Thứ Sáu, 27 tháng 5, 2022

THỰC TẠI VÀ HOANG ĐƯỜNG 9* (Hoàn chỉnh) (VÔ TỰ ĐẠI THƯ)

   THỰC TẠI VÀ HOANG ĐƯỜNG

                                                                                                  ĐẠI CHÚNG

                                                    ____________________________

PHẦN I:     CÓ MỘT CÁI GÌ ĐÓ

“Tại sao có một cái gì đó chứ không phải là không có gì?”




CHƯƠNG VII: VÔ TỰ ĐẠI THƯ
 

"Có những thế lực bí ẩn trong thiên nhiên; khi chúng ta hoàn toàn trao mình cho nàng mà không ngần ngại, nàng sẽ đem cho chúng ta mượn, nàng chỉ cho chúng ta hình thái của những điều mà mắt ta không thấy và trí tuệ ta không hiểu hay ngờ tới."
Auguste Rodin


"Tự nhiên không có tình, không thiên vị ai. Nó không phân biệt Thiện Ác, May Rủi. Chúng ta thấy thiện ác, may rủi trong cuộc sống thì chỉ là theo ý chúng ta thôi. Tín ngưỡng là sự tự lừa dối để an ủi mình một cách ngọt ngào nhất của con người.".
NTT

 
"Khoa học là cái quan trọng nhất, tốt đẹp nhất và cần thiết nhất trong cuộc sống con người, nó đã và sẽ luôn luôn là biểu hiện cao nhất của tình yêu, chỉ nhờ nó, con người mới chiến thắng được thiên nhiên và bản thân mình".
Khuyết danh

“Chân lý cao cả nhất là chân lý này: Thượng Đế hiện diện ở trong vạn vật. Vạn vật là muôn hình vạn trạng của Thượng Đế. Không nên tin một đấng thần linh nào khác… Chúng ta cần một tôn giáo tạo những con người cho ra người… Bạn nên bỏ những tôn giáo thần bí làm cho bạn suy nhược đi, và bạn nên cương cường… Chỉ có mỗi một đấng Thượng Đế có ý thức, là nòi giống của ta, đâu đâu cũng có bàn tay của Ngài, bàn chân của Ngài, cặp tai của Ngài; Ngài bao trùm hết thảy… Sự sùng bái chính đáng nhất là sự sùng bái vạn vật chung quanh ta… Chỉ người nào giúp đỡ vạn vật mới thực sự là thờ phụng Thượng Đế.”
(Vivekananda)

 


 
Chúng ta đã “xả hơi” hết nhọc mệt và lại bừng bừng khí thế lên đường. Nhưng lên đường để lang bạt đến đâu? Đi đến đâu thì cũng chẳng quan trọng gì vì đối với chúng ta; điều quan trọng bậc nhất là được đi, được thấy và may tay nhặt được thêm những viên ngọc mà lịch sử đã đánh rơi, lẫn ở đâu đó trong cỏ cây, sỏi đá.
Có người cho rằng lịch sử không đánh rơi ngọc mà lịch sử để đó, và kết tội chúng ta là những kẻ ăn cắp. Kể cũng đúng, nhưng phải nói thêm là những kẻ ăn cắp có tài. Vì suốt bao nhiêu ngàn năm trôi qua, kẻ trộm nhiều vô kể mà chẳng phát hiện ra sự quí giá của những viên lăn lóc ấy.
Nhưng tài gì mà tài đến thế? Có thể sự thực đơn giản hơn nhiều: Chúng ta đã nhặt được toàn thứ mà lịch sử “vứt đi” nhưng trong hoang tưởng chúng ta hý hửng tưởng đó là những viên ngọc. Đúng thế chăng?
Mặc lòng, chúng ta cứ lang thang giữa mênh mông không gian, giữa biền biệt thời gian và ngoài… thực tại!
Không dứt lòng được, hình bóng Quỉ Cốc tiên sinh vĩnh viễn hiển hiện trong tâm khảm cùng với cái quá khứ đầy bi hùng của một đất nước đã từng có biết bao nhiêu văn hào, võ kiệt. Đâu đó, từ ngàn năm vọng về tiếng ngựa hí gươm khua, vang tiếng quân reo, gầm gừ chiến trận và rền rĩ âm hồn.
Thôi, không lưỡng lự nữa, chúng ta đi, và đi về phía ấy: thời Xuân Thu -  Chiến Quốc.
 ***
Tất cả mọi hiện thực, hiện hữu đều là sự tạo dựng. Do đó, con người không thể bỗng nhiên xuất hiện trên Trái Đất này, và nền văn minh nhân loại không thể đột khởi rực rỡ từ mông lung được, mà phải là những quá trình liên tục, tuân theo nguyên ý nhân quả.
Những di chỉ khảo cổ học về đồ đá cũ và đồ đá mới được phát hiện hầu như khắp nơi trên thế giới, cùng với sự tương đồng nhau về hình dáng và kỹ năng chế tạo của chúng đã cho thấy rằng tổ tiên loài người thuở hồng hoang, về cơ bản là thiên di và những bộ phận, những bầy người thiên di ấy trong một chừng mực nhất định có mối liên hệ qua lại với nhau (trao đổi kinh nghiệm chế tác công cụ chẳng hạn). Những khai quật còn cho thấy rằng có mức độ ít nhiều tập trung về số lượng các hiện vật tại cùng một chỗ, và cùng một chỗ đôi khi có mặt cả đồ đá cũ lẫn đồ đá mới… Điều đó chứng tỏ trong quá trình thiên di vĩ đại đó còn có những quá trình ngụ cư dài ngắn về thời gian mà so với quá trình thiên di thì được gọi là tạm thời. Nhưng điều quan trọng hơn là trong suốt quá trình "lang thang" kiếm ăn đó, lối sống định cư lâu dài và qua đó hình thái quần cư xã hội cũng manh nha hình thành.
Ngày nay chúng ta vẫn thấy được những tập tính thiên di và ngụ cư ở các loài chim, động vật trên cạn cũng như ở dưới nước, thậm chí là ở không ít loài thực vật nữa. Thiên di và ngụ cư là hai quá trình đan xen nhau của một quá trình thống nhất, có nguyên nhân từ sự biến động của môi trường (thiên tai, thời tiết, nguồn thức ăn theo mùa…), có mục đích sinh tồn và thuộc về quá trình đấu tranh sinh tồn. Gần đây tương đối phổ biến hiện tượng một số người dân từ các nước nghèo đói, kém phát triển tìm cách nhập cư vào các nước phát triển, để mong kiếm sống tốt hơn cũng là một dạng của thiên di.
Tùy theo sự biến đổi có tính chu kỳ của thời tiết, khí hậu (tạo ra những nguồn thức ăn biến đổi theo mùa) mà cũng có những cuộc thiên di, theo chu kì, nghĩa là có đi có về, dần dần làm cho mối tương quan giữa ngụ cư và thiên di biến đổi theo hướng ngụ cư tăng lên. Lúc này, chúng ta có thể gọi khác đi: Thiên di được gọi là du cư, ngụ cư được gọi là (tạm) định cư. Gọi chung là quá trình du cư. Chính quá trình (tạm) định cư dần dà, đã cho con người phát hiện một phương thức kiếm ăn mới, tác động rất mạnh đến tốc độ phát triển lên văn minh của họ sau này, đó là trồng trọt và chăn nuôi. Trồng trọt và chăn nuôi cần có đất và nước và đặc biệt thuận lợi là ở những lưu vực sông, nơi có sẵn nguồn nước tưới tiêu và đất đai màu mỡ, phì nhiêu và luôn được bù đắp bởi phù sa.
Khi trồng trọt và chăn nuôi đã đủ ăn và đủ tích lũy thì sự định cư lâu dài xuất hiện. Định cư được ưu tiên ở những lưu vực sông, nơi có điều kiện sống thuận lợi, do đó mà xuất hiện hiện tượng qui tụ dân cư làm cho số lượng cá thể định cư dần đông đúc, trở thành quần cư. Điều đương nhiên, quần cư cũng là nơi tập trung được những kinh nghiệm, những sáng kiến trước đó, ở khắp nơi trong việc chế tạo công cụ, săn bắt, chăn nuôi và trồng trọt cũng như những hiểu biết nhất định về tự nhiên.
Đó là những yếu tố cần nhưng chưa đủ để một quần cư trở thành một trung tâm văn minh…
Điều kiện để một quần cư phát triển rực rỡ lên thành trung tâm văn minh là điều kiện tự nhiên của khu vực phải đảm bảo được sự định cư ổn định tương đối lâu dài, đủ rộng lớn để thỏa mãn được sự phát triển về qui mô của quần cư (số lượng người).
Tất cả những điều đó nói lên rằng không phải ngẫu nhiên mà vào buổi bình minh của lịch sử loài người, bốn trung tâm văn minh, hay thường gọi là bốn nền văn minh cổ đại đều xuất hiện ở bốn lưu vực sông. Văn minh Ai Cập cổ đại ở lưu vực sông Nin, văn minh Lưỡng Hà ở giữa sông Tigrơ (Tigre) và sông Ơphơrát (Euphrate), văn minh Ấn Độ cổ đại ở lưu vực sông Ấn (kế tiếp là sông Hằng), văn minh Trung Hoa cổ đại ở giữa hai con sông là Hoàng Hà và Dương Tử.
Việc xuất hiện hầu như cùng một lúc cả bốn nền văn minh cổ đại nêu trên và giữa chúng phảng phất những nét tương đồng nào đó (nét chung) quả là một điều lạ lùng.
Có thể thấy rằng tất cả những khái niệm tạm cư, du cư hay định cư, du mục đều mang tính tương đối. Đó là những hiện tượng luôn tồn tại đồng thời, đan xen nhau, tùy điều kiện, hoàn cảnh sống của con người, ở từng khu vực, từng giai đoạn lịch sử mà “kiểu đi - ở” này nổi trội hơn “kiểu đi - ở” kia. Vì vậy khi nói loài người bước vào thời kỳ định cư, trồng trọt và chăn nuôi, thì chỉ có nghĩa đó là phương thức sống nổi trội, chứ không phải không còn du cư, du mục, không còn săn bắt, hái lượm.
Ở thời kỳ xa xôi ấy, dân số loài người tăng dần theo chất lượng cuộc sống. Do đó có thể phán đoán rằng phương thức sống định cư, trồng trọt chăn nuôi làm cho điều kiện sống được cải thiện vượt bậc cùng với lương thực thực phẩm trở nên dồi dào và từ đó dân số phát triển có tính chất bùng phát. Và có thể đó cũng là một nguyên nhân làm cho một bộ phận dân cư tham gia vào “đội quân lang thang” (chúng ta lang thang vì chuyện khác, vì..."dở người"!).
Nhờ có đội quân lang thang ấy mà mối liên hệ vốn có giữa các bầy người thời tiền sử không những được duy trì mà còn phát triển sâu rộng hơn giữa các khu vực quần cư với nhau (không phải chỉ có bốn quần cư!) về mọi mặt như kiến thức mới, kinh nghiệm mới, công cụ mới, giao lưu văn hóa…
Trong suốt quá trình lịch sử của mình, lòai người vừa học hỏi tự nhiên, vừa tự học hỏi lẫn nhau để cùng tiến tới văn minh. Do đó mọi hoạt động sáng tạo, suy cho cùng, đều có nguồn gốc từ tự nhiên, đều do mẹ thiên nhiên mà ra. Cho nên, khi xét một nền văn minh nào đó, không thể coi thành quả mà nó tạo dựng được là hoàn toàn của riêng dân tộc nào, khu vực nào, mà là của chung nhân loại.
  Do vậy, cũng phải thừa nhận tính độc lập tương đối, tính đặc thù, tính riêng của mỗi nền văn minh do tính khác biệt tương đối về điều kiện địa lý, môi trường sống của mỗi khu vực cũng như do sự hạn chế của mối quan hệ (xa xôi, cách trở…) đem lại.
Tìm trên mạng internet, chúng ta "nhặt" được bài này, xin mời quí vị cùng "nhâm nhi cho vui:

"Điểm giống nhau đến kinh ngạc giữa các nền văn minh cổ đại:

Kim tự tháp, biểu tượng tâm linh chữ 卍, thể quả thông, luân hồi, Thần linh…nếu đều là tưởng tượng của người cổ đại, vậy vì sao lại có sự giống nhau đến khó tin như vậy giữa các nền văn minh cách nhau thậm chí nửa vòng Trái đất?
Trái đất này không rõ đã chứng kiến bao nhiêu nền văn minh cổ đại ra đời trên các khu vực địa lý khác nhau, trong những giai đoạn lịch sử khác nhau. Tuy nhiên kì lạ thay, thực tế là có tồn tại một sự trùng hợp đến khó tin, giữa những nền văn minh ấy với nhau. 
Một trong những câu hỏi mà hầu hết chúng ta từng băn khoăn về lịch sử cổ đại là tại sao bất kỳ nền văn minh cổ đại nào trên khắp thế giới cũng đều xây dựng Kim tự tháp? 
Có vô số câu hỏi vẫn còn là bí ẩn đối với các học giả ngày nay khi nhắc đến nền văn minh cổ đại, và sự phát triển của chúng. 
Tại sao người cổ đại trên khắp thế giới đều xây dựng Kim tự tháp? 
Chúng ta bắt đầu với việc xây dựng các Kim tự tháp. Di tích cổ xưa hùng vĩ này có thể tìm thấy ở khắp nơi trên thế giới, từ Kim tự tháp bậc thang đến Kim tự tháp tròn và cổ điển, gần như tất cả các nền văn hóa cổ đại trên thế giới đều xây dựng những Kim tự tháp phi thường, với trình độ kĩ thuật vượt trên nhận thức của khoa học nhân loại ngày nay. 
Những người Ai Cập cổ đại, Trung Quốc cổ đại, người Tiền-Inca, Inca, Aztec, Maya và vô số nền văn hóa cổ đại khác đều đã dựng lên các Kim tự tháp mà vẫn còn tồn tại cho tới tận ngày nay. 
Chưa ai từng hiểu rõ mục đích thực sự của các Kim tự tháp… Liệu chúng được sử dụng như các lăng mộ? Các phòng lưu trữ? Di tích để tôn kính các vị thần? Hay như nhiều người ngày nay nhận định rằng Kim tự tháp có khả năng được xây dựng để khai thác năng lượng tự nhiên của hành tinh và vũ trụ. 
Bí ẩn liên quan đến Kim tự tháp càng sâu hơn khi bạn nhận ra rằng một số kim tự tháp, như những Kim tự tháp nằm ở cao nguyên Giza được sắp xếp phù hợp với thiên văn. 
Sự thật là, mặc dù chúng ta đã cố gắng rất nhiều trong việc tìm hiểu các nguyên tắc cơ bản của Kim tự tháp, nhưng chúng ta vẫn chưa biết được làm thế nào họ có thể tạo ra những kiến trúc hùng vĩ này và mục đích thật sự của họ là gì? 
Kim tự tháp và sự kết nối với bầu trời
Thực tế các nền văn hóa và văn minh cổ đại trên thế giới đã xây dựng những kiến trúc lớn phi thường là một điều gì đó thật hấp dẫn chúng ta. Gần như tất cả các Kim tự tháp đều có sự tương đồng về mặt kiến trúc một cách kinh ngạc, nhưng chúng ta cũng không thể quên sự kết nối với bầu trời của hầu hết các Kim tự tháp. 
Nếu nhìn vào các Kim tự tháp trên cao nguyên Giza, Kim tự tháp Teotihuacan và thậm chí cả các Kim tự tháp của Trung Quốc, chúng ta sẽ nhận ra rằng tất cả các Kim tự tháp này dường như được gắn kết với những chòm sao cụ thể. 
Ở đây chúng ta đang nhắc tới chòm sao Orion (Thiên lang), đây là chòm sao cực kỳ quan trọng không chỉ đối với người Ai Cập cổ đại, mà còn với cả người Aztec và tổ tiên của họ, nền văn minh Trung Quốc cổ đại và các nền văn minh cổ xưa khác trên thế giới. 
Làm thế nào mà người cổ đại có khả năng định vị những di tích mô phỏng một cách chính xác theo mô hình vũ trụ đến như vậy vẫn là bí ẩn lớn nhất cho đến tận bây giờ. 
Bàn kẹp kim loại cổ xưa… Bằng chứng của nền công nghệ cổ xưa đã mất?
Liệu những chiếc bàn kẹp kim loại cổ xưa có phải là bằng chứng thực sự về một nền công nghệ tiên tiến đã mất đang chờ đợi được khám phá? Dấu vết của nền công nghệ được cho là đã mất này có thể tìm thấy trên các đền thờ đá cự thạch và nhiều di tích thời tiền sử khác trên thế giới.
 Mục đích thực sự của các bàn kẹp kim loại cổ đại là gì? Và những câu hỏi quan trọng hơn mà không ai có thể trả lời được là … công nghệ cổ đại này làm sao có thể lan truyền ra các nơi khác trên thế giới? 

Bằng chứng của các bàn kẹp kim loại cổ đại có thể tìm thấy trong các công trình xây dựng ở Ai Cập cổ đại, Hy Lạp cổ đại, Tiền-Inca, Inca và các nơi khác trên thế giới. 

Liệu có khả năng những người xây dựng các công trình cổ xưa này có cùng một nguồn chỉ dẫn? Liệu họ có làm theo một mô hình giống nhau khi họ bắt tay vào xây dựng Kim tự tháp? 

Những đường rãnh chữ T (T-Groove) bí ẩn đã được phát hiện tại Tiahuanaco, Ollantaytambo, Koricancha và vùng Yuroc Rumi, Vilcabamba. Những chiếc bàn kẹp này cũng được sử dụng trên đền Parthenon, các công trình xây dựng ở vùng Lưỡng Hà, Ai Cập và Campuchia. 

Trong khi các nhà khoa học vẫn chưa chắc chắn về mục đích chính xác của các rãnh chữ T bí ẩn, một số người lại cho rằng chúng có thể được sử dụng cho một loại nghi lễ nào đó, cũng có những người chỉ ra rằng các bàn kẹp kim loại cổ xưa có thể đã được sử dụng để cố định những tảng đá lớn lại với nhau vào đúng vị trí. 

Biểu tượng chữ 卍 hiện hữu trong hầu hết mọi nền văn minh trong quá khứ
Chữ 卍, hay còn biết đến là Thánh giá Gammadion, là một trong những biểu tượng lâu đời nhất và phổ biến nhất trên Trái đất. Nếu bạn nghĩ rằng nó là một biểu tượng đại diện cho cái ác và sự chết chóc thì bạn đã lầm. Nói một cách ngắn gọn và rõ ràng, biểu tượng chữ 卍 tượng trưng cho hòa bình và thịnh vượng, đồng thời là một biểu tượng rất tích cực. 
Nó được coi là một biểu tượng phổ quát và được sử dụng bởi nhiều nền văn hóa và văn minh cổ đại trong suốt lịch sử. 
Chữ 卍 thực chất là một từ tiếng Phạn có nghĩa là “điều gì tốt” hoặc “tất cả đều tốt” nhưng một số người dịch nó thành “đối tượng may mắn hay tốt lành”, dù là cách dịch nào thì nó cũng là một biểu tượng rất tích cực. 
Trong Ấn Độ cổ, nó là một biểu tượng rất thiêng liêng kết nối sâu sắc với sự may mắn và thịnh vượng, và đúng là có rất nhiều điều cần tìm hiểu về biểu tượng cổ xưa này, thứ đã từng bị hiểu một cách sai lạc từ sau chiến tranh thế giới lần thứ 2. 
Các nhà khảo cổ lâu nay vẫn tranh luận về nguồn gốc và niên đại chính xác của biểu tượng chữ 卍. Nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng vật có họa tiết chữ 卍 là một con chim làm bằng ngà voi ma mút từ nơi định cư thời đá cũ ở Mezine, Ukraine cách đây trong khoảng năm 10.000 đến 12.000 TCN. 
Nền văn hóa Vinca là một trong những nền văn hóa sớm nhất sử dụng biểu tượng chữ 卍. Ở châu Á, nhiều tổ chức kinh doanh sử dụng một cách chính thức biểu tượng chữ 卍; Ví dụ như thị trường chứng khoán Ahmedabad và Phòng Thương mại Nepal đều sử dụng biểu tượng này. 
Biểu tượng trái thông: được thấy trong gần như mọi nền văn hóa trên toàn cầu.
Từ La Mã cổ đại tới Lưỡng Hà cổ đại, biểu tượng trái thông được khẳng định là một trong những biểu tượng bí ẩn nhất được tìm thấy trong nghệ thuật và kiến ​​trúc cổ. Theo nhiều nhà nghiên cứu, biểu tượng trái thông hướng tới mức độ cao nhất của khả năng giác ngộ tâm linh, một điều đã được công nhận bởi hầu hết các nền văn hóa cổ đại trên toàn cầu, được gắn với các công trình và nghệ thuật của người Indonesia, Babylon, Ai Cập, Hy Lạp, và Rô-ma.
 Kỳ lạ thay, trái thông dường như có một ý nghĩa tương tự trong tất cả các nền văn hóa cổ đại, tượng trưng cho cơ quan vết tích bí mật: Tuyến Tùng, và cũng được gọi là “Con mắt thứ ba”. 

Tại sao những biểu tượng cổ xưa này lại lan truyền trên nhiều nền văn minh cổ đại vẫn là một bí ẩn khiến khoa học chưa thể giải thích nổi. Một số giả thuyết cho rằng đã tồn tại một thế lực thứ 3, chi phối vào quá trình lịch sử của nhân loại, truyền dạy cho con người không những khoa học kĩ thuật mà còn cả văn hóa, đạo đức và tu luyện. 
 
Theo Minh Báo"
 ***
Nền văn minh Trung Hoa cổ đại thuộc hàng cổ nhất thế giới.
Tuy nhiên, muốn xuất hiện văn minh thì trước hết phải có hợp quần xã hội. Nghĩa là muốn hình thành một nền văn minh ở đâu đó, tiên quyết ở đó phải tồn tại con người - một giống người, một tộc người ở đó làm tiền đề. Vậy tổ tiên từ tối cổ của người Trung Quốc là ai? Trên mạng có bài viết mang tính chất khoa học của tác giả Hà Văn Thùy khẳng định "Tổ Tiên Của Người Trung Quốc Là Người Việt Nam". Chúng ta xin trình bày dưới đây:
"Trong hàng ngàn năm qua, Bắc Kinh chưa bao giờ nuôi mộng thiên hạ, làm bá chủ thế giới, từ xưa nước này luôn muốn các nước xung quanh phải thần phục mình và coi Trung Quốc là quốc mẫu. Đến ngày nay, họ vẫn dùng giọng điệu thượng đẳng cho rằng các quốc gia xung quanh như Hàn Quốc, Nhật Bản... đang vay mượn nền văn minh của họ mà không được cho phép. Thậm chí Trung Quốc cũng luôn khẳng định rằng dân tộc Việt Nam bây giờ có nguồn, gốc xuất xứ từ người Hán, cũng tức là họ đang nhận định rằng người Việt Nam có nguồn gốc từ Trung Quốc. Tuy nhiên theo những gì khoa học ngày nay nghiên cứu và tìm hiểu thì thực tế khác xa so với những gì mà anh bạn hàng xóm của chúng ta luôn cao giọng rao giảng. Thậm chí nhiều bằng chứng còn chứng minh một điều rằng "tổ tiên người Trung Quốc là người Viết Nam".

Vậy thực hư chuyện này ra sao?

Năm 2001, một tổ công nhân tình cờ tìm thấy ở hang Điền Nguyên những mảnh xương động vật có vú hóa thạch. Do không có kinh nghiệm, họ đã làm xáo trộn địa tầng trước khi báo cho các nhà khảo cổ. Không ngờ đó là cái mốc quan trọng của lịch sử phương Đông. Năm 2003 và 2004 di chỉ đã được một nhóm nghiên cứu từ Viện cổ sinh vật học thuộc Viện Hàn lâm khoa học Trung Quốc. Hang Điền Nguyên (Tianyuandong) là một hang động nhỏ có cửa mở ra phía tây bắc. cao 175 m so với mực nước biển, nằm trên một trại cây thuộc thành phố Chu Khẩu Điếm, quận Phảng Sơn, Bắc Kinh, Trung Quốc, cách 6 km về phía tây nam của Chu Khẩu Điếm, một di chỉ khảo cổ quan trọng hàng đầu của thế giới.

Ngày 22 tháng 10 năm 1926, nhà khảo cổ Thụy Điển - Andersson đã công bố Việc phát hiện ra hai chiếc răng của người đàn ông cổ từ Chu Khẩu Điếm. Điều này lại tiến bộ đột ngột cho các lý thuyết về nguồn gốc và sự tiến hóa của con người. Chủ nhân của hai chiếc răng được xếp vào giống mới và loài mới Sinathropuspekinensis của họ Người Hominidae, còn gọi là "Người Bắc Kinh" Homo erectus pekinensis. Toàn bộ trầm tích hang Chu Khẩu Điếm được chia thành 17 lớp từ trên xuống dưới. Tuổi tuyệt đối của lớp 13 là khoảng 730000 năm. Lớp thư 10, lớp thấp nhất mang xương "Người Bắc Kinh" hóa thạch có tuổi khoảng 500000 năm, trong khi lớp 3, lớp ở trên mang xương người hóa thạch, là từ 230000 đến 250000 năm trước. Như vậy "Người Bắc Kinh" đã sống trong hang động này khoảng 260000 năm. Trong hai năm 1933-1934, khai quật Hang Thượng (Upper Cave). Ba hộp sọ (số 101, 102 và 103) được phát hiện. Các nhà nhân chủng học cho rằng người Hang Thượng thuộc Homo sapiens muộn. Tuổi tuyệt đối họ khoảng 27.000 năm trước. Sọ 101 được coi là một Mongoloid nguyên thủy, sọ 102 là một Melanesian và sọ 103 là một Eskimo.

Chu Khẩu Điếm là phát hiện quan trọng hàng đầu của nhân loại. Đó là lần đầu tiên và duy nhất trên thế giới có một di chỉ phong phú đến vậy dấu vết con người trong thời gian dài. Việc xuất hiện từ người Homo sapiens giai đoạn sớm 100.000 – 200.000 năm trước tới người Homo sapiens thời kỳ muộn cùng một nơi với người Bắc Kinh 600.000 năm tuổi dường như nói rằng, nơi đây là sự thu gọn của lịch sử nhân loại. Phát hiện Chu Khẩu Điếm là một chứng cứ mạnh mẽ ủng hộ Thuyết nhiều vùng về nguồn gốc con người (Multiregional hypothesis). Chính điều này dẫn tới quan niệm thống trị một thời: “Trung Hoa là dân tộc lâu đời bậc nhất trên thế giới. Người Trung Hoa từ người cổ Bắc Kinh tiến hóa thành.” Nhưng sang thế kỷ này, khoa học cho thấy sự thực không phải như vậy.

Ngày 6 tháng 4 năm 2007, bài báo “Một người hiện đại sớm từ hang Điền Nguyên Chu Khẩu Điếm” (An early modern human from Tianyuan Cave, Zhoukoudian, China” https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC1871827/ mô tả như sau:

“Trầm tích hang Điền Nguyên gồm bốn lớp, từ trên xuống dưới. Một số trong 34 thành phần của bộ xương người bị công nhân địa phương làm xáo trộn, nhưng phần còn lại được tìm thấy trong lớp III. Không có hiện vật bằng đá hoặc các di tích văn hóa khác được tìm thấy trong di chỉ cho đến nay. Có rất nhiều mảnh xương trong trầm tích hang động Tianyuan, nhưng hiện tại không thể biết liệu chúng có liên quan đến hành vi của con người hay không. Sáu mẫu động vật từ lớp III cung cấp tuổi trung bình dao động từ 39.500 đến 30.500 14C BP.”

Phải nói rằng, bài báo đã trình bày một nghiên cứu công phu, với phong cách khoa học đáng nể nhưng kết quả thu được không như kỳ vọng vì nó chỉ xác định được chủ nhân bộ xương là người hiện đại, khoảng 40-50 tuổi, sống khoảng 40.000 năm trước, không cho biết giới tính của bộ xương. Nó cũng không cho thấy người Điền Nguyên từ đâu tới, có quan hệ thế nào với những người cổ khác trong vùng?

Phải sáu năm sau, khi công nghệ di truyền vào cuộc, sự thật mới được sáng tỏ. Ngày 21 tháng 1 năm 2013 một nhóm các nhà nghiên cứu quốc tế thuộc Viện Nhân chủng học tiến hóa Max Planck ở Leipzig, Đức công bố bài viết “Họ hàng từ hang Điền Nguyên” (A relative from the Tianyuan Cave https://www.mpg.de/6842535/dna-Tianyuan-cave) nhận định: “Phân tích DNA xương chân của cá nhân này cho thấy rằng chủ nhân hang Điền Nguyên là người đàn ông sống 40.000 trước, có chung nguồn gốc với tổ tiên của nhiều người châu Á và người Mỹ bản địa ngày nay. Ngoài ra, các nhà nghiên cứu phát hiện rằng tỷ lệ gen Neanderthal và Denisovan trong con người hiện đại sớm này không cao hơn so với những người sống trong vùng này ngày nay.”

Trong thế kỷ XX, khảo cổ học Đông Nam Á phát hiện di cốt xưa nhất của người hiện đại tại Hang Niah, Indonesia khoảng 39.000 năm trước. Trên đất Việt Nam tìm được di cốt người sớm nhất tại Sơn Vi khoảng 32.000 năm tuổi. Đây được coi là bằng chứng đầu tiên về tổ tiên người Việt. Nhưng từ thập kỷ 1970, nhờ tìm được bộ xương người Mongoloid tại Lưu Giang Quảng Tây 68.000 năm nên nảy sinh hy vọng, người hiện đại nhiều khả năng có mặt trên đất nước ta sớm hơn nữa.

Sang đầu thế kỷ XXI, nhiều nghiên cứu di truyền học dân cư châu Á đưa ra nhận định: 70.000 năm trước, người tiền sử từ châu Phi theo ven biển Ấn Độ di cư tới Việt Nam. Sau khi gặp gỡ hòa huyết và tăng nhân số, 40.000 năm cách nay, người từ Việt Nam đi lên chiếm lĩnh Hoa lục. Nếu điều này đúng thì suốt 40.000 năm sống trên đất Việt (từ 70.000 đến 30.000 năm trước) ngoài những công cụ đá, tổ tiên ta không để lại chút vết tích nào của xương thịt! Một việc không khỏi khiến chúng ta băn khoăn.

Tài liệu di truyền học cho rằng, 40.000 năm trước người từ Việt Nam đi lên hoa lục. Nhưng suốt thế kỷ XX chỉ tìm thấy trên đất Trung Quốc sọ người hiện đại 27.000 năm tuổi tại Chu Khẩu Điếm. Sang thế kỷ XXI mới phát hiện tại Tiên Nhân Động tỉnh Giang Tây di cốt người 25.000 năm. Như vậy, vấn đề thời điểm người Việt Nam đi lên Hoa lục vẫn còn là câu hỏi. Trong khảo cứu của mình, tôi đặc biệt quan tâm tới điều này vì nó có ý nghĩa lớn trong lịch sử phương Đông.

Việc xuất hiện di cốt người đàn ông 40.000 năm trước ở Chu Khẩu Điếm cho thấy, khu vực này có điều gì đó đặc biệt nên đã thu hút nhiều lớp người tới cư trú và sinh sống lâu dài. Do đặc điểm của khí hậu, địa hình và thổ nhưỡng, nơi đây đã bảo tồn được di cốt xưa nhất của dòng người từ Việt Nam lên. Các báo cáo khoa học chưa cho biết người Điền Nguyên từ đâu tới. Nhưng từ khảo cứu của mình, tôi khẳng định là từ Việt Nam lên. Có thể nói gọn về quá trình con người hình thành ở đây như sau: 600.000 năm trước, người Đứng thẳng Homo erectus có mặt. Cho tới 250.000 năm trước không hiểu vì sao họ rời khỏi đây cũng như toàn châu Á, để lại khoảng hơn 200.000 năm châu lục vắng bóng người. Trong ý nghĩa nào đó, xương Điền Nguyên được coi là di cốt người hiện đại xuất hiện sớm nhất ở phương Đông. Tuy nhiên sự thực không phải như vậy. Thập kỷ 1970 phát hiện bộ xương người Mongoloid tại Lưu Giang Quảng Tây và sọ người Australoid ở Hồ Mungo châu Úc, cùng 68.000 năm tuổi. Năm 2009 tìm được tại hang Tampaling Bắc Lào cốt sọ người hiện đại 63.000 năm trước. Điều này phù hợp với những khám phá di truyền học cho rằng người hiện đại từ châu Phi di cư tới Việt Nam 70.000 năm trước, làm nên dân cư Việt Nam và châu Á. Nhưng do sự tàn phá của thời gian và môi trường, phần lớn di cốt người cổ chỉ có thể giữ được tới 30.000 năm. Sọ Lào và xương người Lưu Giang là hai đại diện hiếm hoi của dòng người tới Việt Nam 70.000 năm trước. Tới nay xương người hang Điền Nguyên là dấu vết xưa nhất của tổ tiên người Trung Quốc được tìm thấy. Nhà nhân học Trung Quốc Ngô Tân Trí (吴新智)nói: “Trung Quốc từ 20.000 năm trước cho tới nay, không có bằng chứng nào cho thấy con người có những hoạt động di cư lớn. Vì vậy, cần phải nói rằng ông là tổ tiên của chúng tôi.” (而我们中国从2万年前一直到现在,没有任何证据表明人类有很大的迁徙活动。所以应该说,他就是我们的祖先. https://baike.baidu.com/item/%E7%94%B0%E5%9B%AD%E6%B4%9E%E4%BA%BA)

Khúc xương chân người Điền Nguyên kể với ta câu chuyện thú vị:

  1. Với 40.000 năm tuổi và “có chung nguồn gốc với tổ tiên của nhiều người châu Á và người Mỹ bản địa ngày nay,” mảnh xương Điền Nguyên là di vật vô giá của Tổ tiên dân cư Đông Á và người Mỹ bản địa. Điều này phù hợp với nhận định của di truyền học cho rằng: người từ Việt Nam đi lên Trung Quốc và làm nên dân cư Đông Á. Đồng thời cũng xác nhận cuộc hành trình của người Việt cổ từ Hoa lục lên Siberia rồi vượt eo Bering sang chinh phục châu Mỹ 30.000 năm trước, trở thành cư dân bản địa châu Mỹ.
  2. Thông tin “tỷ lệ gen Neanderthal và Denisovan trong con người hiện đại sớm này không cao hơn so với những người sống trong vùng này ngày nay” cho thấy, người Điền Nguyên là hậu duệ của dòng người di cư từ châu Phi theo ven biển Ấn Độ tới Việt Nam 70.000 năm trước. Trên đường đi, họ đã gặp và giao phối với người Đứng thẳng Neanderthal và Denisovan ở nơi nào đó và nhận gen của những người này mang tới Việt Nam. Tại Việt Nam, những dòng người di cư đã gặp gỡ, hòa huyết sinh ra người Việt cổ mang 1-2 % gen Neanderthal và Denisovan. Rời Việt Nam, con cháu người Việt cổ mang theo trong mình 1-2% gen của người Đứng thẳng như một “dấu ấn nòi giống” đi khắp châu Á sang châu Mỹ, mà người Điền Nguyên là một trong những dòng con cháu ấy.
  3. Việc người hiện đại có mặt 40.000 năm trước ở hang Điền Nguyên Nam Hoàng Hà đã xác nhận kết quả nghiên cứu của di truyền học cho rằng 40.000 năm trước, người từ Việt Nam đi lên Hoa lục.

Tổ tiên người Đông Á  (Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản) có tuổi 40.000 năm. Trong khi đó tổ tiên người Việt Nam có tuổi 70.000 năm, sớm hơn tổ tiên người Đông Á 30.000 năm, chứng tỏ đất Việt Nam là nơi phát tích của dân cư châu Á và người Việt Nam gần tổ tiên nhất. Điều này còn được chứng minh bằng chỉ số đa dạng sinh học của người Việt Nam cao nhất trong dân cư châu Á.

Đó là sự thật được chứng minh bằng khảo cổ và di truyền học, không thể phản bác. Nhưng sự đời không  dừng ở đó. Bởi lẽ nếu chỉ có vậy, thì người Việt Nam hôm nay sẽ khác. Sẽ có nước da đen hơn một Đinh Núp hay một Ama Kông bởi vẫn mang mã di truyên của chủng người Australoid trong máu huyết! Nếu hôm nay hiện về, chắc Cụ Điền Nguyên sẽ lắc đầu không nhận những người xung quanh là con cháu! Bởi lẽ Cụ là người da đen. Không chỉ Cụ đen mà con cháu vạn năm sau của Cụ như Đế Khốc cũng đen như con chim cốc, Thành Thang đen như hòn than còn Lão Tử có nước da đen bóng! 40.000 năm với biết bao biến chuyển!

Tại sao lại như vậy? Một câu hỏi hóc búa đeo đẳng tôi suốt những tháng năm đi tìm nguồn cội. Trong cuốn sách Nhân chủng học Đông Nam Á, Giáo sư Nguyễn Đình Khoa người Thầy của tôi thời đại học đã viết: “Suốt thời Đồ đá, người Việt Nam mang mã di truyền Australoid nhưng sang Thời Kim khí, người Mongoloid phương Nam xuất hiện và trở thành chủ thể của dân cư. Người Australoid biến mất khỏi đất nước này, không hiểu do nhập cư hay do đồng hóa?” Câu hỏi của Thầy gửi đến tôi như một thách đố nhưng cũng là gợi ý vô giá. Vấn đề là, người Mongoloid phương Nam từ đâu ra? Cố nhiên chỉ có thể từ phương Bắc! Tôi dõi theo những khai quật khảo cổ trên đất Trung Hoa. Và thật may mắn, gặp được tài liệu nói rằng người Ngưỡng Thiều 7.000 năm trước giống với người Trung Hoa hiện đại, mang mã di truyền Mongoloid phương Nam! Học giả Trung Quốc cho rằng họ từ phía Nam lên! Không thể như vậy,  bởi lúc này khu vực phía Nam chỉ có duy nhất người Australoid! Khi chứng cứ khoa học không đủ thì tưởng tượng ra đời. Tôi cho rằng, chỉ có thể là sự hòa huyết giữa người Việt cổ Australoid bờ Nam và người Mông Cổ North Mongoloid sinh sống trên bờ Bắc Hoàng Hà. Sống bên một dòng sông hàng nghìn năm, ai có thể cấm gái trai gặp gỡ? Tôi như thấy Tạo Hóa mỉm cười: “Thằng bé hiểu thâm ý của mình!” Quả đúng là sự kỳ diệu của Tạo Hóa! Vì lẽ gì, sau chuyến đi dài hàng nghìn năm từ châu Phi, khi đến Việt Nam, hầu hết người di cư tụ hội trên thềm Biên Đông ấm áp thì lại có những nhóm nhỏ lầm lụi đi tới vùng giá lạnh Tây Bắc Đông Dương để sống lẻ loi ở đấy hàng vạn năm? Rồi khi trời ấm lên họ lại theo con đường “Thục đạo nan” đi lên đất Mông Cổ vẫn còn hoang lạnh! Cuộc hành trình ấy đổi lấy điều gì? Phải chăng chỉ là giữ nguồn gen thuần Mông Cổ để rồi kết hợp với người Việt cổ, sinh ra giống dòng mới Mongoloid phương Nam? Một sự huyền bí diệu kỳ của Tự Nhiên!

Cụ Điền Nguyên – ta tạm gọi tên Cụ theo tên quê Cụ- là ngưới Việt cổ, thuộc nhóm loại hình Australoid được sinh ra trên đất Việt Nam. Cụ là lớp di dân đầu tiên. Sau Cụ, người Việt mang theo công cụ đá mới Hòa Bình rồi giống lúa, giống kê, giống gà, giống chó cùng đồ gốm và tộc danh người Việt (chủ nhân đầy tự hào của cái việt – công cụ và vũ khí siêu việt của loài người thời đó) đi lên xây dựng kinh tế nông nghiệp trên lưu vực Hoàng Hà. Khoảng 7.000 năm trước, tại trung du Hoàng Hà, con cháu Cụ Điền Nguyên đã đông đúc, với nghề trồng lúa, kê và đánh cá. Lúc này diễn ra sự tiếp xúc với người Mông Cổ phương Bắc (North Mongoloid) sống du mục bên kia sông. Hai dòng người gặp gỡ, hòa huyết, sinh ra chủng người Mông cổ phương Nam (Sauth Mongoloid). Là con do mẹ Việt mang nặng đẻ đau, bú sữa mẹ Việt, sống trên đất Việt với tiếng nói cùng văn hóa Việt, người Mongoloid phương Nam thành chủng người Việt mới. Người Việt Mongoloid phương Nam tăng số lượng, thay thế cha ông Việt cổ, trở thành chủ nhân văn hóa trồng kê nổi tiếng Ngưỡng Thiều và lưu vực Hoàng Hà. Năm 2879 TCN theo ý chỉ của vua cha Đế Nghi, nơi đây thành lập vương quốc của Đế Lai với hai trung tâm Thái Sơn và Trong Nguồn. Năm 2698 TCN, người Mông Cổ phương Bắc do Hiên Viên dẫn đầu đánh chiếm trung du Hoàng Hà, lập nhà nước Hoàng Đế. Một bộ phận dân Việt nằm trong vương quốc Hoàng Đế. Dân tại vùng chưa bị chiếm tổ chức kháng chiến lâu dài. Một bộ phận dân Việt từ Thái Sơn-Trong Nguồn vượt Dương Tử di cư về phía Nam. Theo thời gian, dòng người đi tới Việt Nam và Đông Nam Á, đem nguồn gen Mongoloid chuyển hóa dân cư phương Nam từ Australoid sang Mongoloid phương Nam. Hiện tượng này được nhân chủng học gọi là quá trình Mongoloid hóa dân cư Đông Nam Á. Đến 2.000 năm TCN, hầu như toàn bộ dân cư Đông Nam Á chuyển thành chủng Mongoloid phương Nam, được gọi là người Nam Á.

Như vậy, người Việt được hình thành theo hai giai đoạn: Ban đầu, 70.000 năm trước, hai đại chủng người Australod và Mongoloid từ châu Phi tới, hòa huyết sinh ra bốn chủng người Việt cổ là Indonesian, Melanesian, Vedoid và Negritoid, cùng thuộc loại hình Australoid. 40.000 năm trước, người từ Việt Nam (chủ yếu là người Indonesian đa số) đi lên khai phá Hoa lục. Tại Nam Hoàng Hà, khoảng 7.000 năm trước, người Việt cổ hòa huyến với người Mông Cổ, sinh ra người Việt chủng Mongoloid phương Nam. Khoảng năm 2698 TCN, do cuộc xâm lăng của người Mông Cổ, một bộ phận người Việt di cư về Việt Nam và Đông Nam Á, đem nguồn gen Mongoloid chuyển hóa dân cư trong vùng sang chủng Mongoloid phương Nam, được gọi là người Việt hiên đại.

