TT&HĐ 10
THỰC TẠI VÀ HOANG ĐƯỜNG
ĐẠI CHÚNG
____________________________
PHẦN I: CÓ MỘT CÁI GÌ ĐÓ
“Tại sao có một cái gì đó chứ không phải là không có gì?”
CHƯƠNG VIII: HOÀNG LÃO
Không biết mà nói là ngu, biết mà không nói là hiểm.
CHU-HI
Ở đời cái gì thung dung thì còn, cấp bách quá thì mất. Việc mà thung dung thì có ý vị. Người mà thung dung thì sống lâu.Làm việc nghĩa chớ kể thiệt hại. Luận anh hùng chớ kể hơn thua.Tâm niệm trầm tĩnh thì lẽ gì nghĩ chẳng tới. Chí khí cao rộng thì việc gì làm chẳng xong.Tầm thuật quý nhất là sáng suốt. Tướng mạo quý nhất là chính đại. Ngôn ngữ quý nhất là giản dị, Chân thật.Khí kiêng nhất là hung hăng. Tâm kiêng nhất là hẹp hòi. Tài kiêng nhất là bộc lộ.Tâm
phải rộng để dung nạp người trong thiên hạ. Tâm phải công bằng để làm
việc trong thiên hạ.Tâm phải trầm tĩnh để xét lý trong thiên hạ. Tâm
phải vững vàng để chống lại những biến cố trong thiên hạ.Việc
sắp xảy ra mà ngăn được, việc đang xảy ra mà cứu được, đó là quyền
biến. Chưa có việc mà biết việc sắp đến, mới có việc mà biết được việc
sau, có tài năng. Định việc mà biết việc xảy ra thế này, thế nọ, như vậy
là biết lo xa. Người như thế là người có kiến thức rộng rãi.
LÃ-TƯ-PHÚC Khiến người ta nể lời, Không bằng khiến người ta tin lời. Khiến người ta tin lời, Không bằng khiến người ta vui vẻ nhận lời. Đem họa phước mà răn dọa là khiến người ta sợ. Đem lý lẽ mà răn dụ là khiến người ta tin Dùng tâm lý mà giác ngộ là khiến người ta vui lòng mà nghe theo. VƯƠNG DƯƠNG MINHBiết đủ trong cái đủ của mình thì luôn luôn đủ.Biết người là trí, biết mình là sángKhông có lỗi nào to bằng ham muốn; Không có tai hoạ nào to bằng không biết đủ.Lo thắng người thì loạn; Lo thắng mình thì bình.Lời thành thật thì không đẹp; Lời đẹp thì không thành thật. LỄ KÝ“Lời
của ta rất dễ hiểu, rất dễ làm, mà thiên hạ không ai hiểu được, làm
được. Lời của ta có tôn chỉ, việc của ta có căn bản. Vì thiên hạ không
hiểu ngôn luận của ta nên không biết ta. Người hiểu ta rất ít, người
theo ta được là rất hiếm. Cho nên thánh nhân mặc áo vải thô mà ôm ngọc
quý trong lòng.”Lão Tử
Ở đầu thời nhà
Hán, tư tưởng triết học của phái Đạo Gia được gọi một cách phổ thông là Hoàng Lão;
chỉ đến cuối nhà Hán mới đổi tên gọi là Lão Trang.
Trang ở đây là
Trang Chu, thường gọi là Trang Tử, một hiền triết nổi tiếng của Đạo Gia. Ông là
người nước Tống, huyện Mông, ở khoảng giữa hai tỉnh Sơn Đông và Hồ Nam ngày
nay; sinh và mất ở khoảng 369 - 286 TCN. Thời sau đánh giá ông là người phát
triển thêm, đưa học thuyết triết học của Lão Tử lên tầm hoàn chỉnh của nó. Quan
niệm sống của ông được Tư Mã Thiên, ở mục Lão Trang thân hàn liệt truyện trong
“Sử ký” lột tả rất rõ ràng qua lời kể một sự việc:
“Vua Uy Vương nước
Sở nghe nói Trang Chu là người hiền trong thiên hạ, sai sứ đem hậu lễ đón, muốn
mời về làm Tướng quốc. Trang Chu mỉm cười bảo với sứ giả rằng: Lợi ngàn vàng đáng
trọng thật, địa vị khanh tướng đáng quí thật, ngươi không thấy con bò làm đồ lễ
hy sinh ngày tế đình sao? Được nuôi nấng bao nhiêu năm, rồi được trang sức văn
vẻ để đưa vào Thái miếu. Lúc ấy dù có muốn làm con lợn mồ côi há còn được nữa
không? Ngươi bước đi ngay, đừng đến làm nhục ta. Thà ta chơi ở trong bùn lầy dơ
bẩn còn thấy vui hơn là để cho kẻ có nước trói buộc ta…”
Khi trước đây
chúng ta nói rằng cuốn “Quỉ Cốc tử” viết được như vậy là nhờ nó dựa trên một nền
tảng triết thuyết thâm hậu nào đó. Bây giờ, sau một hồi lang thang va vật trong
thời Xuân Thu - Chiến Quốc, chúng ta đã biết cái triết thuyết cao vời ấy chính
là Hoàng Lão.
Học thuyết triết
học Lão Trang, dựa chủ yếu trên hai trước tác “Đạo đức Kinh” và “Nam Hoa Kinh”.
Nhưng để hiểu được trọn vẹn hơn hệ thống tư tưởng triết học ấy, có lẽ chúng ta
nên chú ý đến cả “Xung hư chân kinh” và “Quỉ Cốc tử” nữa.
Chúng
ta đã mạnh
miệng bênh vực, ca ngợi, tâng bốc cái hệ thống tư tưởng triết học ấy lên
tận mây
xanh. Tại sao vậy? Tại vì nó được sinh ra từ tự nhiên, từ chính bản thân
cuộc sống,
là học thuyết được phát triển có kế thừa từ những kết tinh của hàng ngàn đời chiêm nghiệm thực tiễn của người Phương Đông cổ đại nói chung, chứ không riêng gì của người Trung Hoa
cổ đại nói riêng (!?), là
sự chắt lọc đúc kết của muôn vàn góc độ quan sát và suy tư xuất sắc nhất
về thiên nhiên.
Từ đó mà học thuyết đã đạt đến một nhận định đặc biệt thiên tài: đời
sống xã hội
có nguồn gốc từ Tự Nhiên, là bộ phận phụ thuộc không thể tách rời của Tự
Nhiên, có mối
quan hệ tương tác qua lại với Tự Nhiên và do đó, vận động xã hội phải
tuân theo những quy luật
mà nếu xét đến cùng thì cũng chính là những quy luật Tự Nhiên, hoặc xuất
phát từ
những nguyên lý nền tảng của Tự Nhiên.
Cũng
vì những lẽ đó mà quan niệm
về nhân
sinh của học thuyết mang tính giản dị, mộc mạc mà hợp lý cao độ; mang
hơi thở của
đại chúng, không cố tình, gượng ép mà trở thành như tâm sự của đại
chúng, nguyện
vọng của đại chúng và như thế nó cũng mang tính nhân đạo sâu sắc và tính
chính
nghĩa cao cả. Một con người đại chúng, khi được sinh ra, trước hết và
trên hết
là để làm người, để sống và chỉ mong cầu một đời được ấm no, được hưởng
hạnh phúc trong an bình chứ không
phải để làm anh hùng, quân tử hay vua chúa gì. Thuở đầu tiên, khi mới
thoát thai khỏi loài vật, cũng như con vật, con người tìm ăn,tìm mặc
trong thiên nhiên hoang dã, no ấm rồi thì thôi, không ham hố tích lũy
làm gì. Mối quan hệ tương hỗ giữa
xã hội
con người với giới tự nhiên làm biến đổi điều kiện sống ở từng kỳ thuận
lợi hay
bất lợi (do thiên tai, phát triển dân số…), làm nảy sinh ra ở con người
một thứ gọi là tình cảm (cảm giác sâu sắc về tinh thần làm nảy sinh
những cặp khái niệm tương phản như yêu-ghét, vui-buồn...?), làm xuất
sinh những ý niệm nhận thức như: sự tư hữu,
sự phân định gọi là giàu-nghèo, rồi mạnh-yếu, có quyền lực-không có
quyền lực,..., từ đó mà xuất hiện khái niệm danh
lợi. Chính danh lợi
đã làm biến dạng sự mong cầu ban đầu vốn chừng mực, giản dị, trong sáng
của con người thành đục ngầu thèm
khát vị kỷ, hắc ám mê muội dục vọng!
Không
cương cứng
như thuyết Khổng, không thái quá như thuyết Mặc, thuyết Lão - Trang có
cái vẻ
nhu mì nhưng lại hàm chứa được cái siêu đẳng, vĩ đại. Rất nhiều khả năng nhiều ý
tưởng
triết học cốt lõi về Tự Nhiên của Phật giáo Trung Hoa sau này được rút
tỉa ra từ
học thuyết Lão – Trang. Thậm chí không ít nhà nghiên cứu Trung Hoa thời
trung đại về triết học sử còn suy đoán rằng hệ thống tư tưởng của Phật
Giáo nguyên thủy (thời Đức Phật Thích Ca còn tại thế) có xuất pháp điểm
từ Đạo Gia hoặc là kết quả ban đầu của quá trình tiến triển phân nhánh,
mà nhánh thứ hai chính là Đạo Giáo (một đàng tu thân thành Phật, một đàng
tu thân thành Tiên, và đều lấy "Thiền" làm phương thức tu tập cơ bản).
Suy đoán đó không phải là không có lý!!!
Bây giờ chúng
ta sẽ cố gắng tìm hiểu kỹ hơn về học thuyết Lão - Trang, được đến đâu hay đến đấy.
***
Nếu so sánh về
thời gian tính đang được thừa nhận trong lịch sử triết học thế giới thì phải cho rằng triết học cổ đại
Ấn Độ là "người" đầu tiên nhận chân được Tự Nhiên Tồn Tại, dù còn ở dạng suy lý ngây thơ.
Con đường nhận
thức của loài người là từ ngây ngô vô thần đến hữu thần, từ đa thần đến nhất thần
và cuối cùng, trước sau gì cũng đạt đến quan niệm vô thần (đã được tri giác đúng!).
Triết học Ấn Độ cũng không đi chệch con đường ấy. Ngay từ buổi bình minh của mình,
triết học Ấn Độ, trong quá trình nhận thức, luôn trằn trọc với những câu hỏi “Tại
sao?” về thế giới các sự vật hiện tượng đã quan sát thấy.
Chúng ta có thể
tạm gọi thời gian từ 1500 - 1000 năm TCN là thời kỳ đầu Vêđa và cũng là thời kỳ
tiền triết học của Triết Học Ấn Độ. Thời kỳ này là thời kỳ lưu truyền trong xã
hội các thánh ca (Kinh) Vêđa mà theo Paul Oltramare thì:
“Những thánh ca
Vêđa rõ rệt về vấn đề thần linh, lại hoàn toàn không biết đến vấn đề liên quan đến
nhân sinh. Về vận mệnh của linh hồn, chúng không có một lời đề cập. Trái lại,
chúng chú ý nhiều đến vấn đề nguồn gốc nguyên lai. Những câu hỏi “tại sao” kế
tiếp nhau mà đặt ra. Trong các cuộc hội họp, trong khi kẻ đọc, hay hát sửa soạn
cuộc lễ, còn có người Bà La Môn ở chỗ này, chỗ kia thảo luận về nguyên lai của
vạn vật”.
Đúng vậy, trong
kinh Rig Vêđa, chúng ta đọc được nhiều đoạn dồn dập câu hỏi, hỏi rồi tự trả lời,
rất hay. Chẳng hạn như bài ca ngợi Vicvakarman - thần kiến thiết:
“Lúc khai thiên
lập địa
Ngài ở đâu,
Ngài
Vicvakarman vĩ đại?
Người chứng kiến
sự bất tử của muôn vật
Đã thúc đẩy cuộc
sáng tạo như thế nào?
Với cái gì?
Làm thế nào mà
Ngài đã phô diễn vòm trời kia?
Và mặt đất ở dưới
này.
Tai và mắt Ngài
đâu đâu cũng có!
Diện mục Ngài ở
khắp mọi nơi!
Ngài ở trong tất
cả bàn tay
Tất cả bàn chân
Thượng đế duy
nhất vận động cánh và tay
Và đây Ngài tạo
ra đất và trời
Với rừng nào?
Với gỗ nào?
Ngài đã dùng làm
chất liệu để tạo thành trời đất?..."
Hay ở chỗ khác:
“Ai biết, ai có
thể nói cho ta ở đây
Từ đâu mà sinh
ra có tạo vật
Chư vị Thần linh
không thể nói được
Vì các Ngài ra đời
sau cuộc sinh thành tạo thiên lập địa.
Vậy thì ai biết
từ đâu sinh ra tạo vật?
Từ đâu mà có thế
giới này?
Thế giới này là
sáng tạo hay không phải sáng tạo?..."
Cuối cùng, qua
bao nhiêu những tự vấn như thế, qua bao nhiêu trầm tư mặc tưởng, trăn trở như
thế, các thánh triết Ấn độ cổ đại cũng cảm nhận được cái mà chúng ta gọi là Tự
Nhiên Tồn Tại:
“Ở
thuở ấy chưa có hiện diện một vật gì mà cũng không phải là trống không
Bấy giờ chưa có
địa giới này và cũng chưa có bầu khí xa vời và cao tít trên đầu. Đã có không biết cái gì, bao phủ hai thế giới chưa?
Có ai sống bấy
giờ và ở đâu? Ở đây chỉ có một sự Nghiêm Nghị với Nghiêm Nghị mà thôi
Thuở ấy chưa có
chết và không chết, Ngày và Đêm, chưa có gì khác nhau giữa ngày với đêm. Bấy giờ
chỉ có cái Một hồn nhất, Tự Tại tối cao không chút gợn, yên lặng không một hơi
thở. Sự thực chỉ có cái Một mà thôi…
Bấy giờ đêm dày
bao phủ lấy đêm dày, tất cả còn chưa phân; tất cả chìm trong Hồng Thủy
Hiện Hữu còn chìm
bên trong Vô Hữu; cái vĩ đại của nó chỉ biểu hiện ra là Nghiêm Nghị với Nghiêm
Nghị mà thôi.
Bấy giờ một ý
muốn đầu tiên xuất hiện trong cái Thức vũ trụ hóa, từ cái chí dục đầu tiên ấy nảy
nở mầm mống của tất cả sự vật!”
Các đại hiền đã
thực hiện trong hành động của tâm, sự sinh thành của thực tại từ cái hư vô.
Cái Một ấy cũng
chính là cái mà chúng ta (tạm gọi) là Tự Nhiên Tồn Tại, là cái thế giới khách
quan chưa được nhận thức; “hiện ra” trước khi hữu thức, hữu tri. Do đó mà Cái Một cũng
là cái vô hữu (không, chưa hiện hữu!!!) vĩ đại, mọi hiện hữu “chìm” trong đó. Nếu chúng ta lạc vào một vùng
đồi núi hoang vu, xa vắng; đứng đó một mình cô đơn, trong một đêm khuya tịch mịch
không sao mà cũng không trăng, và không gian hoàn toàn yên ắng; ngước nhìn lên
cao, rất có khả năng chúng ta sẽ nhìn thấy Cái Một đầy nghiêm nghị!
Khoảng thời
gian 1000 - 750 năm TCN được gọi là thời kỳ Vêđa - Brahman hay có người gọi là
Giao thời Brahman. Thời kỳ này mang nặng tính nghi lễ. Người ta không chú ý nhiều
đến thần linh nữa mà tập trung xem trọng việc cúng bái tế lễ vì họ cho rằng đó
là những nghi thức tác động được đến thần linh.
“Mặt trời sẽ không
mọc lên được nếu thầy cúng lúc bình minh không làm lễ Cúng Lửa” (Brahmana).
Có lẽ niềm tin
vào sự linh nghiệm của công việc lẽ bái, cúng tế xuất phát từ quan niệm này:
“Thế giới này sự
thực khởi kỳ thủy là không có gì hết! Không có trời cao, không có đất thấp, không
có không trung. Cái thực tại phi hữu ấy là một ý tưởng: Ta muốn có!”.
(Brahmana)
Nếu ở đầu thời
Vêđa, triết học Ấn Độ đã phát hiện một cách tài tình ra Cái Một, cái Tự Nhiên
Tồn Tại chưa qua nhận thức thì ở thời kỳ này, họ cũng xuất sắc làm xuất hiện
hai khái niệm hết sức cơ bản không chỉ cho riêng triết học cổ đại Ấn Độ, là Brahman
(Đại Ngã, Phạn Thiên, Tinh thần Vũ Trụ) và Atman (Tiểu Ngã, cái tôi, Tinh thần Cá Nhân). Rõ ràng, với hai khái niệm ấy,
các hiền triết thời đó đã nhận thức được tính phân định của thế giới mà ở đây Brahman
đóng vai trò (cũng có nghĩa như) Thế giới khách quan (Khách thể, đại Vũ Trụ) và
Atman đóng vai trò (cũng có nghĩa như) thế giới chủ quan (chủ thể, tiểu Vũ Trụ).
Nguyễn Đăng Thục, trong cuốn “Lịch sử triết học phương Đông”, tập 3, có viết:
“Sự tìm tòi một nguyên lý cùng tột của thế giới, dần dần càng ngày càng đi đến điểm
kết chung vào hai ý niệm sớm xuất hiện từ cổ xưa để rồi trở nên hai then chốt của
tư tưởng: ấy là ý niệm Brahman và Atman. Chữ Brahman là một danh từ thiêng liêng
trong Vêđa, là tiếng nói vật linh có hiệu lực như lời thần chú. Kế đến cái đức
nó đã hiện thân vào đấy, và sau cùng là cái quyền năng siêu nhiên hiện ở tại gốc
các cuộc cúng lễ và đại diện cho cái nguyên chất khởi thủy của tất cả hiện hữu.
Còn Atman là cái nhân, của một nhân cách, cái tồn tại ở một cá nhân sau khi đã
từ bỏ hết cả những gì có tính cách ngẫu nhiên. Hai ý niệm ấy xuất hiện ở các địa
hạt tư tưởng thì ngay ở tại các câu thơ Brahmana đã thấy đồng nhất cái nọ với cái
kia rồi”.
Khỏang thời
gian từ năm 750-550 TCN được gọi là thời kỳ Vêđa - Upanishad. Đến thời kỳ này,
sự nhận thức hồn nhiên khách quan đã mất dần đi, nhường chỗ cho những suy tưởng
tâm linh hướng về nhân thế. Xảy ra hiện tượng ấy là do các nhà Upanishad đã đồng
nhất hóa Brahman với Atman nhưng lại cho rằng Brahman là cái gì đó phi vật chất,
bất diệt:
“Thân thể vật
chất thì tiêu diệt. Trong cái ấy có ngự Tuyệt đối với Brahman là phi vật chất và
bất diệt. Ở tạm trong thân thể như là linh hồn cá nhân. Ngài vui và buồn bởi vì
Ngài đồng nhất bằng ý nghĩ với cái thân thể có vui và buồn. Chừng nào Ngài giải
thoát khỏi thân thể này, trở nên linh hồn Vũ Trụ, Ngài không còn vui buồn nữa,
nhưng không bị diệt vong vì vui buồn. Trái lại, bình thản và an định, Ngài là Tự
Ngã Tuyệt Đối”.
(Chadogya
Upanishad)
Đó là một nhận
thức thụt lùi rất đáng tiếc. Việc phát hiện một cách tuyệt vời ra Cái Một và xuất
sắc thấy được thế giới gồm có Brahman và Atman, đã không còn được phát huy hơn
nữa.
Chúng ta quan
niệm rằng Cái Một được Vêđa mô tả như thế, chính là Tự Nhiên Tồn Tại chưa qua
nhận thức (và như vậy nó là vô hữu). Trước nhận thức, nó hiện hữu ra (biểu hiện
ra) thành vạn vật - hiện tượng mà nhận thức cũng là một sự vật - hiện tượng trong
số đó. Tính phân biệt được của thế giới các sự vật - hiện tượng đã phân định một
cách tự nhiên ra chủ thể quan sát (cái nhận thức) và khách thể bị quan sát (cái
được nhận thức) hay thế giới chủ quan và thế giới khách quan. Hai cái đó chính
là Atman và Brahman. Atman là bộ phận của Brahman và cả hai đều là sự thể hiện
ra của cái Một, cái vận động vật chất ở tầng nền tảng; có cùng nguồn gốc là Cái
Một. Cái vận động vật chất ở tầng nền tảng chính là cái mà Upanishad gọi là Cái
Ấy. Nếu Cái Một là Tự Nhiên Tồn Tại chưa qua nhận thức thì Cái Ấy chính là Tự
Nhiên Tồn Tại đã được nhận thức tuyệt đối. Như vậy Atman và Brahman vì là hai sự
vật - hiện tượng độc lập tương đối với nhau nên không thể đồng nhất được; vì có
cùng nguồn gốc xuất hiện nên cũng lại có tính đồng nhất. Atman có thể mất đi và
trở về với Cái Ấy nhưng Brahman thì chỉ biến đổi chứ không bao giờ mất, hoặc chỉ
mất đi để trở về với Cái Một khi toàn bộ Atman mất đi!
Đến đây, tự nhiên
bật ra một câu hỏi cũng thuộc “ngàn đời” của triết học: Linh hồn có tồn tại ngoài
thể xác không; còn tồn tại khi thể xác đã mất đi rồi không?
Câu hỏi đó là một thử thách vàng đá đối với mọi học thuyết triết học. Vì
vậy mà nó cũng đặt ra một đề tài vô cùng hóc búa nhưng cũng vô cùng hấp
dẫn đối với mọi bộ não tò mò. Nếu sau này còn kịp thời gian thì chúng
ta sẽ quay lại với câu hỏi đó, làm cái công việc tương tự như bác sĩ
thần kinh Freud đã làm (nhưng không thể chuyên sâu vào ngành y như thế
mà chỉ hời hợt trên bình diện triết học thôi). Còn bây giờ chúng ta chỉ
có thể nói rằng trả lời, phủ định hay khẳng định câu hỏi trên đền không
đúng vì thực tế đã chứng minh điều đó. Khi thân xác mất đi thì cấu trúc
của vật chất vận động nền tảng có thể bị phá hủy theo hoặc do một nguyên
nhân bí ẩn nào đó, vẫn còn có thể tồn tại một thời gian vài năm, vài
trăm năm thậm chí là vài ngàn năm… rồi lúc đó mới thực sự bị phá hủy. Do
đó cái gọi là Atman, quan niệm một cách tương đối thôi, vẫn có thể tồn
tại ngoài thể xác nhưng chắc chắn là “mờ nhạt” và ngày càng mờ nhạt.
