TT&HĐ 4* (Hoàn chỉnh)
THỰC TẠI VÀ HOANG ĐƯỜNG
ĐẠI CHÚNG
____________________________________
PHẦN I: CÓ MỘT CÁI GÌ ĐÓ
"Sự im lặng vĩnh viễn của những khoảng không vô định này làm tôi sợ hãi" –Blaise Pascal
“Tại sao có một cái gì đó chứ không phải
là không có gì?” - Lepnit.
"Con người không thể sống mà không cố gắng mô tả và giải thích vũ trụ". - Isaiah Berlin
"Âm nhạc trong tâm hồn có thể được nghe bởi vũ trụ" -Lão Tử
"Vũ trụ càng có vẻ dễ hiểu, thì nó cũng có vẻ vô nghĩa hơn" - Steven Weinberg
"Chỉ có hai thứ là vô hạn: vũ trụ và sự ngu ngốc của con người, và tôi không chắc lắm về điều trước" - Albert Einstein
"Tìm hiểu để xem. Nhận ra rằng mọi thứ đều kết nối với mọi thứ khác" -Leonardo da Vinci
"Càng nghiên cứu nhiều hơn về vũ trụ, chúng ta phát hiện ra rằng vũ trụ
hoàn toàn không phải là tùy tiện, mà tuân theo một số quy luật đã được
xác định rõ hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau. Có vẻ rất hợp lý khi
cho rằng có những nguyên tắc thống nhất, để tất cả các luật là một phần
của một số luật lớn hơn" - Stephen Hawking
"Nó không phải là vũ trụ là khó hiểu; đó là bộ não của bạn và tuổi thọ
của bạn quá nhỏ để hiểu những gì đang xảy ra ngoài kia" –Ian Dallas.
CHƯƠNG III: TỰ NHIÊN VÀ PHI TỰ NHIÊN
-"Người thuận theo đất, đất thuận theo trời, trời thuận theo Đạo, Đạo thuận theo tự nhiên".
Tự Nhiên là gì? Wikipedia nói: "Tự nhiên hay cũng được gọi thiên nhiên, thế giới vật chất, vũ trụ và thế giới tự nhiên (tiếng Anh: nature) là tất cả vật chất và năng lượng chủ yếu ở dạng bản chất. "Tự nhiên" nói đến các hiện tượng xảy ra trong thế giới vật chất, và cũng nhắc đến sự sống nói chung. Phạm vi bao quát của nó từ cấp hạ nguyên tử cho tới những khoảng cách lớn trong vũ trụ. Nghiên cứu về tự nhiên là một mảnh ghép lớn trong thế giới khoa học. Dù cho con người hiển nhiên là một phần của tự nhiên, nhưng những hoạt động của con người thường được phân biệt rạch ròi khỏi những hiện tượng tự nhiên.
Từ nature có nguồn gốc từ natura trong tiếng Latin, có nghĩa là "phẩm chất thuần khiết, thiên hướng bẩm sinh", và trong thời cổ đại nó có nghĩa đen là "sự sinh nở". Natura trong tiếng Latin là dịch từ physis (φύσις) trong tiếng Hy Lạp, một từ có nguồn gốc liên quan đến đặc tính nội tại của thực vật, động vật và những đặc trưng khác trong thế giới do chính người cổ đại nghĩ ra hoặc ghi chép lại. Khái niệm tự nhiên theo nghĩa tổng thể, hay vũ trụ vật chất, là một trong vài khái niệm mở rộng của khái niệm ban đầu; nó bắt đầu bằng những cách thông hiểu trọng tâm của từ φύσις bởi các triết gia trước Sokrates, và đã thu được sự chú ý dần dần theo thời gian kể từ đó. Cách sử dụng này dần được chấp nhận trong giai đoạn phát triển của phương pháp khoa học hiện đại trong vài thế kỷ qua.
Với nhiều cách sử dụng và ý hiểu ngày nay, "tự nhiên" cũng nhắc đến địa chất và thế giới hoang dã. Tự nhiên cũng bao gồm nhiều loại động thực vật sống khác nhau, và trong một số trường hợp liên quan tới tiến trình của những vật vô tri vô giác – cách mà những kiểu riêng biệt của sự vật tồn tại và làm biến đổi môi trường quanh nó, tỉ như thời tiết và hoạt động địa chất của Trái Đất, cũng như vật chất và năng lượng của tất cả mọi thứ mà chúng cấu thành lên. Khi hiểu theo nghĩa là "môi trường tự nhiên" hoặc vùng hoang dã – động vật hoang dã, đá, rừng, bờ biển, và nói chung những thứ không bị tác động của con người thay đổi hoặc phản kháng trước những tác động của con người. Ví dụ, các sản phẩm được sản xuất hoặc có tác động bởi con người nói chung sẽ không được coi là thuộc về tự nhiên, trừ khi được định nghĩa thành những lớp lang phù hợp, ví dụ, "bản chất con người" (nhân tính) hay "toàn thể tự nhiên". Khái niệm truyền thống này về các vật tự nhiên mà đôi khi ngày nay vẫn sử dụng hàm ý sự phân biệt giữa thế giới tự nhiên và nhân tạo, với những thứ nhân tạo được ngầm hiểu từ tâm thức hoặc tư duy của con người. Phụ thuộc vào từng ngữ cảnh, thuật ngữ "tự nhiên" cũng có thể khác hẳn với từ "không tự nhiên" hay "siêu thiên nhiên"".
Theo chúng ta thì tất cả các sự vật - hiện tượng tồn tại trong Vũ Trụ không do con người làm ra, gây ra, không do con người sáng tạo ra, không có nguyên nhân từ con người, đều là tự nhiên. Nói như thế có nghĩa là mọi sự vận động, chuyển hóa, mọi quá trình sinh - diệt của Vũ Trụ đều do tự nhiên chi phối, đều thuộc tự nhiên, bởi tự nhiên, vì tự nhiên!
Thiên nhiên là những sự vật - hiện tượng tự nhiên xảy ra trên Trái Đất nên là bộ phận của tự nhiên, thuộc về tự nhiên. Có thể nói vui: định mệnh là tự nhiên của con người, thiên nhiên là tự nhiên của Trái Đất, các mệnh đề, tiên đề, tất cả các định luật, qui luật hợp thành tự nhiên của Vũ Trụ.
Vì mọi sự vận động, chuyển hóa, mọi quá trình sinh - diệt của Vũ Trụ đều do tự nhiên chi phối, đều thuộc tự nhiên, bởi tự nhiên, vì tự nhiên, nên Vũ Trụ được thấy như có lý trí, có một tinh thần, gọi là Tinh Thần Vũ Trụ, hay "người" hơn, gọi là Linh Hồn Vũ Trụ! Đây có lẽ là nguyên nhân sâu xa hướng nhận thức triết học Ấn Độ cổ đại đến các khái niệm "Brahman", "Atman", hay chúng ta vẫn coi con người là "Tiểu Vũ Trụ"!
Phát biểu như thế đồng thời chúng ta cũng khẳng định: không có Thượng Đế, hoặc Thượng Đế chỉ là tên gọi thần thánh hóa của tự nhiên.
Từ nature có nguồn gốc từ natura trong tiếng Latin, có nghĩa là "phẩm chất thuần khiết, thiên hướng bẩm sinh", và trong thời cổ đại nó có nghĩa đen là "sự sinh nở". Natura trong tiếng Latin là dịch từ physis (φύσις) trong tiếng Hy Lạp, một từ có nguồn gốc liên quan đến đặc tính nội tại của thực vật, động vật và những đặc trưng khác trong thế giới do chính người cổ đại nghĩ ra hoặc ghi chép lại. Khái niệm tự nhiên theo nghĩa tổng thể, hay vũ trụ vật chất, là một trong vài khái niệm mở rộng của khái niệm ban đầu; nó bắt đầu bằng những cách thông hiểu trọng tâm của từ φύσις bởi các triết gia trước Sokrates, và đã thu được sự chú ý dần dần theo thời gian kể từ đó. Cách sử dụng này dần được chấp nhận trong giai đoạn phát triển của phương pháp khoa học hiện đại trong vài thế kỷ qua.
Với nhiều cách sử dụng và ý hiểu ngày nay, "tự nhiên" cũng nhắc đến địa chất và thế giới hoang dã. Tự nhiên cũng bao gồm nhiều loại động thực vật sống khác nhau, và trong một số trường hợp liên quan tới tiến trình của những vật vô tri vô giác – cách mà những kiểu riêng biệt của sự vật tồn tại và làm biến đổi môi trường quanh nó, tỉ như thời tiết và hoạt động địa chất của Trái Đất, cũng như vật chất và năng lượng của tất cả mọi thứ mà chúng cấu thành lên. Khi hiểu theo nghĩa là "môi trường tự nhiên" hoặc vùng hoang dã – động vật hoang dã, đá, rừng, bờ biển, và nói chung những thứ không bị tác động của con người thay đổi hoặc phản kháng trước những tác động của con người. Ví dụ, các sản phẩm được sản xuất hoặc có tác động bởi con người nói chung sẽ không được coi là thuộc về tự nhiên, trừ khi được định nghĩa thành những lớp lang phù hợp, ví dụ, "bản chất con người" (nhân tính) hay "toàn thể tự nhiên". Khái niệm truyền thống này về các vật tự nhiên mà đôi khi ngày nay vẫn sử dụng hàm ý sự phân biệt giữa thế giới tự nhiên và nhân tạo, với những thứ nhân tạo được ngầm hiểu từ tâm thức hoặc tư duy của con người. Phụ thuộc vào từng ngữ cảnh, thuật ngữ "tự nhiên" cũng có thể khác hẳn với từ "không tự nhiên" hay "siêu thiên nhiên"".
Theo chúng ta thì tất cả các sự vật - hiện tượng tồn tại trong Vũ Trụ không do con người làm ra, gây ra, không do con người sáng tạo ra, không có nguyên nhân từ con người, đều là tự nhiên. Nói như thế có nghĩa là mọi sự vận động, chuyển hóa, mọi quá trình sinh - diệt của Vũ Trụ đều do tự nhiên chi phối, đều thuộc tự nhiên, bởi tự nhiên, vì tự nhiên!
Thiên nhiên là những sự vật - hiện tượng tự nhiên xảy ra trên Trái Đất nên là bộ phận của tự nhiên, thuộc về tự nhiên. Có thể nói vui: định mệnh là tự nhiên của con người, thiên nhiên là tự nhiên của Trái Đất, các mệnh đề, tiên đề, tất cả các định luật, qui luật hợp thành tự nhiên của Vũ Trụ.
Vì mọi sự vận động, chuyển hóa, mọi quá trình sinh - diệt của Vũ Trụ đều do tự nhiên chi phối, đều thuộc tự nhiên, bởi tự nhiên, vì tự nhiên, nên Vũ Trụ được thấy như có lý trí, có một tinh thần, gọi là Tinh Thần Vũ Trụ, hay "người" hơn, gọi là Linh Hồn Vũ Trụ! Đây có lẽ là nguyên nhân sâu xa hướng nhận thức triết học Ấn Độ cổ đại đến các khái niệm "Brahman", "Atman", hay chúng ta vẫn coi con người là "Tiểu Vũ Trụ"!
Phát biểu như thế đồng thời chúng ta cũng khẳng định: không có Thượng Đế, hoặc Thượng Đế chỉ là tên gọi thần thánh hóa của tự nhiên.
Anhstanh hỏi:
“Thượng Đế có bao nhiêu sự lựa chọn trong việc tạo dựng Vũ Trụ?”
“Thượng Đế có bao nhiêu sự lựa chọn trong việc tạo dựng Vũ Trụ?”
Và chúng ta trả lời:
“Thượng
Đế chẳng có sự lựa chọn nào cả vì...làm gì có Thượng Đế!” Cứ giả sử là
có Thương Đế và dù có vô hạn sự lựa chọn hay một sự lựa chọn thì Thượng
Đế
vẫn phải lựa chọn và như thế Thượng Đế là không toàn năng. Một Thượng Đế
không
toàn năng thì đâu phải là Thượng Đế mà chỉ là một thiên tài hay một xuất
chúng, nếu
có thể gọi như thế, còn không thì cũng… bình thường thôi!
