THỰC TẠI VÀ HOANG ĐƯỜNG 12 /a

 THỰC TẠI VÀ HOANG ĐƯỜNG

                                                                                                  ĐẠI CHÚNG

                                                    ____________________________



CHƯƠNG IX: NHÌN LẠI

                                                                      "Nhân loại không có sự đòi hỏi nào cao hơn là  làm 
                                                               sao đạt tới cái chí thiện, chí mỹ và chính vì giải quyết vấn 
                                                               đề ấy mà nó đã cố gắng, đang cố gắng và còn cố gắng mãi"

                                                                                                                            Vidhusekharsastri

     Nói "chứng thực được nhiều điều..." nghĩa là còn rất nhiều điều khuất tất mà chúng ta phải "chịu ấm ức" trong lòng! Biết đâu chừng khoảng một thế kỷ nữa, lịch sử xã hội loài người giai đoạn tiền sử-cổ đại sẽ phải vào "Thẩm mỹ viện" để được "giải phẫu" tổng thể cho hợp lý hợp tình hơn, chủ yếu là do "phần" lịch sử ấy thuộc vùng Châu Á ngày nay đang "ôm đồm" một khối những "ngược ngạo" có vẻ...hơi bị khổng lồ(?)!...
  Trang Tử chưa phải là tiên hiền, thánh triết như Thái Thượng Lão Quân, Vương Thiện Lão Tổ(!)..., nhưng cũng thuộc hàng minh triết thượng thừa. Thấm nhuần tư tưởng Lão Tử nên ông có lối sống thật hồn nhiên, phóng túng, vô chấp, chẳng khác...Dương Chu. Trước khi chia tay, ông có làm bữa tiệc thết đãi chúng ta. Gọi là "tiệc" nhưng cũng giản dị, phần nhiều là rau quả, thịt ít thôi, mà cũng chỉ có hai món không luộc thì nướng. Nhưng rượu thì...tràn trề! Nghe đồn, loài người đã biết uống rượu từ thời tiền sử và vào khoảng 3000 năm TCN người Trung Hoa đã làm ra rượu bằng cách cho lên men trái cây. Hình như đến thời Trang Tử vẫn chưa xuất hiện loại rượu ngũ cốc thu được bằng cách chưng cất...Rượu của Trang Tử có lẽ thuộc hàng hảo hạng thời cổ đại, vì lũ sành rượu chúng ta (bợm thứ thiệt mà!) thấy tuyệt ngon, thơm mà không lừng, nồng mà không cay, gay mà không gắt, bắt là không tha, sa là phải đà(?!)...Trong suốt bữa tiệc, Trang Tử (có lẽ như mọi lúc) nói hùng hồn nhưng từ tốn (minh triết mà!), ăn hồ hởi nhưng chừng mực (theo Đạo mà!), uống nhiệt tình nhưng không túy lúy (tiên tửu mà!). Còn chúng ta thì khỏi chê, vì bị bữa tiệc thời cổ đại vừa lạ vừa ngon hút mất hồn nên nói nhát gừng kiểu phàm phu, ăn nhồm nhoàm kiểu tục tử, uống ừng ực kiểu...quỉ tửu! Thật là một cuộc no say đúng nghĩa "phồn thực" (nảy nở nhiều, sung túc)!...
  Chào tạm biệt (nói vĩnh biệt đúng hơn!) Trang Tử đáng kính, chúng ta theo kim chỉ nam vừa loạng choạng vừa nghêu ngao khúc quân hành lè nhè tự hát, nhưng trong suy nghĩ vẫn lầm tưởng mình tỉnh táo và bước đều như một đội ngũ chỉnh tề, hùng dũng, đi về phía có con tàu vượt thời gian huyền hoặc, trên con đường ngoằn ngoèo lầy bụi đỏ bởi bị ngàn vạn vó ngựa đã từng qua đây dày xéo. Mây đã sẫm nắng chiều, gió đã gai khí lạnh, nhưng lòng chúng ta vẫn chói chang rực rỡ, nồng nàn. Có lẽ tại rượu đã có tác động cộng hưởng đến nỗi khắc khoải nhung nhớ...thế kỷ XXI và nhất là, đến sự náo nức rằng chút xíu nữa thôi, sẽ không còn phải nơm nớp khảo cổ trước dày đặc làn tên mũi giáo mù quáng thời Đông Chu Liệt Quốc nữa. Vì chúng ta vừa đi vừa hát trong phởn chí như thế nên đã không để ý thấy ở bên phải, cách vệ đường không xa có một mái nhà. Chỉ khi qua rồi chúng ta mới biết bởi tiếng người từ đó theo gió vọng đến, và thật lạ là lơ lớ ngôn ngữ Việt, dễ đoán: "Đám binh nhà nào thế, mày?".Tiếng nói đó làm chúng ta bạt vía kinh hồn đến tê cứng người. Chưa kịp định thần thì vang lên tiếng cười ha há và lời đáp: "Binh biếc gì!...Mấy thằng An Nam vừa mới ăn nhậu ở nhà Trang tiên sinh ra ấy mà...Giờ này say mèm thế, không ngủ cho yên thân còn quờ quạng, lang thang nhập thế tìm cái giống gì không biết!?...Đúng là lũ dở hơi!...". Trong đời, có nhiều khi bị sỉ vả, chửi bới lại cảm thấy vô cùng sung sướng. Lúc đó, chúng ta cũng vậy...Nhưng sao thời đó đã có từ "an nam", và nếu có thì "an nam" thời đó có nghĩa gì, nguồn gốc từ đâu mà ra? Chịu chết!!!