Từ quá trình hình thành như vậy, cho thấy, người Việt Nam hiện nay không chỉ là hậu duệ của Cụ Thủy Tổ 70.000 năm trước mà còn là con cháu của Cụ Tổ Điền Nguyên. Vấn đề cần làm rõ là Cụ Tổ Điền Nguyên đóng góp bao nhiêu trong bộ gen của người Việt hôm nay? Đó là chuyện “nhạy cảm” vì nó sẽ phân định rằng người Việt Nam có bị Hán hóa hay không? Hai khả năng có thể xảy ra. Khả năng thứ nhất: người từ Trung Quốc xuống rất đông, tiêu diệt hay xua đuổi người Việt cổ đi nơi khác, chiếm đất thành lập quốc gia của người Trung Quốc. Khả năng thứ hai: người từ Trung Quốc di cư tới từ từ, trong thời gian dài rồi hòa huyết chuyển hóa dân cư sang chủng người mới. Khả năng đầu chỉ xảy ra bằng một cuộc xâm lăng có tổ chức của nhà nước mạnh, dẫn tới chiến tranh khốc liệt. Một sự kiện như vậy sẽ ghi dấu ấn sâu trong lịch sử và cả trong bộ gen con người ngày nay, như cuộc xâm lăng của người Arian vào Ấn Độ 1500 năm TCN. Sự kiện như thế chưa từng xảy ra ở Việt Nam. Trên thực tế là người từ Thái Sơn- Trong Nguồn trở về quê cũ theo từng làn sóng rải rác trong thời gian hơn nửa thiên niên kỷ. Cũng phải kể đến đặc điểm của máu huyết. Trong số bốn chủng người Việt cổ được sinh ra 70.000 năm trước thì theo nguyên lý di truyền học, người đa số Indonesian (sau này được gọi là Lạc Việt) nhận được lượng máu Mongoloid cao nhất. Do vậy, chỉ cần thêm lượng nhỏ gen Mongoloid thì như giọt nước làm tràn ly, người Lạc Việt Australoid chuyển hóa sang chủng Mongoloid phương Nam. Việc Mongoloid hóa dân cư Đông Nam Á diễn ra như phản ứng dây chuyền. Cho tới 2.000 năm TCN, dân cư Đông Á đã gần như cùng một chủng tộc và văn hóa. Minh chứng rõ ràng nhất là năm 2005 phát hiện tại di chỉ Mán Bạc Ninh Bình một khu mộ với 30 thi hài người Ausrtraloid và Mongoloid được chôn chung, là kết quả của viêc chung sống lâu dài. Ngày nay, khi khảo sát di truyền người châu Á, khoa học cho thấy người Việt Nam có độ đa dạng sinh học cao hơn cả, chứng tỏ người Việt cổ là tổ tiên dân cư châu Á. Do vậy chẳng làm gì có chuyện Hán hóa ở đây. Cho rằng người Việt Nam bị Hán hóa về dòng giống và văn hóa là sự lầm lẫn đáng buồn trong lịch sử."
                                                                      ***
 Theo cuốn “Lịch sử thế giới cổ đại” (NXB Giáo dục, 2006) thì: “Trên lãnh thổ rộng lớn của Trung Quốc, giới khảo cổ học đã phát hiện được rất nhiều hiện vật thuộc các thời kỳ đồ đá cũ, đồ đá giữa, đồ đá mới, đồ đồng, đồ sắt. Tiêu biểu cho nền văn hóa hậu kỳ đồ đá mới là văn hóa Ngưỡng Triều, được phát hiện trước tiên năm 1920 tại thôn Ngưỡng Triều thuộc tỉnh Hà Nam. Sau đó, tại các tỉnh Sơn Tây, Cam Túc, Thanh Hải.v..v… Cũng phát hiện được những di chỉ thuộc văn hóa Ngưỡng Triều. Về niên đại, văn hóa Ngưỡng Triều kéo dài từ khoảng năm 4500 – 2500 TCN. Tiếp theo văn hóa Ngưỡng Triều là văn hóa Long Sơn, phát hiện được năm 1928 ở trấn Long Sơn, gần Tế Nam, tỉnh Sơn Đông. Văn hóa Long Sơn phân bố trên một phạm vi rất rộng, đông từ Sơn Đông, tây đến Thiểm Tây, bắc đến nam Liêu Đông, nam đến Chiết Giang. Về mặt niên đại, văn hóa Long Sơn kéo dài từ khoảng năm 2100 – 1800 TCN”.
Từ lâu lắm, người thuộc giống Mông Cổ đã tới lưu vực sông Hoàng Hà, đánh thổ dân ở đó là người Miêu, chiếm đất. Có lẽ họ trước đó là dân du mục, xa biển, khi bắt đầu chuyển sang sống định cư, chuyên trồng trọt chăn nuôi nên họ không giỏi về hàng hải, buôn bán. Có sách nói rằng hai tộc người hình thành sớm nhất ở lưu vực sông Hoàng Hà là tộc Hạ ở trung lưu sông Hoàng Hà và tộc Thượng ở hạ lưu sông Hoàng Hà. Sự đồng hóa giữa hai tộc đó thành một bộ tộc thống nhất gọi là Hoa Hạ (Hoa Hạ cũng là tên gọi nước Trung Hoa thời xưa), là tiền thân của dân tộc Hán sau này. 
Nhưng vì sao có tên gọi "Hoa Hạ"? Trên mạng internet,   Huỳnh Chương Hưng Quy Nhơn 19/12/2013 viết như sau: 
" Sự hình thành và phát triển Hán tộc lấy Hoa Hạ làm chủ thể, dung hợp các tộc khác, không ngừng lớn mạnh lên. Trong lịch trình phát triển nền văn minh 5000 năm của Trung Hoa, theo sự giao lưu qua lại, hỗ tương thẩm thấu về kinh tế văn hoá của các dân tộc đã hình thành dân tộc Trung Hoa thống nhất – dân tộc Hoa Hạ. “Hoa Hạ” là xưng hiệu của dân tộc Trung Hoa, phàm là 56 dân tộc hiện đang sinh sống trên đất nước Trung Hoa đều được gọi là “dân tộc Hoa Hạ”. Người Trung Quốc thường cho mình là “dân tộc Hoa Hạ”, “con cháu Hoa Hạ”. Đối với nguồn gốc hai chữ “Hoa Hạ” rất khó đưa ra luận định. Để giải thích bí ẩn này xưa nay có nhiều thuyết.
          Về nguồn gốc “Hoa Hạ”, từ thời thượng cổ đã lưu truyền một truyền thuyết. Xi Vưu, một người rất có dã tâm, vốn là đại thần của Viêm Đế, muốn độc bá thiên hạ đã liên hợp với Miêu tộc, định đuổi Viêm Đế từ phương Nam xuống Trác Lộc, tự xưng là Nam phương đại đế. Trận chiến quyết định thắng bại bắt đầu diễn ra ở cánh đồng Trác Lộc. Đương lúc đại chiến, Xi Vưu tay cầm trường kiếm chỉ huy quân sĩ xông vào doanh trận Viêm Đế. Bộ lạc Viêm Đế đương lúc yếu thế, một mặt bất đắc dĩ phải kháng cự, mặt khác tìm cách dẫn đội quân rút lui chiến trường cầu viện Hoàng Đế. Lúc bấy giờ Xi Vưu đã tiến quân đến Trác Lộc, Hoàng Đế ra lệnh chỉnh đốn lại đội ngũ, hai bên bắt đầu một trận chiến mới. Hoàng Đế nghĩ rằng, chỉ cần cùng với Viêm Đế đồng tâm hiệp lực nhất định có thể đánh bại Xi Vưu. Nhưng Hoàng Đế đã đánh giá thấp Xi Vưu, Xi Vưu dùng yêu thuật, trong phút chốc sương mù phủ đầy, trời tối mù mịt. Đội quân của Viêm Đế và Hoàng Đế bị đánh bại. Đối mặt với Xi Vưu, người gây ra chiến tranh làm hại bách tính, Hoàng Đế quyết định ra sức đánh một trận sống mái. Hoàng Đế tìm đến Viêm Đế bàn bạc kế hoạch tác chiến, lợi dụng Thái cực suy đoán, lại sai người đến đại bản doanh của Xi Vưu thám thính quân tình, biết được Xi Vưu lại dùng yêu thuật sắp phản công. Hoàng Đế nắm quyền chủ động chiến tranh. Khi đội quân của Xi Vưu xông lên đã bị liên quân Viêm Hoàng vây chặt. Lúc bấy giờ liên quân Viêm Hoàng lấy xương làm trống trận, đánh trống vang dậy cả trời đất khiến sĩ khí liên quân tăng cao, quân sĩ trở nên anh dũng. Cuối cùng đánh bại bộ lạc Xi Vưu, Xi Vưu cũng bị bắt làm tù binh. Xi Vưu không chịu đầu hàng bị Hoàng Đế ra lệnh chém đầu. Hai bộ lạc Viêm Hoàng cuối cùng đoàn kết nhất trí, thống nhất trung nguyên. Từ đó, các bộ lạc ở trung nguyên đều tôn Hoàng Đế làm cộng chủ. Dưới sự thống lĩnh của Hoàng Đế, bộ lạc Viêm Đế Hoàng Đế dung hợp thành dân tộc Hoa Hạ, đây chính là nguồn gốc của hai chữ “Hoa Hạ”.
Còn có một thuyết khác có liên quan. Đối với thuyết này có sự giải thích khác nhau. Tương truyền, triều Hạ là triều đại đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc. Đại Vũ trải qua mấy năm trị thuỷ thành công được vua Thuấn chọn làm người kế nhiệm. Đại Vũ đã mở ra một thời đại tươi sáng, cho nên lúc bấy giờ tộc Hạ Hậu mà Đại Vũ là đại biểu đang chiếm ưu thế trở thành bộ lạc thị tộc cực thịnh. Thêm vào đó tộc Hạ Hậu lấy Hoa sơn làm trung tâm sinh sống, cho nên được mọi người gọi là tộc Hoa Hạ. Đây cũng là nguyên nhân tại sao con của Đại Vũ kiến lập vương triều đầu tiên gọi là “Hạ”.

          Ngày nay đối với nguồn gốc của tên gọi “Hoa Hạ” cũng còn có những tranh luận Một số chuyên gia học giả đã đem nhiều quan điểm quy nạp thành 2 loại:

- Quan điểm thứ nhất cho rằng, “Hoa Hạ” là danh xưng của dân tộc. Họ cho rằng Trung Quốc cổ đại lấy “Hạ” làm tộc danh:

Hoa Hạ tộc định cư tại Hoa sơn chi chu, Hạ thuỷ chi bàng, cố nhi đắc danh.

华夏族定居在华山之周, 夏水之旁, 故而得名

(Tộc Hoa Hạ định cư ở quanh Hoa Sơn, bên cạnh sông Hạ, nên nhân đó mà có tên)

Danh từ “Hạ” là từ sông Hạ mà ra. Dân tộc Trung Hoa từ xưa tới nay là một dân tộc to lớn được cấu thành từ sự dung hợp các dân tộc khác nhau. Nó mặc dù không phải là một dân tộc đơn thuần, nhưng trong lịch sử nó trước sau lấy một dân tộc hạt nhân làm trung tâm, dần dung hợp và đồng hoá các dân tộc khác, hình thành một “dân tộc đa nguyên hoá mang tính đơn nguyên”, đó chính là dân tộc Trung Hoa ngày nay. Thời Tiên Tần, nó được gọi là “Hoa tộc” hoặc “Hạ tộc”. “Hoa” chỉ “Hoa tộc” cư trú tại Hoa sơn, lấy mai côi hoa làm tô tem, “Hạ” chỉ Hạ Hậu thị tổ tiên của “Hạ tộc” cư trú ở trung và hạ du Trường giang.

- Một quan điểm khác cho rằng “Hoa Hạ” về căn bản không phải để gọi dân tộc, nó chỉ là một khái niệm văn hoá địa vực. Nhưng ở đây lại có 2 cách giải thích khác nhau.

Thứ nhất: tổ tiên xa xưa của dân tộc Trung Hoa từng được chia là 3 tập đoàn chủ yếu là Hoa Hạ, Đông Di và Miêu Man. Trong những cuộc cạnh tranh và chiến tranh không ngừng, Hoàng Đế cuối cùng chiếm được địa vị bá chủ, tập đoàn Hoa Hạ do ông lãnh đạo trở thành chủ lưu chính trị và văn hoá lúc bấy giờ, tập đoàn Đông Di và Man Miêu không thể không xưng thần và đã bị ép gia nhập vòng văn minh Hoa Hạ.

Thứ hai: thời viễn cổ lấy văn hoá cao thấp để định danh. Cho nên khu vực Chu lễ văn hoá cao gọi là “Hạ”, cũng như thế, dân tộc có văn hoá cao gọi là “Hoa”. “Hoa” và “Hạ” hợp lại, gọi chung là “Trung Quốc”. Về sau “Hoa Hạ” không ngừng dung hợp lớn mạnh, phàm các dân tộc chung quanh khi tiếp nhận văn hoá Hoa Hạ, đều gia nhập phạm trù văn hoá Hoa Hạ truyền thống, Hoa Hạ dần trở thành tượng trưng của văn minh Trung Hoa.
Đến giai đoạn hiện nay của chúng ta, vẫn chưa hoàn toàn giải được bí ẩn về nguồn gốc của danh xưng “Hoa Hạ”. (Nguyên tác Trung văn:
TRUNG HOA DÂN TỘC VỊ THẬP MA  KHIẾU “HOA HẠ”

中华民族为什么叫华夏

Trong quyển

TRUNG QUỐC VỊ GIẢI CHI MÊ

中国未解之谜

Chủ biên: Tôn Thiệu Vũ 孙绍武

Hô Hoà Hạo Đặc: Viễn phương xuất bản xã, 2009.)"
 
 
Theo truyền thuyết, ông tổ của dân tộc Trung Hoa là Bàn Cổ. “Bàn Cổ có sáu trai, sáu gái… tự lấy nhau thành chồng vợ. Vì vậy con cái chỉ biết mẹ chứ không biết cha”. Rồi đến các đời gọi là Tam Hoàng (Thiên Hoàng, Địa Hoàng, Nhân Hoàng): Hữu Sào dạy dân chặt cây làm nhà; Toại Nhân dạy dân cách làm ra lửa, ăn thức ăn nấu chín; Phục Hi dạy dân làm lưới bắt cá, đặt ra chữ viết để thay cái tục lấy dây thắt nút (điều này thật lạ!), dạy dân phép cưới vợ gả chồng; Thần Nông dạy dân cày ruộng, lập chợ, nếm cây cỏ để làm thuốc chữa bệnh.
Theo nhiều nhà nghiên cứu lịch sử Trung Hoa thì tới đời Phục Hi, Thần Nông, dân tộc Trung Hoa đã bước vào thời đại đồ đá mới, còn các đời trước vẫn là thời đại đồ đá cũ.
Sau Thần Nông là Hoàng Đế. Ông thu phục, thống nhất các bộ lạc thành liên minh các bộ lạc, cai quản hết thảy, truyền ngôi được năm đời (Hoàng Đế, Thiếu Hiệu, Chuyên Húc, Đế Cốc, Đế Chí, người đời sau gọi là thời Ngũ Đế). Lúc này, người Trung Hoa đã biết dùng bánh xe.
Nối tiếp Ngũ Đế là hai đời Nghiêu, Thuấn. Người đời sau ca tụng là hai ông vua hiền, là những bậc minh quân tài đức vẹn toàn. Nghiêu định phép đo lường tính âm dương, sai ông Cổn đắp đê ngăn nước Hoàng Hà nhưng công việc trị thủy ấy thất bại. Thuấn sai Hạ Vũ trị thủy, đào kinh thoát nước lụt thành công.
Vì tài năng và có công lớn, đến khi Thuấn già, Hạ Vũ được bầu làm người đứng đầu liên minh bộ lạc (Thời kỳ này vẫn đang còn chế độ thị tộc, chưa có chuyện vua truyền ngôi cho con. Như vậy, Ngũ Đế cũng chỉ là năm thủ lĩnh của liên minh bộ lạc).
Theo cuốn “Lịch sử thế giới” của Nguyễn Hiến Lê và Thiên Giang (NXB Văn hóa, 1997) thì: “Sách cổ nhất chép chuyện các vua đó là cuốn “Thượng thư” (có hai thiên: Nghiêu điển và Vũ công) viết vào đầu đời Xuân Thu (thế kỷ VIII trCN), nghĩa là trên ngàn rưỡi năm sau khi vua Thuấn chết. Vậy, việc các vua đó đã truyền khẩu 1500 năm rồi mới chép lại, tất nhiên không sao hoàn toàn đúng sự thực được”.
Nói về tình hình xã hội thời thị tộc của Trung Hoa cổ đại, thiên Lễ vận trong sách Lễ kí chép: “Thi hành đạo lớn thiên hạ là chung, chọn người hiền tài, chú trọng tín nghĩa và sự hòa mục. Do vậy, người ta không chỉ thân với người thân của mình, không chỉ yêu con của mình. Làm cho người già có chỗ dưỡng lão, trai tráng có chỗ dùng, trẻ nhỏ có chỗ nuôi nấng, những kẻ quan quả cô độc tàn tật đều có chỗ nuôi. Trai có nghề nghiệp cho riêng mình, sức lực đều dốc hết nhưng không phải vì mình. Vì vậy, mưu mô xảo quyệt không dùng, trộm cướp giặc giã không có, do đó cửa ngoài không cần đóng, gọi là Xã Hội Đại Đồng”.
Sau khi Hạ Vũ chết, con của ông là Khải lên thay, nghiễm nhiên trở thành ông vua được truyền ngôi, sự kiện đó đánh dấu sự kết thúc của chế độ thị tộc và mở đầu cho việc coi cha truyền con nối ngôi vua là lẽ đương nhiên, hợp đạo lý. Cũng thiên Lễ vận, chép: “Nay đạo lớn đã mất, thiên hạ thành riêng, người ta chỉ thân với người thân của mình, chỉ yêu con của mình, của cải là của riêng mình, cha truyền con nối là hợp với lễ, lấy thành quách hào ao làm kiên cố, lấy lễ nghĩa là kỷ cương, để xác định địa vị của vua tôi… để đặt ra các chế độ, để phân định cương giới ruộng đất, để bồi dưỡng tài năng cho những người dũng cảm và những người thông thái… vì vậy mưu mô được sử dụng và việc binh đao từ đó nổi lên…
Nhà Hạ (khoảng thế kỷ XXI-XVI trCN), bắt đầu từ vua Khải, và cũng là ông vua đầu tiên của Trung Quốc. Trong thời gian trị vì, Khải đã phải đương đầu với nhiều cuộc chống đối trong liên minh bộ lạc như Bá Ích thuộc bộ lạc Đông Di hay Hữu Hổ thuộc bộ lạc Hạ.
Con Khải là Thái Khang làm vua, bị Hậu Nghệ cũng thuộc bộ lạc Đông Di khởi binh đánh, phải bỏ chạy. Giành được chính quyền nhưng chỉ ham săn bắn, không chú ý củng cố quyền lực, bị bộ hạ là Hàn Trạc giết, cướp ngôi. Được ít lâu, một người dòng dõi nhà Hạ là Thiếu Khang, được sự ủng hộ của các bộ tộc thân cận giết được Hàn Trạc, khôi phục nhà Hạ.
Cuối đời nhà Hạ, vua Kiệt là một hôn quân tàn ác, áp bức thậm tệ, bị dân oán hờn. Hạ suy yếu.
Trong khi đó tộc thượng ở hạ lưu Hoàng Hà không ngừng lớn mạnh. Tục truyền rằng thủy tổ của tộc Thượng là Khế, người cùng thời với Hạ Vũ. Thành Thang, tộc trưởng lúc đó, là cháu mười bốn đời của Khế. Nhân cơ hội Hạ suy yếu, Thang hội chư hầu, đem quân đánh Hạ. Sử chép hồi đó có tới ba ngàn chư hầu, số dân mỗi chư hầu chắc không đáng bao nhiêu.
Kiệt thua, chạy đến đất Nam Sào (An Huy), chết ở đó. Nhà Hạ bị diệt vong sau 500 năm tồn tại.
Thành Thang lập nên nhà Thương (khoảng 1783-1066 trCN).
Lúc đầu nhà Thương đóng đô ở đất Bạc, phía nam Hoàng Hà, thuộc tỉnh Hà Nam ngày nay. Sau dời đô đến đất Ân, ở phía Bắc Hoàng Hà, cũng thuộc tỉnh Hà Nam, nên nhà Thượng còn được gọi là Ân Thương hay Ân.
Nhà Thương thịnh một thời, đã có những phát triển bước đầu về mọi mặt. Nhưng về sau, các vua thường bạo ngược, dâm loạn, trác táng vô độ nên đoản thọ, thời gian ở ngôi chỉ “hoặc mười năm, hoặc bảy tám năm, hoặc năm sáu năm, hoặc ba bốn năm”. Trong số đó, nổi tiếng tàn bạo nhất là vua Trụ. Trụ mê nàng Đát Kỷ, dâm ngược, tăng phu phen lao dịch xây cất cung điện nguy nga, mở rộng kinh đô đến tận Triều Ca (huyện Kỳ, tỉnh Hà Nam); đặt thuế má nặng nề, dùng hình phạt thảm khốc đối với những người phản kháng, giết bề tôi trung thành. Không những thế còn luôn gây chiến tranh với các bộ lạc xung quanh, gây biết bao thống khổ lầm than cho dân chúng.
Chế độ tàn bạo và hủ bại làm cho cả xã hội lung lay.
Wikipedia kể: "Thời Thương, người Trung Hoa chưa có tục chép sử, và hiện tại cũng chưa tìm thấy bất kỳ tài liệu đương thời nào ghi nhận sự tồn tại của Đát Kỷ. Tất cả các thông tin về Đắc Kỷ đều xuất phát từ các truyền thuyết dân gian. Mãi đến thời nhà Minh, tác phẩm tiểu thuyết dã sử "Phong thần diễn nghĩa" mới cung cấp những thông tin hệ thống về nhân vật này. 
 
Theo "Phong thần diễn nghĩa" thì Đát Kỷ nguyên danh là Tô Đắt Kỷ, con gái của Ký Châu hầu Tô Hộ. Tô Hộ có 2 người con, 1 là con trai trưởng Tô Toàn Trung, văn võ song toàn, dũng trí hơn người, 2 là Tô Đát Kỷ 16 tuổi, quốc sắc thiên hương. Do vua Trụ Vương vốn háo sắc, nghe lời của Bí Trọng và Vưu Hồn, nên đòi Tô Hộ phải dâng con gái để nạp làm phi tần. Tuy Tô Hộ phản ứng mạnh trước yêu cầu này, nhưng sau khi có thư khuyên giải cân nhắc của Tây Bá hầu Cơ Xương, ông quyết định gả con gái đi..." 

"Nhiều truyền thuyết dân gian đều cho rằng Đát Kỷ là hồ ly tinh hóa thành, vì được biết bà rậm lông chân. Nang được mô tả là có nhan sắc yêu kiều làm mê đắm lòng người, thuộc hàng đại mỹ nhân của Trung Hoa. Tuy nhiên, do là một yêu tinh và có nhiều hành vi trực tiếp hoặc gián tiếp làm chết quá nhiều người, nên dân gian thường gọi bà là "yêu cơ". 

"Phong thần diễn nghĩa" thì cho rằng Đát Kỷ chỉ là người bình thường, nhưng trên đường dâng nạp cho Trụ Vương đã bị Hồ ly tinh nhập xác để thực hiện nhiệm vụ của Nữ Oa Nương Nương giao cho làm cho Trụ Vương mê muội và nhà Thương sụp đổ, tạo điều kiện cho nhà Chu thu phục thiên hạ. 

Cũng có thuyết kể rằng Đát Kỷ là một cô gái nết na hiền thục, vừa nhập cung đã bị Khương Tử Nha tung đồn là yêu nghiệt, khắc tinh của nhà Thương để Trụ Vương sợ, không dám chìm đắm trong tửu sắc. Trụ Vương tin lời triều thần nên đày Đát Kỷ vào lãnh cung. Sống trong lãnh cung cực khổ, Đát Kỷ thay đổi tính nết, trở nên hiểm ác, quyết tâm quyến rũ Trụ Vương để được ra ngoài phá hủy giang sơn nhà Thương, trả thù Khương Tử Nha cùng các triều thần khác. 

Có lần Đát Kỷ bất hòa với thân thuộc của vua là Tỷ Can, bắt ông này phải moi tim ra nấu thuốc rồi dựng linh đàn ở trước đại điện, hậu tang long trọng để được an giấc. Một vị quan giỏi xem tinh tượng, bói toán cũng vì bất hòa mà bị bà cho cột lưng vào cột nung đỏ, cháy cả lưng. Trụ Vương còn cho xây cung "Lộc Đài" vuông mỗi bên 3 dặm, cao ngàn thước, quy mô lớn chưa từng thấy, phải dùng đến hàng vạn thợ xây, xây 7 năm mới xong. 

Những lần đi du ngoạn, Trụ Vương và Đát Kỷ cũng làm không ít điều ác nhân như: Một lần đi dạo thấy cảnh một cụ già và một em bé đi trong mưa tuyết, cụ già thì khỏe mạnh, còn em bé run rẩy vì lạnh. Đát Kỷ nói cụ già được sinh ra trong lúc cha mẹ còn trẻ nên ống chân có tủy, đứa trẻ kia sinh ra khi cha mẹ đã già nên chân không có ống tủy, vì thế mà lạnh. Trụ Vương không tin, ả liền cho người chặt chân cụ già và em bé ra xem rồi cùng cười ha hả, một lần khác thấy 1 sản phụ liền bắt mổ bụng ra xem trai hay gái. 

"Bào lạc" lại là 1 phát minh của Đát Kỷ, Trụ Vương. Đó là 1 ống đồng dài, khi sử dụng mang ống đồng nhét đầy than đỏ bắc ngang qua hố lửa, bắt tội nhân cởi hết quần áo giày dép ra và chạy từ đầu này sang đầu kia của ống đồng. Quan thần trong triều bấy giờ bị tàn sát vô tội vạ. 

Bá Ấp Khảo - một người tình cũ của Đát Kỷ, đẹp trai, văn hay, võ giỏi. Đặc biệt chàng có biệt tài về âm nhạc, trời phú cho có đôi tay tinh tường, những ngón tay như thần có thể điều khiển tiếng đàn. Vẻ đẹp cùng với tài năng của chàng đương nhiên đã khiến Đát Kỷ say như điếu đổ. Vốn tính dâm dục, Đát Kỷ là gái có chồng đã bất chấp luân thường đạo lý, lập mưu tính kế chiếm giữ trái tim chàng. Có lẽ trên thế gian này có người nào đó ở trong một cung điện xa hoa cùng với một mỹ nữ tuyệt sắc như Đát Kỷ mà có thể giữ được bình tĩnh thì người đó chính là Bá Ấp Khảo. Tô hoàng hậu xinh đẹp, quyến rũ, vuốt ve mơn trớn thế nào, chàng cũng nhất định không đồng ý phục tùng nên bị chặt đầu rồi đem xác ra làm nhân bánh bao gửi về cho Cơ Xương. 

Nàng vì niệm tình như tỷ muội với Ngọc Dung, đã săn sóc cho mình nhiều năm hơn nữa sẽ rất khó ăn nói với Trụ Vương nên thuốc cho câm và khờ khạo, tìm người đưa về Ký Châu, giữ mạng cô ta lại để bịt đầu mối chuyện nàng giải cứu Ngọc Mỹ nhân. Nàng còn nhẫn tâm suýt giết chết Cơ Phát nếu không có Thân Công Báo ra tay ngăn cản. 

Chu Vũ Vương Cơ Phát được sự phò tá của Khương Tử Nha đã đánh đổ nhà Thương. Trụ Vương mất nước bèn mặc áo dát ngọc leo lên "Lộc Đài" tự châm lửa thiêu. Đát Kỷ cũng tự thắt cổ chết. 

Các sử gia đời sau thường cho rằng vì quá yêu Đát Kỷ, Trụ Vương đã làm nhiều điều thất đức, đi theo vết xe đổ của vua Kiệt nhà Hạ say đắm nàng Muội Hỷ đến nỗi làm hỏng chính sự và mất nước về tay nhà Chu. Sau này cuối thời Tây Chu lại có chuyện Chu U vương si mê nàng Bao Tự mà cũng lặp lại bi kịch như Trụ Vương làm mất nhà Tây Chu. Về sau, Đát Kỷ bị chính tay Khương Tử Nha giết chết (có nơi ghi là Đát Kỷ sau khi Trụ Vương mất nước đã thắt cổ tự tử)."
Lúc đó có họ Cơ, tộc Chu cư trú ở thượng lưu Hoàng Hà (vùng Thiểm Tây, Cam Túc ngày nay). Tổ của tộc Chu la Khí, vì trồng lúa giỏi nên được gọi là Hậu Tắc và được tôn là Thần nông nghiệp. Bị người Nhung lấn chiếm, cháu đời thứ mười hai của Khí là Cổ Công Đản Phụ phải dẫn bộ lạc mình từ đất Mân đến đất Kỳ (Thiểm Tây) định cư, làm nhà cửa, xây thành quách, tổ chức lại nhân sự. Những cuộc chiến tranh với bộ lạc xung quanh đem lại cho tộc Chu nhiều chiến lợi phẩm, nô lệ và do đó càng đẩy nhanh sự phân hóa giai cấp trong bộ lạc. Đến đời cháu của Cổ Đông Đản Phụ tên là Xương thì nước Chu thành lập. Xương thành... Chu Văn Vương.
Văn Vương tích cực củng cố và phát triển thế lực, mở rộng phạm vi cai trị đến vùng Trường Giang, chờ cơ hội đánh nhà Thương đang ngày càng suy yếu. Chưa kịp thực hiện mưu đồ thì Văn Vương chết, con của ông là Phát lên nối ngôi, gọi là Chu Vũ Vương.
Tháng giêng năm 1066 trCN, Chu Vũ Vương hội 800 chư hầu, thống lĩnh hơn ba trăm binh xa, ba ngàn dũng sĩ, bốn vạn năm ngàn giáp sĩ, tổng cộng hơn sáu vạn người, vượt sông Diễn Hà, tiến về Triều Ca.
Vua Trụ hoảng hốt đối phó. Nhưng quân chủ lực đang chinh phạt ở miền đông nam xa xôi, Trụ đành miễn cưỡng tập hợp mười bảy vạn nô lệ và tù binh ra ứng chiến.
Quân Thương tuy đông gấp bội, nhưng vốn căm hận vua Trụ nên vừa thấy quân Chu đã bỏ chạy, nhiều người còn quay giáo đánh lại chủ nô.
Vua Trụ đại bại, hết đường trốn, phải tự tử trên giàn hỏa thiêu ở Triều Ca. Sau 600 năm tồn tại, nhà Thương tiêu vong.
Nhằm thu phục nhân tâm, Vũ Vương phong cho Vũ Canh (con của vua Trụ) một vùng đất cũ của nhà Thương và phong cho ba con mình là Quản Thúc, Thái Thúc, Hoắc Thúc vùng đất bên cạnh để giám sát. Sau đó Vũ Vương rút về Cảo Kinh ở phía tây, vì vậy, thời kỳ nhà Chu đóng đô ở đây được gọi là thời Tây Chu. Triều Tây Chu tồn tại ngót 300 năm (khoảng 1066 – 770 trCN).
Hai năm sau, Vũ Vương chết, con nối ngôi là Thành Vương còn nhỏ, nên em của Vũ Vương là Chu Công nắm quyền nhiếp chính. Lợi dụng tình hình đó, Vũ Canh lôi kéo Quản Thúc, Thái Thúc và một số nước nhỏ ở phía đông nổi dậy. Chu Công đem quân đi đánh, sau ba năm thì dẹp được. Vũ Canh, Quản Thúc bị giết, Thái Thúc bị đày. Về sau, Thành Vương chinh phục nốt các bộ tộc Tứ và Hoài ở phía đông nam. Bản đồ nhà Chu được mở rộng tới tận biển Đông.
Chu Công có tài tổ chức, điều hành việc nước, thi hành chính sách phân phong đất đai cho người trong họ để làm phên dậu bảo vệ nhà Chu; bày ra lễ nhạc theo phép “tỉnh điền”. Tỉnh điền là phép chia đất cho nông dân ở đời Chu: một khoảng đất rộng khoảng năm, sáu trăm mẫu chia làm chín khu theo hình chữ tỉnh. Tám gia đình chia nhau tám khu ở chung quanh và phải chung sức cấy cày khu ở giữa để nộp cho vua. Tại khu đó có đào giếng chung cho mọi gia đình, (tỉnh có nghĩa là giếng).
Nhà Chu bước vào thời kỳ cực thịnh.
Điều thú vị nói thêm: Sử có chép rằng lúc đó, nước ta, được gọi là Việt Thường, sai sứ sang cống chim bạch trĩ, nhà Chu dùng xe chỉ nam để đưa sứ ta về nước.
Đến thế kỷ IX TCN, Lệ Vương thi hành chính sách giữ độc quyền rừng núi, ao hồ làm mất lòng dân. Không những thế, ông ta còn thẳng tay trừng trị những ai dám bàn tán, kêu ca, làm mọi người căm phẫn.
Thấy vậy, cận thần là Thiệu Công can:
- Bịt miệng dân còn nguy hiểm hơn chặn dòng nước. Nước chặn mà bị vỡ thì nhất định sẽ gây tai họa. Kẻ làm việc trị thủy là phải khơi cho nó chảy, kẻ làm việc trị dân là để cho họ được nói.
Lời đó rất đúng nhưng Lệ Vương bỏ ngoài tai.
Năm 841 TCN, dân vùng kinh kỳ nổi dậy chống đối. Lệ Vương hốt hoảng bỏ kinh thành chạy đến đất Trệ (Sơn Tây ngày nay) rồi chết ở đó. Con trai của Lệ Vương là Tĩnh trốn vào nhà Thiệu Công. Thiệu Công đưa con trai mình ra mạo xưng để quân khởi nghĩa giết.
Mười bốn năm tiếp theo là giai đoạn kỳ lạ, không vua, gọi là “Cộng hòa hành chính”.
Đến năm 827 TCN, Tĩnh được lên làm vua, hiệu là Tuyên Vương. Nhà Chu lại được khôi phục và tương đối ổn định.
Tuyên Vương chết, U Vương nối ngôi. U vương là kẻ ăn chơi, xa xỉ, say đắm tửu sắc. Vì quá mê nàng Bao Tự mà phế truất hoàng hậu họ Thân và thái tử Nghi Cữu, lập Bao Tự làm hoàng hậu và con trai Bao Tự là Bá Phục làm thái tử. Tây Chu suy yếu.
Năm 771 TCN, cha của hoàng hậu họ Thân là Thân Hầu, liên kết với người Khuyển Nhung (tộc Nhung, từ thời Chiến Quốc trở về sau được gọi là Hung Nô) dấy binh đánh U Vương. U Vương thua, bị người Nhung giết. Thái tử Nghi Cữu được lập làm vua, hiệu là Bình Vương, dời đô sang Lạc Ấp ở phía đông. Từ đó gọi nhà Chu thời kỳ này là Đông Chu (khoảng 771 – 221 TCN).
Đông Chu, về mặt thời gian tồn tại, được chia làm hai thời kỳ: thời kỳ đầu gọi là Xuân Thu (770 – 475 TCN), thời kỳ sau gọi là Chiến Quốc (475 – 221 TCN). Do vậy thời Đông Chu cũng được gọi là thời Xuân Thu - Chiến Quốc.
Ở đây có một chú ý nhỏ: 221 TCN là năm nước Tề bị nước Tần diệt và thống nhất Trung Quốc. Nhà Chu đã bị diệt vong trước đó bởi Tần, năm 249 TCN.
 ***
Lê lết một hồi rồi chúng ta cũng đến được đây, thời Xuân Thu - Chiến Quốc.
Nói thế chắc nhiều người sẽ tủm tỉm cười: tự vác ách chứ có ai bắt đâu? Muốn đến, cứ thẳng một lèo là đến thôi, việc gì phải vòng vo đi tuốt lên thượng nguồn rồi từ thượng nguồn “luồn lách” qua hết cuộc xung đột này đến cuộc chém giết khác để đến đây, vừa mệt xác, vừa… nguy hiểm nữa?
Đâu phải vậy! Chúng ta chưa thấy ai đọc sách sử (và cũng có thể là mọi cuốn sách) lần lượt từ trang cuối cùng đến trang đầu tiên cả.
Làm sao ăn được múi cam nếu không cho bóc vỏ? Chúng ta vẫn có thể đến thẳng Xuân Thu - Chiến Quốc, nhưng rồi chúng ta cũng vẫn cứ phải “lội” ngược lên gặp ông Bàn Cổ để từ đó đi lần nữa về Xuân Thu - Chiến Quốc. Đi như vậy, hóa ra là mệt xác hơn và nguy hiểm hơn bội phần, ít ra là hai lần.
Vui thế thôi chứ cũng chẳng mệt mỏi, lê lết gì! Không mệt mỏi vì chẳng qua chúng ta chỉ là những kẻ “xào đi xào lại” mấy quyển sách mà thôi. Còn lê lết thì làm gì đến nỗi chậm thế, thậm chí là… quá nhanh nữa là khác.
Trong vật lý học, chúng ta biết vận tốc “đi” trong không gian được tính là tỷ lệ giữa khoảng cách và thời gian. Nhưng nếu chúng ta đi trong thời gian thì tính như thế nào? Không thấy vật lý học nói tới điều đó. Nhưng có đấy!
Có lẽ nhận thức đầu tiên của con người trong quá trình thiên di, du cư để sống còn là khái niệm về hiện hữu, sau đó đến khái niệm vật thể sơ khai rồi đến khái niệm về khoảng cách không gian: sự xa-gần. Chúng ta đã biết, biểu hiện của vận động vật chất, hay của chuyển hóa không gian là thời gian. Vậy thứ nhận thức tiếp theo của con người về thế giới xung quanh, nhiều khả năng, là về thời gian, về sự lâu-mau của một quá trình nào đó xảy ra trong không gian. Nghĩa là nhận thức của con người trước tiên là nhận thức về hiện thực và sự biến đổi của hiện thực, về không gian và thời gian cũng như mối quan hệ giữa chúng. Trong đó có mối quan hệ giữa sự xa-gần và sự lâu-mau, đó chính là "tốc độ" (hay còn gọi là "vận tốc"). Tốc độ là mức độ di động nhanh-chậm của vật thể trong hiện thực. Giả sử một con  ngựa phi di dời đạt khoảng cách s (theo kinh nghiệm!) mất t thời gian, thì tốc độ của nó là v = s/t. Thế còn mối quan hệ giữa thời gian và thời gian? 
Đọc sử cổ đại Trung Quốc từ ông Bàn Cổ đến Đông Chu, chậm lắm, chúng ta mất hai tiếng đồng hồ. Điều đó có nghĩa là chúng ta đã đi qua ngót nghét 4000 năm trong hai tiếng, vậy vận tốc đi trong thời gian của chúng ta là 2000 năm trong một giờ. Đi như thế đâu thể gọi là lê lết được?
Cần phải đính chính lại thế này: Từ thế kỷ XXI, chúng ta “vụt” đến thời Bàn Cổ, rồi “phi nước đại” đến đây và trước mắt chúng ta là toàn cảnh sinh động của thời Xuân Thu - Chiến Quốc, thời đã làm xao xuyến biết bao nhiêu tâm hồn con người hậu thế về nhiều mặt của nó.
Và chúng ta “thấy”:
Đầu nhà Chu, chư hầu lớn nhỏ có cả ngàn. Các chư hầu thôn tính lẫn nhau, rốt cuộc còn khoảng một trăm. Nhưng đến đầu Xuân Thu, chỉ còn các nước sau là mạnh: Tề, Sở, Tấn, Tần, Lỗ, Tống.
Sau khi Bình Vương dời đô sang Lạc Ấp không lâu, trong cung đình đã xảy ra việc cha con tranh nhau ngôi vua, làm nhà Chu vốn suy yếu lại ngày càng suy yếu. Nhiều nước chư hầu không chịu triều cống cho vua Chu nữa. Không những thế, một số chư hầu còn lấn chiếm đất đai mà nhà vua không làm gì được.
Tuy về danh nghĩa vẫn là vua chung của các nước chư hầu, nhưng do suy yếu nhiều cả về chính trị lẫn kinh tế, nên thực tế là bất lực, không điều khiển nổi ai cả.
Nhà Chu suy vi nhưng các chư hầu dù không còn tuân lệnh vua nhưng cũng không dám dẹp bỏ (sợ thất thố về chính trị) mà tìm cách mượn danh Thiên Tử để lên làm bá chủ các chư hầu. Có năm chư hầu kế tiếp nhau làm minh chủ, gọi là Ngũ Bá: Tề Hoàn Công (685 TCN - 643 TCN), Tống Tương Công (650 TCN - 637 TCN), Tần Mục Công (659 TCN - 621 TCN), Tấn Văn Công (636 TCN – 628 TCN), Sở Trang Vương (613 TCN - 591 TCN).
Trước khi Ngũ Bá nổi lên, đã có sự lấn át thiên tử của Trịnh Trang Công (743-701 TCN). Tuy nhiên Trịnh Trang công chỉ đóng vai trò khanh sĩ nhà Chu và ra mặt chống đối thiên tử, chưa thực hiện vai trò "anh cả" các chư hầu.
Sau khi Trịnh Trang công mất, nước Trịnh suy yếu vì nội loạn. Hơn 10 năm sau Tề Hoàn Công (685-643 TCN) được sự giúp đỡ của Quản Trọng bắt đầu gây dựng nghiệp bá. Nước Tề ở miền Sơn Đông ngày nay, thời đó đã chiếm được hết bán đảo Sơn Đông, đất đai rất rộng, có núi, có biển, có nhiều tài nguyên. Nước Tề nhờ chính sách của Quản Trọng, tu chỉnh võ bị, khai mỏ đúc tiền, lấy nước biển làm muối, nhờ thương mại mà giàu mạnh. Với khẩu hiệu “Tôn vua Trừ Di” (“Man”, “Di” là các tộc luôn quấy rối, đe dọa từ phía nam và phía đông), Tề ngăn chặn được sự xâm lấn, quấy phá của người Nhung Địch. Năm 656 TCN, Tề cùng một số nước khác đem quân tấn công nước Sở vì nước này không chịu triều cống cho nhà Chu. Nước Sở cầu hòa. Tề Hoàn Công họp hội nghị chư hầu và được công nhận làm bá chủ miền hạ lưu Hoàng Hà.
Trên mạng Internet có bài viết: "Quản Trọng – Vị triết gia và nhà lập pháp xuất sắc thời cổ đại" của An Nhiên – Hàn Mai, Theo Epoch times, nội dung như sau: 

"Quản Trọng, tên hiệu là Di Ngô, là một chính trị gia và nhà chiến lược xuất sắc nước Tề, thời Xuân Thu trong lịch sử Trung Hoa. Dưới sự phò tá của Quản Trọng, nước Tề trở thành quốc gia hùng mạnh nhất thời bấy giờ.
Quản Trọng, Tể tướng của Tề Hoàn Công, đã đề xuất nhiều cải cách để củng cố quyền lực và uy danh của nước Tề.

Phụ thân mất sớm, Quản Trọng sống cùng mẫu thân trong cảnh nghèo nàn. Ông sớm trở thành bằng hữu của Bao Thúc Nha.
Nhận ra tài năng của Quản Trọng, lại thương cảm gia cảnh bần hàn, Bao luôn chăm lo cho Quản Trọng và một mực cung kính thi ân. Thậm chí, hai người bạn từng cùng nhau san sẻ việc kinh doanh, rồi sau cả hai đều tham gia vào quan trường và trở thành sư gia cho hai Thái tử nước Tề.
Quản Trọng dạy Thái tử Củ, trong khi Bao Thúc Nha là thầy Thái tử Tiểu Bạch. Trong thời nước Tề loạn lạc, hai quân sư cùng đưa Thái tử sang các nước láng giềng lánh nạn.
Năm 686 TCN, Tề Tương Công đương nắm quyền, đã bị sát hại cùng vị Tể tướng của mình. Quản Trọng tin rằng Thái tử Củ có quyền kế vị vì lớn tuổi hơn, tuy nhiên Bao Thúc Nha cũng có dự tính riêng. Cả hai vội vã đưa Thái tử về nước Tề.
Thái tử Tiểu Bạch nhanh chân hơn Quản Trọng và Thái tử Củ, nên về đến nước Tề trước và lên ngôi, trở thành Tề Hoàn Công.
Tề Hoàn Công lập tức phong Bao Thúc Nha làm Tể tướng. Tuy nhiên, Bao Thúc Nha đã cật lực tiến cử tài năng của bạn mình. Cuối cùng Tề Hoàn Công chấp thuận và phong Quản Trọng làm Tể tướng nước Tề năm 685 TCN.
Tình bạn của Quản Trọng và Bao thúc Nha sau này đã trở thành một giai thoại nổi tiếng.

Chẳng bao lâu sau khi được bổ nhiệm, Quản bắt đầu hiện đại hóa nước Tề với nhiều cải cách, và các chính sách của ông sau này đã giúp Tề Hoàn Công trở thành vị vua chư hầu xưng bá đầu tiên thời Xuân Thu.

Quản tập trung quyền lực nhà nước bằng cách chia đất nước thành nhiều làng, mỗi làng tập trung vào một lĩnh vực thương mại riêng. Thay vì dựa vào giai cấp quý tộc để thu thuế như truyền thống trước kia, ông áp dụng thuế má trực tiếp tới mỗi đơn vị làng xã.

Quản chia dân số thành bốn nhóm, quan chức, nông dân, thợ thủ công và thương nhân. Sau đó, ông đã phát triển phương pháp chọn người tài hiệu quả hơn, thông qua các chương trình đào tạo mới, theo đó sinh ra một thế hệ quan chức chuyên nghiệp.

Thay vì phụ thuộc vào các nhóm nhỏ binh sĩ được các gia đình quý tộc khác nhau đào tạo, ông tuyển quân trực tiếp từ làng xã. Quản có công chuyển đổi hệ thống cai trị của nước Tề từ quý tộc tập quyền sang quan viên chuyên trách.

Những cải cách này là khởi điểm của thuyết pháp gia, trong đó chế độ quân chủ kiểm soát chặt chẽ tất cả các hoạt động, với một hệ thống thống nhất thưởng-phạt đối với tất cả mọi người. Phán quyết được ban ra theo pháp luật.
Tuy nhiên, Quản không phải là nhà lập pháp với tầm nhìn hạn hẹp. Bên cạnh chủ trương nhà nước quản lý và kiểm soát, ông cũng tin tưởng vào việc tập trung phát triển các phẩm chất đạo đức và truyền thống tín ngưỡng, vốn đã trở thành hệ tư tưởng chính thống của người dân Trung Hoa.

Quản Trọng cũng cho rằng phúc lợi của dân là nền tảng nước nhà. Người dân no đủ sẽ dễ dàng tiếp thụ sự chính trực và lễ nghĩa, theo đó mới dễ dàng cai quản. Ông đưa ra một biểu thuế thống nhất và sử dụng nguồn lực nhà nước để khuyến khích sản xuất muối và sắt.

Quản chủ trương rằng, nhà vua cần quan tâm đến sự phát đạt của tất cả tầng lớp xã hội, đảm bảo người dân ai cũng no cơm ấm áo, sẵn lòng phụng sự ngôi rồng. Quản tin rằng bốn cột trụ của một nước là lễ nghi, công bằng, chính trực và lương tâm. Thân làm lãnh đạo phải tuân theo nếp sống này và trở thành một tấm gương đạo đức cho dân.

Trong suốt 40 năm làm Tể tướng, Quản Trọng thực hiện một loạt các biện pháp cải cách trong ngoài. Với sự phò tá của ông, Tề đã trở nên thịnh vượng, với tầm ảnh hưởng chính trị mạnh mẽ.

Quản Trọng được xem là tác giả của Quản Tử, cuốn sách sớm nhất đàm luận về luật pháp và kinh tế Trung Hoa cổ đại bao gồm chính trị, thương mại và triết học.