Nhưng nếu chúng ta cứ khăng khăng nhất mực
là có Thượng Đế thì vì Thượng Đế không có sự lựa chọn nên cũng chẳng thương yêu
hay ghét bỏ con người làm gì và một Thượng Đế với hình dung như vậy “rất giống”
với Tốn Tại hay nói trắng ra, chính là Tồn Tại.
Vì không có lựa chọn nên Tồn Tại cũng chẳng
tự chọn mình, do đó làm sao có sự tạo dựng Vũ Trụ được? Không có tạo dựng, nhưng
Vũ Trụ vẫn hiện diện trước con người quan sát với biết bao nhiêu những quá trình
tưởng hỗn độn mà hài hòa, vô cùng chằng chịt, rối rắm nhưng lại như được an bài,
vừa phi thường vừa là sự thực “chắc nịch” (từ của Anghen).
Hay là có tạo dựng? Nếu cho rằng có tạo dựng
thì phải giải được câu đố sau đây:
Tạo dựng được bắt đầu từ đâu, từ bao giờ,
từ cái gì, đấng nào đã tạo ra hay dựng nên và đấng ấy được đấng nào nặn ra từ đâu,
từ bao giờ, từ cái gì, và đấng nào ấy từ đấng nào nữa …; rồi đấng nào nữa ấy…?
Để may ra có thể trả lời được câu đố đó
thì trước hết phải thừa nhận có vô hạn đấng nhưng trong vô hạn đấng ấy phải có
một đấng là toàn năng, có sẵn chứ không phải được nặn ra, vì được nặn ra có nghĩa
là còn bị lệ thuộc, chưa toàn năng. Rốt cuộc thì lại phải có đấng cuối cùng và
số đấng là hữu hạn. Số đấng hữu hạn cũng chỉ là một khả năng, một sự lựa chọn
thôi, vì đấng toàn năng có thể tạo một lúc vô hạn đấng không toàn năng. Nhưng để
tạo dựng ra Vũ Trụ mà phải nặn ra một lô đấng không toàn năng thì "lãng phí" quá
và như thế cũng sẽ không toàn năng! Do đó, chỉ cần một đấng duy nhất tạo dựng Vũ
Trụ thôi. Đấng duy nhất ấy không thể khác, là Thượng Đế, Thượng Đế tạo dựng Vũ Trụ
từ cái gì, ở đâu, hay lấy từ chính Ngài ra? Một toàn năng bị lấy bớt đi thì đâu
còn toàn năng nữa! Mà Thượng Đế như chúng ta đã biết, không yêu ghét gì con người
cả, không lựa chọn được gì cả, nhắm mắt tạo dựng và chỉ tạo dựng đúng như thế
chứ không thể khác, lại chính là Tồn Tại: Vừa toàn năng vừa không toàn năng và
không phải cả hai. Lẽ nào Tồn Tại tạo dựng Tồn Tại một cách mù quáng?!
Vô tình (hay giả vờ vô tình?) chúng ta đã
nghêu ngao lại bài đồng dao: Chim ri là …
Nghĩ đi nghĩ lại, mới thấy anh chàng nông
dân quê mùa mộc mạc ấy láu cá đáo để, đã có một câu trả lời xếp vào hàng hay nhất
và đúng nhất thế gian: “Trời sinh ra thế!”, một câu trả lời vừa “gọn nhẹ” vừa
khỏi phải nghĩ ngợi nhức óc vô ích, vừa có thể đương đầu được vô khối những câu
hỏi thuộc loại hóc búa nhất của những nhà bác học lừng danh nhất, những triết
gia thâm hậu nhất của mọi thời đại. Đó là câu trả lời không thể phản biện!!! Mai này có dịp về quê gặp gã, chúng ta sẽ hỏi:
“Ai sinh ra Trời?” xem thử gã trả lời ra sao, hay cũng gọn lỏn: “Trời sinh ra
thế!”. Mà có thể là gã trả lời như thế thật vì những hạng người như gã, còn cách
nào trả lời nữa đâu. Chúng ta cũng nên tạm bằng lòng với điều đó, để còn được
vui thú nhấm nháp những ly rượu nồng thơm hương đồng quê. Chứ nếu chúng ta cố
thắng hỏi tiếp: “Trời sinh ra Trời à?” là sẽ sinh chuyện. Lúc đó rất có thể gã
sẽ điên tiết lên mà rằng: “Trời sinh ra tất cả thì Trời cũng sinh ra Trời, Trời
sinh ra thế mà lại! Mấy ông đừng có dấm dớ vớ vẩn, người sinh ra người chứ không
lẽ sinh ra chó!”. Và điều tệ hại nhất xảy ra: chúng ta sẽ không được hưởng một
bữa rượu thịt ê hề mà gã, như bao người dân quê thuần phác và luôn hiếu khách
khác, đã định kêu vợ "tạo dựng" ra để thết đãi những vị khách không mời mà đến và còn hỏi tầm bậy tầm bạ với mục đích khiêu khích..
***
Tất yếu phải đi đến quan niệm rằng không có sự
tạo dựng Vũ Trụ!
Nhưng như thế sẽ làm cho con người quan sát
bất bình. Trước mắt họ, tất cả các sự vật - hiện tượng từ đơn giản nhất đến phức
tạp nhất, từ nhỏ nhất cho đến lớn nhất và có thể là toàn bộ Vũ Trụ sự vật - hiện
tượng đều có khởi đầu, quá trình tồn tại, kết thúc và như vậy là đều được tạo dựng.
Từ những việc liên quan đến con người như làm ăn sinh sống, sinh con đẻ cái, có
nhà cửa, có sự nghiệp… , đến những sự kiện xảy ra của thiên nhiên như mưa nắng,
động đất, núi lửa … đến những biến cố thiên văn như sự ra đời, bùng nổ của các
ngôi sao, sự hợp tan của các thiên hà … nhất nhất đều chứng thực điều đó.
Trong vật lý học hiện nay, hầu hết các nhà
khoa học đã đồng tình với việc cho rằng Vũ Trụ có một điểm khởi đầu và có một lịch
sử (nghĩa là có sự tạo dựng). Chúng ta hãy nghe nhà vật lý thiên văn Nguyễn
Quang Riệu kể về điều này trong quyển “Vũ Trụ - phòng thí nghiệm thiên nhiên vĩ
đại” (NXB Giáo dục - 1995)
“(…) Ngành vật lý thiên văn nghiên cứu về
nguồn gốc và sự tiến hóa Vũ Trụ, có hai trường phái. Một trường phái chủ xướng
bởi nhà vật lý học người Anh, Hoyle, cho rằng Vũ Trụ ở trong “trạng thái ổn định”,
vô thủy vô chung. Các vật chất được tạo ra và biến đi liên tục. Trường phái khác
cho rằng Vũ Trụ được tạo ra bởi một vụ nổ vĩ đại cách đây khoảng 15 tỷ năm, hiện
nay đang giãn nở và loãng dần. Từ nay ta sẽ gọi vụ nổ nguyên thủy là “Vụ nổ lớn”
(Big bang). Tìm hiểu nguồn gốc Vũ Trụ là một vấn đề vô cùng nan giải, vì phải dùng
phương tiện toán lý và dụng cụ quan sát rất phức tạp. Đứng về phương tiện triết
lý, có người cho rằng thuyết Vũ Trụ trong trạng thái ổn định rất tao nhã, vì
trong thuyết này Vũ Trụ không trải qua giai đoạn nguyên thủy bùng nổ kỳ dị. Điểm
kỳ dị trong toán học là điểm đặc biệt đáng tránh, vì là nơi các biểu thức toán
học phân kỳ ra vô tận. Vũ Trụ trong trạng thái ổn định không thay đổi từ quá khứ
đến tương lai (…). Trong sự tranh luận giữa hai trường phái, có người cho rằng
tin có Vụ nổ lớn là tin có một Tạo hóa đã tạo ra Vũ Trụ. Họ nghĩ rằng thuyết Vụ
nổ lớn không có tính chất thuần lý. Trong một buổi yết kiến tại Tòa thánh Vaticăng
(Vatican), Giáo hoàng đã phát biểu với các nhà vật lý thiên văn như sau: “Nghiên
cứu quá trình tiến triển của Vũ Trụ là công trình tốt đẹp, nhưng nên tránh tìm
hiểu đúng thời điểm Vũ Trụ nổ, vì đó là công trình của Thượng đế”. Đứng về phương
diện khoa học thì thuyết đúng nhất phải miêu tả và giải thích được những hiện tượng
lý hóa thiên nhiên. Theo những kết quả nghiên cứu khoa học mới nhất thì thuyết
Vụ nổ lớn miêu tả Vũ Trụ đúng hơn vì giải thích được nhiều hiện tượng thiên nhiên
hơn là thuyết trạng thái ổn định”. (…..)
(…….)
Trong thuyết Vụ nổ lớn, Vũ Trụ giãn nở từ
một điểm kỳ dị. Muốn tìm tuổi Vũ Trụ, ta phải lý luận để đi ngược thời gian đến
điểm kỳ dị, lúc tuổi và bán kính của Vũ Trụ là số không để làm mốc: Tại điểm này,
những định luật của toán lý và thuyết tương đối rộng không áp dụng được. Vật lý
hiện đại dựa vào vật lý các hạt đã giúp ta trở lại quá khứ, nhưng chỉ đoán được
những sự kiện đã xảy ra bắt đầu từ 10-43 giây đồng hồ sau vụ nổ! Con
số cực nhỏ này không có ý nghĩa thực tế, nhưng đứng trên phương diện khoa học, nó
là mốc cho thời gian trong quá trình tiến triển của Vũ Trụ. Thời điểm này được
gọi là thời điểm Planck, (một nhà vật lý học người Đức, thế kỷ XX) (…). Ở thời điểm
Planck, kích thước Vũ Trụ là 10-33
cm (độ dài Planck), nhiệt độ là 1032 K và mật độ là 1094
g/cm3!...”
Dù rằng thuyết Vụ nổ lớn được hình thành
nên từ việc quan sát thực tế phát hiện ra Vũ Trụ giãn nở của nhà thiên văn học
Hubble (hiện tượng các thiên hà xa xăm rải rác khắp bầu trời ngày một lánh xa
nhau) và đã giải thích được nhiều hiện tượng xảy ra trong Vũ Trụ nhưng ngay lập
tức, chúng ta không chấp nhận nó vì nếu không, chúng ta bắt buộc phải bỏ dở cuộc
hành trình đi tìm cái gì đó và quay về nhà. Hay nói rõ hơn quan niệm về tồn tại
của chúng ta không thể dung hòa với nó được. Chúng ta dù mang danh là những kẻ
hoang tưởng, cũng không hình dung nổi một Vũ Trụ “khủng khiếp” như thế. Làm sao
có thể hiểu nổi toàn bộ Vũ Trụ các sự vật - hiện tượng ngày nay, cách đây 15 tỷ
năm lại dồn được vào một điểm có đường kính 10-33 cm, thậm
chí là bằng
không: một tồn tại nhỏ đến vô cùng, không bao hàm không gian và thời
gian, hoặc
nếu bao hàm không gian và thời gian thì phải ở giữa một mênh mông Hư
Vô!? Nếu nó
nổ thì trước đó phải có một lực lượng làm cho nó bị dồn nén tức tưởi cực
độ; còn
không thì làm sao nó nổ được? Và nếu Vũ Trụ là giãn nở thì hoặc nó chỉ
là một bộ
phận của Tồn Tại thôi hoặc ngoài nó cũng phải là mênh mông Hư Vô. Nói
mênh mông Hư Vô thì cũng như nói một không gian hư vô, nghĩa là có một
thể tích hư vô. Nhưng
đã Hư Vô thì ngay đến thể tích cũng không được hiện diện. Tóm lại nếu
thuyết đó
đúng thì Vũ Trụ mà chúng ta quan sát thấy chỉ là một bộ phận của Vũ Trụ
mà chúng
ta quan niệm và như thế nó được tạo dựng, trong không gian và thời gian
cũng chẳng
khác gì một vụ nổ pháo hoa cả.
Nhân đây, chúng ta cũng nên đọc lập luận
của nhà thần học Thomas Aquinas về sự toàn thiện của Thượng Đế (trong cuốn sách
có tựa đề “Nhập môn triết học - Siêu hình học, thần học và Vũ Trụ luận” của
Calaro R.Ceniza và Romualdo E.Bulad, bản dịch tiếng Việt, NXB Tổng hợp TP HCM,
năm 2005):
“Thiên chúa có toàn thiện hay không?”
