thời bắt đầu có sự phân hóa xã hội, phân chia tầng lớp giàu-nghèo, thống trị-bị trị, đã có khái niệm quyền lực, tư hữu?). Từ Thang, Võ tới nay, chỉ toàn là bọn gây loạn thôi. Mà bây giờ mày muốn theo đạo vua Văn vua Võ, nắm ngôn luận trong thiên hạ để dạy đời sau. Mày bận cái áo rộng tay (áo của nho sĩ-hàng ngũ trí thức đương thời), đeo cái đai hẹp kia, dùng xảo ngôn và hành vi giả dối để mê hoặc bọn vua chúa trong thiên hạ, mà mong được phú quí. Đạo tặc bậc nhất là mày đấy. Tại sao thiên hạ không gọi mày là thằng tướng cướp Khâu mà lại gọi tao là thằng tướng cướp Chích?

Mày dùng lời ngọt ngào dụ dỗ Tử Lộ theo mày; nó bỏ cái mũ cao, cây kiếm dài đi, theo học mày, và thiên hạ đều khen Khổng Khâu biết ngăn bạo hành, cấm điều trái. Nhưng rốt cuộc, Tử Lộ muốn giết vua nước Vệ mà thất bại, bị vua Vệ băm thây làm mắm ở cửa Đông Kinh Thành; vậy là giáo dục của mày lầm lẫn rồi.

Mày tự cho là bậc thiên tài, thánh nhân ư? Mày bị đuổi hai lần ở Lỗ, bị trục xuất khỏi Vệ, bị khốn đốn ở Tề, bị vây ở khoảng giữa Trần và Thái, khắp thiên hạ không còn chỗ nào để dung thân. Mày dạy Tử Lộ mà khiến thây nó bị băm ra làm mắm. Như vậy là cái Đạo của mày không ích gì cho mày và cho người, có đáng cho ai nghe không?

Trên đời không ai được tôn sùng bằng Hoàng Đế, mà đức của Hoàng Đế cũng không hoàn toàn, gây chiến ở đồng Trác Lộc, máu chảy trăm dặm. Nghiêu làm vua thì bất từ, Thuấn làm con thì bất hiếu, Vũ bán thân bất toại; Thang đuổi vua Kiệt đi, Võ Vương giết vua Trụ, Văn Vương bị giam ở ngục Dữu Lí (Nghiêu mưu giết con trưởng, Thuấn cưới vợ không xin phép cha mẹ, Vũ lo trị thủy dầm mưa dãi nắng mà sinh bệnh, Văn Vương bị Trụ giam bảy năm). Sáu ông ấy được thiên hạ đề cao đấy. Nhưng xét cho kỹ, họ đều bị cái lợi mê hoặc mà mất bản chân, khiến họ làm ngược lại hẳn bản tính của họ, hành vi đó của họ thật đáng xấu hổ.

Hạng người mà thiên hạ khen là hiền thì có Bá Di, Thúc Tề. Hai ông ấy từ chối ngôi vua nước Cô Trúc để rồi chết đói trên núi Thú Dương, thịt xương không ai chôn cho. Bảo Tiêu tô điểm đức hạnh mà chê bai người đời, sau phải ôm cây mà chết (Ông là ẩn sĩ đời Chu, vô rừng ở, lượm trái cây mà ăn. Tử Cống nói khích: “Ông chê nhà Chu mà ở trên đất của Chu, ăn trái cây của Chu. Như vậy có phải không?”. Bảo Tiêu bèn ôm cây chịu chết khô.). Thân Đồ Địch can vua, vua không nghe, rồi ôm đá gieo mình xuống sông làm mồi cho cá và ba ba. Giới Tử Thôi rất trung quân, tự cắt đùi để nuôi Tấn Văn Công trong khi bỏ nước mà đi, sau Tấn Văn Công quên Giới Tử Thôi, Tử Thôi giận, bỏ vô rừng, ôm cây chịu chết thiêu (Giới Tử Thôi, cũng gọi là Giới Chi Thôi, trốn theo thái tử Trùng Nhĩ, cắt thịt đùi nuôi Trùng Nhĩ, sau thành Tấn Văn Công. Tấn Văn Công thưởng các người tòng vong mà quên ông, ông cõng mẹ vào núi ở. Văn Công ân hận mời Thôi ra, Thôi không ra, Văn Công đốt núi để ông phải ra, nhưng ông ở lì trong núi mà chịu chết thiêu. Hôm đó là ngày mồng 3 tháng 3. Từ đó, vua ra lệnh ngày ấy cấm lửa, phải ăn nguội để kỷ niệm Thôi. Tết đó là tết Hàn thực). Vĩ Sinh hẹn với một người con gái ở dưới cầu, nàng không đến, nước sông dâng lên, Vĩ Sinh không về, ôm cột cầu, mà chịu chết đuối. Sáu người đó chết không khác gì con chó bị giết, con heo bị nhận nước, tên hành khất cầm cái bầu đi xin ăn. Họ đều ham danh mà khinh chết, không nhớ đến cái điều căn bản là di dưỡng tuổi thọ.

Hạng người mà thiên hạ khen là trung thần, không ai bằng Tỉ Can và Ngũ Tử Tư, mà Tử Tư bị ném thây xuống sông, Tỉ Can bị moi tim. Hai ông ấy được gọi là trung thần đấy, rốt cuộc bị thiên hạ cười chê, như vậy thì có gì đâu mà đáng khen.

Khâu, mày muốn thuyết tao, đem chuyện quỉ thần ra nói thì tao không biết, chứ nói chuyện người thì bất quá chỉ như vậy, tao biết cả rồi. Tao nói về tình người cho mày nghe này: mắt ưa sắc đẹp, tai ưa tiếng êm đềm, miệng muốn nếm vị ngọt, chí khí muốn được thỏa mãn. Người ta thượng thọ thì được trăm tuổi, trung thọ được tám mươi, hạ thọ được sáu mươi, mà trừ những lúc đau yếu, những lúc có tang, buồn rầu lo lắng ra, thì mỗi tháng chỉ còn bốn năm ngày mở miệng ra cười được thôi. Trời với đất vô cùng, kiếp người hữu hạn, đem cái thời gian hữu hạn gửi vào trong cái khoảng vô cùng thì không khác gì bóng câu qua cửa. Kẻ nào không biết thỏa mãn ý chí, giữ gìn thọ mệnh thì không hiểu gì về Đạo cả. Những lời nói của mày, Khâu, tao không chấp nhận được. Dông đi, về ngay đi, đừng nói thêm nữa! Cái Đạo của mày điên rồ vô nghĩa, xảo trá, hư ngụy, không làm cho người ta bảo toàn được chân tính, không đáng đem ra bàn.

Khổng Tử vái hai vái rồi vội vàng chạy ra cửa, lên xe ba lần mới nắm được dây cương vì hoảng hốt, mắt không thấy rõ, mặt tái mét như tro tàn, ngồi dựa vào cái đòn ở trước xe, đầu cúi xuống, thở không ra hơi.

Về tới phía ngoài cửa Đông kinh đô nước Lỗ thì gặp Liễu Hạ Quí. Liễu Hạ Quí hỏi:

- Mấy bữa rày không thấy mặt ông đâu. Mà sao xe và ngựa có vẻ như đi xa về. Phải chăng ông đi thăm thằng Chích?

Khổng Tử ngẩng mặt lên trời thở dài:

- Phải!

- Thế nó có nói gì trái ý như tôi đã đoán không?

- Có. Khâu tôi như con người vô bệnh mà để cho người ta châm cứu vậy. Tôi đã chạy lại xoa đầu, vuốt râu cọp, suýt nữa bị cọp nhai.

(Khi Trang Tử kể câu chuyện này xong, chúng ta có nêu thắc mắc: theo Tư Mã Thiên thì Chích sống ở thời Hoàng Đế, cách thời Khổng Tử xa lắc… Trang Tử cười hề hề mà rằng:

- Cả ba người: Khổng Tử, Liễu Hạ Quí và Đạo Chích đều khác thời nhau. Chuyện ta kể chỉ là ngụ ngôn để tỏ cái lòng của ta, thế thôi!).
 

(Hết chương VIII)

 

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

TT&HĐ I - 9/d

MUÔN MẶT ĐỜI THƯỜNG III/104

MỌC CÁNH