Riêng về kinh tế, cuốn sách đề cập đến những khía cạnh như tài chính, ngân hàng, thương mại, thuế cùng các lĩnh vực khác, tác động mạnh mẽ đến sự phát triển kinh tế Trung Hoa cổ đại."
  • Quản Trọng trong sách "Quản tử", có nói:
"Nhứt niên chi kế mạc như thụ cốc
Thập niên chi kế mạc như thụ mộc
Chung thân chi kế mạc như thụ nhơn
Nhứt thu nhứt hoạch giả, cốc dã
Nhứt thu thập hoạch giả, mộc dã
Nhứt thu bách hoạch giả, nhơn dã"
Tạm dịch:

"Kế một năm, chi bằng trồng lúa
Kế 10 năm, chi bằng trồng cây
Kế trọn đời, chi bằng trồng người.
Trồng một, gặt một, ấy là lúa
Trồng một, gặt mười, ấy là cây
Trồng một, gặt trăm, ấy là người"
Tấn cũng là một nước lớn. Năm 636 TCN, công tử Trùng Nhĩ, sau khi lưu lạc ở nước ngoài 19 năm, được về làm vua, hiệu là Tấn Văn Công. Từ đó, tranh chấp nội bộ chấm dứt, nước Tấn trở nên hùng mạnh. Năm 632 TCN, Văn Công thống lĩnh liên quân Tấn, Tần, Tề, Tống đánh bại liên quân Sở, Trần, Thái ở Thành Bốc. Tiếng tăm nước Tấn vì thế mà lừng lẫy, được công nhận là bá chủ.
Sở ở lưu vực sông Dương Tử (Trường Giang), vốn là một nước nhỏ, được thành lập từ đời Thương. Nhờ khuất phục được nhiều bộ tộc xung quanh và thôn tính được một số nước chư hầu nhỏ của nhà Chu mà Sở trở nên lớn mạnh. Đến đầu thời Xuân Thu, vua Sở xưng vương, không thừa nhận địa vị Thiên Tử của vua Chu. Đến thời Trang Vương (691 – 613 TCN), thế nước Sở càng mạnh. Năm 597 TCN, Sở đánh Trịnh. Tấn đem quân đến cứu cũng bị đánh bại nốt. Nước Sở lên ngôi bá chủ.
Nước Tần ở vùng Tây bắc thành lập tương đối muộn. Khi Bình Vương dời đô sang Lạc Ấp, nhờ có công hộ tống vua mà Tần mới được nhà Chu phong làm chư hầu. Đến đời Tần Mục Công (659 – 621 TCN), Tần nhiều lần đánh nhau với Tấn; tiếp đó bành trướng sang phía tây, tiêu diệt được nhiều nước chư hầu nhỏ của nhà Chu, chiếm được đất đai của người Nhung Địch, trở thành nước lớn. 
Tấn và Sở tranh hùng nhau lâu dài nhất để giành ngôi bá chủ ở vùng Hoàng Hà. Năm 546 TCN, hai nước giảng hòa và đều được công nhận là bá chủ. Các nước chư hầu khác đều phải cống nạp cho cả hai nước.
Trong Ngũ Bá, Tống Văn Công chỉ mới có mưu đồ chứ chưa bao giờ thực sự là bá chủ.
Cuối thời Xuân Thu, Ngô ở vùng Giang Tô và Việt ở vùng Chiết Giang là hai nước phát triển. Trong thời gian Tấn, Sở tranh hùng, Ngô là đồng minh của Tấn, Việt là đồng minh của Sở. Vì vậy chiến tranh giữa Sở và Ngô xảy ra nhiều lần. Năm 506 TCN, Ngô đem quân đánh Sở, chiếm được Kinh đô. Sở phải nhờ viện binh của Tần mới đánh đuổi được.
Nhân khi quân Ngô kéo đi đánh Sở, vua Việt là Câu Tiễn tấn công nước Ngô. Năm 496 TCN, Ngô, Việt đánh nhau, vua Ngô là Hạp Lư bị thương rồi chết. Năm 494 TCN, con Hạp Lư là Phù Sai đánh bại quân Việt. Câu Tiễn đầu hàng, chịu mọi nhục nhã để toàn mạng. Sau đó Câu Tiễn nằm gai nếm mật. Nhờ Phạm Lãi, một người đa mưu phò giúp trong mười năm, Câu Tiễn lại mạnh lên, dùng nàng Tây Thi để mê hoặc Phù Sai.
Sau khi đánh bại nước Việt, Phù Sai đem toàn bộ lực lượng lên phía bắc để tranh quyền bá chủ. Sau hai lần đánh bại quân Tề, năm 482 TCN, Phù Sai họp các chư hầu, đòi làm bá chủ. Nhân cơ hội ấy, Câu Tiễn tấn công kinh đô nước Ngô. Phù Sai vội kéo quân về xin hòa nhưng đến năm 473 TCN thì bị nước Việt tiêu diệt. Nước Việt trở thành bá chủ, thanh thế vang lừng một thời gian.
Thời Xuân Thu kết thúc, thời Chiến Quốc bắt đầu với mức độ chiến tranh ngày càng khốc liệt. Bầu trời vốn mù mịt khói lửa càng thêm mù mịt khói lửa. Cuộc “đấm bốc” nảy lửa vừa “tay bo” vừa “hội đồng” để giành “đai vô địch” thời kỳ này là của bảy “võ sĩ” có máu mặt gồm: Tề, Hán, Ngụy, Triệu, Tần, Sở, Yên.
Trong số đó, ba nước Triệu, Ngụy, Hán được thành lập trên cơ sở phân chia nước Tấn và được nhà Chu công nhận làm chư hầu năm 403 TCN. Nước Việt đầu thời Chiến quốc là một nước lớn, nhưng đến năm 306 TCN, vì có nội loạn nên bị Sở tiêu diệt. Ngoài ra lúc bấy giờ còn có một số nước nhỏ như Lỗ, Vệ, Tống, Trịnh, Tiết…
Đến thế kỷ IV TCN, sự xung đột nhằm thôn tính lẫn nhau giữa bảy nước nói trên bùng lên ngày một khốc liệt.
Ban đầu, Ngụy là nước mạnh nhất. Với ý đồ muốn thống nhất lại nước Tấn cũ, năm 354 TCN, Ngụy tấn công nước Triệu ở phía Bắc, năm 342 TCN, lại tấn công nước Hán ở phía nam, nhưng cả hai cuộc chiến tranh đó đều bị viện binh Tề đánh bại. Ít lâu sau, Ngụy bị Tần và Sở lần lượt tấn công ở phía tây và phía nam, bị hai nước này chiếm mất nhiều đất đai, nên Ngụy suy yếu.
Ở phía đông, cuộc xung đột diễn ra chủ yếu giữa Tề và Yên. Tiếp đó, Tề liên minh với Sở để đánh Tần, Ngụy, Hán, rồi lại liên minh với Ngụy, Hán để đánh Tần, Sở. Trước sự lớn mạnh của Tề, năm 284 TCN, nước Yên liên minh với Tần, Ngụy, Triệu, Hán để đánh Tề. Phần lớn đất đai của Tề bị Yên chiếm làm quận, huyện. Năm năm sau, tuy Tề lấy lại được đất đai nhưng thế lực vẫn ngày một yếu.
Tần thời đầu Chiến quốc còn là một nước lạc hậu. Vua Tần là Hiếu Công tìm kẻ hiền tài, may gặp Thương Ưởng. Thương Ưởng là công tử dòng thứ nước Vệ, ông tên Ưởng, họ Công Tôn, tổ phụ ông vốn là họ Cơ. Ông còn gọi là Vệ Ưởng hay Công Tôn Ưởng, là nhà chính trị gia, pháp gia nổi tiếng, thừa tướng nước Tần của thời Chiến Quốc trong lịch sử Trung Quốc.
Thương Ưởng lúc nhỏ rất thích học thành danh (?), thờ Ngụy tướng là Công Thúc Tỏa. Công Thúc Tỏa biết ông giỏi, nhưng chưa có dịp tiến cử…
Gặp lúc Thúc Tỏa bệnh, Ngụy Huệ Vương thân đến thăm, hỏi:
- Công Thúc bệnh… Nếu không có gì kiêng kỵ, xin hỏi, sắp tới phải tế xã tắc như thế nào?
Công Thúc Tỏa thưa:
- Đứa thứ tử của tôi là Công Tôn Ưởng, tuổi tuy còn nhỏ nhưng có kỳ tài, xin vua hãy chú ý đến những lời nói của nó…
Huệ Vương lặng thinh không nói gì… lại sắp sửa ra đi.
Bảo người trong nhà tránh mặt, Thúc Tỏa thưa:
- Nếu vua không nghe lời khuyên nên dùng Thương Ưởng, vậy thì phải giết ngay, không cho nó rời khỏi nơi này!
Huệ Vương đồng ý rồi ra về.
Công Thúc Tỏa gọi Thương Ưởng vào từ tạ:
- Hôm nay, vua có hỏi ta, ai có thể làm tướng quốc, ta tiến cử ngươi… nhưng thái độ của vua là không dùng. Ý riêng của ta là lo cho vua trước, mà bầy tôi thì sau, vì thế mới bảo vua “Nếu không dùng Ưởng thì nên giết nó…”. Vua đã đồng ý, vậy ngươi phải mau trốn đi.
Thương Ưởng đáp:
- Nếu vua không nghe lời tướng công để dùng tôi, thì đâu có thể nghe lời tướng công mà giết tôi?
Thương Ưởng liền không đi.
Huệ Vương ra về, bảo kẻ tả hữu:
- Công Thúc bệnh nhiều, thật đáng buồn, nhưng lại muốn quả nhân dùng Công Tôn Ưởng để trị nước, thật là trái lễ.
Sau này khi bị Thương Ưởng (đã là tướng nước Tần) đại phá quân của công tử Cung (tướng nước Ngụy, bị bắt làm tù binh) và nước Ngụy mất đất phía tây cho Tần. Huệ Vương đã than:
- Ta hối hận đã không nghe lời Công Thúc Tỏa!
Công Thúc Tỏa chết, Thương Ưởng liền nhờ sủng thần của Hiếu Công là Cảnh Giám xin đến ra mắt.
Qua bốn lần gặp, Hiếu Công mới chịu Thương Ưởng. Sau này, Thương Ưởng có cho Cảnh Giám biết:
- Ban đầu tôi nói với nhà vua về Đế đạo, nhưng vua không nhận được. Kế đó tôi nói với vua về Vương đạo, mà không thể vào được. Sau đó tôi nói về Bá đạo, vua khen hay mà không dùng, tôi bèn nói cái đạo làm cho nước mạnh, vua rất thích.
Thương Ưởng nói về thuật cai trị và đề ra sách lược “Biến pháp” cho Hiếu Công nghe. Hiếu Công liền triệu tập quần thần bàn bạc về chuyện ấy.
Cam Long và Đỗ Chí đều phản đối biến pháp.
Thương Ưởng nói:
- Cai trị đời không phải chỉ có một đạo; làm lợi cho nước không nhất thiết phải theo xưa, cho nên vua Thang, vua Vũ không theo phép xưa mà làm nên nghiệp Vương, nhà Hạ, nhà Ân không đổi Lễ mà mất; thế nên làm trái với đạo xưa chưa chắc là đã sai, và theo Lễ cũ, cũng chưa chắc là đầy đủ…
Thương Ưởng là vị tướng quốc tài năng, đại biểu xuất sắc của tư tướng Pháp gia. Những cải cách của ông đã làm cho nước Tần trở nên lớn mạnh, mở đường cho việc thống nhất Trung Quốc của Tần Thủy Hoàng sau này. Tuy nhiên hình pháp của ông quá khắc nghiệt, ít dùng ân đức, nên không được lòng bọn quý tộc, dẫn tới việc chết thảm. Sử kí có dòng nhận xét về ông như sau:
-Thương Quân là người thiên tư khắc bạc. Xét việc ông ta muốn nói thuật đế vương với Hiếu Công, đem lý thuyết viển vông ra nói không phải là thực tâm của ông ta. Ông ta nhờ người tôi tớ vua yêu mà được tiến cử, rồi khi được dùng, lại trị công tử Kiền, lừa tướng Ngụy là Ngang, không nghe theo lời Triệu Lương, như thế cũng đủ thấy Thương Quân ít làm ân đức. Tôi thường đọc sách nói về việc mở mang bờ cõi, cày ruộng, đánh trận của Thương Quân, thấy giống như việc ông làm. Cuối cùng ông ta mang cái tiếng xấu ở Tần cũng là đáng lắm!
Thương Ưởng làm tướng quốc nước Tần mười năm, lại ban ra hình pháp khắc nghiệt nên bị nhiều quý tộc oán trách. Sau đó có Mạnh Lan Cao tiến cử Triệu Lương với ông.
Thương Ưởng hỏi Triệu Lương so sánh mình với Bách Lý Hề , Triệu Lương bảo thẳng thừng nói là Thương Ưởng không thể so sánh được với Bách Lý Hề, và khuyên ông trả lại mười lăm ấp, lui về làm ruộng, tiến cử kẻ sĩ mới có thể thoát nạn. Nếu không thì sau này khi vua Tần mất thì người nước Tần nhất định sẽ giết ông"

Thương Ưởng không nghe theo.
Năm 337 TCN, Tần Hiếu công qua đời. Thế tử Tứ lên nối ngôi, tức Tần Huệ Văn vương  Thái phó Công tử Kiền vốn giận Thương Ưởng cắt mũi mình, bèn tâu với vua là Thương Ưởng muốn làm phản. Thương Ưởng bỏ trốn đến cửa quan muốn vào ở nhà trọ. Chủ nhà trọ nói theo phép của Thương Quân phải có giấy chứng nhận mới cho vào ở. Thương Ưởng bỏ đi, than về cái tệ hại của pháp lệnh của mình đặt ra. Sau đó ông bỏ sang nước Ngụy. Người nước Ngụy giận ông chiếm Hà Tây, đuổi về nước Tần. Về nước, Thương Ưởng tập hợp binh ở đất Thương Ư tiến về hướng bắc đánh đất Trịnh. Vua Tần đem binh đánh Thương Quân, bắt được ông, đem đi giết ở Dẫn Trì thuộc đất Trịnh. Tần Huệ Văn vương lấy xe xé xác ông để thị uy, sau đó lại giết cả nhà của Thương Ưởng.
Trước tác của ông để lại có Thương Quân thư.
Hiếu Công quyết định thực hiện biến pháp của Thương Ưởng. Năm 359 TCN, Hiếu Công bắt đầu ban hành các luật cải cách và năm 350 TCN, tiếp tục đề ra một số chủ trương mới nữa.
Sau một thời gian tương đối ngắn, nước Tần trở nên hùng mạnh vượt bậc.
Sự hùng mạnh ấy làm cho sáu nước phía đông lo sợ. Vì vậy năm 333 TCN, theo sáng kiến của Tô Tần (lúc này là tướng quốc nước Yên) một liên minh gồm Yên, Tề, Triệu, Ngụy, Hán, Sở gọi là “Hợp tung” được hình thành. Nhưng giữa các nước này vốn có nhiều mâu thuẫn nên sự liên minh về quân sự này chỉ tồn tại ba năm thì vỡ. Sau đó sáu nước còn tổ chức hợp tung mấy lần nữa, nhưng cũng không bền chặt.
Để phá hợp tung; gây chia rẽ nhằm dễ bề thôn tính, năm 328 TCN, tướng quốc của Tần là Trương Nghi đề xướng kế sách “liên hoành”. Dưới chiêu bài ấy, và thực hiện chiến thuật “viễn giao cận công” (Hòa nước ở xa, đánh nước ở gần), Tần liên tiếp tấn công các nước láng giềng Triệu, Ngụy, Hán, Sở và nhiều lần thu được chiến quả to lớn; trở thành một lực lượng vô địch. Năm 249 TCN, Tần xóa sổ nhà Chu, rồi liên tiếp diệt Hán (năm 230 TCN), Triệu (năm 228 TCN), Ngụy (năm 225 TCN), Sở (năm 223 TCN), Yên (năm 222 TCN), Tề (năm 221 TCN).
Thời Chiến quốc kết thúc, Trung Quốc hoàn toàn thống nhất.
Tần Vương tên là Doanh Chính, sau khi thống nhất thiên hạ, xưng là Hoàng Đế, nên sử quen gọi là Tần Thủy Hoàng.
Tần Thủy Hoàng là ông vua đầu tiên của Trung Quốc thống nhất. Ông cai trị theo sách của Hàn Phi, “mọi việc đều dùng pháp luật để quyết định, khắc bạc, không dùng nhân đức, ân nghĩa” (Sử ký). Là một ông vua tàn bạo nên pháp luật nhà Tần vô cùng khắc nghiệt.
Tương tự như Lệ Vương xưa kia, thẳng tay trừng trị những ai dám bàn tán, kêu ca mình, Tần Thủy Hoàng cấm mọi người phê phán đường lối thống trị của mình, thẳng tay đàn áp các nhà Nho, “nếu hai người dám bàn với nhau về Kinh Thi, Kinh Thư thì chém giữa chợ, lấy đời xưa để chê đời nay thì giết cả họ” (Sử ký); ra lệnh tịch thu tất cả các sách (trừ sách sử nước Tần, sách thuốc, sách bói và sách trồng cây) đem đốt đi.
Hành động đốt sách ấy đã gây bao nhiêu tiếc nuối cho hậu thế, cho các nhà nghiên cứu lịch sử, tư tưởng văn hóa sau này.
Về Tần Thủy Hoàng, Wikipedia trên mạng Internet có chép:
"Tần Thủy Hoàng (tháng 1 hoặc tháng 12, 259 TCN – 10 tháng 8, 210 TCN)  tên thật là Doanh Chính, còn có tên khác là Triệu Chính, là vua của nước Tần ở Trung Quốc từ năm 246 TCN đến 221 TCN trong thời kỳ Chiến Quốc  và trở thành vị Hoàng đế sáng lập ra nhà Tần, đồng thời là hoàng đế đầu tiên của Trung Quốc thống nhất vào năm 221 trước Công nguyên  sau khi tiêu diệt các nước chư hầu khác. Ông cai trị cho đến khi qua đời vào năm 210 trước Công nguyên ở tuổi 49
Tự gọi mình là Thủy Hoàng sau khi Trung Nguyên (Trung Quốc ngày nay) được thống nhất, Tần Thủy Hoàng là một nhân vật quan trọng trong lịch sử Trung Quốc, mở ra gần hai thiên niên kỷ của hoàng gia cai trị Trung Quốc. Sau khi thống nhất, ông và thừa tướng Lý Tư đã thông qua một loạt các cải cách lớn về kinh tế và chính trị . Ông đã tiến hành nhiều dự án khổng lồ, bao gồm việc xây dựng và hợp nhất các bộ phận của Vạn Lý Trường Thành, lăng mộ kích thước thành phố nổi tiếng được bảo vệ bởi đội quân đất nung có kích thước thật, và một hệ thống đường quốc gia lớn, với cái giá của rất nhiều mạng người. Để đảm bảo sự ổn định, ông đặt ra ngoài vòng pháp luật và đốt cháy nhiều cuốn sách và chôn sống một số học giả.
Tần Thủy Hoàng là con trai cả của Trang Tương Vương nước Tần   mẹ là Triệu Cơ, vốn là một người thiếp của Lã Bất Vi - một thương nhân và sau trở thành Tướng quốc nước Tần. Ông sinh ra vào tháng giêng năm 259 TCN  , ở đô thành Hàm Đan của nước Triệu. Vì lý do nơi sinh này nên có ý kiến cho rằng lúc nhỏ, ông họ Triệu tên Chính . Tổ tiên của ông được cho là đến từ vùng Cam Túc 
Sử sách, mà cụ thể là sử ký Tư Mã Thiên ghi nơi sinh và cha mẹ ông  nhưng chính Tư Mã Thiên cũng cho biết, có thuyết nói rằng Tần Thủy Hoàng là con của Lã Bất Vi .
Năm 265 TCN, vua Tần là Tần Chiêu Vương lập con trai thứ là An Quốc quân Doanh Trụ làm Thái tử. Công tử Tử Sở là con trai giữa của Thái tử với một người vợ thứ, Hạ Cơ. Hạ Cơ không được An Quốc quân yêu mến, nên Tử Sở phải đi làm con tin của Tần ở nước Triệu để đảm bảo cho một hiệp ước đình chiến giữa hai quốc gia. Tần nhiều lần đem quân đánh Triệu, làm Triệu thua to trong trận Trường Bình đẫm máu, nên nước Triệu càng bạc đãi Tử Sở. Sau ông có quen với Lã Bất Vi, một thương gia giàu có. Bằng mưu mô của mình, Lã Bất Vi đã dâng Triệu Cơ, vũ nữ và người thiếp của Lã đang mang thai   cho Tử Sở, lại giúp Tử Sở về Tần làm Thái tử rồi lên ngôi vua, thành Trang Tương Vương nước Tần. Cái thai trong bụng được Triệu Cơ giấu kín, để đủ tháng sinh ra, đặt tên là Chính, tức Tần Thủy Hoàng sau này.
Tuy nhiên, theo ý kiến của một số sử gia Trung Quốc hiện đại gần đây thì Doanh Chính là con của Tử Sở chứ không phải là con của Lã Bất Vi. Thuyết này lập luận tập trung vào 2 điểm:

  • Một bộ phận lớn triều thần nước Tần vẫn tin vào việc Doanh Chính là con Tử Sở và vẫn hết lòng ủng hộ Doanh Chính trước sau như một. Do đó, chính quyền của Doanh Chính vẫn đứng vững trước cuộc binh biến do Phàn Ô Kỳ phát động nhằm dựng Thành Kiệu lên ngôi. Đại tướng Vương Tiễn đi dẹp cuộc binh biến này trả lời Phàn Ô Kỳ: "Thái hậu có mang mười tháng mới sinh, vậy nay tức là con tiên vương đẻ ra..." Ngay trong thời đó, những người theo thuyết gán Lã Bất Vi là cha Doanh Chính cũng không thể lý giải một cách khoa học vì sao Triệu Cơ lại mang thai Doanh Chính tới 12 tháng mà lập luận theo cách "thiên mệnh" rằng: "Có thể tại lòng trời muốn sinh ra một vị chân mạng thiên tử nên mới để người mẹ hoài thai lâu như vậy...". Các nhà sử học lý giải rằng: Thực tế, Doanh Chính vẫn chỉ nằm trong bụng mẹ 10 tháng như những đứa trẻ khác kể từ khi Vu Cơ về với Tử Sở. Do cộng thêm thời gian Vu Cơ ở với Bất Vi, thời gian mới là 12 tháng.
  • Thuyết này là sản phẩm của sĩ phu các nước chư hầu Sơn Đông bị Tần Thủy Hoàng tiêu diệt. Họ căm hờn vì bị mất nước, nên nhân việc mẹ vua Tần từng là thiếp của Bất Vi để đặt ra chuyện này nhằm hạ thấp kẻ thù không đội trời chung của mình.
Hai năm ngay trước khi Tần Thủy Hoàng ra đời (262 TCN - 260 TCN), nước Tần và nước Triệu đánh nhau đẫm máu trong trận chiến Trường Bình, kết cục 450.000 quân Triệu đều bị thảm sát, Triệu đại bại. Vì vậy, Triệu đối xử với công tử Tử Sở hết sức khắc nghiệt, "xe ngựa, vật dụng dùng chẳng được sẵn, ở cảnh cùng khốn có vẻ bực bội ", dù ông đã nổi danh khắp chư hầu với tư cách là người kế thừa vương vị khi cha ông lên ngôi. Năm 257 TCN, Tần Chiêu Vương sai tướng Vương Ý vây đô thành Hàm Đan, Triệu cùng quẫn muốn giết Tử Sở, ông cùng Lã Bất Vi chạy thoát về với quân Tần, nhưng Triệu Cơ cùng Doanh Chính không kịp trốn theo, phải ở lại Triệu. Triệu muốn giết cả hai người nhưng Triệu Cơ là con nhà tai mắt ở Triệu, vì thế hai mẹ con đều sống. Họ lẩn trốn trong dân gian suốt 7 năm trời đằng đẵng (257 TCN - 250 TCN)
Năm 250 TCN, Tần Chiêu Tương vương chết, An Quốc quân lên ngôi, tức là Tần Hiếu Văn Vương, lập Tử Sở làm Thái tử, nước Triệu bèn đưa Triệu Cơ và Doanh Chính về Tần. Hiếu Văn Vương làm vua không lâu thì chết, Tử Sở kế thừa vương vị, tức là Tần Trang Tương Vương, phong Lã Bất Vi chức Thừa tướng, tước Văn Tín hầu. Năm 247 TCN, Trang Tương Vương mất sau ba năm trị vì, ngôi vua thuộc về Doanh Chính, khi ấy mới 13 tuổi.
Tần Vương lên ngôi, tôn mẹ là Triệu Cơ làm Thái hậu, phong Thừa tướng Lã Bất Vi làm Tướng quốc, gọi là "trọng phụ", coi như người cha thứ hai của mình
Tướng quốc vốn là chồng cũ của thái hậu, thường ra vào cung cấm tư thông với bà ta. Tần Vương còn nhỏ nên không hay biết hoặc giả vờ không hay biết. Sau đó thì Lã Bất Vi cảm thấy lo sợ nhà vua nhỏ tuổi biết chuyện nên ngầm sai người tìm kiếm một nam nhân cường tráng, dương vật lớn là Lao Ái. Theo Sử ký, ông trước tiên dùng Lao Ái làm gia nhân rồi dâng Ái vào cung giả làm hoạn quan bằng cách nhổ râu để "hầu hạ" thái hậu. Sau một thời gian thái hậu sợ Tần vương biết chuyện bèn dời Hàm Dương về cựu đô là Ung Thành sống cùng Lao Ái và sinh được 2 con trai 
Nhờ thái hậu, Lao Ái được phong làm Trường Tín hầu, cũng mưu xây dựng thế lực, mở phủ nuôi thực khách như Lã Bất Vi. Lao Ái mưu đồ cho con mình và thái hậu nối ngôi khi Tần vương Chính qua đời. Nhưng trong một bữa ăn tối do say rượu nên Lao Ái bắt đầu khoác lác về việc là cha dượng của vị vua trẻ 
Năm 238 trước Công nguyên, Doanh Chính đi du lịch đến Ung Thành. Lao Ái chiếm con dấu của thái hậu và huy động một đội quân trong một nỗ lực để bắt đầu một cuộc đảo chính và nổi loạn  . Hơn 1 triệu đồng tiền đồng được đặt trên đầu của Lao Ái nếu bị bắt sống hoặc nửa triệu nếu chết . Những người ủng hộ Lao Ái bị bắt và bị chặt đầu còn Lao Ái thì bị trói và xé xác bởi 5 cỗ xe ngựa, trong khi toàn bộ gia đình của ông ta thì bị giết cả 3 họ. Hai người con riêng của thái hậu đều bị giết và bà bị giam lỏng cho đến khi chết nhiều năm sau đó. Vụ việc liên quan tới Lã Bất Vi, ông bị cách chức, lưu đày rồi sang năm 235 TCN thì được cho một chén rượu độc để tự tử   Doanh Chính sau đó nắm quyền đầy đủ như vua của nước Tần. Thay thế Lã Bất Vi, Lý Tư trở thành thừa tướng mới.
Khi Tần vương Chính lên ngôi, nước Tần đã rất lớn mạnh, có ưu thế áp đảo so với 6 nước chư hầu còn lại. Đất Tần đã mở mang về phía đông rất rộng, lấy từ các nước lân cận như Hàn, Triệu, Ngụy, Sở và nhà Chu (bị diệt năm 249 TCN). Các nước chư hầu Sơn Đông luôn bị đẩy vào thế chống đỡ, nhiều lần tổ chức liên minh chống Tần nhưng chỉ đạt được một số thắng lợi tạm thời, không ngăn cản được quân Tần đông tiến. Tần vương tiếp tục duy trì chính sách "thân xa đánh gần", giao hảo với nước Tề, uy hiếp lấn chiếm Tam Tấn và Sở. Nước Tề giữ quan hệ với Tần nên không ra quân cứu các chư hầu khác.
Tần vương Chính bên trong dùng Úy Liêu, Lý Tư bày mưu kế, bên ngoài dùng cha con Vương Tiễn, Vương Bí và Mông Ngao, Mông Vũ làm tướng đánh dẹp các nước.
Năm 230 TCN, Tần vương Chính tung ra các chiến dịch cuối cùng của thời kỳ Chiến Quốc nhằm chinh phục các vương quốc độc lập còn lại. Nước Hàn trước đó bị Tần đánh bại nhiều lần, đã rất nhỏ yếu không còn khả năng kháng cự nên là nước đầu tiên bị hạ. Hàn vương An sợ hãi, vội thu hết sổ sách, địa đồ trong nước sang đầu hàng nộp đất. Tần vương chính thức thôn tính nước Hàn.
Sau khi diệt Hàn, Tần vương Chính điều quân đánh Triệu. Tướng Triệu là Lý Mục đẩy lui được quân Tần. Tần vương bèn dùng kế ly gián, sai người đút lót cho gian thần nước Triệu là Quách Khai, xui Khai gièm pha Lý Mục. Triệu U Mục vương nghe lời gièm, tin rằng Lý Mục có mưu phản, bèn giết chết Lý Mục. Sau đó quân Tần nhân cơ hội nước Triệu bị động đất liền tấn công để chinh phục nơi Doanh Chính được sinh ra  . Năm 228 TCN, quân Tần phá vỡ kinh thành Hàm Đan, bắt sống Triệu vương Thiên. Anh Thiên là Triệu Gia chạy lên đất Đại phía bắc xưng vương.
Tần vương Chính quay sang đánh Ngụy để hoàn tất chiến thuật diệt Tam Tấn đầu tiên trong 6 nước. Năm 225 TCN, quân Tần hùng mạnh tấn công Đại Lương, tháo nước sông vào thành. Ngụy vương Giả không chống nổi phải ra hàng.
Ngay trong năm 225 TCN, Tần vương Chính sai Lý Tín mang 20 vạn quân đánh Sở. Lý Tín bị tướng Sở là Hạng Yên đánh bại. Tần vương Chính bèn nghe theo lão tướng Vương Tiễn, tổng động viên 60 vạn quân giao cho Vương Tiễn ra mặt trận.
Vương Tiễn đánh Sở trong 2 năm, đánh bại Hạng Yên, bắt sống Sở vương Phụ Sô. Hạng Yên chạy thoát, lập vua Sở mới là Xương Bình quân lên ngôi. Vương Tiễn lại tấn công xuống phía nam, giết chết vua Sở và Hạng Yên, bình định nước Sở. Nước Sở, quốc gia chư hầu lớn lớn nhất và kình địch nhất của nước Tần đến năm 223 TCN bị chinh phục 
Chỉ còn 2 nước Tề phía đông và Yên phía bắc. Năm 222 TCN, Tần vương sai con Vương Tiễn là Vương Bí mang quân tấn công Yên. Yên vương Hỉ sợ hãi bỏ Kế tại Liêu Đông để chạy sang Bình Nhưỡng, rồi lừa bắt giết thái tử Đan, nộp đầu cho nước Tần để tạ tội với Tần vương Chính. Nhưng Tần vương Chính vẫn hạ lệnh tiến quân, phá vỡ thành Bình Nhưỡng, bắt sống Yên vương Hỷ và gia đình hoàng gia.
Quân Tần nhân đó tiến sang đánh đất Đại. Đại vương Gia (anh Triệu vương Thiên) bị bắt bèn tự sát.
Còn lại nước Tề ở phía đông nước Tần mà bây giờ là bán đảo Sơn Đông, vốn không quen việc chiến tranh suốt hơn 40 năm. Năm 221 TCN, Tần vương Chính lấy cớ Tề vương Kiến mang 300.000 quân phòng thủ ở biên giới phía tây là hành động gây hấn, bèn sai Vương Bí mang quân từ nước Yên tiến thẳng xuống phía nam đánh úp kinh thành Lâm Tri. Tề vương Kiến không chống nổi, phải đầu hàng. Cả 6 nước hoàn toàn bị thôn tính.
Lần đầu tiên trong lịch sử, toàn Trung Quốc đã được thống nhất bởi một nhà cai trị mạnh mẽ. Trong cùng năm đó, Doanh Chính tự xưng là "Thủy Hoàng Đế", không còn là một vị vua theo nghĩa cũ và vượt xa những thành tựu của các vị vua nhà Chu cũ  .
Ở miền Nam, các cuộc mở rộng bằng quân sự tiếp tục trong suốt triều đại của ông, với các vùng khác nhau được sáp nhập với tỉnh Quảng Đông và một bộ phận hiện nay của Việt Nam .
Sau khi đã thôn tính các chư hầu, Tần Vương Chính đề nghị các bầy tôi bàn về danh hiệu cho mình. Thừa tướng là Vương Quán, Ngự sử Đại phu Phùng Kiếp, Đình úy Lý Tư cho rằng cơ nghiệp của Tần vương Chính lớn hơn cả Ngũ Đế thời cổ; trong các vua cổ đại thì Thái Hoàng là cao quý nhất nên khuyên ông xưng là Thái Hoàng. Tần vương Chính quyết định bỏ chữ thái, lấy chữ hoàng, thêm chữ đế, của những vị đế thời thượng cổ hiệu gọi là "Hoàng Đế".
Đồng thời, ông phê chuẩn các kiến nghị khác của bầy tôi, từ đó mệnh ban ra gọi là chế, lệnh ban ra gọi là chiếu, thiên tử tự xưng gọi là "trẫm". Ông truy tôn vua cha Tần Trang Tương Vương là Thái thượng hoàng.
Vì là hoàng đế Trung Hoa đầu tiên nên ông xưng hiệu "Thủy Hoàng Đế". Thủy Hoàng có nghĩa là "hoàng đế đầu tiên", và ông muốn con cháu đời sau lấy danh hiệu: Nhị thế, Tam thế... cho đến vạn thế.
Tần Thủy Hoàng cũng theo thuyết Ngũ hành: đất, gỗ, kim loại, lửa và nước. Người ta tin rằng nhà Chu trước đó cai trị bởi sức mạnh của lửa, đại diện bởi màu đỏ. Nhà Tần kế tục, lấy hành thủy (nước) mà cai trị, đại diện là màu đen. Màu đen trở thành màu sắc cho hàng may mặc, cờ, cờ hiệu . Các mối liên quan khác bao gồm phía bắc là hướng hồng y, mùa đông và số sáu 
Mới hoàn thành sự thống nhất Trung Quốc, chưa kịp củng cố ở trong, Thủy Hoàng đã nghĩ đến việc mở mang bờ cõi ra nước ngoài.
Các dân tộc du mục miền bắc gọi chung là Hung Nô vẫn là mối lo từ đời Thương, Chu. họ thường xâm lấn biên giới, có chỗ sống lẫn lộn với người Trung Hoa. Đầu đời Tần họ đã len lỏi vào Hà Nam, Tần Thủy Hoàng vội chặn họ lại, sai Mông Điềm làm chánh tướng cầm quân, cùng với con Vương Bí, cháu Vương Tiễn là Vương Ly làm phó tướng, đưa quân đánh dẹp và trấn thủ biên giới phía bắc.
Trong thời gian hơn một năm, Mông Điềm đã chỉ huy quân Tần đánh lui quân Hung Nô ở phía bắc, giành được thắng lợi. Quân Hung Nô bị đánh đuổi từ Du Trung dọc theo sông Hoàng Hà đi về đông đến Âm Sơn tất cả 31 huyện, xây thành trên sông Hoàng Hà để làm giới hạn. Lại sai Mông Điềm vượt sông Hoàng Hà lấy đất Cao Khuyết, Đào Sơn, Bắc Giả, xây đình và thành lũy ở đấy để đuổi người Nhung và đưa những người bị đày đến đấy để ở và lần đầu những nơi này trở thành huyện.
Mông Điềm đánh bại Hung Nô, trấn thủ Thượng Quận (nay là phía đông nam huyện Du Lâm – Thiểm Tây), bắt đầu việc cai trị biên giới. Trong quá trình chinh phạt, Mông Điềm trước sau chú trọng khai phá vùng biên ải, lấy các vùng đất mới làm thành "Tân Tần Địa", chia thành 44 huyện, cắt đặt quan lại.
Mông Điềm chiêu tập nam đinh trong nước đi xây dựng các tuyến phòng thủ ở những nơi hiểm yếu dọc theo biên giới. Trong vài năm, ở biên giới phía bắc Hàm Dương đã xây dựng được ba tuyến phòng ngự.