“Do vậy, chúng ta tiếp tục đề cập đề mục
thứ nhất:
Phản đề 1: Dường như Thiên Chúa không toàn
thiện. Vì chúng ta bảo, một vật là toàn thiện nếu nó được tạo thành một cách đầy
đủ. Nhưng quả là chẳng lợi gì cho Chúa để được tạo thành. Do đó, Ngài không toàn
thiện.
Phản đề 2: Hơn nữa, Thiên Chúa là khởi
nguyên đầu tiên của vạn vật. Nhưng những khởi nguyên của vạn vật dường như không
toàn thiện; như mầm mống là khởi nguyên của sự sống động vật và thực vật. Do đó
Thiên Chúa không toàn thiện.
Phản đề 3: Hơn nữa, như trình bày ở trên,
yếu tính của Thiên Chúa là sự hiện hữu. Nhưng sự hiện hữu dường như là bất toàn
nhất, vì nó phổ quát và dễ đón nhận toàn bộ sự biến thái. Do đó Thiên Chúa không
toàn thiện.
Trái lại, như đã viết: Hãy nên toàn thiện
như Cha trên trời là Đấng toàn thiện. (Matt V.18)
Tôi trả lời như thế. Như Triết gia thuật
lại (Siêu hình học XII), một vài triết gia cổ điển, ấy là, những người theo trường
phái Pithagoras và Leucippus, đã không khẳng định sự “thiên hảo nhất” hay “toàn
thiện nhất” của nguyên nhân đệ nhất. Lý do là vì các triết gia cổ điển chỉ xét
tới nguyên nhân vật chất: nhưng nguyên nhân vật chất thì bất toàn nhất. Vì vật
chất như thế chỉ là tiềm năng, là tác nhân, và như thế, là trong tình trạng của
thực tại. Do đó, nguyên nhân thực đầu tiên phải cần là hiện thực nhất, và do đó
toàn thiện nhất; vì một vật thì toàn thiện tương ứng với tình trạng thực tại của
nó, vì chúng ta gọi cái toàn thiện là cái không thiếu gì về cách thức toàn thiện
của nó.
Trả lời cho phản đề 1: Như Gregory nói (Đạo
đức V, 26, 29): Dù miệng lưỡi chúng con chỉ có thể lắp bắp, thế nhưng chúng con
vẫn ca ngợi những kỳ công của Chúa. Vì cái không được tạo dựng mà được gọi là toàn
thiện là không đúng. Tuy nhiên, vì những sự vật được tạo dựng lại được gọi là toàn
thiện, khi từ tiềm năng chúng được đưa vào hiện thực, từ toàn thiện này có nghĩa
là bất cứ cái gì viên mãn trong hiện thực, cho dù nó có toàn thiện hay không.
Trả lời cho phản đề 2: Nguyên nhân vật chất
mà chúng ta thấy là bất toàn, nguyên thủy không thể là tuyệt đối được; nhưng phải
được đi trước bởi cái gì đó toàn thiện. Vì mầm mống, dù nó là nguyên nhân của sự
sống động được tạo ra qua mầm mống, nó phải có trước nó, con vật hay cây cối mà
từ đó nó xuất phát. Vì trước cái là tiềm năng, phải có cái là hiện thực: vì một
hữu thể tiềm năng chỉ có thể được biến đổi thành hành động bởi một hữu thể nào đó
đã là thực.
Trả lời phản đề 3: Sự hiện hữu là toàn
thiện nhất trong mọi sự, vì nó được so sánh với mọi sự như cái mà nhờ đó mọi sự
được làm cho trở thành hiện thực; vì không gì là hiện thực trừ bao lâu nó còn
hiện hữu. Do đó, hiện hữu là cái làm cho mọi sự thành hiện thực, cả các hình dạng
của chúng. Do đó nó không được đem so sánh với những cái khác như bình chứa được
thừa nhận. Do đó khi tôi nói về sự hiện hữu của con người, của con ngựa, hay của
bất cứ thứ gì khác, sự hiện hữu được xem như một nguyên nhân đối xứng và như thứ
gì đó được thừa nhận; nhưng không phải như cái hiện hữu.”
Không
biết các thánh khác có hiểu được sự
diễn giải trên của thánh Thomas không, chứ chúng ta, những kẻ bình dân,
hoàn toàn
mù tịt, chỉ thấy hình như có bài đồng dao “Chim ri là …” trong đó. Có
thể giữa
chúng ta và thánh Thomas đã có những cách biệt không thể khắc phục được
về những
khái niệm cơ bản như: hiện hữu, hiện thực, hữu thể, toàn thiện, thực tại
…, vì
vậy mà trước sự khẳng định của Ngài, chúng ta vẫn u minh, chưa biết được
Thượng Đế có toàn thiện hay không. Và cũng có thể tiên đoán được điều
này nên thánh
Thomas đã nói, kể ra thì cũng chí lý: “Điều mà bạn không thấy cũng chẳng
hiểu
thấu, thì chính đức tin lại chứng thực cho bạn, bằng cách vượt lên trên
dấu chỉ
hiển hiện trong tự nhiên; một dấu chỉ vốn hiển hiện bây giờ, và còn
nhiều thực
tại ẩn náu dưới mầu nhiệm”.
Khốn
nỗi, chúng ta lại có tính hoài nghi! Và thưa ngài Thomas, khi tính tò
mò bị đức tin chế ngự thì quá trình nhận thức thế giới của con người
cũng dừng lại!
Để “rộng đường dư luận”, chúng ta trích
ra đây một đoạn đối thoại giữa nhà vật lý thiên văn Trịnh Xuân Thuận và nhà sư
Mathieu Ricard (đã từng là tiến sĩ sinh học) trong cuốn sách có tựa đề “Cái vô
hạn trong lòng bàn tay” (NXB Trẻ - 2005).
“Mathieu: Thừa nhận sự tồn tại của nguyên
lý sáng thế cũng chẳng làm thay đổi được gì câu hỏi này, Tại sao lại phải có một
nguyên tắc sáng thế thay vì là không có gì? Bằng cái nguyên lý sáng thế đó ông
muốn nói lên điều gì? Phải chăng đó là một thực thể xây dựng nên cái tổng thể này
để nó vận hành?
Trịnh Xuân Thuận: Điều quan trọng là nguyên
tắc này muốn tạo ra một Vũ Trụ
có một người quan sát.
Mathieu: Muốn ư? Như vậy, nguyên lý sáng
thế phải chứa đựng trong đó mọi quyền năng.
Trịnh Xuân Thuận: Tôi nghĩ thế.
Mathieu: Như vậy, nó không phải tuân theo
bất cứ một thứ quyền năng nào khác ngoài quyền năng của chính nó?
Trịnh Xuân Thuận: nếu phải tuân theo một
thứ quyền năng nào khác thì nó sẽ không còn là toàn năng nữa.
Mathieu: Trong trường hợp đó, nó có quyết
định sáng thế hay không sáng thế?
Trịnh Xuân Thuận: Nó quyết định sáng thế.
Mathieu: Nếu như nó quyết định sự sáng thế
thì nó không có sức mạnh vô song nữa vì nó lại bị ham muốn sáng thế tác động. Hơn
nữa, nó đã thay đổi, và do đó mất đi tính bất biến của mình: trước kia, nó không
có ham muốn sáng thế, vậy mà giờ nó lại có ham muốn sáng thế. Nếu như nó sáng
thế mà không quyết định sáng thế thì nó cũng không còn là toàn năng nữa vì nó
không còn sự tự do sáng thế hoặc không sáng thế. Như vậy tính toàn năng của nó
bị bác bỏ. Thứ hai, một nguyên lý như thế liệu có được sinh ra mà không có nguyên
nhân hay không, hay nó là nguyên nhân của chính nó.
Trịnh Xuân Thuận: Theo tôi, nó là nguyên
nhân của chính nó. Nhưng tôi nhắc lại, tranh luận của chúng ta đã đi ra ngoài khoa
học mất rồi.
Mathieu: Nếu như nó là nguyên nhân của chính
nó thì nhất định nó phải bất biến. Một thực thể tồn tại từ chính nó không có lý
do gì để thay đổi cả. Chỉ có thể thay đổi những gì được sinh ra từ một cái khác.
Tại sao ư? Bởi vì một cái gì đó vĩnh hằng không thể sinh ra một cái gì đó phù
du được. Hơn nữa, nếu như nó sáng thế thì nó không còn là bất biến nữa, vì sự sáng
thế đòi hỏi phải có thay đổi; phải có một hành động sáng tạo. Sau khi đã sáng
thế, nó không còn nguyên vẹn nữa: trước đó nó không phải là tạo hóa, nhưng sau đó,
nó đã trở thành tạo hóa. Như vậy, nó đã mất đi tính bất biến. Khái niệm vĩnh hằng
làm cho mọi sự nối tiếp của các sự kiện và các điều kiện biến thiên trở nên không
thể: một tạo hóa bất biến không thể có hai trạng thái. Cuối cùng, nếu nó sáng
thế, thì nó phải biến đổi trở lại do chính hành động sáng thế của nó, vì mọi hành
động đều kéo theo một tác động tương hỗ. Không có một nguyên nhân nào là một
chiều, nên quan hệ nhân quả nhất thiết phải có tính tương hỗ. Lại một bằng chứng
nữa cho thấy tạo hóa mất đi tính bất biến và đồng thời cả tính vĩnh hằng của mình
nữa. Không gì có thể làm thay đổi một cái gì đó không thể thay đổi được, giống
như một lọ thuốc nhuộm không thể tô màu được không gian. Tóm lại, cái không có
một nguyên nhân nào khác ngoài chính mình thì không thể tương tác với bất cứ cái
gì.
Trịnh Xuân Thuận: Như vậy mỗi một sự kiện
đều phải có một nguyên nhân, nhưng như thế lại thành thụt lùi tới vô cùng …
Mathieu: Tính vô cùng này chắc chắn sẽ đi
ngược lại các niềm tin siêu hình của Phương Tây; của tôn giáo cũng như của các
nhà khoa học, những người muốn bằng mọi giá phải gán một sự “bắt đầu” cho vạn vật.
Mong muốn tìm ra một điểm bắt đầu dựa trên niềm tin rằng vạn vật tồn tại thực và
bền vững như trí óc bình thường của chúng ta cảm nhận.
Trịnh Xuân Thuận: Trước đây, tôi đã giải
thích rằng cơ học lượng tử cho phép tránh được quan niệm về một nguyên nhân đầu
tiên của Vũ Trụ. Sự “bắt đầu” của vạn vật không còn là nhất thiết cần nữa.
Mathieu: Nếu sự bắt đầu không còn là cần
thiết nữa – và tôi cũng đồng ý như vậy – thì nguyên lý sáng thế cũng không cần
thiết nữa. Nhưng nó làm thế nào có thể tổ chức được các hiện tượng nếu như không
có điểm bắt đầu? Cùng lắm là nó chỉ có thể thay đổi dần dần diễn biến của chúng.
Lập luận thứ ba: nếu nguyên lý sáng thế này
tổ chức toàn bộ thế giới các hiện tượng thì nó phải chứa trong lòng nó tất cả các
nguyên nhân của thế giới này. Nếu không, có thể sẽ có một cái gì đó nằm bên ngoài
sự sáng tạo của nó.
Trịnh Xuân Thuận: Rất lôgic.
Mathieu: Nhưng nền tảng của qui luật nhân
quả là ở chỗ: sở dĩ một sự kiện không xảy ra chính là vì thiếu một số nguyên nhân
hay điều kiện nào đó. Sỡ dĩ một hạt không nảy mầm là bởi vì nó có khuyết tật hoặc
vì thiếu độ ẩm, nhiệt độ … Chừng nào tất cả các nguyên nhân và điều kiện chưa hội
đủ thì không thể có một kết quả được sinh ra. Ngược lại, khi tất cả các nguyên
nhân và điều kiện đã đầy đủ, kết quả nhất thiết phải được sinh ra. Còn nếu nó
không được sinh ra thì có nghĩa là vẫn còn thiếu một cái gì đó. Như vậy, nếu một
nguyên lý sáng thế mang trong lòng nó những nhuyên nhân và kết quả của Vũ Trụ
thì nó phải không ngừng tạo ra toàn bộ Vũ Trụ. Về một phương diện nào đó tựa như
một Big Bang vĩnh cửu.