Nhưng từ đó những hiện tượng về vong, hồn ma, nhập hồn và hãn hữu là cả
sự đầu thai nữa cũng có thể xảy ra …Một cách tuyệt đối thì phải dứt
khoát khẳng định rằng, linh hồn tồn tại ngoài thể xác là sự "bộc lộ" ra
trong hiện thực của một hư vô (một thể thức tồn tại chưa biết, chưa nhận
thức được!) chứ không phải của một Hư Vô (tuyệt đối không có gì!), vì
chúng ta đã luận giải rồi: dù có cố gọi là Hư Vô thì cứ vẫn là Tồn Tại!
***
Đang
nói chuyện
Hoàng Lão, chúng ta lại nhắc đến Vêđa và Upanishad vì chúng ta có cảm
giác thấy
hai nền triết học cổ đại Trung Quốc và Ấn Độ có những điểm tương đồng
sâu sắc một
cách bất thường. Hình như ngay từ đầu đã có sự giao lưu về tư tưởng văn
hóa giữa
hai nền văn minh cổ đại ấy và sự “học hỏi lẫn nhau” giữa hai nền triết
học ấy kéo
dài suốt quá trình tồn tại của chúng. Hơn nữa, điều này mới thực sự lý
thú, nếu xem xét chi tiết trên tinh thần tổng quan và bất chấp những
nhận định chủ quan từ trước đến nay về tiền sử của triết học Phương Đông
- khoảng nửa đầu thời cổ đại, thì sẽ thấy hiển hiện ra một tồn nghi
khổng lồ là hình như hai nền triết học cổ đại ấy, và rất có thể là toàn
bộ nền triết học thế giới thời cổ đại đều nếu không trực tiếp thì cũng
gián tiếp, nếu không hình thành nên từ sự chủ động thừa hưởng thì cũng
từ tàn dư của duy nhất một quan niệm về thực tại khách quan đã xuất hiện
vào thời đại còn cổ xưa hơn nữa, tạm gọi là thời đại văn minh trước Đại
Hồng Thủy nếu thực sự đã từng xảy ra biến cố Đại Hồng Thủy - một thiên
tai nước-lửa vĩ đại có phạm vi toàn cầu, mang tính hủy diệt khủng khiếp
nhất đối với loài người từ trước đến nay và vì thế cũng tạc thành ấn
tượng không phai mờ trong tâm trí con người dù trải qua hàng ngàn thế
hệ, thể hiện ra bàng bạc ở truyền thuyết, huyền thoại của hầu như mọi
dân tộc trên khắp thế giới!
Nếu
không là thế
thì không thể hiểu được quan niệm về cái gì đó được gọi là Thực Thể Tối
Cao cùng
với những khái niệm Cái Một, Cái Ấy, Brahman, Atman của Vêđa - Upanishad
lại "đồng chí hướng"
với quan niệm về cái gọi là Đạo của Hoàng Lão đến thế, trong khi khó mà
khẳng định dứt khoát khái niệm Đạo là rút ra từ quan niệm Brahman một
cách trực tiếp được. Hay chúng ta đang nổi cơn điên rồ nhỉ!??? Vậy
thì...thôi, hãy quên sự tồn nghi đi, và cứ cho rằng trong quá trình xây
dựng khái niệm "Đạo" của mình, Lão Tử đã "ngộ"được mặt hợp lý trong suy
tư của Vêđa - Upanishad và tiếp nhận nó! Tạm thế đã, cho...đỡ mệt!
Chúng ta đã nói
về Cái Một, còn Cái Ấy thì chúng ta sẽ nói thêm cho rõ hơn, qua lời của triết
gia Ấn Độ, Radhaksishnan:
“Chúng ta là phần
tử hữu hạn, chúng ta không thể xác định tính chất của thực tại lý tưởng, tuy rằng
Upanishad nhấn mạnh rằng cái thực tại ấy không phải là trống rỗng. Tuy vậy, để
phản đối những ý tưởng sai lầm về cái tối cao và để vạch rõ sự thật là Cái Ấy
không phải sự trừu tượng, Kinh Upanishad đã ngã vào những khái niệm không thích
đáng. Nói gọn lại, chúng ta không có thể nói gì về thực tại ấy được. Nhưng vì mục
đích bàn luận, chúng ta bắt buộc phải dùng đến những khái niệm tri thức với giá
trị hữu hạn của chúng”.
Trong Tathiriya
Upanishad có đoạn:
“Sự thực, cái
do đấy tất cả vật thể sinh xuất, cái nhờ đấy chúng sinh sống, cái mà chúng trở
về đấy lúc chết, chính là Cái Ấy phải tìm kiếm, Cái Ấy là Brahman”.
Còn Đạo thì như
chính Lão Tử nói:
“Có một vật hỗn
độn mà thành trước cả trời đất. Nó yên lặng (vô thanh) trống không (vô hình), đứng
một mình mà không thay đổi (vĩnh viễn bất biến), vận hành khắp vũ trụ mà không
ngừng, có thể coi nó là mẹ của vạn vật trong thiên hạ. Ta không biết tên nó là
gì, tạm đặt tên cho nó là Đạo, miễn cưỡng gọi nó là Lớn (vô cùng)”.
Phải chăng Lão
Tử nói về Cái Một, và khi “tạm đặt tên cho nó là Đạo” thì lại là Cái Ấy và “miễn
cưỡng gọi nó là Lớn” chính là Thực tại Tối Cao, Brahman hay là cái mà ngày nay chúng ta gọi: Tự Nhiên Tồn Tại?
Nếu
sự phán đoán
của chúng ta là đúng thì xét về thời điểm ra đời, cần phải cho rằng khởi
thủy
quan niệm về Tự Nhiên Tồn Tại như cái được gọi là Đạo của Đạo Gia, là có
nguồn
từ quan niệm về cái Thực tại Tối Cao của triết học Ấn độ cổ đại, còn xét
về những nét khác biệt của hai quan niệm ấy thì phải cho rằng chúng
phát xuất từ cùng nguồn gốc, hình thành và tồn tại tương đối độc lập
nhau, nhưng "song hành" bên nhau và có sự liên hệ với nhau ở mức độ nhất
định.
Tiếp
thu được mặt hợp lý của cái
quan niệm còn ở mức sơ phác nhưng phần nhiều là đúng hướng ấy của các
hiền triết
Ấn Độ cổ đại; kết hợp với thuyết âm dương biến đổi đã xuất hiện trước đó
của bản
thân dân tộc mình (do Bá Dương Phụ đề xướng, có nhiều khả năng là dựa
trên ý niệm lưỡng phân-lưỡng hợp đã xuất hiện trước đó rất lâu rồi, tận
thời tối cổ, của tổ tiên người Lạc Việt!), Lão Tử đã xây dựng được một
học
thuyết triết học tương đối hoàn chỉnh, mà nền tảng lý luận của nó là
Đạo, và về đại thể là một nhận
thức trác tuyệt về Tự Nhiên Tồn Tại.
Kính
thưa Lão
Tử, hôm nay hậu thế đã bắt đầu hiểu Ông! Chúng con xin mượn viên ngọc
quí mà Ông
đã giữ trong lòng suốt 2500 năm, để trưng ra cho người đời chiêm ngưỡng.
Mong Ông không còn phải ngậm cười nơi Chín Suối nữa mà thoải mái mở
miệng cười ha hả trong cõi thần tiên nào đó, âm rền
vang vọng đến vô thủy vô chung Quỉ Cốc!
***
Để trình bày được
rõ ràng hơn và cũng nhằm dễ bề luận giải thuyết Hoàng Lão, chúng ta cũng bắt chước
Nguyễn Hiến Lê khi chú giải Đạo Đức Kinh, phân định tương đối ra thành ba phần:
vũ trụ quan, nhân sinh quan và chính trị quan.
Trước hết chúng
ta nói về vũ trụ quan Hoàng Lão.
Không
có quan sát
thì không có vũ trụ quan. (Quan sát xét cho đến cùng cực chính là kết
quả của cảm giác,
có nguồn gốc
từ đặc tính phân biệt được của thế giới và mối quan hệ tương hỗ giữa các
sự vật
- hiện tượng. Để khỏi phải dông dài lan man, chúng ta “khóa” lại: quan
sát chỉ
bắt đầu từ động vật). Vũ trụ quan của động vật là cái gì đó còn đầy hỗn
độn, rối rắm, mờ mịt, nói chung là còn hầu như bất
minh. Vũ trụ quan của con người tư duy trừu tượng, nhờ có hồi ức và vì
đã qua nhận thức ngày một
sâu sắc
nên khác hẳn của loài động vật. Đó là một thế giới sâu rộng đến cùng
cực, vô cùng
sống động với vô vàn sự vật - hiện tượng biến hóa, xoay vần, sinh sinh
diệt diệt có lớp có lang, vừa minh định tỏ tường vừa khôn lường kỳ ảo
…Do đó, Vũ Trụ mà con người quan sát được có thể "tạm" hiểu được, nhưng
khó lòng mà hiểu cặn kẽ được. Thậm chí, không thể hiểu tuyệt đối được!
Viết đến đây,
chúng ta chợt thấy u hoài:
Em không nghe mùa
thu
Lá thu kêu xào xạc
Con nai vàng ngơ
ngác
Đạp trên lá vàng
khô
(Thơ
Lưu Trọng Lư)
Em đã từng nghe
tiếng đàn bầu nhỏ giọt buồn hằng cửu chưa em? Chính là cái thanh âm ấy đấy. Ôi,
tiếng lo âu của ngàn lá xào xạc trước sự bỡn đùa của ngọn gió thời gian? Và nai
ơi, sao còn vô tình đạp lên lá vàng cho rợn tiếng vụn vỡ của xương khô và biết
gì không mà ngơ ngác?! Đất trời có thấy phong cảnh đó, Vũ Trụ có nghe khúc hòa
tấu đó như chúng ta thấy và nghe không nhỉ?! …
Có một cái gì đó
vừa có vẻ rành mạch vừa vô cùng mông lung, bao trùm lên tất cả, chứa đựng tất cả,
kể cả “cái tôi nhận thức”. Không biết nó là cái gì, không biết gọi nó là gì cho
đúng, cho phải. Các hiền triết Vêđa - Upanishad đành tạm gọi nó là Cái Một, Cái
Như Nhất, Cái Ấy; Lão Tử tạm gọi là Đạo, và chúng ta tạm gọi là Tự Nhiên Tồn Tại .
Tuy đều nhằm chỉ
“cái gì đó” tối cao nhưng Cái Một, Cái Ấy, Cái Như Nhất mới chỉ là những nhãn mác
giản đơn có ý nghĩa sơ phác thì Đạo lại là một khái niệm hàm chứa một nội dung
rộng đến vô cùng; vừa dùng để chỉ cái thực thể của Tối Cao (mà chúng ta gọi là Tồn
Tại) vừa dùng để chỉ cái nguyên lý vận hành của cái Thực thể Tối cao ấy (mà chúng
ta gọi là Tự Nhiên). Có thể nói toàn bộ vũ trụ quan của Hoàng Lão được gói gọn
trong chữ Đạo ấy.
Mở đầu “Đạo Đức
Kinh”, Lão Tử viết:
“Đạo mà có thể
diễn tả được thì không phải là đạo vĩnh cửu bất biến; tên mà có thể đặt ra để gọi
nó (Đạo) thì không phải là tên vĩnh cửu bất biến.
“Không”,
là gọi cái bản thủy của trời đất; “Có” là gọi mẹ sinh ra muôn vật
Cho nên, tự thường
đặt vào chỗ “Không” là để xét cái thể vi diệu của Đạo, tự thường đặt vào chỗ “Có”
là để xét cái (dụng) vô biên của nó.
Hai cái đó (Không
và Có) cũng từ Đạo mà ra, chỉ khác tên, và đều là huyền diệu.
Huyền diệu rồi
lại thêm huyền diệu, đó là cửa của mọi biến hóa kỳ diệu”.
Không
thể áp đặt
cho Tồn Tại bất cứ một ý nghĩa hữu hạn nào vì nó vô nghĩa. Nhưng nếu đặt
nó là
“vô nghĩa” cũng sai, vì nó rõ ràng là một sự thực, vẫn cảm nhận được nó,
nó vẫn có nghĩa đối với nhận thức, thậm chí là toàn nghĩa! Tạm gọi nó
là "Đạo" chứ nó không phải là Đạo, cũng không phải với bất cứ danh xưng
nào.
Lão Tử nói như vậy là đã thấy được cái tính nước đôi của Tồn Tại, dù
rằng ông
chưa thấy được cái tính nước đôi ấy do chính nhận thức mà ra: Tồn Tại là
duy nhất
nhưng qua nhận thức đã bị phân định thành hai Tồn Tại: thực và ảo, hiện
và ẩn, danh và thực…
Lão Tử còn có một
phát hiện thứ hai mà chúng ta cho là tuyệt diệu không kém, đó là đặc tính đồng
nhất và dị biệt cùng thể hiện của Tồn Tại. Nếu nhìn thế giới xung quanh vào ban ngày, chúng ta sẽ phân biệt được rõ
ràng, minh bạch vạn vật thì cũng cái thế giới ấy trong một đêm tối mịt, chúng
ta chẳng thấy được gì hết ngoài một khối đồng nhất, đen kịt. Nếu ban đêm nhìn lên
trời cao, chúng ta thấy cả một bầu sao sáng huyền vĩ thì ban ngày lại chẳng thấy
gì và nếu ngày đó là quang mây thì chúng ta sẽ chỉ thấy một nền xanh đồng nhất.
Hoặc cũng tương tự như chúng ta đang nhìn và rồi nhắm mắt lại: hiện thực vẫn ở đó,
các sự vật vẫn hiện hữu nhưng chúng ta nào có phân biệt được gì nữa đâu (?), mà chỉ
có thể suy tưởng ra được từ kinh nghiệm trước đó mà thôi. Do vậy mà xuất hiện cặp
khái niệm Hữu và Vô (Có và Không). Đồng
nhất, không phân biệt được chính là Không (không phải trống rỗng!) nhưng cả cái
thế giới đồng nhất ấy, lại là Có. Một vật khi không phân biệt được với xung
quanh thì phải là Không, khi phân biệt được với xung quanh (dị biệt) thì nó phải
là Có.
Khi nhìn lên bầu
trời xanh, chúng ta nói không có sao, nhưng thực ra là sao vẫn ở đó, chỉ có điều
tại mắt ta vào ban ngày không thấy đó thôi.
Như thế đoạn “…
đặt vào chỗ “Có” là để xét cái (dụng) vô biên của nó” theo cách dịch của Nguyễn
Hiến Lê, nên hiểu là “… đặt vào chỗ “Có” là để xét cái sự phân biệt của nó”.
Với cặp khái niệm
Có - Không này, Lão Tử đã đạt đến một khám phá thứ ba (thật tài tình) về Tồn Tại,
đó là đặc tính tương phản. “Có” hay “Không” thì cũng là tồn tại, từ Tồn Tại mà
ra, là một cặp khác tên gọi nhưng cũng xuất hiện từ một gốc, “đều là huyền diệu”,
cùng làm nên huyền diệu.
Chúng ta đã cho
rằng cặp khái niệm Có - Không là gốc của hệ thống khái niệm tương phản. Có - Không
cũng là gốc của mọi hình thức tương phản giữa các sự vật - hiện tượng, và thể
hiện ra như một tình thế làm xuất hiện động lực vận động của Tồn Tại. Ở đây, Lão
Tử cũng cho là như thế: “đó là cửa của mọi biến hóa kỳ diệu”.
Với từng đó câu
chữ (nguyên văn chữ Hoa còn ngắn hơn nữa!). Lão Tử nói lên tất cả những gì cơ bản
nhất, thiết yếu nhất về Đạo, về Tự Nhiên Tồn Tại, và nếu đó thực sự là chân lý thì quả ông phải là một thiên tài. Bản
thân Lão Tử đã coi đó là chân lý tối thượng và mọi câu nói về Đạo khác trong “Đạo
Đức Kinh” của ông chỉ nhằm mục đích dẫn giải cho rõ hơn, mở rộng, làm sâu sắc hơn,
cụ thể hơn chân lý ấy để dựa vào mà luận chuyện thiên hạ, để mà phân định đúng
- sai trong họat động xã hội - nhân sinh. Chúng ta sẽ liệt kê những đoạn nói về
Đạo của ông trong “Đạo Đức kinh”, chỗ nào thấy cần thiết “khua môi” thì chúng
ta “múa mép” một chút, thấy không cần thì thôi:
Ông nói về sự tương
phản trong quan niệm:
“Ai cũng cho cái
đẹp là đẹp, do đó mà phát sinh ra cái gọi là xấu; ai cũng cho điều thiện là thiện,
do đó mà phát sinh ra điều gọi là ác”. Là vì “có” và “không” sinh lẫn nhau; dễ
và khó tạo nên lẫn nhau; ngắn và dài làm rõ lẫn nhau; cao và thấp dựa vào nhau;
trước và sau theo nhau”.
Ông nêu thí dụ
rất hay về tính tương đối cũng như mối quan hệ “keo sơn” của cặp khái niệm “có -
không”:
“Ba mươi tay
hoa cùng qui vào một cái bầu, nhưng chính nhờ khoảng trống không trong cái bầu
mà xe mới dùng được. Nhồi đất sét để làm chén bát, nhưng chính nhờ khoảng trống
không ở trong mà chén bát mới dùng được. Đục cửa chính và cửa sổ để làm nhà, chính nhờ
cái trống không đó mà nhà mới dùng được.
Vậy ta tưởng cái
“có” (bầu, chén bát, nhà) có lợi cho ta mà thực ra cái “không” mới làm cho cái
“có” hữu dụng”.
Để diễn giải cái
vi diệu của Đạo, Lão Tử nói:
“Đạo, bản thể
thì hư không mà tác dụng thì cơ hồ vô cùng, nó huyền ảo mà tựa như làm chủ tể vạn
vật”
Hình như ông đã
cảm nhận được có một cái gì đó ở tầng nền tảng, cái không thể nắm bắt được nhưng
lại là “chủ tể vạn vật”:
“Nhìn không thấy
gọi là di, nghe không thấy gọi là hi, nắm không được gọi là vi. Ba cái đó (vô sắc,
vô thanh, vô hình) truy cứu đến cùng cũng không biết gì được, chỉ thấy trộn lộn
làm một thôi. Ở trên không sáng, ở dưới không tối, thâm viễn bất tuyệt, không
thể gọi tên, nó lại trở về cõi vô vật, cho nên bảo là cái trạng không có hình
trạng, cái tượng không có vật thể. Nó thấp thoáng, mập mờ. Đón nó thì không thấy
đầu, theo nó thì không thấy đuôi…”
Ở chỗ khác:
“Có một vật hỗn
độn mà thành trước cả trời đất. Nó yên lặng, trống không, đứng một mình mà không
thay đổi (vĩnh viễn bất biến), vận hành cùng khắp mà không ngừng, có thể coi nó
là mẹ của vạn vật trong thiên hạ. Ta không biết nó tên là gì, tạm đặt tên là Đạo,
miễn cưỡng gọi nó là Lớn.
Lớn thì lưu hành,
lưu hành thì ra xa, ra xa thì về gần. Cho nên Đạo lớn, trời lớn, đất lớn, người
cũng lớn. Trong vũ trụ có bốn cái lớn mà người là một. Người làm theo đất, đất
làm theo trời, trời làm theo Đạo, Đạo làm theo Tự Nhiên”.
Tự nhiên là luật
vận hành của Đạo, là nguyên lý tối thượng mà vạn vật phải theo. Vạn vật phải
theo nhưng lại như không theo, không cảm thấy sự cưỡng bức mà làm như vốn dĩ, làm
như thế là lẽ phải, hồn nhiên mà tồn tại, cho nên gọi là Tự Nhiên. Theo Lão Tử
thì Đạo là duy nhất, do đó mà nguyên lý Tự Nhiên ấy cũng không thể ngoài Đạo mà
thuộc về Đạo, chính là Đạo và gọi là Đạo lớn (nhằm phân biệt với những nguyên lý
nhỏ, cục bộ địa phương, hay còn gọi là qui luật (luật bất biến); có nguồn gốc
xuất phát từ nguyên lý Tự Nhiên. Ông viết:
“Đạo lớn lan tràn
khắp, có thể qua bên trái, qua bên phải. Vạn vật nhờ nó mà sinh trưởng mà nó không
can thiệp vào, công thành rồi mà không nhận là của mình; nó nuôi dưỡng vạn vật
mà không làm chủ vạn vật. Nó vĩnh viễn là “không”, vô vi, cho nên có thể bảo nó
là ẩn vi (vô hình); muôn vật qui về nó mà nó không làm chủ, cho nên có thể bảo
nó là lớn. Vì cho tới cùng, nó không tự nhận nó là lớn cho nên mới hoàn thành được
cái vĩ đại của nó”.
Hay:
“Âm nhạc với mỹ
vị làm cho khách qua đường ngừng lại, còn Đạo mà nói ra thì nó nhạt nhẽo, vô vị,
nhìn kỹ nó không thấy, lắng nghe nó không thấy. Nhưng dùng nó thì không bao giờ
hết”.
Và đây chính là
một trong những cơ sở lý luận của các nhà tư tưởng, xây dựng nên học thuyết "xuất thế vô vi":
“Đạo vĩnh cửu
thì không làm gì (vô vi vì là tự nhiên), mà không gì không làm (vô bất vi, vì vạn
vật nhờ nó mà sinh, mà lớn, mà tồn tại)”.
Lão Tử nói về nội
dung của cái nguyên lý tối cao ấy như sau:
“Luật vận hành
của Đạo là trở lại lúc đầu, diệu dụng của Đạo là khiêm nhu.
Vạn vật trong
thiên hạ từ “có” mà sinh ra; “có" lại từ “không” mà sinh ra”.
Rõ ràng, Lão Tử
đã thấy được tính xoay vần, chu kỳ, sự chuyển hóa qua lại giữa các mặt tương phản
trong sự vận động của vạn vật, của Vũ Trụ. Ông còn viết:
“Đạo sinh ra một,
một sinh ra hai, hai sinh ra ba, ba sinh ra vạn vật. Vạn vật đều cõng âm mà ôm
dương, điều hòa bằng khí trùng hư”.
Về
câu này, nhiều
người hiểu khác nhau. Theo chúng ta hiểu thì cái gốc của mọi hình thức
tương
phản là cặp có - không. Sự chuyển hóa qua lại giữa có và không là cái
gốc của
huyền diệu, của biến hóa. Nhưng có và không muốn tồn tại để chuyển hóa,
để
“sinh lẫn nhau” được thì phải có cái ở giữa, cái trung dung, cái không
có mà cũng
không không. Cái đó là gốc của gốc cho nên gọi nó là “một”. Nhờ cái một
ấy mà có
sự phân định ra có và không, ra hai thể tương phản nhau. Hai thể tương
phản ấy
tác động chuyển hóa lẫn nhau thông qua “ông trọng tài” tên là Một mà
thành ra
ba. Ba cái đó hợp thành nên một thực thể tế vi hoàn chỉnh và sống động.
Vạn vật
đều được cấu tạo nên từ những thực thể tế vi đó và nội tại của chúng
cũng phân định
thành những lực lượng tương phản nhau gọi là âm và dương, tương tác
chuyển hóa
nhau thông qua lực lượng trung dung, gọi là “khí trùng hư” (năng lượng?).
Theo quan niệm thời
đó, âm và dương là hai nguyên khí, hai thể cơ bản, có tính tương phản
nhau (quan hệ, tương tác với nhau cực kỳ uyển chuyển chứ không cực đoan,
siêu hình, "cứng còng" như quan niệm "mâu thuẫn" của Hêghen mà Mác đã
tiếp thu hầu như trọn vẹn!), làm nên Vũ Trụ. Hình tượng “cõng âm và
ôm dương” cho ta thấy có cái ở giữa. Chính cái ở giữa ấy làm cho âm,
dương điều
hòa, hướng đến cân bằng mà vật tồn tại được. Nhưng vận động toàn thể của
cái tổng
thể (thực thể) ấy lại có nguyên nhân sâu xa của cái bên ngoài nó, của
môi trường:
nhằm mục đích hòa hợp với môi trường (môi trường tác động lên thực thể
cũng nhằm
hòa hợp với thực thể, cho nên gọi là tác động tương hỗ). Cuối cùng tất
cả những
cái đó đều tuân theo những qui định của nguyên lý Tự Nhiên; là Tự Nhiên.
Lão Tử
viết:
“Hết sức giữ được
cực hư, cực tĩnh xem vạn vật sinh trưởng, ta thấy được quy luật phản phục (vạn
vật từ vô sinh ra rồi trở về vô).
Vạn
vật phồn thịnh
đều trở về căn nguyên của chúng (qui căn, tức Đạo). Trở về căn nguyên
thì tĩnh
(cân bằng, hài hòa), trở về căn nguyên là “trở về mệnh” (trạng thái ban đầu?). Trở về mệnh là
luật bất
biến (qui luật) của vật. Biết luật bất biến thì sáng suốt, không biết
luật bất
biến thì vọng động mà gây họa. (Đòi tự do-dân chủ bất chấp luật bất biến
rõ ràng là vô lối, cùng một giuộc với đòi vô chính phủ, vô hiệu hóa
tính nghiêm minh của luật pháp. Một xã hội vô chính phủ tất yếu ngay lập
tức lâm vào trạng thái hoang mang, hỗn loạn và đầy bạc ác!).
Biết luật bất
biến thì bao dung, bao dung thì công bằng (vô tư), công bằng thì bao khắp, bao
khắp thì phù hợp với tự nhiên, phù hợp với tự nhiên thì phù hợp với Đạo, hợp với
Đạo thì vĩnh cửu, suốt đời không nguy”.
Toàn bộ vũ trụ
quan của Hoàng Lão, cốt yếu chỉ có thế, ngắn gọn nhưng thâm sâu, không hiểu được
nó thì cho là huyền bí, duy tâm, hiểu được nó thì thấy thật giản dị, duy vật.
Chúng ta cho rằng tất cả những quan niệm về Tồn Tại (về Vũ Trụ) rải rác trong các
sách Liệt Tử, Trang Tử… đều là những luận giải làm rõ ràng hơn, cụ thể hơn và có
thể bổ sung, điều chỉnh chút ít (nhưng không cơ bản) giúp cho việc nhận thức những
luận điểm cốt yếu ấy được dễ dàng hơn mà thôi.
***
Trong sách Liệt
Tử có những đoạn giảng giải về cái Đạo Huyền Diệu, cái Nền tảng, cái Tối cao, cái
có thể cảm thấy được mà không nhận diện được:
“Có một vật
sinh ra các vật khác mà không được vật nào sinh ra cả; biến hóa các vật khác mà
tự nó không biến hóa. Vậy cái không được sinh ra có thể sinh (làm chủ tể) các vật
được sinh ra, cái không biến hóa có thể biến hóa các vật biến hóa. Mà cái được
sinh ra không thể không sinh ra cái khác; do đó mà sinh sinh, hóa hóa hoài, không
thời nào không sinh, không thời nào không hóa. Do đó có âm dương, bốn mùa. Cái
không được sinh ra, là đồng nhất, vô thủy vô chung; cái không biến hóa là trong
khoảng vô cùng; cái đạo của cái duy nhất không thể dò được”.
Trong “Đạo Đức Kinh”, chúng ta thấy có một câu là lạ, mang tính thần thoại: “Thần hang bất tử,
gọi là Huyền Tẫn. Cửa của Huyền Tẫn là gốc của trời đất, dằng dặc như bất tuyệt,
tạo thành mọi vật mà không mệt”. Trong “Liệt Tử” cũng dẫn câu này và cho là của
Hoàng Đế(?). Theo truyền thuyết, Hoàng Đế là một thánh quân, tên là Hiên Viên, làm
vua một trăm năm (2698 - 2598 TCN), viết một cuốn sách gồm bốn thiên, gọi là Hoàng
Đế Thư, đã thất truyền. Có thể câu đó là truyền ngôn của những đời trước, Lão Tử
chép lại; có vẻ như mô tả cảnh quan của bầu trời đêm của Vũ Trụ. Huyền Tẫn (Mẹ
nhiệm màu) là cái tên có nghĩa như tên gọi ngày nay là Vũ Trụ chăng? Trong bầu
trời đêm, chúng ta như đang đứng trước cửa của một cái hang vĩ đại, “dằng dặc
như bất tuyệt”!
Sau câu trích đó,
sách Liệt Tử viết tiếp:
“Vì vậy mà vật
nào sinh ra các vật khác thì không được sinh ra; vật nào biến hóa các vật khác
thì không biến hóa. Nó tự sinh, tự hóa, tự thành hình, tự thành sắc, sáng suốt,
tự có sức mạnh, tự tăng giảm. Nó tự nhiên như vậy, chứ không phải cố ý mà sinh
hóa, thành hình, thành sắc, sáng suốt, có sức mạnh, tăng giảm”.
Đoạn khác:
“Sự vận chuyển
không bao giờ ngừng. Trời đất biến chuyển bí mật, ai mà biết được? Cho nên, vật
giảm ở phía này thì tăng ở phía khác, đầy ở kia thì vơi ở đây. Tăng, giảm, vơi,
đầy, sinh ra lẫn nhau rồi chết; qua lại nối tiếp nhau mật thiết, ai mà thấy được
sự biến chuyển?”
Liệt Tử giảng về
vô vi:
“Cái từ sống mà
sinh ra là cái chết, nhưng cái sinh ra cái sống thì bất tuyệt; cái từ cái hình
gây nên là cái thực (chất), nhưng cái khiến cho thành hình thì không hề có (nghĩa
là cái vô?); cái từ thanh âm gây nên là thính giác, nhưng cái khiến cho thành
thanh âm thì không hề phát nên tiếng; cái từ màu sắc gây nên là thị giác, nhưng
cái khiến cho thành màu sắc thì không hề hiện ra; cái từ mùi vị gây nên là vị
giác, nhưng cái khiến cho thành mùi vị thì không hề lộ ra.
Tất cả những cái
đó đều là vô vi mà ra cả. Vô vi có thể âm, có thể dương, có thể nhu, có thể cương,
có thể dài, có thể ngắn, có thể tròn, có thể vuông, có thể sinh, có thể tử, có
thể nóng, có thể lạnh, có thể nổi, có thể chìm, có thể là âm trầm, có thể là âm
bổng, có thể hiển hiện ra, có thể biến mất, có thể tím đen, có thể vàng, có thể
ngọt, có thể đắng, có thể tanh hôi, có thể thơm tho.
Vô vi tuy vô vi,
vô năng mà không gì là không biết, không gì là không làm được”.
Nền
tảng triết
học Trang Tử cũng là của triết học Lão Tử. Quan niệm về Đạo của Trang Tử
hoàn toàn đồng
thuận với quan niệm về Đạo của Lão Tử. Tuy nhiên trong tư tưởng triết
học của
Trang Tử, đã xuất hiện những bộ phận mới có tính chất như bổ sung, điều
chỉnh,
mở rộng thêm về lý luận trong việc nhận thức tự nhiên - xã hội. Trang Tử
đã nêu
ra được mối quan hệ giữa nhận thức và thực tại; tính nước đôi, tương đối
của khái
niệm… Tất cả những quan niệm mới ấy có thể là do Trang Tử đã chịu ảnh
hưởng của
một trường phái triết học mà ở thời đại nhà Hán gọi là Danh Gia (ở thời
Chiến Quốc được gọi là Hình Gia hay Biện Gia): Có thể nói đại biểu của
Danh Gia là Huệ
Thi và Công Tôn Long. Công lao của họ đối với triết học có lẽ là từ
những biện
bác có vẻ như phi lý của mình, họ đã vạch ra được tính hữu hạn, tính bất
ổn, nước
đôi, tính tương đối của khái niệm mà suy cho cùng là tính chủ quan tất
yếu của
nhận thức trước một thực tại khách quan. Tư Mã Đàm, trong “Sử ký” của
mình (chương
20) đã đánh giá khá xác đáng về Danh Gia:
“Danh Gia xét tỉ
mỉ các điểm trong những nhận định phức tạp công phu làm cho kẻ khác không thể
phủ nhận ý tưởng của mình được. Họ chuyên định nghĩa các danh từ nhưng bỏ quên
mất cảm tính của nhân loại. Bởi vậy, tôi nói rằng: họ đưa người ta vào sự tô điểm
danh từ làm cho người ta dễ quên mất chân lý. Tuy nhiên bắt danh từ phải diễn tả
được sự thực và như thế nghiên cứu trật tự hợp lý để không còn lầm lẫn nữa, ấy
là nhiệm vụ cần phải tìm tòi khảo cứu”.
Trước đây đã có
lần chúng ta nói về sự bất ổn của khái niệm rồi. Ở đây chúng ta không đề cập sâu
tới vấn đề đó nữa.
Huệ Thi không để
lại sách gì ngoài mười câu phi lý nổi tiếng cho hậu thế. Trang Tử đánh giá Huệ
Thi là:
“Đem bàn tung
ra cả vạn vật mà không chán. Rút lại được tiếng là tay biện bác giỏi. Tiếc thay
tài của Huệ Thi, lồng lộng mà không có đức!”
Sách của Công Tôn
Long còn lưu đến ngày nay là cuốn “Công Tôn Long tử”, gồm sáu thiên. Ở chương một
sách đó có đoạn nói:
“Công Tôn Long
là biện sĩ ở thời đại Chiến Quốc. Ông ghét sự tán loạn của danh với thực, và dùng
cái tài sở trường của mình để thảo luận về điểm giữ cái trắng. Ông mượn vật làm
tỷ dụ để luận bàn về vấn đề giữ trắng… Ông muốn suy rộng cách biện thuyết như
thế để chỉnh đốn lại danh với thực và làm thay đổi cả thế giới”.
Chính Công Tôn
Long đã nói về mình:
“Cái học thuyết
của Long là cho rằng ngựa trắng không phải là ngựa. Bắt Long bỏ thuyết ấy đi thì
Long này không còn lấy gì mà dạy nữa.”
Chúng ta trở về
với Thái Thượng Lão Ông!
Hãy nghe về Đạo
qua cách nói của Trang Tử:
“Đạo có thực và
tồn tại, nhưng vô vi mà không có hình trạng, có thể truyền nó được nhưng không
thể tiếp nhận nó được, hiểu nó được mà không thấy nó được. Nó tự là gốc của nó,
trước khi có trời đất đã có nó rồi. Nó tạo ra quỉ thần, thượng đế, nó sinh ra
trời đất. Nó ở trên thái cực mà không cao, ở dưới lục cực mà không sâu, có trước
trời đất mà không phải là trường cửu, có trước thời thượng cổ mà không phải là
già.”
Đó là Đạo theo
nghĩa thực thể Tối Cao; còn Đạo theo nghĩa là Nguyên lý Tối Thượng thì:
“Biết được Thiên
Đạo và nhân sự, đó là đạt được mức cao nhất của tri thức. Biết được Thiên Đạo là
biết rằng vạn vật do Tự Nhiên sinh ra, vậy thì phải theo Tự Nhiên (…) Như vậy là
tri thức cao minh nhất. nhưng tri thức đó cũng có cái lụy của nó, vì tri thức nào
cũng phải có đối tượng (có cái mốc, cái chuẩn mực rồi mới biết được đúng sai),
mà đối tượng lại không xác định được (bất định, tùy thuộc). Chẳng hạn làm sao
biết được cái mà tôi gọi là trời đó không phải là người, và cái tôi gọi là người
đó không phải là trời? Với lại chỉ bậc chân nhân mới có được chân tri.”
Và:
“Vạn vật đều
ngang nhau, có vật nào dài, vật nào ngắn đâu? Đạo không có đầu và cuối. Vật
sinh rồi chết, đừng trông cậy khi nó thành tựu vì vật có lúc đầy lúc vơi, không
có hình thể bất biến. Tuổi không thể lùi lại được, thời gian không thể ngừng lại
được. Có tăng thì có giảm, có đầy thì có vơi, có chung thì có thủy. Có thể coi đó
là xu hướng của Đại Đạo, tình lý của vạn vật.”
Qua đó, rõ ràng
rằng vũ trụ quan của Trang Tử chỉ là sự tiếp thu trọn vẹn vũ trụ quan của Lão Tử,
không có gì mới. Có mới chăng là cái nhận thức nặng chủ nghĩa hoài nghi do ảnh
hưởng của Danh gia. Điều này thể hiện rất rõ trong chương “Tề vật luận” (mọi vật
ngang nhau) của “Nam Hoa Kinh”.
Lão Tử ngay từ đầu,
khi cho rằng Đạo không thể gọi đúng tên được thì có nghĩa rằng ông đã biết tính
hữu hạn của khái niệm; khi nói rằng “không” và “có” cùng từ Đạo mà ra và chỉ khác
tên gọi thôi thì có nghĩa rằng ông đã biết về tính tương phản của thế giới, cái tương đối của khái niệm. Do đó mà
ông đã rào trước đón sau, là chỉ tạm dùng cái có ý nghĩa hữu hạn, tương đối để
nói về cái có vẻ vô cùng, tuyệt đối.
Khi ta nói vật
này là âm, vật kia là dương thì cũng có thể nói vật này là dương và vật kia là âm,
vì âm, dương chỉ là tên gọi, do ta qui định và chỉ đúng cho riêng ta thôi. Đó
chính là tính tương đối khách quan của khái niệm. Nhưng dù có đặt tên thế nào đi
nữa thì tính tương phản của hai vật đó cũng không thay đổi, đó là sự thực khách
quan. Cần biết rằng sự tương phản của thế giới do tính đầy đủ của Tự Nhiên Tồn Tại mà có.
Hiện thực là thực
tại khách quan đã qua nhận thức. Nó luôn phiến diện và nặng tính qui ước của chủ
quan nhận thức. Cùng một thực tại khách quan, tùy vào trình độ tư duy, góc độ (đối với
thực tại xã hội thì là lập trường) của quan sát và độ bảo thủ của nhận thức mà có nhiều hiện
thực khác nhau. Tính chủ quan của hiện thực thể hiện ra như là thành kiến của
nhận thức. Đó là nguồn gốc làm hình thành nên cái gọi là tính tương đối chủ
quan của khái niệm.
Trang Tử đã chưa
phân biệt được hai tính chất tương đối ấy của khái niệm nên sa dần vào chủ nghĩa
hoài nghi đối với khả năng nhận thức, và đó là bước thụt lùi về tư tưởng của ông.
Trong khi Lão Tử
dứt khoát:
“Ai
cũng cho cái
đẹp là đẹp, do đó mà phát sinh ra cái xấu; ai cũng cho điều thiện là
thiện, do đó
mà phát sinh ra điều (khái niệm) ác”, thì Trang Tử luận cụ thể hơn, qua
đó mà nêu bật được tầm quan trọng thiết yếu của "thực chứng", dù là
trong "tâm trạng hoang mang":
“Mình là người
khác; người khác cũng là mình. Người kia có quan niệm của họ về thị, phi (đúng,
sai). Mình cũng có quan niệm của mình về thị, phi. Có một sự khu biệt thực nào
giữa mình và người kia không? Mình và người đừng chống đối nhau nữa, cái cốt yếu
của Đạo ở đó. Cái cốt yếu ở trung tâm cho nên ứng với các biến hóa vô cùng. Cái
thị biến hóa vô cùng, mà cái phi cũng biến hóa vô cùng. Cho nên mới bảo: không
gì bằng dùng trực giác.”
“Giả sử tôi
tranh biện với anh mà anh thắng tôi thì có nhất định là anh phải, tôi trái không?
Nếu tôi thắng anh thì có nhất định tôi phải, anh trái không? Trong chúng ta có
một người phải một người trái? Hay là cả hai chúng ta đều phải cả hoặc đều trái
cả? Anh và tôi làm sao biết được điều đó? Mà một người thứ ba nào khác thì cũng
hồ đồ không biết được, lựa ai sáng suốt làm trọng tài đây? Hỏi một người cùng một
ý kiến với anh, thì người đó do lẽ cùng ý kiến với anh, làm sao có thể phê phán
được? Nếu là một người cùng ý kiến với tôi, thì người này do lẽ cùng ý kiến với
tôi, làm sao có thể phê phán được? Nếu là một người ý kiến khác cả tôi lẫn anh,
hoặc giống cả tôi lẫn anh thì cũng làm sao phán đoán được? Vậy anh, tôi và người
thứ ba đó đều không quyết được ai phải, ai trái. Có nên đợi một người thứ tư nữa
không?”
“Đạo bị cái gì
che lấp tới nỗi phải phân biệt chân với ngụy? Lời bị cái gì che lấp tới nỗi phân
biệt phải với trái? Khi nào thì đạo không còn, khi nào thì lời không chấp nhận được?
Đạo bị thành kiến nhỏ nhen che lấp; lời nói bị sự hoa mỹ phù phiếm che lấp. Do đó
mà phái Nho và phái Mặc tranh luận với nhau. Cái gì phái này cho là phải thì phái
kia cho là trái; cái gì phái này cho là trái thì phái kia cho là phải. Muốn thấy
điểm phải trong chỗ họ cho là trái, thấy điểm trái trong chỗ họ cho là phải, thì
không gì bằng dùng trực giác.”
“Để cho thành
kiến của mình làm thay mình, sai khiến mình, như vậy ai cũng có thầy hết, còn cần
gì nhận người khác làm thầy nữa? Vì tinh thần của mình làm thầy mình, cho nên
người ngu cũng có thầy rồi. Kẻ nào muốn vượt thành kiến của mình để phân biệt
thị phi thì cũng không khác gì bảo rằng hôm nay đi qua nước Việt mà đã tới đó từ
hôm qua rồi, nghĩa là coi cái không có là có. Về điểm đó, thần minh như ông Vũ
(người khởi nghiệp nhà Hạ) cũng không thể biết được. Tôi làm sao mà biết được?”
Và Trang Tử đi đến
kết luận:
“Cái Đạo mà
minh thị ra rồi thì không phải là Đạo; biện mà phải dùng lời nói thì không đạt được
chân lý”.
Với câu nói này
thôi, Trang Tử đã hiểu sai ý của Lão Tử về sự không đặt một cái tên mang một ý
nghĩa giới hạn nào cho cái tạm gọi là Đạo. Từ đó mà ông kêu gọi:
“Đừng suy luận
gì hết thì thấy được Đạo!”
Đó
cũng chính là
luận điểm xuyên suốt, có tính sống còn của Thiền học sau này.
Thiền cho
rằng không
thể đạt được chân lý bằng tư duy lý luận; không thể tiếp cận được thực
tại đích thực bằng
tri giác; muốn nhận chân được Tồn Tại, muốn “ngộ” được chân lý tuyệt đối
hay Thực Tại Tối Cao thì không có con đường nào khác ngoài con đường
trực giác, vượt lên
trên mọi khái niệm, vứt bỏ mọi khái niệm để tu tập, thực hành chiêm
nghiệm tâm
linh trực tiếp (chứ không phải bằng tư duy trừu tượng!!!). Phải
chăng Lão Tử là người gợi mở nhưng chính Trang Tử mới là người đầu tiên
đề xướng ra cách thức "Thiền" với hy vọng đạt được đến nhận thức tuyệt
đích về thực tại khách quan? Và cũng từ đây, để vượt qua trạng thái bế
tắc về lý luận của Đạo Gia, nó đã tất yếu phân ly thành hai ngả: ngả
hình thành Đạo Giáo tu tập thành tiên và ngả hình thành Đạo Phật tu tập
thành chính quả!? Có thể lắm!
莊子
Nhưng nếu không
có một chút suy nghĩ nào, không tiếp thu được một trình độ nhận thức nào gọi là
đủ thì biết thế nào là loại bỏ tạp niệm, (chứ chưa cần nói đến loại bỏ hết khái niệm),
vượt lên trên mọi khái niệm để mà chiêm nghiệm bằng con đường tâm linh, trực tiếp
nhận chân được Tồn Tại??? Một pho tượng đá thì dù có ngồi thiền tu đến một triệu
năm, cũng chẳng ngộ thêm được điều gì ngoài cái mà hồn đá đã “ngộ” được từ trước!
Thực
ra, Trang
Tử (và không riêng gì Trang Tử!) đã không thấy được điều giản dị này:
khách
quan và chủ quan là hai yếu tố có tính tương phản trong nhận thức, giữa
chúng
có mối quan hệ qua lại khăng khít với nhau, là tiền đề
của
nhau, chuyển hóa lẫn nhau, y hệt như mối quan hệ của cặp Có - Không, hay
cặp Âm
- Dương vậy. Làm gì có nhận thức tuyệt đối khi bản thân nhận thức đã bị
lệ thuộc Trái Đất này rồi? Làm gì có "đốn ngộ" tuyệt đối khi Cõi Niết
Bàn chỉ là sự phủ dụ đầy yếm thế và mông lung để mưu cầu giảm bớt khổ
đau trên thế
gian này thôi? Làm gì có "tịnh độ" khi trong cõi "Nhà Phật" còn bộn bề
sự khát vọng không thể giải chấp được bằng sự khuyên răn chí tình nhưng
quá viển vông của
chính Đạo nhà Phật!?
Đứng
ở vị trí
trung dung, chúng ta nói: nếu chỉ bằng tư duy lý luận đơn thuần, con
người sẽ
không nhận thức được tuyệt đối Tồn Tại bởi vì năm giác quan của con
người không
cho phép nó nhìn thấy hết, bao quát được thực tại vốn dĩ, nhất là ở tầng
nền tảng siêu vi mô cũng như ở tầng siêu vĩ mô!
Ít ai để ý rằng ngay từ buổi đầu xuất hiện, một quá trình nhận thức đã
bao gồm bốn yếu
tố cơ bản là Thấy-Suy-Chứng-Biết. Bốn yếu tố ấy có mối tương quan mật
thiết với nhau: Không
Thấy, thì sao Suy, Suy mà không Chứng thì sao Biết chắc? Mặt khác, Biết
sẽ làm cho Thấy thêm sâu rộng và qua đó "chắp thêm cánh" cho Suy, kích
thích tăng cường Chứng để Biết chắc hơn nữa cũng như tỏ tường hơn nữa… Ở
một tầm cao tri thức nào đấy, cái Thấy ấy cũng chính là Thực Chứng
(Khoa học tự
nhiên), cái Biết ấy chính là Tri Thức Lý Luận (Triết học) và cái Suy ấy
chính là Chiêm Nghiệm Tâm Linh (giác quan thứ sáu hay tổng giác, là sự
thăng hoa của tri giác
ở trạng thái tột độ). Đến một trình độ nào đó, bốn yếu tố ấy sẽ làm nên
một nhận
thức tối hậu, đủ nhìn thấy được bản chất tuyệt đối của Tồn Tại, ở góc độ
quan sát
của con người (chỉ thế thôi chăng?!)
Rốt cuộc, cái Đạo Huyền Diệu của Lão Tử, qua Trang Tử diễn giải, vừa sáng tỏ hơn vừa huyễn hoặc hơn,
đầy đủ thị phi mà cũng vượt trên thị phi, ăm ắp hơi thở của Thiền:
“Đông Quách Tử
hỏi Trang Tử:
- Cái ông gọi là
Đạo ấy, nó ở đâu?
Trang Tử đáp:
- Ở khắp nơi.
- Phải chỉ ra
chỗ nào mới được chứ.
- Trong con kiến.
- Sao mà thấp vậy?
- Trong cọng cỏ.
- Còn thấp hơn
nữa ư?
- Trong mảnh sành.
- Sao càng thấp
quá vậy?
- Trong cục phân.
Đông Quách Tử
không hỏi nữa. Trang Tử bảo:
- Những câu hỏi
của ông không đi đôi thực chất vấn đề. Như viên xét thuế hỏi người coi chợ về cách
dẫm lên con heo để biết nó mập hay không: chân càng lún xuống thì heo càng mập.
Ông đừng nên chỉ hẳn một vật nào mà hỏi, như vậy ông sẽ không bỏ sót. Cái Đạo tối
cao như vậy, mà lời nói cao cả cũng vậy: bao hàm, phổ biến, và đủ cả. Ba danh từ
đó tuy khác mà ý nghĩa như nhau (tính toàn diện của Đạo - NV).
Người
nào đã tiêu dao ở cõi hư vô, bao gồm mà nghị luận thì biết được Đạo là
vô cùng. Người nào đã
vô vi thì điềm đạm mà an tĩnh, tịch mịch mà thanh hư, điều hòa mà nhàn
dật. Bỏ
tham vọng của ta đi, đi mà không biết để tới đâu, về mà không biết sẽ
ngừng ở đâu,
đi và về đều không có mục đích. Bàng hoàng ở trong cảnh giới mênh mông
hư vô mà
bậc đại trí cũng không biết giới hạn của nó, Chủ tể của vật (tức Đạo)
với vật đều
không có giới hạn (vì Đạo ở trong vật, vật ở trong Đạo), nhưng vật với
vật thì
có giới hạn, đó là giới hạn của vật. Cái không có giới hạn (tức Đạo) nắm
trong
cái giới hạn (tức vật), Đạo tuy nằm trong vật có giới hạn mà chính nó
không có
giới hạn. Như cái người ta gọi là đầy rỗng, suy diệt. Đạo tuy ở trong
cái đầy rỗng mà không phải là đầy rỗng; ở trong cái suy diệt mà không
phải suy diệt; ở
trong gốc và ngọn mà không phải là gốc, ngọn; ở trong cái tích tụ và
tiêu tán mà
không phải là tích tụ, tiêu tán.”
Đọc “Quỉ Cốc Tử”
chúng ta thấy tác giả đã nói đến vấn đề quan sát (trì khu), nghĩa là tác giả đã
phân định ra cái thế giới nội tại bên trong của quan sát (thuyết âm phù) và cái
bên ngoài, đối tượng của quan sát, nhưng chưa thấy được mối quan hệ hết sức sâu
xa giữa hai thế giới ấy, mối quan hệ có tính tương phản, tiền đề "sống còn" của
nhau. Điều đặc sắc nhất theo chúng ta nghĩ, trong tác phẩm Nam Hoa Kinh của mình,
Trang Tử đã là người đầu tiên của triết học cổ đại Trung Quốc chính thức đưa ra
ý niệm rõ ràng về sự phân định khách quan giữa “cái tôi” và Vũ Trụ, giữa chủ thể nhận
thức và khách thể nhận thức. Ông nói:
“Không có cái
không phải là ta thì không có ta. Nhưng không có ta thì không thể hiện được sự
biến hóa của tự nhiên. Như vậy, ta với tự nhiên thật mật thiết với nhau. Nhưng
không ai biết được chủ tể (nguyên nhân) của Vũ Trụ (toàn bộ sự việc đó) là gì.”
Ta, cũng như trời
đất, cũng như vạn vật, đều từ Đạo mà ra, đều cùng gốc, xét ở góc độ này thì ta
cũng như trời đất, vạn vật chẳng khác gì nhau cả. Ta chưa sinh ra thì đối với
ta, cả ta, vạn vật, trời đất đều chưa có; chỉ khi có ta (vì ta thấy), trời đất,
vạn vật mới có (xuất hiện). Có lẽ vì thế mà Trang Tử mới nói: “Trời đất với ta
cùng sinh ra, vạn vật với ta là một.”
Phụ họa theo,
chúng ta ngâm:
Có trời đất mới
có tôi
Có tôi, trời đất
lần hồi hiện ra.
Trời cao đất thấp
bao la
Cho tôi ở giữa để
mà buồn vui
Đất gần, trời tít
xa vời
Nên đời tôi ngắn,
đến rồi lại đi…
Phải chăng hội ngộ, chia ly
Để về với đạo qui y đất trời ***
Bây giờ chúng
ta nói sang nhân sinh quan Hoàng Lão.
Toàn bộ quan niệm
về nhân sinh - hành vi của Lão Tử đều lấy Vũ Trụ quan của ông làm cơ sở lý luận.
Theo Lão Tử thì “Đạo sinh ra vạn vật”, do đó con người cũng sinh ra từ Đạo. Hay
nói cách khác con người sinh ra từ Tự Nhiên, sống trong Tự Nhiên và chết về Tự
Nhiên, giống như vạn vật, và như thế cũng chẳng có gì đặc biệt, cũng chỉ là lẽ
thường tình. “Trời đất bất nhân, coi vạn vật như chó rơm” là câu bộc lộ rõ rệt
cái quan niệm duy vật, vô thần triệt để của Lão Tử. Ngày xưa người ta dùng rơm
kết thành hình con chó để dùng vào việc cúng bái. Khi chưa bày cúng thì những
con chó rơm ấy được cất kỹ, bao bọc bằng gấm vóc; sau khi bày cúng rồi thì bị vứt
liệng ra đường hoặc dùng để nhóm lửa đun, nấu. Trời đất thản nhiên, vô tình đối
với vạn vật (trong đó có con người) cũng như con người đối với con chó rơm vậy
thôi!
Đạo là duy nhất,
vừa là bản thể, vừa là nguyên lý, mà lại sinh ra vạn vật, nên vạn vật chính là
sự thể hiện của Đạo, và sự tồn tại biến hóa của chúng cũng chính là sự thể hiện
của Đạo lý. Nhưng nếu chỉ thế thôi thì làm sao mà vạn vật phân biệt với nhau được,
mà nếu không phân biệt được thì làm sao mà biến hóa được? Để trả lời được câu hỏi
này, Lão Tử, dù chưa rõ ràng thì cũng phải thừa nhận tính độc lập tương đối, tính tự do
tương đối của vạn vật, và ông đã giải quyết được một cách tài tình đến bất ngờ:
“Đạo lớn lan tràn
khắp, có thể qua bên trái, có thể qua bên phải. Vạn vật nhờ nó mà sinh trưởng mà nó không
can thiệp vào, công thành rồi mà không nhận là của mình; nó nuôi dưỡng vạn vật
mà không làm chủ vạn vật.”
Con người và xã
hội loài người, không phải là ngoại lệ và nhờ thế mà khác (tương đối) với xung
quanh.
Tuy vậy, dù có độc
lập, tự do tương đối đi nữa thì vạn vật (trong đó có cả con người) vì đều là sự
thể hiện của Đạo lý (Đạo lý ở đây là nguyên lý Tự Nhiên chứ không được hiểu như
đạo đức) nên luôn luôn hợp Đạo lý; là một sự an bài, không thể can thiệp được. Điều
đó lý giải được nhiều điều trong thực tại, chẳng hạn như con người đói thì tìm ăn,
khát thì tìm uống, hoặc có sinh thì có tử, không ai thoát được cái chết…; nhưng
lại không giải thích được nhiều điều khác, như vì sao người này sống thọ hơn người
kia; hay như vì sao có người làm quần quật mà không đủ ăn, có người không làm mà
phè phỡn, thừa mứa, vì sao có những hành vi trái ngược trong cõi nhân sinh như
thế. Những hành vi, những hiện tượng trái ngược có hợp Đạo lý không? Nếu chúng
thực sự xảy ra thì phải cho rằng hợp Đạo lý (không phải đạo đức - xin nhắc lại!).
Một con thuyền trôi xuôi theo dòng sông đương nhiên là hợp Đạo lý vì nó phục tùng
qui luật. Nhưng nếu thấy con thuyền đó “trôi” ngược dòng lên thượng nguồn thì
hiện tượng đó cũng hợp Đạo lý (chỉ có điều chưa phát hiện ra nguyên nhân nào,
gió thổi cánh buồm hay có động cơ quay chân vịt…). Nhưng nếu không có bất cứ một
tác động nào mà chỉ có nước chảy xuôi thôi thì không thể xảy ra hiện tượng con
thuyền trôi ngược dòng sông được, vì đó là phi Đạo lý, trái với nguyên lý Tự Nhiên.
Vậy thì những hành
động bạo ngược, tàn ác của vua Kiệt, vua Trụ, vì đã xảy ra nên cũng phải coi là
hợp Đạo lý? Mà nếu đã hợp Đạo lý thì sao có thể lên án được?
Câu hỏi đó đã điểm
đúng yếu huyệt của toàn bộ triết thuyết Hoàng Lão nói chung và nhân sinh quan của
nó nói riêng. Vì nhân sinh quan Hoàng Lão được xây dựng hoàn toàn dựa trên nền
tảng là vũ trụ quan của nó và chúng hợp thành một hệ thống thống nhất, không thể
tách rời được, do đó tính chân lý của học thuyết Hoàng Lão hoàn toàn phụ thuộc
vào cái nhân sinh quan ấy. Đến lượt nhân sinh quan Hoàng Lão có khách quan hay
không khách quan, hợp lý hay không hợp lý, nhân đạo hay không nhân đạo… lại tùy
thuộc vào việc trả lời câu hỏi nêu trên. Lão Tử đã đứng trước một thách thức thực sự to lớn, không dễ gì khuất phục được!
Đạo
sinh ra vạn
vật , nuôi dưỡng vạn vật nhưng đồng thời cũng bỏ mặc vạn vật, tiêu diệt
vạn vật
vì Đạo là vô tình. Thế thì cái tình thể hiện "đầy ắp" trong cõi nhân
gian từ đâu mà có? Hay Đạo vừa vô tình lại vừa hữu tình? Vậy thì phải
"thêm" cho Đạo cái hữu tình nữa để làm "đối trọng" với cái vô tình mới
đầy đủ? Không thể nhưng cũng không không thể! Đến đây,
bằng sự suy ngẫm cao độ, bằng cảm nghiệm linh giác, Lão Tử đã có một
bước đi vừa
gượng ép, vừa thiên tài của ông, đó là đưa ra khái niệm Đức Huyền Diệu.
Nghĩa
đen cổ xưa
của khái niệm “đức” là gieo hạt xuống đất; sau này nó hàm chỉ những tính
cách được
cho là tốt đẹp của con người. Khi nói một người có đức thì người đó được
công
nhận là người tốt. Theo quan niệm của Đạo Nho, người toàn đức (tốt toàn
diện)
phải gồm đủ các đức: nhân, lễ, nghĩa, trí, tín… Khổng Tử nói: “Người mà
không có
đức thì không hiểu sao thành người được”. Đó là câu nói mù quáng, phạm sai lầm
lôgic! Theo Mặc Tử thì người có đức chính là
“kiêm ái”, yêu thương tất cả mọi người và hành động vì tình yêu thương
ấy. Đó là quan niệm "cương cứng", không phù hợp với suy nghĩ đời thường,
hơn nữa, yêu người đến quên yêu mình thì thông thường, vẫn chưa đủ đức!
Còn
theo quan
niệm của Lão Tử thì một người có đức là một người biết Đạo, làm theo Tự
Nhiên,
mà theo Tự Nhiên thì cũng có nghĩa là làm theo lẽ phải mà làm theo lẽ
phải thì
nhất định là phải yêu mình, yêu người; vì mình mà không hại người và vì
người
nhưng cố đừng để lụy mình; rốt cuộc sẽ dẫn đến hành động vì quyền lợi
hòa hợp của
mình và của thiên hạ. Như vậy giềng mối của cái tốt chính là đức nhân;
nguồn gốc
của đức nhân không gì khác, đó chính là Đức Huyền Diệu. Đức Huyền Diệu
không phải là Đạo nhưng từ Đạo mà
ra, gắn liền với Đạo. Nói chính xác hơn: Đức Huyền Diệu là biểu hiện mặt
nuôi dưỡng, bảo toàn tồn sinh trong vận hành "vô vi" (không làm mà làm
tất cả) của Đạo. Lão Tử viết trong “Đạo Đức Kinh”:
“Đạo sinh ra vạn
vật, Đức bao bọc mỗi vật, vật chất tạo nên hình thể vật, hoàn cảnh làm cho vật
thành hoàn chỉnh. Vì vậy mà vạn vật đều tôn sùng Đạo và quý Đức. Đạo sở dĩ được
tôn sùng, Đức sở dĩ được quý là vì Đạo và Đức không can thiệp, không chi phối vạn
vật mà để vạn vật tự nhiên phát triển”.
"Khi Đạo đã sinh
ra vạn vật thì Đức bao bọc, bồi dưỡng, nuôi lớn tới thành thục, che chở vạn vật.
Tuy sinh dưỡng vạn vật mà không chiếm cho mình, làm mà không cậy công, để cho vạn
vật tự lớn lên mà mình không làm chủ, như vậy gọi là Đức Huyền Diệu”
Thế thì thực chất
của Đức Huyền Diệu là gì? Chúng ta biết rằng vạn vật sinh sinh, diệt diệt, biến
hóa không ngừng. Đạo là nguyên nhân của tất cả sự vận động ấy nhưng lại cũng vô
cảm, thản nhiên trước những quá trình sinh, dưỡng, lão, tử ấy. Điều nên đặc biệt
chú ý là chỉ khi nói đến sự nuôi dưỡng, bảo tồn, phát triển sự sống, Lão Tử mới
cho khái niệm “Đức” xuất hiện. Lão Tử còn nói: “Những biểu hiện của Đức lớn là đều
tuân thuận theo Đạo” (Khổng đức chi dung, duy đạo thị tòng). Nhưng thử hỏi, nếu
Đạo sinh ra một con quỉ khát máu thì việc che chở nuôi dưỡng nó có phải là thể
hiện của Đức Huyền Diệu không? Thật khó trả lời!!!
Trong cuốn “Lão
Tử - Đạo Đức Kinh” (NXB Văn Hóa, 2006), tác giả Nguyễn Hiến Lê viết đầy băn khoăn:
“Chữ “Đức” ở đây
Lão Tử dùng với một nghĩa rất mới, không phải chữ đức mà nhà Nho thường dùng như
đức nhân, đức tín, đức trung, đức hiếu.
Cứ theo đoạn dẫn
ở trên - Đức nuôi lớn mỗi vật và câu “Khổng đức chi dung, duy đạo thị tòng”: những
biểu hiện của Đức lớn đều tùy theo Đạo; cứ theo những câu đó thì chúng ta đoán
rằng “Đức” là một phần của Đạo: khi chưa hiển hiện trong mỗi vật thì là Đạo,
khi đã hiển hiện rồi thì phần hiển hiện trong mỗi vật là “Đức”. Mỗi vật đều có
“Đức” mà Đức của bất kỳ vật nào cũng từ Đạo mà ra, là một phần của Đạo, cho nên
Đức nuôi lớn mỗi vật và luôn luôn tùy theo Đạo.
Lão Tử không thể
giảng rõ hơn được. Tùy chúng ta muốn hiểu sao thì hiểu. Có người cho Đạo là tổng
nguyên lý của vạn vật, mà Đức là nguyên lý của mỗi vật. Cũng không rõ gì hơn.
Có người cho Đức
là tác dụng của Đạo.
Người khác bảo Đức
là tính năng động của Đạo.
Vài học giả cho
nó là “năng lực ngấm ngầm mà cũng là công dụng của Đạo”.
Một nhà khác
cho nó là “ái lực”, một sức giữ cho vật chất khỏi tan rã, nhờ đó mà nguyên tố Đạo
cấu thành muôn vật mới không bị rã rời.
Cũng có thể coi
nó là bản năng sinh tồn của mỗi sinh vật: đói thì kiếm ăn, khát thì kiếm uống;
bản năng tự vệ, mệt thì nghỉ ngơi, tìm sự an toàn, tránh nguy hiểm, bản năng
truyền chủng v..v… Nhờ những bản năng đó đều phú bẩm, nên rất thuận luật tự nhiên,
rất hợp với Đạo, luôn luôn “duy Đạo thị tòng”. Có thể như vậy chăng?”
Dù
còn mập mờ
khiên cưỡng và nặng hình thức, nhưng việc đưa ra khái niệm Đức Huyền
Diệu và đặt
Đức Huyền Diệu là thuộc về Đạo, là một bộ phận của Đạo đồng thời cho
rằng Đức Huyền Diệu là mức tột bậc của Đức (đức nhân), làm cho triết
thuyết Hoàng Lão trở nên
chặt chẽ hơn về mặt lý luận; quan niệm về nhân sinh hành vi nhất quán
hơn với
quan niệm về Đạo mà cũng phù hợp hơn với đời sống tinh thần vốn dĩ rất
sinh động
của con người trong thực tiễn. Cha mẹ sinh con ra thì đùm bọc, che chở,
nuôi nấng
cho con lớn khôn mà đâu có kể công, đâu vì cậy nhờ, đó chính là cái lý
của tự
nhiên nó thế, cái tình của Đức Huyền Diệu nó thế. Chính vì thế mà con
cái (vạn
vật) tôn sùng cha mẹ (Đạo) đã cho họ cuộc sống và quý cái tình của cha
mẹ (Đức)
đã nuôi họ lớn khôn. Phải chăng khái niệm Đức Huyền Diệu được Lão Tử rút
ra từ
hiện tượng đó? Chúng ta không thể nào biết được!
Tại sao Đạo thì được tôn sùng mà Đức chỉ được
quí thôi? Đó là vì Đạo sinh ra vật, cho vật “cuộc đời” rồi sau đó Đức mới ra
tay nuôi dưỡng. Nếu không nhờ Đạo thì vật làm sao được “sống” để Đức có cái
mà nuôi dưỡng? Trong thực tiễn có những cha mẹ đẻ con ra mà bỏ con thì con cái
dù có cúi đầu chịu cái công sinh thành thì cũng không thể quí cái tình cha mẹ được,
thậm chí còn khinh khi nữa. Từ trường hợp này chúng ta suy ra: cái Đức có thể là
phát nguyên từ Đạo nhưng có tính độc lập tương đối so với Đạo. Do đó nếu có những
sự vật - hiện tượng hợp Đạo lý và có Đức thì cũng có thể có những sự vật - hiện
tượng hợp Đạo lý mà không có Đức. Chỉ có thế thì mới giải thích được sự kiện
con quỉ khát máu và hiện tượng Kiệt, Trụ mà thôi.
Lão
Tử chắc chắn
là chưa nhận chân được bản chất thật sự của Đức cho nên cái khái niệm
Đức Huyền Diệu mà ông đưa ra thật mông lung, thiếu căn cứ, làm cho các
thế hệ sau này phải
suy đoán già non mãi. Nhưng chỉ với việc cho rằng đức nhân có nguồn gốc
từ Tự Nhiên
thôi, Lão Tử đã thể hiện một giác ngộ tâm linh cao vợi rồi.
Đức nhân, nói đơn
giản, là biểu hiện sự tốt lành, sự hợp lẽ phải. Con người có đức nhân thì ai cũng
quí mến. Quí mến là cái tình. Đức hợp tình nên được quí mến. Do đó Đức cũng chính
là cái tình phù hợp. Cha mẹ nuôi nấng che chở cho con cái, đối với vạn vật, chủ
yếu là bản năng; đối với loài vật có tư duy hay con người là cái Đức Huyền Diệu.
Đức Huyền Diệu ấy là sự thể hiện ra, là kết quả của tình yêu thương. Mà tình yêu
thương ấy lại có xuất phát điểm từ sự yêu cuộc sống, yêu mình và cuối cùng thì
nguồn gốc sâu xa của tình yêu ấy lại chính là sự đòi hỏi sống còn của bản năng; là từ tự
nhiên. Có thể nói căn nguyên của Đức chính là tình yêu thương, một thứ tình cảm chỉ ở con người mới có. Tình yêu thương
vừa có tính khách quan vì có nguồn gốc từ bản năng vừa mang tính chủ quan vì nó
cũng đồng thời hình thành nên từ trải nghiệm cuộc sống, tự giác nhận thức và lý trí cảm nhận.
Cũng có thể tán
hươu tán vượn về Đức theo cách khác. Từ đặc tính phân biệt của Tồn Tại mà có các
sự vật - hiện tượng hay nói gọn là vạn vật. Vạn vật là thể hiện của Tồn Tại và
cũng chính là tồn tại nên chúng đều phải tuân theo nguyên lý Tự Nhiên. Mặt khác
vạn vật là những bộ phận của Tồn Tại, phân biệt được với nhau nên việc tuân
theo nguyên lý Tự Nhiên của chúng được thể hiện ra theo những cách khác nhau,
thể hiện ra những qui luật đặc thù cho riêng mỗi vật (mỗi loại vật). Vạn vật là
những bộ phận của Tồn Tại, phân biệt được với nhau nên cũng có nghĩa là chúng độc
lập, tự do tồn tại tương đối so với nhau và cũng có nghĩa là một cách tương đối, chúng tự thân vận động
để duy trì cái tồn tại tương đối ấy trong một tổng thể tác động tương hỗ, chuyển
hóa, biến thái, hòa hợp, sinh diệt nhau không ngừng.
Tự thân vận động
để duy trì tồn tại ở vạn vật vô sinh thể hiện thành bản năng sinh tồn ở vạn vật
hữu sinh và thành ra tự giác sinh tồn ở loài người. Từ cái quá trình sinh tồn vừa
bản năng vừa tự giác ấy, qua trải nghiệm và nhận thức mà con người thấy được cuộc
sống của mình là quí giá, đi đến chỗ quí mình, yêu mình, và tôn sùng quí mến
cha mẹ, yêu thương con cái, anh em ruột thịt… Đó là mầm mống của đức nhân.
Đi liền với quí,
yêu là khinh, ghét. Mọi trạng thái, mức độ tình cảm của con người sinh ra từ đó
và từ đó mà cũng xuất hiện ra cặp khái niệm thị phi (đúng-sai). Đã là đúng thì
bao giờ cũng đức, mà đức thì bao giờ cũng duôc cho là hợp lẽ phải. Sự thực có lẽ vậy?
Yêu mình yêu người là đức nhân,
vì mình hại người là thất đức, yêu mình ghét người là vô đức, quên mình
yêu người là… Mặc Tử, ghét mình yêu người là… dở hơi, và ghét mình ghét
người là vô...đạo!
Như chúng ta đã
nói, bắt nguồn từ tình yêu cuộc sống mà mọi người, toàn nhân loại, ai ai cũng đều
có một ước mong tối thiểu là được yên ổn làm ăn trong hòa bình, được sống no đủ,
hạnh phúc trọn đời. Đơn giản thế thôi mà lạ lùng thay, từ thuở hồng hoang đến
nay vẫn chỉ là ước mơ xa vời của đại chúng nhân loại. Trên trái đất này lúc nào
cũng thấy khói lửa ngút trời, máu chảy đầu rơi tràn lan, đói khổ nghèo hèn, bất
công áp bức la liệt khắp gầm trời. Cái Đức Huyền Diệu ở đâu, kính thưa Lão Tử?!
Bức tranh ảm đạm
của xã hội loài người có trái Đạo lý không? Không, vì nếu không phù hợp với
nguyên lý Tự Nhiên thì làm sao nó tồn tại được? Vậy phải cho là nó hợp Đạo lý;
nó tồn tại được là vì hợp Đạo lý; nhưng tồn tại ảm đạm đầy đau buồn như thế là
vì thiếu Đức Huyền Diệu.
Đến đây chúng
ta đã thấy được cái thực chất của khái niệm Đức Huyền Diệu mà Lão Tử đã bày ra.
Trước mắt chúng ta là một phong cảnh thiên nhiên tràn đầy sức sống, đất đai phì
nhiêu, bốn mùa hài hòa mưa nắng, cỏ cây cứ theo đó mà nảy nở, vươn mầm xanh lá,
ngàn hoa khoe sắc cho nặng trĩu trái cành; muông thú cứ theo đó mà sinh sôi nên
bầy đàn hồn nhiên mà vui sống. Có được bức tranh thủy mặc ấy là nhờ Đạo, nhờ
nguyên lý Tự nhiên. Những bức tranh thủy mặc đều tuyệt đẹp. Cái đẹp ấy chính là
sự phô diễn của cái mà Lão Tử nói là Đức và sự phô diễn cái đẹp tuyệt mỹ chính
là Đức Huyền Diệu (là cái Đức ở trạng thái tối cao, tuyệt đích).
Thế rồi chúng
ta lại nhìn thấy một quang cảnh khác, tương phản với quang cảnh ban đầu: khô cằn,
hạn hán, bão tố liên miên; núi phun lửa cháy ngút ngàn; rừng cây, hoa, lá theo đó
mà tan hoang, chồi mầm thành than, không nhú; muông thú chết chìm chết nổi, chết
đói chết thui. Đó là một bức tranh điêu tàn và ghê rợn. Có được bức tranh tả chân
ấy là vì Đạo, vì nguyên lý Tự nhiên. Nhưng cái điêu tàn trong bức tranh này đâu
phải là sự phô diễn của cái Đức mà là cái ngược với nó: cái Vô Đức.
Đạo là vô tình
mà làm tất cả; làm ra nảy nở tốt tươi là nó và làm ra thui chột điêu tàn cũng là
nó. Vô Đức hay Hữu Đức thì cùng như nhau cả thôi, Đạo chẳng yêu hay ghét gì!
Không thấy Lão
Tử nói đến cái Vô Đức. Như vậy là ông đã thiên vị?
Vũ trụ quan của
Lão Tử là hoàn toàn duy vật. Quan niệm Đạo mang tính khách quan cao độ, rất hợp
lý. Chỉ khi nói đến Đức thì ông lại chỉ chú trọng tới mặt “sinh ra vạn vật” mà quên mất
“chức năng” thứ hai của nó là “tiêu diệt vạn vật”. Do đó mà lòng ông coi toàn cảnh
thiên nhiên được mô tả chỉ như phong cảnh thứ nhất mà chúng ta thấy: bốn mùa
xoay vần hài hòa mưa nắng, cây cỏ, muông thú nảy nở, sinh sôi tràn trề sức sống.
Đạo sinh ra, Đức nuôi dưỡng lấy mà được như thế. Đức nuôi dưỡng vì thế mà cũng
là lẽ đương nhiên, là tự nhiên, phù hợp Đạo lý. Có lẽ từ đây mới hình thành nên
quan niệm cho rằng: sống đúng là sống theo tự nhiên, sống theo tự nhiên là có đức,
có đức nghĩa là biết yêu thương mình và cả yêu thương người mà làm cho mình cùng
cả cho người; sống như thế là đức độ, hợp Đạo lý. Vì thế, ngày nay đã thành thông dụng, khi nói là hợp Đạo lý
thì cũng có nghĩa là Đức, là lẽ phải?
Cuối cùng, Lão
Tử đã coi làm Đức cũng chính là hợp Đạo lý, là hợp Tự Nhiên và do đó là đúng, là
lẽ phải ở đời. Làm Đức có nghĩa là nuôi dưỡng, bao bọc, che chở. Mà muốn làm được
như thế phải có lòng yêu thương con người. Và người có đức nhân cũng chính
là người có lòng nhân hậu.
Nhưng, như chúng
ta đã phân tích thì đối với Đạo, Đức hay Vô Đức cũng chẳng có gì là đúng hay
sai cả. Việc Lão Tử cho rằng chỉ có Đức (nuôi dưỡng, bao bọc, che chở vạn vật)
là hợp Đạo lý thôi, là cái lẽ phải theo, là chân lý nên theo, thì đó là ý kiến
riêng của ông, là qui ước hoàn toàn chủ quan của ông. Cũng như chúng ta khen chê
đẹp hay xấu, tươi tốt hay điêu tàn là theo ý chủ quan của chúng ta thôi, chứ Đạo
thì chẳng có “ý kiến” gì.
May
thay cái tác
dụng của Đức Huyền Diệu (là sự qui ước “riêng tư” của Lão Tử) lại phù
hợp với ước
vọng đời đời (mà chúng ta đã nói ở phần trên) của đại chúng. Mà cái ước
vọng ấy, nếu xét
trong một chừng mực nhất định là có tính chủ quan, nhưng xét đến cùng
lại hoàn toàn mang tính khách quan (có nguồn gốc bản năng, nảy
sinh ra từ thực tiễn xã hội đầy biến loạn, đầy bấp bênh, trắc trở). Do
đó Đức
Huyền Diệu trở thành chuẩn mực để định nghĩa đúng sai, là nền tảng của
đạo đức
con người. Trong xã hội, bất cứ người nào, thế lực nào, thời kỳ nào, làm
theo Đức
Huyền Diệu ấy, đều là làm điều nhân nghĩa, đều được gọi là có đức nhân
và đều được
cho là ở về phía chính nghĩa.
Lão Tử đã may mắn vì đã có được cái trực giác tâm linh siêu thoát, thiên tài!
***
Xuất phát từ Đạo
(nguyên lý Tự Nhiên) và Đức (lẽ phải cần theo, hợp ý hợp tình đại chúng) như vậy, Lão Tử đã xây
dựng nên một quan niệm rất sâu sắc về nhân sinh - hành vi. Chúng ta có thể rút
ra ở đó hàng loạt danh ngôn về cách sống. Dưới đây chúng ta sẽ trích lược những
đoạn cho là cần và hay và lạm bàn vào ít thôi chứ không “bàn tán xôn xao” như
trên nữa (bàn nhiều quá, lòi hết cái dốt ra thì nguy!!!)
Lão Tử viết:
“Vàng ngọc đầy
nhà, làm sao giữ nổi; giàu sang mà kiêu là tự rước lấy họa. Công thành rồi thì
nên lui về, đó là đạo trời.”
Lạm
bàn: - Phạm vào luật phản phục; phạm vào đức, gây thù chuốc óan
- Phạm Lãi được
hưởng tuổi già vì hiểu đạo trời nhờ Lão Tử chăng?
Lão Tử viết:
“Ngũ sắc làm
cho người ta mù mắt; ngũ âm làm cho người ta ù tai; ngũ vị làm cho người ta tê
lưỡi; ruổi ngựa săn bắn làm cho lòng người ta mê loạn; vàng bạc châu báu làm
cho hành vi người ta đồi bại. Cho nên thánh nhân cầu no bụng mà không cần vui mắt,
bỏ cái này mà lựa cái kia.”
Lạm
bàn: - Lão Tử khắt khe quá!
- Cảm giác ngon như bản năng; món
ăn đã dở òm thì khó lòng mà ăn được, chứ chưa nói đến ăn no, đã ngán thì dễ thấy
no
Lão Tử viết:
“Đạo lớn bị bỏ
rồi mới có nhân quả; trí xảo xuất hiện rồi mới có trá ngụy; gia đình (cha mẹ,
anh chị, vợ chồng) bất hòa rồi mới sinh ra hiếu, từ; nước nhà rối loạn mới có tôi
trung.”
Lạm bàn: - Câu
này rất hay, có thể dùng nó để làm ví dụ sự hình thành khái niệm tương phản; còn gợi nhớ các câu như
“cháy nhà ra mặt chuột”, "thời thế tạo anh hùng", "bần hàn sinh đạo tặc"...
Lão Tử viết:
“Kẻ biết người
là khôn, kẻ tự biết mình là sáng suốt. Thắng được người là có sức mạnh, thắng được
mình là kiên cường. Kẻ tri túc (biết thế nào là đủ) là người giàu; kẻ mạnh mẽ
(hoặc gắng sức làm) là người có chí…”
Lạm bàn: - Thường
chúng ta chỉ thấy cái hay, dở của người chứ mấy ai thấy cái hay, dở của chính mình
- Đâu phải nhiều bạc tiền mới là
giàu. Giàu có, biểu diễn theo toán học là thế này: Giàu có = Phước x Lộc x Thọ
; Không Phước thì Lộc như núi cũng khốn khổ, không Lộc mà Phước như biển cũng bần
hàn, đoản Thọ mà Lộc, Phước đầy nhà thì… hết nói!
Lão Tử viết:
“Người có đức
cao thì không có ý cầu đức, cho nên có đức; người có đức thấp có ý cầu đức, cho
nên không có đức.
Người có đức
cao thì làm mà như không làm (vô vi); người có đức thấp thì cố làm mà như không
làm.
Người có đức
cao thì làm điều nhân, chứ không có ý làm; người có lòng nghĩa cao thì làm điều
nghĩa mà có ý làm; người có đức lễ cao thì giữ lễ nghi, và nếu không được đáp lại
thì đưa cánh tay ra kéo người ta bắt phải giữ lễ nghi như mình. Cho nên đạo mất
rồi thì sau mới có đức, đức mất rồi thì sau mới có nhân, nhân mất rồi sau mới có
nghĩa, nghĩa mất rồi sau mới có lễ. Lễ là biểu hiện sự suy vi của sự trung hậu
thành tín, là đầu mối của sự hỗn loạn. Dùng trí tuệ để tính toán trước, thì chỉ
là cái lòe loẹt của đạo, mà là nguồn gốc của ngu muội. Cho nên bậc đại trượng
phu (người hiểu đạo) giữ trung hậu thành tín mà không trọng lễ nghi, giữ đạo mà
không dùng trí xảo, bỏ cái này mà giữ cái kia”.
Lạm bàn: - Ngày nay rất nhiều người làm từ thiện. Đi làm
mà tự nhiên như không thì thực sự thương người, nên đức cao. Đi làm mà ra vẻ là
làm thì chỉ vì danh lợi, nên đức thấp. Tuy vậy, còn hơn thất đức, vô đức
- Đức, nhân làm
nảy sinh ra lễ, nghĩa; lễ, nghĩa đề cao đức, nhân. Khi lễ, nghĩa xa rời đức, nhân
thì bỏ lễ, nghĩa để giữ lại đức, nhân, như thế là hợp đạo trời.
- Nhà nước đã
thất lễ, bội tín, bất nhân với dân thì dân việc gì phải giữ lễ, tín, nhân với
nhà nước?
Lão Tử viết:
“Danh tiếng với
sinh mệnh cái nào quí? Sinh mệnh với của cải cái nào quan trọng?
Được danh lợi mà
mất sinh mệnh, cái nào hại? Cho nên ham danh quá thì phải hao tổn nhiều, chứa của
cải nhiều thì mất mát nhiều. Biết thế nào là đủ thì không nhục, biết lúc nào nên
ngừng thì không nguy mà có thể sống lâu được”.
Lạm bàn: - “Người ta có cái nguồn sống là tối linh”,
“cho nên tùy tâm mà động, không trái với cái thích tự nhiên”. Ôi, nhớ Dương Chu
quá!
Lão Tử viết:
“Khéo dựng thì
không nhổ lên được, khéo ôm thì không thoát ra được, con cháu mà khéo dựng, khéo
ôm thì việc tế tự sẽ đời đời không dứt. Lấy đạo mà tu thân thì đức sẽ đầy đủ; lấy
đạo mà lo việc nhà thì đức sẽ có dư; lấy đạo mà lo việc làng xóm thì đức sẽ lớn
ra; lấy đạo mà lo việc nước thì đức sẽ thịnh; lấy đạo mà lo việc thiên hạ thì đức
sẽ phổ cập.
Lấy thân mình mà
xét thân người, nhà mình xét nhà người, làng mình xét làng khác, nước mình xét
nước khác, thiên hạ này xét thiên hạ thời xưa và thời sau. Làm sao ta biết được
thiên hạ thế này hay thế khác? Là do lẽ đó”.
Lạm
bàn: - Làm theo đạo thì sẽ biết đức
- Ôn cố tri tân
là con đường cốt yếu của nhận thức
Lão Tử viết:
“Người nào có đức
dày thì như con đỏ. Độc trùng không chích, mãnh thú không vồ, ác điểu không quắp.
Xương yếu gân mềm mà tay nắm rất chặt, chưa biết giao hợp mà con cu dựng đứng,
như vậy là tinh khí sung túc. Suốt ngày gào thét mà giọng không khàn, như vậy là
khí cực hòa. Biết hòa thì gọi là bất biến, biết bất biến thì gọi là sáng. Tòng
dục tham sinh thì gọi là họa. Để cho lòng dục sai khiến cái “khí” thì gọi là cường.
Vật nào cường tráng thì sẽ già, như vậy là không hợp đạo, không hợp đạo thì sớm
chết”.
Lạm bàn: - Cái gốc của thuật dưỡng sinh ngày nay chăng?
- Cách nói của
Lão Tử là tuyệt đích, chân phác chứ không phải tục!
Lão Tử viết:
“Kẻ kiễng chân
không đứng được (vững), kẻ xoạc cẳng không đi được (lâu), kẻ tự biểu hiện thì
không sáng tỏ, kẻ tự cho là phải thì không chói lọi, kẻ tự kể công thì không có
công, kẻ tự phụ thì không trường cửu. Đối với đạo thì những thái độ đó là “những
đồ ăn thừa, những cục bướu, ai cũng ghét”. Cho nên kẻ theo đạo không làm vậy”.
Lạm bàn: - Không dám bàn vì rất có thể có cả chúng ta
trong đó! Ngu gì mà tự chê bai mình!
Lão Tử viết:
“Ít
nói thì hợp với tự nhiên
Cho nên gió lốc
không hết buổi sáng, mưa rào không suốt một ngày. Ai làm nên những điều ấy? Trời
đất. Trời đất còn không thể lâu được, huống hồ là người?
Cho nên theo đạo
thì sẽ hòa đồng với đạo; theo đức thì sẽ hòa đồng với đức; theo sự mất đạo mất đức
thì sẽ là một với mất. Hòa đồng với đạo thì sẽ vui được đạo; hòa đồng với đức
thì sẽ vui được đức; là một với mất thì sẽ vui với mất”.
Lạm bàn: - Tại sao lại vui được với mất nhỉ?! Tại vì mất
cái nhọt đau tấy trên lưng chẳng hạn là
vui rồi! Nói chung mất thì thường là buồn. Mất tiền mà chẳng được gì cả
thì phải buồn thôi. Nhưng nếu biết mất cái gì đó là "của đi thay người"
thì sẽ lại rú lên vì sung sướng!
***
Tư
tưởng chính
trị của Lão Tử cũng hoàn toàn dựa trên nền tảng lý luận về Đạo và Đức.
Nó thực
ra cũng chỉ là quan niệm về nhân sinh- hành vi được nâng lên áp dụng cho
vua chúa
và được thể hiện trong những đoạn nói về thuật cai trị, về mối quan hệ
giữa thống trị và bị trị. Vì hợp Đạo và Đức là sinh thành, bao bọc, nuôi
nấng, dưỡng sinh nên hiển nhiên "thương dân" là tuyệt đích nhân hậu,
"hợp lòng dân" là tuyệt đích chính nghĩa. Trên cơ sở nhận thức ấy mà Lão
Tử luôn
là người của đại chúng, nói theo tiếng nói của đại chúng và vì quyền lợi
của đại
chúng. Đương nhiên, cũng vì thế mà quan niệm của Lão Tử về nhân quần, xã
hội cũng
mang tính nhân đạo cao cả.
Có lẽ những gì
gọi là cốt lõi nhất của học thuyết Hoàng Lão, chúng ta đã bàn luận hết cả rồi.
Nên ở đây chúng ta cứ thế tiếp tục cái công việc trích đoạn và lạm bàn. Dù có
thể gây ra ít nhiều nhàm chán nhưng đó là cách nhanh nhất giới thiệu đầy đủ một
triết thuyết trong điều kiện thời gian đã trở thành vàng, ngọc.
Biện minh thế cũng
đủ, chúng ta tiếp tục!
Lão Tử viết:
“Cho nên thánh
nhân xử sự theo thái độ “vô vi”, dùng thuật “không nói” mà dạy dỗ, để cho vạn vật
tự nhiên sinh trưởng mà không can thiệp vào, khéo nuôi dưỡng vạn vật mà không
chiếm làm của mình, làm mà không cậy khéo, việc thành mà không quan tâm tới. Vì
không quan tâm tới nên sự nghiệp mới còn hoài”.
Lạm bàn: - Hợp đạo lý cũng chính là hợp lòng dân. Hợp
lòng dân thì dân tự làm, khỏi phải “nhắc nhở”.
- “Có đức mặc sức
mà ăn”
- Các bậc phụ
huynh nên theo lời dạy này mà dạy dỗ con cái, tối ưu đấy!
Lão Tử viết:
“Không trọng người
hiền để cho dân không tranh, không quí của hiếm để cho dân không trộm cướp, không
phô bày cái gì gợi lòng ham muốn, để cho lòng dân không loạn.
Cho nên chính
trị của thánh nhân là làm cho dân: lòng thì hư tĩnh, bụng thì no, tâm chí thì yếu,
xương cốt thì mạnh”
Lạm bàn: - Thiên nhiên ở ngoài vòng danh lợi, con người
ở trong vòng danh lợi. Sao lại “đòi” và có thể làm mất chí tiến thủ của con người
được?
- Chỉ cần kẻ trị
vì bớt thèm muốn thái quá đi, biết “sống là tạm đến, chết là tạm đi”, thế cũng
là đủ cho thiên hạ bình trị rồi!
- Hình như ngay
từ thời đại đó, Lão Tử đã thấy được thực trạng ngày nay: quảng cáo rùm beng, kích
thích tiêu dùng thái quá, theo mới nới cũ xoành xoạch, lúc nào cũng thèm khát,
không biết đến đâu là đủ. Và có lẽ vì thế mà sự khốn nạn đầy dẫy, và khổ vẫn hoàn … khổ!
Lão Tử viết:
“Cho nên người
nào trọng thiên hạ như bản thân mình thì có thể giao thiên hạ cho được; người nào
yêu thiên hạ như yêu mình thì có thể gửi thiên hạ cho được”
Lạm bàn: - Vì như thế là phù hợp với lẽ tự nhiên.
- Nhưng sao trước
đó Lão Tử nói không nên trọng người hiền? Vì có thể ông cho làm thế để tránh những
ganh đua vị kỷ chăng? Hay ông chê trách tệ sùng bái cá nhân?
Lão Tử viết:
“Bậc trị dân giỏi
nhất thì dân không biết có vua, thấp hơn một bậc thì dân yêu quí và khen; thấp
hơn nữa thì dân sợ; thấp nhất thì bị dân khinh lờn.
Vua không đủ thành
tín thì dân không tin. Nhàn nhã, ung dung (vì vô vi mà dân tự làm cả) mà quí lời
nói. Vua công thành, việc xong rồi mà trăm họ đều bảo: “Tự nhiên mình được vậy”.
Lạm bàn: - Đúng thế! Đức Huyền diệu là vô hình. Có thể
sắp xếp thứ tự từ cao xuống thấp như sau: Đức trị, danh trị, pháp trị, xảo trị.
Có thể thêm: trước đức trị là vô trị, sau xảo trị là bất trị.! Mà đã là bất trị
rồi thì, dạ thưa thánh thượng, mày cũng đéo là … cái đinh gì!
Lão Tử viết:
“Dứt thánh bỏ
trí, dân lợi gấp trăm; dứt nhân bỏ nghĩa, dân lại hiếu từ; dứt xảo bỏ lợi, không
có trộm giặc
Ba cái đó (thánh
trí, nhân nghĩa, xảo lợi) vì là cái văn vẻ (hình thức bề ngoài) không đủ để khiến
dân qui thuận về điều này: ngoài thì biểu hiện sự mộc mạc, trong thì giữ sự chất
phác, giảm tư âm, bớt dục vọng”
Lạm bàn: - Dùng để tu thân luyện tâm cho mỗi người thì
may ra còn được. Chứ đem áp dụng cho cả thiên hạ thì e rằng xã hội sẽ thành …
phong cảnh thiên nhiên mất.!
Lão Tử viết:
“Thiên hạ có đạo
thì ngựa tốt không dùng vào chiến tranh mà dùng vào việc cày cấy; thiên hạ vô đạo
thì ngựa dùng vào chiến tranh và ngựa mẹ sinh con ở chiến trường.
Họa không gì lớn
bằng không biết thế nào là đủ, hại không gì bằng tham muốn thái quá. Cho nên biết
thế nào là đủ và thỏa mãn về cái đủ đó thì mới luôn luôn thấy đủ”
Lạm bàn: - Cày cấy sẽ dẫn đến no đủ. Chiến tranh là
muốn ngon nhiều mà không phải cày cấy: đó là cái hại dẫn đến cái họa!
Lão Tử viết:
“Nếu ta hốt nhiên
hiểu biết thì ta đi theo con đường lớn, chỉ sợ con đường tà. Đường lớn thật bằng
phẳng, mà người ta lại thích con đường quanh co.
Triều đình thật
ô uế, đồng ruộng thật hoang vu, kho lẫm thật trống rỗng; mà họ mặc áo gấm thêu,
đeo kiếm sắc, ăn uống chán mứa, của cải thừa thãi. Như vậy là trùm trộm cướp chứ
đâu phải hợp đạo!”
Lạm bàn: - Vì thế mà tính theo đường chim bay thì dù đã
2500 năm rồi mà sao thấy gần quá: lời Lão Tử còn phả hơi nóng hầm hập tính thời
sự!
- Ông vốn từ tốn
khiêm nhường mà sao lúc này lại lớn tiếng, gay gắt thế? Hay có đứa quan nào
trong vùng đã đến hoạnh họe ông?!
- Dễ dàng thông
cảm được sự giận dữ của Lão Tử, vì đến tận ngày nay, những kẻ cơ hội, lọc lõi,
du thủ du thực khoác áo quan để mượn oai hùm (quyền lực nhà nước) nhằm hà hiếp
muôn dân, cả những người xác xơ, để trục lợi, đục khoét, cướp trắng, tương tự
như thời ông, thiếu cha gì?
Lão Tử viết:
“Dùng đạo mà trị
thiên hạ thì quỉ không linh; chẳng những quỉ không linh mà thần cũng không làm
hại được người; chẳng những thần không làm hại người mà thánh nhân (tức vua) cũng không làm
hại người. Hai bên không làm hại nhau, cho nên đức qui cả về dân”.
Lạm bàn: - Có thể đó là cách thuyết giảng phù hợp cho
những người còn mê tín mù quáng chứ bản thân Lão Tử là một nhà duy vật chân chính.
- Hiểu đạo ông
thì mới biết quỉ, thần, thánh là không có. Không có thì chẳng thể hại ai.
- Khổng Tử cứ đau
đáu vào danh, lấy “chính danh” làm mục đích sống ở đời, thì làm sao mà hiểu được
cái cao siêu, lồng lộng mà giản dị, an nhiên của Lão Tử!
Lão Tử viết:
“Nước lớn nên ở
chỗ thấp, chỗ qui tụ của thiên hạ, nên như giống cái trong thiên hạ. Giống cái
nhờ tĩnh mà thắng giống đực, lấy tĩnh làm chỗ thấp. Cho nên nước lớn mà khiêm hạ
đối với nước nhỏ thì được nước nhỏ xưng thần; nước nhỏ mà khiêm hạ đối với nước
lớn thì được nước lớn che chở. Như vậy là một bên khiêm hạ để được, một bên khiêm
hạ mà được. Nước lớn chẳng qua chỉ muốn gồm nuôi nước nhỏ, nước nhỏ chẳng qua
chỉ muốn thờ nước lớn. Khiêm hạ thì cả hai đều được như ý muốn; nhưng nước lớn
phải khiêm hạ trước mới được."
Lạm bàn: - Đòi một mụ vợ “sư tử Hà Đông” khiêm hạ với
chồng thì hơi bị khó. Có mấy mụ chịu ở chỗ thấp đâu, toàn chọn chỗ đè đầu cưỡi
cổ, làm nhiều đức ông chồng sợ vãi đái mà đành phải khiêm hạ, đành phải xưng vợ
là thần để chờ hứng vài cơn mưa móc.
- Cho đến tận
ngày nay, những nước lớn vẫn chưa biết khiêm hạ. Tại sao vậy?
Lão Tử viết:
“Thời xưa, người
khéo dùng đạo trị nước thì không làm cho dân khôn lanh cơ xảo (láu cá), mà làm
cho dân đôn hậu chất phác. Dân sở dĩ khó trị là vì nhiều trí mưu. Cho nên dùng
trí mưu trị nước là cái họa cho nước, không dùng trí mưu trị nước là cái phúc
cho nước. Biết hai điều đó là biết được phép tắc trị dân. Biết phép tắc thì gọi
là có “Đức Huyền Diệu” (Huyền Đức). Đức Huyền Diệu sâu thẳm, cùng với vạn vật
trở về gốc rồi sau mới đạt được sự thuận tự nhiên (hợp Đạo lý)”.
Lạm bàn: - Đường lối, chính sách phải phù hợp, trong sáng, thiết thực, đáp ứng được nguyện vọng của đại chúng.
- Còn nếu thấy
không có khả năng làm được như thế thì tự giác về sống lại cuộc đời dân dã đi,
cố bám vào cái ghế tước vị mãi làm gì? Hay là có lòng thương dân, vì dân mà phục
vụ … cho bản thân mình và gia đình riêng của mình được … sung sướng?
Lão Tử viết:
“Sông biển sở dĩ
làm vua trăm khe lạch vì khéo ở dưới thấp nên mới làm vua trăm khe lạch. Thánh
nhân muốn ở trên dân thì lời nói phải khiêm hạ, muốn ở trước dân thì phải lùi lại
sau. Vì vậy thánh nhân ở trên, dân không thấy nặng cho mình, ở trước dân mà dân
không thấy hại cho mình; nhờ đó mà thiên hạ vui vẻ đẩy thánh nhân lên trước mà
không chán. Không tranh với ai cho nên không ai tranh giành với mình được”.
Lạm bàn: - Thánh nhân làm theo thế trong thời bình,
thì còn “xơ múi” được chứ trong thời chiến thì coi chừng hại đến bản mạng vì trước
làn tên mũi đạn mà được binh lính “đẩy… lên trước mà không chán” và “không ai
tranh giành với mình được” thì thật… hết chỗ nói!
- Nói vui thế
thôi chứ thực ra Lão Tử nói quá thâm thúy và… tuyệt đúng nữa.
Lão Tử viết:
“Dân
sở dĩ đói là vì nhà cầm quyền thu thuế nặng quá cho nên dân đói
Dân sở dĩ khó
trị là vì nhà cầm quyền dùng chính lệnh phiền hà, cho nên dân khó trị
Dân sở dĩ coi
thường sự chết là vì nhà cầm quyền tự phụng dưỡng mình quá hậu, cho nên dân coi
thường sự chết (vì khổ quá).
Nhà cầm quyền mà
vô dục, đạm bạc thì hơn là quí sinh, hậu dưỡng”.
Lạm bàn: - Đó là nhà cầm quyền phi nghĩa và vô (đạo) đức.
- Nhưng đời thuở
nào, một nhà cầm quyền như thế, đang nắm giữ quyền lực, lại bỗng dưng tự “hạ mình”
mà nhận như thế!?
Lão Tử viết:
“Đạo trời không
tranh mà khéo thắng, không nói mà khéo đáp, không gọi mà vạn vật đều tự tới, bình
thản vô tâm mà khéo mưu tính mọi việc. Lưới trời lồng lộng, thưa mà không lọt”.
Lạm
bàn: - Hãy sống và hành động theo đạo
trời
- Con người có
thể làm ra luật, có thể dựng chiêu bài nhân nghĩa, có thể mạo nhận chân lý. Nhưng
phán xét cuối cùng về thị phi là lưới trời, thấy thì thưa đấy mà đừng hòng lọt
(tội).
- Hình như vẫn
lọt!
- Chỉ có dân
ngu thì cứ mãi là… cu đen vì không bao giờ có thể thoát được sự hạnh họe, ăn hiếp
của lũ quan tham nhũng, cậy quyền, ỷ thế và bẩn cũng ăn!
***
Đến đây, chúng ta
tạm coi như đã trình bày xong học thuyết Hoàng Lão. Qua công việc trình bày đó,
chúng ta cũng đồng thời thấy được cái gốc của lòng nhân hậu, của tình yêu thương
con người; cái gốc của thị phi và biết như thế nào là nhân đức, chính nghĩa …
Xưa kia, chúng
ta đã lầm tưởng Đạo Gia chỉ như một trường phái tư tưởng được hình thành nên từ
sự cảm thấy chán nản, bế tắc trước một thời cuộc hỗn loạn dữ dội mà đề xướng nên
chủ trương xuất thế vô vi, trọng sinh khinh vật, vị ngã đầy yếm thế và vị kỷ.
Nhờ vô tình đọc được cuốn “47 quỉ kế” do Trần Sáng biên dịch và chú giải bổ
sung từ cuốn “Quỉ Cốc Tử” mà chúng ta không thể cầm lòng được, đã làm một cuộc
hành trình bất chấp hiểm nguy đến thời loạn Xuân Thu - Chiến Quốc, để trực tiếp
mắt thấy tai nghe những gì đã xảy ra. Rồi từ lòng ngưỡng vọng mà chúng ta quên
hết sợ hãi, như những kẻ mộng du, lần theo dấu vết của các hiền nhân quân tử đương
thời như Lão Tử, Khổng Tử, Mặc Tử, Quỉ Cốc Tử … Rất nhiều lần chúng ta còn được
họ cho xem những trước tác bản gốc bằng thẻ tre, tuy rất “kiệm chữ” nhưng đáng
tiếc là chúng ta “mù tịt” vì quá dốt “tiếng Tàu” (huống hồ là tiếng Tàu cổ!). Dù
sao, từ cái trực quan sinh động ấy, mà chúng ta thu lượm được nhiều điều bất ngờ
mà bất ngờ lớn nhất là phái Đạo Gia.
Xét ở góc độ hoàn
chỉnh, có lý luận chặt chẽ và nhất quán từ gốc chí ngọn thì trong thời Xuân Thu
- Chiến Quốc chỉ có một học thuyết triết học duy nhất, đó là học thuyết Hoàng
Lão. Ngay từ đầu Chiến Quốc, học thuyết Hoàng Lão đã bộc lộ đầy đủ hầu hết những
ý niệm cơ bản của triết học và được tu chỉnh, sau định thành sách ở thời Vương
Thiệu lão Tổ. Chính nó là nguồn cảm hứng, là tiền đề phát sinh ra mọi học phái triết học
nửa vời của thời Chiến Quốc. Đạo Khổng tuy không xuất phát từ Hoàng Lão nhưng càng
về sau càng chịu ảnh hưởng sâu sắc của thuyết này, cả Vũ Trụ quan lẫn nhân sinh
quan (nhưng như chúng ta đã nói, Nho Giáo không thể tạo ra sự nhất quán giữa hai bộ
phận ấy để có được một tổng thể triết học thống nhất được).
Chúng ta đừng tưởng
hồi đó xuất thế vô vi là những kẻ chán đời, tản mát đâu đó nơi hoang sơ vắng vẻ,
nơi thâm sơn cùng cốc. Trái lại đó là một chủ trương cố ý, có cơ sở lý luận mà
người đề xướng là Lão Lai. Do đó, hầu hết những người xuất thế đều là những người
thấm nhuần tư tưởng Đạo Gia, coi xuất thế vô vi là hành động hợp lý nhất để tác
động trở lại thời cuộc một khi có cơ hội, bằng cách này hay cách khác, bằng cái
thế vô danh. Do đó những người xuất thế theo phái Đạo Gia không nhiều thì ít luôn
có những liên hệ nhất định với nhau, thậm chí là mối liên hệ ấy đã mang tính có
tổ chức. Họ xuất thế, mai danh ẩn tích, nhưng vẫn ở đó trong dân dã, vui vẻ hồn
nhiên và đầy sức sống. Chúng ta biết chắc điều đó vì đã nhiều lần bù khú rượu
chè với không ít người trong số họ và từ đó mà cũng tin rằng trên cõi đời này,
chẳng có ai thanh thản, chân phác và giàu lòng hiếu khách như những người xuất
thế thuộc phái Đạo Gia thời đầu Chiến Quốc!
Học thuyết triết
học Hoàng Lão là cái tên mà chúng ta gọi, là đánh giá của hậu thế. Chứ sự thật
thì ngoài cái ý nghĩa “triết thuyết” ngầm chứa ra, nó còn (và có thể là chức năng
chủ yếu lúc bấy giờ) đóng vai trò như một tuyên ngôn, một tôn chỉ hành động của
một học phái đang thành hình và thực tế đã thành hình manh nha của một đảng chính
trị như khái niệm về sau này.
Chính vì lẽ đó
mà trong “Đạo Đức Kinh”, “Xung hư Chân Kinh” hay “Quỉ Cốc Tử”, chúng ta đều thấy
toát lên niềm tôn quí cuộc sống, trọng nghĩa khinh tài, tinh thần tích cực biện
hộ cho quyền lợi của đại chúng và khát vọng cứu nhân độ thế (nhưng theo cách thức
gọi là vô vi). Riêng việc công khai bất hợp tác với vua chúa đã là một hành động
sáng suốt và hướng thiện không thể chối cãi được.
Dù
có thể còn điều
này điều kia hạn chế, dù có thể ở chỗ này chỗ nọ còn thể hiện sự ngây
thơ hay siêu hình chủ nghĩa, nhưng theo chúng ta nghĩ, học thuyết Hoàng
Lão (mà Trang Tử là
người thừa kế có tài) mãi mãi là viên ngọc ngời sáng, quí nhất trong
lịch sử
triết học cổ - kim của nhân dân Trung Quốc nói riêng và của toàn thể
loài người nói chung. Ngày nay, ngay trong thế kỷ XXI, bất cứ nhà nước nào thấm
nhuần được tư tưởng của Đạo Gia và lấy đó làm kim chỉ nam trong lập pháp
và hành pháp, chắc chắn sẽ đạt được quốc thái dân an, xã hội thịnh
bình. Nhưng muốn thế, trước hết, bản thân nhà nước đó phải "trong sạch,
sáng sủa" mới được!
Để chứng minh rằng
sự kiện chúng ta có mặt ở thời Xuân Thu-Chiến Quốc là hoàn toàn thật, chúng ta sẽ trình
làng vài ba câu chuyện đã nghe được từ chính miệng Liệt Tử và Trang Tử kể (thông
qua sự dịch thuật và chú thích của Nguyễn Hiến Lê!!!)
***
Liệt Tử kể:
1-. Nước Tống có
người làm trò Sơn Đông xin diễn trò cho vua Nguyên (nước Tống) coi. Vua Nguyên
cho gọi vô. Anh ta đứng lên hai cây cà kheo cao gấp hai anh ta mà vừa chạy vừa
nhảy. Rồi lấy bảy cây kiếm tung lên trời và bắt, lúc nào cũng có năm cây ở trên
không. Vua Nguyên ngạc nhiên lắm, thưởng cho anh ta vàng và lụa.
Một người làm
trò khác có tài đánh đu hay tin đó, tới xin làm trò cho vua Nguyên coi. Vua
Nguyên nổi giận, bảo:
- Trước đã có một
người làm trò lạ xin ta cho diễn. Trò đó vô dụng, nhưng gặp lúc ta vui vẻ cho nên
thưởng hắn vàng, lụa. Tên này chắc nghe vậy mà tới, cũng mong được ta thưởng nữa
đây. bắt giam và làm nhục nó đi.
Một tháng sau hắn
mới được thả!
2-. Vua Tần Mục
Công bảo Bá Nhạc (người nổi tiếng coi ngựa thời cổ)
- Ông đã già rồi,
con cháu có người nào sai tìm ngựa tốt được không?
Bá Nhạc đáp:
- Ngựa tốt, coi
hình dáng, gân cốt thì biết được. Nhưng con ngựa nhất thiên hạ thì có cái gì đó
như ẩn như hiện, như có như không, cảm được chứ không thấy được, nó chạy thì không
tung bụi lên (tuyệt trần), không để lại dấu xe nữa. Bầy con của thần đều bất tài,
giảng cho chúng hiểu thế nào là ngựa tốt mà không giảng cho chúng nhận thức được
con ngựa tuyệt trần. Thần có một người bạn cùng chở củi và rau, tên là Cửu Phương
Cao, coi ngựa không kém thần, đại vương nên vời người đó tới.
Mục Vương vời
người đó tới, sai đi tìm ngựa. Ba tháng sau người đó về tâu:
- Được ngựa rồi,
ở Sa Khâu.
Mục Vương hỏi:
- Ngựa ra sao?
- Ngựa cái vàng.
Sai người đi bắt
ngựa, thì là một con ngựa đen. Mục Vương bất bình, vời Bá Nhạc tới bảo:
- Hỏng! người ông
giới thiệu đi tìm ngựa, không phân biệt nổi ngựa đực ngựa cái, màu đen màu vàng,
thì làm sao biết được ngựa?
Bá Nhạc bùi ngùi,
thở dài rồi tâu:
- Tới mức đó ư?
Thế thì anh ấy hơn thần cả ngàn vạn lần rồi. Cái mà anh Cao xét là cái huyền vi
của trời; anh ấy nhận thấy cái tinh thần mà quên cái thô thiển, xét cái ở trong
mà quên cái ở ngoài; cái gì đáng thấy thì thấy, không đáng thấy thì thôi; cái gì
đáng nhìn thì nhìn, không đáng nhìn thì bỏ. cái thuật đó của anh Cao có phải chỉ
để coi tướng ngựa thôi đâu, còn quí hơn vậy nữa.
Khi ngựa dắt về,
quả nhiên không ngựa nào bằng.
3-. Ở phía đông
có một người tên là Viên Tinh Mục, đi xa, giữa đường gần chết đói. Một tên cướp
ở Hồ Phủ, tên là Khâu trông thấy, đổ nước vào miệng và đút thức ăn cho. Ba lần
như vậy, Viên Tinh Mục mới tỉnh, mở mắt nhìn thấy tên cướp, hỏi:
- Ông là ai vậy
Đáp:
- Tôi là người
Hồ Phủ, tên Khâu đây
Viên Tinh Mục bảo:
- Ấy, vậy anh là
một tên cướp hả? Sao lại cho ta ăn uống? Ta trọng nghĩa, không nhận thức ăn của
anh đâu
Nói xong, hai
tay chống xuống đất, người đó cố mửa thức ăn ra, không được, chỉ nghe thấy tiếng
ọc ọc trong bụng, rồi ngã gục xuống, chết.
Người Hồ Phủ đúng
là một tên cướp, nhưng cứu sống người đói, không phải là một hành vi cướp bóc.
Viên Tinh Mục lấy lẽ người đó là kẻ cướp mà không chịu ăn thức ăn của người đó
(vì cho là của bất nghĩa) như vậy là lầm danh với thực.
4-. Dân Hàm Đan
có lệ ngày nguyên đán đem chim ngói dâng Giản Tử (tức Trịnh Giản Tử, được phong
ấp ở Hàm Đan). Giản Tử mừng lắm, thưởng họ rất hậu. Một người khách hỏi tại
sao, ông đáp:
- Ngày nguyên đán
mà phóng sinh thì tỏ rằng mình có lòng thương loài vật.
Người khách nói:
- Dân chúng biết
ông muốn phóng sinh, tất tranh nhau bắt chim ngói, và nhiều chim sẽ bị chết. Nếu
ông muốn cho chim sống thì không gì bằng cấm dân đừng bắt; bắt rồi phóng sinh
thì lòng tốt của ông không đủ bù cái hại.
Giản Tử nghe
ra, đáp:
- Đúng vậy!
5-. Họ Điền nước
Tề tế thần đường sá (tương tự như cúng đầu xe ở ta) ở trong sân, thực khách tới
số ngàn. Giữa bữa tiệc, có người dâng lên món cá và món chim nhạn. Họ Điền nhìn
rồi thở dài:
- Trời hậu đãi
loài người thật! Sinh ra ngũ cốc, các chim để chúng ta ăn.
Một người khách
đến tán thưởng ầm ĩ.
Một đứa con họ
Bảo mới mười hai tuổi, dự vào hàng dưới, tiến lên thưa:
- Không đúng như
lời ngài nói, Vạn vật trong Trời đất với chúng ta đều là sinh vật cả, không loài
nào quí, không loài nào hèn. Chỉ dùng trí khôn và sức mạnh mà khuất phục lẫn
nhau, ăn thịt lẫn nhau thôi, chứ không có loài nào sinh ra cho loài khác ăn thịt.
Loài người thấy cái gì ăn được là ăn, trời đâu có vì người mà sinh ra các loài đó.
Muỗi mòng kia đốt da ta, hổ lang kia ăn thịt ta, có thể nói là trời vì chúng mà
sinh ra chúng ta không?
6-. Dương Chu nói:
- Vạn vật sống
thì khác nhau mà chết thì như nhau hết. Sống, có kẻ hiền người ngu, kẻ sang người
hèn, thế là khác nhau; chết thì xác tan ra, hôi thối, tiêu diệt, ai cũng như
ai. Hiền hay ngu, sang hay hèn, không phải mình muốn mà được. Cho nên sống không
phải do mình, chết không phải do mình, hiền hay ngu không phải do mình, hèn hay
sang không phải do mình, mà là vạn vật cùng sống, cùng chết, cùng hiền, cùng
ngu, cùng sang, cùng hèn cả. Sống mười năm hay trăm năm thì rồi cũng chết, thánh
hiền cũng chết, ngu ác cũng chết. Sống là Nghiêu, Thuấn, chết là thịt rã xương
mục. Đều là thịt rã xương mục thì ai mà phân biệt được là Nghiêu, Thuấn hay Kiệt,
Trụ? Thế thì cứ hưởng đời đi, nghĩ làm quái gì đến chuyện sau khi chết!
7-. Cầm Tử hỏi
Dương Chu:
- Nhổ một sợi lông
trên mình ông để cứu đời, ông chịu không?
Dương Chu đáp:
- Đời đâu có thể
cứu được bằng một sợi lông?
- Cho rằng cứu được
đi thì ông chịu không?
Dương Chu không
đáp.
Cầm Tử bước ra
ngoài, kể lại với Mạnh Tôn Dương. Mạnh Tôn Dương bảo:
- Ông không hiểu
được ý của Phu Tử, để tôi giảng cho. Nếu để người ta cắt da thịt mà được vạn cân
vàng, ông chịu không?
- Chịu.
- Để cho người
ta bẻ gãy tay chân mà được một nước thì ông chịu không?
Cầm Tử làm
thinh.
Một lát sau, Mạnh
Tôn Dương bảo:
- Một sợi lông
không quan trọng bằng da thịt, da thịt không quan trọng bằng tay chân, điều đó
hiển nhiên. Nhưng nhiều lông thì thành da thịt, nhiều da thịt thì thành tay chân;
một sợi lông chỉ là một phần vạn của thân thể, nhưng tại sao lại khinh nó?
Cầm Tử đáp:
- Tôi không thể
trả lời ông được, nhưng đem lời của ông nói với Lão Đam, Quan Dõan thì hợp với
họ, mà tôi đem lời của tôi nói với Đại Vũ, Mặc Địch thì cũng hợp với họ.
Mạnh Tôn Dương
quay lại nói qua chuyện khác với môn đệ.
8-. Dương Chu nói:
- Các việc lớn
thời thái cổ đã dứt rồi, ai có thể ghi lại được? Hành vi của Tam Hoàng tới nay
như còn như mất, hành vi của Ngũ Đế như tỉnh như mộng, hành vi của Tam Vương
(vua Vũ nhà Hạ, vua Thang nhà Thương, vua Văn Vương nhà Chu) như ẩn như hiện, một
ức việc không biết chắc được một việc. Ngay những việc đương thời ta đây, hoặc được
nghe hoặc được thấy mà vạn việc cũng không biết chắc được một việc; những việc
trước mắt ta đây, hoặc còn hoặc mất, ngàn việc cũng không biết chắc được một việc.
Từ thời thái cổ
tới nay, có biết cơ man nào là năm, mà từ thời vua Phục Hi tới nay, cũng đã trên
ba ngàn năm rồi. Hiền ngu, gian ác, thành bại, thị phi, không có gì là không bị
tiêu diệt, chỉ sớm hoặc muộn mà thôi. Coi trọng tiếng khen tiếng chê một thời mà
làm cho tinh thần hình hài tiều tụy, muốn lưu lại cái danh hão mấy trăm năm sau
khi chết, nhưng chết rồi, có cách nào làm cho nắm xương tàn tươi lại, tái sinh
mà hưởng lạc được không?
9-. Dương Chu nói:
- Nhà sang, áo đẹp,
thức ăn ngon, vợ đẹp, có bốn thứ ấy thì có cầu gì khác nữa? Có bốn thứ đó rồi mà
còn cầu thêm nữa là tham lam vô độ, tham lam vô độ là loài mọt của âm dương (trời
đất).
Trung với vua
không đủ để làm cho vua được yên mà đủ làm nguy cho bản thân mình; giữ nghĩa không
đủ để làm lợi cho người mà đủ làm hại cho đời sống của mình. Sự an ổn của người,
trên không nhờ đức trung, vậy nên bỏ tiếng trung đi; sự lợi ích của người khác
không do ta giữ nghĩa, vậy nên bỏ tiếng nghĩa đi. Vua tôi đều được yên ổn, người
và ta đều được lợi đó là đạo của cổ nhân.
Làm điều lợi
cho người thì được hậu quả tốt, làm điều oán cho người thì sẽ hại tới thân . Phát
ở ta mà ứng ra ngoài, đó là tình đời (lẽ thường). Cho nên người hiền minh thì
thận trọng về hành động của mình.
10-. Người láng
giềng của Dương Tử mất cừu, đã sai tất cả người trong nhà đi tìm, lại xin Dương
Tử cho trẻ tìm hộ nữa. Dương Chu hỏi:
- Ôi! Mất có một
con cừu, sao mà cần nhiều người thế?
Người kia đáp:
- Vì đường có
nhiều ngã rẽ
Lại hỏi:
- Tìm được không?
- Không
- Sao lại không
tìm được?
Đáp:
- Theo một ngã
rẽ lại gặp ngã rẽ khác, không biết theo ngã nào, đành phải về.
Dương Chu rầu rầu
nét mặt, một hồi lâu không nói gì cả, suốt ngày hôm đó không cười. Môn đệ lấy làm
lạ, đánh bạo hỏi:
- Một con cừu có
đáng giá gì đâu, mà con đó lại không phải của thầy, sao thầy lại rầu rĩ tới không
nói, không cười như vậy?
Dương
Chu không đáp và môn đệ không hiểu ý thầy ra sao
Mạnh Tôn Dương
trở ra nói với Tâm Đô Tử:
- Xưa ba anh em
nhà nọ đi chơi nước Tề, nước Lỗ. Cả ba cùng học một thầy, đạt được đạo nhân nghĩa
rồi về. Người cha hỏi:
- Đạo nhân nghĩa
ra sao?
Người con lớn đáp:
- Theo đạo nhân
nghĩa thì con phải yêu cái thân con mà coi thường cái danh.
Người con giữa đáp:
- Theo đạo nhân
nghĩa thì con phải hủy cái thân con để thành danh.
Người con thứ
ba đáp:
- Theo đạo nhân
nghĩa thì con phải giữ cho vẹn cả cái thân lẫn cái danh của con.
Ý kiến ba người
đó trái ngược nhau mà họ đều học chung một thầy cả, vậy biết ai phải ai trái?
Dương Tử đáp:
Xưa có một người
sống ở bờ sông, quen với nước, can đảm bơi lội, chở đò cho người qua sông, kiếm
tiền nuôi được trăm miệng ăn. Nhiều người đem lương thực lại xin học, nhưng có
tới một nửa chết đuối. Họ học lội chứ không học chết đuối, mà hại như vậy. Theo
anh thì ai phải, ai trái?
Tâm Đô Tử làm
thinh bước ra. Mạnh Tôn Dương trách:
- Anh hỏi gì mà
quanh co vậy? Và thầy trả lời sao mà khó hiểu thế? Tôi hoang mang quá.
Tâm Đô Tử đáp:
- Vì con đường
lớn có nhiều ngã rẽ cho nên không tìm được cừu. Vì có nhiều ý kiến, cho nên hại
cho người học đạo. Sự học, gốc thì như nhau, là một, mà ngọn thì khác nhau. Cho
nên chỉ người nào biết quay về chỗ đồng nhất mới khỏi bị nguy hại. Anh làm môn đệ
của thầy từ lâu, tập đạo của thầy mà không hiểu ý thầy, đáng buồn thật.
11-. Dương Chu
nói:
Người làm điều
thiện không phải để cầu danh mà danh tự nó tới. Danh không hẹn gì với lợi mà lợi
theo nó. Lợi không hẹn gì với sự tranh giành mà tranh giành cứ đến với nó. Vì vậy,
người quân tử phải thận trọng mà làm đức thiện.
***
Trang Tử kể:
1-. Lão Tử bảo:
- Đạo lớn tới nỗi
không biết đâu là cùng, mà nhỏ đến nỗi không sót một vật nào. Cho nên vạn vật đều
có đủ trong đó. Nó rộng tới nỗi cái gì cũng dung nạp được, sâu tới nỗi không ai
dò được. Hình thể, đạo đức, nhân nghĩa chỉ là những nhánh nhỏ của tinh thần, chỉ
bậc chí nhân mới cho chúng một định nghĩa được. Chỉ bậc chí nhân mới thấu triệt
được thế giới để mà không bị lụy về nó; mọi người đều tranh nhau quyền bính, chí
nhân thì không dự vào. Chí nhân giữ kỹ cái Đạo, không vì lợi lộc mà đổi lòng.
Biết rõ được bản chất của sự vật, giữ được cái bản nguyên chung, cho nên vượt được
trời đất, bỏ lại vạn vật mà tinh thần hoàn toàn tự do. Chí nhân hiểu Đạo hợp nhất
với Đạo, gạt nhân nghĩa ra, bỏ lễ nhạc, nên lòng được yên tĩnh.
2-. Đã năm mươi
mốt tuổi mà vẫn chưa được nghe về Đạo nên Khổng Tử đi xuống đất Bái ở phương Nam để
yết kiến Lão Đam.
Lão Đam bảo:
- Ông lại đấy ư?
Tôi nghe nói ông đã là người hiền phương bắc. Ông hiểu Đạo không?
Khổng Tử đáp:
- Tôi chưa hiểu.
- Ông tìm Đạo cách
nào.
- Tôi tìm Đạo
trong độ số (thuật số trong Kinh Dịch?), năm năm mà không được.
- Rồi làm sao nữa?
- Rồi tôi tìm nó
trong âm dương, mười hai năm mà không được. Trời có vận chuyển không? Đất có đứng
im không? Mặt trời mặt trăng có tranh chỗ nhau không? Ai làm chủ tể cái đó? Ai
duy trì cái đó? Ai vô sự mà đầy cái đó, khiến nó chạy? Hoặc giả có một cái máy
bí mật bất đắc dĩ chạy hoài chăng? Hay là vũ trụ tự nhiên vận chuyển mà không tự
ngưng được chăng? Ai vô sự mà cao hứng gây ra cái đó? Gió nổi ở phương Bắc, khi
thì thổi qua Tây, khi thì thổi qua Đông, có lúc lại xoáy ốc, mà cuốn lên cao.
Ai hô hấp mà thành vậy? Ai vô sự mà hướng gió về phía này phía khác và làm nó
ngừng? Xin hỏi ông nguyên do ở đâu.
Lão Đam bảo:
- Tự nhiên! Nếu
Đạo mà có thể dâng cho người khác được thì ai cũng đem dâng nó lên vua rồi; nếu
nó có thể tặng được thì ai cũng tặng nó cho cha mẹ rồi; nếu nó có thể bảo cho
người khác hay được thì ai cũng bảo cho anh em rồi; nếu nó có thể cho được thì
ai cũng đem nó cho con cháu rồi. Nhưng không được! Nguyên do thế này: trong lòng
không có bản chất của Đạo thì Đạo không lưu lại trong đó được; ngoài không phối
hợp với đối tượng thì Đạo không vận hành được. Nếu phát động ở trong mà ngoài
không tiếp thu được thì thánh đức không hiện (nguyên văn: thánh nhân bất xuất);
nếu phát động ở ngoài mà trong lòng không có sẵn bản chất của Đạo thì thánh đức
không lưu lại.
Danh vọng là của
người khác cho mình, không nên nhận nhiều quá. Nhân và nghĩa là quán trọ của tiên
vương, chỉ nên ghé đó một đêm, không nên ở lâu, ở lâu thì bị nhiều điều trách móc.
Bậc chí nhân thời
xưa mượn con đường “nhân” mà đi, ghé quán “nghĩa” mà nghỉ (rồi đi tiếp chứ không
ở lâu), thảnh thơi tiêu dao, sống đạm bạc và độc lập. Tiêu dao thì vô vi, sống đạm
bạc thì dễ được thỏa mãn, độc lập thì không bị tổn thất. Đời xưa cho như vậy là
giữ được bản chân.
Ai nhắm việc làm
giàu thì không từ bỏ được lợi lộc; ai nhằm sự vinh hiển thì không từ bỏ được cái
danh; ai ham quyền thế thì không nhường quyền bính cho người được; nắm giữ nó
thì run sợ mà buông ra thì rầu rĩ. Những kẻ đó không có gì để tự răn mà hãm bớt
sự thị dục, họ bị trời hành hạ. Oán, ân, lấy, cho, khuyên răn, dạy bảo, sinh, sát,
tám cái đó, là khí cụ của chính quyền. Chỉ người nào thuận theo sự biến hóa tự
nhiên là dùng được những khí cụ ấy. Cho nên bảo: “Tự sửa mình cho ngay rồi mới
cai trị được người”. Trong lòng không theo qui tắc ấy thì thiên cơ không mở ra đâu!
3-. Khổng Tử nói
với lão Đam:
Khâu tôi nghiên
cứu lục Kinh: Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch, Xuân Thu, tự cho là đã tốn công và hiểu
được kỹ. Tôi đã yết kiến bảy mươi hai ông vua, bàn luận về đạo của tiên vương,
giảng rõ về chính sách của Chu Công và Thiệu Công (cũng là con của vua Văn Vương),
không một ông vua nào dùng lời của tôi cả. Quá lắm! Tại khó thuyết phục bọn họ
hay tại khó làm sáng được đạo?
Lão Tử đáp:
- Không gặp được
một ông vua nào biết trị nước, là may cho ông đấy. Vì lục kinh chỉ là cái di tích
cổ hữu của tiên vương, đâu phải là cái tinh thần tiên vương lưu lại. Những lời
họ nói ngày nay cũng là dấu vết thôi. Như giày dẫm lên đất để lại một cái dấu,
dấu đó không phải là giày. Loài ngỗng trắng, con trống con mái nhìn nhau trừng
trừng, con ngươi không cử động mà tự nhiên sinh sản; con sâu đực kêu lên ở trên,
ở dưới con cái hòa theo, mà cũng tự nhiên sinh sản. Hễ có con đực con cái cùng
một loài thì sinh sản dễ dàng. Không thể đổi được thiên tính cùng vận mệnh; bốn
mùa không thể ngừng lại được, đại đạo không thể bị nghẽn lấp. Đạt được đạo thì
làm gì cũng được, để mất nó thì không làm gì được cả.
Khổng Tử nghe rồi
ba tháng không ra khỏi cửa (?)!
4-. Thôi Cồ hỏi
Lão Đam:
- Không trị thiên
hạ thì làm sao cải hóa được lòng người?
Lão Đam đáp:
- Phải cẩn thận,
đừng làm dao động lòng người. Lòng người, hễ đè thì nó ép xuống, kích thích thì
nó bồng lên. Ép xuống rồi bồng lên hoài thì nó không được thảnh thơi. Nhu thắng
được cương. Ai vụ danh thì tổn hại bản tính, lòng có lúc nóng như lửa, có lúc lạnh
như đá (dễ rạn vỡ?). Tư tưởng biến đổi rất mau, tới nỗi chỉ trong thời gian cúi
đầu và ngửng lên, nó đã đi ra ngoài bốn bể rồi trở về rồi. Khi nghỉ thì nó lặng
lẽ như cái vực; khi động thì nó như treo trên trời. Lòng người thật kiêu căng và
không gì cưỡng chế được.
Xưa, vua Hoàng Đế
là người đầu tiên dùng nhân nghĩa làm dao động lòng người, rồi vua Nghiêu và
vua Thuấn mới hy sinh tới nỗi bắp vế tiêu hết thịt, ống chân trụi hết lông, để
lo cho hình thể nhân dân được an thích; hai ông ấy làm tiều tụy ngũ tạng để lo
việc nhân nghĩa, khô kiệt khí huyết để đặt ra pháp độ mà vẫn không thành công.
Rồi vua Nghiêu phải đày Hoan Đâu lên núi Sùng, đánh đuổi rợ Tam Miêu tới Tam Nguy,
trục xuất Cung Công tại U Đô, như vậy chẳng phải là thất bại ư?
Tới
đời tam Đại
(Hạ, Thương, Chu), thiên hạ đại loạn. Kẻ đê hèn
thì như Kiệt, Chích, người cao thượng thì như Tăng (Sâm), Sử (Ngự). Nho,
Mặc xuất
hiện. Kẻ vui thích và kẻ bất bình nghi ngờ lẫn nhau, người ngu và kẻ trí
khinh
bỉ lẫn nhau, người thiện và kẻ ác chê bai lẫn nhau, người ngay thẳng và
kẻ gian
dối trách mắng lẫn nhau, mà thiên hạ suy. Khi cái Đức lớn không được mọi
người
cùng theo thì xã hội tán loạn. Khi thiên hạ thích tri thức thì mọi người
kiệt lực
vào việc học. Do đó người ta chế tạo ra cái rìu, cái cưa để xẻ, dùng dây
và mực
để vạch dấu mà đẽo, cái búa, cái dùi để đục, mà thiên hạ rối bời. Lỗi về
những
kẻ làm dao động lòng người. (Ngày nay có một bộ phận trí thức có lẽ do
học và đọc "đủ thứ" nhiều quá nên hóa rồ, quên mất chuyên môn mình, quên
mất sự sống mình, quên luôn cả trách nhiệm đối với gia đình, vợ con
mình, cứ chăm chăm "chúi mũi" vào chuyện "Ngu Công dời núi", tụ tập nhau
lại bù khú rượu thịt không phải để hưởng đời mà là để "tiền hô hậu ủng"
rú gào thảm thiết: "Bình thiên hạ!Bình thiên hạ! Bình thiên...". Thật
không hiểu nổi! Bó tay!!!)
Từ đó người hiền
ẩn cư trên núi cao, trong hang đá, mà những ông vua mười ngàn cỗ xe (vua nước lớn)
lo lắng, sợ sệt ngồi trên miếu đường. Ngày nay, những kẻ bị tử hình nằm chồng
chất lên nhau, đâu đâu cũng thấy những kẻ bị tra tấn, xử tội và Nho, Mặc mới từ
trong cảnh cùm xích đó, gắng sức cứu đời. Hỡi ơi! Sao mà họ không thấy xấu hổ,
không biết nhục nhỉ! Thì ra thành trì chỉ để tạo ra những gông cùm và làm sao
biết được Tăng Sâm, Sử Ngư chẳng tiếp tay cho tên Kiệt và tên Chính?
Cho
nên bảo:
“Tuyệt thánh khí trí rồi thiên hạ sẽ thái bình”. (Trí thức nói chung là
nguyên khí quốc gia, nhưng nếu không biết kìm chế, coi chừng lại thành
xú khí làm nhục quốc thể).
5-. Tử Cống (môn
đệ của Khổng Tử) sau khi xuống nước Sở ở phương Nam, trở về Tấn, đi qua đất Hán
Âm, thấy một ông lão đang làm vườn. Ông ấy xuống một đường hầm, vô một cái giếng,
rồi xách lên một vò nước để tưới rau. Cực nhọc mà kết quả chẳng được bao. Tử Cống
nói với ông lão:
- Có một cái máy
một ngày có thể tưới được một trăm luống rau, cụ muốn dùng không?
Ông lão ngẩng lên
nhìn Tử Cống hỏi:
- Cái máy ấy ra
sao?
- Máy ấy bằng gỗ
đục, phía sau nặng, phía trước nhẹ, đưa (vò) nước lên như thể kéo bằng tay vậy,
mau như nước sôi tràn nồi. Tên nó là cái “cần vọt” (cần kéo).
Ông lão làm vườn
nghe xong, nổi giận, đỏ mặt lên, nén cười nhẹ, bảo:
- Lão nghe thầy
lão nói rằng hễ dùng cơ giới thì tất có cơ sự (việc máy móc), có cơ sự thì tất
có cơ tâm (lòng máy móc) có cơ tâm thì không còn thiên tính trong trắng nữa mà
tâm thần không yên ổn, tâm thần không yên ổn thì Đạo sẽ lánh xa, không che chở
mình nữa. Lão không phải không biết cái lợi của cơ giới, nhưng cho dùng nó là
nhục, thế thôi.
Tử Cống xấu hổ,
cúi đầu không đáp. Một lát sau, ông lão làm vườn mới hỏi:
- Chú là ai?
- Thưa, một đệ
tử của Khổng Khâu.
- Chú phải thuộc
hạng người muốn học cho rộng để đòi làm ông thánh, hô hào để thiên hạ theo mình,
gảy đàn, ca hát than thở để chuốc danh đấy không? Chú nên quên thần khí, bỏ hình
hài của chú đi thì may ra mới tới gần được Đạo. Thân chú, chú còn không “trị” được
thì làm sao trị được thiên hạ? Thôi đi đi, để lão làm việc.
Tử Cống xấu hổ,
tím mặt lại, sợ sệt. Không trấn tĩnh lại được ngay. Đi ba chục dặm rồi tâm thần
mới định.
Bọn đệ tử hỏi Tử
Cống:
- Người lúc nãy
là ai vậy? Tại sao thầy biến sắc tới suốt ngày như vậy?
Tử Cống đáp:
- Trước kia ta
cho rằng trong thiên hạ chỉ có mỗi một người (là Khổng Tử), không ngờ lại còn có
ông lão này. Ta nghe thầy ta dạy: “Hành động thì phải hợp thời cơ, cộng nghiệp
thì phải tính sao cho thành công. Dùng sức ít mà kết quả nhiều, đó là đạo của
thánh nhân”. Lời ông lão hôm nay khác hẳn: hễ giữ được Đạo thì cái Đức được toàn
vẹn, Đức toàn vẹn thì hình thể được toàn vẹn, hình thể toàn vẹn thì tinh thần được
toàn vẹn; Giữ cho tinh thần toàn vẹn là đạo của thánh nhân; thánh nhân sống tạm
ở đời này cũng như mọi người, không biết (chết rồi) về đâu. Thật là hoàn toàn
trong sạch. Người nào chỉ nghĩ tới cái lợi mà dùng cơ giới là không giữ được cái
tâm như ông lão ấy. Ông ấy chỉ theo ý chí của mình, hành động theo lòng mình. Dù
được cả thiên hạ khen và theo lời mình, ông ấy cũng thản nhiên, dù bị cả thiên
hạ chê là lời ông ấy không theo được, ông ấy cũng không buồn. Khen hay chê cũng
chẳng làm ông ấy thay đổi gì cả, người như vậy là toàn đức. Ta chỉ là hạng người
dễ bị ảnh hưởng của người khác như làn sóng dưới gió.
Về tới Lỗ, Tử Cống
kể lại chuyện ấy với Khổng Tử. Khổng Tử bảo: “Người đó hiểu lầm đạo thuật của
thời nguyên thủy hỗn mang. Người đó biết một mà không biết hai, biết trị nội tâm
mà không biết trị ngoại vật. Giữ cái tâm sáng suốt, chất phác, vô vi để trở về
với tự nhiên, giữ được bản tính và tinh thần, ngao du trong cõi thế tục, cái đó
có đáng gì cho anh ngạc nhiên? Đạo thuật của thời nguyên thủy hỗn mang, có đáng
gì cho thầy trò mình biết?”.
6-. Cực Thanh hỏi
Vô Cùng:
- Anh biết Đạo
không?
Vô Cùng đáp:
- Không.
Cực Thanh hỏi Vô
Vi:
- Anh biết Đạo
không?
- Biết.
- Anh biết Đạo,
vậy có thể nói được nó ra sao không?
- Được.
- Vậy nó ra
sao?
- Theo tôi, nó
có thể quí hay tiện, tụ hay tán. Đó, nó như vậy.
Cực Thanh kể lại
những lời của Vô Cùng và Vô Vi cho Vô Thủy nghe và hỏi:
- Vô Cùng không
biết Đạo, mà Vô Vi biết. Như vậy ai phải ai trái?
Vô Thủy đáp:
- Người nào không
biết mới là sâu sắc, người nào biết thì nông cạn. Không biết là cảm được cái bề
trong, biết chỉ là thấy bề ngoài.
Cực Thanh gật đầu,
than:
- Vậy không biết
mới là biết, mà biết lại là không biết. Ai biết được cái biết mà là không biết?
Vô Thủy bảo:
- Đạo không thể
nghe được; cái gì nghe được thì không phải là Đạo. Đạo không thể thấy được; cái
gì thấy được thì không phải là Đạo. Đạo không thể đem ra giảng được, cái gì giảng
được thì không phải là Đạo. Ai biết được rằng cái gì sinh ra hình thể thì không
có hình thể. Đạo, không thể dùng tên mà gọi được.
Vô Thủy nói tiếp:
- Có người hỏi
về Đạo mà mình trả lời tức là không biết Đạo. Nói cái việc hỏi về Đạo đủ tỏ rằng
chưa nghe gì về Đạo. Đạo thì không thể đem ra hỏi được, mà hỏi thì không trả lời
được. Đã không thể hỏi được mà còn hỏi thì câu hỏi đó rỗng không, đã không đáp được
mà còn đáp thì lời đáp đó vô nghĩa. Dùng lời vô nghĩa mà đáp một câu hỏi rỗng
không, như vậy là ngoài thì không quan sát Vũ Trụ, trong thì không biết nguồn gốc,
tất không vượt được núi Côn Lôn, mà ngao du ở cõi Thái Hư. (Côn Lôn là dãy núi
lớn nhất ở phía tây Trung Hoa. Ở đây chỉ cảnh giới cực cao xa. Cõi Thái Hư đây
tức là cõi “vô hà hữu chi lương” chỗ hư vô tịch mịch).
7-. Ánh Sáng Rực
Rỡ hỏi Không Có:
- Thấy là có
hay không có?
Hỏi mà không được
đáp. Ánh Sáng Rực Rỡ bèn chăm chú nhìn trang mạo của Không Có, chỉ thấy tối tăm
và hư không. Suốt ngày nhìn Không Có mà không thấy gì cả, nghe mà không nghe gì
cả, sờ mó mà không nắm được gì cả. Ánh Sáng Rực Rỡ thán phục:
- Thật là cao
xa! Ai mà đạt được. Ta có thể hiểu được sự hư không, nhưng không thể cho cái hư
không là không có, đến như không có mà là có thì làm sao đạt được cảnh giới ấy.
8-. Khổng Tử là
bạn của Liễu Hạ Quí. Liễu Hạ Quí, tức Liễu Hạ Huệ, họ Triển, tên Cầm, nhà ở dưới
gốc cây liễu, nên gọi là Liễu Hạ, nổi tiếng là trong sạch; có người em tên là Đạo
Chích (là tướng cướp tên Chích). Đạo Chích cầm đầu chín ngàn bộ hạ hoành hành
trong thiên hạ, xâm đoạt các nước chư hầu, đào tường khoét vách, lùa ngựa bò, bắt
cóc vợ và con gái người ta, tham lợi tới quên cả thân thích, không đoái hoài tới
cha mẹ anh em, không cúng giỗ tổ tiên. Họ qua nơi nào, nếu là nước lớn thì cố
giữ thành, nước nhỏ thì nấp sau lưng, dân tình khốn khổ.
Liễu Hạ Quí bảo
Khổng Tử:
- Làm cha thì
phải răn đe con, làm anh thì phải dạy bảo em. Nhưng nếu con, em không chịu nghe
lời cha, anh thì dù có tài biện thuyết như ông, phỏng làm được gì không? Mà thằng
Chích lòng sôi như suối nóng, ý chí như bão táp; nó mạnh đủ để đương đầu với mọi
kẻ thù, bẻm mép đủ để che giấu, tô điểm những tật của nó, hễ thuận ý nó thì nó
thích, trái ý nó thì nó giận, mắng chửi liền. Ông đừng nên đi!
Khổng Tử không
nghe, cứ đi. Nhan Hồi đánh xe, ngồi bên trái, Tử Công ngồi bên phải, thấy Đạo
Chích đương nghỉ ngơi với bộ hạ ở phía nam núi Thái Sơn. Họ băm gan người làm món
ăn bữa chiều. Khổng Tử xuống xe, tiến lại gần người canh gác, nói:
- Tôi là Khổng Khâu
nước Lỗ, nghe tiếng tướng quân là người nghĩa khí cao, muốn xin yết kiến.
Nói rồi ông vái
hai vái.
Người đó vào thông
báo, Đạo Chích nghe xong, nổi giận tới nỗi mắt sáng như ngôi sao (nảy lửa), tóc
dựng ngược muốn hất cái mũ lên. Hắn nói:
- Tên Khổng Khâu
đó, phải là kẻ xảo trá ở nước Lỗ đấy không? Ra bảo nó như vầy cho ta: “Mày là tên
bày đặt ra lời này lẽ nọ rồi nói thác ra của vua Văn vua Vũ, mày đội cái mũ
trang sức lòe loẹt, đeo cái dây lưng bằng da bò. Mày ba hoa nói bậy, không cày
mà ăn, không dệt mà mặc! Mày khua môi múa mỏ, bày đặt ra điều thị phi để mê hoặc
bọn vua chúa, khiến kẻ sĩ trong thiên hạ không trở về bản tính được; mượn cớ trọng
hiếu đễ mà thực là chỉ cầu được phong hầu mà hưởng phú quí. Tội của mày nặng lắm.
Cút ngay đi, nếu không tao bằm gan mày để ăn bữa trưa!”.
Nhưng Khổng Tử
vẫn xin vô thông báo lần nữa, bảo:
- Tôi may mắn được
quen ông Liễu Hạ Quí, xin được vô bái kiến dưới trướng.
Người canh gác
lại vào thông báo lần nữa. Đạo Chích nói:
- Cho nó vô!
Khổng Tử vội vàng
tiến vô, không dám ngồi vào chiếu, lùi lại, vái Chích hai vái. Chích nổi giận đùng
đùng, duỗi hai chân, đặt tay lên chuôi kiếm, ngó Khổng Tử trừng trừng, giọng dữ
như con cọp cái đương cho con bú mà bị quấy phá. Hắn bảo:
- Khâu, lại đây!
Mày nói mà thuận ý tao thì được sống, nếu trái thì sẽ mất mạng đấy.
Khổng Tử bảo:
- Khâu tôi nghe
nói trong thiên hạ có ba đức quí: thân thể cao lớn, dung mạo đẹp đẽ vô cùng, bất
luận già trẻ, sang hèn trông thấy đều thích, đó là đức quí thứ nhất; trí tuệ
bao quát trời đất, biên biệt được mọi vật, đó là đức quí thứ nhì; dũng mãnh quả
cảm, qui tụ được nhiều binh lính mà thống lĩnh họ, đó là đức thứ ba, thấp hơn cả.
Ai mà có được một trong ba đức đó thì đáng làm vua trong thiên hạ. Nay tướng quân
có đủ cả: cao tám thước hai (một thước thời đó bằng khoảng một gang tay), diện
mục đều sáng, môi đỏ như son, răng trắng như vỏ sò nước Tề (nước Tề có biển),
tiếng vang như chuông. Vậy mà người ta gọi tướng quân là “tướng cướp tên Chích”,
tôi lấy làm xấu hổ cho tướng quân, lẽ nào lại chịu như vậy. Nếu tướng quân chịu
nghe lời tôi thì tôi sẽ vì tướng quân đi sứ Ngô, Việt ở phương Nam; Tề, Lỗ ở phương
Bắc; Tống, Vệ ở phương Đông; Tấn, Sở ở phương Tây. Tôi sẽ thuyết phục người ta
xây một cái thành lớn mấy trăm dặm, lập một ấp lớn mấy trăm ngàn nhà, tôn tướng
quân làm vua chư hầu, mà mở một cuộc đời mới từ nay: bãi binh, cho lính về, tập
hợp anh em, nuôi nấng họ và cúng giỗ tổ tiên. Đó là hành vi của bậc thánh nhân
và kẻ sĩ có tài, thiên hạ chỉ mong được như vậy.
Chích vẫn chưa
nguôi giận, đáp:
- Khâu, lại đây!
Kẻ nào bị thuyết phục vì lợi, hoặc nghe lời khuyên mà sửa tính, kẻ đó chỉ là hạng
ngu xuẩn, tầm thường. Nay tao cao lớn, dung mạo đẹp đẽ, ai trông thấy cũng thích,
đó là cái đức cha mẹ tao di truyền lại, chẳng đợi mày khen, tao cũng biết. Mà tao
nghe nói kẻ nào thích khen trước mặt người khác thì sau lưng sẽ nói xấu người
ta. Mày hứa sẽ cho tao một thành lớn với nhiều nhiều dân, là muốn dùng lợi mà dụ
dỗ tao, coi tao như hạng tầm thường. Nếu được như thế đi nữa thì phỏng tao giữ được
bao lâu? Thành dù lớn tới mấy cũng không bằng cả thiên hạ được. Nghiêu, Thuấn làm
chủ thiên hạ đấy mà con cháu không có một miếng đất cắm dùi; Thang và Vũ làm thiên
tử đấy mà đời sau tuyệt diệt; như vậy chẳng do nắm được cái lợi lớn đấy ư?
Vả lại tao nghe
rằng đời xưa cầm thú nhiều mà người ít, cho nên dân mới phải làm ổ để ở mà tránh
chúng; ban ngày lượm hạt dẻ, trái lật, ban đêm ngủ ở trên cây, cho nên mới gọi
là “thời ở trong ổ” (Sáo thị chi dân).
Đời xưa, con người
không có quần áo, mùa hè chất chứa cành cây để mùa đông đốt mà sưởi, cho nên gọi
là “thời biết cách sống” (Tri sinh chi dân). Thời Thần Nông, người ta ngủ ngon,
sáng dậy thư thái. Người ta chỉ biết có mẹ mà không biết có cha (thời mẫu hệ!), sống chung với
hươu nai, cày ruộng mà ăn, dệt vải mà mặc, không có ý hại nhau. Đó là thời Đức
tuyệt cao (thời Thế giới đại đồng?).
Nhưng
rồi Hoàng
Đế kém Đức, giao chiến với Si Vưu ở cánh đồng Trác Lộc, máu chảy tới
trăm dặm.
Rồi Nghiêu, Thuấn cầm quyền, đặt ra quan chức; Thang đuổi vua đi, Võ
Vương giết
Trụ. Từ đó về sau, kẻ mạnh ức hiếp kẻ yếu, đa số đàn áp thiểu số (thời
bắt đầu có sự phân hóa xã hội, phân chia tầng lớp giàu-nghèo, thống
trị-bị trị, đã có khái niệm quyền lực, tư hữu?). Từ Thang, Võ
tới nay, chỉ toàn là bọn gây loạn thôi. Mà bây giờ mày muốn theo đạo vua
Văn
vua Võ, nắm ngôn luận trong thiên hạ để dạy đời sau. Mày bận cái áo rộng
tay (áo
của nho sĩ-hàng ngũ trí thức đương thời), đeo cái đai hẹp kia, dùng xảo
ngôn và hành vi giả dối để mê hoặc bọn
vua chúa trong thiên hạ, mà mong được phú quí. Đạo tặc bậc nhất là mày
đấy. Tại
sao thiên hạ không gọi mày là thằng tướng cướp Khâu mà lại gọi tao là
thằng tướng
cướp Chích?
Mày dùng lời ngọt
ngào dụ dỗ Tử Lộ theo mày; nó bỏ cái mũ cao, cây kiếm dài đi, theo học mày, và
thiên hạ đều khen Khổng Khâu biết ngăn bạo hành, cấm điều trái. Nhưng rốt cuộc,
Tử Lộ muốn giết vua nước Vệ mà thất bại, bị vua Vệ băm thây làm mắm ở cửa Đông
Kinh Thành; vậy là giáo dục của mày lầm lẫn rồi.
Mày tự cho là bậc
thiên tài, thánh nhân ư? Mày bị đuổi hai lần ở Lỗ, bị trục xuất khỏi Vệ, bị khốn
đốn ở Tề, bị vây ở khoảng giữa Trần và Thái, khắp thiên hạ không còn chỗ nào để
dung thân. Mày dạy Tử Lộ mà khiến thây nó bị băm ra làm mắm. Như vậy là cái Đạo
của mày không ích gì cho mày và cho người, có đáng cho ai nghe không?
Trên đời không
ai được tôn sùng bằng Hoàng Đế, mà đức của Hoàng Đế cũng không hoàn toàn, gây
chiến ở đồng Trác Lộc, máu chảy trăm dặm. Nghiêu làm vua thì bất từ, Thuấn làm con
thì bất hiếu, Vũ bán thân bất toại; Thang đuổi vua Kiệt đi, Võ Vương giết vua
Trụ, Văn Vương bị giam ở ngục Dữu Lí (Nghiêu mưu giết con trưởng, Thuấn cưới vợ
không xin phép cha mẹ, Vũ lo trị thủy dầm mưa dãi nắng mà sinh bệnh, Văn Vương
bị Trụ giam bảy năm). Sáu ông ấy được thiên hạ đề cao đấy. Nhưng xét cho kỹ, họ
đều bị cái lợi mê hoặc mà mất bản chân, khiến họ làm ngược lại hẳn bản tính của
họ, hành vi đó của họ thật đáng xấu hổ.
Hạng người mà
thiên hạ khen là hiền thì có Bá Di, Thúc Tề. Hai ông ấy từ chối ngôi vua nước Cô
Trúc để rồi chết đói trên núi Thú Dương, thịt xương không ai chôn cho. Bảo Tiêu
tô điểm đức hạnh mà chê bai người đời, sau phải ôm cây mà chết (Ông là ẩn sĩ đời
Chu, vô rừng ở, lượm trái cây mà ăn. Tử Cống nói
khích: “Ông chê nhà Chu mà ở trên đất của Chu, ăn trái cây của Chu. Như vậy có phải không?”. Bảo Tiêu bèn ôm cây chịu chết
khô.). Thân Đồ Địch can vua, vua không nghe, rồi ôm đá gieo mình xuống sông làm
mồi cho cá và ba ba. Giới Tử Thôi rất trung quân, tự cắt đùi để nuôi Tấn Văn Công
trong khi bỏ nước mà đi, sau Tấn Văn Công quên Giới Tử Thôi, Tử Thôi giận, bỏ vô
rừng, ôm cây chịu chết thiêu (Giới Tử Thôi, cũng gọi là Giới Chi Thôi, trốn
theo thái tử Trùng Nhĩ, cắt thịt đùi nuôi Trùng Nhĩ, sau thành Tấn Văn Công. Tấn
Văn Công thưởng các người tòng vong mà quên ông, ông cõng mẹ vào núi ở. Văn Công
ân hận mời Thôi ra, Thôi không ra, Văn Công đốt núi để ông phải ra, nhưng ông ở
lì trong núi mà chịu chết thiêu. Hôm đó là ngày mồng 3 tháng 3. Từ đó, vua ra lệnh
ngày ấy cấm lửa, phải ăn nguội để kỷ niệm Thôi. Tết đó là tết Hàn thực). Vĩ
Sinh hẹn với một người con gái ở dưới cầu, nàng không đến, nước sông dâng lên,
Vĩ Sinh không về, ôm cột cầu, mà chịu chết đuối. Sáu người đó chết không khác gì
con chó bị giết, con heo bị nhận nước, tên hành khất cầm cái bầu đi xin ăn. Họ đều
ham danh mà khinh chết, không nhớ đến cái điều căn bản là di dưỡng tuổi thọ.
Hạng người mà
thiên hạ khen là trung thần, không ai bằng Tỉ Can và Ngũ Tử Tư, mà Tử Tư bị ném
thây xuống sông, Tỉ Can bị moi tim. Hai ông ấy được gọi là trung thần đấy, rốt
cuộc bị thiên hạ cười chê, như vậy thì có gì đâu mà đáng khen.
Khâu, mày muốn
thuyết tao, đem chuyện quỉ thần ra nói thì tao không biết, chứ nói chuyện người
thì bất quá chỉ như vậy, tao biết cả rồi. Tao nói về tình người cho mày nghe này:
mắt ưa sắc đẹp, tai ưa tiếng êm đềm, miệng muốn nếm vị ngọt, chí khí muốn được
thỏa mãn. Người ta thượng thọ thì được trăm tuổi, trung thọ được tám mươi, hạ
thọ được sáu mươi, mà trừ những lúc đau yếu, những lúc có tang, buồn rầu lo lắng
ra, thì mỗi tháng chỉ còn bốn năm ngày mở miệng ra cười được thôi. Trời với đất
vô cùng, kiếp người hữu hạn, đem cái thời gian hữu hạn gửi vào trong cái khoảng
vô cùng thì không khác gì bóng câu qua cửa. Kẻ nào không biết thỏa mãn ý chí,
giữ gìn thọ mệnh thì không hiểu gì về Đạo cả. Những lời nói của mày, Khâu, tao
không chấp nhận được. Dông đi, về ngay đi, đừng nói thêm nữa! Cái Đạo của mày điên
rồ vô nghĩa, xảo trá, hư ngụy, không làm cho người ta bảo toàn được chân tính,
không đáng đem ra bàn.
Khổng Tử vái
hai vái rồi vội vàng chạy ra cửa, lên xe ba lần mới nắm được dây cương vì hoảng
hốt, mắt không thấy rõ, mặt tái mét như tro tàn, ngồi dựa vào cái đòn ở trước
xe, đầu cúi xuống, thở không ra hơi.
Về tới phía ngoài
cửa Đông kinh đô nước Lỗ thì gặp Liễu Hạ Quí. Liễu Hạ Quí hỏi:
- Mấy bữa rày
không thấy mặt ông đâu. Mà sao xe và ngựa có vẻ như đi xa về. Phải chăng ông đi
thăm thằng Chích?
Khổng Tử ngẩng
mặt lên trời thở dài:
- Phải!
- Thế nó có nói
gì trái ý như tôi đã đoán không?
- Có. Khâu tôi
như con người vô bệnh mà để cho người ta châm cứu vậy. Tôi đã chạy lại xoa đầu,
vuốt râu cọp, suýt nữa bị cọp nhai.
(Khi Trang Tử kể
câu chuyện này xong, chúng ta có nêu thắc mắc: theo Tư Mã Thiên thì Chích sống ở
thời Hoàng Đế, cách thời Khổng Tử xa lắc… Trang Tử cười hề hề mà rằng:
- Cả ba người: Khổng
Tử, Liễu Hạ Quí và Đạo Chích đều khác thời nhau. Chuyện ta kể chỉ là ngụ ngôn để
tỏ cái lòng của ta, thế thôi!).
(Hết chương VIII)
Nhận xét
Đăng nhận xét