  • Tuyến thứ nhất nằm ở Bắc sông Hoàng Hà, giữa núi Âm Sơn và Dương Sơn.
  • Tuyến thứ hai là phía tây, quận Cửu Nguyên, nằm dọc theo phía tây dãy Âm Sơn nối với Trường Thành ở nước Triệu.
  • Tuyến thứ ba chính là Trường Thành có từ thời Tần được điều chỉnh lại.
Trên cơ sở đó, Mông Điềm còn huy động sức dân trong nước xây dựng Trường Thành dọc theo biên giới phía đông. Lúc bây giờ, ở biên giới phía bắc nước Tần, ngoài Trường Thành của nước Tần còn có Trường Thành của nước Triệu và nước Yên còn lại từ thời Chiến Quốc. Phía tây Trường Thành bắt nguồn từ Lâm Thao . Phía đông trải dài tới tận Liêu Đông, dài hơn vạn dặm. Đây chính là Vạn Lý Trường Thành nổi tịếng thế giới ngày nay.
Bản đồ các khu vực lẻ tẻ do nhà Tần chiếm được của các nhóm tộc Bách Việt ở phía Nam sông Dương Tử sau năm 210 TCN.
Tần Thủy Hoàng còn sai Đồ Thư đem quân, sai Sử Lộc đào ngòi vận lương đi đánh lấy Bách Việt, tức các tỉnh Chiết Giang, Lục Lương (???), Nam Hải (Quảng Đông), Quế Lâm (Quảng Tây), và một phần miền Bắc của Việt Nam, thời đó gọi là Âu Lạc của An Dương Vương (hay Tượng quận theo cách gọi của Trung Quốc).
Năm 214 TCN, Tần Thủy Hoàng sai Triệu Đà đưa những người thường trốn tránh, người ở rể và người đi buôn đánh lấy đất Lục Lương, đóng đồn ở núi Ngũ Lĩnh, lập thành Quế Lâm, Tượng quận, Nam Hải cho những người bị đi đày đến đấy canh giữ.
Năm 213 TCN, Thủy Hoàng lại đem đày những quan coi ngục không thanh liêm đi xây Trường Thành và đi thú ở đất Nam Việt.
Có thể coi Tần Thủy Hoàng đã lập được một đế quốc lớn vào bậc nhất thế giới thời đó, và người phương Tây, do những thương nhân chở lụa sang bán, đã biết danh nhà Tần, gọi Trung Hoa là nước Tần.
Chỉ trong mười mấy năm Thủy Hoàng thực hiện được bấy nhiêu công trình về nội trị, tổ chức hành chính, thống nhất ngôn ngữ, văn tự v.v..., xây cất, đắp đường, mở mang cương vực, được nhiều sử gia coi là vĩ đại.
Trong những năm cuối đời, Tần Thủy Hoàng sợ cái chết và tuyệt vọng tìm kiếm thuốc trường sinh, được cho là sẽ cho phép ông sống mãi mãi. Ông bị ám ảnh với việc có được sự bất tử và bị lừa bởi nhiều người nói có thể cung cấp thuốc trường sinh  . Ông cũng viếng thăm đảo Chi Phù ba lần để đạt được sự bất tử.
Tần Thủy Hoàng nghe theo lời Hầu Sinh và Lư Sinh muốn tu tiên, bèn tự xưng là chân nhân nhưng ít lâu sau hai người lại bất bình vì sự hà khắc của Thủy Hoàng nên cùng nhau bỏ trốn. Thủy Hoàng cũng cấp cho Từ Phúc một con tàu chở hàng trăm đồng nam và đồng nữ tìm kiếm núi Bồng Lai thần bí   Họ cũng được gửi đi để tìm An Cơ Sinh, một người bất tử 1.000 năm tuổi mà Tần Thủy Hoàng cho là đã gặp trong một chuyến vi hành và là người đã mời ông đi tìm mình ở Bồng Lai   Những người này không bao giờ trở lại, có lẽ bởi vì họ biết rằng nếu họ quay về mà không có thuốc trường sinh như đã hứa, họ chắc chắn sẽ bị tử hình. Truyền thuyết cho rằng họ đến Nhật Bản và thuộc địa hóa nó  . Cũng có thể là việc đốt sách, vốn được xem như là một sự lãng phí về văn học, là một phần trong nỗ lực của Thủy Hoàng để tập trung tâm trí của các học giả giỏi nhất của ông trong việc nghiên cứu giả kim thuật. Một số học giả bị tử hình là những người không thể cung cấp bất kỳ bằng chứng về khả năng siêu nhiên của họ. Điều này có thể là phương tiện cuối cùng để kiểm khả năng của họ: nếu bất kỳ người trong số họ có sức mạnh siêu nhiên, họ chắc chắn sẽ sống lại  . Do Thủy Hoàng sợ chết và các "linh hồn xấu xa", ông cho xây dựng một loạt các đường hầm và lối đi thông qua mỗi cung điện của mình, bởi vì chúng sẽ giữ cho ông an toàn từ các linh hồn xấu xa vì ông di chuyển mà không bị nhìn thấy.
Năm 211 TCN, một thiên thạch được cho là rơi xuống Đông Quận ở chỗ thấp của sông Hoàng Hà. Trên thiên thạch có người ghi dòng chữ "Thủy Hoàng chết thì đất bị chia." Khi Thủy Hoàng biết được, ông đã phái người đi điều tra. Không ai nhận là người đã viết dòng chữ nên tất cả những người sống gần đó đều bị giết. Tảng thiên thạch sau đó bị đốt cháy và nghiền thành bột
Sau đó, Thủy Hoàng đi kinh lý phía đông, Tả Thừa tướng Lý Tư đi theo, Hữu Thừa tướng Khứ Tật ở nhà. Hồ Hợi, con nhỏ của Thủy Hoàng, được nhà vua yêu mến xin đi theo, vua bằng lòng.
Sau khi tế vua Hạ Vũ ở Cối Kê, Tần Thủy Hoàng trở về kinh. Trên đường trở về phía tây đến bến Bình Nguyên thì bị bệnh.
Thủy Hoàng ghét người ta nói đến việc chết, cho nên quần thần không ai dám nói với nhà vua về việc chuẩn bị cho việc ông qua đời. Khi bệnh càng nặng, nhà vua viết thư đóng dấu của vua gửi đến hoàng tử Phù Tô nói: "Con về Hàm Dương với đám tang, và chôn cất ta ở đấy." Bức thư đã niêm phong ở trong phủ trung xa thuộc quyền Triệu Cao. Bức thư có dấu của nhà vua làm tin chưa giao cho sứ giả, thì Thủy Hoàng qua đời ở Bình Đài, thuộc đất Sa Khâu, là nơi cách khoảng hai tháng đi bằng đường bộ cách kinh thành Hàm Dương vào ngày 10 tháng 9 năm 210 TCN theo lịch Julius  . Sử liệu phương Tây cho rằng ông chết do uống phải thuốc thủy ngân do các ngự y chế ra  mà những viên thuốc này vốn được làm nhằm mục đích giúp cho Tần Thủy Hoàng bất tử 
Thừa tướng Lý Tư thấy nhà vua mất ở xa kinh đô nên đã trở thành vô cùng lo lắng rằng tin tức về cái chết của Thủy Hoàng có thể kích hoạt một cuộc nổi dậy lớn trong toàn đế chế  , bèn giấu kín điều đó, không báo tang, chở quan tài trong một cỗ xe mát, cho một hoạn quan được vua yêu ngồi trong xe, đến đâu thì dâng thức ăn, trăm quan vẫn tâu việc như thường  . Viên hoạn quan ở trong xe nghe lời tâu, liền bảo: "Được!". Chỉ có Hồ Hợi, Triệu Cao và một vài hoạn quan thân tín của nhà vua, tất cả có năm sáu người biết là nhà vua đã chết 
Xe đi từ Tỉnh Hình đến Cửu Nguyên. Gặp lúc trời nắng, chiếc xe mới phát ra mùi thối, đám tùy tùng sai các quan đi theo chở trên xe một thạch cá muối để đánh lẫn mùi thối . Đi theo đường thẳng đến Hàm Dương mới báo tang.
Tổng cộng, ông ở ngôi được 35 năm, trong đó 24 năm là làm vua nước Tần từ năm 246 TCN đến năm 222 TCN, và 11 năm làm hoàng đế của đế chế Tần từ năm 221 TCN đến năm 210 TCN.
Cuối cùng, sau khoảng hai tháng, Lý Tư và xa giá trở lại Hàm Dương, nơi mà các tin tức về cái chết của Tần Thủy Hoàng mới được công bố  . Sau khi ông chết, Phù Tô theo lệ sẽ là hoàng đế nối ngôi  .
Lý Tư và Triệu Cao âm mưu giết Phù Tô vì vị tướng được yêu thích bởi Phù Tô là Mông Điềm, người mà họ không ưa   và sợ; anh trai của Mông Điềm là 1 viên quan cấp cao, người đã có lần trừng phạt Triệu Cao Họ đã sợ rằng nếu Phù Tô được lên ngôi, họ sẽ bị mất quyền lực , vì vậy nên Triệu Cao bèn cùng Lý Tư âm mưu phá hủy bức thư của Thủy Hoàng gửi cho hoàng tử Phù Tô (con cả của Thủy Hoàng), đặt ra chuyện thừa tướng Lý Tư đã nhận được tờ chiếu của Thủy Hoàng ở Sa Khâu trước khi chết bảo lập Hồ Hợi làm thái tử; sau đó lại làm một bức thư khác gửi cho hoàng tử Phù Tô và tướng Mông Điềm kể tội hai người, ra lệnh cho hai người phải chết   Kế hoạch này đã thành công, và em của Phù Tô là Hồ Hợi bèn lên nối ngôi, tức là Nhị Thế hoàng đế 
Tần Nhị Thế tuy nhiên lại không có khả năng như người cha của mình. Các cuộc khởi nghĩa nhanh chóng nổ ra. Triều đại của ông là một thời điểm bất ổn về dân sự và tất cả mọi thứ được xây dựng bởi Tần Thủy Hoàng sụp đổ chỉ trong một thời gian ngắn  . Một trong những nỗ lực nổi dậy ngay lập tức là việc Trần Thắng và Ngô Quảng khởi nghĩa ở làng Đại Trạch 
Một trong những dự án đầu tiên mà Tần Thủy Hoàng thực hiện trong khi còn sống là xây dựng lăng mộ cho mình. Năm 215 TCN, ông ra lệnh cho tướng Mông Điềm dùng 300.000 người để bắt đầu việc xây dựng  Các nguồn khác lại cho rằng ông ra lệnh cho 720.000 lao động để xây dựng ngôi mộ  . Một lần nữa, với quan sát của John Man của về dân số của thời gian (xem đoạn trên), các ước tính lịch sử có vẻ còn gây tranh cãi. Ngôi mộ chính (nằm ở vị trí 334°22′52,75″B 109°15′13,06″Đ) có chứa xác Thủy Hoàng vẫn chưa được mở ra và có bằng chứng cho thấy rằng nó vẫn còn tương đối nguyên vẹn.
  Tư Mã Thiên mô tả ngôi mộ rất nhiều châu báu, có một bản đồ của một trăm con sông, trên đó sông Hoàng Hà, sông Dương Tử và biển Đông đều bằng thủy ngân. Hầm mộ ngày đêm đều thắp đèn đốt bằng dầu cá, một loại cá đặc biệt giống hình người. Quan tài hạ rồi, người ta nấu đồng để gắn phần mộ và đặt một cái máy để hễ có kẻ nào lén vào đào mả thì sẽ bị những mũi tên từ mọi chỗ phát ra tự động bắn vào   Ngôi mộ được xây dựng trên núi Li Sơn, cách Tây An 30 km. Các nhà khảo cổ học hiện đại đã xác định ngôi mộ, và đã đưa người máy vào thăm dò sâu bên trong. Các thăm dò cho thấy số lượng thủy ngân cao bất thường, tỷ lệ cao khoảng 100 so với tự nhiên, cho thấy rằng một số phần của truyền thuyết là đáng tin cậy  . Bí mật của ngôi mộ được duy trì vì hầu hết các công nhân xây dựng ngôi mộ đều bị giết  . Nhà sử học Trung Quốc Tư Mã Thiên, viết một thế kỷ sau cái chết của hoàng đế đầu tiên, đã viết rằng cần đến hơn 700,000 người để xây dựng lăng mộ. Nhà sử học người Anh John Man chỉ ra rằng con số này lớn hơn bất kỳ thành phố nào trên thế giới tại thời điểm đó và tính toán nền móng đã được xây dựng bởi 16.000 người trong hai năm  . Trong khi Tư Mã Thiên không bao giờ đề cập đến đội quân đất nung, những bức tượng này đã được phát hiện bởi một nhóm các nông dân đào giếng vào ngày 29 tháng 3 năm 1974  . Các binh sĩ này được tạo ra với một loạt các hỗn hợp khuôn đất sét và sau đó tiếp tục được cá nhân hóa bằng tay bởi các nghệ sĩ. Có khoảng 6.000 Chiến binh đất nung và mục đích của họ là để bảo vệ Hoàng đế trong thế giới bên kia khỏi các linh hồn xấu xa. Cũng trong đội quân này là xe ngựa và 40.000 vũ khí thực sự bằng đồng.
Trong truyền thống chép sử của Trung Quốc, Tần Thủy Hoàng luôn được miêu tả như một vị vua tàn bạo, người bị ám ảnh bởi các vụ ám sát. Sau này, ông các nhà sử học Khổng giáo lên án việc ông cho đốt sách và chôn sống Nho sĩ. Họ cuối cùng đã biên soạn danh sách Mười tội ác của Tần để làm nổi bật hành động bạo ngược của Thủy Hoàng.
Nhà thơ và chính khách nổi tiếng đời nhà Hán là Giả Nghị kết luận bài viết Kiều Tần Di của mình với những gì đã trở thành bản án Nho giáo tiêu chuẩn trong những lý do cho sự sụp đổ của nhà Tần. Bài tiểu luận của Giả Nghị, được ngưỡng mộ như kiệt tác của thuật hùng biện và lý luận, đã được chép trong 2 tác phẩm lịch sử đời Hán và đã có ảnh hưởng sâu rộng về tư tưởng chính trị Trung Quốc như một minh hoạ cổ điển của lý thuyết Nho giáo  . Ông cho sự tan rã của Tần là do sự thất bại trong việc biểu thị nhân tính và sự công bình và không nhận ra sự khác biệt giữa sức mạnh tấn công và sức mạnh để củng cố 
Tuy nhiên, các sử gia phương Tây nhìn nhận ông là một trong những nhân vật ngoại hạng trong mọi thời đại. Ông chỉ cầm quyền chưa đầy mười lăm năm mà làm cho nước Trung Hoa thay đổi hẳn, thống nhất về mọi mặt, mở mang thêm bờ cõi, thành một đế quốc lớn thời thượng cổ. Đó là một thành tựu được kể là vượt bậc. Ngày nay cái tên "China" hay "Sino" mà người phương Tây dùng để gọi Trung Quốc đều xuất phát từ phiên âm chữ "Tần" (Sin) mà ra. Nhiều nhà sử học nhắc tới Tần Thủy Hoàng song song với Napoleon.
Trong thời hiện đại hơn, đánh giá lịch sử về Hoàng đế đầu tiên khác với sử học truyền thống Trung Quốc đã bắt đầu xuất hiện. Các đánh giá lại này được thúc đẩy bởi điểm yếu của Trung Quốc trong nửa cuối của thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, cùng việc truyền thống Nho giáo tại thời điểm đó bắt đầu được nhìn thấy bởi một số người như là trở ngại cho sự hòa nhập của Trung Quốc vào thế giới hiện đại, mở đường cho việc thay đổi quan điểm.
Trong thời gian lãnh thổ Trung Quốc xâm phạm bởi các quốc gia nước ngoài, Quốc Dân Đảng nhấn mạnh vai trò của Tần Thủy Hoàng trong việc đẩy lui các rợ phía Bắc, đặc biệt là trong việc xây dựng Vạn lý trường thành.
Một nhà sử học tên là Mã Phi Bách đã cho xuất bản một tiểu sử xét lại về Hoàng đế đầu tiên mang tên Tần Thủy Hoàng Đế Truyền vào năm 1941, gọi ông là "một trong những anh hùng vĩ đại của lịch sử Trung Quốc". Ông so sánh Thủy Hoàng với các nhà lãnh đạo đương đại Tưởng Giới Thạch và nhìn thấy nhiều điểm tương đồng trong sự nghiệp, chính sách của họ, vốn là hai người mà ông ngưỡng mộ. Cuộc chiến tranh Bắc phạt cuối những năm 1920 trực tiếp dưới sự chỉ đạo chính phủ Quốc Dân Đảng tại Nam Kinh được so sánh với sự thống nhất mang lại bởi Tần Thủy Hoàng."  
 ***
Chấm dứt thời Xuân Thu - Chiến Quốc cũng đồng thời chấm dứt giai đoạn cổ đại của lịch sử Trung Quốc.
Xét ở góc độ chung nhất về mặt hình thái xã hội và những vấn đề về đấu tranh vũ trang thì lịch sử Trung Quốc cổ đại chính là qui mô thu nhỏ của lịch sử văn minh nhân loại. Những mối quan hệ cơ bản, những hình thức tồn tại cơ bản của một xã hội đều có thể tìm thấy ở đó. Chẳng hạn như: nhà nước - phi nhà nước, giai cấp – phi giai cấp, quyền lợi kinh tế, đấu tranh vũ trang, sở hữu công cộng, tư hữu, mâu thuẫn về quyền lợi kinh tế - chính trị dẫn đến đấu tranh vũ trang, chiến tranh phi nghĩa và chính nghĩa, áp bức và nổi dậy…; nếu gọi vua là tổng thống thì có thể gọi tướng quốc là thủ tướng…
So sánh như vậy để thấy rằng lịch sử Trung Quốc cổ đại là một sự vật - hiện tượng bộ phận vừa góp phần làm nên, vừa nằm trong tổng thể của lịch sử văn minh nhân loại nên nó phải mang những nét chung nhất của lịch sử văn minh nhân loại và đồng thời, vì là bộ phận nên nó cũng mang những nét đặc thù, nét riêng, nét Trung Quốc.
Nhìn lịch sử Trung Quốc cổ đại, chúng ta có cảm nhận rằng đó là lịch sử của những cuộc chiến tranh. Những cuộc chiến tranh đan xen nhau, kế tiếp nhau, hết cuộc này đến cuộc kia như không bao giờ dứt.
Thật ra đó là cái nhìn bị sai lạc, không toàn diện. Chúng ta đã cố tình nhìn như thế để nêu bật ý này: hình như chiến tranh là bạn đồng hành và nếu thế, phải chăng nó là biểu hiện một đặc tính nào đó của lịch sử văn minh nhân loại nói chung và lịch sử Trung Quốc cổ đại nói riêng? Đặc tính đó có thể nào là sự phân định giai cấp, phân định giàu nghèo trong xã hội? Nhưng trước khi có giai cấp, trước khi có giàu nghèo thì có xảy ra chiến tranh không? Giữa những bầy người thiên di thời tối cổ có bao giờ xảy ra xung đột và giữa những bộ lạc nguyên thủy có xảy ra đấu tranh vũ trang chưa? Nhìn xa hơn nữa, chúng ta thấy rằng loài vật, thú rừng vẫn thường dọa dẫm, xâu xé nhau để tranh giành thức ăn, tranh giành lãnh thổ, thậm chí là tranh giành quyền được giao phối. Và chúng hành động như vậy với mục đích là để sinh tồn. Nếu vậy cần khẳng định xung đột giữa những bầy người thiên di thời tối cổ là có xảy ra và đấu tranh vũ trang (ở mức độ thô sơ) ở những bộ lạc nguyên thủy cũng vậy. Thậm chí còn có thể nói rằng đó là hiện tượng “thường thấy”.
Chiến tranh là phải có tạo dựng, có nguyên nhân làm xuất hiện nó. Nguyên nhân nào? Vì ý thích vô tội vạ của một cá nhân? Cũng có thể (tính đầy đủ của Tự Nhiên Tồn Tại cho phép điều này!) nhưng nếu có thì rất hãn hữu và là ngoại lệ?
Nhiều nhà nghiên cứu lịch sử quân sự cho rằng Napôlêông, một thiên tài quân sự người Pháp, là người mê say chiến tranh, có thể là thế thật, nhưng ngay từ những ngày đầu khởi nghiệp, mục đích của ông ta là tìm việc làm để sống và thể hiện tài năng quân sự của mình. Ông “thích” chiến tranh nhưng cuộc chiến dài lâu mà ông tiến hành không phải vì sự “thích” ấy mà chỉ “nhân tiện” thỏa mãn cái “thích” ấy mà thôi.
Chiến tranh là hình thức cao nhất của xung đột, là máu chảy đầu rời, là một mất một còn, là khốc liệt và tàn bạo; cho nên nguyên nhân của nó cũng phải rất “ghê gớm”, động chạm đến cuộc sống. Mà động chạm đến cuộc sống, nói thô mộc ra chỉ có thể là “miếng ăn”. Nếu ở thú vật, “chiến tranh” là đấu tranh sinh tồn bằng bạo lực xảy ra hãn hữu và hầu như không gây chết chóc trong nội bộ loài mà chủ yếu xảy ra giữa loài này với loài khác nhằm duy trì sự sống sót, thì ở loài người có ý thức, chiến tranh là đấu tranh vũ trang đạt đến mức độ tột cùng có thể về sử dụng bạo lực nhằm phuất phục nhau bằng hãm hại, giết chóc nhau giữa người với người vì danh lợi.
  Không có bất cứ hoạt động nào của con người lại không vì danh lợi. Chỉ có điều danh lợi ấy như thế nào, được nhận thức ra sao, có mối quan hệ, mối tương quan như thế nào với cộng đồng xã hội mà hành động được gọi là hợp tình hợp lý hay không hợp tình hợp lý, là thiện hay ác. Hành động giết người hàng loạt xét cho cùng cũng vì danh lợi nhưng là tội ác vì giết người vô tội (nó mang tính hợp lý đối với suy nghĩ cá nhân của kẻ thủ ác trong trạng thái bị kích động, nhưng là bất hợp lý với một suy nghĩ được coi là bình thường, bất hợp lý với suy nghĩ của cộng đồng và được cộng đồng coi là ghê tởm). Xử bắn một kẻ giết người dã man, không thể cải hóa được, bản thân hành động ấy là ác, nhưng giết một người để cứu muôn người lại là một điều cần thiết, hợp đạo lý nên nó mang tính thiện, tính nhân văn, được đông đảo cộng đồng ủng hộ.
Danh lợi là nguyên nhân và cũng là mục đích của bất cứ cuộc chiến tranh nào xét ở cả hai phía trong xã hội loài người. Nó có nguồn gốc tự nhiên và xã hội. Bản thân chiến tranh không đúng mà cũng chẳng sai. Trước nhận thức, nó thể hiện tính nước đôi: tùy theo quan niệm về đạo lý, về tình cảm, tâm lý của cá nhân - cộng đồng – toàn xã hội mà nó thành có nghĩa hay vô nghĩa, chính nghĩa hay phi nghĩa. Việc động viên, dụ dỗ, hay ép buộc, cưỡng bức một thanh niên ra mặt trận để hứng làn tên mũi đạn, bản thân nó là ác, phi nhân tính. Nhưng nếu làm như thế để chống xâm lược, để bảo vệ tổ quốc, quê hương khỏi bị chà đạp, cướp bóc, bảo vệ quyền lợi của dân tộc, trong đó có quyền lợi của mỗi người dân và nhất là người bị động viên ra trận cũng đồng lòng “đền nợ nước” thì đó là hành động có ý nghĩa, mang tính chính nghĩa, vì cuộc chiến tranh chống ngoại xâm lúc này là chính nghĩa, là ý chí chung của toàn dân tộc, vì quyền lợi sống còn của chính dân tộc ấy, phù hợp với qui luật sinh tồn.
Chính nghĩa và phi nghĩa là hai khái niệm tương phản mà ý nghĩa tột cùng của chúng là đối kháng nhau một mất một còn. Nhưng trong hiện thực chúng lại chỉ mang tính tương đối thôi. Nếu chính nghĩa và phi nghĩa là nhận thức tuyệt đối, không bị lũng đoạn bởi ý chí chủ quan đầy thị phi mê lầm của người đời, và chỉ có thế thôi, thì nhất quyết, chiến tranh không bao giờ xảy ra. Lúc này chính nghĩa và phi nghĩa mất hết ý nghĩa và không biết chúng tồn tại ở trên đời để làm gì nữa, tương phản với nhau một cách “cứng đờ” như vậy để cho vui chăng ? Người giết người, nhất là giết người hàng loạt, bị thiên hạ cho là hành động phi nhân tính nhất, man rợ nhất của con người. Ấy vậy mà sự giết chóc con người, mà chiến tranh vẫn cứ xảy ra. Một đối tượng, khi tiến hành chiến tranh, khi phải sử dụng vũ khí giết người hàng loại để hủy diệt con người, bao giờ cũng nêu ra đủ lý do để cho rằng mình chính nghĩa, mình làm theo lẽ phải. Vậy thì đánh giá thế nào về những cuộc không kích của Nga và Mỹ xuống Xiri!?
Chiến tranh là đầu rơi máu chảy, là đau thương tang tóc. Không lẽ nó cứ mãi đồng hành với sự tồn tại của nhân loại như một định mệnh cay nghiệt sao? Biết rằng nguyên nhân và cũng là mục đích của chiến tranh là danh lợi, vậy thì có thể nào loại trừ cái gì đó gọi là danh lợi ra khỏi đời sống, ra khỏi nhận thức của con người để chiến tranh không còn động lực xuất hiện nữa được không?Thật khó!
Đọc sách “Quỉ Cốc Tử”, chúng ta nhận ra được điều nêu trên cũng chính là nỗi trăn trở đau đáu trước nạn binh đao, trước cảnh quần chúng thống khổ, lầm than của Quỉ Cốc tiên sinh. Có lẽ ông đã nhìn thấy bản chất đích thực của chiến tranh nên cơ sở cốt lõi xây dựng nên lý luận quyền mưu của ông chỉ là một chữ Phù (phù hợp). Muốn quyền mưu thành công thì nguyên nhân, hành động và mục đích phải phù hợp; phù hợp với thời cuộc, với hoàn cảnh, điều kiện và đối tượng cụ thể của quyền mưu, phù hợp với qui luật xã hội - tự nhiên, phù hợp với ý chí nguyện vọng của cộng đồng, của đại đa số chúng dân và như vậy là quyền mưu phải có tính chính nghĩa, phục vụ cho cuộc chiến tranh chính nghĩa thắng phi nghĩa; lấy chiến tranh chính nghĩa hủy diệt chiến tranh.
Lòng trắc ẩn của Quỉ Cốc Tiên sinh thể hiện rất rõ ở hai thiên “Quyết sách chi thuật” và “Phù ngôn chi thuật”. Đối với một nước, việc thực hiện năm phương pháp trị dân (dùng đạo đức, dùng pháp luật, dùng tín nghĩa, dùng tâm sáng, dùng sự liêm khiết) thực chất để tạo sự hòa hợp danh lợi vua, tôi và chúng dân, giảm được cái mâu thuẫn phát sinh từ danh lợi, thậm chí đạt đến sự loại bỏ khái niệm danh lợi vì quyền lợi của vua, tôi, chúng dân trở thành một khối thống nhất, gắn kết keo sơn, nương tựa lẫn nhau cùng tồn tại, cùng được đảm bảo. Được như vậy, nước sẽ toàn thịnh và trở nên hùng cường nhờ lúc đó ý chí của vua đã "trùng khít" với ý chí toàn dân, tai mắt của vua là tai mắt nhân dân, tay chân của vua là tay chân của nhân dân, hành động của vua là hành động của nhân dân. Ở mức độ tuyệt đích, nội tình đất nước cứ thế mà tự vận hành như một lẽ đương nhiên, giống như tự nhiên chính là tự nhiên vậy!!!...
Và đó cũng chính là tư tưởng “vô vi” của Đạo gia: vô vi vô bất vi, không làm nhưng không phải là không làm, không làm mà thực ra là làm tất cả; cũng chính là tôn chỉ làm nên thuyết “vị ngã” (như cách gọi hiện nay) của Dương Chu: “mất một cái lông mà lợi cả thiên hạ cũng không cho, được cả thiên hạ phụng sự riêng cho mình cũng không nhận, người nào cũng không chịu thiệt, người nào cũng không ham lợi thì thiên hạ tự nhiên thái bình”, nghĩa là biết sống vượt qua vòng danh lợi, bất vụ lợi.
Tự Nhiên là vậy, Vũ Trụ là vậy, chẳng vì nguyên nhân gì, cũng chẳng vì mục đích gì mà cứ tồn tại, tồn tại một cách tự nhiên, hiển nhiên mà chẳng biết để làm gì, do đó nó chẳng làm gì, nhưng hóa ra lại làm tất cả để “có” tất cả. Đó là cái Đạo lớn nhất.
Một ông vua muốn trị dân theo đúng được năm điều ấy thì phải thấy được cái Đạo lớn vừa nói, thấy được cái lẽ tự nhiên của Đất Trời. Như vậy, con đường duy nhất để "chứng ngộ" được cái Đạo lớn ấy đối với mọi ông vua cần phải đi là trước hết phải “tu thân, luyện tâm”.
Nhưng đã là vua chúa thì… than ôi… !!! “Than ôi” ấy cũng chính là nỗi bất lực của Quỉ Cốc tiên sinh, của Dương Chu, của Lão Tử. Trong cái thời loạn binh, đao rối ấy, cách sống tốt nhất để toàn mạng, hợp Đạo là “xuất thế vô vi”, nhưng như thế không có nghĩa là họ không làm gì. Họ xuất thế nhưng vẫn giảng đạo, truyền đạo và có được những Tôn Tẫn, Bàng Quyên, Tô Tần, Trương Nghi… cũng như những “Quỉ Cốc Tử”, “Đạo Đức Kinh” gửi gắm cho hậu thế, thì thực ra là “làm tất cả”.
Thử hỏi: Khổng Tử với chủ trương “nhập thế hữu vi” thì đã làm được cái gì ích lợi cho đương thời ấy, hay cũng chỉ lang thang tìm danh lợi gần hết một đời, mà không ở đâu nhận, để rồi than thân trách phận, cuối cùng về quê dạy học trò và làm sách, và như vậy, thật ra cũng là hành động xuất thế bất đắc dĩ mà thôi?
Có câu chuyện liên quan đến vấn đề danh lợi như thế này:
Khuất Nguyên, tên Bình, làm quan đại phu nước Sở, thời Chiến Quốc. Ông là người có tài, học rộng, nhớ lâu, tác giả của “Ly tao” bất hủ. Ông cũng là người hết mực yêu nước và tận lòng với nước. Bị bọn gian thần (đại phu Thượng Quan và lệnh doãn Tử Lan) dèm pha, vua Sở bỏ, đày ông.
Khuất Nguyên, đến bờ sông, xõa tóc đi, sắc mặt tiều tụy, hình dung khô héo.
Có ông cụ đánh cá, thấy vậy, hỏi:
- Ông là quan tam sử đại phu đó chăng? Sao ra nông nỗi này?
Khuất Nguyên nói:
- Tất cả đời đều đục, chỉ mình ta trong, tất cả mọi người đều say, chỉ mình ta tỉnh, cho nên ta bị đày.
Cụ đánh cá nói:
- Bậc thánh nhân không khư khư ở một vật, mà biết theo đời. Tất cả đều đục, sao ông không xuôi theo dòng làm cho sóng lên cao? Tất cả đều say sao ông không húp rượu, nhai cả rượu cùng say luôn thể? Việc gì cứ phải khư khư ôm ngọc cẩn, giữ ngọc chi trong người cho phải bị đọa đày?
Khuất Nguyên nói:
- Khi vua gội đầu xong thì người ta phủi mũ, khi vua tắm xong thì người ta giũ áo, lẽ nào để cái thân trong trắng bị vật làm nhơ bẩn đi. Ta thà gieo mình xuống sông Tương, chôn mình trong bụng cá, lẽ nào để cái bản chất trắng ngần của ta chịu bụi bặm của đời?
Đoạn, ôm đá gieo mình xuống sông Mịch La chết.
Lạm bàn:
Vua Sở là ám và ác
Khuất Nguyên đâu có trong, tỉnh, vẫn đục, say nên mới hành động vô nghĩa như vậy.
Yêu nước là một chuyện, phò vua là chuyện khác. Nếu Khuất Nguyên là trong và tỉnh thì ông đã vượt được ra ngoài cái vòng danh lợi ấy, noi gương tiền bối mà xuất thế, biết đâu chừng, hậu thế sẽ có thêm vài “Ly tao” nữa.
Và một chuyện khác:
Thời thượng cổ có ông Hứa Do, ẩn dật trong chằm Bái Trạch
Vua Nghiêu nghe tiếng là người giỏi, mời ra, xin nhường cả thiên hạ; ông nói:
- Khi mặt trời, mặt trăng đã mọc mà cứ cầm đóm đuốc soi sáng như thế, chẳng cũng khổ lắm ru! Khi đang mong mưa, trời đã mưa mà cứ còn dội nước, tẩm tưới như thế, chẳng cũng nhọc lắm ru! Nay có ông ra đời, đức thịnh tài cao, thiên hạ tự khắc cảm hóa bình trị, thế mà tôi cứ giữ lấy thiên hạ, thì tôi tự nghĩ lấy làm kém lắm. Xin nhường thiên hạ cho ông.
Hứa Do nói:
- Ông trị thiên hạ đã được bình trị, mà tôi còn thay ông như thế hóa ra tôi không có cái “thực” làm cho thiên hạ bình trị mà lại nhận lấy cái “danh” bình trị thiên hạ ư? Vả cái “danh” là người khách của cái “thực”, nếu không có thực mà lại lấy danh, thì bỗng dưng tôi làm người khách không có chủ ư? Con chim làm tổ ở rừng chẳng qua chỉ một cành cây, con chuột uống nước ở sông chẳng qua chỉ đến no bụng. Thôi, xin ông cứ về mà trị lấy thiên hạ, tôi có dùng thiên hạ làm gì! Người nhà bếp mà chẳng trông nom việc bếp, thì người giữ việc tế tự cũng chẳng có thể bỏ đèn hương, mà làm thay cho được.
Hứa Do bỏ đi, đến ẩn tại núi Trung Nhạc, phía nam sông Dĩnh Thủy.
Sau, vua Nghiêu lại tìm đến, cố mời Hứa Do ra làm tổng trưởng cả chín Châu (tổng trưởng là chức đứng đầu các quan, thay vua hành chính, tương tự như thủ tướng bây giờ; Trung Quốc thượng cổ chia ra làm chín khu để quản lý, gọi là chín Châu).
Hứa Do nghe vậy bèn ra bờ sông Dĩnh Thủy rửa tai.
Ngay lúc đó, có ông Sào Phủ (bậc cao sĩ và cũng là ẩn sĩ) dắt trâu xuống bờ sông, thấy vậy, hỏi:
- Việc gì mà bác phải rửa tai thế?
Hứa Do thuật lại chuyện. Sáo Phủ nghe xong liền gò cổ trâu lại mà rằng:
- Tôi toan cho trâu uống nước ở đây, lại e bẩn cả miệng trâu.
Nói đoạn, dắt trâu lên quãng sông phía trên cho trâu uống nước.
Lạm bàn:
      “Sặc mùi” Đạo gia!
      Thời nay các quan bỗng dưng nhường “ghế” là chuyện quái dị.
Hứa Do chắc đã đủ “cái ăn” rồi nên chẳng “thèm” thiên hạ. Hoặc giả thời đó làm vua khổ nhọc hơn cả làm dân nữa! Vua Nghiêu bỏ sức làm cho thiên hạ bình trị xong thì… đuối sức. Không nhường thiên hạ cho bất kỳ ai mà cố tìm bậc hiền tài để gửi gắm thì rõ là ông vua hiền.
Đời nay làm gì còn người như Hứa Do. Uy quyền của tổng thống kém xa vua ngày xưa nhưng bây giờ có vị tổng thống của một nước giàu có nào đó có “nhã ý” mời chúng ta thế chỗ, chắc chúng ta sẽ rú lên vì sung sướng và… nhận liền!
Có lẽ khái niệm danh lợi không bao giờ mất được trong tâm trí loài người. Con người từ đâu sinh ra? Từ loài vật chứ đâu! Con người đi về đâu? Về cái chết chứ đâu nữa! Thế thì con người đến đây để làm gì, có nghĩa vụ và quyền lợi gì?
Động lực nào mà từ vô sinh xuất hiện ra hữu sinh? Đó chung qui lại cũng chỉ là chữ “Phù”. Khi bị nấu thì nước phải sôi và bốc hơi, khi bị nung thì sắt phải chảy, cho vào tủ lạnh thì nước đông thành nước đá, tích tụ và phân tán, phát triển và suy tàn, tất cả đều là lẽ tự nhiên. Trong một hoàn cảnh điều kiện nào đó mà trong một môi trường phải xuất hiện những sự vật - hiện tượng phù hợp với mục đích duy nhất là làm cho môi trường được cân bằng, ổn định. Có một môi trường mà một trong những sự vật - hiện tượng phù hợp là giới hữu sinh. Ở mức độ nào đó, giới hữu sinh tác động (rõ rệt) trở lại môi trường, làm biến đổi môi trường cho phù hợp với nó. Đó là một quá trình tương hỗ. Nhờ có quá trình tương hỗ mà xuất hiện loài người và sự sinh sản của loài người cũng có nguyên nhân sâu xa từ quá trình ấy. Vậy thì cá thể con người sinh ra và chết đi cũng chỉ vì một chữ “Phù”: tự nhiên được sinh ra và tự nhiên phải chết đi,chỉ có Tồn Tại là còn vĩnh viễn. . Cái khoảng giữa sinh ra và chết đi của một con người được gọi là cuộc sống hay đời người. Đời người là kết quả của quá trình tương hỗ, ở trong quá trình ấy và là bộ phận tham gia vào quá trình ấy. Cho nên có thể nói đời người là được tạo dựng và “đi” tạo dựng. Tạo dựng, như chúng ta đã nói ở đâu đó (hay chưa nói?) chính là quá trình làm mất đi (những) sự vật - hiện tượng đang có (đã lạc hậu, không còn phù hợp?) để xuất hiện (những) sự vật - hiện tượng mới (tiên tiến hơn, phù hợp hơn), là quá trình thống nhất của hai quá trình tương phản tạo ra và hủy đi xảy ra đồng thời và cũng chính là nội dung của qui luật nhân - quả.
Tương hỗ là quá trình vận động nội tại không có hồi kết thúc trong suốt quá trình tồn tại của một cá thể nói riêng và cả môi trường nói chung. Đó là quá trình đi đến cân bằng tĩnh tại nhưng không bao giờ cân bằng được; là sự chuyển hóa giữa các lực lượng tương phản xoay quanh trạng thái cân bằng động nào đấy, làm dịch chuyển trạng thái đó sang trạng thái cân bằng mới, đến lượt trạng thái này đòi hỏi phải xuất hiện mối tương quan mới giữa các lực lượng ở trình độ nhất định, sự duy trì và phát triển lực lượng chính là sự sinh sản, sinh sôi nảy nở của giống loài. Sinh - Tử là quá trình chuyển hóa tương phản nhằm đảm bảo mối tương quan phù hợp của một lực lượng đối với môi trường mà ở trường hợp cực đoan có thể dẫn tới sự tuyệt chủng của một giống loài nào đó và xuất hiện giống loài mới.
Con vật được sinh ra là để sống, muốn sống thì phải tạo dựng. Tạo dựng ở con vật là hành động tự phát đi kiếm ăn, giành giật miếng ăn, làm tổ đào hang để bảo toàn sự sống và sinh con đẻ cái duy trì lực lượng giống loài. Con người cũng vậy, nhưng vì là con vật biết suy nghĩ (có chiều sâu?) nên ngoài hành động mang tính bản năng ra, con người còn tự giác tạo dựng, nghĩa là tạo dựng một cách tích cực, có ý chí.
Để tự phát tạo dựng được, Tiến Hóa đã trang bị cho loài vật những cảm nhận để phản ứng bản năng như: biết đói khát, thích ngon ngọt (vì ngon ngọt có nghĩa là bổ khỏe hơn, thỏa mãn sự sống hơn), chê đắng cay, nuôi nấng che chở con cái, gần gũi với bầy đàn và xa lánh, trốn tránh những giống loài tiềm ẩn sự hiểm họa...
Con người, trước hết, cũng có đầy đủ những bản tính ấy của con vật. Nhưng vì có suy nghĩ (nhớ dai, nhìn xa thấy rộng, thấm thía được nhiều điều) nên đi đôi với những bản tính ấy, xuất phát từ những bản tính ấy, là một hệ thống các trạng thái được gọi là “tình cảm" mà (xét về mức độ nổi trội thì coi như) chỉ con người mới có như yêu - ghét, buồn - vui, sướng - khổ, và ở cao độ là đắm đuối - hận thù, sầu não - phởn chí, hạnh phúc - bất hạnh… Chúng ta luôn miệng nói đến biện chứng, nhưng mấy ai nhìn nhận sự suy nghĩ một cách biện chứng. Thường thì chúng ta chỉ nhìn thấy mặt được cho là ưu việt, “chúa tể” của nó, để ca ngợi nó hết lời mà đâu chú ý đến cái mặt tương phản, mặt “thấp hèn”, “ngu muội” của nó. Con vật không lo đói khát còn con người quá lo lắng về đói khát, con vật ít thích ngon ngọt thì con người thèm muốn ngon ngọt; con vật nói chung là bằng lòng với thực tại thì con người nói chung lại không bao giờ thực sự thỏa mãn cái mình hiện có, luôn muốn tích lũy càng nhiều càng tốt để tránh xa đói khát và được hưởng thụ thừa mứa ngon ngọt. Nhà văn Giăc London đã đề cập rất hay về vấn đề này trong tác phẩm “Tình yêu cuộc sống” của ông.
Người ta cứ chê bai con vật là dã man nhưng làm sao có thể dã man hơn con người được khi mà những bản tính của loài vật đã thể hiện đến mức độ cực đoan, tột độ ở con người? Sự ích kỷ đến mức đê tiện và sự tham lam thèm muốn đến vô độ (mà căn nguyên sâu xa đã nâng sự tìm kiếm, tranh giành thức ăn một cách tự phát, đáp ứng vừa đủ cho cuộc sống sinh lý ở loài vật lên thành hành động tự giác khai thác triệt để môi trường thiên nhiên, tranh đoạt, cướp bóc, xâm lược, giết chóc, tiêu diệt lẫn nhau giữa người với người để không những đáp ứng những đòi hỏi ngày một quá đáng, những nhu cầu nhân tạo càng ngày càng phi nghĩa của sinh lý con người và hơn nữa, còn phải thỏa mãn lòng tham lam, tính háo danh, thèm khát quyền lực đến mù quáng của tâm lý con người. Nếu hỏi bất cứ người nào rằng có thích làm vua không, thì ở trạng thái bình thường nhất, ở mức độ thành thật nhất, có mấy người trả lời là không thích trong số một ngàn người chẳng hạn? Có lẽ không có người nào! Đó phải chăng là ý thức bản năng? Không, chắc chắn là không phải! Nhưng...cũng gần như thế!
Loài vật và loài người xuất hiện là từ quá trình vận động của tự nhiên, hợp lẽ với tự nhiên. Con vật được sinh ra, hành động để duy trì cuộc sống bản thân nó và sinh con đẻ cái duy trì nòi giống của nó là lẽ tự nhiên, thiếu ước mơ nên cũng thiếu mục đích (hay cũng có mục đích nhưng không phải là mục đích tự thân mà là mục đích bản năng?). Một con người nói chung được sinh ra là một tất yếu nhưng một con người cụ thể nào đó được sinh ra lại là sự vô tình. Vì là loài vật nên con người đến đây cũng như loài vật, chẳng có mục đích gì. Vì biết suy nghĩ nên nó có tình cảm (hoặc tình cảm sâu sắc hơn nhiều so với loài vật?) và từ đó mà xuất hiện mục đích và nghĩa vụ tự thân đối với bản thân và đối với cộng đồng. Do đó con người biết nỗ lực phấn đấu trong cuộc sống, biết tìm cách vươn lên (chính đáng hay không chính đáng, đàng hoàng hay quỉ quyệt!) để thực hiện ước muốn, để vượt qua cái gọi là “số phận” để thành đạt, để hơn người… Rốt cuộc, nói gọn lại, con người luôn hành động, phấn đấu một cách duy nhất vì danh lợi, vì quyền lợi (vì lợi!) của bản thân và có thể vì cộng đồng, trong đó có mình. Không thể khác được!
Một biến tướng của phấn đấu nỗ lực vì danh lợi là tranh giành, gây xung đột vì danh lợi mà ở mức cực độ, tột cùng của nó là chiến tranh, là xung đột vũ trang giữa những bộ phận người, giữa những tập đoàn người, giữa các nước (cướp phá lẫn nhau hoặc giữa kẻ đi ăn cướp với những người bảo vệ, tự vệ).
Có cách nào loại bỏ chiến tranh khỏi đời sống nhân loại một khi trong trí não con người không gột rửa được khái niệm danh lợi?
Có một cách, đó là hướng tất cả mọi cuộc tìm kiếm danh lợi vào… Tự Nhiên, vào thế giới khách quan, khách thể của loài người. Loài người đồng tâm hiệp lực gặt hái danh lợi từ thế giới khách quan và phân chia kết quả thu hoạch được cho nhau một cách hợp lý.
Nghe thì cũng bùi tai đấy! Nhưng phân chia như thế nào gọi là hợp lý khi mặt trái của sự suy nghĩ luôn tồn tại như một lẽ tự nhiên, thậm chí trở thành bản chất của con người? Lịch sử cổ đại Trung Quốc cũng đã từng có một thời kỳ như thế, được gọi là “Xã hội đại đồng” (chế độ cộng sản nguyên thủy) nhưng lại vì những nguyên nhân có thể đoán được (dồi dào về thức ăn, đơn giản về nhu cầu, thuần phác về tình cảm). Giai đoạn còn nặng tính tự phát nhưng có lẽ là tươi đẹp nhất của thời thượng cổ ấy (và của cả thời đại ngày nay của loài người!) cũng chỉ tồn tại trong khoảng thời gian không dài, đánh dấu bước chuyển tiếp từ mông muội "chân phác" sang văn minh "thủ đoạn".
Sự hồi tưởng làm cho không ít người hối tiếc cái quá khứ xưa vời ấy: Trong đêm tối mịt mùng, bầy người hoang dã, sau một ngày săn bắt hái lượm giữa mưa nắng thiên nhiên, quây quần bên đống lửa, hài lòng chia nhau những miếng thịt nướng thơm ngậy, sung sướng nhồm nhoàm nhai nuốt, cùng nhau vui vẻ nhảy nhót, rú gào, chẳng chút bận tâm đến ngày mai (thỏa thuê và tưng bừng hơn yến tiệc của vua chúa nhiều!). Ngày nay, sự nuối tiếc ấy vẫn ẩn dấu trong tiềm thức, cho nên nhiều người tổ chức đi du lịch về với thiên nhiên, cố dựng lên quang cảnh hoang dã, cũng đốt lửa trại, cũng quây quần nướng thịt, hát ca. Nhưng than ôi, có cố gắng đến mấy thì cũng chỉ là gượng gạo. Cũng rừng đấy thôi , cũng củi lửa đấy thôi, cũng thịt đấy thôi, cũng những con người đấy thôi mà không bao giờ đạt tới được cái phấn khích hồn nhiên đích thực được nữa. Quá trình văn minh hóa đã làm cho tâm hồn của mỗi con người trĩu nặng nỗi lo âu và sự tham muốn đầy vị kỷ mất rồi!
Chúng ta thừa nhận, từ mông muội lên văn minh và ngày càng văn minh là xu thế không thể đảo ngược được trong quá trình tồn tại của loài người. Văn minh hơn thì con người được hiểu biết nhiều hơn, có điều kiện hưởng thụ phong phú hơn và tiện nghi hơn… Điều đó dẫn tới nhu cầu về mọi mặt của đời sống ngày một tăng đòi hỏi sự nỗ lực cao độ của mỗi người trong cuộc tranh đua mưu cầu danh lợi ngày một gay gắt, căng thẳng hơn. Chung qui lại, càng văn minh thì con người càng được nhưng cũng càng mất, càng thừa thãi bao nhiêu thì càng thiếu thốn bấy nhiêu, bởi vì một lẽ đơn giản: lòng tham muốn của con người là vô độ lượng. Lịch sử nhân loại cho chúng ta thấy một điều rằng càng văn minh, chiến tranh càng khốc liệt, qui mô chiến tranh càng mở rộng và càng trở nên tàn bạo bởi sự giết chóc hàng loạt của những loại vũ khí có tính sát thương ngày một ghê gớm (được chế tạo bởi văn minh!). Hiện nay các loại vũ khí, súng đạn, bom mìn có sức công phá cực lớn, kể cả vũ khí hạt nhân đã đầy ứ, chực chờ khắp nơi trên Trái Đất. Quái tượng cuộc chiến tranh tự hủy diệt mình một cách tàn khốc nhất; triệt để nhất của loài người đã ló dạng ở chân trời thế giới!
 Tương lai loài người rồi sẽ ra sao? Thế hệ chúng ta không thể trả lời được câu hỏi đó. Chỉ biết rằng cái tương lai ấy sẽ là một hiện thực hợp lẽ tự nhiên, là kết quả của những tạo dựng ở quá khứ, có phần đóng góp của những tạo dựng hôm nay.
Chúng ta nhấn mạnh đến mặt trái của suy nghĩ nhưng không nên quên cái mặt phải đầy lý trí, minh tuệ và thánh thiện của nó.
Loài vật sống mù quáng thụ động, “trôi” theo chiều của tự nhiên. Ở chúng thiếu hẳn trí nhớ tự giác nên nếu có chút cảm giác nào đó về không gian và thời gian thì cũng hết sức mờ nhạt (cảm giác về không gian rõ rệt hơn là cảm giác về thời gian, theo sự phản ứng nội sinh học một cách tự nhiên trong bản thân chúng). Do đó chúng hầu như thiếu hẳn “cái tôi” của mình, không có quá khứ, không hiểu hiện tại và không  biết tương lai. Cuộc sống của loài vật thiếu hẳn mục đích (có thể nó hơn được vật vô sinh, hơn được thực vật ở chỗ đã có mầm mống của tính mục đích, hay gọi là mục đích bản năng. Khi thấy con mồi thì nó rình rập, tìm cách vồ, đó là hành động nhằm mục đích của cả cuộc đời, có tính lý trí, dài lâu). Vì không có trí nhớ tự giác (không nhớ lâu được), không nhận thức được cuộc đời nên chúng cũng chẳng có tình cảm lý trí: đánh nhau dành miếng ăn, xong rồi thôi, không “để bụng”, hận thù; sinh sản nuôi lớn rồi thôi, không như con người, mẹ yêu thương con suốt đời. Tất cả những hành vi của con vật như cắn xé nhau, nhường nhịn nhau, bảo vệ bầy đàn và tấn công, giết chết đối tượng đều mang tính tự nhiên, vô tình. Nhưng qua nhận thức của con người thì chúng được phân thành hai lọai: tính “thiện” và tính “ác”.
Sự suy nghĩ và hành động sáng tạo chính là sự biểu hiện con vật đã “người hóa”. Hai mặt của suy nghĩ làm nên hai động lực chi phối hành vi có mục đích của đời người: mặt trái là chủ của sự tàn ác và mặt phải là chủ của sự nhân từ. Hai mặt ấy tưởng không thể dung hợp với nhau được, nhưng lạ lùng thay, trên thế giới ngày nay, chúng vẫn thể hiện đan xen nhau làm hình thành nên một viễn cảnh tương lai đầy hăm dọa loài người: ai ai cũng yêu chuộng hòa bình, nhưng ai ai cũng chạy đua vũ trang, tàng trữ vũ khí, sẵn sàng chiến tranh. Thế là sao!?
Sinh ra từ tự nhiên và là bộ phận của Tự Nhiên, loài người không thể là vô lý, phi tự nhiên được. Loài người cũng là một sự vật- hiện tượng mà vận động nội tại của nó là một quá trình thống nhất của các lực lượng tương phản tác động tương hỗ lẫn nhau, chuyển hóa nhau, tuân theo những qui luật của tự nhiên - xã hội (qui luật xã hội về thực chất cũng là qui luật của tự nhiên vì xã hội loài người không thể là hiện tượng phi tự nhiên được).
Lịch sử loài người là lịch sử tạo dựng: là lịch sử của những cuộc chiến tranh tàn phá sát sinh nhưng cũng là lịch sử của những thời hòa bình, kiến thiết, dưỡng sinh. Chiến tranh và hòa bình là hai mặt tương phản mà trong thực tiễn loài người là hai hiện tượng tương phản nhau, chuyển biến lẫn nhau, tạo nên những mối tương quan nhất định trong điều kiện hoàn cảnh nhất định, tham gia và là bộ phận làm nên xu thế tiến triển của xã hội loài người.
Chúng ta sẽ thấy yên lòng khi hiểu rằng: mang trong tiềm thức trọn vẹn bản năng sống của loài vật, nhờ có suy nghĩ mà bản năng ấy thăng hoa lên thành khát vọng sống, tình yêu cuộc sống trong mỗi con người. Chính sự khát vọng và tình yêu ấy cùng với những trải nghiệm đau thương và tang tóc bởi hết cuộc chiến tranh này đến cuộc chiến tranh khác mà trong đại chúng đã hình thành và phát triển rộng rãi tình cảm yêu thương hòa bình, chán ghét và ghê sợ chiến tranh. Từ đó mà xuất hiện lực lượng ngày càng đông đảo và mạnh mẽ, đại diện cho ước mong được sống cuộc đời thanh thản, yên ổn trong hòa bình của đại chúng, tích cực ngăn chặn chiến tranh, phá vỡ những âm mưu gây chiến của những thế lực hiếu chiến, của những kẻ ích kỷ, tham lam và cường bạo.
Thế hệ chúng ta có thể văn minh hơn, hiểu biết nhiều hơn thế hệ của những Aristote, Khổng Tử, Lão Tử, hiền triết Upanishad, nhưng bộ não của chúng ta chắc gì đã tiến hóa hơn của họ, chắc gì đã sáng suốt, thông minh hơn của họ, thậm chí do lệ thuộc sâu sắc vào các dụng cụ thiết bị hỗ trợ mà còn thoái hóa đi. (một vị có học hàm tiến sĩ hiện nay chắc gì đã tính nhẩm nhanh hơn một bà ít học, bán cá ở chợ?!)
Rồi đây, như một lẽ tự nhiên, theo bước đường tạo dựng không ít đau thương nhưng cũng không kém hào hùng, hy vọng rằng bộ não con người sẽ tiến hóa hơn nữa, tính thiện át dần tính ác; mọi người của đại chúng, ai ai cũng thấy được cái Đạo lớn của Tự Nhiên, thấy được cái nhỏ nhoi, mong manh nhưng thiêng liêng của cuộc sống, thấy được cái phi lý, vô nghĩa và tai hại của cuộc đời phải mang trong mình nó một lòng tham vô độ, một mưu cầu danh lợi quá đáng, một mối hận thù đè nén tâm can. Chắc rằng vào thời đại đó, các nước trên thế giới không còn tàng trữ binh lực, vũ khí nữa, không còn hiện tượng nước lớn, mạnh diễu võ giương oai dọa nạt, lăm le xâm lược nước nhỏ, yếu nữa, vì không còn tồn tại những thế lực mang tư tưởng dân tộc ích kỷ, hẹp hòi!
Hướng tiến hóa ấy của não người không phải là ngẫu nhiên mà có nguồn gốc từ nhận thức đúng đắn về Tự Nhiên Tồn Tại, từ khát vọng truyền qua ngàn đời của đại chúng muốn được tự do yên ổn làm ăn, được sống trọn đời trong hòa bình. Mầm mống của sự tiến hóa ấy giờ đây đã thể hiện ra trong hiện thực dưới dạng các tổ chức, lực lượng phi chính phủ yêu chuộng hòa bình, gìn giữ thiên nhiên, chống chiến tranh trên toàn thế giới.
Chúng ta hy vọng trong tương lai, loài người sẽ tránh được cuộc chiến tranh hủy diệt bằng vũ khí hạt nhân của đồng loại gây ra. Không những thế, quá trình tồn tại của loài người lúc đó sẽ bước lên tầm cao mới: vắng sạch bóng chiến tranh trong tạo dựng ở Trái Đất và lên đường đi tạo dựng trong Vũ Trụ, ngày một xa rộng.
Vâng, chúng ta hãy hy vọng và không chỉ hy vọng một cách thụ động!
 ***
Chúng ta đến thời Xuân Thu - Chiến Quốc đâu phải vì chiến tranh! Nếu không vì chiến tranh mà lại bỗng nhiên đứng đó “hùng biện” sùi bọt mép về những vấn đề chiến tranh thì chúng ta cũng là những kẻ “rất thích” chiến tranh đấy chứ?
Thật ra, chúng ta đến đây với mục đích tìm hiểu quan niệm của đương thời về nhân tình thế thái, "cái" không thể bỗng dưng xuất hiện được mà phải có xuất phát điểm, phải là kết quả của quan sát và nhận định thời cuộc. Nét nổi bật thời Xuân Thu - Chiến Quốc có gì khác hơn là chiến tranh. Mọi nỗ lực của các nước về kinh tế - xã hội đều nhằm mục đích chiến tranh bởi không tiêu diệt người thì cũng bị người tiêu diệt; chính nghĩa và quyền lực thuộc về tay nước bá chủ. Vậy thì nếu không nói đến diễn tiến của lịch sử, nếu không nói đến chiến tranh thì làm sao hiểu được sự phân chia tư tưởng thành hai trường phái lớn, tương phản nhau, mang nét rất riêng và độc đáo, trở thành đề tài tranh biện nổi bật trên nền tảng của văn hóa - tư tưởng Trung Quốc suốt thời kỳ sau này, đó là “Xuất thế vô vi” và “Nhập thế hữu vi”?
Sự nở rộ về tư tưởng - văn hóa ở thời Xuân Thu - Chiến Quốc không phải là điều lạ. Vì cũng khoảng thời gian ấy, hiện tượng tương tự cũng được thấy ở Hi Lạp cổ đại và Ấn Độ cổ đại. Một trong số không nhiều nguyên nhân chủ yếu của hiện tượng rất có thể là sự phát triển về mặt kinh tế của đời sống xã hội và sự hoàn thiện của chữ viết, tạo điều kiện cho tư duy phát triển cả bề rộng lẫn bề sâu. Có thể đoán định rằng, trong khoảng giao hòa giữa chế độ chiếm hữu nô lệ và phong kiến, mức sống ở những nơi đó (lúc đầu) được nâng cao, lao động trí óc (văn hóa, nghệ thuật, chép sử, nghiên cứu khoa học…) nhờ thế đã tồn tại như một lực lượng tương đối độc lập, tự nuôi sống được bằng công việc sáng tạo của mình họăc nhận được sự bảo trợ thường xuyên của “mạnh thường quân”. Xuất phát từ tình hình phát triển của thực tiễn hoạt động kinh tế - xã hội và sự đòi hỏi của thực tiễn ấy mà chữ viết cũng được cải tiến, ngày càng tiện dụng, phong phú, có đủ khả năng lưu giữ, chuyển tải chính xác những kinh nghiệm đã tích lũy được, những ý tưởng, những nội dung lớn về quan niệm, nhận thức mà trước đó chỉ có thể truyền khẩu và lưu giữ bằng trí nhớ (dễ sai lạc!). Việc hoàn thiện chữ viết và nở rộ các tác phẩm thơ, ca, sử, triết… chắc chắn có sự góp phần đắc lực trong việc sáng tạo ra những phương tiện viết đạt đến mức độ thuận tiện nhất định.