Trịnh Xuân Thuận: Nó không thể dừng lại một
khoảnh khắc nào.
Mathieu: Đúng như vậy: nếu nó dừng lại thì
có nghĩa là nó sẽ không chứa trong lòng nó tất cả các nguyên nhân của sáng tạo
nữa. Vì thế, nó cần phải có sự giúp đỡ hoặc là của một nguyên lý khác giữ một
phần nguyên nhân và nó phải phụ thuộc vào nguyên lý này, hoặc là có một nguyên
lý điều chỉnh có khả năng làm cho quá trình sáng thế dừng lại. Trong mọi trường
hợp, nó vẫn mất đi sức mạnh vô song. Như vậy, chỉ có hai khả năng: hoặc nó không
nắm giữ tất cả các nguyên nhân và điều kiện, và như thế, nó không bao giờ có thể
sáng thế; hoặc nó có tất cả các nguyên nhân và điều kiện, và như vậy, nó liên tục
sáng tạo ra tất cả.
Trịnh Xuân Thuận: Điều này cũng phi lý.
Mathieu: Lập luận này có thể được tóm tắt
như sau: Khi mà nguyên nhân và hoàn cảnh được hội đủ, thì cho dù tạo hóa có không
muốn sáng tạo cũng không thể ngăn được nó sáng tạo: không thể không sáng tạo, nó
sẽ sáng tạo. Khi không hội đủ nguyên nhân và hoàn cảnh, thì dù nó có muốn sáng
tạo nhưng do không thể sáng tạo, nó sẽ chẳng tạo đuợc gì (…). Nếu tạo hóa tạo
ra những kết quả như những nỗi đau khổ địa ngục, thì dù không muốn đi nữa, nó sẽ
không còn tự do, mà trở nên phụ thuộc, và ngay cả khi nó muốn, nó vẫn phụ thuộc
vào sự mong muốn của mình và sự độc lập của nó sẽ bị lung lay. Ngay cả khi tạo
hóa tạo ra tất cả các đau khổ này, thì thử hỏi một Thượng Đế thánh thiện ở điểm
nào, bởi vì đưa người khác vào đau khổ không phải là công việc của một vị thánh.
Một số người nói rằng tạo hóa có thể tạo
ra thế giới một cách dần dần. Quan điểm này hàm ý rằng các nguyên nhân của Vũ Trụ
là rất nhiều và tạo hóa không có trong tay tất cả các nguyên nhân đó vào lúc bắt
đầu sáng thế. Vậy thì sau đó tạo hóa đã lấy các nguyên nhân này từ đâu?
Một số người khác lại lập luận rằng hành động
của tạo hóa là phi thời gian, rằng nó tạo ra thế giới hiện nay hoàn toàn giống
như nó đã từng tạo ra và sẽ tạo ra. Chúng ta sẽ biểu diễn quá trình sáng thế dưới
góc độ một chuỗi các sự kiện, mà theo quan điểm của tạo hóa là đồng thời. Quan điểm
này không tránh khỏi phải bác bỏ một nguyên lý sáng thế mang trong lòng nó tất
cả các nguyên nhân của Vũ Trụ, và như vậy, phải tiếp tục tạo ra Vũ Trụ đó. Hơn
nữa, nếu tất cả các sự kiện của Vũ Trụ trong quá khứ, hiện tại, tương lai, là đồng
thời theo quan điểm của tạo hóa thì điều này sẽ dẫn đến một quyết định luận tuyệt
đối. Quan điểm này sẽ làm cho mọi nỗ lực tạo sự chuyển biến bên trong nhằm xóa đi
vô minh và đạt tới giác ngộ trở nên vô ích.
Ngược lại, sự xuất hiện của các hiện tượng
thông qua trò chơi các quan hệ phụ thuộc lẫn nhau không đầu không cuối sẽ tránh
được quyết định luận tuyệt đối, vì các nguyên nhân và điều kiện thuộc các quan
hệ này là vô số và không thể qui về một nguyên nhân đầu tiên và duy nhất được.
Trịnh Xuân Thuận: Các hiện tượng hỗn độn
hoặc ngẫu nhiên, cũng như sự nhòe lượng tử, đúng là đã bác bỏ ý tưởng về một Vũ
Trụ tất định tuyệt đối.
Mathieu: Cuối cùng, nếu không chỉ tất cả
các nguyên nhân mà còn tất cả các kết quả của chúng đều nằm trong tay Tạo Hóa
thì người ta sẽ thậm chí không thể nói tới sự sáng tạo được nữa, bởi vì mọi thứ
đều đã xuất hiện. Hơn nữa, tất cả các lập luận trước sẽ được áp dụng ở đây cho
quá trình hiện đại hóa hoặc quá trình thể hiện ra bên ngoài của các kết quả này
trong thế giới chúng ta.
Một số triết gia Ấn Độ nói rằng ở mọi
giai đoạn sáng thế, Tạo Hóa trở thành nguyên nhân tương ứng nhưng đồng thời vẫn
giữ nguyên vẹn đặc tính của mình, giống như một diễn viên múa đóng các vở khác
nhau, vận những bộ đồ khác nhau nhưng vẫn là anh ta chứ không phải ai khác. Điều
này mâu thuẫn với ý tưởng cho rằng Tạo Hóa là nguyên nhân duy nhất của Vũ Trụ,
vì một nguyên nhân duy nhất không thể tạo ra nhiều kết quả khác nhau. Mặt khác,
một mặt thống nhất trong các mặt luôn thay đổi không thể được coi là bất biến.
Nếu kết quả là không liên tục thì nguyên nhân của nó không thể là vĩnh hằng được.
Tóm lại theo Phật Giáo, dưới góc độ thế giới sắc không, mỗi một thời khắc là một
sự ngừng lại và cũng là một sự bắt đầu mãi mãi do tính vô thường cơ bản của các
hiện tượng nối tiếp nhau theo các qui luật nhân quả. Dưới góc độ chân lý tuyệt đối,
tất cả các sự kiện trong quá khứ, hiện tại, tương lai đều giống nhau trong chừng
mực chúng không có tồn tại tự thân. Vì vậy, chúng không có bắt đầu mà cũng không
có kết thúc thực sự. Nếu không có gì thực sự được “sinh ra”, sẽ không cần phải
băn khoăn về tính chân thực của sự chấm dứt. Như vậy, không cần đến khái niệm về
một nguyên lý sáng thế, nguyên lý làm ra tất cả nhưng bản thân nó lại không được
tạo bởi cái gì hết.”
Có
những suy niệm Phật Giáo làm chúng ta
khâm phục, nhưng không phải là tất cả. Ở đây cũng vậy, chúng ta học hỏi
được “một
nửa” từ những suy luận của Mathieu, còn nửa kia đã bị che phủ bởi sự "bí
hiểm" của
những khái niệm. "Hình như" ở đây, Mathieu đã "bênh vực" cho quan niệm
của Hêraclite, coi vận động Vũ Trụ chỉ là một thường biến. Không, bản
thân quá trình thường biến vĩ đại đó đã là sự hàm chứa cả tính tự thân
và bất biến!
Theo
Phật Giáo thì thế giới này, nói nôm
na là hoàn toàn thường biến; tất cả mọi sự vật hiện tượng đều là sự giả
hợp, không
có tồn tại tự thân vì không có gì; không có một thực thể nào từ lớn nhất
(là thế
giới hiện tượng) đến nhỏ nhất (hạt vật chất được chúng ta quan niệm) có
thể vĩnh
cửu tuyệt đối. Quan niệm này dù rất sâu sắc thì vẫn phiến diện! Chúng ta
cho rằng, chính sự phiến diện này đã làm cho quan niệm của Phật Giáo về
Tự Nhiên "đi lạc" vào cõi phù du, đầy huyền hoặc, ảo mộng...
Làm
sao quan niệm được thường biến nếu không
suy nghĩ về sự bất biến? Trong thực hành tâm linh để rời bỏ vô minh đến
với giác
ngộ thì cái để hướng đến ấy có vô thường không, Niết Bàn là tuyệt đối
hay tương
đối? Một tổng thể tuyệt đối thường biến, mãi mãi thường biến có được cho
là chân
lý tuyệt đối, đóng vai trò như nguyên lý về sự vô thường hay không, và
có thể vĩnh
cửu hay không? Vì không có nguyên lý sáng thế nên có thể cho rằng toàn
thể cái
thế giới sắc không mà Phật Giáo quan niệm, cái thế giới có bên trong vô
thường,
với tổng thể vừa phụ thuộc lẫn nhau vừa không dựa trên bất cứ một sự
thực nào,
hỗn loạn vô minh nhưng đồng thời cũng có thể vượt thoát đến giác ngộ, là
một tồn
tại tự thân được không? Không thể chối bỏ được hiện thực, Phật Giáo, để
bảo vệ
quan niệm của mình, phải thừa nhận có tồn tại tương đối. Tồn tại tương
đối có đồng
nghĩa với tồn tại tự thân tương đối không? Xã hội loài người, hay cụ thể
hơn, một
dân tộc người là một tổng thể có những mối quan hệ giữa những con người
cụ thể
làm hình thành nên nội tại của nó, là một sự thực hay chỉ là giả hợp?
Con người
cụ thể có giả hợp không? Nếu con người cụ thể là một giả hợp thì hạnh
phúc và
khổ đau của người đó cũng là giả hợp, do đó giác ngộ có ích gì? Còn nếu
con người
cụ thể không giả hợp thì chí ít, người đó phải tồn tại tương đối và nếu
người đó
nhận thấy đời là bể khổ, cố gắng tự cải tạo mình, mưu cầu giải thoát,
trong khi
nhiều kẻ khác can đảm sống kiếp nô lệ, thì người đó có một chút nào độc
lập, một
chút nào tồn tại tự thân không? Chắc là không rồi! Một con người không
có tồn tại
tự thân, sẽ không thể biết được chút xíu nào về cái tôi của mình; không
cảm giác
được vui buồn thì cũng không cảm nhận được hạnh phúc và khổ đau, hoàn
toàn thờ ơ,
hoàn toàn vô vọng. Đối với một người như thế thì vô minh hay đại ngộ có
khác gì
nhau đâu? Và Phật Giáo, như một hướng đường cho chúng sinh tìm đến an
lạc (và
chỉ theo ý nghĩa này thôi!) bỗng trở nên giả tạo, phi thực, và chỉ còn
là nơi thể hiện lòng nhân ái, khuyên bảo bao dung, răn dạy lầm lỗi, xoa
dịu những nỗi đau thương trần thế và ru ngủ những linh hồn chán chường,
vô vọng!...
Tôi
đồng thuận với Phật Giáo ở những rao giảng về luân thường đạo lý của nó
làm giảm bớt khổ đau, hướng thiện cho đời sống xã hội, nhưng không đồng
thuận với nó trong việc phủ dụ con người và nhất là không bao giờ tin
nó trong quan niệm về Vũ Trụ!
***
Trước mắt chúng ta giờ đây hiện lên hai
con đường, một con đường dẫn chúng ta đến với thế giới có nguyên lý sáng thế, có
tạo dựng, có Thượng Đế; một con đường dẫn chúng ta đến với thế giới sắc sắc không
không, vô thường, không đầu không cuối, không có tồn tại tự thân và không tạo dựng.
Đi đường nào đây?
Bao triết thuyết
ru mê những kiếp đời
Bao nẻo đời cuồng si theo
triết thuyết
Con đường
nào hỡi tột cùng Minh Triết
Giữa hoang mang mờ mịt khói vô minh?!
Giữa hoang mang mờ mịt khói vô minh?!
Hãy nhớ lại đi hỡi anh em bằng hữu! Trước
khi hành trình, chúng ta đã tự chọn cho riêng mình một con đường, con đường của
những kẻ hoang tưởng thích phiêu lãng, phiêu bồng khắp mọi miền có hoa thơm cỏ
lạ để kiếm tìm … một cái gì đó, để rồi có thể là vô tích sự.
Chúng
ta cứ hãy đi tiếp con đường của mình,
đừng phân vân nữa! Phân vân mãi sẽ sụp đổ niềm tin, không có niềm tin
thì còn đâu
hy vọng! Tìm một cái gì đó mà không còn hy vọng thì thà quay về nhà ôm
vợ còn sướng
hơn!. Nhưng cũng nên đặt cho con đường một cái tên để “danh chính, ngôn
thuận”
một chút chứ nhỉ? Nên thế! Thế thì đặt là “Con đường yêu mến sự thông
thái” được
không? Không được, đó là bản quyền của triết học! Hay là “Con đường
trung dung”?