   Mới biết, hiểu được điều hay lẽ phải trong cuộc sống đã rất khó rồi, sống theo điều hay lẽ phải một cách tự giác mà hồn nhiên như con trẻ còn khó hơn nhiều! Bởi vì sao? Phải chăng vì chúng ta, ai cũng như ai, đều mang bản tính bảo thủ, cho nên sự nhận thức (triết học) về xã hội-nhân sinh của chúng ta thường ưu tiên "hướng ngoại", thường chú tâm vào việc xem xét thiên hạ chứ ít khi "hướng nội", tự xem xét mình? Lão Tử thật chí lý khi nói: "Biết được người là khôn, biết được mình mới là sáng suốt". Rõ ràng khôn chưa hẳn đã hết mù quáng (chẳng hạn: khôn lỏi, ranh ma, láu cá ...), còn sáng suốt là cái khôn đã đạt tới anh minh, thấu tỏ, toàn diện. Vậy thì cần chú ý nhiều hơn, ưu tiên hơn cho nhận thức "hướng nội" trong việc xem xét xã hội-nhân sinh (về lẽ sống,đạo đức), nghĩa là "quay về" lấy tự thân chiêm nghiệm "trong" cái tôi tinh thần của mình (ngã) làm trọng yếu, làm trung tâm của sự nhận thức? Kể cũng đúng! Nhưng bằng cách nào? Nhắc lại lời dạy của Đạo Gia: nếu có cách giữ cho tâm thần cực hư, cực tĩnh thì thấy (ngộ) được Đạo, nói cách khác, làm sao cho sự suy tư được giải phóng, vượt thoát khỏi những "vướng bận" của cuộc sống đời thường mà trầm tư mặc tưởng một cách vô vọng, bất cầu, thản như không, nhẹ nhàng vô định như gió thoảng mây bay, như bèo trôi nước chảy thì sẽ nhận thức trực tiếp và tuyệt đích được cái lẽ tự nhiên của sinh-tử, cái bất toàn của vọng động-cố chấp-sân hận, cái nguyên nhân gốc rễ gây ra hạnh-khổ. Khi đã thấm nhuần được Đạo thì sẽ biết sống an nhiên, tự tại, buông bỏ và đó chính là lối sống vượt thoát tục lụy nên cũng tiêu trừ khổ đau. Như vậy, nói tóm lại, theo Lão Tử, chân lý tuyệt đối là Đạo, thấy được Đạo thì sẽ biết thế nào là hồn nhiên, an định, bất chấp, vô cầu mà sống hợp Đạo, an vui hòa đồng với nhân quần.
    Chắc rằng Lão Tử là người đầu tiên trong lịch sử Trung Hoa, trên cơ sở tiếp thu những ý niệm có tính hợp lý nhưng còn rời rạc, tản mạn về thực tại khách quan của trước và đương thời, đã "bừng ngộ", xuất thần cảm thức được một cách cực kỳ sâu sắc tính hiển hiện muôn màu muôn vẻ và biến hóa phi thường, vừa mặc định chí lý, vừa hư ảo bất tường của Tự Nhiên Tồn Tại, từ đó mà  xây dựng nên một triết thuyết hoàn chỉnh (dù còn sơ khai, mới được trình bày dưới dạng giống như một "luận cương"), về đại thể là đúng đắn, trở thành bất hủ, gọi là "Đạo Đức Kinh". Chính Lão Tử chỉ ra đại ý rằng Đạo lý của ông rất dễ hiểu, rất dễ thực hiện theo, thế mà trong thiên hạ rất hiếm người hiểu được, làm theo được. Vì sao lại có sự trái khoáy đó? Vì đơn giản là hiếm người biết (!) được như Lão Tử biết cái mà chính ông cũng "không biết nó là cái gì" (!), không thể đặt tên một cách đích xác, đành "tạm gọi là Đạo vậy", cái mà Đạo lý của ông là kết quả suy ra từ sự thể hiện phi thường của nó, vừa thực thể vừa ảo tượng, vô tình mà cũng hữu lý, không làm gì mà lại làm tất cả, là cả hai mà cũng không phải cả hai, nói chung là không thể suy lý, bàn luận một cách dứt khoát, tường minh về nó được và chỉ có thể tiếp cận được nó bằng cách trực tiếp trên con đường chiêm nghiệm cảm thức tâm linh. Dù chưa rõ ràng, minh định thì trong "Đạo Đức Kinh" cũng bàng bạc ý tứ ám chỉ đến định hướng nhận thức đó. Nhưng muốn đi trên con đường như thế để đến với Đạo, thấm nhuần Đạo lý mà biết sống hòa đồng với Đạo, vui với Đạo, thì hành động đầu tiên và duy trì xuyên suốt quá trình là tu thân-luyện tâm. Cái bản năng đòi hỏi thỏa mãn đói khát, dục tính có tính thụ động, tạm thời, chừng mực ở loài vật bị tư duy trừu tượng kích hoạt thành cái ý chí đòi hỏi thỏa mãn thèm thuồng dục vọng có tính chủ động, thường trực tâm can, vô độ ở con người. Chính cái ý chí có cội rễ bản năng và tồn tại gắn liền với sự thôi thúc bản năng ấy, nghĩa là chính cái trí khôn bị giam hãm trong trình độ nhận thức còn thiển cận, bị khống chế bởi "cái tôi" luôn hướng về lạc thú, chứ không phải cái gì khác đã đóng vai trò quyết định làm cho con người ta "lưu lạc" trong cõi mê lầm (vô minh), tương tự như kẻ mộng du nhưng vẫn tưởng mình đang tỉnh thức, gây ra đủ mọi tác nhân cản trở, ngăn chặn con người ta đến với Đạo, tự nguyện vui sống theo Đạo lý, đồng nghĩa là sống hòa hợp theo tự nhiên (và như thế, cũng tự nhiên đạt đến chí đức!). Và để tiêu trừ, khắc phục những khống chế ấy thì không còn cách nào khác, tiên quyết là phải tu thân-luyện tâm nhằm tăng cường trí lực, đạt đến thông tuệ mà giải thoát khỏi vô minh. Đây là lời Lão Tử: "Tri giả bất ngôn, ngôn giả bất tri. Tắc kỳ đoài, bế kỳ môn, tỏa kỳ nhuệ, giải kỳ phân, hòa kỳ quang, đồng kỳ trần. Thị vị huyền đồng", (Người biết (Đạo) thì không nói (về Đạo), người nói là người không biết (Đạo). Ngăn hết các lối (tai, mắt, mũi, miệng, có thể hiểu là cô lập, tránh
tác động của ngoại cảnh, hướng nội), đóng hết các cửa (nghĩa là bỏ tư tâm, dứt dục vọng), không để lộ sự tinh nhuệ ra (tĩnh tâm, không vọng động,), gỡ những rối loạn (loại bỏ tạp niệm, định thần), thu lại ánh sáng (giữ gìn, bảo toàn chân khí?), hòa hợp với trần tục (bình thản, như nhiên). Được như vậy là "huyền đồng" (là đã siêu thoát, giác ngộ Đạo, thấu tỏ Đức Huyền Diệu)). Nhấn mạnh, lời nói này lập tức làm chúng ta liên tưởng đến cái yếu lĩnh bao trùm và cơ bản nhất của thực hành Khí Công ngày nay: "Luyện tinh hóa khí, luyện khí hóa thần, luyện thần hoàn hư, luyện hư hợp Đạo"!!!
    Qua đó, chúng ta đưa ra phán đoán rằng, cũng chính Lão Tử là người đầu tiên nêu lên ý tưởng tu thân-luyện tâm nhằm đạt đến trạng thái tinh thần giác ngộ được Đạo và thấu tỏ Đạo lý. Ý tưởng đó phát triển dần đạt mức hoàn chỉnh như một luận thuyết tương đối độc lập, thành cẩm nang gồm bảy bước rèn luyện nội tâm, tồn tại dưới dạng Bản kinh Âm Phù lưu trong thiên cổ kỳ thư "Quỉ Cốc Tử" mà chúng ta đã giới thiệu khái lược. Trên tinh thần của Bản kinh Âm Phù (cũng có thể là ngay từ trong giai đoạn hình thành sơ khai của nó) các hiền triết phái Đạo Gia thời Xuân Thu-Chiến Quốc đã sáng tạo thêm một phương thức tu thân-luyện tâm mới có tính đặc thù, "giành riêng" cho tu tập tinh thần (nội tâm) với chủ đích thực hành đạt đến trí huệ siêu linh nhằm trực tiếp (không qua suy lý!) nhận biết Đạo, mà về sau này được gọi là "Thiền (định)" (?)! Về cái biết trực giác không qua suy luận, ngay Liệt Tử đã đề cập đến, ông nói: "Cơ thể hòa hợp với tâm, tâm hòa hợp với khí, khí hòa hợp với thần, thần hòa hợp với cái "vô" mà hễ có một hình thể rất nhỏ nào xuất hiện, một thanh âm rất nhỏ nào thoảng qua, dù ở xa hay gần, tôi cũng biết liền. Nhưng tôi không hiểu là do cảm giác của ngũ quan hay của các bộ phận khác trong người, chỉ biết rằng cái biết đó tự nhiên phát ra vậy thôi". Sau này, Trang Tử cũng nói: "Đừng suy luận gì hết sẽ thấy được Đạo", "Cái cảnh giới tối cao của Đạo (...), ngôn ngữ và suy tư đều không thể "chở" nó được. Không nói gì cả, cũng không trầm tư (nghĩ suy có chủ đích), đó là cái mức độ tối cao của nghị luận", vì nói chung "Những cái gì nối tiếp nhau đều có thứ tự, những cái gì biến chuyển đều theo một luật, hễ tới cùng thì quay trở lại (cùng tắc phản), hết rồi thì lại bắt đầu. Đó là hiện tượng chung của vạn vật. Nhưng lời nói, trí tuệ chỉ diễn đạt được bề ngoài của vạn vật thôi. Người đạt Đạo không tìm chung cục, không trở lui về nguyên thủy của vạn vật, vì cái đó vượt ra ngoài sự nghị luận".
    Trong câu nói trên của Trang Tử, dù còn mờ nhạt, đã ám chỉ đến một biểu hiện thuộc hàng cơ bản nhất về vận động của Tự Nhiên, đó là hiện tượng nhân-quả. Nguyên lý nhân-quả là nguyên lý mang tính phổ quát toàn Vũ Trụ cho nên tiến trình vận động của xã hội loài người, cả về vật chất lẫn tinh thần, cũng phải tuân thủ tuyệt đối nguyên lý này. Nói cách khác và nói riêng, mọi kết quả xuất hiện trong xã hội đều phải có một lịch sử hình thành. Như vậy, Bản kinh Âm Phù, với Thiền là bộ phận tương đối độc lập của nó, hơn nữa là cả cái ý tưởng ban đầu xây dựng nên chúng, không thể "đùng một cái" hiện ra từ Hư Vô được, mà chỉ có thể là thành quả của (một hay nhiều) quá trình tạo tác mang tính kế thừa và sáng tạo xảy ra trong không gian và thời gian. Vậy thì Bản kinh Âm Phù hình thành trên nền tảng nào?
      Ngày nay, bất cứ ai, chỉ cần tìm hiểu ở mức khái lược thôi cũng biết, khí công, dù tồn tại một cách rất đa dạng dưới lớp áo mang màu sắc của nhiều môn phái khác nhau, thể hiện ra với vô vàn cách thức, chiêu pháp cụ thể, thì chung qui lại, đều phải tuân thủ duy nhất cái yếu lĩnh mà chúng ta đã nêu ra ở trên. Nếu cái yếu lĩnh ấy, đúng như chúng ta đã "ngấm ngầm" dẫn dụ, được Đạo Gia phái thời Xuân Thu-Chiến Quốc nêu ra lần đầu tiên trên bàn tròn học thuật, thì có thể quyết đoán rằng Bản kinh Âm Phù chính là trước tác lý luận đầu tiên vế khí công và thực hành khí công, hay nói cách khác, là khí công thủy tổ của mọi môn phái, mọi phương pháp khí công sau này, mà trong đó tất nhiên có cả thiền. (Đại khái, trong thiền học của Phật Giáo, thiền chỉ (tạm) được hiểu là trạng thái siêu việt của tinh thần. Tinh thần hoạt động nhận thức trong trạng thái ấy sẽ nhận chân được thực tại khách quan như nó vốn dĩ, và gọi là "thiền ngộ". Theo chúng ta, thiền còn có nghĩa thứ hai nữa là "hành thiền" và tạm hiểu thiền là một phương pháp khí công đặc thù, chuyên chú tu tâm nhằm đạt đến trạng thái tâm linh siêu việt mà "thiền ngộ" thực tại. Ở đây, chúng ta "dùng" thiền chủ yếu theo nghĩa thứ hai).
     Yếu lĩnh khí công chỉ thị rằng bước đầu tiên của rèn luyện khí công là "luyện tinh hóa khí". Nhưng "luyện tinh hóa khí" là gì, như thế nào? Nghiêm Tân là cao đồ của pháp sư Hải Đăng. Những câu chuyện về khả năng khí công của hai ông thật thần kỳ khó tin, nhưng rất nhiều người đã được tận mắt chứng kiến.Trong thập kỷ 90 của thế kỷ XX, Nghiêm Tân nổi lên như một hiện tượng kỳ lạ về khí công. Ông đã thực hiện nhiều kỳ tích công năng khí công ngay tại những buổi nói chuyện trước đại chúng. Để phần nào trả lời câu hỏi vừa nêu, chúng ta trích lược một số đoạn từ những bài thuyết giảng về khí công của Nghiêm Tân (được biên soạn bởi Hoàng Thái trong "Hoa Hạ thần công", NXB Thể dục thể thao-2005):
    "Từ lịch sử phát triển của khí công, có thể phân làm ba giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất là khí công nguyên thủy, giai đoạn thứ hai là khí công mang tính chất tôn giáo, hay nói cách khác, khí công đã thâm nhập vào tôn giáo, giai đoạn thứ ba là khí công cận đại". "Khí công nguyên thủy có vào khoảng từ 2000 đến 7000 năm trước, thuộc khí công sơ khai, đơn giản". "Nhân dân lao động thời cổ đại gọi khí công là"nội công", "đạo dẫn", "thổ nạp"...với đại khái ý nghĩa của nó có thể hiểu: khí công là thuật dưỡng thân lý tưởng, là sự kết hợp cả rèn luyện tinh thần lẫn thể xác, đó là thuật kiện thân, thuật trị bệnh, thuật trường thọ, thuật tăng trưởng công lực, khai mở trí tuệ". "Rèn luyện kết hợp tâm và thân là đặc điểm của phương pháp khí công, nó không giống với thể dục thông thường hoặc các phương pháp rèn luyện có liên quan đến thể dục như võ thuật, thể thao, chơi bóng, điền kinh..., không giống với phương pháp trị liệu tâm lý mà y học ngày nay đề cao, cũng không giống với các phương pháp giữ gìn sức khỏe phổ biến, giản đơn mà những người bình thường thường áp dụng để chăm sóc thân thể, giữ gìn sức khỏe như chỉ chú ý ăn ngon, ngủ kỹ, làm việc vừa phải...". "(Chữ) tâm ở đây mang nghĩa rất rộng (...). Nó bao gồm ý thức của đại não, thậm chí cả các cơ quan chức năng về hoạt động ý thức, tư duy, tinh thần liên quan đến toàn bộ cơ thể, đương nhiên trong đó bao gồm cả quả tim. (...). Việc luyện tâm có hàm nghĩa riêng của nó, yêu cầu phải thông qua nhiều con đường, nhiều phương thức để luyện tập các cơ quan chức năng tâm của con người. Khái niệm cơ quan chức năng tâm được nói trong khí công bao gồm các cơ quan chức năng có liên quan đến hoạt động ý thức, tư duy, thần kinh của đại não và toàn bộ cơ thể. không những bao hàm một chút những gì ta vừa nói mà còn bao hàm những thứ mà y học ngày nay và các ngành khoa học hiện đại khác vẫn chưa nhận thức được rõ ràng. Có người cho rằng, dường như tâm là tiềm thức, (...), tuy nhiên loại tiềm thức này không giống với tiềm thức trong tâm lý học, tiềm thức được nói đến ở đây là tiềm thức trong trạng thái khí công". "Ngoài luyện tâm, còn phải luyện thân, bản thân việc rèn luyện khí công không giống với việc luyện tập thể dục, nghỉ, ngủ, đi bộ thông thường (...). Việc luyện tập thông thường là rất bị động, là sự ám thị trong vỏ não (...). Ví dụ: luyện võ thuật phải luyện được thiết sa chưởng (nghĩa là da thịt chịu được những đòn đánh trả), bước đầu tiên là xỉa bàn tay vào trong đậu tương, ngô (...) và cuối cùng là vào các hạt sắt. (...). Đây là phương pháp rất bị động, thô kệch và gian khổ. Còn cách luyện khí công rất đặc biệt, nghĩa là luyện trong trạng thái thả lỏng tĩnh tại cao độ, làm chân khí trong cơ thể tự chuyển vận với vận tốc cao, (...) làm rất nhiều cơ năng trong cơ thể được điều chỉnh và cải thiện. Lúc đầu, luyện khí công cũng cần một chút ám thị, dẫn dắt dùng ý thức luyện công, nhưng sau cùng lại là kết quả thành công một cách vô thức, bởi vậy mới nói khí công là "hữu ý luyện công, vô ý thành công", (...), vì các phương pháp khác đều yêu cầu người tập phải đặc biệt tinh tường, còn khí công lại yêu cầu bạn "không tinh tường". Nói như vậy không có nghĩa là yêu cầu bạn không biết gì, mà để đưa bạn vào trạng thái như Lão Tử (nhân vật đại diện sớm nhất của công phu Đạo Gia Trung Quốc) đã nói, là trạng thái "hoảng hoảng hốt hốt, hốt hốt hoảng hoảng", nhưng hoàn toàn không phải trạng thái mơ hồ rối rắm. Trong trạng thái này, chân khí sẽ vận hành trong cơ thể, có thể tự điều chỉnh, cải thiện chức năng sinh lý (...), có thể đưa con người vào trạng thái vô cùng tốt đẹp, nói cách khác là trạng thái sinh lý lý tưởng. (...). Khi luyện thân bằng khí công, thì tổng mức tiêu hao năng lượng sẽ giảm, khi đó các chức năng của cơ thể tựa như được tiết kiệm, tự nó đã là một quá trình nghỉ ngơi, nên có thể hoạt động trong thời gian dài hơn (dẫn đến sống thọ hơn - nv). Đây là điểm mà các phương pháp luyện tập khác không có được". "Luyện, luyện, luyện đến khi giảm được mức tiêu hao năng lượng, tăng được mức năng lượng dự trữ, kích phát năng lượng tiềm tàng, phát huy công năng, bao gồm cả phát huy trí tuệ của não, khi luyện đến bước cuối, cơ thể con người sẽ xuất hiện những công năng đặc biệt, như mùa đông có thể chịu được lạnh, cả ngày không ăn cũng không thấy đói, thậm chí có thể nhịn ăn trong một thời gian rất dài, đương nhiên có người còn có những công năng còn kỳ diệu hơn. Tất cả những hiện tượng đó đều do thân thể tự làm nên". "Tóm lại, khí công là môn rèn luyện kết hợp cả tâm và thân, đương nhiên phương pháp luyện tâm là rất đặc biệt, điều này rất dễ bị người bình thường coi nhẹ. Đây chính là điểm cơ bản để giải thích khí công là gì".
     Vậy, "luyện tinh hóa khí"- giai đoạn đầu của quá trình thực hành rèn luyện khí công lâu dài- chính là dẫn dụ thân-tâm vào được trạng  thái tĩnh tại, "hoảng hoảng hốt hốt", làm xuất hiện thứ gọi là "khí" trong cơ thể. (Nhiều người còn hồ nghi về sự tồn tại của khí nhưng vì đã từng trải qua nên chúng ta khẳng định một trăm phần trăm là nó có thật!). Tiếp tục luyện, dẫn dụ, khí đó sau khi xuất hiện rồi sẽ được "tích tụ" thành (những) "dòng khí" lưu chuyển, lan tỏa "theo ý" (nhưng không phải chú tâm!) với (những) vận tốc và (những) hướng "tùy ý" ra khắp cơ thể. Trên nền tảng cơ bản có tính duy nhất, đồng thời cũng đóng vai trò "hướng đạo" căn cốt "luyện tinh hóa khí" đó mà sự rèn luyện khí công sẽ đạt được những công năng ở mức độ trung-cao-thượng thừa, hoặc đạt đến khả năng (theo Đạo Gia!) thiền định trực tiếp giác ngộ chân lý (Đạo) (?!).
     Lão Tử xây dựng triết thuyết của mình bằng việc đầu tiên là đưa ra khái niệm "Đạo", với quan niệm Đạo (chúng ta gọi là Tự Nhiên Tồn Tại!) là thứ gì đó cực kỳ phi thường và ảo diệu, là tất cả nhưng cũng không là cái gì cả, vừa thế này lại cũng vừa thế kia, "người trần mắt thịt" không thể "nắm bắt" được, mà chỉ những người đạt đến trạng thái tinh thần không còn "bợn trần nhơ", nghĩa là không còn bị nhiễu loạn bởi những tạp niệm đời thường và đã hoàn toàn trong sáng, mới có khả năng tiếp cận nó trong tâm thức (nhận thức tâm linh?). Chúng ta cho rằng dù còn lờ mờ thì nhiều "ý tứ" còn lưu lại trong lịch sử đã hướng đến chỉ thị: nhằm mục đích truyền bá cũng như tăng cường khả năng nhận thức về Đạo, chính những nhà hiền triết của Đạo Gia phái thời Xuân Thu-Chiến Quốc, với Lão Tử là người đi tiên phong, trên cơ sở kế thừa sự "luyện tinh hóa khí" đã có sẵn (dù có thể ở dạng còn sơ khai, có tính tản mạn), vẫn mặc nhiên lưu truyền vào thời đó (chủ yếu bằng truyền khẩu?) trong xã hội, trong dân gian, tạm gọi chung là "khí công nguyên thủy", đã sáng tạo ra phương thức rèn luyện khí công một cách hoàn chỉnh, cụ thể là Bản kinh Âm Phù, cũng như sự hành thiền, cái gốc của khí công và thiền ngày nay.
    Cũng khí công ngày nay cho thấy, nếu "luyện tinh hóa khí" là giai đoạn đầu tiên có vai trò khai mở, đặt nền móng, "bày mâm" của rèn luyện khí công hoặc hành thiền, thì khâu đầu tiên, đóng vai trò bước xuất phát của "luyện tinh hóa khí" là tập thở, luyện thở. Thở là hoạt động bản năng của sống còn, đứa bé mới sinh ra đời, chưa có ý thức đã biết thở rồi thì việc gì phải tập nữa? Trả lời cho "gãy gọn" câu hỏi này ... hơi bị khó, bởi vì nó động chạm đến nhiều vấn đề khoa học về nhân sinh. Tuy nhiên, cũng không nhất thiết phải trả lời mà có thể thay bằng thí dụ đơn giản thế này: người dân quê luôn vận động cơ bắp để "lao động chân tay" trong môi trường thiên nhiên nên nói chung có thân- tâm mạnh khỏe, dẻo dai, linh hoạt, tinh tường và do đó cũng sống thuần phác, an nhiên và thọ, còn người trí thức, vì mưu sinh mà phải "lao động trí óc" căng thẳng trong một môi trường hạn hẹp, rất ít đòi hỏi đến vận động cơ bắp, nghĩa là rời bỏ lối sống mà loài người đã thích nghi qua suốt hàng ngàn, hàng vạn, thậm chí hàng triệu năm, cho nên có thân- tâm thiếu lành mạnh và muốn khắc phục thể trạng ấy thì phải tập luyện thể dục thể thao- tập chạy, nhảy, nâng, vác..., những động tác rất đỗi bình thường đối với người dân quê...Từ đây có thể suy đoán rằng, tiền đề làm xuất hiện khí công nguyên thủy là một thực hành nào đó có tính phương pháp, tạm gọi là "Thuật luyện thở", và khí công nguyên thủy thuở ban đầu đơn giản là cách thức điều tiết nhịp điệu hơi thở sao cho hài hòa, nhẹ nhàng, tự nhiên (tưởng như không thở mà thực ra là thở "nhiều nhất", chẳng hạn như cách thở của thai nhi-thai tức), làm cho thân -tâm dần trở nên thư thái, từ đó sẽ có được cảm nhận về sự tồn tại thực sự một "cái gì đó" (khoa học ngày nay chưa nhận dạng được) gọi là "khí" (vì rất linh động) lan tỏa khắp cơ thể, và qua mỗi lần thực hành như thế có cảm giác cơ thể khỏe khoắn hơn...
     Đã "trót" rồi thì phải "trét" cho cái đầu mắc chứng thích cãi, đang lừng xừng và tưng tưng vì rượu, hết đường tò mò, bắt bẻ! Câu hỏi cuối cùng: "Thuật luyện thở" phát sinh ra từ đâu? "Chắc như đinh đóng cột": từ thực tiễn cuộc sống chứ còn có thể từ đâu khác được nữa! Nhưng để trả lời cụ thể hơn, lại phải... huyên thuyên tưởng tượng thôi! Có lẽ sự luyện thở đã tồn tại manh nha một cách tự phát trong tối cổ, khoảng đâu đó trong thời đại mà săn bắt- hái lượm vẫn còn là phương thức kiếm ăn chủ yếu để mưu sinh của con người. Chính cuộc đấu tranh với thiên nhiên nhằm mục đích sinh tồn đã gợi ý, đồng thời làm nảy sinh yêu cầu luyện thở đối với giống loài động vật đã được trang bị tư duy. Tuy nhiên, để tăng cường khả năng kiếm ăn có nhiều cách, và không phải từ công cuộc tìm kiếm thức ăn nào cũng (trực tiếp) nảy ra đòi hỏi đến luyện thở, mà chúng ta cho rằng, (hoàn toàn tự nhiên thôi!) chỉ có thể là từ công cuộc kiếm ăn mang tính thường xuyên trong môi trường nước, phải bơi lội, lặn hụp "càng dài hơi càng tốt", nhất là trong tiết lạnh. Với suy đoán đó, cộng với thực trạng phân bố khí công ngày nay về mặt khu vực địa lý, và thêm cả những ý kiến mới đây của nhiều nhà khảo cổ học về cội nguồn văn minh nhân loại, thì hoàn toàn có khả năng sự luyện thở đã là một "thuật" có tính phổ biến đối với cư dân sinh sống ở những vùng duyên hải, nhất là tại các cửa sông, thuộc nền văn minh Hòa Bình. (Theo Wikipedia, Văn hóa Hoà Bình thuộc thời Đồ đá cũ sang Đồ đá mới (cách ngày nay 15.000 năm, kéo dài đến 2.000 năm trước Công Nguyên). Nền văn minh này từng tồn tại trên vùng đất xen núi đá vôi, thuộc phía Tây châu thổ ba con sông lớn thuộc Bắc Bộ Việt Nam, và với không gian rộng lớn, tiêu biểu cho cả vùng Đông Nam Á và Nam Trung Quốc.Các bằng chứng ngày càng nhiều về một nền văn minh Đông Nam Á đã làm lung lay nhiều thuyết tiền cổ đứng vững nhiều thập kỷ của thế kỷ XX. Người tiên phong trong việc đề xuất hướng mới cho nguồn gốc loài người là ông Solheim II, giáo sư Đại học Hawaii. Năm 1967, Solhiem II cho công bố trên nhiều tài liệu nói về sự ra đời sớm của việc trồng trọt, làm gốm, đóng thuyền, đúc đồ đồng thau...Sau Solheim II, một số nhà khảo cổ học khác như Meacham ở Hồng Công, Higham ở Niu Dilân, Pookajorn ở Thái Lan đều thống nhất quan điểm, vùng Đông Nam Á, từ Thái Lan xuống Indonesia qua bán đảo Đông Dương, là cái nôi của văn minh Nam Á- Nam Đảo. Và mới đây, Oppenheimer còn đi xa hơn nữa, khi đưa ra thuyết rằng văn minh Đông Nam Á là cội nguồn của văn minh phương Tây, rằng khi cư dân thềm Sunda di tản tránh biển dâng, họ đã đến vùng Lưỡng Hà- Trung Đông, mang theo kinh nghiệm trồng trọt, làm đồ gốm và sự tích Đại Hồng Thủy).

    Tóm lại, cách nay trên dưới 10.000 năm, từ cuộc mưu sinh gắn liền với môi trường nước của cư dân Đông Nam - Châu Á, vấn đề luyện thở tự nhiên được đặt ra và dần được đúc kết thành "Thuật luyện thở". Lúc đầu, thuật luyện thở chỉ nhằm mục đích duy nhất là điều tiết hơi thở (điều tức) sao cho nhịn thở được lâu (bế tức) để tăng sức bền bỉ, qua đó làm tăng khả năng hoạt động mưu sinh trong môi trường nước. Dần dà, trong quá trình luyện khí ấy, con người cảm nhận được sự xuất hiện và lan tỏa thứ gọi là "khí" trong cơ thể cũng như mối quan hệ gắn bó giữa vận động luân chuyển của khí và sức khỏe. Trên nền tảng đó, khí công nguyên thủy ra đời như một bước phát triển quan trọng của thuật luyện thở, có vai trò sâu rộng hơn - một phương pháp thực hành đặc thù, căn cốt, độc đáo và vi diệu nhằm dưỡng sinh, tăng cường sức khỏe cả về thể xác lẫn tinh thần (cả thân lẫn tâm). Kế thừa gắn liền với sáng tạo, Đạo Gia phái thời Xuân Thu-Chiến Quốc đã đưa khí công nguyên thủy lên một trình độ mới, "bài bản" và "chuyên môn" hơn nữa, sâu rộng hơn nữa, thành phương thức rèn luyện đạt tới kiện toàn thân-tâm và hơn nữa là đạt Đạo. Có thể coi Bản kinh Âm Phù là "đại diện chính thức" cho "cái gốc", đồng thời là "cột mốc xuất phát" của lịch sử hình thành và phát triển của khí công cũng như của thiền ngày nay(?).

                                                                           ***
                                                                       (Còn tiếp)

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

TT&HĐ I - 9/d

MUÔN MẶT ĐỜI THƯỜNG III/104

MỌC CÁNH