Ở Trung Quốc cổ đại, các học giả thời Chiến Quốc cho rằng Sương Hiệt là người đầu tiên đặt ra văn tự. Nhưng Sương Hiệt ở thời nào thì không ai biết. Theo truyền thuyết thì Phục Hy đặt ra chữ viết, dùng khá phổ biến ở thời Hoàng Đế. Theo Khổng Tử thì đời nhà Hạ đã có lịch. Nhưng tất cả những điều đó đều chưa có bằng chứng. Chữ viết sớm nhất được khảo cổ phát hiện là chữ viết đời nhà Thương. Ở Ân Khư (Hà Nam), người ta đã khai quật được nhiều mai rùa, xương động vật, đồ đồng… được người nhà Thương khắc chữ trên đó (gọi là chữ giáp cốt). Tổng số chữ giáp cốt đã phát hiện khoảng 5000 chữ, đoạn văn dài nhất cỡ 100 chữ. Đến thời Tây Chu thì số lượng chữ khắc đã tăng lên nhiều và cách viết chữ cũng đã đơn giản hơn. Đến thời Xuân Thu - Chiến Quốc, chữ viết càng phong phú về số lượng, càng được đơn giản hóa, dễ viết.
Ở thời kỳ này, vật liệu dùng để lưu chữ viết là thẻ tre nhưng ở cuối Xuân Thu, đầu Chiến Quốc, người ta cũng đã bắt đầu viết chữ lên lụa (muốn viết lên lụa thì người thời đó chắc phải chế ra cái gọi là “bút” và cái gọi là “mực”). Tương truyền rằng người nước Tề là Tiết Tắc, chế ra mực, người nước Tần là Mông Điềm chế ra bút. Cả hai đều ở thời Chiến Quốc). Việc dùng vải lụa đã tạo thuận lợi hơn để ghi chép, dễ cất, dễ đem đi. Nhưng có lẽ chất lượng “mực” thời đó chưa tốt, chóng phai nên việc lưu giữ chủ yếu vẫn là thẻ tre.
Kể thêm: theo sử chép thì nghề trồng dâu, nuôi tằm dệt lụa có từ đời Phục Hi, đến đời Tần, lụa đó đem bán qua La Mã đắt ngang với vàng vì vận chuyển khó khăn, đường xá xa xôi, nguy hiểm. Con đường bộ duy nhất để giao thương giữa Đông và Tây thời đó sau này được gọi là Con đường tơ lụa. Còn giấy thì mãi 100 năm sau Công nguyên mới xuất hiện ở Trung Quốc. Vào khoảng năm 2000 TCN, ở Ai Cập có một loại cây mọc ven hai bờ sông Nil được gọi là Cyperus Papyrus (sau này người Pháp gọi giấy là papier, người Anh gọi là paper). Đây là loại cây hình dạng giống cây lác ở Việt Nam, cao từ 2,5 mét đến 3 mét, gốc mập, cong nhiều và trơn, ít lá, lớn bằng cổ tay, phía trên ngọn, hoa nở từng chùm màu trắng giống hoa cây lau. Người Ai Cập lúc đầu dùng rễ để đốt, ruột làm tim đèn. Thấy ruột của nó dài và bền, họ mới tước ra thành từng sớ mỏng, đoạn dùng dao cắt đều đặn ra từng miếng, rửa sạch, phơi khô, cán mỏng và dùng mực (?) vẽ hình lên đấy. Đó là thứ giấy đầu tiên của loài người. Kỹ thuật làm giấy này được người Ai Cập duy trì mãi. Người đầu tiên cải tiến kỹ thuật làm giấy là người Trung Hoa, tên là Sái Luân, làm quan dưới triều vua Hòa Đế (89 – 106). Ông nhận thấy các thanh tre và gỗ dùng để ghi chép quá cồng kềnh và bất tiện, thêm nữa phí tổn lại cao, nên nảy ra sáng kiến dùng vỏ cây dâu tằm, tước ra thành sợi, giã nhuyễn, cán mỏng phơi khô thành giấy. Từ đó giấy trở nên thông dụng, phổ biến trên toàn lãnh thổ Trung Quốc. Đến năm 114, Sái Luân được phong tước Hầu nhờ công lao đó. Sau Sái Luân là Vương Du, rồi theo bước Vương Du, nhiều người khác luôn tìm cách cải tiến, tìm kiếm thêm những loại cây khác làm nguyên liệu trong việc sản xuất giấy. Từ Trung Quốc, nghề làm giấy chu du đi khắp thế giới. Năm 593 giấy chính thức du nhập vào Triều Tiên. Năm 610, giấy tràn vào Nhật Bản. Năm 751 nghề giấy bắt đầu hình thành ở Ba Tư. Năm 795, từ Ba Tư, nghề giấy truyền sang Trung Đông. Năm 800, xưởng giấy đầu tiên của Ai Cập hình thành tại La Mecque. Nhờ có cuộc thập tự chinh, châu Âu học được nghề làm giấy. Năm 1154 xưởng giấy xuất hiện ở Ý, tiếp đó là ở Đức (1288), ở Anh (1309), ở Hà Lan (1320), ở Pháp (1348)… Theo bước chân chinh phục Anh, nghề giấy vươn đến châu Mỹ. Nhà máy giấy đầu tiên được xây dựng trên đất Mỹ là vào năm 1690.
Trong lịch sử tư tưởng - văn hóa Trung Quốc thì thời kỳ Xuân Thu - Chiến Quốc còn được gọi là thời Bách gia chư tử. Đó là thời kỳ phát triển đặc biệt phong phú về học thuật . Sách “Tùy thư”, mục “Kinh tịnh chí” liệt kê được 14 học phái. Trong “Sử ký”, Tư Mã Thiên nhấn mạnh sáu học phái quan trọng là: Nho gia, Đạo gia, Mặc gia, Danh gia, Pháp gia và Âm dương gia. Chúng ta có thể coi sáu học phái ấy là sáu trường phái triết học đầu tiên của Trung Quốc và là nền tảng cơ bản của tất cả các học thuyết triết học Trung Quốc sau này. Nội dung của các triết thuyết sau này ở Trung Quốc hầu như chẳng có gì mới, chỉ là sự quan niệm lại, giải thích thêm, kết hợp các ý tưởng của sáu trường phái đó.
Có kết quả thì phải có nguyên nhân, có tạo dựng thì phải có bắt đầu, vì vậy một quan niệm triết học không thể từ hư vô sinh ra hay từ trên trời rơi xuống được mà phải xuất phát từ một nguồn cội nào đó. Nguồn cội nào nếu không phải là những nhận thức có trước đó về tự nhiên - xã hội, kết hợp với những quan sát, suy ngẫm chủ quan trong hiện tại? Sáu học phái gọi là triết học kể trên chắc chắn phải là sản phẩm của một sự kế thừa, dù trực tiếp hay gián tiếp.
Nhận thức về vũ trụ tự nhiên - nhân sinh của người Trung Quốc trước thời Bách gia Chư tử phản ánh chủ yếu trong ba bộ kinh là Kinh Thư, Kinh Thi và Kinh Dịch. Cả ba bộ kinh ấy, thời chưa thịnh hành chữ viết, tương tự như Kinh Vêđa ở Ấn Độ được lưu truyền trong dân gian qua truyền khẩu, sau này mới được các học giả sưu tầm, san định lại thành sách và càng về sau càng được bổ sung, giải nghĩa, thêm thắt những quan niệm đương thời theo ý chủ quan của từng học giả nên có phần xa vời, sai lệch so với ý nghĩa gốc ban đầu). Ngay nguồn gốc xuất xứ của chúng cũng không rõ ràng, phần nhiều là suy luận, phỏng đoán.
Kinh Thi là tác phẩm đầu tiên của văn học Trung Quốc, ra đời cách nay đã hơn 2500 năm; ghi chép lại những tư tưởng về nghi lễ tôn giáo, phản ánh tâm tư tình cảm, phong tục tập quán trong lao động, đời sống xã hội bằng thơ ca, tục ngữ, bằng ngôn ngữ đại chúng, mộc mạc nhưng cũng rất trữ tình.
Kinh Thư là bộ sách ghi chép những điều các vua và bầy tôi giải bày, khuyên răn nhau về phép trị nước an dân, từ thời Nghiêu Thuấn đến Đông Chu; giúp người đời sau hiểu được pháp chế và quan niệm đạo lý ở những triều đại trước, qua đó thấy được sự phát triển văn minh ở từng thời kỳ lịch sử.
Kinh Dịch là bộ sách nói về nhận thức Vũ Trụ truyền thống của Trung Quốc cổ đại. Theo truyền thuyết, vua Phục Hy (4477 – 4363 TCN) thấy con Long Mã nổi trên sông Hoàng Hà, trên lưng có 55 vết đen trắng mà lập ra Hà Đồ, từ đó mà nhận ra được lẽ sinh hóa của vạn vật.
Trong buổi bình minh của nền văn minh Trung Quốc cổ đại, giống như mọi nền văn minh cổ đại khác trên thế giới, con người mới thoát thai từ mông muội, chưa hiểu biết nhiều về thiên nhiên, chưa thấy được mối liên hệ giữa các sự vật - hiện tượng, do đó trước mắt họ, những hiện tượng lớn lao, kỳ vĩ như núi lửa, sóng thần, mưa bão, gió lốc… đều là hành động của những “siêu nhân” độc lập nhau tạo ra sức mạnh của “siêu nhân” là gấp bội phần sức người nên mới có khái niệm “thần”. Nhưng chẳng thấy thần đâu cả, nên họ phải tưởng tượng ra và sự tưởng tượng ấy không thể vượt qua tầm nhận thức được nên chỉ có thể là mang tính cách, hình hài giống như con người mà thôi. Ngày nay, chúng ta gọi quan niệm đó là tín ngưỡng đa thần.
Theo thời gian, con người tích lũy nhiều kinh nghiệm hơn, quan sát ngày càng sắc sảo hơn nên nhận thức ngày càng sâu rộng hơn về thiên nhiên. Dần dần rồi họ cũng thấy những hiện tượng thiên nhiên trước đây tưởng là rời rạc, độc lập, thật ra là có mối liên hệ với nhau, phụ thuộc nhau, xảy ra, hình như tuân theo một ông thần chung nào đó, đứng cao hơn tất cả, là thần của các vị thần. Đó chính là bước tiếp theo của nhận thức thiên nhiên: quan niệm tín ngưỡng nhất thần.
Theo sách “Quốc ngữ” thì:
“Ngày xưa dân với thần không tạp loạn, lẫn lộn. Trong dân chúng có người sáng suốt không hài lòng. Họ có thể nhất tâm, kính cẩn, thành thật và ngay thẳng. Trí của họ đạt tới trên dưới, có thể đạt tới chính nghĩa. Thánh đức của họ có thể sáng tỏ từ đằng xa. Đức sáng suốt của họ có thể soi chiếu mọi vật. Như vậy, thì thần linh giáng xuống ở họ, ở đàn ông thì gọi là Nghiễn, ở đàn bà thì gọi là Vu.
Nhờ qua những bậc ấy mà chỗ ở của thần được đặt, địa vị của thần được bày, và thứ tự trên dưới của thần được xếp (…)
(…)
(…)
Kịp đến đời Thiếu Hiệu suy đồi, chín họ Lê rối loạn đất tốt. Dân thần trở nên hỗn độn và phương vật khó lòng có thể phân biệt. Thường thì dân làm lễ, và mỗi nhà có riêng thầy cúng, không cần phải có đức tính chính đáng vào việc ấy. Dân kiệt sức về cúng lễ mà không thấy có hạnh phúc. Tế lễ không có trật tự và dân thần đồng vị. Dân không coi trọng lời nguyện, không cần nghiêm uy, kính sợ thần theo thói lệ của dân, và hành vi dơ bẩn (…)
Khi Chuyên Húc nối ngôi, ông ta bèn ra lệnh cho Nam Chính Trọng lấy Trời làm nơi thuộc về thần, cho Hỏa, Chính Lê lấy Đất để thuộc về dân. Họ phục hồi lại kỷ luật cũ, không còn để cho có sự xâm lấn lẫn nhau, lăng loàn giữa thần dân và trời đất nữa”
Phùng Hữu Lan, tác giả của “Trung Quốc triết học sử” nói:
“Theo lời nói ấy chứng tỏ cho ta thấy các hình thức tính ngưỡng ở xã hôi Trung Hoa thời cổ. Xét cái sự có những Vu Nghiễn, thầy cúng thầy mo cần thiết để xét xếp đặt vị trí trật tự của các thần trong việc cúng bái thì chúng ta biết bấy giờ ngưới ta tin vào nhiều thần vô kể. Lại việc thần có thể giáng phúc, hưởng lễ, và trà trộn vào các công việc nhân sự đủ tỏ là các thần đều có nhân cách tính. Những sự “nhân thần tạp hữu”, “thần liệp dân tắc”, “dân thần đồng vị” đủ tỏ người ta coi hành vi của thần với hành vi của người không khác nhau mấy. Dân Trung Hoa ở thời ấy mê tín và chưa mở mang về trí thức. Họ có tư tuởng tôn giáo nhưng chưa có tư tưởng triết học, cho nên tôn giáo và thần tiên họ tin sùng thì chẳng khác gì như Hy Lạp cổ đại. Kịp đến nhà Hạ và nhà Thượng thì quan niệm Thiên và Đế xuất hiện. Dần dần hình như quan niệm nhất thần nảy nở và được truyền bá, nhưng đồng thời tư tưởng mê tín đa thần cổ xưa cũng vẫn còn tồn tại, chưa suy giảm”
Không có phản ứng thì không có quan sát, không có quan sát thì không có trí nhớ, không có trí nhớ thì không thể nhận biết. Nhận biết và trí nhớ là tiền đề của tư duy bậc cao, suy nghĩ “kiểu” con người: suy luận và phán đoán. Suy luận và phán đoán (suy nghĩ lý tính) làm nên lý trí con người. Con người hành động theo lý trí nhưng luôn bị chi phối bởi sự “nghĩ” bản năng, vì phần xác của nó vẫn mãi là xác phàm, xác con vật! Ông tổ ngành phân tâm học, bác sĩ Freud đã nói rất hay về điều này: “Con người đã làm được một điều vô cùng khó khăn là vừa có thể sống như một con vật đi tìm khóai lạc, vừa phải sống như một con người có đủ lý trí”.
Nhờ có lý trí mà con người biết nhận thức. Quá trình dài lâu của suy nghĩ và hành động có lý trí để sinh tồn đã làm cho nhận thức của con người ngày càng đúng đắn hơn về thiên nhiên, phân hóa thành hai quan niệm tương phản nhau: hữu thần và vô thần. Hai quan niệm này luôn bài trừ nhau nhưng lại cần đến nhau, tác động chuyển hóa lẫn nhau và tạo tiền đề cho nhau cùng phát triển. Và đó chính là triết học, là “yêu mến sự thông thái”, là con đường đi đến nhận thức đúng đắn, cuối cùng (được vật lý học chứng thực). Hay có thể nói, triết học là quan niệm duy lý của con người về tự nhiên tồn tại, là quá trình nhận thức và nhận thức lại để đạt đến chân lý tuyệt đối; vừa là sự gợi ý mở đường cho khoa học (thực chứng), vừa dựa vào thành quả của khoa học để tiến lên.
Nếu cho rằng học thuyết triết học là một (hay những) quan niệm cơ bản về tự nhiên - xã hội (vũ trụ quan, nhân sinh quan) cùng với hệ thống lý luận dẫn đến (những) quan niệm cơ bản ấy thì trước thời nhà Chu, chưa có học thuyết triết học (đúng nghĩa theo qui ước!) nào ở Trung Quốc. Những quan niệm triết học được thể hiện từ ba bộ Kinh: Thư, Thi, Dịch một cách rời rạc, như là những phán đoán cảm tính từ trực quan sinh động (chú ý rằng cả ba bộ kinh mãi đến thời Chiến Quốc mới định hình và được gọi là Kinh, với sự thêm thắt ít nhiều!)
Trước thời Bách gia Chư tử, trong nhận thức thế giới của người Trung Quốc đã xuất hiện hai quan niệm lớn là Âm Dương và Ngũ Hành. Quan niệm Âm Dương không biết có từ thời nào, nhưng chắc là không thể sau đời Ân được. Có thể là từ đầu nhà Chu, người Trung Hoa đã cho âm, dương là hai căn nguyên của Vũ Trụ. Đời U Vương (781 – 771 TCN), quan chép sử là Bá Dương Phủ nói: “Khí dương nếu không thoát ra được, khí âm bị nén không bốc ra được, thế là sinh ra động đất”. Ông cho rằng trong Vũ Trụ có hai lực lượng là âm và dương đối ứng, tác động lẫn nhau mà sinh ra biến đổi, biến động của vạn vật.
Theo Lê Văn Quán, tác giả cuốn “Chu dịch vũ trụ quan” (NXB giáo dục, 1995) thì:
“Từ trong hiện tượng tự nhiên và hiện tượng xã hội phức tạp, “Dịch truyện” đã nêu ra hai phạm trù (khái niệm) cơ bản của âm và dương. Dương đại biểu tính dương và sự vật có những đặc tính: tích cực, tiến thủ, kiên cường, mặt trời, giống đực… Âm đại biểu tính âm và những sự vật có đặc tính: Tiêu cực, lui nhường, mềm yếu, mặt trăng, giống cái,…
Thế giới phát triển trong điều kiện ảnh hưởng lẫn nhau, vận động không ngừng của hai yếu tố có đặc tính khác nhau ấy. “Dịch truyện” giải thích hết thảy các hiện tượng của Vũ Trụ vạn vật bằng hiện tượng âm dương biến đổi.
Điều đó càng chứng minh tư tuởng âm dương không phải bắt nguồn từ “Dịch kinh”. Trong thực tế dùng quan niệm âm dương để giải thích “Dịch kinh” vẫn là do Dịch học sau này phát triển”.
Nếu đúng như thế thì phải chăng Bá Dương Phủ không phải là người đề xướng ra hai khái niệm âm và dương để đặt tên cho “vạch liền” và “vạch đứt” trong kinh dịch, mà chỉ là người khởi đầu cho thuyết âm dương sau này?
Thuyết Ngũ Hành cũng là một sáng tạo độc đáo của nhân dân Trung Quốc: Thuyết đó cho rằng thế giới do năm loại vật chất cơ bản là kim, mộc, thủy, hỏa, thổ tạo thành. Sự phát sinh, phát triển, biến hóa, tiêu vong của các sự vật - hiện tượng (kể cả con người) đều là kết quả của sự tác động lẫn nhau không ngừng (tương sinh tương khắc) của năm loại vật chất mang tính nguyên tố đó.
Sự ra đời của học thuyết Ngũ Hành vẫn còn “lờ mờ”. Dịch học phái cho rằng nó ra đời đồng thời với thuyết Âm Dương. Theo “Chu dịch vũ trụ quan” thì:
“Qua các tài liệu “Tả truyện”, “Quốc ngữ”, ở thời đại Xuân Thu, ngũ hành chỉ năm loại vật chất không thể thiếu trong sinh hoạt. Tư tưởng ngũ hành đầu tiên lưu hành ở hai nơi Yên, Tề miền biển phía đông Trung Quốc, thời đại nảy sinh sớm nhất không trước Trân Diễn một thế kỷ, vào thế kỷ thứ V, TCN. Nếu như ông ta không phải là người duy nhất khai sáng ra thuyết ngũ hành thì ít nhất cũng là người hệ thống hóa và cố định thêm những tư tưởng có liên quan đến loại này.
Trong sách “Thượng thư”, thiên “Hồng phạm” cũng đề cập đến ngũ hành, nhưng không thể ra đời sớm hơn thời đại Trân Diễn. (Tương truuyền đó là sách ở những năm đầu thời Tây Chu. Theo nghiên cứu ngày nay, có thể đó là tác phẩm đời Chiến Quốc _ NV). Sách “Thượng thư”, thiên “Hồng phạm” viết:
“Ngũ hành: nhất viết hỏa, nhị viết thủy, tam viết mộc, tứ viết kim, ngũ viết thổ. Thủy viết nhuận hạ, hỏa viết viêm thương, mộc viết khúc trực, kim viết tòng cách, thổ viết giá sắc. Nhuận hạ tác hàm, viêm thương tác thổ, khúc trực tác toan, tòng cách tác tân, giá sắc tác cam”.
(Ngũ hành: một là nước, hai là lửa, ba là gỗ, bốn là kim loại, năm là đất. (Nói về tính). Nước thấm xuống dưới, lửa bốc lên trên, gỗ có cong có thẳng, đồ kim khí tùy tay người thợ mà đổi hình, đất để cấy lúa và gặt lúa. Nước thấm xuống dưới làm vị mặn; lửa bốc lên trên là vị đắng; gỗ cong hay thẳng là vị chua; đồ kim khí tùy tay người thợ đổi hình, vị cay; lúa cấy gặt vị ngọt”).
Quan niệm về ngũ hành mà sách “Hồng phạm” đề cập không thuần túy dừng lại ở năm loại vật chất cơ bản”.
Trong “Lịch sử thế giới cổ đại” (NXB Giáo dục, 2006) nói rõ: “Đến đời Chu Tuyên Vương (827 – 782, TCN), một viên quan chép sử tên là Bá (được gọi là Sử Bá) lại cho rằng vạn vật do năm yếu tố là Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ tạo nên. Đó là thuyết ngũ hành”
Qua đó, chúng ta có thể đi đến phán đoán: Sử Bá là người chính thức đề xướng ra khái niệm ngũ hành với ý nghĩa là năm loại vật chất cơ bản tạo nên vạn vật, và quan niệm ngũ hành của ông ta là manh nha của thuyết ngũ hành sau này, được Trâu Diễn bổ sung, phát triển đến hoàn chỉnh. Có thể xuất phát điểm của khái niệm ngũ hành bắt nguồn từ quan niệm cơ thể học của con người trong y học thời đó (con người có ngũ tạng, ngũ quan, ngũ khí) và xa hơn nữa là sự chiêm nghiệm Hà Đồ, Lạc Thư (con số 5 ở trung tâm) chăng? Con số năm như là tiền định của người Trung Hoa vậy. Thật lạ lùng!
Tóm lại, trong xã hội thời Tây Chu bên cạnh những quan niệm thần bí về thế giới khách quan, đã xuất hiện và song hành tồn tại những quan niệm duy vật sơ khai, rời rạc, được đúc kết trực tiếp từ trực quan cuộc sống (của quá khứ và hiện tại).
Như lịch sử đã mô tả, thời Xuân Thu là thời nhà Chu bước vào giai đoạn suy vi, chiến tranh dành quyền bá chủ giữa các nước chư hầu bắt đầu nổ ra và ngày càng liên miên, khốc liệt. “Chiến tranh kéo dài, hết chống nhau với Tây Nhung lại đến chiến tranh giữa các nước chư hầu với nhau, biết bao nhiêu nước mắt, biết bao nhiêu nhà tan. Các chư hầu mỗi ngày một cường thịnh, coi nhờn, hay lăm le, cạnh tranh với thế lực trung ương của nhà Chu. Do đấy mà dân gian đau khổ, phiêu bạt tứ phương thốt ra những lời ta thán” (trong “Trung Hoa triết học sử đại cương” của Hồ Thích).
Trước cảnh hỗn loạn, li tan, tàn khốc đau thương ấy, quan niệm thần bí về thế giới trở nên bất lực, không thể giải thích được hiện tượng. Thần thánh xa vời chẳng chở che, giúp đỡ gì được cho quần chúng vô tội cả, cứ để họ bị cuốn hút vào những cuộc chém giết nhau với qui mô hàng loạt, hàng khối người một cách vô nghĩa.
Quan niệm âm dương, ngũ hành về thế giới dù còn là duy vật biện chứng ở mức thô sơ (ngày nay gọi là ấu trĩ) nhưng đã mở ra cách nhìn hết sức đúng đắn về nguyên tắc: tất cả các sự vật - hiện tượng đều do những yếu tố cơ bản tạo nên, chúng có mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, tác động lẫn nhau, sinh - diệt nhau, tạo nên bức tranh biến đổi không ngừng, đầy biến động của tự nhiên - xã hội.
Các bậc trí giả đã lĩnh hội được cái tư tưởng vốn dĩ đúng đắn ấy, đồng thời phát triển mở rộng làm cho quan niệm âm dương, ngũ hành thêm sâu sắc.
Dưới đây là một số sử liệu (sưu tầm từ bộ “Lịch sử triết học Phương Đông, của Nguyễn Đăng Thục):
“Quý Lương nước Tùy nói: Này nhân dân là chủ của thần vậy. Cho nên vua Thánh xưa trước hết lập dân rồi sau mới nhờ đến sức của Thần”
(Tả truyện, Hoài Công năm thứ 6)
“Nước Chu, nội sử Thúc Hưng nói: Điềm lành, điềm dữ là tự ở người”
(Hy Công năm thứ 5 - tả truyện)
“Nước Lỗ, Mẫn Tử Mã nói: Họa phúc không có riêng cửa nào, chỉ là người ta vời đến mà thôi”
(Tương Công, năm 23)
“Cái điều dân mong muốn, Trời ắt hẳn phải theo”
(Tương Công, năm 31 - Tả truyện)
“Triệu Giản Tử nước Tấn hỏi Sử Mặc: “Họ Quý đuổi vua mình ra ngoài cõi, mà dân chịu phục tùng?”. Sử Mặc đáp: “Dòng vua Lỗ đi theo sự mất, giòng họ Quý tu sửa cần lao, dân quên vua đi vậy, dù vua có chết ở ngòai cõi thì cũng không có ai thương xót. Xã tắc không có được phụng thờ mãi, vua tôi không có địa vị mãi, xưa nay vẫn thế. Cho nên Kinh thi nói: bờ cao là hang, hang sâu là gò, dòng họ của tam hậu, Ngu, Hạ, Thương ngày nay là bình dân, nhà vua đều biết đấy”.
(Tả truyện, Định Công, Nguyên niên)
Trên cơ sở nhận thức duy vật (biện chứng) ấy, bức xúc trước cảnh bị tàn phá, tang tóc bởi chiến tranh triền miên, trước nguyện vọng tha thiết muốn chấm dứt chiến tranh để được vui sống trong hòa bình của đại chúng, nhiều bậc trí giả tâm huyết đã suy tư, nghiền ngẫm về thời cuộc để mong tìm ra giải pháp khả dĩ thực hiện được mục đích đó.
Có thể rằng khoảng giữa thời Xuân Thu, mọi nhân tố tiền đề đã đạt đến độ chín muồi cho giai đoạn Bách gia Chư tử bùng phát. Nhưng trước hết, cần phải có một triết thuyết hoàn chỉnh, làm đột phá khẩu. Triết thuyết ấy phải hàm chứa được những khái niệm cơ bản nhất của Bách gia chư tử và phải xuất hiện trong khoảng cuối Xuân Thu, đầu Chiến Quốc.
Nhưng trước tất cả, phải có một quan niệm làm tiền đề cơ bản, đóng vai trò là nguồn gốc, xuất phát điểm. Phải chăng đó chính là quan niệm lưỡng phân lưỡng hợp mà người Hoa Hạ đã tiếp thu được của tộc người phương Nam - người Việt Cổ(!?).
 ***
Đối với chúng ta thì không còn lời để ca ngợi cuốn sách “Quỉ Cốc tử”. Như đã từng đề cập nhiều về nó, cuốn “Quỉ Cốc tử” tuyệt diệu ở chỗ dùng từ ngữ bình thường, dân dụng nhưng như thế lại hóa ra chính xác, vừa như nói về những chuyện hàng ngày vừa toát được những hàm ý quá cao sâu. Vì thế mà làm cho những học giả đời sau khen thì cũng hết lời mà chê thì cũng ghê gớm, đủ kiểu. Nhưng có lẽ chưa có ai thấy hết được tầm vóc vời vợi trong cái xác có phần “dân dã”, chất phác của cuốn sách được vinh danh là “thiên cổ kỳ thư”.
Đó là cuốn sách dành cho mọi người. Người bình thường học được ở nó cách đối nhân xử thế, người có chí hướng thì thấy ở nó những lời khuyên chí tình chí lý, kẻ mưu đồ thì nó chính là kim chỉ nam để có được quyền lực, kế mưu thượng thừa; nó là sách giáo khoa dạy người ta “biết sống” và cuối cùng, dưới mắt một triết gia, nó là cả một nhận thức toàn diện hợp lý về thế giới.
Để có một nhận thức được cho là toàn diện và hợp lý như vậy thì tác giả của cuốn “Quỉ Cốc tử” phải là một triết gia và triết gia ấy phải có một triết thuyết đúng đắn hoặc được truyền thụ từ một ai đó siêu quần, đã xây dựng được một học thuyết đúng đắn một cách đại thể về Tự Nhiên Tồn Tại.
Chúng ta, vì nhiều lý do, chọn hướng phán đoán: tác giả của cuốn “Quỉ Cốc tử” là một trong những học trò xuất sắc nhất của Quỷ Cốc tiên sinh và Quỷ Cốc tiên sinh chính là tác giả của cái học thuyết triết học mở đường cho sự xuất hiện các học phái triết học trong bách gia chư tử. Hay nói cách khác, Quỉ Cốc tiên sinh là người khởi đầu của bách gia.
Dù không có mặt trong chính sử như một hiền triết sánh vai với những Khổng Tử, Lão Tử, Mặc Tử… nhưng chúng ta vẫn cứ bầu cho ông vào vị trí đó vì theo chúng ta (những kẻ chuyên sống theo hoang tưởng!) không ai xứng đáng hơn ông xét về tài năng, về sự phù hợp đối với tính kế thừa, về sự phù hợp thời gian và về mức độ yêu mến riêng tư của chúng ta nữa.
Sẽ không bao giờ biết được chính xác học thuyết triết học của Quỉ Cốc tiên sinh như thế nào, nhưng thông qua cuốn sách “Quỉ Cốc tử”, chúng ta có thể thấy được những quan niệm cơ bản, quan trọng, xuyên suốt làm nên học thuyết ấy cũng như tư tưởng triết học của ông.
Quỉ Cốc tiên sinh là người theo thuyết âm dương (thể hiện trong thiên bãi hạp chi thuật và tương truyền rằng ông rất giỏi thuật số học: “nhật nguyệt tượng vĩ đều thu ở bàn tay, xem việc trước, đoán việc sau, nói gì cũng linh nghiệm”); coi mọi vận động biến đổi của toàn thể thế giới các sự vật - hiện tượng đều có nguyên nhân từ sự tác động, chuyển hóa lẫn nhau giữa hai thế lực âm và dương, được coi như là hai linh khí căn nguyên của Vũ Trụ vạn vật. Nói như chúng ta thì Quỉ Cốc tiên sinh đã thấy được bản chất tương phản của thế giới các sự vật - hiện tượng. Sự tương phản làm nên động lực vận động biến đổi và chuyển hóa nhau của vạn vật.
Quỉ Cốc tiên sinh quan niệm rằng âm dương vận hành không phải tùy tiện hỗn loạn mà theo một mệnh lệnh nào đó ngoài vòng nhận biết của con người, vốn dĩ thế rồi, và không thể gọi tên được. Muốn “đóng” cái gì đó thì trước đó nó phải là “mở”, không thế đóng được khi trước đó là đóng. Một con hổ muốn phóng ra (duỗi) để vồ mồi thì trước đó phải thu mình lại (co) chứ không thể duỗi ra rình mồi rồi co lại vồ mồi được. Đó là sự đương nhiên là thế, là lẽ tư nhiên, là “qui luật” mà chúng ta ngày nay gọi . Vũ Trụ vận hành, trường tồn theo nguyên lý nhất quán và có sẵn ấy, thiên nhiên vạn vật vận động theo nguyên lý tự nhiên ấy, sinh sinh diệt diệt, biến biến hóa hóa đến không ngừng mà hồn nhiên như không. Cái nguyên lý vĩ đại ấy đã được Quỉ Cốc tiên sinh cảm nhận ra và chúng ta tạm gọi là Tự Nhiên (Lão Tử tạm gọi là Đạo. Chúng ta đã từng gọi Cái Ấy là Tồn Tại, thực ra cũng chỉ là “tạm” để phục vụ cho nhận thức, giãi bày mà thôi, vì Tồn Tại là Tồn Tại mà cũng không phải Tồn Tại!!!). Điều đó giải thích vì sao mà nội dung của cuốn sách “Quỉ Cốc tử”, xét cho đến cùng là nói về chữ “Phù”: Suy nghĩ, hành động và tạo dựng sao cho phù hợp với Tự Nhiên, phù hợp với hoàn cảnh, tuân theo Tự Nhiên và như Tự Nhiên.
Quỉ Cốc tiên sinh còn phát hiện ra được một đặc tính quan trọng nữa của thế giới, đó là sự phân định khách quan ra chủ thể và khách thể. Điều này thể hiện rõ nét ở phần “Trì Khu” và “Bản kinh âm phù”. Nhờ có sự phân định mới có sự quan sát. Nhờ có quan sát mới có được nhận định, nhận thức thực tại. Chỉ có nhận thức được thực tại đúng đắn mới có thể hành động phù hợp với thực tại, cũng có nghĩa là hành động phù hợp với lẽ tự nhiên và như thế mới có thể đạt được điều mong muốn (và điều mong muốn này cũng phù hợp với tự nhiên!). Muốn quan sát, suy nghĩ đúng thì cần làm theo chỉ dẫn của “Bản kinh âm phù”. Chính ở “Bản kinh âm phù” này, chúng ta thấy được hình bóng của “Ngũ hành” đã xâm nhập vào tư tưởng của Quỉ Cốc tiên sinh.
Ngoài ra, thiên “Phản ứng chi sách” còn cho chúng ta biết Quỉ Cốc tiên sinh có thể cũng đã thấy mối quan hệ tác động - phản ứng giữa các sự vật - hiện tượng tương tác nhau.
Cuối cùng, điều chúng ta muốn nói thêm là những vấn đề về cai trị, pháp trị hay nhân trị, danh, lợi… đều đã manh nha trong cuốn “Quỉ Cốc tử”.
Không biết học thuyết triết học của Quỉ Cốc tiên sinh ra sao, cấu trúc thế nào nhưng nó phải có nội dung cơ bản như chúng ta nêu ra ở trên. Nếu nó là một trước tác thì có lẽ cũng ngắn gọn “kiệm lời” do cản trở của trình độ chữ viết thời ấy, cũng như do những nguyên nhân nào đó khác nữa mà chúng ta không biết. Tương tự như trường hợp Khổng Tử: những tư tưởng của ông này phần lớn là do học trò sau này chép lại thành sách. Điều đặc biệt thú vị là Quỉ Cốc tiên sinh còn được người đương thời đặt biệt danh: “Vô tự đại thư”, pho sách lớn không chữ! Hay học thuyết của Quỉ Cốc tiên sinh được trước tác bằng miệng, truyền thụ cho học trò và được học trò thể hiện trong cuốn “Quỉ Cốc tử”?
Dù sao đi nữa học thuyết triết học của Quỉ Cốc tiên sinh, theo như nhận định chúng ta, là học thuyết giản dị, trong sáng và có lẽ là quan niệm đúng đắn nhất một cách đại thể về Tự Nhiên Tồn Tại của nền triết học cổ đại thế giới.
Xét về mặt thời gian thì chỉ có Khổng Tử và Dương Chu (đồng thời cuối Xuân Thu đầu Chiến Quốc) là có thể “chiếm ngôi” người mở đầu cho Bách gia Chư tử.
Nhưng xét về tính hoàn thiện của một học thuyết triết học và tính kế thừa thì học thuyết của Khổng Tử không thể cạnh tranh được. Vũ Trụ là một. Một học thuyết hoàn chỉnh, theo lẽ tự nhiên phải giải quyết được hai vấn đề tự nhiên và xã hội trên cùng một nền tảng lý luận vì suy cho cùng, vấn đề xã hội cũng thuộc về vấn đề tự nhiên.
Chỉ còn có thể là Dương Chu. Nhưng Dương Chu, đại diện cho phái Đạo gia lại không có “chiến tích” lẫy lừng như Quỉ Cốc tiên sinh, người vừa được quần chúng mến mộ lưu truyền như một huyền thoại, vừa có bốn học trò lừng danh thiên hạ, vừa có tài năng nhiều mặt, thượng thừa. Cho nên Dương Chu cũng “không có cửa” nốt.
Như vậy, vì quá yêu mến, yêu mến đến độ mù quáng Quỉ Cốc tiên sinh, chúng ta đã lặn lội đến đây để bằng mọi cách, quyết dành lại ngôi vị cho ông và đã coi như...thành công (trong hoang tưởng!!!). Chúng ta đã toại nguyện và chắc là đã đến lúc trở về.
Nhưng thôi, có công đến được thời Xuân Thu - Chiến Quốc thì tội gì mà không lang thang đây đó cho thỏa chí tang bồng. Chúng ta chẳng vội gì về, cứ “dông dài” một chập nữa cho vui đời! Hãy bắt đầu từ Khổng Tử, nhà hiền triết cổ đại được nhiều người biết đến nhất ngày nay, nhà hiền triết được tôn vinh nhất trong hàng ngũ các hiền triết của Trung Hoa cổ đại.
 ***
Con cháu Khổng Tử, thế hệ nào cũng ghi chép gia phả đầy đủ. Năm 2005, dòng họ Khổng Tử được Sách Kỷ lục Guinness ghi nhận là gia tộc có bộ gia phả lâu dài nhất trong lịch sử thế giới, với 86 thế hệ con cháu được ghi chép lại đầy đủ, trải dài trên 2.500 năm. Bộ gia phả không chỉ có giá trị to lớn với con cháu Khổng Tử, mà còn là tư liệu quý để tìm hiểu về lịch sử Trung Quốc trong 2.500 năm qua.
Khổng Tử sống ở cuối thời Xuân Thu, sinh năm 551, TCN và mất năm 479, TCN. Theo “Sử Ký” của Tư Mã Thiên thì ông ra đời ở ấp Trâu, làng Xương Bình, thuộc nước Lỗ. Khi sinh ra đầu ông có cái gồ nên được đặt tên là Khâu (cái gò), tự là Trọng Ni, họ Khổng. Cha ông là Khổng Hột lấy bà Nhan Chinh Tại mà sinh ra ông. Năm lên ba, Khâu mồ côi cha. Bà Nhan Chinh Tại lúc đó mới 20 tuổi không sợ khó khăn vất vả đã đưa Khổng Tử đến sống ở Khúc Phụ, thủ phủ nước Lỗ, mong ông được sống và lớn lên trong một điều kiện tốt hơn. Khi lớn lên, ông phải làm lụng vất vả để giúp đỡ mẹ, nhưng rất ham học. Ông từng nói "... Lúc nhỏ bị nghèo hèn, ta phải làm nhiều nghề nên biết được nhiều việc nhỏ mọn. Người quân tử cần biết nhiều như vậy không? Không cần biết nhiều nghề như vậy.".
Khi còn nhỏ, Khổng Tử thích chơi trò bầy các khay để cúng và chơi trò tế lễ. Năm ông 16 tuổi thì mẹ qua đời, Khổng Tử từ đó sống một cuộc sống thanh bạch, hàng ngày vẫn chăm chỉ học hành, mong muốn thực hiện được ước vọng của mẹ. Lớn lên có một lần họ Quí mở tiệc thết đãi những kẻ sĩ. Khổng Tử cũng đến. Dương Hổ mắng Khổng Tử:
- Họ Quí thết kẻ sĩ chứ không phải thết nhà ngươi đâu.
Khổng Tử bèn rút lui. Có lẽ ông nuôi chí tiến thủ từ đây!
Ở lứa tuổi vị thành niên, một kẻ có lòng tự trọng và ý thức được dòng dõi quý tộc của mình sẽ phải khắc vào lòng rất sâu trước lời nói có phần miệt thị ấy. Đó có thể là một nung nấu, thúc đẩy Khổng Tử sớm chuyên cần, say sưa học tập.
Khi Khổng Tử mười bảy tuổi, có quan đại phu nước Lỗ là Mạch Ly Tử ốm sắp chết, kêu người con cả là Ý Tử đến, dặn dò:
- Khổng Khâu là con cháu của bậc thánh nhân (chỉ Thành Thang, vua đầu tiên của nhà Ân), tổ tiên bị giết ở Tống, người ông sáu đời là Phất Phu Hà lại được nối ngôi làm vua, nhưng nhường ngôi cho Lệ Công. Đến đời Chinh Khảo Phụ giúp Đái Công, Vũ Công và Tuyên Công, ba lần được làm thượng khanh (...) Ông ta là người cung kính như thế đấy. Ta nghe nói con cháu bậc thánh nhân tuy không làm vua nhưng về sau, thế nào cũng có người sáng suốt. Nay Khổng Khâu ít tuổi, thích lễ, có lẽ là con người sáng suốt như người xưa nói. Khi ta chết rồi thế nào cũng phải thờ ông ta làm thầy.
Tuy có dòng dõi quý tộc nhưng đến đời cha của Khổng Tử đã thuộc lớp bình dân. Cha mất sớm, mẹ mất lúc Khổng Tử còn ở lứa tuổi thành niên nên cuộc sống của ông lúc đó có phần khó khăn, nghèo hèn. Năm mười chín tuổi ông đã lập gia thất và đi làm Ủy Lại (quan coi kho). Ông làm việc tốt, tính toán đong lường đúng đắn, sổ sách đàng hoàng nên được cất nhắc làm Tư Lại, tức coi sóc việc chăn nuôi trâu bò, dê dùng vào việc cúng tế. Sau này Mạnh Tử đã gọi “bậc thứ nhân đi làm quan” là vì thế.
Nhờ có tư chất thông minh và có chí (những thân phận nghèo hèn thường có chí vươn lên trên bước đường danh lợi) nên ở tuổi tráng niên, Khổng Tử đã có học vấn khá cao về Thi, Thư (và có thể ngoài việc quan ra, ông còn nhận dạy học cho con cái nhà khá giả, quyền quý (gia sư) để có thêm thu nhập chăng?). Sau này, có lần Khổng Tử thổ lộ: “Ta mười lăm tuổi mà đã có chí với việc học, ba mươi tuổi mà lập thân”.
Năm 22 tuổi, ông lập trường giảng học và thường được các môn đồ gọi bằng phu tử. Năm 29 tuổi, ông học đàn với Sư Tương ở nước Lỗ. Khoảng thời gian đó, chắc rằng ở Khổng Tử chưa có một chính kiến rõ ràng trong tư tưởng. Chí tiến thủ của ông là sự cố gắng tự mở mang kiến thức, mong thành người tài giỏi để mưu cầu danh lợi. Năm 30 tuổi, sẵn có lòng ham học nên dù đã đọc nhiều sách rồi mà ông vẫn chưa thấy đủ, ước được đến đến Lạc Dương, kinh đô nhà Chu, để nghiên cứu về nghi lễ, chế độ miếu đường, tìm thêm sách để học hỏi nữa. Có lẽ ông đã tâm sự điều đó với học trò của mình là Tử Lộ (cũng là người nước Lỗ, nhỏ hơn Khổng Tử chín tuổi). Tử Lộ mách nước:
- Lộ này nghe nói nhà Chu có người giữ kho sách là Lão Đam… thầy muốn thì đến đó thử xem.
Để đến được nhà Chu, phải có khoản lộ phí đáng kể mà với hoàn cảnh của Khổng Tử lúc đó là một vấn đề nan giải. Một học trò khác của Khổng Tử là Nam Cung Kỉnh Thúc thấy vậy, tâu với vua Lỗ:
- Xin nhà vua cho tôi cùng Khổng Tử đến đất Chu hỏi về lễ.
Vua nước Lỗ cho ông ta một cỗ xe, hai con ngựa, một người đầy tớ. Ông ta cùng Khổng Tử ra đi.
Khổng Tử học hỏi khá lâu ở Lạc Ấp, kinh sư nhà Chu. Ông tìm hiểu mọi việc rất kỹ càng, xem xét những nơi miếu đường cùng những nơi tế giao, tế xã; yết kiến Lão Tử hỏi về lễ, gặp Tràng Hoành hỏi về nhạc.
Hình như trước Lão Tử, Khổng Tử đã phô diễn học vấn và ước vọng của mình nên Lão Tử có nói:
- Những người anh nói đều tan xương nát thịt cả rồi, chỉ còn lời nói của họ thôi. Vả lại, người quân tử gặp thời thì xe ngựa nghênh ngang, không gặp thời thì cỏ bồng xoay chuyển. Ta nghe nói: người buôn giỏi thì biết giấu của báu, khiến người ta thấy như không có gì, người quân tử có đầy đức tốt thì diện mạo như ngu si. Anh nên bỏ cái khí kiêu ngạo cùng cái lòng ham muốn nhiều, cái vẻ hăm hở cùng cái chí tham lam đi. Những cái ấy đều không có ích gì cho anh đâu. Ta chỉ nói với anh có thế thôi.
Khi Khổng Tử cáo từ ra về, Lão Tử tiễn Khổng Tử, nói:
- Ta nghe nói người giàu sang lấy tiền bạc để tiễn nhau, người nhân đức dùng lời nói để tiễn nhau. Ta không thể là người giàu sang, nhưng trộm lấy tiếng là người nhân đức, xin nói lời này tiễn anh: “Kẻ thông minh và sâu sắc là gần cái chết vì họ khen chê người ta một cách đúng đắn. Kẻ giỏi biện luận, đầu óc sâu rộng làm nguy đến thân mình vì họ nêu lên cái xấu của người khác. Kẻ làm con không có cách gì để giữ mình, kẻ làm tôi không có cách gì để giữ mình”.
(Nghe những lời ấy, chúng ta có cảm giác như Lão Tử đang nói lý luận về quyền mưu. Và có lẽ Lão Tử đã thấy được chân tướng bồng bột, hiếu thắng của tuổi trẻ, nhưng lại cũng yêu mến cái chí lập thân của Khổng Tử nên khuyên bảo thế chăng?).
Sự kiện Khổng Tử đến nhà Chu khảo Lễ xảy ra khoảng thời gian nào và có gặp Lão Tử hay không vẫn là một nghi vấn. Theo ý kiến chúng ta (cũng chẳng có cơ sở xác thực gì!) thì Khổng Tử đến Chu trên danh nghĩa là tìm hiểu lễ nhà Chu (chính thống) cho Lỗ, nhân tiện đó mà bồi bổ thêm kiến thức cho mình. Chỉ có vậy thì việc vua Lỗ chu cấp kinh phí cho Khổng Tử (một người có sở học nhưng chưa có tiếng tăm gì) nghe hợp lý hơn. Nếu lúc đó đúng thực Lão Tử là quan sử, giữ kho sách nhà Chu và đã là người nổi danh rồi thì Khổng Tử không thể không muốn gặp Lão Tử được.
Như đã nói, đầu thời Xuân Thu đã xuất hiện khái niệm âm dương, ngũ hành rồi. Vạn vật, kể cả con người đều là do sự tương hợp của năm yếu tố kim, mộc, thủy, hỏa, thổ mà ra. Âm dương là nguyên lý vận động của vạn vật. Những ý niệm ấy đều do các quan sử nhà Chu đề xướng (Bá Dương Phụ đề xướng khái niệm âm dương, Sử Bá đề xướng khái niệm ngũ hành: có thể hai người đó chỉ là một người. Cũng có thể là do công sức của nhiều người và quan sử nhà Chu đúc kết lại được). Như một lưu truyền mà Lão Tử, cũng là một quan sử nhà Đông Chu, đã tiếp thu được những quan niệm ấy. Vì lẽ đó có thể cho rằng, trong giai đoạn làm quan sử nhà Chu, nếu chưa có được một nhận thức hoàn chỉnh có tính hệ thống về Vũ Trụ - Nhân Sinh thì chí ít trong Lão Tử cũng đã hình thành những ý tưởng cơ bản của học thuyết “Đạo đức kinh” sau này.
Vậy có rất nhiều khả năng là Khổng Tử đã ra mắt Lão Tử. Lão Tử không những giảng lễ mà còn truyền bá tư tưởng của mình cho Khổng Tử nữa.
Trong bộ “Tiểu Đái ký”, thiên “Tăng tử vân” có thuật lại việc Khổng Tử kể lại lời của Lão Tử về giữ bài vị tổ tiên, chôn cất, để tang. Trong đó câu chuyện thế này: Một hôm Khổng Tử theo Lão Tử làm trợ táng ở Hạng Đãng (?), giữa đường gặp nhật thực. Lão Tử bảo: “Khâu! Ngừng lại, đặt quan tài ở lề đường bên phải, ngưng tiếng khóc để đợi sự biến đổi”. Khi hết nhật thực, đám tang mới lại tiếp tục đi. Lão Tử bảo: “Như vậy là lễ!”.
Một người đã gắn bó với Thi, Thư và sùng tín lễ, lần đầu tiên tiếp xúc với những tư tưởng mới lạ và quá xa vời, có vẻ phi thực tế ấy sẽ khó có thể mà hiểu ra được. Vì thế mà khi về nước Lỗ, Khổng Tử đã bảo với học trò:
- Con chim, ta biết nó bay, con cá, ta biết nó biết lội, con thú ta biết nó biết chạy. Đối với loài chạy thì ta có thể dùng lưới để săn; đối với loài lội thì ta có thể dùng câu để bắt; đối với loài bay thì ta có thể dùng tên để bắn (ý nói có khả năng hiểu được, nhận thức được), đến như con rồng cưỡi mây cưỡi gió lên trời, ta không sao biết được! Nay gặp Lão Tử, ông ta có lẽ là con rồng chăng?
Khi Khổng Tử từ nhà Chu trở về, ông được vua Lỗ tin dùng; bắt đầu có tiếng, học trò đến học ngày một nhiều.
Năm thứ 20 đời Lỗ Chiêu Công, lúc đó Khổng Tử được ba mươi tuổi và có việc Tề Cảnh Công đến gặp để hỏi về lễ.
Năm 516 TCN, Quí Bính Tử và Hậu Chiêu Bá vì việc chọi gà mà có tội với Lỗ Chiêu Công. Lỗ Chiêu Công đem binh đánh Quí Bính Tử. Cả ba họ Quí, Mạnh và Thúc hợp lực đánh trả. Lỗ Chiêu Công thua chạy về nước Tề. Vua Tề cho Lỗ Chiêu Công ở ấp Can Hầu. Khổng Tử theo qua Tề, ở nhà Cao Chiêu Tử để được yết kiến Tề Cảnh Công. Ở Tề, ông cùng Thái sư nước Tề bàn về nhạc, say mê nghe nhạc Thiều của vua Thuấn, rồi học ba tháng mà không biết đến mùi thịt, người nước Tề khen ngợi.
Khi được Tề Cảnh Công vời hỏi về chính trị, Khổng Tử nói:
- Vua ra vua, tôi ra tôi, cha ra cha, con ra con (Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử. Có người dịch là: Vua theo đúng đạo vua, bề tôi theo đúng đạo bề tôi, cha theo đúng đạo cha, con theo đúng đạo con).
Rất nhiều người cho rằng đó là câu nói bất hủ, nêu bật được nội dung cốt lõi của thuyết “Chính danh”, thuyết có tính chất xương sống trong hệ thống lý luận triết học của Nho gia.
Đối với chúng ta thì cũng cần phải suy nghĩ lại một chút. Cái quan niệm đạo lý vua hiền, tôi trung, cha hòa, con hiếu đã hòa vào máu huyết những người Á Đông như chúng ta từ lâu rồi. Cho nên khi nói “vua cho ra vua” thì chúng ta hiểu ngay “vua phải là vua hiền”. Chứ thực ra, công tâm mà nói thì câu trên của Khổng Tử là một câu tối nghĩa, thậm chí có thể cho là “mù tịt”; hệt như “Tồn Tại là Tồn Tại”. Trong xã hội ai cũng thấy rằng vua có năm bảy kiểu vua, tôi có năm bảy kiểu tôi, cha có năm bảy kiểu cha, con có năm bảy kiểu con và không phải kiểu nào cũng tốt hoặc cũng xấu. Ngay một kiểu cũng có thể xấu tốt tùy thời, tùy người nhận định (không phải vì vậy mà chúng ta phủ nhận tính tuyệt đối của xấu, tốt. Có những nhân vật được cho là tốt ở mọi thời đại. Tốt ở mọi thời đại chính là cái tốt được đánh giá bởi đại chúng. Mà được đại chúng đánh giá như vậy thì có nghĩa là lúc sinh thời, người đó đã sống và hành động phù hợp với nguyện vọng thiết tha của đại chúng, ai cũng như ai đều được yên ổn làm ăn, đều được hưởng tự do, bình đẳng, bác ái…)
Nếu “Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử” được thốt ra từ miệng vua Kiệt, Trụ thì hậu thế sẽ chẳng hiểu gì hết, hoặc hiểu theo kiểu như: “quân xử thần tử, thần bất tử bất trung, phụ xử tử vong, tử bất vong bất hiếu” chăng?
Khổng Tử là một nhân cách lớn, ước mơ về một xã hội tươi đẹp của ông cũng chính là ước mơ của đại chúng. Do đó mà được các thế hệ trí thức đời sau kính trọng và câu nói đó của ông được ngầm hiểu theo nghĩa đẹp đẽ nhất…Tuy nhiên, vì nhận thức thị phi trên cơ sở những biểu hiện được cho là tốt đẹp trong lịch sử, được rút ra từ những thời đại hưng thịnh rực rỡ (thời Nghiêu Thuấn, thời đầu Nhà Chu), thiếu tự nhiên, nên ông đã không thấy được cái nguồn gốc tự nhiên về quan niệm chính nghĩa, do đó cũng không thể biết được sự chính nghĩa đích thực và tối hậu "nằm" ở đâu trong đương thời mà ông đang sống.
Được một thời gian, biết Tề Cảnh Công không dùng mình, Khổng Tử lại trở về Lỗ. Bấy giờ, ông đã bốn mươi hai tuổi.
Vua Lỗ Chiêu Công chết ở ấp Can Hầu, Lỗ Định Công lên ngôi. Năm thứ năm đời Lỗ Định Công (năm 506 TCN), Quí Bính Tử chết, Hoài Tử nối nghiệp; họ Quí vẫn chuyên quyền, lấn át vua Lỗ. Oái ăm thay, chính Quí Hoài Tử lại bị một gian thần là Dương Hổ ức hiếp, khinh thường. Nước Lỗ từ đại phu trở xuống đều lộng quyền, rời khỏi con đường chính đạo; loạn từ trên xuống dưới.
Từ ngày về nước Lỗ, Khổng Tử không còn ra làm quan mà ở nhà an định, biên soạn lại Thi, Thư, Lễ, Nhạc đồng thời tiếp tục thu nhận học trò. Học trò ngày càng đông, có nhiều người ở xa, nghe tiếng, cũng đến học. Có thể thời kì này nhân sinh quan của ông đã định hình và tương đối hoàn chỉnh để được coi như một “đạo” (một hệ thống lý thuyết mang tính triết học?).
Năm 502 TCN, khi Khổng Tử được bốn mươi chín tuổi, Lỗ Định Công mới ra làm quan cai trị ấp Trung Đô, kinh đô của Lỗ. Được một năm, cả bốn phương đều noi theo xem là mẫu mực. Năm sau, ông được cất nhắc lên chức Tư Không (coi việc xây dựng), rồi làm Đại Tư Khấu (coi về pháp luật).
Năm thứ 14 đời Lỗ Định Công, Khổng Tử năm mươi sáu tuổi, rời chức Đại Tư Khấu, để giữ chức Á Tướng (tướng quốc thứ hai, phó tướng quốc). Thấy Khổng Tử có vẻ mừng rỡ, một học trò nói:
- Tôi nghe thầy nói: “Người quân tử khi tai họa đến thì không sợ, khi phúc đến thì không mừng”.
Khổng Tử nói:
- Câu nói ấy cũng có đấy. Nhưng chẳng có câu : “Vui vì ở địa vị cao quí mà khiêm tốn đối với mọi người” hay sao?
(Có thể cho đó là một câu trả lời biện bác được không?)
Làm quan nước Lỗ được sáu năm thì thất sủng, Khổng Tử bỏ sang nước Vệ ở tại nhà bà con của học trò Tử Lộ. Lúc này ông đã năm mươi lăm tuổi. Tại sao ở độ tuổi đã luống ấy, ông không quay về nghề dạy học trước đây có lẽ hợp lý hơn, mà lại ra đi? Hay ông tin rằng cái đạo mà ông tâm niệm vẫn có thể giúp ông làm nên danh trạng?
Ở nước Vệ mười tháng, nước Vệ không dùng, Khổng Tử cùng đám học trò đi về phía đông, định đến nước Trần. Muốn đến nước Trần thì phải qua đất Khuông. Người Khuông tưởng Khổng Tử là Dương Hổ (có lần xâm phạm đến họ) bèn giữ thầy trò Khổng Tử lại. Có người can thiệp, người Khuông biết lầm thả ra. Khổng Tử qua đất Bồ, sau hơn một tháng lại quay trở lại nước Vệ, ở trọ nhà Cao Bá Ngọc, một người bạn của ông. Được một tháng, ông qua nước Tào rồi đến nước Tống, sau đó đến nước Trịnh và phiêu dạt sang nước Trần, ở hơn một năm tại nhà Trịnh Tử, một viên quan giữ thành. Sau đó Khổng Tử trở lại đất Bồ, bị người Bồ bắt giữ, lại thả ra. Ông về đất Vệ. Vệ Linh Công không dùng Khổng Tử. Ông lại ra đi, định về phía tây yết kiến Triệu Giản Tử. Nhưng khi tới bờ sông Hoàng Hà, hay tin Giản Tử đã chết, ông than: “Dòng sông này đẹp thật. Nhưng số mệnh đã định, không cho ta qua con sông này” và ông lại quay trở lại Vệ (lần thứ tư), ở nhà Cao Bá Ngọc. Lần này, Vệ Linh Công cứ hỏi ông về chiến trận, ông đáp:
- Về việc tế tự, lễ khí thì tôi đã từng được nghe, còn việc quân lữ thì tôi chưa học.
Sáng hôm sau, Khổng Tử rời Vệ sang Trần. Được một thời gian thì qua Thái. Mấy năm này thầy trò Khổng Tử rất long đong, lẩn quẩn ở Trần và Thái.
Rồi từ Thái, Khổng Tử và học trò đến Sở, lại quay lại Vệ. Thời gian này là năm thứ năm đời Lỗ Ai Công, Khổng Tử đã 63 tuổi.
Khi tới Vệ, Tử Lộ hỏi Khổng Tử:
- Nếu vua Vệ giữ thầy lại mà nhờ thầy coi chính sự thì thầy làm việc gì trước?
Khổng Tử đáp:
- Tất phải chính danh trước hết chăng?
Tử Lộ nói:
- Vậy ư? Thầy thật viển vông quá… Sao lại phải là chính danh?
Khổng Tử đáp:
- Do ơi, anh quê mùa quá! Danh không chính thì ngôn không thuận, ngôn không thuận thì sự việc không thành, việc không thành thì lễ, nhạc không hưng, lễ nhạc không hưng thì hình phạt không trúng, hình phạt không trúng thì dân không biết làm sao cho phải. Là người quân tử, đã làm điều gì thì phải biết tên việc đó, và nhất định làm đựơc việc đó. Cho nên người quân tử chớ nên cẩu thả trong lời nói của mình.
Trong suốt gần 20 năm, từ năm 34 tuổi, Khổng Tử dẫn học trò đi khắp các nước trong vùng để truyền bá các tư tưởng và tìm người dùng các tư tưởng đó. Có nơi ông được trọng dụng nhưng cũng có nơi ông bị coi thường. Khổng Tử cùng các học trò đi qua các nước: Vệ, Khuông, Trần, Tống, Thái, Sở, mong thuyết phục các vua chư hầu chịu đem Đạo của ông ra ứng dụng để đem lại thái bình cho dân chúng. Nhưng Đạo của ông là Vương Đạo (đạo trị quốc) nên đi ngược ý đồ Bá Đạo (đạo chinh phạt) của các vua chư hầu và quyền lợi của các quan Đại phu nên các vua chư hầu đều không dám dùng ông. Ông từng cảm thán "Ai mà không phải đi qua cửa rồi mới rời khỏi nhà ? Vậy mà tại sao không có ai đi theo đạo này ?". Khi bị vây ở đất Khuông, Khổng Tử nói "Sau khi vua Văn Vương mất, tất cả mọi văn hóa, lễ nhạc đều không phải ở nơi ta cả ư ? Nếu trời muốn cho nền văn hóa này mất đi, thì sao khi vua Văn Vương chết, lại ủy thác cho ta nắm giữ nền văn hóa này làm gì ? Còn nếu trời đã không muốn để mất nền văn hóa này, thì người Khuông kia làm gì được ta ?". Sau 14 năm đi chu du các nước không thành công, ông trở về nước Lỗ, có quan Đại Phu Quý Khang tử sai Công Hoa ra đón ông. Phu nhân của Khổng Tử là bà Thượng Quan đã mất trước đó một năm. Các học trò của ông nói về giai đoạn ông đi các nước truyền bá đạo học:

Tử Cầm hỏi Tử Cống rằng: "Thầy Khổng Tử của chúng ta mỗi khi đến một nước nào đều được tham dự vào công việc chính sự của nước đó. Đây là do thầy chúng ta yêu cầu hay do người ta chủ động mời thầy ?"

Tử Cống nói: "Thầy chúng ta có đức tính ôn, lương, cung, kiệm, nhường, nên mới được vinh dự đặc biệt đó. Phương pháp đề xuất yêu cầu được tham gia chính sự của thầy chúng ta hoàn toàn khác với phương pháp xin việc của người khác. (Luận ngữ)
Sau khoảng 12 năm long đong, lận đận tìm đất hành đạo mà không thành, năm 484 TCN, Khổng Tử quay về quê hương nước Lỗ. Lúc này ông đã là một ông già 67 tuổi.
Về già Khổng Tử mới thích Kinh Dịch, đọc say mê, bìa da ba lần đứt. “Nếu ta còn sống vài năm nữa thì ta sẽ sáng tỏ về Kinh Dịch”, Khổng Tử đã nói như vậy.
Tâm trạng Khổng Tử về cuối đời có vẻ buồn (đối với chúng ta thì cả cuộc đời ông là một nỗi buồn khôn tả!). Có lần ông thở than với Tử Cống (một học trò yêu của mình):
- Không ai hiểu ta.
Tử Cống nói:
- Sao lại không hiểu thầy?
Khổng Tử nói:
- Chẳng oán trời, chẳng trách người. Học điều thấp mà biết được điều cao, hiểu ta chỉ có trời chăng? Những kẻ không xuống chí, không nhục thân mình là Bá Di, Thúc Tế chăng? Liễu Hạ Huệ, Thiếu Liên, thối chí và làm nhục thân mình chăng? Ngư Trọng, Di Dật ở ẩn, lời nói phóng khoáng, thân trong sạch, bỏ làm quan là hợp quyền nghi. Ta khác các ông ấy: không thể làm được như thế nhưng cũng không phải không thể làm được như thế.
Có thể coi đó là sự tự đánh giá ngắn gọn về cuộc đời mình của Khổng Tử. Nó bộc lộ cái mâu thuẫn sâu thẳm trong ông, đó là sự bất nhất quán giữa đạo và hành.
Khổng Tử nói tiếp:
- Không, Không! Người quân tử lo rằng mình chết rồi mà cái tên của mình không được nhắc đến. Nếu đạo của ta không được dùng thì ta biết lấy gì để làm đời sau thấy ta?
Sau đó Khổng Tử dốc lòng viết kinh Xuân Thu, chép từ thời Lỗ Ẩn Công (722-71?) đến năm thứ 14 đời Lỗ Ai Công (481 TCN), bao gồm 12 đời vua; lời ngắn gọn nhưng ý rộng; để “Đời sau biết Khâu này qua sách Xuân Thu, mà cũng bắt tội Khâu này qua sách Xuân Thu” (lời Khổng Tử).
Năm 479 TCN, một hôm Tử Cống tới thăm. Khổng Tử chống gậy, dạo bước ở trước cửa. Khổng Tử nhìn ra, thấy Tử Công, nói:
- Tứ, sao anh tới trễ vậy?
Ông rơi nước mắt nói lời cuối cùng với Tử Cống:
- Thiên hạ loạn từ lâu mà không một ông vua nào chịu theo lời khuyên của thầy. Thầy sắp đi đây!
Bảy ngày sau, ông mất ở Lỗ, vào tháng tư năm 16 đời Lỗ Ai Công, thọ 72 tuổi.
 ***
Tiểu sử của Khổng Tử được ghi chép rõ ràng nhất trong số các hiền triết thuộc Bách gia Chư tử. Tuy vậy cũng còn rất nhiều khoảng mù mờ. Người đời sau thêm bớt nhiều điều với mục đích đề cao Nho gia cũng có, chê bai Nho gia cũng có. Do đó để nhận biết được con người Khổng Tử cùng với những tư tưởng đúng thực của ông là một điều khó khăn.
Không thể đánh giá chính xác một nhân vật lịch sử một khi chúng ta còn những định kiến chủ quan (nhưng làm cách nào để không có định kiến được nhỉ?). Để thấy được gần đúng nhất về Khổng Tử, theo chúng ta nghĩ, ngoài việc tìm hiểu điều kiện hoàn cảnh xã hội thời ông sống cũng như hoàn cảnh dòng tộc, gia đình đã sinh ra ông (biết đâu chừng những tố chất tinh thần của ông chính là kết quả của sự khát vọng chưa đạt được của ông cha ông. Có những điều hôm qua còn cho là mê tín, tâm linh thì hôm nay đã là khoa học!), còn phải cố gắng tạm quên mặt “thánh nhân” của ông đi; coi ông như một con người bình thường như chúng ta, với đầy đủ những yêu, ghét và dục vọng đời thường.
Không còn bàn cãi gì nữa, Khổng Tử là một người hiếu học nên có vốn kiến thức hơn người về thi, thư, lễ, nhạc từ lúc còn rất trẻ. Là hậu duệ của một dòng tộc đã có thời rạng rỡ xưa kia mà hiện tại mang thân phận nghèo hèn, bị coi thường (câu nói của họ Quý) tạo nên một tâm lý mặc cảm, tự ái, đồng thời cũng hun đúc một khát vọng mãnh liệt về công danh mà thực chất là mưu cầu danh lợi. (Mấy ai mà thoát được vòng danh lợi, vả chăng bản thân việc mưu cầu danh lợi là không xấu xa mà cũng chẳng tốt. Đó là tự nhiên! Chỉ có cách thức và mức độ mưu cầu danh lợi làm cho nó trở nên phù hợp hay không phù hợp, chính nghĩa hay phi nghĩa, tốt hay xấu mà thôi!).
Học là để thành tài, “nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”, ai cũng thế cả, Nhưng học thi, thư, lễ, nhạc để lập thân thì phải có khát vọng lớn, và muốn công thành danh toại thì chỉ có ra làm quan, còn cách nào khác đâu?
Là một người ham hiểu biết, si mê thi, thư, lễ, nhạc (nghe và học nhạc Thiều của vua Thuấn miệt mài suốt ba tháng trời “không biết đến mùi thịt”, khen là “tận mỹ, tận thiện”) nên Khổng Tử cũng là người hoài cổ, ngưỡng mộ, tôn sùng những thời hưng vượng đã mất (thời Nghiêu Thuấn, Chu Công). Có lẽ vì thế mà ông coi chế độ quân chủ là cấu trúc xã hội phải thế và bất biến, sự thịnh suy của một đất nước chỉ phụ thuộc vào sự tốt xấu của vua chúa và nền lễ, nhạc của nước đó. Câu nói “Quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử” là sự bộc lộ tư tưởng ấy của Khổng Tử và là sự khởi phát ra thuyết chính danh sau này của Nho gia. Khổng Tử không thấy được mối quan hệ gắn bó, tương hỗ giữa xã hội loài người và giới tự nhiên; sự không thể tách rời được của hai bộ phận tự nhiên ấy (vì xã hội loài người cũng là một bộ phận của Tự Nhiên!). Do đó ông cũng không thể tiếp thu được cái cốt lõi tư tưởng duy vật khách quan hết sức đúng đắn của Lão Tử, dù rất nể phục. Khoảng cuối đời, ông từng nói: “Thuật nhi bất tác, tín nhi hiếu cổ, thiết tỉ ư ngã Lão Bành” (Ta chỉ truyền thuật mà không sáng tác, tin và thích thời xa xưa; ta trộm ví ta với Lão Bành). Có người cho rằng Lão Bành là Lão Tử (có thể Lão Tử sống lâu nên Khổng Tử nói vui là Lão Bành hoặc đời sau muốn đề cao Nho gia mà đổi chữ chăng?).
Khát vọng công danh và tôn sùng thời tươi đẹp đã mất, đã thầm kín ám ảnh Khổng Tử suốt đời, biểu hiện ra như một người đa sầu đa cảm và hành động nhiều khi mâu thuẫn với chính mình, thiếu sáng suốt.
Chẳng hạn như Công Sơn Phất Nhiễu, chống lại vua Lỗ (Hoài Tử), cho người mời Khổng Tử giúp mình. Ông định nhận lời; nói với Tử Lộ:
- Nhà Chu, Văn, Võ nổi lên ở Phong Sào mà làm vua, bây giờ đất Phí tuy nhỏ, nhưng có thể làm được không?
 Tử Lộ xẳng giọng cản:
- Không có nơi nào để hành đạo thì thôi, hà tất phải đến với họ Công Sơn?
Khổng Tử đáp:
- Người ta vời ta, hẳn là có ý dùng ta. Nếu dùng ta thì ta sẽ phục hưng đạo nhà Chu ở phương đông (tức ở Lỗ) (?)
Nói vậy nhưng ông không đi.
Lần khác, khi được Lỗ Định Công giao cho chức quyền Tướng Quốc (Á tướng), Khổng Tử tỏ vẻ mừng rỡ. Một học trò thấy vậy nói:
- Tôi nghe thầy nói: “Người quân tử khi tai họa đến thì không sợ, khi phúc đến thì không mừng.”
Khổng Tử nói:
- Câu nói ấy cũng có đấy. Nhưng chẳng có câu: “Vui vì ở địa vị cao quý mà khiêm tốn đối với mọi người” hay sao?
Hoặc khi Bật Hật chiếm Trung Mâu, phản chủ, phái người mời Khổng Tử giúp mình. Ông cũng định nhận lời, Tử Lộ ngăn:
- Trước kia tôi nghe thầy dạy: “Người quân tử không vào đảng với kẻ nào gây điều bất thiện”. Bật Hật chiếm đất Trung Mâu, làm phản mà thầy muốn qua với y thì sao phải lẽ?
Khổng Tử đáp:
- Đúng, ta có nói vậy. Nhưng ta chẳng từng nói rằng cái gì cứng rắn thì mãi cũng không mòn sao? Ta chẳng từng nói rằng cái gì thực trắng thì nhuộm cũng không đen sao? Ta đâu phải trái bầu khô người ta treo mà không ăn được ư?
Nói vậy nhưng ông cũng không đi.
Nếu không có Tử Lộ, không biết đời Khổng Tử sẽ ra sao?!
Thêm một câu chuyện nữa. Khổng Tử gọi Tử Lộ đến hỏi:
- Kinh Thi nói: “Chẳng phải con tê ngưu, chẳng phải con hổ mà cũng lang thang ở đồng bằng”. Đạo của ta sai chăng? Tại sao ta lại gặp phải cảnh này (thầy trò Khổng Tử bị vây, tuyệt lương ở giữa cánh đồng thuộc khoảng giữa nước Trần và nước Thái).
Tử Lộ đáp:
- Theo ý tôi có lẽ vì chúng ta chưa “nhân” chăng, nên người ta chưa tin chúng ta? Có lẽ chúng ta chưa “trí” chăng nên người ta không theo đạo chúng ta?
Khổng Tử không đồng ý. Ông hỏi Tử Cống đúng câu hỏi ấy, Tử Cống đáp:
- Đạo của thầy cao quá cho nên thiên hạ không ai dung nạp được thầy. Thầy nên hạ thấp xuống một chút.
Khổng Tử cũng không bằng lòng, còn có ý trách. Ông kêu Nhan Hồi vào và hỏi đúng câu hỏi như trước. Nhan Hồi thưa:
- Đạo của thầy cao quá cho nên thiên hạ không ai theo được, nhưng thầy cứ thế mà làm. Người ta không dung nạp được thầy thì có hại gì? Chính vì người ta không dung nạp được thầy thì thầy mới là bậc quân tử. Đạo không được trau dồi, đó là điều chúng ta lấy làm xấu hổ. Đạo đã trau dồi rồi mà người ta vẫn không dung nạp, thì đó là điều xấu hổ của kẻ làm vua. Người ta không dung nạp được thầy thì có hại gì? Về sau người ta sẽ thấy thầy là bậc quân tử.
Khổng Tử hớn hở cười:
- Đúng lắm! Hỡi người con họ Nhan, nếu nhà ngươi giàu có thì ta sẽ là người quản lý của cải cho nhà ngươi.
Mặt trái của con người Khổng Tử chỉ có thế. Ngoài ra, ông là một người giàu lòng nhân ái, liêm trực và uyên bác. Ông có nhiều câu tự nhận xét mình hết mực khiêm tốn, chân thành như những câu sau đây (trích trong “Luận ngữ”):
“Trầm mặc suy nghĩ rồi ghi vào lòng, học không chán, dạy người không mỏi, ngoài ra ta có cái gì khác đâu?”
“Đạo đức không sửa tiến, học vấn chẳng giảng tập, nghe được điều nghĩa mà không làm theo, có lỗi mà không sửa đổi, đó là những mối lo của ta.”
“Ai dâng lễ để xin học thì từ một bó nem trở lên, ta chưa từng (chê là ít) mà không dạy.”
“Phú quí mà có thể cầu được thì dù làm kẻ cầm roi đánh xe hầu người (công việc tầm thường), ta cũng làm; phú quí mà không thể cầu được, thì ta cứ làm theo sở thích của ta.”
“Ăn gạo xấu, uống nước lã, co cánh tay mà gối đầu, trong cảnh đó cũng có cái vui. Làm điều bất nghĩa mà được giàu sang thì ta coi như mây nổi.”
“Cho ta sống thêm ít năm nữa để học Kinh Dịch thì có thể không lầm lỗi lớn.”
“Ta chẳng phải trời sanh ra đã biết đạo lý, ta thích văn hóa cổ mà siêng năng tìm học.”
“Bậc thánh nhân, ta chưa từng được thấy, thấy được bậc quân tử đã là khá rồi. Bậc thiện nhân ta chưa được thấy; thấy được người tiết tháo không thay đổi là khá rồi: Không có mà bảo là có, rỗng mà bảo là đầy, thiếu mà bảo là dư, như vậy khó bảo là tiết tháo không thay đổi được.”
“Về học thuật, sách vở thì họa chăng ta cũng bằng người; còn làm người quân tử thì ta chưa được.”
“Làm được bậc thánh với nhân thì ta đâu dám. Bất quá ta học làm (thánh, nhân) mà không chán, dạy người mà không mệt, chỉ có thể gọi được như vậy mà thôi.”
Khổng Tử là tấm gương sáng ngời về tinh thần hiếu học, ý chí tiến thủ, và cách sống nhân văn. Thuở đầu dạy học có thể chỉ là mưu sinh nhưng về sau trở thành niềm say mê truyền bá cái hay cái đẹp trong thi, thư, lễ, nhạc; chỉ bảo học trò cái lẽ sống sao cho cao thượng, nhân ái; thành những người tốt ở đời. Ông được kính phục chính là vì “học không chán, dạy không mệt”. Sự nghiệp chính trị của ông là một thất bại vì “đạo” của ông phi thực tế, nhưng sự nghiệp giáo dục của ông là vĩ đại vì nó đề cao lương tri con người. Trong cuốn “Khổng Tử” Nguyễn Hiến Lê có viết: “Người Trung Hoa đời sau tôn ông là một ông thánh, vì ông đã tặng cho họ một triết lý rất nhân bản, đào tạo cho họ biết bao nhiêu thế hệ kẻ sĩ quân tử. Danh hiệu đó rất xứng đáng.”
Khổng Tử là một nhà giáo lớn. Nội dung giảng dạy chính yếu của ông là thi, thư, lễ, nhạc, nghĩa là những giá trị văn hóa truyền thống, thông qua đó mà giáo huấn học trò biết hiếu học, tu thân, sửa mình, yêu người. Là một người hiếu cổ, hoài cổ, không thấy được nguồn gốc sâu xa của tồn tại xã hội là tự nhiên, (mà một trong những biểu hiện chủ yếu của nó là ước nguyện của đại chúng, đẩy thuyền cũng là dân mà làm lật thuyền cũng là dân), nên đạo của ông mang tính triết lý nửa vời, hình thức, nặng cảm tính, thiếu khoa học, hầu như là những đúc kết rút ra từ lịch sử (từ kinh nghiệm đầy tính chủ quan) mà chưa thực sự dựa trên cơ sở có tính qui luật của sự vận động xã hội-nhân sinh.
Từ những suy nghĩ ấy, chúng ta cho rằng Đạo Nho thuở ban đầu (thời Khổng Tử) chưa phải là một học thuyết triết học có hệ thống, đúng nghĩa về tự nhiên-xã hội. Chỉ sau này, khi những người của phái Nho gia đã bổ sung thêm những triết lý về tự nhiên (thể hiện nhiều trong Kinh Dịch), thì mới có thể tạm coi nó là một học thuyết triết học. Điều lạ lùng đáng nghi ngờ ở đây là: hai bộ phận triết lý xã hội và triết lý tự nhiên không có mối liên hệ chặt chẽ , biện chứng nào cả. Những gì được người đời nay cho là đạo Khổng nói về tự nhiên (trong Kinh Dịch) lại hầu như cũng là những diễn giải đã được xác minh đích thực là của Đạo Lão. Lịch sử xa xưa thật nhiều mịt mù nhưng có những mịt mù chỉ vì hậu thế chưa...sáng tỏ!
Có thể tin được rằng, Khổng Tử thuở sinh thời, đã “thấy” được quan niệm triết học của Lão Tử; có thể cũng tin phần nào, nhưng chỉ ở mức hời hợt hình thức, chỉ mới thấy được cái thể hiện bên ngoài mà chưa hiểu được cái sâu sắc bên trong. Đã có lần Khổng Tử đứng tư lự bên dòng sông, trước câu hỏi lớn:
“Thệ giả như tư phù, bất xá chứ dạ?” (Trôi chảy mãi thế ư, ngày đêm không ngừng trôi?!)
Hay cũng có lần ông thốt lên:
“Dư mục vô ngôn… Thiên hà ngôn tại, tứ thời hành yên, bách vật sinh yên. Thiên hà ngôn tại!” (Ta muốn không nói… Trời có nói gì đâu mà bốn mùa cứ thế vận hành, mà sao vạn vật cứ thế sinh tồn. Trời có nói gì đâu!). Cái lẽ tự nhiên ấy đã làm ông băn khoăn để rút cuộc ông lại hiểu thuần túy là thiên mệnh huyền bí!?.
Về cuối đời, Khổng Tử mới chuyên tâm nghiên cứu Kinh Dịch và có lẽ cũng đã phần nào nhận thức được mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng của sự vật, luật nhân quả:
“Nhà nào tích điều thiện, sẽ có thừa điều lành, nhà nào tích điều ác, sẽ có thừa điều dở. Tôi giết vua, con giết cha, không phải nguyên nhân một tối một sớm gây nên. Nguyên nhân do lai của chúng dần dần ở bên trong vậy. Chỉ vì không sớm biện chứng ra đó thôi. Cho nên Kinh Dịch nói: “Đi trong sương mà băng giá tới” là nói thuận với lẽ biến hóa của Vũ Trụ vậy.”
(Dịch - Quẻ Khôn)
Như vậy, cái nội dung mà Khổng Tử gọi là “đạo” của ông, thực chất là bài giảng lớn về luân thường, đạo lý trên cơ sở suy lý, lập luận được rút ra còn "nặng" tính kinh nghiệm từ những xã hội tươi đẹp đã qua mà ông tôn sùng nhằm hướng con người đến một nhân sinh quan cao thượng, độ lượng, biết yêu thương mình và yêu thương người. Về sau này nó mới được phát triển thêm và được mọi người coi như một học thuyết triết học, làm đối trọng với trường phái triết học của Đạo gia, một trường phái (mà chúng ta cho là) “thuần” triết học, xuất hiện trước Nho gia và Lão Tử là người đi tiên phong.
Tóm lại, nếu chỉ xét trên phương diện giải thích những hiện tượng xã hội nhân sinh thì có thể coi Nho gia và Đạo đức gia là hai học thuyết tương phản nhau, và các trường phái triết học xuất hiện sau này đều có nguồn gốc xuất phát từ hai “gia” này, mà nói cho cùng là từ học thuyết của… Quỉ Cốc tiên sinh (chúng ta không bao giờ thoát được nỗi ám ảnh này!!!)
 ***
Cũng chính vì nỗi ám ảnh về Quỉ Cốc tiên sinh nên cứ cố gắng tìm đủ mọi cách, giở đủ “quyền mưu” để đưa ông lên hàng đầu của Bách gia chư tử; nghĩa là Quỉ Cốc tiên sinh phải đứng trước cả Lão Tử, người sinh trước, cùng thời với Khổng Tử: thời cuối Xuân Thu, đầu Chiến Quốc.
Nhưng sự suy đoán “ẩu tả” ấy đã đưa đến một vô lý đáng cho mọi người cười “hô hố”. Chúng ta biết Tôn Tẫn giết Bàng Quyên vào khoảng năm 342 TCN, rồi sau đó một thời gian, theo Quỉ Cốc tiên sinh tu tiên. Thế thì làm sao Quỉ Cốc tiên sinh lại có thể sinh cùng thời với Lão Tử được trong khi Khổng Tử sinh vào năm 551 TCN và còn nhỏ tuổi hơn Lão Tử nữa? Cái “thông tin” cho rằng Quỉ Cốc tiên sinh vừa là bạn của Mặc Tử, vừa du sơn ngoạn thủy với Lão Tử thật đáng ngờ!
Thôi, có lẽ để ngôi vị người mở đầu Bách gia chư tử cho Lão Tử là hợp lý hơn; vừa đúng với Sử Ký của Tư Mã Thiên, vừa giữ cho Quỉ Cốc tiên sinh vẫn là thầy của bốn nhân vật lừng lẫy: Tôn Tẫn, Bàng Quyên, Tô Tần, Trương Nghi.
Vẫn chưa ổn! Nếu Lão Tử là tiến bối của Khổng Tử thì sao không thấy Mạnh Tử, nhà tư tưởng lớn của Nho gia, nhắc đến, mà chỉ thấy có Dương Chu, Mặc Tử. Mạnh Tử nói về thời đại trước ông: “Thiên hạ bàn về học thuật tư tưởng, chẳng theo chủ trương của họ Dương thì theo chủ trương của họ Mặc”. Mà Mặc Tử, Dương Chu (và kể cả những người theo quan niệm của Đạo gia đương thời đó) cũng không thấy nhắc đến Lão Tử. Nhưng nếu Dương Chu có một thời ảnh hưởng sâu rộng như vậy, sao không thấy Trang Tử, người phát triển đạo Lão lên bước cao hơn, đề cập tới? Hơn nữa sách Đạo Đức Kinh, được cho là trước tác của Lão Tử, đến thời Trang Tử hoặc sau ít lâu mới xuất hiện và có lối văn thịnh hành của thời Chiến quốc?
 Quả là một tồn nghi không dễ gì giải quyết được đối với các nhà nghiên cứu lịch sử triết học Trung Quốc. Có lẽ các ẩn sĩ của Đạo gia đã ở ẩn… thành công, đến độ hơn 2500 năm sau, những người tò mò tọc mạch nhất cũng chẳng biết ất giáp gì về họ, hoặc nếu có biết thì cũng chỉ biết họ chính là họ mà cũng chưa chắc đã là họ!
Nhưng đối với chúng ta thì không, vì chúng ta đang ngược xuôi khắp mọi miền ngay trong hiện thực Xuân Thu - Chiến Quốc (như là những Paparazi thứ thiệt, những nhà báo chuyên săn lùng chuyện đời tư của các nhân vật có tiếng thời hiện đại!). Chúng ta đã thấy họ, rõ ràng từng người một, trong chiều sâu của sự… hoang tưởng vô lối!.
Là quan sử nhà Chu, tiếp thu được những tư tưởng triết học duy vật, khách quan sâu sắc của các bậc tiền bối (cũng là những sử quan nhà Chu), cùng với những suy ngẫm, chiêm nghiệm của bản thân, về xã hội đương thời, Lão Đam đã xây dựng được một học thuyết thuần triết học, giải thích toàn bộ thế giới một cách nhất quán từ Vũ Trụ đến nhân sinh. Ông cho rằng từ con người đến muôn vật, đến trời đất đều nằm trong một chỉnh thể thống nhất, đều được vận hành tuân theo một nguyên lý chung nhất, duy nhất là nguyên lý âm - dương (âm, dương chuyển hóa nhau một cách hồn nhiên, âm thịnh thì dương suy và ngược lại âm suy thì dương thịnh, cực điểm của dương thì hóa âm, cực điểm của âm thì hóa dương…). Học thuyết ấy (có thể tạm gọi là thuyết “Hồn nhiên biến đổi”) tuy còn sơ khai, mộc mạc nhưng nội dung của nó đã trở nên cốt lõi, chính yếu cho sách “Đạo đức kinh” sau này, và đồng thời là tiền đề cơ bản hình thành nên trường phái triết học Đạo gia. Trên cơ sở học thuyết ấy mà Lão Đam cho rằng trong xã hội, con người hành động phù hợp với lẽ tự nhiên, chính là hành động hợp đạo lý, mới đúng đắn. Mà hành động phù hợp, theo lẽ tự nhiên chính là “vô vi” (theo chúng ta hiểu thì “vô vi” là một khái niệm có ý nghĩa rất lớn, rất hay của Lão Tử: tự nhiên làm ra tất cả nhưng “thấy” như chẳng làm gì; từ khái niệm này mà hình thành nên khái niệm xuất thế, dấy nên cao trào “ẩn sĩ”).
Thấy nhà Chu suy vi, bạc nhược, mất đi tính chính nghĩa của nó, ông không “tòng Chu” nữa. Trung ương hoàng đế đã không còn chính nghĩa thì ở đâu còn chính nghĩa nữa trong số các nước chư hầu? Đã bỏ “tòng Chu” thì tòng ai để vẫn giữ được chính nhân? Bước đi duy nhất hợp lý là rời bỏ thế cuộc, về dân, nghĩa là xuất thế, ẩn danh. Lão Đam đã hành động như thế và từ đó, biệt vô âm tích...
Trước thời Lão Đam chắc là đã có hiện tượng từ quan, bỏ việc chính sự trở về ở ẩn nhưng chỉ mang tính tự phát mà động cơ có khi chỉ là vì chán nản cảnh quan trường, “đấu đá nội bộ”… Nếu lúc đó đã có khái niệm “xuất thế” thì nghĩa của nó cũng hạn hẹp, bình thường như khái niệm “về nhà”, “về vườn”… vậy thôi. Chỉ bắt đầu từ Lão Đam, khái niệm “xuất thế”, “vô vi” mới mang ý nghĩa sâu rộng, như một quan niệm lớn làm xuất hiện cả một trào lưu trong xã hội về phương châm sống của những bậc tài trí trước thời cuộc rối beng, lẫn lộn thau vàng.
“Xuất thế, vô vi” và “nhập thế, hữu vi” là hai quan niệm tương phản nhau mà quan niệm “xuất thế, vô vi” là quan niệm xuất hiện trước, rồi từ đó mà cũng hình thành nên một hiện tượng xã hội (có vẻ) bất thường. Còn bình thường thì đã là người có học, ai lại không tham gia xã hội, không tìm kiếm công danh và như thế cũng trực tiếp góp phần cá nhân vào sự vận động của thời cuộc. Một hiện tượng bình thường, tự nhiên như thế không đủ lý do làm xuất hiện khái niệm “nhập thế, hữu vi” như là một tương phản của khái niệm lớn “xuất thế, vô vi”.
Một người trước đó không “nhập thế, hữu vi” thì làm sao mà “xuất thế, vô vi” được? Vì lẽ đó hầu hết những ẩn sĩ, đều là những người đã từng lăn lộn trong chốn chính trường, thấm thía thời cuộc, đến một độ tuổi “chín muồi” nào đó mới “xuất thế, vô vi” và như đã nói, họ thường là những người tài giỏi. Một kẻ chưa có tiếng tăm gì trong thiên hạ mà “xuất thế, vô vi” làm ẩn sĩ thì thật buồn cười. Kẻ đó hoặc là ngớ ngẩn, hoặc là cầu danh. Do đó “xuất thế, vô vi” là đi liền với “vô danh”. Làm cho mình vô danh cũng chính là theo đạo tự nhiên. Vô danh, vô vi nhưng lại hữu danh và làm tất cả , đó chính là đạo, là lẽ tự nhiên. Lão Đam đi ở ẩn trên tinh thần đó và những thế hệ ẩn sĩ sau ông cũng vậy. Khổng Tử từng cho rằng mục đích của ông với các ẩn sĩ không hề khác nhau, chỉ là không cùng con đường mà thôi (nhưng các nhà Nho sau Khổng Tử lại kiên quyết phản đối tư tưởng ẩn sĩ).
Theo quyển “Quyền mưu thần bí” (tác giả: Triệu Quốc Hoa – Lưu Kiến Quốc, NXB văn hóa thông tin, năm 1996) thì ẩn sĩ không cứ phải là ẩn dật nơi thâm sơn cùng cốc, không duyên nợ gì với đời sống xã hội nữa mà ngược lại, họ tuy siêu mà không thoát, xa nhưng không rời, thường gián tiếp tham dự vào thời cuộc thông qua “người phát ngôn” của mình. Họ thường khi ẩn, khi hiện cùng với sự hưng suy của xã hội, chơi vơi bất định, cho nên nhuốm màu thần bí. Ẩn là che lấp. Ẩn rồi lại hiện, bỗng chốc vứt bỏ tính mạng, đâu còn là ẩn? Ẩn sĩ chân chính thì không mang danh “ẩn sĩ”; vì đã mang danh “ẩn sĩ” thì chỉ là bán ẩn sĩ, ẩn sĩ nửa vời như Y Doãn, Khương Thượng, Gia Cát Lượng… Hầu hết ẩn sĩ đều có tu dưỡng đạo đức và học vấn khá cao, có tài kinh bang tế thế, không làm quan nhưng gián tiếp can dự vào thời cuộc. Họ trở thành một tầng lớp đặc biệt, đôi khi làm khuynh đảo cả thiên hạ. Họ là những nhân vật chủ yếu theo Đạo gia. Trong khi Nho gia lấy “cột trụ kiên cường”, “biết không làm được vẫn làm” làm nguyên tắc xử thế, thì Đạo gia chú trọng dựa theo tình huống khách quan mà đi lên, đặt nó vào chỗ vô hình. Cho nên nguyên tắc xử thế của ẩn sĩ Đạo gia là “Dựa theo tình thế”. Từ đó trong lịch sử Trung Quốc, hình thành nên một hiện tượng thú vị: phàm là thời kỳ dựng nước mở nghiệp hoặc dẹp loạn khôi phục tình trạng bình thường, những ẩn sĩ Đạo gia nào đó xông ra gánh vác, dũng cảm đương đầu với hiểm nguy, phụ tá chúa thánh minh mở ra thời kỳ lịch sử mới; một khi sự nghiệp thành công, thiên hạ thái bình, họ lại đem thành quả của thắng lợi này cảm khái giao cho Nho gia chú trọng “tu tề trị bình”, còn bản thân cao chạy xa bay, mất dạng, biệt tích. Cũng vì vậy mà các ẩn sĩ luôn được dư luận quần chúng đánh giá cao, luôn yêu quí, mến mộ. Thấu hiểu Đạo gia sẽ thấu hiểu hành vi kỳ lạ đó của họ!
Có một câu chuyện về vấn đề ẩn sĩ thế này: Nghiêm Tử Lăng là bạn tốt thời niên thiếu của Lưu Tú Hán Quang Vũ Đế. Khi Lưu Tú lên làm vua, không quên chuyện cũ, cho tìm kiếm Nghiêm Tử Lăng khắp nơi, nhưng họ Nghiêm đi ẩn, không ra. Có người phát hiện trên sông Tú Xuân ở Triết Giang có một người mặc ngược áo da ngồi câu cá. Hán Vũ Đế được tin cho rằng đó chính là Nghiêm Tử Lăng; mới rước về kinh thành. Hai người tương kiến, bạn bè tình sâu nghĩa nặng, nhưng Nghiêm Tử Lăng kiên quyết chối từ, không chịu làm quan. Đời sau, ở chỗ Nghiêm Tử Lăng ngồi câu cá có dựng lên một miếu thờ để kỷ niệm vị ẩn sĩ không chạy theo thế tục này. Có người học trò đi thi ngang qua đấy, đứng trước miếu thờ, lấy làm hổ thẹn, bèn ngẫu hứng đề một bài thơ:
“Ông vì danh lợi mà đi ở ẩn
Ta vì danh lợi mà đi thi
Hổ thẹn gặp tiên sinh
Nửa đêm qua điếu đài”
Đời Thanh, có người không nghĩ vậy, làm thơ chê Nghiêm Tử Lăng
“Một lòng với bộ áo da
Hư danh còn truyền mãi đến ngày nay
Bấy giờ nếu bỏ áo đi
Mênh mang sông nước biết đâu mà tìm”
Ông ta cho rằng vị ẩn sĩ này vẫn muốn lưu danh; nếu thực sự muốn làm ẩn sĩ, hà tất mặc áo trái cho người ta để ý.
 ***
Sau khi từ quan ra đi, Lão Đam vĩnh viễn không xuất hiện nữa. Nhưng trong dân gian xuất hiện một tên tuổi mới, cũng tài ba cái thế vô song không kém, đó là Quỉ Cốc. Tài năng và đức độ của Quỉ Cốc, chúng ta đã nói đến rồi: là có một không hai của đương thời. Đã là ẩn sĩ thì Quỉ Cốc chắc chắn cũng không phải tên thật, Cốc có nghĩa là hang núi, cái hang; Quỉ, theo “Hán thư nghệ văn chí”, nghĩa là u hiển; u là ẩn, hiển là lộ. Vậy thì Quỉ Cốc có thể hiểu là hang núi ẩn hiện, hay thoát hơn, hiểu là Hang huyền diệu, ẩn ẩn hiện hiện, đóng đóng mở mở, hơn cả thần linh? 