Phật Giáo đã sở hữu rồi! Hay “Con đường thánh thiện”? Không nên mạo danh
Thiên Chúa! Thế thì đặt là “Con đường mộng mơ” đi? Ôi! Nghe thơ quá,
yếu xìu! Muốn mạnh
thì cho nó cái tên “Con đường bão táp”. Nhàm chán! Đúng rồi! ai cũng
phải thích:
“Đại lộ huy hoàng”? Nghe sao mà thênh thang, sán lạn! Khốn nỗi, con
đường của
chúng ta chỉ là một con đường đất nhỏ hẹp, quanh co đâu đó, qua các làng
quê; đặt
tên thế để nghe chửi à? Tưởng dễ, ai dè khó thật, thôi gác lại, rình dịp
khác vậy!
Có một điều làm chúng ta cảm thấy yên lòng:
Mọi con đường dù xuất phát trong hoàn cảnh nào, từ bất cứ nguyên nhân nào, dù là
theo hướng nào, thậm chí tưởng chừng như ngược nhau, nhưng miễn thành tâm tới cái
biết, miễn thực sự muốn phụng sự con người, chân tình yêu thương con người, thì
trước sau gì cũng giao hòa vào nhau, và hội về một đích, vì chân lý tuyệt đối,
chỉ có một, duy nhất.
Chỉ
Một thôi, có lẽ chỉ Một thôi.
Một
hướng soi đến cội nguồn chân lý
Chẳng Hữu, chẳng Vô, chẳng
Vi, chẳng Vĩ.
Chỉ Một thôi!
Một tỏ bóng không nên Một là Mười
Mười Mươi tỏa hương nên là
Muôn Một
Muôn Một quyện thành trái
ngọt.
Nên lại là Một thôi!
Chỉ Một thôi, có lẽ chỉ Một thôi!
***
Có lần chúng ta đã thốt lên: ở ngoài ý niệm,
Tồn
Tại là vô thủy vô chung, hằng định, nhưng trong ý niệm, nó lại huyền diệu và hồn nhiên biết chừng nào. Đúng vậy! Tồn
Tại, bản thân
nó không cần phải nhận thức, không đòi hỏi con người hay bất cứ sự tư
duy trừu
tượng nào, ở bất cứ đâu trong Vũ Trụ này, trong nó, nhận thức về nó. Dù
có bao
nhiêu ý kiến khác nhau về nó, dù có bao nhiêu tỷ năm nhận thức về nó,
thậm chí
muốn biến đổi nó, muốn phá hoại nó, tùy thích, nó vẫn chẳng bị ảnh hưởng
gì, nó
vẫn thờ ơ, thản nhiên… tồn tại một cách thường biến tuyệt đối trong
tuyệt đối bất biến, tự do tuyệt cùng trong ràng buộc tuyệt tận. Hay nói
cách khác, sự thực khách quan với tất cả
những biểu hiện của nó (mà chúng ta cho là phi thường) là có sẵn, là vốn
dĩ như
thế, tự nhiên như thế và không thể tranh biện được về nó một cách tuyệt
đối. Như
vậy, để cố gắng phần nào bộc lộ được bản chất vừa an nhiên thường hằng,
vừa sống
động phi thường của Tồn Tại, chúng ta sẽ gán thêm nhãn mác cho nó và
gọi: Tự Nhiên
Tồn Tại. (Nói cho cùng ra, khi đã hiểu nó rồi thì muốn gọi nó thế nào
cũng được:
Tồn Tại, Tự Nhiên, Tạo Hóa, cái Một Tối Cao, Đấng Sáng Tạo, Thượng Đế,
thế giới khách quan, chân lý tuyệt vời, Trời, Vũ Trụ, Sự Thực, Cái Ấy …
Mỗi cái tên hay
nhãn mác ấy đều hàm chứa ít nhiều một vài đặc tính, mặt này hay mặt kia
của nó.
(Nhưng trong tất cả những cái tên mà con người đã đặt thì, theo thiển ý
của chúng
ta, cái tên chất phác nhất, dung dị nhất mà cũng huyền bí nhất là cái
tên do các
nhà hiền triết Upanishad đặt: Cái Ấy!).
Tự Nhiên Tồn Tại!
Chà, cái tên nghe bùi tai đấy chứ! Tồn Tại thì hiểu rồi, nhưng còn Tự Nhiên? Tự
Nhiên là gì? Tự Nhiên là Tồn Tại chứ còn là gì nữa! Ôi chào, trả lời như thế,
thà hỏi đầu gối còn...sướng hơn!
“Tự Nhiên là gì?”
Rõ ràng là một câu hỏi rất khó, có khi còn khó hơn câu hỏi “Tồn Tại là gì?”. Có
thể chúng ta đã cảm nhận được ý nghĩa của nó nhưng còn mơ hồ và cũng có thể nó
hàm chứa nhiều nội dung rộng lớn, sâu xa quá nên việc diễn giải rành mạch nó sẽ
là một việc đầy cam go, thậm chí là vượt quá khả năng phải nói là còn nhiều yếu
kém của chúng ta.
Nhưng không thể
không nói kỹ hơn về nó được. Do đó cần phải nỗ lực hết mình, cố lột tả được cái
nội dung cơ bản nhất của nó, dù có thể là sơ sài, được đến đâu hay đến đấy.
Khi có ai hỏi:
“Tồn tại hay không tồn tại?”, chúng ta sẽ trả lời là: “Vừa tồn tại vừa không tồn
tại, là cả hai mà cũng không phải cả hai.” Đó là cách trả lời mà bây giờ chúng
ta gọi là cách trả lời “nước đôi”. Cách trả lời “Trời sinh ra thế” đã là “siêu
phàm” rồi nhưng cách trả lời “nước đôi” còn “siêu phàm” hơn nhiều! Chúng ta chẳng
tài cán gì nghĩ ra được cách trả lời ấy mà là chúng ta đã học lóm được. Công
lao thuộc về các nhà hiền triết Ấn Độ cổ đại!
Vì là một câu
trả lời siêu phàm nên nó chỉ được áp dụng trong quá trình cố gắng nhận thức những
sự vật - hiện tượng cũng … siêu phàm. Nếu tùy tiện áp dụng trong cuộc sống đời
thường sẽ dễ dẫn đến những hiểu nhầm tai hại, thậm chí dẫn đến… ẩu đả. Giả sử có
một người đem dán nhãn mác “cục sắt” lên cục gỗ. Thấy vậy, ai đó hỏi: “Gã đó có
khùng không?” thì chúng ta phải trả lời ra sao? Nếu chúng ta trả lời: “vừa khùng
vừa không khùng, là cả hai mà cũng không phải là cả hai.”, thì ai đó sẽ trợn mắt
ngạc nhiên vì nghĩ rằng chúng ta còn khùng hơn cả người dán nhãn mác. Nếu cuối
câu trả lời vừa rồi, chúng ta thêm một đoạn: “hiểu chưa hả anh bạn?” thì đối với
ai đó, chúng ta rõ ràng là một lũ khiêu khích trắng trợn. Thông thường trước một
hành động lạ lùng, nếu đã hiểu được nguyên nhân dẫn đến hành động ấy thì câu trả
lời phải là “Có” hoặc “Không”, còn nếu chưa hiểu được nguyên nhân thì câu trả lời
là “Không biết”, như thế mới hợp lý, phù hợp với logic học cũng như với nhận thức thông thường.
Về hình thức, câu
trả lời “nước đôi” ở trên rất giống với câu trả lời “không biết” ở chỗ: trả lời
mà cũng như không trả lời gì cả, con người không nhận thức được gì từ chúng: một
câu thì “mù tịt” cộc lốc, một câu thì “mù tịt” kiểu “thông thái ghê” (từ dùng
của V. L. Lênin). Nhưng nếu ngẫm lại, chúng ta sẽ thấy rằng ngay chính câu hỏi
cũng “mù tịt” nốt. Muốn nhận được câu trả lời dứt khoát có hay không khùng, hoặc
là người hỏi phải cung cấp thông tin đầy đủ: quá trình dẫn đến hành động ấy, hoàn
cảnh xảy ra hành động ấy …, hoặc người trả lời phải có thời gian tìm hiểu thu
thập thông tin, chưa kể là hai người hỏi và đáp phải cùng đồng thuận với nhau về
khái niệm “khùng”. Nếu không, câu trả lời thực chất chỉ là một sự phán đoán nóng
vội dễ dẫn tới sai lầm hoặc “bất khả tín”. Đến đây, tính “siêu phàm” của câu trả
lời “nước đôi” mới bộc lộ: biết dán không đúng chỗ mà vẫn dán hoặc dán sai do lầm
lẫn thì người dán không khùng (có thể có ý đồ gì đó); một hành động bất bình thường
như vậy rõ ràng là khùng rồi; người khùng hành động như thế nhưng (có lúc) người
không khùng cũng hành động như thế. Hành động đó chẳng phải khùng hay không khùng
gì cả, chỉ đơn giản là người đó làm theo lệnh của “sếp”, như một cái máy (hay là
người máy thật?).
Có thể cho rằng
vì chúng ta “mê mẩn” câu trả lời nước đôi nên đã cố tình bênh vực nó, do đó đã
cố “cãi” và lạc sang ngụy biện. Có thể là như thế: Biết được chính mình mới khó
làm sao! Cứ cho là cái đầu hoang tưởng của chúng ta đã nghĩ ra một thí dụ lẩn
thẩn nhất thế gian nhưng nếu ta đặt một câu hỏi tương tự cho ai đó, là: “Photon
có phải hạt hay không?” thì ai đó sẽ trả lời thế nào? Rõ ràng trả lời “có” hoặc
“không” đều không thỏa đáng. Còn trả lời “không biết” thì đúng là “mù tịt” cộc
lốc. Ở đây, câu hỏi về photon không phải là câu hỏi “mù tịt” vì mọi thông tin,
mọi kết quả thực nghiệm đã đầy đủ (ai chưa biết thì cứ việc tham khảo thoải mái
trong vật lý học!), và vì thế nó trở nên một trong những “câu hỏi” siêu phàm đối
với nhận thức của con người về sự thực khách quan. Trước câu hỏi này, ai đó là
nhà vật lý học, sẽ trả lời: “photon vừa là hạt, vừa không phải hạt (lưỡng tính
sóng hạt)”. Nhưng như chúng ta đã biết, trong một chừng mực nào đó, nó không thể
hiện cả tính sóng lẫn tính hạt. (Quang hình học; có thể hình dung như nước, lúc
là tia nước, lúc là hạt mưa, lúc là dòng sông, là biển dạt dào sóng…). Vì thế,
câu trả lời của nhà vật lý học vẫn chưa đầy đủ, chỉ có các hiền triết Ấn Độ cổ đại,
với cách trả lời nước đôi, siêu phàm của mình mới đủ sức trả lời những câu hỏi
siêu phàm: “Photon vừa là hạt vừa không phải hạt, là cả hai mà cũng không phải
cả hai!”
Câu
trả lời nước
đôi lúc này không còn là “mù tịt” kiểu “thông thái ghê” nữa, bởi nó đã
đạt tới độ
chính xác cao nhất, đầy đủ nhất đối với quan niệm hiện nay về photon,
được xác
minh bằng thực nghiệm hẳn hoi. Điều lạ lùng là cách trả lời của người
xưa, từng
bị người đời quên lãng, đã trỗi dậy và trả lời trúng phóc một câu hỏi
hóc búa
ngày hôm nay. Do linh cảm linh tri hay là sự tình cờ? Nhận thức sự thực
khách
quan là một quá trình dài lâu, lặp đi lặp lại của suy tư và chiêm
nghiệm, rút tỉa
và đúc kết thành những quan niệm ngày một đúng hơn. Chúng ta đã quan
niệm rằng
tất cả mọi sự vật - hiện tượng đều là sự biểu hiện của Tồn Tại và cũng
đồng thời, xét trên bình diện sâu xa nhất,
là một bộ phận của Tồn Tại, hơn nữa, là chính Tồn Tại. Nhận thức của con
người, không phải
là ngoại lệ, phải được coi như một sự vật - hiện tượng biểu hiện Tồn Tại
và cũng
chính là một bộ phận của Tồn Tại. Do đó nó tất yếu phải mang trong lòng
nó bản
chất chung nhất của Tồn Tại. Trước một thế giới đầy biến động, thoắt ẩn,
thoắt
hiện, lúc thế này, lúc thế khác, xác thực mà hư ảo, hỗn độn nhưng hài
hòa …,
sau một quá trình suy tư, quan sát, chiêm nghiệm… các hiền triết Ấn Độ
cổ đại đã
sớm (thật vô cùng đúng lúc!) phát hiện ra rằng Thực Tại là duy nhất mà
cũng có bản chất “nước đôi”
(tạm gọi như thế!) nên chỉ có cách trả lời nước đôi mới phù hợp với Thực
Tại. Chính
vì vậy, có thể nói câu trả lời nước đôi không phải là tùy tiện nghĩ ra
được, không những là một khám phá tuyệt đích theo nghĩa rộng (còn theo
nghĩa hẹp là sáng tạo vô song!)
của các hiền triết mà còn là một kết quả tất yếu của suy niệm uyên áo.
Đó cũng là sự thể hiện bản chất của Tồn Tại trong tư
duy, là sự phản ánh của Thực Tại Khách Quan vào tư duy, hun đúc thành
chân lý của tư
duy. Như vậy, việc dẫn tới sự xuất hiện câu trả lời “nước đôi” nhằm “hội
ngộ” với tính thể hiện “nước đôi”
của sự vật - hiện tượng là hoàn toàn tự nhiên.
Bây giờ, ai đó
hỏi rằng cục gỗ dán nhãn mác “cục sắt” có phải gỗ không, thì chúng ta tự tin mà
trả lời rằng: “...Vừa là cục gỗ vừa không phải cục gỗ, là cả hai mà không phải cả
hai”. Người ta muốn hiểu sao thì hiểu!
Nói cho vui thế,
chứ trong đời thường, trả lời nước đôi là không thể chấp nhận được. Chỉ khi nói
về cái siêu phàm, không còn cách nào khác, mới phải dùng đến định nghĩa “nước đôi”.
Nhưng
định nghĩa
“nước đôi” thì có liên quan gì với Tự Nhiên mà chúng ta phải huyên
thuyên nhiều
thế? Đơn giản vì không nói tới nó thì chúng ta khó mà định nghĩa về Tự
Nhiên,
theo nghĩa rộng là một khái niệm siêu phàm. Chúng ta không biết khái
niệm Tự Nhiên
được hình thành như thế nào, bắt đầu từ nghĩa hẹp phát triển lên thành
nghĩa rộng
hay đã có nghĩa rộng ngay từ đầu. Trong ngôn từ Việt Nam, nó thường được
dùng để
chỉ những hiện tượng xảy ra mà không biết duyên cớ; chẳng hạn: “tự nhiên
bị ngã”,
“tự nhiên thấy đói”; hoặc nói về những hành động thông thường, hợp lý
như “ngồi
tự nhiên”, “nói năng tự nhiên”… Ở nghĩa rộng, khái niệm tự nhiên được
gán cho
thế giới xung quanh, một thế giới không phụ thuộc vào con người, được
vận hành
một cách nào đó như vốn dĩ thế rồi, mặc định một cách khách quan thế
rồi. Với ý nghĩa như thế, khái niệm tự nhiên sẽ có nội dung sâu sắc hơn
mà cũng khái quát hơn khái niệm khách quan. Có thể nói, thế giới tự
nhiên là thế giới khách quan được mở rộng, áp dụng cho việc mô tả toàn
bộ Vũ Trụ các sự vật - hiện tượng, một đối tượng siêu phàm gồm cả khách
thể lẫn chủ thể, gồm cả hai thể hiện cơ bản của nó là vật chất và vận
động. Nói cách khác, Tồn Tại vốn dĩ tồn tại như thế, tự thân, độc lập
tuyệt đối trong tự do tuyệt đối mà cũng phụ thuộc tuyệt đối trong ràng
buộc tuyệt đối,
đã, đang, sẽ và mãi mãi tồn tại như thế; nói gọn lại là tồn tại một cách
tự nhiên hay gọn hơn nữa là Tự
Nhiên Tồn Tại, vừa như một tên gọi (nhãn mác) khác vừa là một chỉ thị
tối hậu về phương thức tồn tại của Vũ
Trụ. Ở một góc độ khác, chúng ta cũng có thể nói Tồn Tại là Tự Nhiên và
Tự Nhiên
chính là Tồn Tại. Gọi Tự Nhiên Tồn Tại có khi là thừa nhưng đầy đủ. Gọi
Tự Nhiên
hay Tồn Tại không thôi, vẫn được nhưng hơi thiếu! Có đúng không, hỡi
Đấng Sáng Tạo? Đấng Sáng Tạo trả lời: “Tớ chỉ lo sáng tạo theo Tự Nhiên
thôi. Các cậu nhận
thức chúng tớ thì cứ việc tha hồ mà tung hứng những khái niệm. Các cậu
muốn gọi
thế nào tùy thích. Nhưng các cậu nhớ cho: khái niệm cũng có tính nước
đôi, là
con dao hai lưỡi, các cậu mà lặn hụp trong đó là coi chừng tan xương nát
thịt,
chẳng còn hồn vía nào mà nhận thức nữa đâu!”.
Ghê quá! Hình
như khoa học logic còn khiếm khuyết một điều gì đó? Nhưng thôi, đó không phải là
công việc mà chúng ta quan tâm lúc này...
***
Lepnit, nhà vật
lý học và toán học ở thế kỷ XVII, đã từng thốt lên một câu nổi tiếng: “Tại sao
lại có cái gì đó chứ không phải là không có gì? Vì cái không có gì đơn giản hơn,
dễ hơn cái gì đó. Hơn nữa, giả thiết rằng các sự vật phải tồn tại thì cũng cần để
người ta phải giải thích được tại sao chúng lại tồn tại như thế chứ không phải
khác”.
Ngay từ buổi bình
minh của nhận thức, con người đã nhận thấy xung quanh là cái có sẵn vận hành một
cách tự thân như thế rồi. Dù có thể là cách đặt tên khác nhau, người thì gọi là
Tồn Tại, kẻ thì gọi là Thượng Đế … nhưng chung qui, mọi người, kể cả những người
“yêu mến sự thông thái” hay thắc mắc vặn vẹo đều không thể chối cãi được cái
xung quanh lúc nào cũng “ lù lù trước mặt”và (tất cả những người tỉnh táo) đều phải thừa nhận “có một cái gì đó
chứ không phải là không có gì”. Tồn Tại theo nghĩa ấy, phải là một khẳng định,
một sự khẳng định thấm tận máu xương tim óc, quá thân thuộc như một lẽ tự nhiên
đối với con người, đến nỗi, đôi lúc còn quên bẵng nó đi.
Theo ý chúng ta
thì có thể Lepnit đã lầm khi cho rằng không có gì thì đơn giản, dễ hiểu hơn là
có gì đó. Bản thân Tồn Tại là không dễ không khó gì cả, vì nó không lựa chọn, cũng không tính toán, chỉ cứ
thế mà tự thân vận động, tự phát điều hành, tự nhiên tồn tại. Sự dễ hay khó là tại chúng ta thôi! Mặt khác, xét
về việc hình dung, thì hình dung về Tồn Tại, về Cái Gì Đó dễ hơn nhiều
so với việc hình dung về Hư Vô, về Không Có Gì. Thậm chí hình dung về Không Có
Gì là không thể hình dung được, vì có gì đâu mà hình dung? Vả lại việc hình
dung bản thân chúng ta là không có gì cũng đủ làm “nổi da gà”, khó thở lắm rồi,
còn hơi sức đâu mà hình dung tiếp được nữa!
Còn nếu con người
đã nhận thức rằng có một cái gì đó mà lại hình dung ra là không có gì thì thú
thực chúng ta không tài nào hiểu nổi. Ngay cả Phật Giáo dù cố trốn thực tại, đã
hình dung ra một chân không trống rỗng thì cái chân không trống rỗng ấy cũng là
cái gì đó chứ không phải là Hư Vô.
Sự kiện con người
nhận thức được một cái gì đó đã mách bảo cho chúng ta biết một thuộc tính bản
chất của Tự Nhiên Tồn Tại, đó là: Sự Thể Hiện. Tồn Tại mà không thể hiện thì chỉ
là Hư Vô. Để không phải là Hư Vô, để phân biệt được với Hư Vô thì Tồn Tại phải
thể hiện. Chính nhờ có sự thể hiện ấy mà con người mới có thể nhận thức được Tồn
Tại (còn việc nhận thức ra cái gì đó mơ mơ hồ hồ thì có thể đoán một phần do tầm
nhận thức chưa đạt đến độ “siêu phàm”, một phần do tính “nước đôi” của chính sự
thể hiện của Tồn Tại).
Sự thể hiện của
Tồn Tại là một lẽ tự nhiên, là tự thân nó, cho chính nó và vì chính nó (chứ chẳng
vì bất cứ cái gì, chẳng vì con người (vị nhân) như nhiều nhà thông thái đã tưởng
tượng. Trái lại, nhờ có sự thể hiện ấy mà con người mới xuất hiện được. Phải biết
ơn mới đúng chứ?!). Cũng vì cái lẽ tự nhiên ấy nên dù Tồn Tại chẳng cần được nhận
thức thì tất cả các sự vật - hiện tượng, các bộ phận của nó vẫn cứ tự phát, tất
yếu (như thế cũng là tự nhiên) cảm giác nó, nhận thức nó. Con người nói riêng,
tất cả thực thể tư duy nói chung đều phải “vò đầu bứt tai” suy nghĩ về nó, liên
tục suy nghĩ về nó để cố gắng nhận thức đúng đắn về nó. Đó là quá trình không
thể dừng được, vì xét ra thì nhận thức có nguồn gốc từ sự cảm giác, phản ứng lại
những phản ánh tác động của môi trường xung quanh để thể hiện mình (sự thể hiện
mà một sự vật - hiện tượng đối với những sự vật - hiện tượng quanh nó cũng đồng
thời thể hiện bằng cách phản ánh, tương tác với nó), để duy trì sự thể hiện ấy,
duy trì sự tồn tại tương đối, hay đối với giới hữu sinh, gọi là sinh tồn. Sâu
xa hơn nữa, xét đến tận cùng thì sự nhận thức, rốt cuộc, có căn nguyên từ chính
sự thể hiện của Tồn Tại.
Tồn Tại là vốn
dĩ thế, không thể lựa chọn nên sự biểu hiện của Nó cũng là vốn dĩ thế, không phải
là kết quả của lựa chọn, Tồn Tại biểu hiện ra như một an nhiên, tự tại, như một
Tự Nhiên!
Từ
một cách nhìn
khác, Tồn Tại là duy nhất, chỉ có nó, là nó mà thôi. Không có bất cứ một
cái gì,
kể cả Hư Vô, cái ngoài nó, nên nó là tất cả, kể cả không gian và thời
gian, do đó mà nó, xét ở góc độ này, lại tuyệt đối không thể hiện được,
nó là một bất biến. Nói tóm lại, Tự Nhiên Tồn Tại, theo
cách nhìn này là sự bất biến, không trong không ngoài, không đầu không
cuối, không
thêm không bớt; không hữu hạn mà cũng không vô hạn (có thể là hữu hạn
nhưng vô
biên hoặc hữu biên nhưng vô hạn?!); là khái niệm “Có” tuyệt tận trong
nhận thức.
Khi Tồn Tại là
duy nhất, bất biến nhưng đồng thời lại phải thể hiện (vì nó và cho nó) thì sự
thể hiện ấy cũng phải cho thấy được một Tồn Tại duy nhất và bất biến. Điều đó có
nghĩa sự thể hiện là không thể lựa chọn, nó phải bị qui định một cách chặt chẽ,
bị phụ thuộc tuyệt đối, như một tiền định: phải như thế chứ không thể là khác.
Có thể nói Tự Nhiên
Tồn Tại vừa tuyệt đối tự do, vừa tuyệt đối phụ thuộc, vừa tha hồ thường biến, vừa
an nhiên bất biến, bất biến để thường biến, vĩnh cửu và thường biến để bất biến và vẹn toàn
được khẳng định, vì cùng thỏa mãn hai đặc tính vừa là trái ngược, vừa là tiền đề
tồn tại của nhau ấy, mà Tự Nhiên Tồn Tại tự thân vận động được, thể hiện ra trước
nhận thức như một khối thống nhất - mâu thuẫn vĩ đại!
Trước
chúng ta,
Tự Nhiên Tồn Tại trình hiện ra thành một Vũ Trụ toàn thể mọi sự vật -
hiện tượng
đan xen, tác động; chuyển hóa lẫn nhau; nói một cách tương đối: vừa
thường biến
vừa bất biến, vừa phụ thuộc lẫn nhau, ràng buộc nhau, liên kết nhau tạo
thành một
tổng thể thống nhất nhưng cũng vừa tự do lựa chọn thể hiện tối ưu tính
độc lập
tồn tại của mình; vừa là nguyên nhân, vừa là kết quả của những quá trình
tạo dựng
và diệt vong, của sự ra đời những sự vật - hiện tượng này đồng thời là
sự kết
thúc của sự vật - hiện tượng khác; vừa bất định vừa tất định; tưởng hỗn
độn mà
hài hòa, tưởng ngẫu nhiên mà tất yếu, tưởng rối loạn mà răm rắp phục
tùng qui
luật, tạo nên một quang cảnh sống động đến phi thường, vô cùng đa dạng,
vô cùng
phong phú và biến ảo liên tục đến khôn lường với tột cùng không gian và
vô tận
thời gian. Trong đó vật chất và vận động vật chất là sự vật - hiện tượng
đóng
vai trò nền tảng, cơ bản, là động lực chủ yếu, quyết định đến quá trình
nhận thức đầy chủ quan siêu hình, đấy lựa chọn duy ý chí của một chủ thể
quan sát và tư duy về toàn cảnh vô tiền
khoáng hậu ấy…
Và toàn bộ những
điều chúng ta vừa đề cập ở trên cũng là nội dung chính yếu của khái niệm Tự Nhiên
mà chúng ta quan niệm.
Xin nhấn mạnh lần
nữa rằng Tự Nhiên Tồn Tại không cần chúng ta nhận thức nhưng chúng ta phải nhận
thức vì tuân theo Tự Nhiên, dù đúng, dù sai!.
***
Đã nói đến Tồn Tại thì phải nói đến Hư Vô, tương tự, ở đây cũng vậy, nói đến Tự Nhiên
thì phải nói đến Phi Tự Nhiên, như thế mới công bằng, hợp lẽ.
Trong
đời sống
hằng ngày, thường những gì không hợp lý, thiếu cơ sở, mâu thuẫn, đều
được chúng
ta cho là phi tự nhiên. Chẳng hạn trái táo của Niutơn, từ trên cành
không rơi
xuống đất mà lại rơi lên trời là một hiện tượng phi tự nhiên, là điều
phi lý, không thể
xảy ra trong thực tại (thật là may!). Nhưng cũng có những hiện tượng có
thật xảy
ra, nhưng vượt quá sự hiểu biết, thậm chí là không hiểu nổi cũng được
chúng ta
qui cho phi tự nhiên, (hoặc siêu nhiên: gần như phi lý, rất khó tin,
nhưng vẫn xảy ra). Chẳng hạn sự xuất hiện “đĩa bay” (hiện tượng
UFO), người rơi (không dù) từ độ cao hàng km xuống đất mà vẫn bình an vô
sự, nhập
hồn, chụp ảnh được hồn ma, linh cảm … nhiều vô kể. Hay có câu chuyện
tiếu lâm cũng
hay hay, thế này:
“Có một anh mở
quầy bán cá, treo bảng đề: ‘Ở đây có bán cá tươi”. Một người đi qua thấy vậy mới
nói:
- Anh để cá đầy
ra đây, không bán ở đây thì bán ở đâu? Chữ “ở đây” là thừa.
Anh ta nghe có
lý bèn xóa chữ “ở đây” còn “có bán cá tươi”.
Một người nữa đi
qua lại nói:
- Bán cá tươi
chứ không lẽ bán cá ươn à?
Anh chàng nghe
thấy cũng có lý bèn xóa thêm chữ “tươi” còn “có bán cá”.
Người thứ ba thấy
thế góp ý:
- Bày ra toàn cá,
ai không biết là bán cá mà còn để chữ “cá”?
Anh chàng nghe
theo, xóa luôn chữ “cá”. Lúc này trên bảng chỉ còn chữ “có bán”. Một lúc lại có
người đi qua, thấy vậy, mỉm cười mà rằng:
- Cá bày ra đấy,
ai mà không biết là để bán mà còn treo bảng?
Anh bán cá gật
gù, cất luôn cái bảng.”
(Truyện
cười dân gian Việt Nam).
Và thêm một câu
chuyện nữa:
“Có một anh chàng
rách việc vớ được tờ báo đăng tin cần một giáo sư Anh văn giỏi. Anh ta tìm đến
và được chủ nhà tiếp đón rất chu đáo. Sau một hồi trà thuốc, chủ nhà hỏi:
- Thầy dạy tiếng
Anh đã lâu chưa?
- Dạ thưa, tôi đâu
có biết tiếng Anh.
Tưởng anh ta nói
đùa, chủ nhà lại nói:
- Chắc ngoài tiếng
Anh, thầy còn biết thêm một hai ngoại ngữ nữa chứ chả chơi.
- Ngoài tiếng mẹ
đẻ ra, tôi chẳng biết tiếng nào nữa cả!
Chủ nhà bực mình,
hơi xẳng giọng:
- Thế thầy đến đây
làm gì?
- Tôi đọc báo
biết gia đình đang có nhu cầu, thấy áy náy vì không thể giúp gì được nên tôi đến đây
để tạ lỗi, mong gia đình thông cảm!...”
***
Tự
Nhiên, hiểu
theo nghĩa bao quát nhất, bao hàm tất cả những gì hiện diện, xảy ra (một
cách vốn dĩ!) trong Vũ Trụ; chính là Tồn Tại. Vì thế Phi Tự Nhiên, được
hiểu như là những gì khác với Tự Nhiên, không phải Tự Nhiên, chính là
Hư Vô, và do đó nó là Ảo của Thực và xét về mặt hiện thực thì chỉ tồn
tại trong tư duy. Xét theo nghĩa thông thường, khái niệm phi tự nhiên
được đặt ra nhằm nói về những sự vật - hiện tượng không thể có, không
thể xảy ra
trong thực tại; về một cái gì đó không tuân theo qui luật, một sự gì đó
khác thường,
phi thường chưa nhận biết được hoặc không thể nhận biết được. Nói lại
lần nữa: phi tự nhiên theo cách hiểu của chúng ta là những gì không phù
hợp với tồn tại, trái tự nhiên; do đó phi tự nhiên tồn tại dưới dạng ảo,
trong tư duy. Từ đó thấy rằng
nếu có sự vật - hiện tượng trái qui luật, phi tự nhiên diễn ra thì có
nghĩa là chúng
ta chưa nhận thức đầy đủ, chưa phát hiện được những nguyên nhân hình
thành nên
chúng. Chúng ta gọi chúng là: khác thường, phi thường, siêu nhiên,
nghịch lý…
Như vậy ở tầng
thấp, phi tự nhiên còn bao hàm cả sự mâu thuẫn, phi lý, nghịch lý…, còn có tác
dụng kích thích tò mò tìm hiểu khám phá ra những điều còn ẩn dấu của Tự Nhiên đối
với nhận thức. Chẳng hạn trong hiện tượng gieo con xúc xắc trên một mặt bàn phẳng,
bao giờ cũng cho mặt xấp hoặc mặt ngửa. Việc con xúc xắc đứng trên một đỉnh của
nó là không tưởng tượng được, là điều phi tự nhiên. Ấy vậy mà một lúc nào đó, dù
hãn hữu vẫn đã xảy ra hiện tượng con xúc xắc đứng im hoàn toàn độc lập trên đỉnh
của nó (giả sử có người tin cậy đã xác quyết nhìn thấy như thế). Đã xảy ra thì
dù khó hiểu đến mấy cũng không còn là phi tự nhiên nữa mà là tự nhiên với tên gọi
riêng là ngẫu nhiên. Một ngẫu nhiên, khi đã phát hiện ra nguyên nhân tồn tại của
nó thì được gọi là tất nhiên. Tóm lại tất cả những tồn tại mang tính ngẫu nhiên,
tất nhiên, xác xuất… hiện ra với dáng vẻ, cách thức dù quái gở, kỳ dị đến cỡ nào
đi chăng nữa thì cũng vẫn là tồn tại, vẫn… tự nhiên!
Chúng ta tin rằng,
rồi đây tất cả những hiện tượng tâm linh, những hiện tượng dị thường, phi thường
của các nhà võ công, các nhà yoga, các nhà khí công… sẽ được nhận biết rõ ràng
rành mạch, trút bỏ được cái áo phi tự nhiên hay siêu nhiên đầy màu sắc huyền bí, để về trong đại
gia đình của Tự Nhiên vì chính chúng cũng là bộ phận của Tự Nhiên Tồn Tại…
***
Tự
Nhiên – Phi Tự
Nhiên là cặp khái niệm có nội dung bao quát rộng lớn tuyệt cùng tương tự
như Tồn Tại –
Hư Vô. Trong một nghĩa hẹp hơn, cặp khái niệm Tự Nhiên – Phi Tự Nhiên
được coi
như là một hệ quả suy ra từ nguyên lý tiên đề, tổng quát nhất, cơ bản
nhất, đóng vai trò là nguyên lý tuyệt đối của Tự Nhiên Tồn Tại (tạm thời
thừa nhận như vậy cái đã!!!). Chúng ta tạm đặt tên là Nguyên Lý Tự
Nhiên và xem đó là nguyên lý cội nguồn của tất cả các nguyên lý, qui
luật, định
luật…còn lại có thể có của Tồn Tại – Vũ Trụ tổng thể các sự vật- hiện
tượng.
Nguyên lý đó có thể được phát biểu thành văn như sau: Tồn Tại phải thể
hiện và chỉ có thể thể
hiện một cách duy nhất là vật chất và vận động vật chất. Vật chất và vận
động vật
chất đến lượt nó được tự nhiên trình diễn và buộc phải trình diễn với
mọi khả năng
có thể, theo mọi phương thức có thể, dưới mọi hình thức có thể, sao cho
thường
biến và bất biến đồng thời đều được thể hiện nhằm đảm bảo Tồn Tại, không
xuất hiện Hư Vô. (Quá rườm rà! Mai mốt có lẽ phải tìm cách phát biểu
lại thật hay mới được!).
Như một hệ quả
rút ra từ nguyên lý trên, chúng ta còn có thể phát biểu: Tất cả mọi sự vật - hiện
tượng, mọi quá trình, mọi diễn tiến (dù có kỳ dị, lạ đời đến mấy!) đều có khả năng,
quyền lợi và nghĩa vụ tồn tại và không tồn tại, miễn tuân thủ Tự Nhiên và phụng
sự Tồn Tại.
Đó là lời phát
biểu đầy “nhân tính”! Loài người chúng ta, nói không ngoa, theo truyền thuyết
Big Bang là hậu duệ đời thứ 0,15 tỷ (nếu tính đời là 100 năm) của ông tổ Tồn Tại.
Do đó “nhân tính”, nhân dạng của con người cũng phải mang hình bóng của ông tổ ấy
là một lẽ tự nhiên. Ngược lại, chúng ta cũng có thể nói: Tồn Tại giống con người,
tuy nghe hơi “chối” và “gượng ép” nhưng cũng không đến nỗi phi tự nhiên. Vì vậy
chúng ta hoàn toàn có quyền gán cho Tồn Tại một thể xác nhân dạng và một linh hồn
nhân tính: Thể xác là Vũ Trụ và linh hồn là Tạo Hóa, và khi đó, trong hình dung
của chúng ta, Tự Nhiên Tồn Tại sẽ hiện ra như một Đấng Tối Cao, một Thượng Đế
hay Thần Linh của mọi thần linh; vô cùng thiêng liêng mà cũng vô cùng thân thuộc.
***
Quan niệm về Tự
Nhiên và Phi Tự Nhiên của chúng ta có thể là chưa hẳn đúng, nhưng với quan niệm
như thế, chúng ta mới có đủ khả năng để giải thích mọi sự vật - hiện tượng
trong thiên nhiên, trong Vũ Trụ này một cách lôgíc và cụ thể hơn, chứ không “huề
trớt” và cộc lốc như câu trả lời của anh nông dân nọ: “Trời sinh ra thế!”.
Khi chúng ta đứng
trước gương và thấy mình trong đó; thì cái “mình trong đó” ấy có tồn tại không?
Nếu như trước đây, lúc còn “mông muội”, chúng ta sẽ không thể trả lời có ngọn có
ngành được và có thể chỉ cộc lốc: “Không biết!”. Nhưng giờ đây thì khác rồi, chúng
ta ung dung mỉm cười ý nhị: “mình trong đó” là một tồn tại, là phản ánh của nhiều
sự vật - hiện tượng tương tác chuyển hóa lẫn nhau mà chúng ta chưa (không) quan
sát được; là một sự vật - hiện tượng có đủ điều kiện để tồn tại, phù hợp với Tự
Nhiên”.
Ngay
lúc này, nếu
có một hồn ma xuất hiện trước mặt chúng ta thì chúng ta sẽ không còn mất
vía như
thời trẻ con nữa, không hoang mang “gai lạnh” nữa mà phải cho rằng vì
chúng ta
thấy nên đó là sự thực, là một tồn tại như chính chúng ta tồn tại mà
thôi. Chỉ có điều vẫn chưa biết được hồn ma tồn tại theo kiểu gì và bằng
cách nào. Chắc mai mốt, khi đã thành ma, chúng ta sẽ có điều kiện thuận
lợi hơn để...suy lý về vấn đề đó!
Từ
nay chúng ta
hiểu rằng con người là vô cùng tài giỏi vì đã sáng chế, phát minh, tạo
dựng được
biết bao điều kỳ diệu và cũng hiểu rằng chúng ta đang học đòi, bắt
chước, cố tạo ra những điều tương tự, ngoài ra còn hiểu rằng, sau
này sẽ làm được những điều hơn thế nữa nếu trên bước đường hành trình
may mắn được Tạo Hóa thương tình chỉ bảo vì thấy chúng ta...ngoan, răm
rắp vâng
theo Tự Nhiên. Hãy đừng bao giờ nói “chinh phục Tự Nhiên” vì Tự Nhiên
cũng là Tồn
Tại. Một khi Tồn Tại bị chinh phục thì có nghĩa là loài người đã chiếm
chỗ Tạo Hóa. Như thế là phi tự
nhiên cho nên Tồn Tại thì cứ Tồn Tại còn loài người sẽ phải "kết thúc"
tồn tại, nhường chỗ cho
sự vật - hiện tượng khác tồn tại “biết điều” hơn dưới..."gầm trời" này.
Quan niệm về Tự
Nhiên – Phi Tự Nhiên như thế còn giúp ích chúng ta rất nhiều trong đời sống. Chúng
ta sẽ khiêm tốn hơn, biết phải trái hơn để yêu thương nhau hơn, đoàn kết hơn nhằm
cùng nhau, như có người từng nói “quẳng gánh lo đi mà vui sống” (dù rằng không thể quẳng luôn đi được!!!) và như nhà triết
học Trung Đông S.Radhakrishman đã nói:
“Hãy sống và hãy để cho người khác sống với!”.
Cuối cùng, vì nội
dung của cặp khái niệm Tự Nhiên – Phi Tự Nhiên là rất rộng và chính chúng cũng được
coi là tồn tại (tương đối) nên trong một chừng mực nào đó, nhìn ở góc độ nào đó
chúng có thể tương tác, chuyển hóa và biến đổi thành nhau: một tự nhiên trong
quá khứ có thể trở thành phi tự nhiên trong hiện tại, một phi tự nhiên ở hiện tại
có khả năng là một tự nhiên ở tương lai. Hoặc thí dụ đơn giản thôi: con đẻ ra
cha là phi lý, phi tự nhiên. Nhưng lại là tự nhiên khi một bà mẹ nói với đứa
con hư giọng giận hờn: “Con đẻ ra cha đấy cha ơi! …”, hay khi tên của người cha
là “Con “ và tên của người con là “Cha”!
Dù biết nói láo,
dựng chuyện, bịa đặt là những thứ chẳng hay ho gì nhưng chúng ta cũng phải bịa
ra một nguyên lý để bắc một nhịp cầu thông thương giữa sáng thế và không sáng
thế, để thống nhất hai miền trái ngược ấy thành một là tự nhiên. Vì trong thâm
tâm, chúng ta cảm nhận rằng chân lý tương đối có thể là vô kể nhưng chân lý tuyệt
đối chỉ có một, đó là Tự Nhiên Tồn Tại, giản dị, sáng trong, không bị ràng buộc
bởi bất cứ nhận thức nào nhưng con người thì cứ phải nhận thức về Nó. Và bất cứ
nhận thức nào dù nhiều dù ít cũng nói đúng về Nó ở khía cạnh này hay khía cạnh
khác.
Xin mọi miền hãy
đồng thuận nhau về vấn đề này: “Tự Nhiên Tồn Tại vừa tạo dựng vừa không tạo dựng,
là cả hai mà không phải cả hai”.
Và trước khi tiếp
tục cuộc hành trình trên con đường quanh co muôn nẻo, chúng ta sẽ kính cẩn dâng
tặng Đấng Tối Cao một bài kinh ca tụng:
ĐẤNG TẠO HÓA
ĐẤNG TẠO HÓA
Ai khăng khămg: sự sống-thứ độc quyền
Chỉ tồn tại trên hành tinh mang tên Trái Đất
Ai cam đoan tư duy là ngẫu nhiên cá biệt
Chỉ riêng loài người chiếm hữu mà thôi
Thì kẻ đó chưa một lần phiêu lãng, ngao du
Thưởng ngoạn kỳ quan huy hoàng Vũ Trụ
Khắp nơi nơi lấp láy đèn tinh tú
Điểm khắc giao thừa, lễ hội say sưa
Hằng hà hành tinh xô đẩy, kết nhóm nô đùa
Lũ Lỗ Đen nhồm nhoàm chè chén hoài không thỏa
Muôn thành phố thiên hà sáng ngời rực rỡ
Từng cụm tinh vân bừng nở những hoa khôi
Tỏa ngát thinh không là ngào ngạt hương năng lượng thơm tươi
Lão Thần Nông lom khom mơ theo bầy sao chổi
Diêm dúa, thướt tha, lượn lờ khêu gợi
Chẳng chút động lòng anh Đại Hùng, chàng Tráng Sĩ khôi ngô
Đang mải mê ngắm cảnh sắc Giao Thừa
Lúc đó lúc đây bừng chói lòa hùng vĩ
Ông tổ Không Gian gật gù, ngả nghiêng, bí tỉ
Loạng choạng vòng quanh, khoái chí vuốt ve
Bà chúa Thời Gian sung mãn, đa tình, múa tít váy xòe
Khoe thấp thoáng giữa mượt mà quang phổ
Là những đường cong nuột nà quyến rũ
Xuất phát, hội về duy nhất điểm Trường Sinh
Và hãy xem kìa! Trong sâu thẳm vi mô
Cũng đủ muôn hương, bừng muôn ánh sắc
Cũng rạo rực, cũng tràn trề sinh lực
Những chùm tia bức xạ, dòng lưỡng tính foton
Điện tử dạt dào như sóng tung tăng
Mơn mởn hạt nhân, ríu rít đàn cơ bản
Hút mật, đưa hương, kết hoa, đơm trái
Bát ngát tình đời, rộ trĩu ion
Huyền thoại hạt mầm bất tử Âm - Dương
Nảy lộc sắc xuân, lừng thơm phân hạch
Ngún nổ dòn tan những tràng nhiệt hạch
Cho lễ Giao Thừa cuồng nhiệt chói lòa
Khơi nguồn plasma
Dòng máu mặn mà vỗ về vận động
Ấp ủ bào thai muôn tầng sự sống
Hứa hẹn tiềm tàng muôn dạng thức tư duy...
***
Ta không tin sự sống bị độc quyền
Chỉ tồn tại ở dương trần Trái Đất
Và tư duy là siêu phàm, ngoại lệ
Đã bị cầm giam bởi bộ não loài người
Khi khắp nơi là lớp lớp tầng tầng
Đa dạng vật chất không bao giờ nghỉ ngừng vận động
Hồn nhiên, khôn ngoan duy trì lẽ sống
Với những hành trình uyên bác, tối ưu.
Ta tin có những bậc tư duy
Đã diệu kỳ, trác tuyệt
Cao hơn hẳn mái đầu Trái Đất
Được gọi là người ngoài hành tinh
Ta tin có loài lớn hơn cả Tráng Sĩ, Thần Nông
Mà dải Ngân Hà chỉ đáng là nguyên tử
Chưa đủ thông minh chế ra máy móc
Phóng đại tỷ lần soi mói thấy Nhân Gian
Ta không tin vào sự tích Big Bang
Vũ trụ sinh ra từ hư vô tình cờ phát nổ
Và vĩnh viễn tiêu vong ở một lần chết nhiệt
Để lại bắt đầu ngớ ngẩn hư vô
Kỳ quặc, mơ hồ, lạnh ngắt, hoang vu
Vạn vật vắng tanh, chẳng còn tí teo dấu vết
Láu cá, mập mờ như trò ảo thuật
Ông tổ Không Gian thành rỗng tuếch quan tài
Tự thân sõng xoài, khô quắt bà chúa Thời Gian
Hôn mê, bại liệt!
***
Không!
Là Vũ Trụ là không thể chết
Là không bao giờ từ phi lý hiện ra
Mà vốn thế, tự thân, bình thản xoay vần
Vĩnh cửu, điều hòa, nhịp nhàng, chí lý
Có ông tổ Không Gian ngả nghiêng bí tỷ
Loạng choạng vòng quanh đắm đuối vuốt ve
Bà chúa Thời Gian sung mãn mượt mà
Dâng hiến những đường cong huyền ảo
Bà tuyệt mỹ bởi ông hiện hữu
Hào hển phập phồng theo nhịp vũ mê ly
Hớp hết hồn ông là rạo rực váy xòe
Hòa quyện mối tình thủy chung vĩnh cửu
Vừa rộng lượng bao dung hằng hà tinh tú
Những hạt những tia những sóng những trường
Vừa là tâm xoay của hội lễ Giao Thừa
Nguồn ngọn bảo tồn vật chất
Vừa là điểm tới hạn của N chiều vô tận
Vừa là miền vô cùng của vĩ đại hữu biên...
Vũ Trụ, ta tin là thực thể có hồn
Với tuyệt đỉnh cao vời trí tuệ
Mặc định ra tiên đề, nguyên lý
Vạch hướng phải đi cho mọi quá trình
Hòa nhập hợp thành cuộc xoay vần bất tử trường sinh
Vật chất tự hành tuân theo Vũ Trụ
Mà loài người còn quẩn quanh Trái Đất
Khéo đặt tên là chân lý khách quan
Với h, , e,..., biện chứng tự nhiên,...
Để bắt chước, học đòi, cố công tìm kiếm
Ý thức hệ về vận động tự thân, bảo toàn, thuận nghịch
Về tính hồi - suy - giao - cảm của không - thời gian
Về sự trở ra trên đường vào thầm kín hạt nhân
Về tính phổ biến của luật chơi bất định
Về tính thống nhất của hờn ghen phân cực
Về cách tác thành từ hai nửa Âm, Dương
***
Dẫu bị coi là hoang tưởng ngông cuồng
Ta vẫn tin Big Bang sẽ có ngày bị người ruồng bỏ
Vũ Trụ chẳng hề giãn nở
Vốn dĩ thế rồi, hiện hữu mãi thế thôi
Tồn tại tự nhiên, hóa trí tuệ tuyệt vời
Phân lập tuyệt cùng trong tuyệt cùng duy nhất
Tự thân kết thành mà điều hành vật chất
Bày cuộc xoay vần mỹ mãn, kỳ quan
Hùng tráng, uy nghi, lộng lẫy, vĩnh hằng
Khiến mọi thánh thần phải cúi đầu bái phục
Khiến loài người phải muôn đời ngưỡng mộ
Nghiêng mình kính cẩn tôn vinh:
Tối thượng lực - quyền,
Đấng TẠO - HÓA thiêng liêng!
__________________________________
(Hết chương III)
Nhận xét
Đăng nhận xét