Trong Chương VI, Đạo Đức Kinh, có viết: 

“Cốc Thần bất tử, thị vị huyền tẫn, huyền tẫn chi môn, thị vị thiên hạ căn. Miên miên nhược tồn, dụng chi bất cần” 

(Thần Hang bất tử, gọi là Huyền Tẫn (Mẹ nhiệm màu); cửa Huyền Tẫn là gốc của Trời Đất. Dằng dặc mà như bất tuyệt, tạo thành mọi vật mà không kiệt (hay không mệt). 

Theo Nguyễn Hiến Lê: “Thần Hang tượng trưng cho Đạo; thể của nó là hư vô nên gọi là hang, dụng của nó là vô cùng nên gọi là thần, vô sinh hữu, hữu sinh vạn vật nên gọi là mẹ nhiệm màu, nó sinh sinh hóa hóa, nó “đông nhi dũ xuất” (càng động càng xuất lộ ra) cho nên bảo là không kiệt”. (Theo chúng ta, Cốc Thần chính là tên gọi (nhãn mác) được Lão Tử đặt ra để gọi cái mà ngày nay chúng ta thường gọi là Vũ Trụ!). 

Dẫn ra như thế để đặt câu hỏi: giữa Quỉ Cốc và Cốc Thần có “hơi hám” gì của nhau không? Thế thôi! 

Cuộc đời Lão, Khổng là những tấm gương sáng ngời về nhân cách. Thời của Lão, Khổng đã để lại cho những thế hệ trí giả Trung Hoa kế tiếp sau đầy đủ nguyên vật liệu tinh túy nhất, cơ bản nhất để có thể làm nên một bữa tiệc triết học đầy sơn hào hải vị; đã để lại tất cả mọi khái niệm, mọi ý niệm thiết yếu quan trọng bậc nhất để có thể xây dựng nên những triết thuyết về xã hội nhân sinh của Phương Đông, hết mực chân phác, dung dị mà cũng hết mực uyên áo, bí huyền. 

Giai đoạn đầu Chiến Quốc đã đặt lên vai những bậc trí giả có lương tâm và nhiệt huyết một nhiệm vụ bức thiết hơn bao giờ hết là giải thích sự biến loạn đầy bi kịch của xã hội đương thời và mau chóng tìm ra phương hướng khả dĩ để đưa xã hội thoát khỏi tình trạng đó. Một phần, do triết học về tự nhiên của Lão Tử đã được thừa nhận rộng rãi (vì đã thể hiện tính đúng đắn của nó!), một phần vì lý do kể trên mà việc nghiên cứu sâu rộng hơn đối với tự nhiên trở thành thứ yếu. Từ đó làm cho khoa học tự nhiên thiếu động lực phát triển trong suốt thời cổ, trung đại của lịch sử Trung Quốc (hầu hết những bộ óc kiệt xuất nhất đều hướng về lĩnh vực văn hóa - xã hội - nhân sinh) … 

Quỉ Cốc là tên truyền tụng trong dân gian vùng đất Dương Thành, thuộc nhà Chu. Có lẽ như thế nên trên chính trường tranh biện, các học gỉả không biết đến tên Quỉ Cốc mà chỉ biết đến một cái tên khác, không kém lẫy lừng, đó là Dương Chu. (Dương Thành phải chăng là Thành Lạc Dương, là Lạc Ấp, và cái tên Dương Chu được đặt ra trong nỗi niềm “hoài Chu”?) 

Có thể cho rằng Dương Chu là danh xưng đóng vai trò “người phát ngôn” của hệ thống tư tưởng Lão Đam, là "người đại diện" đứng ra tranh biện với Nho Gia về hành vi “độn thế” (trốn đời) của họ và phê phán cái vô nghĩa lý của quan niệm chính danh mà Khổng Tử đề xướng. “Người phát ngôn” chưa hẳn đã là một người mà có thể là gồm vài ba môn đồ của Quỉ Cốc Tử. 

Trào lưu xuất thế, làm ẩn sĩ đòi hỏi phải có cơ sở lý luận cho nó. Một trong vấn đề cần phải giải quyết là khái niệm “vô danh” (chúng ta tin rằng khái niệm này là một trong hai tiền đề làm xuất hiện khái niệm “chính danh”) 

Điều quí giá nhất của Đạo Gia là luôn cố gắng giải quyết rốt ráo nhất, trên tinh thần khách quan nhất về mặt lý luận đối với tất cả các hiện tượng xã hội - nhân sinh. Với nền tảng lý luận là triết học của Lão Đam ngay từ đầu đã đúng đắn ấy, nhiều vấn đề triết học “hóc búa” đã được họ lý giải thành công. Có thể cả nhân loại chứ không riêng gì đất nước Trung Hoa cần phải cảm ơn họ. 

Vấn đề Danh và Thực đã từng là vấn để tranh luận trọng yếu của triết học Trung Quốc thời kỳ Chiến Quốc. Vấn đề đó thực ra, nếu suy rộng, lại cũng chính là một trong những vấn đề cơ bản về nhận thức của triết học thế giới; liên quan đến mối quan hệ tư duy và tồn tại, ý thức và vật chất, chủ quan và khách quan, hiện hữu và thực tại … 

Hãy nghe Dương Chu nói về Danh: 

“Thực vô danh, danh vô thực, Danh giả ngụy nhi dĩ hĩ” 

(Thực thì không có tên, tên không phải là thực. Tên gọi là giả đối làm ra đấy mà thôi!) 

Vạn vật tồn tại là thực, sự thực ấy bản thân chúng không hề có tên gọi, không hề có danh (khái niệm). Trước quan sát của con người, chúng hiện hữu và được đặt tên (gắn nhãn mác) để nhận biết, nhận thức. Những cái tên ấy (những danh ấy) được quan sát đặt ra để nhận thức vạn vật chứ bản thân vạn vật vốn dĩ không "mang" những cái tên ấy (và có thể đặt lại cho chúng những cái tên khác!). Do đó danh là để chỉ thực nhưng không phải là thực. Cùng một sự vật - hiện tượng, ở hai ngôn ngữ khác nhau sẽ được gắn những nhãn mác có ký hiệu khác nhau; sẽ được phát âm (gọi) bằng những cách khác nhau (giả dối làm ra đấy mà thôi!). 

(Tuy vậy, theo ý chúng ta thì cần phải nói thêm rằng sự vật - hiện tượng tồn tại được là nhờ có tính phân biệt được của thế giới vạn vật, tùy đối tượng mà tác động tương hỗ nhau một cách phù hợp với tự nhiên. Do đó, trong sâu thẳm, dù có thể không gọi ra được, thì trước một chủ thể quan sát, mỗi vật đều được "định danh" ở mỗi đối tượng có quan hệ với nó. Nghĩa là vật đó không những hữu danh mà còn có vô vàn danh. Chỉ có như thế và phải như thế thì chủ thể quan sát mới có khả năng nhận thức được khách thể hay nói chung là thế giới khách quan. Tính nước đôi của Tự Nhiên thật là rắc rối!!!) 

Trước mắt con người, mọi sự vật - hiện tượng cả trong tự nhiên lẫn trong xã hội, trước sau gì cũng phải có danh, phải hữu danh. Một người trốn đời trong thâm sơn cùng cốc, xét ở phạm vi cá biệt, cụ thể thì là vô danh; nhưng ở phạm vi rộng hơn thì vẫn có danh: ẩn sĩ, và danh ở phạm vi rộng hơn nữa là: con người… Đó chính là biểu hiện về mối quan hệ giữa nội hàm và ngoại diên của khái niệm, được nói tới trong logic hình thức. 

Danh xưng, bản thân nó, không hư (sai) mà cũng không thực (đúng, chính). Chỉ tùy quan niệm mà nó mới trở nên hư danh hay chính danh. Một người được mọi người gọi là vua thì chính danh là vua (chứ không phải chính danh là ông vua tốt hay hiền). Danh chính nghĩa hay phi nghĩa cũng là do quan niệm mà ra. Thông thường những danh xưng phù hợp với yêu cầu, ước mong của đại chúng là những danh chính nghĩa. Một kẻ được định nghĩa (bản chất) là tiểu nhân mà mang danh quân tử thì cái danh quân tử lúc này là hư danh và đó là kẻ giả mạo. Một tiến sĩ toán học trên bàn tròn tranh biện về chính trị mà vỗ ngực tự xưng là chính danh thì thật... nực cười! 

Về mặt triết học, câu nói trên của Dương Chu là hoàn toàn chính xác!. 

Thế thì hành vi làm cho mình trở thành vô danh là đúng hay sai? Đối với những kẻ đức hèn tài mọn thì không muốn vô danh vẫn bị vô danh (vô danh tiểu tốt!), chẳng cần phải lánh đời làm gì! 

Xuân Thu - Chiến Quốc là thời kỳ chiến tranh liên miên, ngày một dày đặc. Đó là những cuộc chiến tranh của vua chúa, vua chúa gây ra vì quyền lợi của chính vua chúa (mà nguyên nhân sâu xa có thể tìm thấy trong đời sống kinh tế xã hội: sự bất hợp lý trong phân phối của cải, trong cấu trúc xã hội…). Trong tình hình đó, một chính nhân quân tử làm tôi trung cho vua nào, chúa nào để được gọi là hành động chính nghĩa? Chính nghĩa, đó là hợp lòng dân; hợp lòng dân là làm cho dân được sống cảnh thanh bình, yên ổn làm ăn. Phụng sự ông vua bà chúa nào để thực hiện được việc ấy cho toàn thể đại chúng? Vô vọng! Không những vô vọng mà trong cái đấu trường đẫm máu và đầy hôn ám ấy, cũng không thể giữ được cái lòng trung nghĩa, thậm chí là mất mạng uổng công vô ích. Còn một con đường duy nhất đúng là không hợp tác với vua chúa nữa: xuất thế, vô vi, dấu tài, lánh đời, tan biến thành vô danh. Vô danh mà hữu thực, vô vi mà hữu vi, không có mặt trên chính trường nữa nhưng vẫn tác động đến chính trường, làm điều chính nghĩa trong cái thế vô danh, theo tự nhiên, lựa thế chờ thời, tùy khả năng mà xoay chiều đổi hướng để thực hiện mục đích lớn nhất là thiên hạ yên ổn, thái bình. 

Trong “Nam Hoa Kinh” của Trang Tử, thiên “Nhân gian thế”, đoạn tám, viết: 

“Khổng Tử qua nước Sở. Một người cuồng nước Sở tên là Tiếp Dư tới trước nhà Khổng Tử, hát:

Con phượng kia, con phượng kia

Sao mà đức suy như vậy?
Không thể biết trước được tương lai
Không thể trở về dĩ vãng.
Khi thiên hạ thịnh trị,
Thì thánh nhân thực hiện được sứ mệnh mình.
Khi thiên hạ loạn lạc,
Thì thánh nhân bảo toàn thân mình.
Như thời này, chỉ cần đừng bị vạ
Hạnh phúc nhẹ hơn cái lông
Mà không ai biết nhận lấy nó
Tai họa nặng hơn trái đất
Mà không ai biết tránh nó
Thôi đi; thôi đi! Đừng mong lấy đức cảm hóa người
Nguy thay; nguy thay! Hãy bảo bọc lấy mình
Gai góc; gai góc! Đừng ngăn cản bước đường của ta
Đi vòng, đi vòng quanh, đừng để gai đâm vào chân” 

Và đoạn chín: 

“Cây trên núi tự rước lấy búa rìu vào thân; mỡ tự dẫn lửa nên phải cháy; cây quế ăn được nên bị lột vỏ; cây sơn nhựa dùng được nên bị rạch vỏ. Ai cũng biết chỗ dùng được của vật hữu dụng, mà không biết chỗ dùng được của cái vô dụng”. 

Người ta được sinh ra rồi phải chết đi. Đó là tất yếu và cũng là tự nhiên. Dù thế, mục đích của tạo dựng là tồn tại, mục đích của sự sinh ra là sự sống, là tồn sinh cho nên cái quí giá nhất của một người là đời sống. Ai cũng yêu mình, đó là tự nhiên; ai cũng muốn giữ gìn, bảo toàn sự sống của mình, đó là chính nghĩa. 

Nhiều người đồng ý rằng những đoạn sau đây trong quyển “Lã Thị Xuân Thu” (do Lã Bất Vi, quan tể tướng nước Tần, thời cuối Chiến Quốc, tập hợp các môn khách cùng biên soạn; đây là sự thu thập và tổng hợp các trường phái học thuật thời Tiên Tần) là phản ánh tư tưởng của Dương Chu:  

“Nay đời tôi là của tôi, mà cái lợi cho tôi cũng lớn lắm vậy. Xét cái gì quí cái gì tiện thì chức thiên tử không đủ để so sánh. Xét về điều nặng nhẹ, khinh trọng thì dầu có cả thiên hạ cũng không thể đổi lấy được. Xét sự yên hay nguy thì một buổi sớm bỏ mất, suốt đời không trở lại được. Ba điều ấy, kẻ có đạo lấy làm thận trọng vậy. Đã thận trọng mà lại quay lại làm hại thì tức là không đạt tới cái tình của tính mệnh vậy. Đã không đạt tới cái tình của tính mệnh, cái ý nghĩa của sự sống, thì thận trọng có ích gì?... Các bậc nhân chủ ở đời nay, các bậc quí nhân, người hiền hay không hiền, chẳng ai là không muốn “trường sinh cửu thị”. Đã vậy mà lại làm trái nghịch hàng ngày với dòng sông, thì muốn thế kia có ích gì? Phàm sống lâu là thuận với sự sống. Cái làm cho sự sống không được thuận ấy là bởi bụng dục. Cho nên thánh nhân trước hết phải thích ứng điều hòa bụng dục vậy”.
 
“Trời sinh ra con người, khiến con người có tham có dục (tham lam, ham muốn). Dục tự nhiên sinh tình, tình thì có mức độ. Thánh nhân chú ý gìn giữ mức độ thích hợp để tiết chế dục, làm cho tình không thái quá. Cái dục của tai là ngũ thanh, cái dục của mắt là ngũ sắc, cái dục của miệng là ngũ vị, tất cả đều là tình tự nhiên vậy. Ba cái dục ấy ở người quí, người trí, người hiền, kẻ bất tiết, kẻ tiện, kẻ ngu đều giống nhau như một. Dù Thần Nông, Hoàng Đế hay Kiệt, Trụ thì cái dục cũng vậy thôi. Chỗ khác của thánh nhân là đạt đến cái tự nhiên của sự sống. Do chỗ quí trọng sinh mệnh nên có thể giữ được tình đúng mực, không biết quý trọng sinh mệnh thì sẽ mất đi cái tình của nó. Hai điều đó là gốc của sự sống, chết, còn, mất vậy” 

Với những tư tưởng ấy, đời sau nói chung nhận định là Dương Chu chủ trương “khinh vật trọng sinh”, “vị ngã” và hiểu như là ích kỷ, vì mình hại người, cá nhân chủ nghĩa… Không phải như vậy! Muốn hiểu được Dương Chu phải thấy được tính tôn trọng sự thực khách quan, “chân lý tối thượng” trong suy nghĩ, lập luận của ông. Chúng ta hãy nghe ông trăn trở: 

“Người ta cùng với trời đất là như nhau, ôm ấp cái tình của năm yếu tố. Người ta có cái nguồn sống là tối linh vậy. Móng vuốt không đủ để giúp cho sự bảo vệ, da thịt không đủ để giữ gìn chế ngự lấy mình, xô chạy không đủ để trốn lợi hại. Không có lông cánh để chế ngự nóng rét, ắt là phải nương vào vật để mà nuôi cái tính, tin theo trí mà không cậy sức. Cho nên cái quí của trí là bảo tồn lấy cái ta làm quí. Cái đáng khinh ở sức ấy là chiếm đoạt lấy vật làm khinh. Vậy mà thân này không phải của ta, đã có nguồn sống không thể không giữ cho toàn vẹn. Vật không phải ta có, đã có thì không thể bỏ đi. Thân là chủ của nguồn sống, vật là chủ của sự nuôi nấng. Tuy giữ toàn vẹn cái thân sống mà không thể có cái thân ấy được. Tuy không bỏ vật mà không thể có cái vật ấy được. Có được cái vật ấy, có được cái thân ấy, đấy là tư hữu một cách trái ngược cái thân của thiên hạ, tư hữu một cách trái ngược cái vật của thiên hạ vậy. Chỉ có thánh nhân (ở đây ám chỉ vua chúa) họa chăng? Chung cái thân của thiên hạ, chung cái vật của thiên hạ. Chỉ có trí nhân họa chăng? Như thế là cùng cực vậy”. 

Sự sống của mình thì cũng như sự sống của người. Mình yêu mình thì người cũng yêu người. Những kẻ biết được cái lẽ yêu mình thì cũng sẽ yêu người. Từ đó mà tôn trọng cuộc sống mình thì đồng thời tôn trọng cuộc sống người. Và nếu hành động giữ gìn cuộc sống của mình là chính nghĩa thì hành động giữ gìn cuộc sống của thiên hạ (trong đó có mình) là đại nghĩa. Biết được như vậy là trí nhân, làm được như vậy là đức nhân chăng?  

Theo chúng ta nghĩ thì Dương Chu “trọng sinh” nhưng không “khinh vật”. Ý ông chỉ muốn nói tham muốn quá độ chỉ hại đến thân vì không thuận tự nhiên: 
  
“Người đời thái cổ biết sống ở đời là tạm đến, biết chết là tạm đi. Cho nên tùy tâm mà động, không trái với cái thích tự nhiên. Đang có cái vui của thân thể, không bỏ nó mà đi, cho nên không bị khích động bởi cái danh, theo tính tự nhiên mà chơi không trái với cái yêu của vạn vật”. 

Và khi trong thiên hạ, ai ai cũng biết sống điều độ, vừa phải thì lòng tham muốn sẽ mất đi, vấn đề danh lợi không còn đặt ra nữa vì mọi người đều biết sống nhường nhịn, ai cũng yêu mình yêu người. Đó chính là quan niệm mang tính lý tưởng của Dương Chu (có lẽ ông biết rằng đã từng có một hiện thực như thế ở thời xa xưa tối cổ với cái tên là “Xã Hội Đại Đồng” mà ngày nay chúng ta gọi là “Cộng sản nguyên thủy”) và ông đúc kết: 

“Người xưa mất một sợi lông mà lợi cả thiên hạ cũng không cho, được cả thiên hạ phụng sự riêng mình cũng không lấy, người nào cũng không chịu thiệt, người nào cũng không ham lợi, thì thiên hạ tự nhiên thái bình”. 

Rồi ông đề xướng: 

“Kẻ giỏi trị bên ngoài, sự vật vị tất đã trị mà thân thì gặp khổ sở. Kẻ giỏi trị bên trong, sự vật chưa chắc đã loạn mà tính thì nhàn hạ. Lấy cái việc trị ở ngoài của người, phép ấy có thể tạm thi hành ở một nước, chưa chắc đã hợp với cả lòng người. Lấy cái việc trị bên trong của ta thì có thể suy ra đến khắp thiên hạ, đạo vua tôi sẽ hết không còn cần nữa vậy”. 

Dương Chu là thế, là một người không có thật, là danh xưng của Quỉ Cốc Tử trên bàn tròn tranh biện và đã đóng vai trò xuất sắc “người phát ngôn” cho triết thuyết của Lão Đam. 

Ít nhất thì cũng có một người đã không thấy được cái nhân sinh quan (dù vẫn mang nặng tính siêu hình!) suy ra từ thế giới quan hợp lý ấy nên cũng không đồng ý với quan niệm “yêu mình” của Dương Chu. Không ai khác, đó chính là Mặc Tử
* * *

Quan niệm “yêu mình” của Dương Chu không phải là một luận điệu tuyên truyền mang tính chủ quan mà là kết quả suy ra từ nhận thức xuất sắc của Lão Đam về Tự Nhiên Tồn Tại.

Ở loài vật, vì chưa có cái “ngã” hoặc “ít ngã” nên việc tự bảo toàn mạng sống của chúng là hoàn toàn (hoặc chủ yếu?) theo bản năng. Bản năng là kinh nghiệm tích lũy được từ ngàn vạn thế hệ trước chúng và tồn tại trong sâu thẳm tim óc máu xương chúng. Cho nên chúng có sống vì mình hay có lúc vì đồng loại thì cũng chỉ là hành động mù quáng, tự phát theo bản năng. Con người cũng vì mình theo đòi hỏi của bản năng nhưng vì có trí nhớ đủ dài lâu (sự hồi ức) nên con người cũng có ý thức coi trọng và tự bảo toàn mạng sống của mình một cách tự giác: vì mình đạt đến quí mình. Đó chính là cái gốc nảy mầm ra tình cảm con người mà trong đó có tình yêu thương: yêu mình, yêu cha mẹ (những người cho mình cuộc sống và từng nuôi nấng mình), yêu anh em ruột thịt, rồi mới đến yêu bà con, dòng họ, xóm giềng… Liên kết bầy đàn để tự vệ, bảo toàn mạng sống đã có ở bản năng loài vật, mang tính tự nhiên. Ở con người đó là sự đoàn kết mang tính tự giác. Chỉ có những người hiểu cốt lõi của tình yêu thương, thấy được mối quan hệ tương thân tương ái trong công cuộc tồn sinh mới yêu thương như nhau trong khắp thiên hạ được, mới hành động vì mình vì người được, mới thậm chí tự giác hi sinh vì đại nghĩa được (như thế chỉ có trí nhân, thành nhân họa chăng!).

Mặc Tử có lẽ đã không hiểu được cái thâm hậu trong suy nghĩ của Dương Chu, coi “yêu mình” chỉ đơn giản, hẹp hòi là “biệt ái” (chỉ yêu riêng mình thôi!) nên đã đề xướng ra thuyết “kiêm ái” (yêu thương đồng đều tất cả mọi người hay nói gọn là “yêu người”) Thuyết “kiêm ái” thực chất ra như một giáo lý về đạo làm người, như một bài giảng đã được “chỉnh sửa” từ bài giảng của Khổng Tử về luân thường đạo lý, và cuối cùng, nó như là một đề xuất thực hiện cụ thể, chi tiết, có tính phản biện lại (nhưng nhiều lúc hóa ra lại vô tình biện hộ) cái tình yêu thương mang tính lý tưởng mà Dương Chu đã trăn trở. Có lẽ vì thế mà thuyết “kiêm ái” cũng nặng tính chủ quan, không tưởng như “chính danh” của Khổng Tử vậy.

Mặc Tử họ Mặc tên Địch. Nhiều người nói đó không phải là tên thật. Nhưng nếu Mặc Địch không phải là tên thật thì tên thật của chủ thuyết “kiêm ái” là gì? Không biết! Thế Mặc Tử là ai? Là “thầy” Mặc Địch chứ ai vào đây nữa!!! Vậy theo chúng ta Mặc Tử là Mặc Địch, và đó là một tên thật!.

Theo “Trung Hoa cổ đại triết học sử” của Hồ Thích thì:
“Mặc Tử đại khái sinh vào trong khoảng từ năm thứ mười hai đến năm thứ ba mươi đời Chu Kính Vương, mất vào khoảng giữa từ năm thứ nhất đến năm thứ mười đời Chu Uy Liệt. Ngày sinh Mặc Tử nhằm khi Khổng Tử năm sáu mươi tuổi. Đến lúc Ngô Khởi bị giết, Mặc Tử chết chừng bốn chục năm trước rồi …”

Linh cảm báo cho chúng ta biết rằng Lương Khải Siêu đúng hơn: Mặc Tử sinh vào năm đầu đời Chu Định Vương, ước lượng chừng sau khi Khổng Tử mất 10 năm và mất vào khoảng giữa đời Chu An Vương, ước lượng trước khi Mạnh Tử sinh ra độ hơn 10 năm.

Và cũng theo Lương Khải Siêu thì Mặc Tử là người nước Tống: “Nước Tống tuy ở phương Bắc nhưng lại giáp với phương Nam, Mặc Tử đẻ ra ở nước đó nên mới thâu lượm được cả học thuyết của hai phái Nam, Bắc tức là Lão Giáo và Khổng Giáo”.

Sách Hoài Nam Tử (Do Hoài Nam Vương Lưu An cùng môn khách viết, tương tự như trường hợp sách “Lã Thị Xuân Thu”): có viết:
“Mặc Tử học nghiệp của Nho gia, học thuật của Khổng Tử, nhưng lại không thích cái Lễ phiền nhiễu, hậu việc tống táng làm hao của mà nhọc dân, để tang lâu ngày có hại cho sự làm việc, cho nên làm ngược với đạo nhà Chu, mà theo chính sách của nhà Hạ …”

Mặc Tử xuất thân từ tầng lớp bình dân, sống kham khổ theo chủ nghĩa khổ hạnh, nghe nói có thời làm đại phu nước Tống nhưng phần lớn thời gian cùng học trò chu du thiên hạ biện thuyết cho thuyết của mình.

Khi Mặc Tử sang Tề, có người hỏi:
- Nay thiên hạ chẳng ai làm nghĩa, sao ngươi lại cứ một mình làm nghĩa cho khổ thân, chẳng bằng thôi đi.

Mặc Tử đáp:
- Nay có một người có mười đứa con, một đứa đi cày, chín đứa ở dưng, thì đứa đi cày không thể không làm việc gấp thêm. Vì sao? Vì người ăn thì nhiều mà người cày thì ít. Nay thiên hạ chẳng ai làm việc, người khuyên ta làm thêm mới phải, sao lại ngăn ta?”.

Chủ thuyết của Mặc gia là “Kiêm ái”. Mặc Tử nêu thí dụ:
“Có hai kẻ sĩ, một kẻ chuyên giữ thuyết “Biệt”, một kẻ chuyên giữ thuyết “Kiêm”.

Kẻ sĩ phái “Biệt” nói: “Ta há có thể ví thân bạn như thân ta, coi đấng thân của bạn như đấng thân của ta?” Và rồi kẻ đó thấy bạn đói không cho ăn, rét không cho mặc, ốm đau không thăm nuôi, chết không chôn cất”.

Kẻ sĩ phái “Kiêm” nói: “Ta nghe nói làm kẻ cao sĩ ở thiên hạ, ắt ví thân bạn như thân mình, ví đấng thân của bạn như đấng thân của mình, như thế mới là kẻ cao sĩ”. Và rồi thì kẻ đó thấy bạn đói thì chia ăn, rét thì chia mặc, ốm đau thì thăm nuôi, chết thì chôn cất”.

(Lạm bàn: Không nhiều thì ít, xã hội nào cũng có cảnh “lá lành đùm lá rách” mà không cần phải là người cao sĩ!)

Mặc Tử mô tả ra cái xã hội (mang tính lý tưởng) mà ông mơ ước:
“Nếu khiến thiên hạ gồm yêu nhau, ai ai cũng yêu cha anh cùng vua như yêu thân mình, ghét làm điều bất hiếu. Coi con em và bề tôi cũng như thân mình, ghét những điều bất từ, thì điều bất hiếu bất từ sẽ không có. Còn có trộm cướp nữa chăng? Đã coi nhà người như nhà mình thì ai ăn trộm? Đã coi thân người như thân mình thì ai ăn cướp? Cho nên trộm cướp sẽ không có nữa. Còn có đại phu làm loạn nhà nhau, chư hầu đánh lẫn nước nhau nữa chăng? Đã coi nhà người như nhà mình thì ai làm loạn? Đã coi nước người như nước mình thì ai đánh nhau? Cho nên cái loạn đại phu làm loạn nhà nhau, chư hầu đánh lẫn nước nhau, sẽ không còn nữa. Nếu làm được cho thiên hạ gồm yêu lẫn nhau, nước nọ với nước kia không đánh lẫn nhau, nhà nọ nhà kia không làm loạn lẫn nhau, trộm cướp không có. Vua tôi, cha con đều hiền từ, thế thì thiên hạ trị. Cho nên thánh nhân làm việc cai trị thiên hạ, không thể không cấm sự ghét và khuyên sự yêu”.
(Lạm bàn: Ít ra thì cũng không thể coi của cải người như của cải mình, vợ người như vợ mình và ai cũng không được giàu hơn người mà cũng không được nghèo hơn người. Khó quá xá cỡ!!!)

Rồi ông luận:
“Hãy thử truy nguyên những điều tai hại ở đâu mà ra, có phải ở sự yêu người, làm lợi cho người mà ra chăng? Ắt rằng không phải. Ắt rằng do sự ghét người, làm hại người mà ra. Những kẻ ghét người, làm hại người, phái “kiêm gồm” hay phái “riêng biệt”? Ắt rằng phái “riêng biệt”. Thế thì những kẻ chia rẽ mọi người quả đã sinh ra hại lớn cho thiên hạ. Hãy thử truy nguyên những điều ích lợi ở đâu mà ra. Có phải ở sự ghét người, làm hại người mà ra chăng? Ắt rằng không phải. Ắt rằng do sự yên người, làm lợi cho người mà ra… Những kẻ yêu người, làm lợi cho người là Biệt hay Kiêm? Ắt là Kiêm. Thế thì những kẻ kiêm ái quả đã sinh ra lợi lớn cho thiên hạ vậy.”
(Kiêm Ái Trung)
(Lạm bàn: Không yêu mình thì làm sao “cảm” được mà yêu người? Còn yêu gồm toàn thiên hạ để “đợi” thiên hạ yêu mình thì... thì... e rằng “phiêu lưu” quá chăng? Không khéo lại “ăn cơm nhà, vác ngà voi”, thành ra ngược đời,cũng khổ!)

Và ông kêu gọi:
“Nay ta đương tìm lấy cách dấy được điều lợi cho thiên hạ mà làm, thì lấy kiêm làm chính, làm phải. Đó là đem cái tai thông, mắt tinh sáng trong nghe cho nhau. Đó là đem cái chân tay khỏe mạnh làm lụng cho nhau, mà kẻ có đạo thì cùng dạy bảo lẫn nhau cho nên những người già, góa vợ không con, có kẻ nuôi nấng trông nom cho trọn tuổi già. Những kẻ nhỏ yếu, mồ côi cha mẹ, có kẻ nương tựa cho lớn cái thân. Nay quen lấy “Kiêm” làm chuẩn tắc, làm chính nghĩa thì lợi ra như thế”.

Dù thế nào đi nữa thì Mặc Tử vẫn là một con người có một tấm lòng nhân hậu bao la. Chúng ta kính trọng Mặc Tử là vì thế.

Để có thể đạt được một xã hội “Kiêm ái” như mình mong ước, Mặc Tử đã đề ra một học thuyết chính trị gồm những vấn đề được ông cho là then chốt: Thượng đồng, Thượng hiền và Tiết dụng.

Thượng đồng nghĩa là gì? Theo Mặc Tử:
“Đời xưa, khi dân mới sinh chưa có hình chính, lời nói của họ mỗi người mỗi nghĩa. Cho nên một người một lẽ phải, hai người hai lẽ phải, mười người mười lẽ phải, hễ người càng nhiều thì cái gọi là lẽ phải càng nhiều. Cho nên ai cũng bênh lẽ phải của mình để chê lẽ phải người, nên giao dịch với nhau chỉ chê nhau. Trong nhà thì cha con anh em gây ra oán ghét lìa tan, không thể hòa hợp với nhau; trăm họ thiên hạ đều dùng nước lửa, thuốc độc làm hại lẫn nhau. Thiên hạ rối loạn như cầm thú vậy.”
(Thượng đồng thượng)
(Lạm bàn: Nguyên nhân sâu xa là vì miếng ăn thì ít mà miệng ăn thì nhiều mà ở thời hiện đại là sự không công bằng về quyền lợi chăng?)


“Biết rõ thiên hạ sở dĩ loạn là do không có người chính trưởng mà ra cả, cho nên mới kén người hiền năng trong thiên hạ lập nên để làm thiên tử”.
(Thượng đồng thượng)
(Lạm bàn: Điều này chắc là đúng!)


“Chính trưởng đủ rồi, thiên tử mới ra lệnh cho cả trăm họ, rằng: nghe thấy điều thiện và điều bất thiện, đều phải báo cho người trên. Cái mà người trên cho là phải, ai cũng phải nhận là phải, cho là trái ai cũng phải nhận là trái. Người trên có lỗi thì can ngăn, người dưới có điều hay thì dò hỏi mà dựng lên. Kẻ nào tán đồng với bậc trên mà không hùa với bậc dưới, người trên sẽ thưởng, người dưới sẽ khen… Vào hùa với kẻ dưới mà không tán đồng với bậc trên, người trên sẽ phạt, mà trăm họ sẽ chê. Người trên phải theo chỗ đó để làm căn cứ cho sự thưởng phạt”.
(Thượng đồng thượng)
(Lạm bàn: Mặc Tử quá ngây thơ trước bản chất con người! Hiện tượng chính trưởng không phải chỉ có ở loài người mà ở loài vật sống bầy đàn cũng có. Có con đầu đàn để làm gì? Để dùng quyền lực bênh vực "kẻ" yếu hèn chăng?)

Thế thì ai thưởng phạt thiên tử, hay thiên hạ vượt lên trên vòng thưởng phạt? Mặc Tử quyết: “Dân chúng phải chấp nhận như thế bởi vì không còn cách nào khác để tránh cái họa hỗn loạn, sống cảnh tượng cầm thú”.

Còn Thượng hiền là gì? Mặc Tử giải thích:
“Thánh vương đời xưa rất tôn trọng người hiền mà sử dụng tài năng, không kéo bè với cha anh, không thiên vị kẻ giàu sang, không sùng mến kẻ nhan sắc. Ai hiền thì được nâng nhắc lên cao, giàu và sang dùng làm quan trưởng (???). Kẻ nào bất hiếu thì nên bỏ đi, bắt phải nghèo và hèn (???), dùng làm đồ dịch. Vì vậy, dân đều nô nức tìm sự thưởng, sợ hãi hình phạt, rủ nhau mà làm người hiền…”
(Thượng hiền trung)
Hay:
“Thánh vương thời xưa làm việc chính trị thường dùng người có đức mà chuộng người hiền. Dẫu người ở nông, công hay thương dân mà có tài năng thì cũng cất lên, giao cho tước cao, lộc hậu, bổ dụng vào công việc, ban cho quyền lợi… Cho nên quan không sang mãi mà dân không hèn mãi”
(Thượng hiền thượng)
(Lạm bàn: Không biết làm như thế có phản lại “Kiêm ái” không?)

Vấn đề cơ bản thứ ba là Tiết dụng. Mặc Tử nói:
“Thánh nhân làm việc chính của một nước thì một nước có thể lợi gấp bội, lớn ra làm việc chính cho cả thiên hạ, thiên hạ có thể lợi được gấp bội. Cách làm cho lợi lên gấp bội đó, không phải là đi lấy đất bên ngoài. Nhân trong nước mình, bỏ cái vô dụng đi cũng đủ lợi gấp bội”.
(Tiết dụng thượng)
“Tất cả trăm nghề thợ trong thiên hạ, thợ xe, thợ da, thợ gốm, thợ rèn, thợ mộc khiến cho ai nấy làm theo tài năng của mình, hễ đủ cung cấp cho dân dùng thì thôi. Những cái thêm phí mà không có lợi cho dân, Thánh nhân không làm”.
(Tiết dụng trung)
(Lạm bàn: Tiết kiệm là quốc sách, ngày nay cũng phải vậy. Có điều không biết thế nào là đủ dùng: ăn no là đủ hay ăn ngon mới đủ; mặc ấm là đủ hay mặc đẹp là đủ?)

Cũng vì vấn đề Tiết dụng mà Mặc Tử phê phán gay gắt sự đề cao lễ nhạc của Nho gia. Ông lên án lễ nhạc “Không phải vì những tiếng chuông lớn, trống kêu, đàn cầm, đàn sắt, sáo dọc, sáo ngang là không vui, không phải vì cho những thứ chạm trổ, văn chương là không đẹp, không phải vì cho những đồ béo ngậy, xào, nướng là không ngon; không phải vì cho những nơi đền cao nhà rộng, đồng nội thâm u là không yên ổn” mà vì lễ nhạc manh tính hình thức, rườm rà, câu nệ, kéo dài chỉ tổ làm mệt dân, tốn kém mà vô dụng. Trong sách “Mặc Tử”, thiên “Phi nhạc”, Mặc Tử viết:
“Thánh nhân (ông vua) cũng đã thu lượm nhiều của muôn dân để làm ra thuyền và xe. Lúc đã thành rồi liền hỏi: ta dùng nó làm gì? Đáp: thuyền dùng ở nước, xe dùng ở cạn, quân tử được nghỉ chân, tiểu nhân được nghỉ vai, lưng, cho nên muôn dân xuất của đem lại cho, không dám oán hận. Tại sao? Vì nó trúng vào chỗ lợi của dân. Vậy thì những thứ nhạc khí, nếu cũng trúng vào chỗ lợi của dân như thế, ta cũng không dám công kích. Nhưng dân có ba điều lo, là đói không được ăn, rét không được mặc, mỏi không được nghỉ. Ba điều đó là sự lo lớn của dân. Song nếu vì dân mà gõ chuông lớn, đánh trống kêu, gẩy đàn cầm đàn sắt, thổi ống vu ống sinh và múa cái can cái thích, thì đối với ăn mặc của dân có được gì đâu?”
(Tuyệt cú mèo! Hỡi những nhà nước tự vỗ ngực chính danh là vì dân, có thấu được ý tình tuyệt đích nhân hậu này của Mặc Địch không?).

Từ đó Mặc Tử cho rằng người quân tử nói hay làm phải trực tiếp có ích dụng thực tế cho đại chúng, đều phải làm lợi cho đại chúng, làm cho đại chúng “rét có ăn, đói có mặc, mệt mỏi được nghỉ” và lấy sự ích nước lợi dân làm mục đích của hành động, làm cái gốc để định danh một hành động thiện hay bất thiện, chính nghĩa hay phi nghĩa, chứ không phải dựa vào lời nói suông. Ở thiên “Quí nghĩa”, Mặc Tử viết:
“Lời nói đủ để nâng cao hành vi thì tôn lên, không đủ nâng cao hành vi thì không tôn trọng. Không đủ nâng cao hành vi mà tôn lên, ấy là miệng phóng túng vậy”.
Nếu phương châm hành đạo của Nho gia là “Danh - Ngôn - Hành” thì phương châm hành đạo của Mặc gia là “Bản - Nguyên - Dụng”.

Khổng Tử nói:
“Nếu danh không chính thì lời nói không thuận lý, lời nói không thuận thì sự việc không thành, sự việc không thành thì lễ nhạc chế độ không kiến lập được, lễ nhạc chế độ không kiến lập được thì hình phạt không trúng, hình phạt không trúng thì dân không biết đặt tay chân vào đâu (không biết làm sao cho phải). Cho nên người quân tử đã dùng cái danh gì tất phải nói ra được (nói đúng, thuận lý), đã nói điều gì thì tất phải làm được. Đối với lời nói, người quân tử không thể cẩu thả được”.
(Luận ngữ)

Như thế đủ thấy, Khổng Tử đã tuyệt đối hóa nhận thức lý luận: một người đã đạt đến chính danh thì nghĩ phải đúng, nghĩ đúng thì nói đúng và hành động đúng, như thế là đạt được chính nghĩa.

Trái lại Mặc Tử đòi hỏi hành động phải “xem trước, ngó sau”, lấy thực tiễn để kiểm tra tính chính nghĩa của hành động. Ông nói:
“Nói tất phải thiết lập mẫu mực, nói không có mẫu thì cũng như ở trên bàn xoay mà nói sớm tối vậy. Phải trái, lợi hại khác nhau thế nào không thể mà tỏ rõ được. Cho nên nói phải có ba biểu (…) có Bản, có Nguyên, có Dụng, nghĩa là có cái làm gốc, có cái làm nguồn, có cái làm dụng. Gốc ở đâu? Trên thì lấy gốc ở việc của Thánh vương đời xưa. Nguồn ở đâu? Dưới thì do xét sự thực ở trước tai mắt trăm họ. Dụng ở đâu? Đưa ra làm việc hành chính xem có lợi cho nhà nước, trăm họ hay không?
(Phi Mệnh thượng)


Nếu phương châm hành đạo của Nho gia là “Danh - Ngôn - Hành” thì phương châm hành đạo của Mặc gia là “Bản - Nguyên - Dụng”.

Khổng Tử nói:
“Nếu danh không chính thì lời nói không thuận lý, lời nói không thuận thì sự việc không thành, sự việc không thành thì lễ nhạc chế độ không kiến lập được, lễ nhạc chế độ không kiến lập được thì hình phạt không trúng, hình phạt không trúng thì dân không biết đặt tay chân vào đâu (không biết làm sao cho phải). Cho nên người quân tử đã dùng cái danh gì tất phải nói ra được (nói đúng, thuận lý), đã nói điều gì thì tất phải làm được. Đối với lời nói, người quân tử không thể cẩu thả được”.
(Luận ngữ)

Như thế đủ thấy, Khổng Tử đã tuyệt đối hóa nhận thức lý luận: một người đã đạt đến chính danh thì nghĩ phải đúng, nghĩ đúng thì nói đúng và hành động đúng, như thế là đạt được chính nghĩa.

Trái lại Mặc Tử đòi hỏi hành động phải “xem trước, ngó sau”, lấy thực tiễn để kiểm tra tính chính nghĩa của hành động. Ông nói:

“Nói tất phải thiết lập mẫu mực, nói không có mẫu thì cũng như ở trên bàn xoay mà nói sớm tối vậy. Phải trái, lợi hại khác nhau thế nào không thể mà tỏ rõ được. Cho nên nói phải có ba biểu (…) có Bản, có Nguyên, có Dụng, nghĩa là có cái làm gốc, có cái làm nguồn, có cái làm dụng. Gốc ở đâu? Trên thì lấy gốc ở việc của Thánh vương đời xưa. Nguồn ở đâu? Dưới thì do xét sự thực ở trước tai mắt trăm họ. Dụng ở đâu? Đưa ra làm việc hành chính xem có lợi cho nhà nước, trăm họ hay không?
(Phi Mệnh thượng)

Rõ ràng phương châm “Bản - Nguyên - Dụng” xác thực hơn nhiều so với “Danh - Ngôn - Hành”. Nếu lý thuyết Khổng học thích hợp cho lý tưởng của giai tầng nhân sĩ, "ngôn hành nhất trí", thì lý thuyết Mặc học, vì cốt mưu lợi thực tế cho thứ dân, nên ngôn hành còn nhất trí hơn nữa.


Kết luận lại, dù hai học phái Khổng, Mặc có những nét khác nhau nhất định nhưng không cơ bản. Nhìn chung đều chủ trương “nhập thế hữu vi”, tích cực tham gia thời cuộc để mong hành đạo cứu nhân độ thế trong cái khuôn khổ “tuân phục” chế độ vua tôi, coi đó như một hiện thực xã hội bất biến. Phụng sự vua chúa để yêu dân trong thời Xuân Thu- Chiến Quốc loạn đả rối bời thì thật là ảo tưởng. Vì chưa nhận thức đúng được căn nguyên của sự yêu-ghét, bản chất của hiền-ác mà cả hai học thuyết của Nho gia lẫn Mặc gia (thời kỳ ấy) đều tiềm ẩn mâu thuẫn, mang tính nửa vời, nặng chủ quan, giáo điều, phi thực tế, do đó mà không phù hợp với “khẩu vị” của vua chúa cũng như quá xa vời với dân chúng và tất yếu trở thành không tưởng. Có lẽ nên coi chúng như những giáo lý khuyên dạy con người hơn là những triết thuyết khách quan của nhận thức tự nhiên - xã hội.

Nói gì thì nói, có thể còn hạn chế này nọ về quan niệm, về nhận thức (hơn 2500 năm rồi còn gì?!), nhưng cũng như Khổng Tử, Mặc Tử luôn là một nhân cách lớn. Để chào tạm biệt Mặc Tử, chúng ta mượn lời Trang Tử:
“Dụng tâm của Mặc Tử và Cầm Hoạt Ly (học trò Mặc Tử) là tốt, nhưng thực hành thì sai. Họ khiến cho những người đời sau học đạo của họ ganh đua nhau lao khổ tới nỗi đùi teo, ống chân rụng hết lông. Như vậy, cái tội làm nhiễu loạn thiên hạ thì lớn mà công làm cho thiên hạ được trị thì ít. Nhưng Mặc Tử quả là người tốt trong thiên hạ, không tìm được người nào khác như ông ấy. Chịu cực khổ dù cho thân thể khô đét, ông ấy cũng không bỏ việc giúp đời. Thật là bậc sĩ có tài năng, nhiệt tâm”.
* * *
 

Chúng ta kể chuyện Mặc Tử, mục đích chính là bênh vực (hay cũng là minh oan) cho Dương Chu. Bênh vực cho Dương Chu là bảo vệ Quỉ Cốc tiên sinh; bảo vệ Quỉ Cốc tiên sinh có nghĩa là kính phục Lão Đam (người đầu tiên của Trung Quốc đồng thời với các hiền triết Upanishad của Ấn Độ đã “thấy” được Tự Nhiên Tồn Tại: Chỉ có điều mỗi người gọi bằng một cái tên khác: hiền triết Upanishad gọi là Cái Ấy, còn Lão Đam gọi là Đạo). Kính phục Lão Đam chỉ vì chúng ta quá yêu mến Đạo của Lão.
Khi nói học thuyết của Đạo Gia hay Nho Gia thì chúng ta hiểu rằng không phải sinh thời Lão Tử hay Khổng Tử đã xây dựng hoàn chỉnh hai học thuyết ấy mà chỉ là những người khai mở, đề xướng, đi tiên phong, làm nên cái cốt xương thiết yếu. Có thể nói sự hình thành đến hoàn chỉnh của hai thuyết ấy là thành quả của nhiều người chứ không phải của một người. Nếu Nho Gia chỉ đóng vai trò như một học thuyết giảng dạy về luân thường đạo lý, về cách sống làm người sao cho đúng đắn, rút ra,suy luận ra từ những bài học của hiện tượng xã hội đương thời và trước đó, thì Đạo Gia chính là một học thuyết triết học đích thực, nó giải thích mọi hiện tượng xã hội, mọi thể hiện của nhân sinh hành vi vào sự chi phối của Đạo, của tự nhiên không trực tiếp thì cũng gián tiếp.
Dương Chu là một cái tên chung, chỉ “người phát ngôn” trên vũ đài tranh biện của phái Đạo Gia. Lão Đam mất tích thì xuất hiện Dương Chu và trong dân dã xuất hiện một Quỉ Cốc tài năng cái thế nhưng dung dị đáng yêu. Điều đó làm chúng ta cứ ngờ ngợ. Hình như… A! Phải rồi! Lão Đam rời nước Chu đến nước Trần (về quê ông!) rồi sang đất Bái (nước Tống) ở ẩn tại đó. Lúc này ông đã đổi tên thành Dương Chu. Khổng Tử có lần qua đó tìm thăm và có lẽ đã gặp (Triết thuyết của Lão Đam đang độ hình thành còn của Khổng Tử thì mới manh nha, hoặc cũng có thể vì Khổng Tử vẫn coi Lão Đam là thầy mình nên chẳng có lý do nào mà đối chọi gay gắt như sau này!). Ông ở đó dạy học, để kiếm sống, truyền bá học thuyết của mình và rất có khả năng ông đã đặt tên cho thuyết ấy là Quỉ Cốc. Dân gian đất Bái vì vậy mà gọi ông là Quỉ Cốc tiên sinh (hay ông ẩn đâu đó ở Dương Thành thuộc địa phận nhà Chu như chúng ta có lần đã kể? Chắc không phải!). Một vài học trò “chân truyền” sau này về ở ẩn đó đều giấu tên và tự nhận là Quỉ Cốc Tử theo truyền thống ẩn sĩ, u hiển. Như vậy Quỉ Cốc là một cái tên chung, lúc đầu là tên một học thuyết, sau là tên một trường phái, là tên một cái gì đấy linh thiêng như… Thần Hang, và cũng có thể là tên gọi đầu tiên mà “Đạo Đức Kinh” sau này tạm gọi là Đạo vậy. Còn Quỉ Cốc Tử, ngoài nghĩa là Quỉ Cốc tiên sinh, thầy Quỉ Cốc, có thể nào còn có nghĩa là con của Quỉ Cốc, con của Thần Hang, hay con của Đạo, con của Tự Nhiên?
Rất có thể sau Văn Vương và Chu Công, Lão Đam là người thứ ba, trong thời gian ở ẩn đã tu chỉnh, bổ sung, mở rộng, chú giải Kinh Dịch, làm cho nó mang thêm ý nghĩa triết học theo quan niệm của ông (mà phái Nho Gia sau này đã san định lại, gán cho Khổng Tử nhiều câu nói mang âm hưởng triết học tự nhiên của Đạo Gia?)
Vũ trụ quan của Lão Đam là bước phát triển đến hoàn thành của việc kết hợp nguyên lý âm dương do Bá Dương Phụ đề xướng và những điều rút ra được trong quá trình nghiền ngẫm Kinh dịch (Hà đồ, Lạc thư) của chính bản thân ông. Thuyết ấy thể hiện lần đầu tiên trên thẻ tre chắc là rất ngắn gọn, một phần vì sự trở ngại của công việc viết lách thời bấy giờ, một phần vì chân lý vốn chỉ có thế, hết mực giản dị. Hiểu được nó thì thấy sáng tỏ, không hiểu được nó thì lại thấy hết sức kỳ bí, thậm chí là quái dị, làm cho người ta không chú ý đến nó, coi nó như là những lời lẽ “trên trời”, chẳng “ăn nhập” gì với đời sống nhân gian cả. Vì thế mà chẳng có bậc trí giả nào bận tâm đoái hoài đến những câu từ có phần vẩn vơ như thế; trừ những môn đồ Quỉ Cốc. Đó là nguyên nhân dẫn đến sau này, hậu thế (thời Mạnh Tử) chỉ biết Dương Chu với thuyết “vị ngã”, “khinh vật trọng sinh” đầy vị kỷ mà không biết đến Lão Tử(!?).
Trong thực tế, chỉ khi truyền thụ học thuyết của mình cho các môn đồ bằng lời nói (truyền ngôn), Lão Đam (hay cũng là Dương Chu hoặc Quỉ Cốc tiên sinh) mới thể hiện ra hết được nội dung cũng như ý nghĩa huyền diệu thâm sâu của nó. Nó là cái gốc, là xuất phát điểm của mọi lập luận biện minh cho nhận thức xã hội và hành vi của người theo phái Đạo Gia.
Có thể “đoán mò” rằng Quỉ Cốc là một trước tác gồm ít nhất là hai phần, một phần là học thuyết nói về nguồn gốc, nguyên lý vận hành của Tự Nhiên (Đạo), của Vũ Trụ (trong đó có loài người), một phần mang tính ứng dụng, áp dụng Đạo vào thực tiễn mọi mặt, đóng vai trò như cẩm nang, bí quyết, kim chỉ nam cho hành động để sống còn, để “chiến đấu” giành thắng lợi cho chính nghĩa.
Học thuyết (gọi thế e không chính xác nhưng cứ tạm gọi vậy!) Quỉ Cốc mang tính khách quan cao độ, được các môn đồ tiếp thu qua truyền ngôn trực tiếp của thầy dạy; chỉ cho môn đồ thấy được Đạo; thấy được sự vận hành đều theo luật một cách tự nhiên của vạn vật, để biết mà sống, sống cho hợp, cho đúng, cho tốt. Quỉ Cốc không phải là một sự rao giảng cao giọng về luân lý (bản thân tự nhiên đã là luân lý rồi!?) mà như một lời khuyên nhủ chí tình, chí lý. Có thể mường tượng nó như một bài quyền hư chiêu trong võ thuật, như là Thái cực quyền: thích hay không thích thì tùy, nhưng biết nó rồi thì mê!
Mặc Địch sinh ở nước Tống, lớn lên ở nước Tống cho nên không thể thoát khỏi ảnh hưởng của Đạo gia, dù có thể đã học Nho gia. Theo truyền thuyết thì ông là bạn của Quỉ Cốc tiên sinh và Cầm Hoạt Ly, học trò của ông đã từng đàm biện với Dương Chu. Cứ cho sự thực là như vậy thì lúc này, Quỉ Cốc tiên sinh (hay cũng là Dương Chu) không phải là Lão Đam nữa mà là một người khác; là một “truyền nhân” của ông. Lão Đam, dù là người có phương pháp dưỡng sinh, tu tiên nên sống thọ, thì cũng đã tạ thế từ lâu, trước sau gì đó mươi, mười lăm năm, ngày Mặc Định chào đời. Vậy thì đích danh của Dương Chu (hay cũng là Quỉ Cốc tiên sinh) xuất hiện lúc này là… ai? Người này trước hết phải là môn đệ “chân truyền”, đóng vai trưởng môn phái, thông thuộc học thuyết của Lão Đam.
Người đó rất có thể là Lão Lai Tử và cái tên ấy cũng chỉ là một tên giả của con người có tên thật là Đam (thái tử Đam). Vì sao đoán như vậy? Vì đã là ẩn sĩ chân chính thì phải thật sự vô danh. Do đó thái tử Đam khi rời bỏ thế cuộc thì “tạm” lấy tên là Lão Lai Tử. Tên giả thường ẩn một nghĩa nào đấy. Chẳng hạn như tên Dương Chu ẩn cái nghĩa là Thành Lạc Dương, nhà Chu. Thế thì có thể cho rằng cái tên Lão Lai Tử mang cái ẩn nghĩa là con của Lão Lai. Con của Lão Lai tên Đam nên còn có thể gọi là Lão Đam. (Chúng ta chú ý đến điều này: thầy trò khi xưng hô, đối đáp vẫn thường xưng con – thưa thầy!). Người đời sau “đoán non đoán già” trước sự “u hiển” ấy và cuối cùng gộp chung “ba lão ấy” làm một: Lão Tử, người thọ 160 năm, thậm chí là 200 năm (tuổi thọ mà ba người cộng lại thì như thế cũng là thường thôi!).
Truyền thuyết Quỉ Cốc Tử là bạn của Mặc Tử và Lão Tử (Lão Lai Tử) như vậy cũng không đến nỗi vô lý lắm. Có thể truyền thuyết đó ẩn chứa sự thực này: Quỉ Cốc Tử sống cùng thời với Mặc Tử nhưng chỉ đã từng là học trò của Lão Tử (?). Có điều nhiều khả năng sau này Quỉ Cốc Tử sau khi đắc đạo, và được giao phó những cẩm nang bí truyền đã cùng môn đệ rời khỏi đất Bái (có thể vì đất Tống đã không còn “an toàn” nữa) đến Hàm Cốc (nước Tần đang lớn mạnh, thịnh trị) tiếp tục ẩn tại đó.
Hình như trường phái Quỉ Cốc (hay sau này gọi là Đạo Gia) có một ước lệ ngầm là học trò sau khi học xong những sở đắc của Quỉ Cốc đều phải “xuống núi” hành hiệp, tham gia thời cuộc tùy sở trường để thấu triệt cái thâm sâu của Đạo lý. (Tuy vậy, ai muốn bỏ học nửa chừng ra đi thì cũng không cấm, tự nhiên mà!). Sau một thời gian “lăn lộn” chốn thế sự, sẽ có những con người (rất ít?) vượt được qua vòng danh lợi, bảo toàn được mạng sống, nhận ra được cái chân lý vi diệu của Đạo, sẽ “rửa tay gác kiếm” quay về ở ẩn, chân tu, tiếp tục học nữa, và bắt đầu truyền dạy thế hệ sau, đồng thời luyện thần thành tiên.
Có một người trong số đó, vốn là môn đệ của Lão Lai Tử, “nhập thế, hữu vi”, làm nghề biện sĩ, du thuyết. Người đó được đời gọi là Vương Thiện (có thể tên giả mà thôi!).
Vương Thiện vào đời “quậy” một thời gian rồi trở về, ẩn tại đâu đó ở Dương Thành, vẫn còn là đất nhà Chu… Với lối sống mộc mạc, chân phác, bốc thuốc trị bệnh cứu người, nên dân quanh vùng nghe danh Quỉ Cốc Tử mà ông tự xưng liền gọi ông là Quỉ Cốc Tử, hoặc một cái tên khác nghe có vẻ kính phục hơn, đó là: Vương Thiện Lão Tổ. Vương Thiện Lão Tổ hay Quỉ Cốc tiên sinh là hai tên gọi của một con người tư tưởng thì cao sâu, tài năng thì siêu quần nhiều mặt (như đã nói trước đây) mà gần gũi và xuề xòa như “kẻ tiện dân”. Ông được Lão Lai Tử truyền thụ, sau này khi đã ở ẩn, hai thầy trò vẫn thường gặp nhau và khi Lão Lai Tử qui tiên, ông được coi như người đứng đầu trường phái Quỉ Cốc.
Lại một phán đoán thiếu căn cứ nữa là bắt nguồn từ tư tưởng sống phù hợp với tự nhiên, hòa vào thiên nhiên nên những người xuất thế theo phái Đạo gia thường về ẩn ở những vùng hẻo lánh, khai phá đất đai để trồng trọt chăn nuôi, tự nuôi sống mình, làm hình thành nên những trung tâm (không công khai) học, truyền đạo, và cũng có thể là còn phân tích tình hình chính sự, đề ra những quyết sách, ngầm tác động vào thời cuộc, khi đã giũ áo từ quan thì những ẩn sĩ Đạo gia chẳng khác nào một anh chàng nhà quê, một bác tá điền hay một lão nông xuề xòa chân phác. Họ ẩn là ẩn cái danh xưa kia của họ, cái tài năng xuất chúng của họ, cái mục đích phụng nghĩa cao cả của đời họ. Đó là “người đi đường”, “người gánh cỏ”, là “hai người đang cày ruộng” tên Tràng Thư và Kiệt Nịch, là “ông già làm cỏ ruộng”, là “người cuồng nước Sở” mà thầy trò Khổng Tử đã vô tình gặp được trên bước đường tìm nơi hành đạo của mình. Mặc Tử nhiều khả năng đã chứng kiến được cái cảnh sống điền viên ấy của các ẩn sĩ và nó đã tác động sâu sắc đến ông sau này, thể hiện trong phong cách sống và biện thuyết Kiêm Ái của ông.
Chuyện Khổng Tử theo Lão Tử trợ táng ở Hương Đảng (trong bộ “Tiểu Đái Ký”, thiên “Tăng Tử Vân”) mà chúng ta đã nói đến thì Hương Đảng có thể là vùng đất của các ẩn sĩ phái Đạo gia (hồi đó chưa có tên Đạo Gia!) chăng?
Dù thiếu căn cứ lịch sử nhưng chúng ta tin điều phán đoán trên là rất gần với hiện thực bởi câu nói này của Dương Chu: “Cho nên cái quí của trí là bảo tồn lấy cái ta làm quí. Cái đáng khinh ở sức ấy là chiếm đoạt lấy vật làm khinh”.  

                                                                           ***

Có lẽ Vương Thiện Lão Tổ là người tổng kết, làm sâu sắc thêm, và xây dựng đến mức hoàn chỉnh toàn bộ hệ thống tư tưởng triết học tự nhiên – xã hội của Đạo Gia cũng như những cơ sở lý luận ứng dụng vào thực tiễn của nó (Dịch học, y học, thuật dưỡng sinh, thuật cai trị, cẩm nang quyền mưu, biện thuyết… ). Vương Thiện Lão Tổ là tên được dân chúng địa phương gọi; Vương Danh Lợi là tên được những người trong nội bộ đạo phái gọi, Quỉ Cốc tiên sinh (Quỉ Cốc thần sinh) là tên được lưu truyền trong nhân gian. Nhưng trên bàn tròn học thuật, không còn “người phát ngôn” Dương Chu nữa mà xuất hiện một nhân vật mới có tên là Lý Nhĩ. Lý Nhĩ là tác giả cuốn “Lão Tử”. Cuốn “Lão Tử”, sau này đến thời nhà Hán được gọi là “Đạo đức kinh” và được cho là chứa đựng toàn bộ tư tưởng triết học của Đạo Gia. 

Như đã nói, Vương Thiện Lão Tổ dạy rất nhiều học trò, theo nhiều lĩnh vực. Ai thích gì ông dạy nấy, không nề hà. Bốn đại đệ tử nổi danh của ông là Tôn Tẫn, Bàng Quyên, Tô Tần, Trương Nghi. Trong bốn người đó thì Bàng Quyên chết trong chiến trận, Tô Tần chết vì chính cái nghề du thuyết của mình, Trương Nghi chết tại quê nhà, riêng Tôn Tẫn sau trận phục binh tiêu diệt quân Ngụy, giết chết Bàng Quyên ở Mã Lăng, truyền thuyết lưu truyền rằng ông bỏ đi, theo Quỉ Cốc tiên sinh tu tiên. Từ đó không còn cái tên Tôn Tẫn nữa vì ông đã trở thành một người mai danh ẩn tích, là một Quỉ Cốc Tử (con của Quỉ Cốc) với cái tên khác, có thể là Vương Danh Lợi. Đã từng là nhà quân sự và đã thấu triệt Đạo Gia, do đó có thể nhận định là không một ai khác mà chính ông là tác giả của quyển sách thiên cổ kỳ thư có tựa đề: “Quỉ Cốc Tử”. 

Thật là buồn cười, qua bao nhiêu chặng đường đi tìm hiểu tác giả của “Quỉ Cốc Tử” là ai và thầy của tác giả là ai, rốt cuộc chúng ta chẳng thấy rõ ràng thêm được tí gì, thậm chí lại còn “mù tịt” hơn nữa. Tác giả của “Quỉ Cốc Tử” là… Quỉ Cốc Tử; thầy của Quỉ Cốc Tử là… Quỉ Cốc Tử, hết! Tương tự như để trả lời “Tồn Tại là gì?”, loài người đã phải đi một chặng đường dằng dặc để đến tận hôm nay, câu trả lời chính xác nhất từ cổ chí kim vẫn là: “Tồn Tại là… Tồn Tại!”. 

Dù có thể là công dã tràng, nhưng chí ít cuộc đi cũng làm cho chúng ta khỏi phải vô công rỗi nghề; khỏi bị người đời chê là ngồi một chỗ mà luận thiên hạ! 

Đi đến đây có lẽ cũng đủ rồi. Nếu có đi nữa để tìm hiểu thêm những Mạnh Tử, Huệ Tử, Công Tôn Long, Trâu Diễn, Hàn Phi, Trang Tử… thì cũng đến thế mà thôi. Học thuyết của họ chỉ là sự xào qua xào lại, tranh biện mặt này mặt kia của các khái niệm, của một khía cạnh cụ thể nào đó của ba nhà: Lão, Khổng, Mặc; chứ ít có những ý mới mang tính đột phá. 

Đi nữa, vừa tốn công, vừa mất thời gian và điều lo ngại lớn nhất là thời Chiến Quốc sắp bước vào giai đoạn khốc liệt nhất, rất dễ bị tên bay đạn lạc. Nên nhớ rằng còn vài “tua du lịch” hoang tưởng nữa đang chờ chúng ta ở thế kỷ XXI. 

Nhưng trước khi trở về, chúng ta sẽ sắp xếp lại các nhân vật làm nên hệ tư tưởng Đạo Gia đúng vị trí mà họ đã “có mặt” thực sự trong lịch sử kèm theo lời giải đáp những nghi vấn nêu ra trong sách sử, theo sự phán đoán của riêng chúng ta. Và xin thông báo trước rằng đừng ai lấy nó hoặc rút ra từ nó những thông tin để dùng vào bất cứ sự khảo cứu nghiêm túc nào vì nó chỉ đúng đối với những cái đầu đầy đặc hoang tưởng mà thôi! 

Ấy chết! Chúng ta chưa làm cái việc sắp xếp vị trí cho các hiền triết của phái Đạo Gia được. Có một sự bỏ sót “khổng lồ” là chúng ta đã quên béng mất Doãn Hỷ và Liệt Ngự Khấu (Liệt Tử). 

Tương truyền Lão Lai (bây giờ chúng ta gọi thế) thấy nhà Chu suy vi vô phương cứu vãn, liền bỏ đi, đến cửa quan thì gặp quan coi cửa quan là Doãn Hỷ. Doãn Hỷ nói: 

- Ông sắp đi ẩn rồi, cố viết cho tôi một cuốn sách. 

Lão Lai bèn viết. Không biết viết gì. Người ta cho rằng đó là quyển “Đạo đức kinh” hơn năm nghìn chữ. Lúc đó Lão Lai nóng ruột đi mà viết đến năm nghìn chữ (lên lụa hay lên thẻ tre) cho một anh quan coi cửa ải thì thật là lạ. Cho nên chúng ta đoán rằng “quyển sách” đó có thể chỉ là vài câu thiết yếu về “Đạo” của Lão Lai mà thôi. Có thể chính nội dung của cuốn sách đó (chắc là “mỏng” thôi) đã làm Doãn Hỷ mê nên về sau cũng bỏ luôn việc quan, theo Lão Lai đi ở ẩn. Người ta đồn Doãn Hỷ viết sách nói về công dụng của Đạo Gia. Lão Tử sau này cũng có sách với nội dung tương tự). 

Nhân vật thứ hai, Liệt Tử, có thân thế mờ ảo hơn nhiều. 

Liệt Tử được cho là tác giả cuốn “Xung hư chân kinh”. “Xung hư chân kinh” là tên được đặt ra sau này, vào năm thứ nhất (năm 742), niên hiệu Thiên bảo vua Đường Huyền Tôn). Đến đầu thế kỷ XI, đời vua Tống Chân Tôn, nó được gọi là “Xung hư chí đức chân kinh” (xung hư có nghĩa là hư không). Thường hơn, người ta gọi đó là “Liệt Tử”, được đặt ngang hàng với những cuốn kinh khác như Đạo đức Kinh, Nam Hoa Kinh, Kinh Thi, Kinh Thư… Nhờ thế mà Liệt Tử cũng được xếp chung với những triết gia lớn nhất thời Xuân Thu - Chiến Quốc. 

Vậy mà có một số học giả, như Cao Tự Tôn (thế kỷ XII), bảo Liệt Tử chỉ là nhân vật hoang đường. Lý do là trong Sử Ký (của Tư Mã Thiên) không chép Liệt Tử trong khi lại chép truyện nhiều nhân vật kém quan trọng hơn như: Thuận Đáo, các môn đệ của Khổng Tử… Lý do nữa là trong Nam Hoa Kinh, Trang Tử có kể Liệt Tử cưỡi gió mà đi (!) Nhiều lý do khác nữa… 

Cuốn “Liệt Tử” còn bị nghi ngờ là ngụy thư bởi số học giả đông hơn. Có người cho là hoàn toàn ngụy thư, có người cho rằng chỉ một phần nhỏ là do đệ tử chép tư tưởng của Liệt Tử, còn lại là do đời sau thêm vào thành bản mà ngày nay chúng ta biết. 

Ai đọc tác phẩm “Liệt Tử” cũng đều thấy xuyên suốt trong đó hệ tư tưởng triết học duy vật, hồn nhiên, vô thần của Đạo Gia phái, cái triết lý sống thản nhiên, thuận theo tự nhiên, hòa hợp với thiên nhiên, giản dị, lạc quan mà sống vì sống cũng chỉ là tạm mà thôi: “Sống là tạm đến, chết là tạm đi”… Toàn bộ nội dung của “Liệt Tử” chỉ có một phần rất ít trực tiếp nói về Đạo lý (lý thuyết triết học), còn lại hầu hết là những truyện kể các loại như: truyện cổ, truyện hoang đường, thần thoại, sự tích kim cổ… nói chung có vẻ tạp lục. Đọc các truyện đó, thấy mỗi câu chuyện đều có tính ngụ ngôn, ngầm biện minh cho một tư tưởng, quan niệm nào đó hoặc ngầm dẫn dụ, khuyên can một điều gì đó. Một quyển kinh mà lại như một quyển truyện chọn lọc với những truyện vừa ngắn gọn vừa sâu sắc, trong sáng nhẹ nhàng, đọc đi đọc lại vẫn hay, càng thấm thía. 

Nhìn chung những câu chuyện kể trong “Liệt Tử” có vẻ như tạp văn, “đủ thứ” nhưng xét kỹ thì hóa ra những câu chuyện đó đều hướng về một mục đích duy nhất: giải thích hoặc chứng minh cho lý thuyết triết học của Đạo Gia. 

Từ nhận xét đó, chúng ta đưa ra một phán đoán: Cuốn “Liệt Tử” là tổng hợp các câu chuyện dùng để minh chứng, phụ họa, dẫn giải của các thầy phái Đạo Gia trong khi truyền giảng, dạy học cho các môn sinh. Lúc đầu chỉ do Liệt Tử chấp bút, nhưng về sau được bổ sung dần từ nhiều người khác. 

Theo Nguyễn Hiến Lê (Liệt Tử - Dương Tử, NXB Văn hóa thông tin, 2002) cuốn “Liệt Tử” gồm tám thiên, cách trình bày nguyên thủy (y như hồi xưa) như sau:
  1. Thiên Thụy
  2. Hoàng Đế
  3. Chu Mục Vinh
  4. Trọng Ni (Khổng Tử)
  5. Thang Vấn (vua Thang hỏi)
  6. Lực Mệnh (Sức người và mệnh trời)
  7. Dương Chu
  8. Thuyết Phù
Nguyễn Hiến Lê cho rằng cách sắp đặt các thiên như thế trong nguyên bản chữ Hán (bản “Liệt Tử chú thích” của NXB Hoa Liên, Đài Bắc năm 1969) là “rất lộn xộn, không hợp lý chút nào cả, do đó nhan đề mỗi thiên không phù hợp với nội dung”. Ông viết tiếp:
“Như thiên đầu: Thiên thụy gồm 13 bài mà chỉ có 5 bài nói về Vũ Trụ, về Đạo, còn 8 bài kia nói về sự sống chết, cách làm giàu. Thiên Hòang đế gồm 21 bài chỉ có một bài nó về Hòang Đế còn 20 bài kia nói về Khổng Tử (4 bài), Dương Chu (2 bài), Lão Tử, Chu Tuyên Vương .. v… v… Mà thiên Trọng Ni gồm 15 bài cũng chỉ là 4 bài nói về Khổng Tử, còn thì nói về quan Doãn Hỷ, Liệt Tử, Đặng Tích .. v… v…”
Theo chúng ta, nếu cấu trúc của tác phẩm nguyên thủy là như thế mà bản Hán văn vẫn để nguyên như thế thì không phải là họ không thấy “rất lộn xộn” như Nguyễn Hiến Lê thấy mà họ thật ra là tôn trọng quá khứ, tôn trọng lịch sử.
Nhờ thế mà làm chúng ta nảy ra ý này: Cuốn “Liệt Tử” đóng vai trò như một giáo án (hay như sách giáo khoa?) dùng trong việc truyền giảng triết học nhân sinh của Đạo gia.
Trong tám thiên ấy, có ba thiên gây chú ý đặc biệt cho chúng ta, đó là thiên Thụy, thiên Lực Mệnh và thiên Thuyết Phù.
Thiên Thụy, Nguyễn Hiến Lê chú giải: “Nhan đề này khó hiểu, các bản chữ Hán và các từ điển Từ Hải, Từ Nguyên đều không giảng, chỉ cho biết Thụy là một thứ ngọc khuê, ngọc bích dùng làm dấu hiệu. Dấu hiệu đó các vua thời xưa ban cho người đeo. Theo Benedykt Grynpas, thiên Thụy là phần Vũ Trụ mà chúng ta nhìn thấy được, nhờ nó mà các thánh nhân mới tìm hiểu được Đạo. Cho nên thiên này bàn về Vũ Trụ và Đạo”
Thiên Thụy là thiên mở đầu, là nội dung cơ bản, cốt lõi của tư tưởng triết học phái Đạo gia, đóng vai trò chủ đạo, xuyên suốt các tác phẩm.
Thiên Lực Mệnh hầu như là nói về mối quan hệ giữa người với giới tự nhiên, về khả năng tạo dựng của con người cũng như cái lẽ thành bại của sự tạo dựng.
Thiên cuối có tên là “Thuyết Phù”. Cũng theo Nguyễn Hiến Lê chú giải thì: “Thuyết Phù, cũng không sách nào giảng. Phù là cái thẻ tre, viết chữ vào rồi chẻ làm đôi, mỗi người giữ một mảnh. Ngày xưa khi phong các chư hầu hay sai đại thần đi đâu, đều dùng cái phù làm tin, hễ ghép hai mảnh lại mà ăn khớp nhau thì là phải. Theo Grynpas, thuyết phù có nghĩa là “giảng cái phù”, nghĩa là những truyện trong thiên này người viết chỉ nói một nửa ý thôi, người đọc phải suy nghĩ mà đoán được nửa kia, như ghép hai mảnh tre lại với nhau vậy”.
“Thuyết Phù” làm chúng ta liên tưởng ngay đến thiên cổ kỳ thư “Quỉ Cốc Tử”. Tồn Tại có nghĩa là Tự Nhiên, Tự Nhiên là nói về Tồn Tại. Tất cả các sự vật tồn tại được, là hợp lẽ tự nhiên, sự sinh ra và mất đi của chúng cũng là hợp lẽ tự nhiên. Tồn tại, hiểu theo nghĩa rộng nhất của nó chính là tuyệt đối tồn tại, viết: Tồn Tại.
Một sự vật - hiện tượng sinh ra hay mất đi, tồn tại hay không tồn tại thì vẫn cứ là bộ phận của Tồn Tại, vẫn là vì hợp lẽ Tự Nhiên một cách tuyệt đối. Cái tuyệt đối ấy khi đã qua nhận thức thì cũng chỉ là… tương đối thôi! Trước người quan sát, sự hợp lẽ tự nhiên thể hiện ra được là nhờ sự xuất hiện của cái phi tự nhiên. Đó chính là mâu thuẫn. Mâu thuẫn cũng là hợp lẽ tự nhiên. Mâu thuẫn tuyệt đối cũng là một biểu hiện của Tồn Tại, cũng là lẽ tự nhiên và cũng chính là Tự Nhiên. Tính đầy đủ (và đồng thời cũng không đầy đủ, là cả hai mà cũng không phải cả hai) của Tồn Tại là như thế đấy, giản dị mà cũng rắc rối quá chừng! Vì thế, nếu ai đó muốn tránh rắc rối, không thích thấy mâu thuẫn thì chỉ còn nước… đừng nhận thức nữa, thế thôi!.
Tồn tại (hay không tồn tại) là hợp lẽ tự nhiên nên tồn tại (hay không tồn tại)! Con người ta được sinh ra, sống rồi chết đi là hợp lẽ tự nhiên. Mạng sống, đối với con người suy nghĩ bình thường là cái quí giá nhất, không gì so sánh được vì đối với “cái tôi”, nó là hi hữu, có một không hai mà theo Dương Chu nói “dầu có cả thiên hạ cũng không thể đổi lấy được”. Do đó mục đích tự nhiên (bản năng) đầu tiên, tối thượng trong hành động của con người là duy trì mạng sống của mình, tìm cách thích nghi với mọi hoàn cảnh để sống, nghĩa là biết sống phù hợp theo những biến đổi của môi trường thiên nhiên cũng như những biến động của điều kiện xã hội. Trong thời Xuân Thu - Chiến Quốc mịt mùng khói lửa và bạt ngàn binh đao, thời mịt mùng không còn thấy chính nghĩa ở đâu nữa, không thể theo ông vua nào để cứu nhân độ thế được thì cách sống phù hợp nhất là xuất thế vô vi, tác động vào thời cuộc bằng cách khác, ở thế vô danh, tưởng không làm mà làm tất cả (vô vi vô bất vi). Chắc chắn sự “tung hoành” của thời Chiến Quốc dẫn đến thống nhất Trung Quốc có sự tham gia ngầm rất tích cực của những người theo phái Đạo gia.
Phải chăng những điều chúng ta vừa nói là nội dung của thuyết Phù? Đúng là như thế vì toàn bộ nội dung của “Quỉ Cốc Tử” toát lên một chữ Phù, toàn bộ quan niệm về nhân sinh của Đạo gia cũng toát lên một chữ Phù.
Có thể nói rằng từ quan niệm triết học ngay từ đầu nói chung là đúng đắn về Tự Nhiên Tồn Tại mà con đường nhận thức đi đến thuyết Phù mang tính tất yếu. Và thuyết Phù trở thành nền tảng trực tiếp cho mọi quan niệm nhân sinh, quan điểm chính trị, lý luận quyền mưu của Đạo gia phái. Tóm lại Đạo gia cho rằng tất cả sự thành bại, còn mất trong xã hội chỉ là do suy nghĩ và hành động của con người có phù hợp hay không phù hợp mà thôi!
Nếu ý kiến của Grynpas là đúng thì thiên Thuyết Phù còn như là tập hợp những bài tập kiểm tra mức độ nhận thức của các môn sinh (phải xây dựng nửa phần còn lại của câu chuyện cho phù hợp, hợp thành một ý nghĩa hoàn chỉnh).
Theo chúng ta, sách “Liệt Tử” nhiều khả năng là một công trình có tính tập thể, do nhiều người góp ý và xây dựng nên trong khỏang thời gian khá dài; ý kiến cho rằng Liệt Tử chỉ là nhân vật hoang đường cũng có nhiều khả năng đúng hơn. Hay chúng ta cứ phán rằng Liệt Tử là tên của ẩn sĩ… Doãn Hỷ, cho gọn, mà cũng chẳng ảnh hưởng gì đến triết thuyết của Đạo gia cả.
Rồi! Thế là không có điều gì khuất tất nữa, đã có thể lập bảng “phong thần” cho các hiền triết Đạo gia thời Xuân Thu - Chiến Quốc được rồi và chúng ta lập như sau:
  1. Lão Lai (Thái Thượng Lão quân)
  2. Doãn Hỷ (Liệt Tử)
  3. Lão Đam (Thái tử Đam, Lão Lai Tử)
    (Ba người này hun đúc nên nhân vật huyền thoại là Lão Tử, sống thọ đến 160 tuổi, thậm chí là 200 tuổi. Lão Tử lập nên một học thuyết triết học có cái tên huyền bí là Quỉ Cốc Đạo. Trước khi xuất hiện tên Lão Tử, thì lúc ấy đóng vai trò “người phát ngôn” cho Quỉ Cốc Đạo trên bàn tròn tranh biện trong xã hội, là Dương Chu.)
  4. Vương Thiện (Quỉ Cốc tiên sinh, Vương Thiện Lão Tổ)
    (Ông là người chấp bút viết “Đạo đức kinh”, “Xung hư chân kinh”, như là một hành động tổng kết tư tưởng của Lão Tử. Ông cũng được cho là tổ sư của các nhánh triết học, những trường phái chính trị: Danh gia, Âm dương gia, Pháp gia…)
  5. Tôn Tẫn (Vương Danh Lợi)
    (Vương Thiện và Tôn Tẫn hợp lại thành một nhân vật huyền thoại là Quỉ Cốc Tử, được đắc đạo trường sinh, thành tiên. Tôn Tẫn chính là người viết cuốn “Quỉ Cốc Tử”. Lúc này Quỉ Cốc Đạo mang tên gọi mới là Đạo Lão mà “người phát ngôn” là Lý Nhĩ. “Quỉ Cốc Tử” được viết trên nền tảng nhận thức lý luận của Đạo Lão, là bộ phận hợp thành của hệ thống triết học ấy. Nó có tính chất khai triển, nói thiên về quyền mưu.)
    Ông là người hoàn thành “Đạo đức kinh” của Vương Thiện Lão Tổ và cũng chính là tác giả của cuốn “Quỉ Cốc tử”.
Năm con người kiệt xuất ấy đã làm nên một pho sách vĩ đại: Vô Tự Đại Thư.


* * *



Có người hỏi: “Sắp xếp như vậy đúng không?”. Chúng ta nói: “Không biết!”. Hỏi tiếp: “Đã không biết thì sao dám cả gan làm?”. Chúng ta trả lời: “Thích!”. Lại hỏi: “Không sợ bị thiên hạ lên án sao?”. Chúng ta đáp: “Không! Vì chúng ta là… vô danh!”.

Chúng ta vô danh không phải vì chê danh mà vì danh không đến. Ngày xưa bước vào đời “nhập thế hữu vi”, chúng ta đã cố gắng học hành, “lùng sục” công danh một cách đầy nhiệt huyết. Than ôi, sức lực thì có thừa nhưng tài năng lại có hạn, nên đi đã gần hết một đời, công đã bất thành rồi mà đến danh cũng bất toại; trước sau vẫn hoàn vô danh; trước là đứa trẻ vô danh, bây giờ là thằng già vô danh. Dù sao thì cũng còn may: tuy là vô danh nhưng không đến nỗi “tiểu tốt”, nên chúng ta chẳng cảm thấy hèn nhục, lo lắng khổ sở gì. Biết đâu chừng trong cái dở lại có cái hay. Sách “Liệt Tử” viết về danh như thế này:
“Từ bỏ cái danh đi thì khỏi phải lo nghĩ. Lão Tử nói: “Danh là khách của thực”, mà người đời đau đáu chạy theo cái danh hoài.
Danh vốn không thể bỏ được, danh vốn không thể coi là khách được. Ngày nay ai có danh thì được tôn vinh, vô danh thì chịu hèn nhục; tôn vinh thì an dật vui sướng, hèn nhục thì lo lắng khổ sở. Lo lắng, khổ sở thì lại hại đến bản tính, an dật vui sướng thì thuận với bản tính, quả có liên hệ với nhau như vậy. Vậy thì làm sao lại bỏ danh? Làm sao lại coi danh là khách? Ghét chăng là ghét sự giữ cái danh mà làm lụy cái thực; giữ cái danh mà làm lụy cái thực thì sẽ có lúc phải chịu nỗi nguy vong mà không có cách cứu, chứ đâu phải chỉ là chuyện an dật vui sướng với lo lắng, khổ sở mà thôi đâu”.
Trước đây thú thực, nghĩ về thân phận cũng thấy buồn. Nhưng từ ngày được các “Lão” tận tình truyền thụ, chúng ta bỗng cảm thấy lòng an nhiên lạ thường. Xin đề tặng cho chương này một bài thơ như sau:
Ta chẳng buồn đâu, chẳng nữa đâu
Từ nay thôi nhé vạn u sầu
Cứ đến cứ đi bằng thỏa thích
Lòng ta đã lộng gió cao sâu
*
Tham muốn chi nhiều, tổ lo âu
Công danh nuôi chí, rước bạc đầu
Tài khối, tiền muôn, sinh lắm tật
Nặng nhân tình, chuốc nặng khổ đau.
*
Sắc dục tùm lum, oải phao câu
Lễ nhạc om sòm, điếc tai trâu
Trăng xinh, ngó mãi, đâm nhàm mắt
Ơn nghĩa ôm vào, vác phờ râu.
*
Một mình trôi nổi, giữa đêm thâu
Rượu nhạt chan hòa với bầu sao
Hữu ngã bồng bềnh trong vô ngã
Theo hầu Lão Tử xứ Đông Châu.


 (Hết chương VII)

                                                                     

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét