TT&HĐ 7* (Hoàn chỉnh)
THỰC TẠI VÀ HOANG ĐƯỜNG
ĐẠI CHÚNG
____________________________
PHẦN I: CÓ MỘT CÁI GÌ ĐÓ
“Tại sao có một cái gì đó chứ không phải là không có gì?”
Lepnit.
CHƯƠNG V: KHÔNG GIAN VÀ THỜI GIAN
(Tiếp theo TT&HĐ 6)
"Thời gian là gì? Chẳng là gì cả! Nếu Tồn Tại là không gian thì thời gian là cái bóng của không gian chuyển hóa".(Tiếp theo TT&HĐ 6)
NTT
"Sự khác biệt giữa quá khứ, hiện tại và tương lai chỉ là một ảo tưởng dai dẳng đến ngoan cố."
Albert Einstein
"Này
Anadda, tất cả những người nào, hoặc ngay bây giờ, hoặc sau khi ta
chết, tự làm ngọn đèn soi sáng cho mình, tự làm chỗ nương tựa cho mình,
không tìm một chỗ nương tựa nào khác ngoài chính mình ra, mà can đảm coi
chân lý là ngọn đuốc … không tìm một chỗ nương tựa nào ở người khác -
những người đó sẽ lên được tới các bậc tối cao! Nhưng những người đó
phải lo học hỏi hoài mới được!”.
(Đức Phật Thích Ca)
Mọi sự tương phản, nếu được lột bỏ tới tận cốt
lõi của nó sẽ lộ ra cái thuần túy có – không có. Có – Không Có chính là hơi thở
của Tự Nhiên Tồn Tại mà tư duy có thể “nghe” được nhưng chưa “thấy” được ý nghĩa
của nó trong mối quan hệ chằng chịt đến mức nhiễu loạn giữa vô kể các khái niệm.
Phải nói rằng sự
tương phản cũng là một trong những biểu hiện tính đầy đủ của Tự Nhiên Tồn Tại,
tính phân biệt được của Vũ Trụ các sự vật - hiện tượng; là mối quan hệ phổ biến
mang tính động lực trong các quá trình vận động của các sự vật - hiện tượng mà
tư duy nhận thức được thông qua các khái niệm tương phản được hình thành nên từ
sự tác động của thực tại lên tư duy, phản ánh trong tư duy, xuất phát từ cặp khái
niệm nền tảng, khái quát nhất là có – không có. Điều đó giải thích hiện tượng là
không phải chỉ riêng trong triết học mà trong tất cả các ngành khoa học khác về
tự nhiên và xã hội đều nhan nhản những biểu hiện tương phản. Định luật tác dụng
tương hỗ của Niutơn, tính kiềm – axít trong hóa học, phép cộng - trừ, nhân –
chia trong toán học… là những minh chứng hùng hồn.
Trong
triết học,
chúng ta thường gặp những khái niệm như hữu thể, thực thể, hiện hữu,
hiện thực,
hữu hạn, vô tận, thực thể, thực tại... được sử dụng rộng rãi một cách
hết sức vô
tư. Các triết gia mỗi người hiểu một cách, giải thích tùy tiện theo ý
mình, chẳng
theo một thể thống nào cả. Có những tác phẩm triết học coi hữu thể như
hiện hữu
và cũng như tồn tại, hoặc cho rằng thực thể là hữu thể, thực tại là tồn
tại, hiện
hữu là hiện thực, cũng có khi dùng hữu thể để chỉ tồn tại… nói chung là
hết sức
lộn xộn. Hình như không ai thấy được tầm quan trọng của việc phải minh
định những
khái niệm ấy. Mà có thực sự cần thiết phải minh định không? Cho đến ngày
nay, triết học không cần sự minh định rõ ràng giữa các khái niệm ấy vẫn
cứ phát triển với những tác phẩm đồ sộ cơ mà?…
Theo ý kiến chúng
ta thì tình hình nêu trên cần phải được khắc phục càng sớm càng tốt. Chúng ta
cho rằng trước khi tranh biện những vấn đề sâu xa và cao siêu của triết học, trước
hết và trên hết phải đồng thuận được về ý nghĩa của các khái niệm mang tính cơ
bản, được coi như cơ sở không thể bàn cãi của lý luận. Một tranh biện triết học,
dù trên tinh thần “hướng thiện” đến đâu chăng nữa cũng không thể đạt tới chân lý
một khi đã không thừa nhận nhau ngay từ ý nghĩa của các khái niệm làm điểm xuất phát
của lập luận.
Tất cả những khái
niệm cơ bản, thường dùng trong triết học nói ở trên không phải được hình thành
một cách ngẫu nhiên mà phải có lý do, từ sự phản ánh nhờ tác động của thực tại
khách quan. Chính vì vậy nên ít nhiều gì, chúng cũng có những sự khác biệt về ý
nghĩa so với nhau. Sự lầm lẫn giữa các khái niệm ấy, có thể là do vô ý khi chuyển
ngữ, có thể do đã không thấy tầm quan trọng, sẽ dẫn đến (đã dẫn đến rồi!) những
khó khăn không đáng có, thậm chí là do còn :nông cạn" dẫn đến ngộ nhận, sai lạc trong việc nhận thức Tồn Tại.
Cần phải hệ thống
hóa lại toàn bộ các khái niệm cơ bản trong triết học, phải có một cuốn từ điển
triết học đúng nghĩa, được bổ sung, điều chỉnh định kỳ và được tất cả các nhà
triết học đồng thuận, cùng dựa vào đó mà lập luận trong quá trình tranh biện?
Đó là nhiệm vụ
của các nhà triết học toàn thế giới và có lẽ là chưa thể! Vì khái niệm cơ bản của
triết học cũng chính là vấn đề mà triết học đang giải quyết, nên chưa thể đồng thuận
được.
Thôi, kệ các nhà
triết học thế giới! Họ có ý của họ. Còn chúng ta, để phục vụ cho câu chuyện của
riêng mình và dựa vào ý tưởng về sự tương phản, chúng ta sẽ định vị một số khái
niệm thường dùng trong triết học mà chúng ta cho là cần thiết.
Cặp khái niệm
quan trọng nhất sau cặp có – không có là cặp khái niệm tồn tại – không tồn tại
(tồn tại – hư vô). Nhưng vì đã nói nhiều về nó rồi nên ở đây không nhắc lại nữa.
Chúng ta xét cặp
tương phản đối ứng quan trọng thứ hai là cặp hiện hữu – vô hữu. Không thể bàn bạc
vấn đề tồn tại, vận động, không gian và thời gian nếu không định vị được cặp khái
niệm này.
Không rành về
ngôn ngữ học và ở đây không phải bàn chuyện về ngôn ngữ để mà truy nguyên gốc,
mổ xẻ từ hiện hữu hay vô hữu. Nếu ai có nhu cầu này thì cứ đến nhà bác "Internet" mà
hỏi!
Không dông dài
thêm nữa vì đã quá dông dài rồi, chúng ta đi ngay vào đề. Hiện hữu là khái niệm
chung nhằm chỉ tất cả các sự vật - hiện tượng mà chúng ta đang cảm nhận được nhờ
các giác quan một cách trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các thiết bị công cụ
hỗ trợ. Như vậy có thể nói nôm na rằng hiện hữu là cái có mà chúng ta đã nhận
diện được, đã đặt tên và hiện đang quan sát thấy.
Chẳng hạn ở thành
phố A có vườn bách thú B và trong vườn bách thú đó có con voi tên C. Chúng ta đến
chơi vườn B và thấy con voi C. Chúng ta nói con voi C hiện hữu. Hôm sau chúng
ta lại đến vườn B và chẳng thấy con voi C đâu nữa cả. Lúc đó nếu có ai hỏi, chúng
ta sẽ nói rằng con voi C không hiện hữu trong vườn B nữa (chữ “nữa” ám chỉ về sự kiện
con voi C đã từng hiện hữu). Nhưng nó còn hiện hữu ở đâu đó không? Chúng ta không
thể biết điều đó vì chúng ta không nhận được thông tin nào khác về con voi C cả.
Có thể nó đang ở đâu đó hoặc cũng có thể đã bị “làm thịt”. Nếu nó đang ở đâu đó
thì cũng không hiện hữu ở vườn B, hay nói cách khác nó tồn tại nhưng không hiện
hữu (ở vườn B). Trong trường hợp thứ hai, vì nó đã bị làm thịt, đã chết nên nó
không còn tồn tại và vì thế nó cũng không thể hiện hữu ở bất cứ đâu, trước bất
cứ ai cả.
Thí dụ thứ hai:
Vào một đêm trời trong, chúng ta nhìn lên bầu trời bằng mắt trần và thấy một khoảng
trời nào đó không có bất cứ vì sao nào, bất cứ gì trong đó. Nếu ai đó hỏi ta rằng
có gì hiện hữu ở đó không (?) thì chúng ta sẽ trả lời là chẳng có gì ở đó cả,
không có bất cứ gì hiện hữu ở đó cả. Nhưng ngay lúc đó có người nhìn qua kính
thiên văn thấy có các vì sao ở đó và anh ta nói: không đúng, ở đó có các vì sao
hiện hữu. Trong trường hợp này ai là người trả lời đúng? Cả hai người đều đúng
nhưng chỉ đúng cho mỗi người. Cần nói thêm là khi nhìn bằng mắt trần, chẳng có
gì hiện hữu trong khoảng trời đêm đó cả, nhưng bản thân khoảng trời đêm là một
hiện hữu. Khi nhìn qua kính thiên văn thì lại chỉ thấy các vì sao mà không thấy
được khoảng trời đêm (ngoài tầm của kính thiên văn) cho nên khoảng trời đêm đó
không hiện hữu. Như vậy cùng một sự vật - hiện tượng, có thể là hiện hữu ở cách
nhìn này mà không hiện hữu ở cách nhìn khác; có thể là hiện hữu đối với người này
mà không hiện hữu đối với người khác, có thể hiện hữu lúc này nhưng lúc khác không
hiện hữu. Khi nói đến hiện hữu thì phải nói là hiện hữu đối với ai, đối với cái
gì chứ không thể có hiện hữu không có đối tượng. Nếu người nhìn qua kính thiên
văn thấy các vì sao, khi rời bỏ kính thiên văn mà vẫn nói các vì sao hiện hữu ở
đó thì thực ra chỉ là sự khẳng định đã thông qua kinh nghiệm và câu trả lời tối
nghĩa (vừa đúng vừa không đúng!). Nhưng có một chân lý gọi là “tuyệt đối” mà mọi
người đều đi đến nhất trí sau khi đều được nhìn qua kính thiên văn là: khoảng
trời đêm ấy là một tồn tại và trong đó tồn tại các vì sao.
Suy
rộng ra, Vũ
Trụ tổng thể các sự vật - hiện tượng là sự biểu hiện của Tồn Tại, chúng
ta luôn
quan sát thấy (một phần của) Nó, đã đặt tên cho (phần đó của) Nó là hiện
thực khách quan vì luôn hiện hữu trước chúng ta. Ở tầm
mức cùng tột của hiện hữu là hiện hữu tuyệt đối, và khi đó Hiện Hữu
(viết hoa để chỉ thị sự tuỵệt đối) cũng chính là Tồn Tại đã qua quan sát
(thấy tuyệt đối!), đã được
tư duy đặt tên và thực sự đang tồn tại. Chúng ta có thể còn gọi Hiện Hữu
là Hiện Tại vĩ đại; là thế giới khách quan, là Hiện Thực… và nếu muốn
thì chúng ta cũng có thể đặt
thêm bất cứ tên gì, chẳng hạn như Vĩnh Cửu, Brahman, Cái Ấy… thậm chí có
thể gọi
là John hay Tomy cũng chẳng sao, Tồn Tại vẫn không...hề hấn gì!
Vì vậy tồn tại
không có và cũng không cần đối tượng quan sát thì cứ vẫn tồn tại; còn hiện hữu
không có đối tượng quan sát thì không thể hiện hữu. Tồn tại không nhất thiết phải
hiện hữu nhưng hiện hữu thì phải trên nền tảng là tồn tại, nghĩa là trước hiện
hữu phải tồn tại đã. Có thể nói ví rằng: nếu tồn tại là linh hồn thì hiện hữu là
thể xác!
Dễ dàng nói luôn:
tương phản của hiện hữu là vô hữu (không hiện hữu). Vô hữu không hẳn có nghĩa là
không tồn tại. Con voi C khi đã bị làm thịt thì nó vừa vô hữu vừa không tồn tại;
nhưng nếu nó còn sống đâu đó thì dù nó vô hữu trong vườn B nhưng nó vẫn tồn tại.
Vô hữu ở đây có nghĩa là không hiện diện, không có mặt, vắng mặt ở một khu vực
nhất định, mang tính qui ước nào đó (vì nó vẫn hiện hữu ở đâu đó, với ai đó!).
Câu chuyện về
hiện hữu chưa kết thúc được. Vẫn còn những “vấn nạn”.
Chúng
ta đặt tiếp
câu hỏi nữa: biểu tượng trong tư duy có thể coi là một hiện hữu không?
Sự vật -
hiện tượng ở thế giới khách quan tác động vào chúng ta, làm hình thành
nên những
hình ảnh của sự vật - hiện tượng và được khái quát, cô đọng thành những
biểu tượng
trong tư duy (một bộ não không có trí nhớ sẽ không lưu được hình ảnh và
do đó cũng
không có biểu tượng!). Biểu tượng là thực tại khách quan hay một bộ phận
của thực
tại khách quan đã qua nhận thức (mang tính chủ quan). Thực tại khách
quan chính
là những gì ta cảm biết được từ thế giới khách quan, do đó nó mang tính
phiến
diện, không hoàn toàn, chỉ là bộ phận, là một vài phương diện nào đó của
thế giới khách
quan. Vì chúng ta cảm biết, đã đặt tên, cho nên có thể cho rằng thực tại
khách
quan là phần hiện hữu của thế giới khách quan (tạm cho rằng thế giới
khách quan
là tồn tại không có chúng ta trong đó!). Hình ảnh của thực tại khách
quan, có được
trong tư duy nhờ cảm giác, và còn lưu giữ được trong trí nhớ, chẳng gì
khác hơn,
là “chân dung” của một hiện hữu đã qua (đã không còn hiện hữu nữa). Mỗi
lần ta
muốn nhớ về hiện hữu đã qua (hay về một thời đã qua) thì hình ảnh ấy
(nhiều hình
ảnh kế tiếp nhau ấy) hiện lên (lần lượt hiện lên) trong tư duy và vì
chúng ta cảm
nhận được, hình dung được, hơn nữa là thể hiện của vận động trí não, một
tồn tại,
nên nó (chúng) cũng chính là hiện hữu (những hiện hữu). Dù hiện hữu đó
là không thực thì vẫn tồn tại của một vật chất dang vận động nào đó, và
vì nó giúp chúng ta cảm giác lại “thời đã qua”(thời không còn tồn tại
nữa) nên chúng ta gọi nó là hiện
hữu ảo của một thực tại ảo (phim, ảnh, TV… là thế đấy!).
Đến lượt biểu tượng,
một cách tương đối, chúng ta qui ước là hình ảnh tổng hợp của nhiều hình ảnh lưu
giữ được từ nhiều lần cảm biết, từ một quá trình nhìn nhận, xem xét, cân nhắc nào
đó về thực tại khách quan, do đó nó mang tính chung, tính tổng quát, tính đầy đủ,
tính điển hình… của một thực tại khách quan. Vì lý do đó mà chúng ta nói nó là
một thực tại khách quan đã qua nhận thức (qua nhận thức không có nghĩa đã là chân
lý!) đồng thời cũng chính là hiện hữu đã qua nhận thức mỗi khi ta suy nghĩ về nó,
mỗi khi nó hiện lên trong tư duy, và tương tự cũng có thể coi nó là một hiện hữu
ảo của một tồn tại ảo; nặng tính chủ quan vì ta có thể thêm bớt “râu ria” cho nó
tùy trình độ nhận thức hoặc cũng có khi chỉ vì… thích như thế.
Thế thì chúng
ta nói sao đây khi trong bộ não hoang tưởng của chúng ta xuất hiện một cái gì đó
không phải do tác động của thực tại khách quan, chẳng hạn như một con quỉ chỉ có
một nửa mặt, nửa tay, nửa chân? Rõ ràng đó phải là một hiện hữu, xuất hiện nhờ
vận động đặc thù của bộ não, gọi nôm na là tưởng tượng. Chẳng có sự tưởng tượng
nào mà không dựa trên cơ sở kinh nghiệm, chẳng có tưởng tượng nào thoát li được
thực tại, hay đã có lần chúng ta nói, chẳng thể tưởng tượng vượt ra ngòai Tồn Tại
được. Khi sự khủng khiếp đã đạt đến mức tột cùng rồi thì chẳng thể nào tìm ra được
cái gì khủng khiếp hơn: quá khủng khiếp, khủng khiếp ngoài sức tưởng tượng thì
cũng chỉ là khủng khiếp thế thôi. Sự tưởng tượng, xét ra cũng là một biểu hiện
về tính đầy đủ của Tồn Tại mà trong hệ thống khái niệm là cặp tương phản: thực
– phi thực (thực - ảo).
Trong đời sống,
theo như sách vở ghi chép lại, đã từng có nhiều giấc mơ gọi là tiên tri: thấy
những điều xảy ra ở tương lai, và đã được xác nhận là đúng đắn. Giải thích thế
nào về điều này? Đó là sự vật - hiện tượng mà chúng ta không (chưa) lý giải được;
chỉ có thể phán đoán rằng nó phải có mối liên quan sâu sắc với vận động vật chất
ở tầng nền tảng nào đó. Mà thôi, đã ngoài câu chuyện của chúng ta mất rồi! Người
nào tò mò, nên tìm hỏi cha đẻ của “Phân tâm học”, ngài Freud, không, có lẽ đúng
hơn nên tìm về Phương Đông!
Liên quan đến
khái niệm hiện hữu có những khái niệm như: thực thể, hữu thể, hữu hình…
Thực thể, đối với
chúng ta, là tồn tại có hình dạng nhất định, có tính thể tích, có nội tại và tương
đối ổn định (có thời gian tồn tại đủ để gọi là… thực thể). Con voi, trái núi,
con người, hòn sỏi… là thực thể. Thực thể ấy hiện hữu thì gọi là hữu thể. Hữu hình
được coi là một hiện hữu có hình dạng, có kích thước tương đối không ổn định,
không có mối liên kết rõ ràng trong nội tại chẳng hạn: đám mây, làn khói, cầu vồng…nhưng không thể hiện…khối lượng.
Có thể cho thực
thể đồng nghĩa với vật thể. Khái niệm tương phản của thực thể là phi thực thể. Tồn
tại ảo là một phi thực thể. Tương phản của hữu thể là phi hữu thể, tương phản với
hữu hình là vô hình. Có thể gọi hiện hữu ảo là hữu hình. Không khí trước mắt chúng
ta là vô hình, nhưng khi ta hình dung ra bầu khí quyển thì là hữu hình, trong
thực tại nếu quan sát từ ngoài Trái Đất, chúng ta có thể qui ước bầu khí quyển
là hữu thể. Nóng, lạnh là hiện hữu vô hình, và nói chung sự biến đổi, vận động
là vô hình…Vũ
Trụ có phải thực thể không? Thật khó trả lời! Phải dùng cách trả lời
"nước đôi": vừa có vừa không, là cả hai mà không phải cả hai! Nếu là
thực thể thì nó không xác định và chính là vật thể UFO vĩ đại của mọi vĩ
đại!
Sự vật thường là
hiện hữu như một hữu thể thì hiện tượng lại như một vô thể. Nói đến sự vật -
hiện tượng là phải nói đến sự biến đổi, sự xuất hiện và mất đi của chúng, vì vậy
sự tồn tại của chúng là có một khoảng xác định, khoảng đó gọi là thời gian. Mỗi
sự vật - hiện tượng đều có khoảng thời gian tồn tại, do đó tùy thuộc vào đối tượng
quan sát mà nó cũng có một khoảng hiện hữu đối với quan sát ấy. Khoảng hiện hữu
là một đoạn; một phần… của khoảng tồn tại; nó có thể bằng không (chú ý rằng khoảng
tồn tại không bao giờ bằng không vì đã là sự vật - hiện tượng thì phải tồn tại,
còn không có sự vật - hiện tượng mà nói đến khoảng tồn tại của nó là vô nghĩa. Đối
với sự vật - hiện tượng ảo thì khoảng tồn tại của nó cũng là ảo!). Khoảng tồn tại
của Vũ Trụ vừa bằng đơn vị, đó là khoảng tồn tại của một vòng tuần hoàn của nó
và cũng bằng Hiện Tại vĩ đại, đó là khoảng tồn tại của Hằng Cửu. Khoảng hiện hữu
của Vũ Trụ là vô định, là không thể xác định được thời gian!
Ngoài những khái
niệm kể trên còn rất nhiều khái niệm liên quan đến Hiện hữu – Vô hữu như: vô định
hình, đa hình, trạng thái, hệ thống… Chúng ta không “đủ sức”, không đủ thời
gian, và cũng chẳng cần thiết lắm để nói về chúng trong lúc này. Mai kia mốt nọ,
trên con đường phiêu lãng, nếu chẳng may “vướng” phải “đứa nào”, chúng ta sẽ “cho đứa đó...đo ván!”.
Phải nhấn mạnh
rằng ngay cả ở đây nữa chúng ta cũng thấy được tính “nước đôi” của Tự Nhiên Tồn
Tại: Nó là vô hữu đối với quan sát ngủ say, là hiện hữu đối với quan sát thức tỉnh,
là cả hai đối với quan sát mê - tỉnh và đồng thời cũng không phải cả hai (hiện
hữu giống Nó chứ Nó không phải hiện hữu, nhưng Nó cũng không phải vô hữu vì Nó
là... Tồn Tại!!!).
Cuối cùng thì tất
cả những điều vừa nói ở trên có thể đúng, có thể sai, vừa đúng vừa sai đồng thời
có thể là tối nghĩa, nhưng nếu cần, chúng ta cứ thoải mái sử dụng các khái niệm đó
tùy thích.
***
Đã không muốn
sa lầy, đã cố trốn né sự sa lầy, thế rồi như một đứa trẻ bị cuốn hút theo những
con bướm sặc sỡ chập chờn trước mặt, chúng ta đã bì bõm trong sa lầy từ lúc nào
không biết nữa.
Hóa ra không phải
sự sa lầy nào cũng gây nên khó chịu hay tai hại. Những cuộc du ngọan bất đắc dĩ,
những cuộc phiêu lưu tình ái nối nhau lê thê một cách tình cờ thường là những kỷ
niệm thú vị.
Thôi, chúng ta
quay lại “chiến đấu” với không gian và thời gian, hai thủ phạm làm tan vỡ biết
bao cuộc tình yếu đuối và hóa bất tử không ít thiên tình sử thủy chung trong xa
cách, đợi chờ.
Lịch
sử loài người
đã nhận biết không gian và thời gian từ rất lâu và đã coi chúng như một
sự đương
nhiên, vận dụng chúng trong đời sống, trong sinh họat thường ngày. Chẳng
có một
người bình thường nào bỏ công ăn việc làm để lao tâm khổ trí về chúng.
Chỉ có mấy
“ông” triết gia là vò đầu bứt tai và đến tận ngày nay cũng đang vò đầu
bứt tai nhăn nhó trong sự lẫn lộn giữa "hiểu rồi" và "kỳ cục quá".
Và chúng ta, vô
công rỗi nghề, cũng ngồi đây bắt chước các triết gia vò đầu bứt tai, tự hỏi: bản
chất của không gian và thời gian là gì?
Dù đã tìm hiểu
nhiều ý kiến khác nhau của các triết gia từ cổ chí kim, chúng ta cũng vẫn chưa
thấy được câu trả lời nào thỏa đáng, phù hợp với “khẩu vị” của chúng ta. Tuy vậy,
nhờ thừa hưởng cái nền tảng của sự phân tích đa chiều, sâu sắc một cách uyên bác
ấy, chúng ta (những kẻ đi sau bao giờ cũng được lợi) sẽ xây dựng một quan niệm
không gian và thời gian để sử dụng vào mục đích riêng của mình.
Các nhà vật lý
học, giống như người bình dân cứ mặc nhiên coi không gian và thời gian là cái có
sẵn mà các sự vật - hiện tượng tha hồ vùng vẫy trong đó.
Hình học Ơclít đẹp
như phong cảnh miền thảo nguyên bát ngát đến vô tận, trên là bầu trời xanh không
chút gợn, chếch ra xa là những ngọn núi hình Kim tự tháp quắc thước đứng sắp hàng
thẳng tắp đến chân trời, một đường nằm ngang phân định rạch ròi giữa trời và đất.
Nó mặc nhiên đã trở thành biểu tượng không gian và thời gian vừa dễ hiểu, vừa xác
đáng, vừa trong suốt, vừa tiền định thiêng liêng.
Trên cái nền tảng
hiển nhiên ấy, Niutơn đã xây dựng nên học thuyết về chuyển động của các vật thể
gọi là cơ học Niutơn. Trong cái tĩnh tại của Không gian Ơclít, các vật thể của
Niutơn quan hệ với nhau, tạo tiền đề cho nhau, cùng chuyển động, vạch vẽ nên những
quĩ đạo được toán học tính toán một cách chính xác, tuân theo những qui luật đúc
kết thành những công thức xác định tuyệt đối và phù hợp với thực tại một cách
không thể chối cãi được. Cơ học Niu tơn như một bức tranh tĩnh vật tuyệt tác, sống
động mà trật tự, hài hòa mà mạch lạc một cách tuyệt đối.
Trong cơ học
Niutơn, không gian và thời gian được coi là tuyệt đối. Không gian tuyệt đối có
thể hình dung là một khoảng thể tích trống rỗng chứa vạn vật (rất đúng với trực
giác thông thường!), không mang tính vật chất và độc lập với vật chất (không tương
tác với vật chất!). Nó có ba chiều, liên tục, đồng nhất, đẳng hướng, không vận động
và vô tận. Tương tự, thời gian tuyệt đối được coi như sự trống rỗng nào đó chứa
đựng các biến cố; nó cũng không phải là vật chất, và cũng không tương tác với vật
chất. Nó thuần túy trôi đều đặn mãi mãi với một chiều từ quá khứ đến tương lai
(lạ lùng đến mức không thể hình dung nổi!!!).
Tuy vậy cơ học
Niutơn cũng công nhận có không gian tương đối và thời gian tương đối. Không
gian tương đối chính là thể tích mà các vật chiếm chỗ, nó là bộ phận của không
gian tuyệt đối. Còn thời gian tương đối (mang tính biểu kiến) là sự lâu dài cụ
thể mà ta cảm giác được nhờ một quá trình cụ thể nào đó; được dùng để đo sự lâu
dài của các quá trình khác.
Niutơn từng viết:
“Chuyển động tuyệt đối là sự chuyển một vật thể từ một chỗ tuyệt đối đến một chỗ
khác. Và “chỗ là gì?”. “Chỗ” ở đây là phần vật thể đó chiếm trong không gian, và
theo không gian thì hoặc là tuyệt đối, hoặc là tương đối (…), không gian tuyệt đối,
trong bản chất của nó, không liên hệ với bất cứ cái gì ở ngoài, vẫn luôn luôn tương
tự và bất di bất dịch”.
Ngoài ra, Niutơn
còn cho rằng không gian tuyệt đối và thời gian tuyệt đối không những tồn tại độc
lập với chuyển động của các vật mà còn độc lập với nhau nữa; chúng không có cấu
tạo nội tại – không có cấu trúc, không có khối lượng.
Cơ học Niutơn đóng
vai trò chính thống của vật lý học trong một thời gian dài. Người ta thậm chí coi
nó như một trong những nguyên lý tuyệt đối của tự nhiên, được người ta vận dụng
để giải thích cả những hiện tượng trong thế giới vi mô (như nhiệt học, thuyết
nguyên tử của Bohr…) thậm chí có người đặt câu hỏi: Có thể áp dụng cơ học Niutơn
trong thần kinh học hay không? Joham Triedrich Herbart, triết gia Đức, vào đầu
thế kỷ XIX còn tuyên bố: “Trật tự thông
thường trong đầu óc con người hoàn toàn tương tự trật tự vận động của các vì
sao trên trời”. Hai trăm năm sau khi tác phẩm “Các nguyên lý” của Niutơn ra đời,
Hemhônxơ còn nói: “Mục tiêu cuối cùng của mọi khoa học là hàng hóa lẫn vào
trong khoa học”.
Địa vị độc tôn
của cơ học Niutơn trong vật lý học bị lung lay bởi việc phát hiện ra sự bất biến
của tốc độ ánh sáng trong cuộc “hành trình đi tìm” chất ête trong Vũ Trụ.
Ý niệm về Vũ Trụ được lấp đầy một cái gì đó
trong suốt và xuyên thấu đã có trong triết học Ấn Độ cổ đại (thời Vêđa – Upanishad,
khi nói về Cái Đầy). Một số nhà triết học Hi Lạp cổ đại cũng theo ý tưởng ấy.
Anaximandre cho rằng trong Vũ Trụ “chứa đầy” một dạng gì đó, không phải là vật
chất xác định, gọi là Vô Hạn (Apeiron). Nó đơn nhất, vô định, vô hạn, vĩnh viễn,
là nguyên nhân tạo nên vạn vật. Còn Anaximène, cụ thể hơn, cho cái vô hạn đó là
không khí vô hạn.
Có
lẽ Aristote
là người đầu tiên nói đến khái niệm “ête”. Theo ông, thế giới chúng ta
gồm bốn
loại nguyên tố là đất, nước, lửa, không khí tạo nên. Sự kết hợp và
chuyển hóa lẫn
nhau của chúng theo những tỷ lệ nhất định mà tạo thành các vật thể. Còn ở
xa hơn Mặt Trăng, các thiên thể được cấu thành từ một loại nguyên tố
khác bốn nguyên
tố trên, đó là nguyên tố thứ năm, rất thiêng liêng mà ông gọi là ête,
bao trùm toàn bộ
Vũ Trụ.
Trong thế kỷ
XVII, trước Niutơn (Newton) mấy chục năm, quan niệm của Đềcác (René Descartes)
cho rằng một sự mô tả đầy đủ về thế giới vật chất (matter) sẽ không đòi hỏi gì
khác ngoài vật chất và vận động, và rằng: … giữa các vật không phải là một không
gian trống rỗng mà chứa đầy một dạng vật chất nào đó không nhìn thấy được nhưng
rất hoạt động. Các dòng và các xoáy trong môi trường kéo theo các vật cơ học.
Niu tơn phản đối quan niệm mang tính suy lý thuần túy này, nhưng chính định luật
vạn vật hấp dẫn- viên ngọc bích trong học thuyết cơ học của ông đã ngầm chứa mâu
thuẫn. Trong bức thư gửi cho một người bạn, Niu tơn thừa nhận: “Giả thiết rằng
vật có thể tác động lên một vật khác ở cách xa, qua chân không, mà không cần có
sự tham gia của một vật trung gian nào đó, đối với tôi, điều đó hình như vô lý;
tôi nghĩ rằng không một nhà tư duy triết học nào lại có thể nhân nhượng với điều
đó được.”
Vào cuối thế kỷ
XIX, khi thuyết sóng ánh sáng đã được công nhận và sóng điện từ được khảo sát
trong thực nghiệm, các nhà vật lý đi đến nhận định rằng để cho các sóng đó lan
truyền được, phải có một môi trường đặc biệt gọi là ête đầy trong Vũ Trụ và bên
trong các vật. Họ đã ra sức xây dựng mô hình về ête trong nhiều năm nhưng lần lượt
không thành công. Tất cả các cuộc thí nghiệm dựa vào sự hiện diện của ête để giải
thích hiện tượng trở nên mâu thuẫn nhau hoặc bế tắc. Công cuộc tìm kiếm sự tồn
tại của ête đã dẫn đến thí nghiệm nổi tiếng của Maikensơn (và sau này cùng với
Moocley).
Thí nghiệm
Maikensơn – Moocley không thỏa mãn được mục đích ban đầu là chứng thực ête và bản
chất của nó (kéo theo hay không kéo theo, kéo theo hoàn toàn hay một phần) nhưng
lại dẫn đến một kết luận cực kỳ quan trọng và đầy bất ngờ: vận tốc ánh sáng là
bất biến (trong chân không), không phụ thuộc vào sự chuyển động của nguồn phát.
Trong cơ học
Niutơn, phép cộng vận tốc trong một hệ quán tính luôn tuân thủ tuyệt đối qui tắc
hình bình hành, nghĩa là vận tốc tổng có thể tăng đến vô hạn. Sự bất biến của vận
tốc ánh sáng đã phá vỡ sự giản dị đó, và gây ra mâu thuẫn sâu sắc: hoặc phải từ
bỏ cơ học Niutơn, đồng thời cũng có nghĩa là từ bỏ nguyên lý tương đối của
Gallilê hoặc vận tốc ánh sáng không được bất biến. Thực nghiệm đã xác nhận cả
hai đều đúng! Và do đó không thể từ bỏ cơ học Niutơn, cái mà nhân loại phải chịu
ơn, mà cũng không thể phủ nhận được tính bất biến của vận tốc ánh sáng, cái mà
sau này, nhân loại cũng chịu ơn không kém. Anhstanh xuất hiện để giải quyết ổn
thỏa vấn đề bức bối đó. Thuyết tương đối của ông ra đời làm cho cơ học Niutơn mất
đi tính thống soái của nó nhưng vẫn đảm bảo cho nó một vị trí xứng đáng trong vật
lý học; và mở ra chân trời mới cho vật lý học. Bức tranh tĩnh vật cổ điển đã được
chỉnh sửa (hay thay mới?) thành bức tranh lập thể, méo mó và dị dạng đến độ những
“thường dân” như chúng ta vĩnh viễn chẳng bao giờ hiểu được vẻ đẹp siêu việt của
nó.
Học thuyết của
Anhstanh đã làm cho không gian và thời gian mất đi tính thờ ơ, siêu hình đến mức
ngạo nghễ của chúng. Chúng bỗng trở nên sống động, hòa quyện vào nhau, co duỗi,
vặn vẹo, cong thẳng lệ thuộc vào vật chất và vận động. Anhstanh đã chỉ ra rằng
tốc độ ánh sáng là cực đại; chỉ có nó là hằng số, còn mọi thứ khác, kể cả không
gian lẫn thời gian sẽ tự điều chỉnh xung quanh hằng số này. Có lần, một người đề
nghị Anhstanh: “Xin ông tóm tắt thuyết tương đối trong một câu!”, ông đã trả lời:
“Trước đây, người ta cho rằng khi vật chất biến mất thì không gian và thời gian
vẫn còn lại, thuyết tương đối khẳng định rằng khi vật chất biến mất thì không
gian và thời gian biến mất luôn!”
Nói thêm, thuyết
tương đối xuất hiện đồng thời cũng gạt bỏ luôn môi trường ête ra khỏi nội dung
nguyên cứu của vật lý học bởi vì nó bỗng trở nên thừa, không cần thiết nữa. Về
vấn đề này, theo quyển “Lịch sử vật lý học” (tác giả: Đào Văn Phúc, NXB Giáo dục,
Hà Nội 2003) thì: “Tuy nhiên, khi thuyết tương đối mới ra đời, số người bác bỏ
lại đông hơn số người ủng hộ nó. Tất cả những hiện tượng mà thuyết Anhstanh giải
thích được bằng cách gạt bỏ ête khỏi vật lý học thì thuyết Lorenxơ cũng đã giải
thích được bằng cách công nhận sự tồn tại của ête. Không có bất kỳ một hiện tượng
nào cho phép công nhận hay bác bỏ dứt khoát một trong hai thuyết đó, thành thử
việc lựa chọn lý thuyết nào chỉ còn là vấn đề “khẩu vị” của các nhà khoa học.
Những kết quả vang dội cả về lý thuyết lẫn về thực nghiệm của điện động lực học
Mácxoen xây dựng trên cơ sở sự tồn tại của ête đã khiến số đông các nhà vật lý
ngả về thuyết Lorenxơ. Tới 1914, Lorenxơ vẫn tiếp tục khẳng định rằng ông thiên
về quan niệm cũ về vai trò của ête".
Thật hết biết!
Chẳng hiểu đúng sai thế nào? Kệ họ!
Điều chúng ta
quan tâm tới là bản chất của không gian và thời gian, vẫn chưa được vật lý học
giải quyết. Lấy không gian và thời gian ra, rồi bắt chúng biến hình đủ kiểu để xây
dựng lý thuyết, để giải thích các hiện tượng, khi cần thì bắt chúng im lặng tuyệt
đối, im lặng tuyệt đối đã đời lại bảo chúng tương đối, co duỗi phụ thuộc vào vật
chất và vận động, bắt thời gian ngừng trôi ở lỗ đen; thậm chí khi gặp mâu thuẫn,
còn dồn ép chúng lại trong “điểm kì dị”, giấu sau bức tường Plank để khỏi ai tò
mò tọc mạch làm gì nữa; nghĩa là vật lý học “xài” không gian và thời gian hết sức
vô tư, thoải mái nhưng vẫn không biết chúng là gì. Đó là hành động li kỳ bậc nhất
trong vật lý học. Chính vì li kỳ như thế nên, ngay cả các nhà vật lý thời hiện đại
cũng đâm ra lúng túng, lưỡng lự khi nói về không gian và thời gian. Dưới đây là
vài phát biểu của họ:
- Albert Einstein:
“Những người
tin vào vật lý như chúng ta đều biết rằng sự phân biệt giữa quá khứ, hiện tại và
tương lai chỉ là một ảo tưởng thiển cận và cố hữu.”
“Điều kiện có được
này (của thuyết tương đối rộng)… đã tước bỏ di chứng cuối cùng về tính khách
quan vật lý của không gian và thời gian.”
“Những khái niệm
về “cái đang diễn ra” và “cái đang trở thành” không hoàn toàn kết thúc trên thực
tế, tuy nhiên, chúng trở nên phức tạp. Vì vậy, tiên lượng một thực tại vật lý
như là một không - thời gian bốn chiều đúng hơn là vận động thời gian của một
không gian ba chiều như vẫn quan niệm từ trước tới nay thì có vẻ là tự nhiên hơn.”
“Theo thuyết tương
đối rộng, khái niệm không gian khi bị tách ra khỏi mọi nội dung vật lý thì không
tồn tại.”
- Werner
Heisenberg:
“Những từ thông dụng như “không gian” và “thời
gian” dẫn ra một cấu trúc không gian và thời gian trên thực tế là một sự lý tưởng
hóa và đơn giản hóa tới mức thái quá.”
“Thuyết tương đối
đã chứng minh rằng ngay cả những khái niệm cơ bản như không gian và thời gian cũng
có thể bị sửa đổi và thực ra phải sửa đổi trên cơ sở những kinh nghiệm mới.”
- Ervin Schrodinger:
“Muôn đời và mãi mãi, chỉ có Bây giờ cái Một và
bất biến. Bây giờ, Hiện tại là cái duy nhất không có kết thúc.”
- Richard P.
Feynman:
“Cái mà chúng
ta muốn nói rằng “bây giờ ngay lập tức” là một thứ huyền bí mà chúng ta không
thể định nghĩa được… “Bây giờ’ là một ý tưởng hay một khái niệm của trí óc chúng
ta; lúc này, nó không phải là điều gì đó có thể thực sự định nghĩa được về mặt
vật lý.”
- John A Wheeler:
“Không - thời
gian, phức tạp và bốn chiều, chỉ là một sự tạo dựng một lý thuyết.”
- H. Minkowski:
“Không gian và
thời gian nhìn nhận dưới góc độ của chính bản thân chúng thì buộc phải biến thành
những bóng tối đơn thuần, một dạng gắn kết cả hai sẽ là cách duy nhất để giữ lại
một thực tại độc lập.”
***
Có một điều phải
khẳng định chắc như đinh đóng cột thế này: nếu không có sự chứa đựng và sự dài
lâu thì làm sao có được Vũ Trụ tổng thể các sự vật - hiện tượng chuyển hóa lẫn
nhau không ngừng nghỉ, nối tiếp nhau mất đi và sinh ra? Còn nếu không có Vũ Trụ
thì làm sao chúng ta ở đây, trong Vũ Trụ này để huyên thuyên về mọi chuyện được?
Vậy thì sự chứa
đựng và sự dài lâu phải là những tồn tại, thể hiện của Tồn Tại. Sự chứa đựng và
sự dài lâu ấy đã hiện hữu trước con người từ thuở sơ khai, được con người cảm
giác và đặt tên là không gian và thời gian. Nhưng căn nguyên của chúng là gì?
Càng suy nghĩ về
không gian và thời gian, chúng ta càng mù tịt về chúng. Nếu có đọc hết những nhận
xét, những giả định, những lý giải, những phán đoán từ cổ chí kim của tất cả các
triết gia, các nhà khoa học, kể cả các hiền triết, thánh triết, thiên tài lưu
danh lừng lẫy trong lịch sử nhân loại, chúng ta cũng chẳng thể hiểu được điều gì
về không gian và thời gian, ngoài những điều sơ đẳng mà chúng ta, cũng như mọi
người khác đã biết khi còn ngồi ghế nhà trường: không gian là khoảng thể tích được
xác định bởi ba chiều: dài, rộng, sâu, và thời gian dùng để đo độ lâu mau của một
quá trình; thậm chí còn hoang mang vô cùng và thêm mù tịt trước những mâu thuẫn
to lớn phát sinh ra mà không có cách nào giải quyết được.
Thế thì vứt không
gian và thời gian ra khỏi suy nghĩ đi, đừng quan tâm tới chúng nữa cho khỏe xác!
Đó có thể là một lời khuyên bổ ích. Nhưng khốn nỗi, chúng ta lại là những kẻ tò
mò thuộc hàng nhất nhì thế giới, muốn hiểu đến tận cùng Tự Nhiên Tồn Tại để thỏa
lòng mong ước, để không phải hổ thẹn khi sang… thế giới bên kia, được gọi ngồi
“cùng mâm” với các cụ, tiếp tục tham gia bàn luận về Tự Nhiên Hư Vô!
Nói vui thế thôi
chứ đố ai mà không nghĩ về tồn tại, đố ai, dù trong cuộc sống đời thường, thoát
khỏi suy nghĩ về không gian và thời gian. Khi còn bé, chúng ta luôn mong thời
gian trôi nhanh để được nghỉ hè, để được ăn tết, để thành người lớn. Khi lớn khôn
rồi thì đắn đo tìm kế sinh nhai, tìm chỗ làm thuận tiện đi lại, ít thời gian mà
nhiều tiền, ao ước nhà cao cửa rộng, mong thời gian trôi từ từ thôi để chậm bị…
già… nghĩa là chúng ta luôn nghĩ về không gian và thời gian với những vỏ bọc khác
nhau…
Không gian và
thời gian có hiện hữu không? Chúng ta trả lời rằng hiện hữu, vì chúng ta cảm nhận
được chúng, đặt tên cho chúng, chỉ có điều là chúng hiện hữu như thế nào mà thôi.
Trong hai thứ ấy
thì có lẽ không gian, sự chứa đựng, dễ nhận biết hơn, mở mắt ra là thấy, nhắm mắt
hình dung cũng “thấy”, đâu đâu cũng thấy. Theo quan niệm của Niutơn thì trước mắt
chúng ta, nếu loại bỏ vạn vật ra thì cái còn lại chính là không gian. Nhưng một
không gian như vậy làm chúng ta liên tưởng đến khái niệm thể tích. Để tính thể
tích một khối vuông khi biết giá trị cạnh của nó thì chớp mắt, ai đó sẽ nói
ngay ra kết quả. Nhưng nếu hỏi người đó thể tích là gì thì người đó sẽ phải hoặc
chịu mang tiếng “dốt” để trả lời là không biết hoặc tỏ ra thông thạo để trả lời:
thể tích chính là không gian, là một lượng không gian, nhưng nếu hỏi tiếp lượng
không gian đó là gì thì người đó, nếu là cầu thị sẽ trả lời: “Thú thực là tôi
chưa biết”, nếu nhanh nhảu đoảng sẽ là: “Là khoảng trống rỗng để chứa các vật”,
và nếu cho rằng chúng ta định bỡn cợt với trí khôn của anh ta thì câu trả lời sẽ
là chúng ta sẽ có một cái mũi sưng tấy, đau nhức và bầm đỏ.
Có trả lời theo
kiểu nào đi nữa thì khái niệm thể tích cũng tương đồng với khái niệm không
gian. Thể tích của một vật chính là lượng không gian mà vật đó chiếm chỗ, là bộ
phận của không gian tuyệt đối của Niutơn hay của thể tích Vũ Trụ theo cách gọi
của chúng ta; nói lên qui mô to nhỏ (chiếm chỗ ít hay nhiều) của vật đó so với
vật khác. Một đặc trưng cơ bản của vật là thể tích. Trong thực tiễn nói đến thể
tích là nói đến thể tích của một vật nào đó, một cái gì đó chứ không bao giờ nói
thể tích chung chung, vì như thế rõ ràng là vô nghĩa, không xác định. Chẳng hạn
chúng ta sẽ hiểu và hình dung được khi một người nói: một khối nước, một lít rượu,
cái thùng này đựng được hai mươi lít xăng…
Nhưng nếu chỉ nói một khối, một lít, hai mươi lít thì chẳng ai hiểu được
cái gì (khi chưa có qui ước ngầm trước đó) ngoài cái cuối cùng là không gian: một
khối không gian, một lít không gian, hai mươi lít không gian (Hình học Ơclít đã
dạy chúng ta điều này!). Khi ta nói không gian của một căn phòng, không gian của
một miền quê, một không gian náo nhiệt, khoảng không Vũ Trụ là rõ ràng ta đã mường
tượng được một lượng không gian hữu hạn nào đó và như vậy là chúng hiện hữu (hữu
hình, dù là mang tính ảo!). Và nếu tưởng tượng thêm rằng ta lấy ra tất cả các vật
hiện diện trong những khoảng không gian đó ra thì cái còn lại chính là không
gian thuần túy, và ta vẫn cố gắng hình dung ra được. Nhưng nếu cho rằng một vật
chiếm chỗ trong không gian, đặc trưng bởi một giá trị thể tích xác định, thì
sau khi (bằng cách nào đó hoặc nhờ thần linh trợ giúp) “rút” hết vật chất tạo
thành vật ấy ra khỏi cái thể tích của nó, chúng ta thấy còn gì trong đó? Còn lại
không gian chăng? Không, trước đây cái thể tích ấy đầy vật chất nên chẳng có không
gian trong đó, nếu “rút” hết vật chất ra khỏi rồi thì còn lại không thể là không
gian được hoặc là không gian ngoại lai, ở đâu đó từ bên ngoài “chảy” vào. Cho dù
không gian có đặc tính thẩm thấu vào mọi vật thì thể tích vật chất không chứa đầy
không gian được, nên khi “rút” vật chất đi cái còn lại nếu là không gian phải là
loại không đồng nhất với không gian thuần túy, nó phải “lõang” hơn hoặc ngoài nó
phải còn một cái gì đó nữa. Mặt khác, “rút” vật chất ra khỏi cái thể tích nói
trên thì rồi phải “đổ” vào đâu đó trong không gian thuần túy, trong Vũ Trụ chứ
không thể chỗ nào khác được, và tại chỗ “đổ” ấy, một vật mới dần hình thành, dần
“đuổi” một lượng không gian “ra chỗ khác chơi” để chiếm chỗ. Lượng không gian bị
chiếm chỗ ấy, đến lượt nó, buộc phải chèn ép không gian xung quanh, tạo một tác
động có thể là để lấy cái “lỗ trống” trong thể tích ban đầu mà vật chất bị “rút”
đi, bỏ lại. Nếu tình trạng là như vừa nói thì không gian tuyệt đối của Niutơn sẽ
phải có mối quan hệ (dồn ép) với vật chất và như thế sẽ không còn là không gian
tuyệt đối nữa. Lúc này, Vũ Trụ phải được cho là có cấu trúc ít nhất thì cũng từ
hai loại: vật chất và không gian (phi vật chất). Một phi vật chất mà tranh giành
“chỗ” với vật chất, dồn ép lẫn nhau như hai lực lượng thì có khác gì vật chất dâu?
Hay không gian
kiểu Anhstanh? biết co biết duỗi theo thể tích của vật và thể tích của vật lại
co giãn theo chuyển động. Thực ra nói không gian biết co giãn là chưa chính xác.
Không gian Anhstanh chỉ biết co thôi, nhưng là sự co đầy ảo giác vì giữa hai vật
chênh lệch về vận tốc thì khi “anh này” thấy “anh kia” co, đồng thời “anh kia”
cũng thấy “anh này” co, nghĩa là cả “hai anh” cùng co mà “anh nào” cũng bảo mình
không co, chính thế mà cũng chẳng bao giờ giãn. Điều phi thường là Tạo hóa ban
tặng không gian chung cho vạn vật, ấy vậy mà “hai anh” lại “xà xẻo” làm của riêng
để bắt chúng (những “phần” không gian ấy) phải co theo chuyển động (mà cũng chẳng
biết là chuyển động nào nữa!). Không những thế, “hai anh” còn bắt cái bộ phận
không gian bị chiếm hữu ấy phải cong theo mình nữa (thuyết tương đối rộng).
Suy rộng ra, nếu
Vũ Trụ này là không gian (hay lấp đầy không gian), trong đó chứa vạn vật và vạn
vật đều chuyển động so với nhau thì mỗi vật đều “thấy” tất cả các vật khác, cùng
với bộ phận không gian mà chúng chiếm hữu đều co và tùy vào hướng chuyển động mà
co theo đủ mọi chuyển động mà co theo đủ mọi phương chiều, chỉ riêng nó và không
gian của nó là không co, để rồi tất cả đều co và đồng thời đều không co. Mỗi vật
đều “mang” lượng không gian mà nó chiếm hữu lang thang khắp Vũ Trụ, trong… không
gian!
Bây giờ đến lượt
thời gian, sự dài lâu. Về mặt trực giác nếu không gian là “thứ” mà chúng ta có
thể “thấy” bất cứ đâu thì thời gian lại là “thứ” chẳng thể “thấy” được ở bất cứ
đâu cả. Hay có thể nói, hình dung ra không gian dễ bao nhiêu thì hình dung ra
thời gian khó bấy nhiêu.
Thời gian tuyệt
đối, theo quan niệm Niutơn, được hình dung như sự trống rỗng gì đó, phi vật chất,
chứa đựng các biến cố, không tương tác với vật chất, nhưng lại trôi đều đặn, kéo
các biến cố theo một chiều (và chỉ một chiều) từ quá khứ đến tương lai. Cách hình
dung này về thời gian, thực chất là “bắt chước” cách hình dung về không gian
tuyệt đối chứa đựng tất cả các sự vật - hiện tượng!) dù sao cũng hiểu được và có
tính hợp lý của nó (từ cảm nhận trực giác); thì trái lại việc hình dung thời
gian kiểu như thế lại hoàn toàn… buồn cười. Nếu thời gian tuyệt đối chứa đựng các
biến cố thì nó có chứa đựng những cái làm ra các biến cố đó, các sự vật - hiện
tượng không? Tất nhiên là nó không thể chứa đựng vì một chiều thì không thể chứa
đựng ba chiều, thời gian không thể chứa được không gian. Nó không chứa không
gian, không chứa các sự vật - hiện tượng nhưng lại chứa các biến cố (biến cố mà
thoát ly vật chất sẽ trở thành phi vật chất, vô cùng mông lung), thế thì nó “nằm”
ở đâu trong Vũ Trụ này; khi nó không thể ở ngoài Vũ Trụ này? Nó chứa đựng các
biến cố, và là nguyên nhân sinh ra các biến cố cũng như làm mất đi các biến cố,
nhưng làm sao nó ảnh hưởng đến các sự vật - hiện tượng được? Hay nó chính là kẻ
làm ra biến cố, là “thủ phạm” “rút” vật
chất ở chỗ này đổ vào chỗ khác trong không gian? Điều đó cũng không thể có được
vì nó chỉ trôi theo một chiều và chẳng biết làm gì hơn! Nói đến sự trôi thì lại
càng ngỡ ngàng, không biết nó trôi về đâu nữa. Nếu nó trôi từ quá khứ đến tương
lai thì lúc nào nó cũng phải trôi qua hiện tại và hiện tại phải luôn là quá khứ.
Nếu nó trôi từ tương lai đến quá khứ thì nó cũng phải trôi qua hiện tại và hiện
tại luôn là tương lai. Nghĩa là hiện tại
là khoảng không thể xác định được (trong khi chúng ta luôn miệng nói về hiện tại
và cho rằng Vũ Trụ là một Hiện Tại vĩ đại). Có thể nào vì là cùng phi vật chất
nên thời gian tuyệt đối trùng với không gian tuyệt đối nhưng chúng vẫn độc lập
so với nhau? Giả sử là như thế thì Vũ Trụ, phải được cấu thành từ hai phi vật
chất khác nhau và vật chất. Không thể chấp nhận trường hợp này vì nó động chạm đến
quan niệm chúng ta về Tự Nhiên Tồn Tại, nó đe dọa trực tiếp đến mối quan hệ tương
phản mà chúng ta dày công xây dựng. Cái tương phản đối ứng với vật chất là phi
vật chất. Nếu mối tương phản đối ứng vật chất – phi vật chất là duy nhất thì chỉ
có một phi vật chất, nghĩa là không gian và thời gian phải là cùng một “thứ”. Nếu mối
tương phản đó là không duy nhất mà là hai thì cặp có – không có sẽ mất đi sự
thiêng liêng của nó và trở thành “vớ vẩn”. Lúc này, không cần ai trói buộc, chúng
ta tự giác đi an trí ở “Thái Bình Thiên Quấc” (Nhà thương điên Biên Hòa).
Thời gian theo
kiểu Niutơn đã không thể hình dung được thì thời gian theo kiểu Anhstanh lại càng
không hình dung được. Thời gian, đường đường là một Đấng Tạo Diệt, nắm quyền
sinh quyền sát trong tay,
“Muốn
phong trần phải phong trần
Cho thanh cao mới
được phần thanh cao …”
(Nguyễn Du)
lại có thể “a
dua” theo không gian, bị ràng buộc bởi chuyển động của vật, co theo sự co của vật,
làm cho luật sinh - tử, nhân - quả trước đây nghiêm minh là thế, bỗng trở nên lỏng
lẻo.
Có lẽ vì thấy để
không gian và thời gian đứng riêng một mình như thế vừa phi lý vừa… buồn quá nên
người ta đã cho chúng hòa quyện với nhau hình thành nên cấu trúc thỏa hiệp gọi
là không - thời gian với ba chiều không gian và một chiều thời gian?
Trên giấy trắng
mực đen, việc thể hiện được một cấu trúc như thế là rất khó khăn. Không biết có
phải bộ não của chúng ta đã quá thân thuộc với không gian hay không mà chúng ta
rất dễ dàng tưởng tượng được các chiều không gian trong sự thể hiện ấy; chỉ riêng
chiều thời gian là lúc nào nó cũng bị “dị ứng”, luôn có xu hướng coi là chiều
không gian thứ tư và như bị “thừa”, không biết đặt theo hướng nào cho hợp lẽ. Một
điều bất ngờ ít ai nhận thấy là có thể dùng không gian để mô tả thời gian chứ
không thể dùng thời gian để mô tả không gian được; không thể hình dung trực tiếp
thời gian được, không có biểu tượng về thời gian; mọi hình dung đều gián tiếp,
thông qua sự biến đổi của không gian. Một thời gian mà không có biểu tượng thì
rất có thể chỉ là một hiện hữu ảo, vô hình (cảm giác nóng, lạnh là vô hình nhưng
dù sao vẫn là hiện hữu thực!).
Nói như vậy thì
hệ thống không - thời gian bốn chiều là một sự gượng ép tùy tiện hay là hợp lẽ
tự nhiên? Hình học Ơclít có lý hay hình học có thêm mũi tên thời gian có lý? Hình
học Ơclít sáng sủa và minh tường, đẹp đẽ một cách giản dị, nhờ thế đã ở vị trí độc
tôn hơn hai ngàn năm. Tưởng rằng nó sẽ mãi là chân lý tuyệt đối, nào ngờ chỉ vì
cái tiên đề thứ năm tưởng như thừa của nó mà bị truất phế, trở thành bộ phận của
hình học phi Ơclít. Cơ học Niutơn cũng “vô tình” đi theo “vết xe đổ” đó, một thời
độc tôn và bao trùm vật lý học, chỉ vì cách cộng vận tốc thuần Ơclít không dung
nạp được vận tốc bất biến của ánh sáng, mà cũng trở thành bộ phận của Cơ học
Anhstanh (thuyết tương đối hẹp). Thế nhưng, dù có bị giảm “quyền uy và tước vị”
thì về mặt lịch sử và ứng dụng, hai kiệt tác ấy vẫn còn nguyên giá trị đến ngày
nay, vẫn là những vấn đề cơ bản phải tiếp thu trước tiên trên con đường học thức,
và vẫn là những công cụ hữu hiệu trong quá trình nhận thức và sáng tạo.
Sự thăng trầm của
hình học Ơclít và cơ học Niutơn, truy nguyên đến cùng, là do chính sự nhận thức
chưa toàn diện, còn mâu thuẫn về không gian và thời gian gây ra.
Ngày nay, đến lượt
hai lý thuyết trụ cột của vật lý học hiện đại, thuyết tương đối rộng (và hẹp) và
cơ học lượng tử đã dần dần tự bộc lộ mâu thuẫn, mâu thuẫn nhau và mâu thuẫn chính
mình trong những bước đi cuối cùng (có thể là như vậy!) khám phá cơ sở, nguyên
lý nền tảng của Tự Nhiên Tồn Tại và cũng có thể là do chính vấn đề nhận thức chưa
phù hợp về không gian và thời gian là thủ phạm. Ngay sự phân biệt về khái niệm
giữa không gian vật lý (từ của các nhà vật lý) và không gian thông thường, giữa
thời gian vật lý và thời gian thông thường đã là ngộ biện rồi!
Chúng
ta có cảm
tưởng rằng sau một quá trình dài lâu, con người đã thiết kế, chế tác ra
đủ loại
đến mức dư thừa các chi tiết, cơ phận để cố lắp ráp nên cỗ xe Nhận Thức
và
trong lịch sử, đã ráp đi ráp lại biết bao nhiêu lần nhưng chưa lần nào
mỹ mãn,
kiểu ráp nào khi chạy thử cũng “cà xịch cà đụi”, trước sau gì cũng bộc
lộ khuyết
tật. Ngày nay, nếu có một ai đó, chỉ cần bỏ công ra nhặt nhạnh, chọn lựa
những
chi tiết, bộ phận hợp lý nhất (vẫn còn bền vững qua thử thách của thời
gian!); lắp ráp vào đúng những vị trí phù hợp, tự nhiên
nhất thì sẽ có một cỗ xe Nhận Thức (nói chung là) hoàn hảo, chạy bon bon
đúng hướng đến chân lý tối thượng.
Muốn thế, điều trước tiên là người đó phải sàng lọc ra được cặp quan
niệm không gian và thời gian chuẩn nhất từ "đống hỗn độn" các khái niệm
không gian và thời gian do quá khứ để lại. Để
phục vụ cho quan niệm của mình về Tồn Tại, tất nhiên chúng ta phải xây
dựng một
kiểu không gian và thời gian đáp ứng cho riêng mình và như thế, đồng
thời chúng ta cũng xin góp thêm
một cách giải thích nữa về không gian và thời gian vào kho tàng "chuyện
cổ tích khoa học"
của nhân loại. Còn đúng-sai ra sao thì...hậu xét!Dù
chưa biết chắc là gì nhưng có một gợi ý không thể phản bác: không gian
có liên quan chặt chẽ tới độ to nhỏ của vật chất, và thời gian có liên
quan chặt chẽ tới độ lâu mau của vận động vật chất.
***
Bản chất của
Tồn Tại là biểu hiện, biểu hiện để khẳng định sự tồn tại của mình. Nó biểu hiện
ở khắp nơi nơi, ở mọi tầng nấc, một cách toàn diện. Bởi vì Tồn Tại là duy nhất
nên sự biểu hiện của nó chẳng cho cái gì khác ngoài chính nó. Để biểu hiện được
như thế nó phải tự phân định đến tận cùng giới hạn, làm cho bất cứ một thành phần
nhỏ nhất nào cũng phải phân định được với xung quanh. Đó cũng chính là một tiền
đề của quá trình tự thân, tự trình diễn cho chính mình “xem”, vừa là diễn viên
vừa là khán giả của Tự Nhiên Tồn Tại mà chúng ta gọi là vận động vật chất.Vận động
vật chất là quá trình nền tảng vô thủy vô chung thể hiện ra trước nhận thức như
là một Vũ Trụ tổng thể các sự vật - hiện tượng, chằng chịt các mối quan hệ và đầy
biến động. Không
những thế, tồn tại phải có một cái gì đó vốn dĩ, tạm gọi là "giác" để
"biết" mà phản ứng phù hợp trở lại đối với các tác động tương phản của
những tồn tại xung quanh, làm hình thành nên nguyên lý tác dụng tương
hỗ. Vận động
vật chất trong Vũ Trụ xét cho đến cùng, đều có tính cơ học, là quá trình
nền tảng vô thủy vô chung thể hiện ra trước nhận
thức như là một Vũ Trụ tổng thể các sự vật - hiện tượng, chằng chịt các
mối quan hệ và đầy biến động. Mọi vận động khác đều có nền tảng là vận
động cơ học, và truy cho đến cùng là vận động cơ học.
Chuyển hóa không gian đơn giản nhất là vận động cơ học. Vận động cơ học
đơn giản nhất, đóng vai trò là yếu tố cấu thành vận động vật chất, là
chuyển động, là di dời vị trí.
“Phát lộ” ra từ
Tồn Tại, hay nói cách khác Tồn Tại “phát lộ” ra thành Vũ Trụ tổng thể các sự
vật - hiện tượng, nên Vũ Trụ tổng thể các sự vật - hiện tượng cũng thể hiện một
cách đầy đủ những đặc tính vốn có của Tồn Tại, trong đó có sự phân định. Sự phân
định biểu hiện ở chỗ các sự vật - hiện tượng phân biệt được tương đối so với
nhau và với môi trường bởi những mặt, những phần, những tính chất sai biệt
nhau, tương phản nhau; coi nhau là đối tượng tác động, chuyển hóa nhau, hình thành
nên những mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau trong suốt quá trình tồn tại của chúng
(của từng đối tượng). Cũng từ đó mà có mối tương quan, qua nhận thức là những cặp
khái niệm tương phản: chủ quan – khách quan, chủ thể - khách thể, hệ quan sát -
hệ bị quan sát (và một cách tự nhiên, bao giờ chủ thể cũng tưởng mình là trung
tâm Vũ Trụ!?).
"Giác"
cũng là đặc tính tự nhiên, vốn có và cơ bản của tồn tại nhằm tiếp nhận
thông tin. Nó bộc lộ ra, hun đúc thành nguyên lý "tác dụng tương hỗ". Sự
"giác" vốn dĩ thế là để phân biệt được lẫn nhau và phản ứng tương hỗ
đối ứng trước tác dụng của tồn tại xung quanh trong Vũ Trụ là hiện thân
sâu xa, cội rễ của sự "phát"
giác được của các sự vật trong thế giới vô tri và cảm giác của các sinh
vật trong thế giới sinh vật. Nhờ có "giác" mà mối quan hệ phụ thuộc lẫn
nhau, sự tác động và chuyển hóa lẫn nhau giữa các vật mới có khả năng
tồn tại và duy trì. Tùy vào mức độ phức tạp, kiểu hình cấu trúc trong
quá trình tiến hóa của nội tại các sinh vật, được hình thành duy trì và
củng
cố trong suốt quá trình thích nghi với môi trường mà mức độ cảm giác có
khác nhau: phản ứng trực tiếp, cảm giác trực giác, cảm nhận, nhận biết,
siêu cảm, linh giác … (Chúng ta tạm gọi như thế và… không chính xác!).
Sự thể hiện của
Tự Nhiên Tồn Tại là toàn diện nhưng sự cảm giác của các vật là phiến diện. Không
có sự tồn tại tương đối nào cảm giác được toàn diện sự thể hiện của Tồn Tại tuyệt
đối, mà chỉ có thể cảm giác được một số mặt nào đó, một khoảng môi trường nào đó,
một qui mô nào đó và một tầng nấc nào đó. Con người cũng vậy, nhờ có năm giác
quan và một bộ phận não phát triển biết chế tác những công cụ cảm nhận ngày một
hiện đại mà con người có thể cảm nhận hết sức sâu rộng về thế giới khách quan
(kể cả chính con người!) nhưng không bao giờ đầy đủ. Phải nhờ có trí nhớ, nhờ có
tích lũy kinh nghiệm và biết suy tư mà con người mới có thể nhận thức và thông
qua nhận thức mới có khả năng nhận biết được đến tận cùng Tồn Tại.
Trong mối quan
hệ chủ quan – khách quan, khi nói: thế giới khách quan thì cần hiểu là thế giới
khách quan của một đối tượng chủ quan nào đó chứ không phải là của toàn thể. Sự
biểu hiện của Tự Nhiên Tồn Tại, tác động vào các vật, tùy vào tính đặc thù nội
tại khác nhau mà mỗi vật sẽ cảm nhận khác nhau làm cho thế giới khách quan của
các vật có sự sai biệt nhất định so với nhau. Do đó thế giới khách quan, vì bị ảnh
hưởng của cảm nhận chủ quan mà cũng có tính chủ quan, không còn chân thực nữa
(sự không chân thực này sẽ dần được khắc phục qua quá trình nhận thức). Thế giới
khách quan của người này ít nhiều gì cũng có sự khác biệt so với thế giới khách
quan của người kia. Thế giới khách quan của con người và thế giới khách quan của
loài chó chắc chắn là phải khác nhau… xa lắc.
Chúng ta gọi những
gì đang quan sát (cảm giác) được từ thế giới khách quan, hiện còn, là sự hiện hữu,
và toàn cảnh các sự hiện hữu ấy là một hiện thực (cũng tương đối thôi: hiện thực
có thể là toàn cảnh hiện hữu trong một khoảng thời gian quan sát hay qui ước nào
đó!)
Chính sự hiện hữu
đã cho chúng ta có ý niệm về không gian. Một trong những đặc tính cơ bản của mọi
hiện hữu, mọi hữu thể làm cho sự quan sát có khả năng, là đặc tính quảng tính, đó
là kích thước, vóc dáng, hình hài, thể tích… Không gian là một khoảng (được cho
là) trống rỗng nào đó, là thể tích “chứa đựng” của một vật (thể tích của một vật
mà không có vật ấy!?).
Đến đây, chúng
ta bỗng chợt nhớ đến một nhận định của Platon như thế này:
“Toàn bộ thế giới
cuối cùng là tồn tại vĩnh viễn không có bắt đầu, hay là được sáng tạo ra và có
bắt đầu? Tôi cho rằng nó được sáng tạo ra. Bởi vì người ta có thể trông thấy nó,
sờ được nó, vả lại nó cũng có hình thể. Tất cả những cái đó đều có thể cảm giác
được. Phàm tất cả những cái gì có thể cảm giác được đều là đối tượng của ý kiến
và cảm giác. Do đó nó phải ở trong một quá trình sáng tạo và nó được sáng tạo
ra. Chúng ta đã nói ở trên rằng phàm cái gì được sáng tạo ra đều phải có nguyên
nhân. Vì vậy nhiệm vụ của chúng ta bây giờ là phải phát hiện ai là người sáng tạo
, là cha đẻ của nó”.
Rõ ràng “toàn bộ
thế giới” ở đây của Platon thực ra chỉ là một hiện thực của con người (toàn cảnh
của sự hiện hữu). Mà hiện thực theo ý chúng ta, là kết quả của một nền tảng tự
thân, nên nó có bắt đầu và được tạo dựng, nhưng vì đã qua cảm giác nên nó đồng
thời cũng có “bàn tay” con người “thò vào”. Vậy có thể nói nó là một công trình
lai tạp. Rốt cuộc chỉ có thể nói: hiện thực (hiện hữu) thì có bắt đầu, Tồn Tại
thì không! Platon đã nhận định sai do lầm lẫn, chưa phân biệt được tính tuyệt đối
với tính tương đối của Tồn Tại, và quên mất không gian, cái có thể thấy nhưng
không thể sờ được!
Chúng ta nhấn mạnh:
tồn tại tương đối luôn nằm trong mối quan hệ nhân quả, là kết quả của tạo dựng,
có khởi đầu và kết thúc, nghĩa là muốn có nó phải có một cú “hích”.
Chúng ta có một
tưởng tượng: giả sử chúng ta đứng trong một vùng mênh mông nào đó, chẳng có bất
cứ một cái gì cả ngoài chúng ta, với dưới là mặt đất phẳng phiu, trên là bầu trời
trong xanh không một chút gợn và trời đất phân biệt nhờ đường chân trời ở xa tít
tắp. Chúng ta quan sát được gì ở đó? Trước mắt chúng ta rõ ràng là một hiện thực,
trong đó là sự hiện hữu của nền trời, mặt đất, một đường chân trời và một khoảng
không, một thể tích được xác định bởi trời đất, ngoài ra không còn cái gì khác
nữa (quên chúng ta đi!). Nếu không quan tâm tới đất, trời và giáp tuyến (chính
chúng ta trong đời thường cũng rất hay quên sự hiện hữu của chúng!), thì chỉ còn
một hiện hữu, một khoảng không mà ta “thấy” được, cảm giác được, một thể tích
chẳng chứa chấp cái gì cả, và ta gọi đó là không gian. Như vậy, không gian chẳng
khác gì một sự trống rỗng hoàn toàn và thật là “vô vị”. Đúng! Nói như thế là chính
xác, nhưng chỉ chính xác đối với chúng ta thôi, vì đối với một con siêu vi khuẩn
chẳng hạn, nó sẽ “thấy” một hiện thực hoàn toàn khác: khoảng trống rỗng thực ra
là lúc nhúc đầy phân tử các loại với những “đồng chí” siêu vi khác và…
Cho dù có thể
giả định rằng cả siêu vi khuẩn và không khí đều bị loại trừ, thì sự trống rỗng ấy
vẫn không trống rỗng, nó tràn ngập ánh sáng. Nhờ có ánh sáng phản chiếu từ trời
và đất mà chúng ta mới “thấy” được cái trống rỗng. Cuối cùng, nếu “tống khứ” luôn
cả ánh sáng đi và chúng ta bồng bềnh trong đó (một đêm lặng tờ, không trăng không
sao, không đèn không đóm) thì dù đất, trời và đường phân giới không còn hiện hữu
nữa, chúng ta vẫn cảm giác được sự hiện hữu của không gian, tuy không rõ ràng:
một thể tích (chúng ta quờ quạng và biết được có khoảng chứa đựng chính chúng
ta) đầy cái gì đó… “đen thui”, và cũng như trường hợp về con siêu vi khuẩn, lần
này thận trọng hơn chúng ta phải nói rằng, đối với chúng ta cái “đen thui” đó là
trống rỗng nhưng thực sự chưa chắc nó đã trống rỗng!
Chúng ta quay lại
với cảnh sắc ban đầu để nhìn ngắm lại một lần nữa hiện thực. Chúng ta nhìn ngắm
lại nó không phải vì nó xấu hay đẹp, đó là mục đích của thơ ca nhạc họa. Lúc này
chúng ta không có tâm hồn ấy, không còn tâm trí đâu mà “uống rượu thành thơ” nữa.
Chúng ta quay lại nhìn soi mói để kiếm tìm một cái gì đó đáng lẽ phải thấy mà
chẳng thấy đâu trong lần quan sát đầu tiên. Hình như có điều gì đó nghiêm trọng
ở đây? Điều gì nhỉ?
A, phải rồi, thời
gian! Lần quan sát trước và cả lần này nữa, chúng ta chẳng thấy thời gian đâu cả,
chẳng thấy bất cứ cái gì khả dĩ có thể đặt tên là thời gian cả. Nhưng nó phải có
chứ? Đúng, phải có! Thế thì nó ở đâu? Ừ nhỉ, nó ở đâu?
Hãy nhớ đi, thời
gian là sự dài lâu! Chúng ta đã quan sát hiện thực hai lần và hai lần quan sát ấy
có độ “dài ngắn” khác nhau, chúng ta nói trong hai lần quan sát ấy có một lần
“dài” hơn lần kia, và để tránh nhầm lẫn với khái niệm khoảng cách (một yếu tố làm
nên thể tích, hay cứ gọi là một thành phần làm nên không gian), chúng ta dùng từ
“lâu”: Sự quan sát này lâu hơn sự quan sát kia. Tương phản với “lâu” ta có
“mau”. Thời gian đã được cảm nhận định nghĩa: Thời gian là một qui ước mô tả sự
lâu, mau của một quá trình tồn tại, vận động, biến đổi nào đó của sự vật - hiện
tượng.
Nếu chấp nhận sự
lý giải trên về thời gian, và vì chúng ta không quan sát được trong hiện thực,
thì phải đi đến kết luận rằng thời gian không hiện hữu trong hiện thực của chúng
ta. Nhận định này đúng tương đối nhưng sai tuyệt đối! Trước hết, chúng ta nói
ngay rằng thời gian nói trên là một hiện hữu vô hình (nhưng cảm giác được)
trong một hiện thực có cả sự hiện hữu của chúng ta hay của một quan sát nào đó
ngoài chúng ta (của người khác hoặc cũng có thể là một dạng tư duy nào đó ngoài
hành tinh). Nhưng quan trọng hơn là chúng ta đã quên (con người là chúa hay quên!)
rằng cái hiện thực mà ta quan sát được chính là một sự vật - hiện tượng mà đã là
một sự vật hiện tượng thì nó là một tồn tại tượng đối, là kết quả của một tạo dựng;
phân biệt được với xung quanh và có mối quan hệ tương hỗ với xung quanh, sống động
và biến đổi. Nói thế cho dông dài chứ thực ra nếu không có Trái Đất vận động tự
xoay, quay quanh Mặt Trời và Mặt Trời chiếu sáng thì không thể có hiện thực mà
chúng ta quan sát được và hiện thực mà chúng ta quan sát được không thể là một bất
biến. Nhờ chu kỳ sáng tối mà chúng ta phân được hiện thực ra thành những giai đoạn
theo qui ước: hiện thực bình minh, hiện thực trưa, hiện thực chiều, hiện thực tối…
và nhờ vậy, chúng ta cảm nhận được sự hiện hữu lâu mau của các giai đoạn. Từ sự
cảm nhận lâu mau ấy, chúng ta định ra một khoảng nào đó qui ước làm đơn vị đo
(giờ, phút, ngày tháng…) và chúng ta lại qui ước như thế nào, với bản thân đơn
vị đo thì một quá trình gọi là lâu hay mau (so với một quá trình nào đó đã chọn
làm “mốc”). Nếu chỉ so sánh độ lâu mau giữa hai quá trình thì đơn giản chúng ta
dùng cặp khái niệm tương phản lâu hơn – mau hơn (hay không phải là tương phản?).
Vì chỉ có “một chiều” thời gian nên thay cho lâu – mau có thể dùng chậm –
nhanh, thâm chí là dài - ngắn, (nhưng phải hiểu là dài, ngắn về mặt thời gian nếu
không, chúng ta sẽ lẫn lộn vì dài - ngắn cũng là cặp tương phản áp dụng cho không
gian. Không gian có “ba chiều” nên cặp dài - ngắn không đủ mô tả một bộ phận nào
đó của không gian, một thể tích. Vì lý do đó cặp dài - ngắn phải được “phân ra”
thành ba cặp đại loại là rộng - hẹp, nông - sâu, cao - thấp).
Từ cuộc tưởng tượng
vừa qua hay cũng có thể coi là một cuộc thực nghiệm trong… hoang tưởng, chúng
ta đã tạm có một ý niệm sơ bộ về không gian và thời gian: không gian và thời
gian là những hiện hữu góp phần làm nên hiện thực; nếu không gian được cho là
hiện hữu hữu hình thì thời gian là hiện hữu vô hình. Không gian đôi khi cũng trở
nên vô hình (chẳng hạn như đêm tối), đôi khi cũng không hiện hữu (chẳng hạn như
quan sát giữa lòng đại dương), còn thời gian thì có khi không hiện hữu trong hiện
thực (khoảng quan sát quá “ngắn”, không cảm giác được sự biến đổi) nhưng luôn vô
hình (như nóng, lạnh… ); không bao giờ là hữu hình. Chính vì thời gian hiện hữu
kiểu “mập mờ” như thế nên “chân tướng” của nó rất khó được nhận biết. Người thì
cho rằng thời gian “trôi” đều đặn qua hiện thực; người lại cho rằng thời gian
trôi có chỗ nhanh, chỗ chậm, mang tính cục bộ, trong sự vật này thì trôi chậm,
trong sự vật kia thì trôi nhanh, thậm chí còn biết “co giãn” và đôi khi không
“thèm” trôi nữa (trong lỗ đen).
Như đã từng đề
cập, chúng ta chắc chắn là hoàn toàn bất lực, không thể tưởng tượng nổi sự “trôi”
của thời gian mà không vấp phải phi lý nào. Nếu có sự “trôi” của thời gian
trong hiện thực thì thời gian phải là hữu hình (dù không rõ ràng, ví như sự lạnh
là một vô hình lan tỏa, nhưng khi sự lan tỏa đó chỉ theo một hướng thôi thì ta
phải gọi đó là luồng (không khí) lạnh, và như vậy là nó trở nên hữu hình (một cách
vô định hình) và có thể xác định nó như một khối hay một thể tích không gian có
nội dung thời gian, như một dòng trôi từ đâu đó qua hiện thực rồi về đâu đó
theo một hướng xác định được trong không gian và vùng không gian trống rỗng của
hiện thực cũng phải đầy ắp thời gian. Một thể tích không gian chứa đầy thời
gian, nghe sao mà mù mịt quá! Nếu suy rộng ra cho toàn Vũ Trụ thì chúng ta… biết
rồi đấy!
Chúng ta không
chấp nhận một kiểu thời gian vĩnh viễn vô hình và “trôi”? Khó mà biết được ai là
người đầu tiên và từ bao giờ làm xuất hiện ý niệm ấy. Chỉ đoán mò rằng có thể là
lâu lắm rồi, từ thời xa lắc, có một thi hào vô danh nào đó đứng tư lự bên dòng
sông Nin, ngẫm nghĩ đến cuộc xoay vần thản nhiên và bất tận của đất - trời, xót
xa cho nỗi buồn vui thấm thoắt của nhân tình thế thái mà tức cảnh sinh tình:
Lấp lánh thời
gian
Là
dòng sông năm tháng
Thầm
lặng lở bồi, miên man tít tắp
Ngày
đêm lũ lượt luân hồi
Hiện
tại, tương lai cuồn cuộn trôi xuôi
Hối
hả lùa vào đại dương dĩ vãng
Mà
dòng chảy, chẳng hề vơi cạn
Từ
ngàn xửa, ngàn xưa…
Và “kinh nghiệm”
cổ xưa ấy đã ám ảnh con người đến tận ngày nay!
Để thỏa mãn tính
đầy đủ của Tồn Tại, chúng ta đành phải chấp nhận sự tồn tại tất cả những đặc tính
của không gian và thời gian mà vật lý học ngày nay đã suy đoán từ những lập luận
chặt chẽ và trên cơ sở những thực nghiệm lặp đi lặp lại như: sự cong của không
gian và thời gian (do khối lượng), sự co của không gian và thời gian (do vận động)
và sự ngừng trôi, suy biến của không gian và thời gian (do mật độ vật chất đạt đến
tới hạn), nhưng chỉ trong vật lý học hoặc trong tư tưởng thôi.
Nghĩa là trong ý
niệm về không gian và thời gian, chúng ta cần phải bổ sung thêm khả năng hiện hữu
ảo của chúng nữa. Không cần phải đưa ra thêm thí dụ minh họa nữa vì chúng ta đã
quên (lại quên!) rằng cuộc thực nghiệm của chúng ta là tưởng tượng, cho nên có
thể lấy luôn nó để minh họa, và chỉ cần thêm chữ “ảo” sau những từ “hiện thực”,
“không gian” và “thời gian” là xong.
Nói đến hiện thực
là phải nói đến quan sát, không có quan sát thì không có hiện thực. Ở đây, chúng
ta hiểu quan sát không phải đơn thuần là nhìn bằng mắt, mà có nghĩa rộng hơn, đó
là sự cảm giác, cảm thấy… Và cũng không phải chỉ bằng năm giác quan mà có thể là
linh giác, linh cảm, hoặc là sự nhận biết thông qua các dụng cụ, thiết bị hỗ trợ
(kính thiên văn, kính hiển vi, máy dò phóng xạ…).
Nói đến quan sát
thì phải nói đến khoảng thời gian quan sát và khoảng thời gian đó có thể lâu có
thể mau và tuyệt đối không bao giờ bằng không. Do vậy một hiện thực có khi chỉ
như một bức ảnh, tĩnh tại; khi là một hoạt cảnh tương tự một bộ phận nhưng cũng
có khi tùy theo qui ước, tùy theo thỏa thuận ngầm nào đó mà chúng ta còn hiểu nó
như một thời đại, ngày nay, hiện nay… Ngoài ra, chúng ta còn thấy rằng trong một
hiện thực tương đối dài lâu nào đó, có những hiện hữu (sự vật - hiện tượng) chỉ
tồn tại trong chớp mắt, trong chốc lát, hoặc trong một khoảng xác định được, nhưng
cũng có những hiện hữu (hình như) không thay đổi, không biến đổi, chẳng hạn như
những vì sao, dãy Trường Sơn… và một cách tương đối chúng ta gọi chúng ta là những
bất biến, “nằm ngoài” thời gian, “hầu như” thời gian không “trôi qua” chúng.
Khi không quan
sát mà chúng ta suy nghĩ về hiện thực, hồi ức, mường tượng lại những hoạt cảnh đã
qua, tưởng tượng ra một hoạt cảnh nào đó mà chúng ta chưa từng quan sát thấy (nhưng
cũng không thể thoát ly được tồn tại, kinh nghiệm đã tích lũy được!) hay là ngủ
mơ thấy, hay là mơ ước,…thì tất cả những
cái ấy (hiện lên trong tư duy, trong não) đều được chúng ta gọi là hiện thực ảo.
Thế còn khi chúng ta đang xem một bộ phim, đang xem truyền hình trực tiếp thì
thuộc hiện thực hay hiện thực ảo (thực tại ảo!)? Cũng tùy qui ước cả thôi! Chúng
ta có thể cho rằng những hoạt cảnh mà chúng ta thấy qua truyền hình trực tiếp là
hiện thực quan sát nhờ sự hỗ trợ của thiết bị truyền thông. Và xem phim là chúng
ta đang quan sát một hiện thực (một màn ảnh có sự biến động liên tục trong đó),
còn nội dung của bộ phim là một thực tại ảo (hiện thực ảo).
Điều đương nhiên,
không gian và thời gian trong một hiện thực ảo nào đó phải là không gian ảo và thời
gian ảo.
Việc chúng ta
chế tác một mô hình nào đó trong thực tiễn, có nghĩa là chúng ta đang mô phỏng
lại biểu tượng, hiện hữu ảo, hiện thực ảo (toàn cảnh hiện hữu ảo) tồn tại trong
tư duy. Mô hình đó phải được coi là hiện hữu thực (hay toàn cảnh hiện hữu thực
– một hiện thực). Nó giống với hiện thực ảo nhưng không phải là hiện thực ảo và
càng không phải là hiện thực của hiện thực ảo (nếu là hồi ức). Hiện thực ảo
mang nặng tính chủ quan của con người, là một phản ánh đã méo mó, thiếu chi tiết
của hiện thực, thậm chí hoàn toàn do tư duy tạo dựng. Sự hồi ức, tưởng tượng lại
quan sát đã qua thường là không đầy đủ, phiến diện, lẫn lộn và mờ nhạt. Chúng
ta gọi hiện thực ảo đó là quá khứ. Hiện thực ảo “gần” với lúc quan sát hoặc có
khi là “suýt soát” với thời gian quan sát thì được gọi là hiện tại (hiện tại cũng
có nghĩa như hiện thực – chúng ta qui ước). Qua nhận thức, qua kinh nghiệm đã tích
lũy được khi quan sát mà chúng ta mường tượng được, phỏng đoán được, ước đoán được
những hoạt cảnh tiếp theo, những toàn cảnh hiện hữu sắp xảy ra hay sẽ xảy ra và
chúng ta gọi hiện thực ảo đó là tương lai. Tương lai xảy ra đúng hay sai, đúng
nhiều hay đúng ít so với sự ước đoán là một biểu hiện về trình độ nhận thức của
tư duy. Rõ ràng, quá khứ và tương lai là Hư Vô khi ta không suy nghĩ về chúng và là những hiện thực ảo khi ta tưởng tượng về chúng!
Trước quan sát
thực (nói thế để phân biệt với quan sát trong tư duy (quan sát ảo)) luôn luôn là
hiện thực, không bao giờ là quá khứ cũng như tương lai. Tự Nhiên Tồn Tại luôn
luôn hiển hiện trước mọi quan sát và được gọi là Hiện Tại vĩ đại. Quá khứ và tương
lai chỉ tồn tại trong tư duy, “cũng phù phiếm như một giấc mộng” (lời của Nietzsche).
***
Câu chuyện về
không gian và thời gian vẫn chưa hết vì dù chúng ta đã tạm thời biết được những
hình thức hiện hữu của chúng nhưng chưa biết chúng có quan hệ gì với nhau không
và quan hệ như thế nào, rồi bản chất thực sự của chúng là gì.
Chúng ta lại bắt
đầu từ không gian vì không gian “dễ thấy” hơn thời gian: mở mắt ra, đâu đâu cũng
thấy nó, nhắm mắt lại hình dung ra ngay được nó dù nó trống rỗng. Nhưng có thực
là nó trống rỗng không? Trong thời đại ngày nay, khi mà con người đã có những
thiết bị hỗ trợ quan sát cực kỳ tinh nhạy thì cái không gian trống rỗng được năm
giác quan con người cảm giác, đã không còn trống rỗng nữa mà tràn ngập ánh sáng,
sóng điện từ (bức xạ điện từ). Hay không gian là sóng điện từ ? Nhưng sóng điện
từ chỉ có thể hiện hữu (tồn tại) nếu có nguồn phát ra nó và nó sẽ mất đi nếu có
vật thu nó. Vả lại, vật lý học đã xác minh được bức xạ điện từ là những dòng gồm
các lượng tử mang bản chất lưỡng tính vừa sóng vừa hạt, tuy vô cùng nhỏ bé nhưng
có thể định lượng được. Như vậy sóng điện từ nói chung và ánh sáng nói riêng;
trước quan sát, là một hiện hữu mà các phôtôn như là những hữu thể và dòng các
phôtôn được coi là sự vật - hiện tượng tương tự như bất kỳ một sự vật - hiện tượng
nào khác, nghĩa là nó cũng được cấu thành từ vật chất.
Bây
giờ giả sử
rằng ta lại “tống khứ” hết bức xạ điện từ ra khỏi khoảng không gian nào
đó (việc
này chắc cũng dễ dàng vì chúng ta đã có kinh nghiệm từ những lần “rút”
vật chất
ra khỏi một thể tích!!!) và ta được một khoảng “đen thui” như đã nói. Và
chúng ta đặt
lại câu hỏi: khoảng “đen thui” đó có trống rỗng không? Theo quan niệm
Phật Giáo
thì trống rỗng nhưng không Hư Vô. Chúng ta cũng đồng thuận với quan niệm
này: Có
thể chúng ta cùng với sự hỗ trợ của các thiết bị hiện đại không quan sát
(hay là
chưa quan sát) thấy gì và có cảm giác không gian hiện hữu lên như một
thể tích rỗng rang, không có gì và được chúng ta quy ước gọi là hư vô,
nhưng sự suy lý đã mách bảo chúng ta rằng chắc chắn không gian không
thể là Hư Vô, không thể là từ Hư Vô cấu
thành nên được. Tự Nhiên Tồn Tại là duy nhất, độc tôn! Không gian dứt
khoát phải
có nội dung! Nội dung đó là gì và có quan hệ gì với vạn vật không? Không gian không Hư Vô thì không gian phải là Tồn Tại, phải thường biến trong tổng thể bất biến của nó.
Vì chúng ta khẳng
định rằng không gian không thể là Hư Vô được nên sự trống rỗng của nó chỉ có
nghĩa rằng chúng ta chưa quan sát được, chưa nhận dạng được những tồn tại trong nó. Kinh nghiệm đã
cho chúng ta biết rằng có những tồn tại thực sự nhưng không hiện hữu trong hiện
thực vì nằm ngoài tầm quan sát của chúng ta. Bằng mắt thường chúng ta làm sao
thấy được các phân tử Oxy, Nitơ, Hydro… đang tung tăng nhảy múa trong khí quyển;
làm sao thấy được những vì sao ở tận đâu đó gọi là tận cùng Vũ Trụ? Hoặc đơn giản
như thế này: giả sử chúng ta có phép hóa thân to lớn bao nhiêu cũng được và nhỏ
bé cỡ nào cũng được; chúng ta đứng đâu đó trong Vũ Trụ quan sát Trái Đất.
Chúng
ta càng lớn dần lên thì độ phân giải của mắt càng thô nên Trái Đất như nhỏ dần đi
(chưa kể càng xa Trái Đất thì góc nhìn càng hẹp), đến độ, ta chỉ còn nhìn thấy được
dải Ngân Hà mà không thấy được Trái Đất nữa. Lúc này ta nói Trái Đất vẫn tồn tại
nhưng không hiện hữu, và nếu bỏ qua tất cả mọi thiên thể khác thì chúng ta chỉ
nhìn thấy sự trống rỗng. Ta to lớn hơn bội phần nữa, thì ngay cả dải Ngân Hà cũng
không hiện hữu nữa và nếu ta đạt đến tầm cỡ Vũ Trụ thì có thể chẳng có gì hiện
hữu trước mắt chúng ta kể cả cái Trống Rỗng vĩ đại(?!). Nếu chúng ta không hóa to lớn
mà làm ngược lại: hóa nhỏ. Càng hóa nhỏ độ phân giải của quan sát càng cao và
chúng ta càng không thấy được những vật lớn bởi kích thước của vật lớn bỗng trở
nên khổng lồ, mà chỉ có thể quan sát được một phần rất hạn chế. Chẳng hạn khi
ta bằng kích thước nguyên tử (khoảng 10-8 cm) thì khoảng cách một mét
đối với chúng ta lúc này sẽ tương đương 107 km đối với kích thước bình
thường của chúng ta (mét). Càng hóa nhỏ, sự đa dạng phong phú của các sự vật -
hiện tượng càng mất dần đi và sự đơn điệu bắt đầu chiếm ưu thế. Hiện thực lúc đó
chắc rằng phải khác với hiện thực thông thường của con người: không còn cái không
gian khoáng đạt với cây cối xanh tươi hoa lá, không còn những dòng sông mênh
mang chảy qua những bình nguyên trù phú để hòa vào đại dương, không còn bầu trời
đêm mênh mông thăm thẳm lấp lánh ngàn sao. Ở kích thước hạt nhân nguyên tử, có
thể chúng ta sẽ thường xuyên thấy sấm chớp và lốc xóay, không gian không còn
trong suốt mà đục ngầu sóng điện từ, vận động của toàn thể đã trở nên chậm chạp
vì bị sức cản của… không gian và rất có thể do có sự cản trở ấy mà các hạt vật
chất (gồm protôn, nơtrôn, điện tử,…) không thể di dời theo đường thẳng được mà
phải luồn lách như một giả sóng, díc dắc. Chúng ta hóa nhỏ nữa, nhỏ hơn nữa, nhỏ
đến tận cùng giới hạn và chẳng quan sát được gì nữa vì không gian đã “đông đặc”,
hóa cứng để không cho Hư Vô có cơ hội “xâm nhập” vào… Đó chắc chắn phải là cõi đậm đặc và cứng tuyệt đối,
vừa sinh vừa tử, là cả hai mà không phải cả hai. Chúng ta có thể hóa nhỏ hơn nữa
để vượt qua cái giới hạn tột cùng ấy không? Không mà cũng có! Không là vì không
thể bước qua giới hạn của Tồn Tại; có là vì Tồn Tại không thể có giới hạn (vì
như thế ngoài giới hạn sẽ phải là Hư Vô) và khi chúng ta bước qua sự nhỏ tột cùng
ấy, chúng ta sẽ trở về với thế giới vô cùng lớn "này", từ bên kia giới hạn của sự cực nhỏ của Tồn Tại. Nhìn vào cõi vi mô cũng tương tự như nhìn ra xa tít tắp trong cõi vĩ mô!
Vì
vạn vật, tất
cả các sự vật - hiện tượng đều là sự biểu hiện của vật chất và vận động
vật chất,
vì Tự Nhiên Tồn Tại biểu hiện là một Vũ Trụ tổng thể của vật chất và vận
động,
vì bên cạnh Tồn Tại không thể là Hư Vô và sự xuất hiện của Hư Vô là vô
vọng nên
Vũ Trụ được quan sát ở tầng tột cùng ấy chỉ là một hiện thực với sự hiện
hữu của
không gian lấp đầy cái gì đó mà lúc này, chúng ta cứ tạm gọi là vật chất
nguyên thủy với hai thể tương phản của nó (gọi là vật chất âm và
vật chất dương?). Hai thể tương phản này luôn hiện ra từ vật chất ấy và
biến mất vào
vật chất ấy. Khoảng tồn tại của một thể vật chất tương phản (âm hoặc
dương) là khoảng
giữa sự xuất hiện và biến mất của nó; vì mang tính dài lâu nên được gọi
là khoảng
thời gian, và đó chính là khoảng thời gian nhỏ nhất, là đơn vị thời gian nhỏ tuyệt đối của Vũ Trụ, một hiện hữu vô hình.
Như vậy có thể
đoán định rằng sự phân tầng phân lớp một cách tương đối theo qui mô của Tự
Nhiên Tồn Tại, của Vũ Trụ trước quan sát là một sự thực khách quan, tùy thuộc vào
nguồn gốc hình thành nên quan sát, tùy thuộc vào năng lực và trình độ quan sát
mà hiện thực ở mỗi tầng nấc của Vũ Trụ có thể hiện lên khác nhau, tuy cùng một
thế giới khách quan. Ở tầng sâu thẳm, khoảng tột cùng của vô cùng nhỏ, không
gian thể hiện như một thể tích trống rỗng ở tầng mà chúng đang thấy sẽ hiện hữu
như một không gian đầy ắp vật chất, một thể tích vật chất. Mà vật chất như chúng
ta quan niệm là lấp đầy Vũ Trụ, hay cũng có thể nói trong Vũ Trụ chỉ tồn tại vật
chất và chỉ vật chất mà thôi, không thể gì khác. Nhưng, ngay từ bước đi đầu tiên,
chúng ta đã cho rằng tất cả các sự vật đều là sự cấu thành từ những đơn vị vô cùng
nhỏ, bất khả phân gọi là “hạt” vật chất, nên thứ vật chất lấp đầy Vũ Trụ ấy chính
là do tập hợp của vô vàn hạt được gọi là vật chất nguyên thủy mà nên, và các hạt ấy phải
“chồng khít” lên nhau, áp chặt vào nhau để sao cho không xuất hiện kẽ hở Hư Vô.
Vậy khi ta nói đến một thể tích trống không, không biết là gì cả, một thể tích
toán học trong hình học Ơclit thì chúng ta phải nghĩ ngay đến vật chất và nói rằng
thể tích đó chính là thể tích vật chất, nó thể hiện về mặt lượng (lực lượng) của
vật chất. Hiểu như thế là chúng ta đã cố tình đạt đến kết luận: không gian cũng
là vật chất, là tên gọi khác của vật chất. Khi nói một thể tích không gian thì
chẳng khác gì nói: một thể tích vật chất và thể tích đó là sự thể hiện về một lượng
vật chất nào đó. Nếu ta xác định được giá trị thể tích của hạt vật chất thì ta
cũng sẽ tính được số hạt vật chất có trong thể tích đang xét.
Nói lại lần nữa, ở
tầng sâu thẳm, khoảng tột cùng của vô cùng nhỏ, không gian thể hiện như
một thể tích "đông cứng". Càng về phía vĩ mô, không gian càng "loãng"
dần và trở nên rỗng rang hoàn toàn ở vô cùng lớn (không phải vô tận!).
Vậy có thể nói, Vũ Trụ là không gian lấp đầy...thể tích, bao gồm toàn bộ
vật chất. Nói chính xác hơn: nói về Tồn Tại có nghĩa là nói về Vũ
Trụ, Vũ Trụ bao gồm không gian, thời gian và vật chất, như vậy nó cũng
là nơi chứa chấp mọi chuyển hóa, vận động, hiện tượng, biến cố. Như thế,
chúng ta phải đi tới quan niệm: vật chất có nguồn gốc từ không gian.
Vậy không gian có nguồn gốc từ đâu? Đây là câu hỏi không thể trả lời! Để
tránh Thượng Đế, chúng ta khẳng định: không gian là vốn dĩ thế Tồn Tại.
Nhưng Một Tồn Tại vĩ đại được hợp thành nên từ không có gì hay Hư Vô là
một quái dị, không tưởng tượng nổi, nên lại phải quan niệm: Tồn Tại là
có giới hạn ở tột cùng nhỏ, nghĩa là Vũ Trụ là sự
cấu thành từ những đơn vị tuyệt đối nhỏ, bất khả phân gọi là “hạt” không
gian. Các hạt ấy phải cố định tuyệt đối trong Vũ Trụ, phải “chồng
khít” lên nhau, áp chặt vào nhau để sao cho không xuất hiện kẽ hở Hư Vô.
Vậy khi ta nói đến một thể tích trống không, không biết là gì cả, một
thể tích toán học trong hình học Ơclit thì chúng ta phải nghĩ ngay đến
không gian và nói rằng thể tích đó chính là một khối tồn tại của Tồn
Tại, nó thể hiện
về mặt lượng (lực lượng) của không gian. Hiểu như thế là chúng ta đã cố
tình đạt đến kết luận: không gian là nguồn gốc vật chất, là tên gọi khác
của nó (chúng ta gọi) là "tiền
vật chất", và có thể gọi bức xạ điện từ là "vật chất nguyên thủy". Khi
nói một thể tích không gian thì chẳng khác gì nói: một thể
tích "tiền vật chất" và thể tích đó là sự thể hiện về một lực lượng
không gian nào
đó. Nếu ta xác định được giá trị thể tích của hạt vật chất thì ta cũng
sẽ tính được số hạt vật chất có trong thể tích không gian đang xét! Đó
phải chăng là vật chất tối mà vật lý học hiện nay đang kiếm tìm?
Chúng ta thừa
nhận rằng chúng ta quan niệm như vậy về không gian và vật chất. Vật chất kiểu của
chúng ta mang tính cụ thể, xác thực (dù vẫn chưa biết bản chất thực sự của vật
chất là gì), là nền tảng làm xuất hiện vạn vật trong quan sát ở tầng nấc thế giới
quan của chúng ta. Vật chất hiểu kiểu như vậy sẽ phải khác với quan niệm của
Anghen khi ông cho rằng: “Vật chất, với tính cách là vật chất là một sáng tạo
thuần túy của tư duy, và là một điều trừu tượng thuần túy; Chúng ta bỏ qua những
sự khác nhau về chất của những sự vật, khi chúng ta gộp chúng, với tư cách là
những vật tồn tại hữu hình, vào khái niệm vật chất; do đó, khác với những vật
chất nhất định và đang tồn tại; vật chất, với tư cách là vật chất, không có sự
tồn tại cảm tính”, nói riêng và của triết học duy vật biện chứng cũng như các
trường phái triết học khác từ trước tới nay nói chung!
Một phát kiến vĩ
đại ra đời: Không Gian là Vật Chất - vật chất nền tảng của mọi vật chất đặc thù,
vật chất là cái làm nên vạn vật, vạn vật xuất hiện từ không gian và biến vào không
gian. Chúng ta là những người đầu tiên đã khám phá ra một trong những điều bí ẩn
nhất của Tự Nhiên Tồn Tại và chúng ta có quyền vỗ ngực hãnh diện vì điều đó? Chưa
biết đúng sai thế nào mà đã kiêu căng tự phụ như thế thì thật là hồ đồ! Nếu là
sai, trước mắt mọi người, chúng ta sẽ là một hiện hữu “vô danh tiểu tốt”, học lóm
mù quáng, với chứng hoang tưởng đã chuyển sang thể “vĩ cuồng”. Nếu là đúng, thì
người đời sẽ gọi chúng ta là lũ ăn cắp chiến công, vì vinh quang đời đời thuộc
về triết học Upanishad với nhận định “Tất cả các thế giới kia từ đâu tới? Chúng
từ không gian. Mọi sinh vật đều đến từ không gian và quay trở về không gian, vì
thế, không gian là khởi đầu và là kết thúc”. Ở đây nếu muốn nói một lời nào để
bày tỏ niềm sung sướng bởi chúng ta đã có một không gian phù hợp với mong muốn
riêng tư của mình, thì chỉ có thể là: chúng ta vô cùng may mắn nhặt được viên
ngọc bích quí giá từ quá khứ xa xôi trong lịch sử nhận thức của loài người.
Một không gian
- vật chất như mô tả ở trên, gồm vô vàn hạt vật chất “nhét đầy chặt” Vũ Trụ sẽ
vấp phải câu hỏi “hiểm ác”: nếu thế thì vật chất vận động thế nào? Chắc chắn là
các hạt không thể di dời được, vì vừa bị vây chặt bởi “đồng loại”, vừa sẽ lập tức
“bộc lộ” Hư Vô. Nếu không thể di dời thì phải đi đến một kết luận rất “khó chịu”
là tất cả các hạt vật chất phải cố định tuyêt đối trong Vũ Trụ, và để tồn tại, để
phụng sự Tồn Tại, để đảm bảo tính thường biến và bất biến, đồng nhất và dị biệt,
không còn cách nào khác, chúng chỉ còn cách biến hóa nội tại. Sự biến hóa này là
vốn dĩ thế, là tự nhiên như thế, sự biến hóa nội tại của một hạt vừa phụ thuộc,
là kết quả, vừa độc lập, là nguyên nhân của biến hóa nội tại của toàn thể các hạt
khác. Mỗi một hạt so với những hạt kề cận xung quanh chúng đều hoàn toàn giống
nhau về bản chất vật chất – không gian, nhưng đều khác nhau về trạng thái. Chúng
vừa giống nhau vừa khác nhau như thế nên chúng tồn tại một cách vừa tuyệt đối vừa
tương đối, tuyệt đối đối với quan sát và tương đối so với nhau. Đó là mường tượng
hết sức gượng ép về sự vận động của vật chất nhằm thỏa mãn những đặc tính của Tự
Nhiên Tồn Tại mà chúng ta đã “dựng đứng” nên. Lần này, sự phán đoán chính hiệu
là chúng ta, nó làm cho tâm hồn chúng ta hết sức hoang mang và hoảng hốt. Đành
vậy, nếu muốn không tồn tại phương thức vận động kiểu di dời vị trí. Hãy tự an ủi
rằng trong cõi hoang đường, mọi cái đều có quyền và đều có thể tồn tại.
Ở tình trạng tỉnh
táo (không hoang tưởng), trong phạm vi thô thiển và què quặt, việc hình dung Vũ
Trụ với không gian - vật chất như trên có lẽ cũng không khó lắm. Có thể coi hiện
thực ở khoảng cuối của sự nhỏ tương tự như hiện thực mà chúng ta quan sát “thấy”
ở trong lòng một đại dương, bốn bề nước, toàn nước là nước, không có bất cứ gì
khác ngoài nước và nước đóng vai trò như thứ vật chất – không gian mà chúng ta đã
ước đoán. Trong lòng đại dương ấy, chúng ta “thấy” muôn ngàn áp lực mà nếu có máy
đo áp lực cực nhạy, chúng ta cũng sẽ “thấy được” sự tác động không đều của các
phân tử nước (hạt vật chất); có một cái gì đó lan truyền khắp nơi nhưng hình như
các phân tử nước vẫn ở nguyên vị trí của chúng (bỏ qua sự dao động quanh vị trí
cân bằng)… Cùng cái thế giới khách quan ấy nhưng bây giờ chúng ta quan sát nó ở
chiều kích bình thường thì hiện thực sẽ là một quang cảnh quen thuộc: cái dòng
hải lưu nóng lạnh, những vùng nước ấm, những vùng nước mát, những vùng xoáy to
nhỏ… xuất hiện, có khi là di động, rồi mất đi: đó chính là những sự vật - hiện
tượng hình thành nên từ vật chất - không
gian (từ nước) và biến mất vào vật chất - không gian (vào nước).
Thế là, vấn đề
không gian coi như đã được “mổ xẻ” xong. Bây giờ đến vấn đề thời gian. Chúng ta
không thể “làm thịt” thời gian giống như đã làm với không gian vì đơn giản là nó…
vô hình. Thời gian là một hiện hữu vô hình; là khoảng dài lâu nào đó của tồn tại
và cũng là một hiện hữu, hiện thực … chúng ta đã kết luận được như vậy. Nhưng làm
sao chúng ta cảm giác được khoảng dài lâu ấy? Bởi vì chúng ta có đồng hồ đo? Không
hẳn thế, vì đồng hồ là sản phẩm do chúng ta làm ra và vận động theo như cách thức
mà nó được chế tạo nên nó chẳng qua cũng chỉ là một sự vật - hiện tượng bình thường. Cho
dù là có thể thông qua đồng hồ mà biết được khoảng dài lâu ấy, thì giả sử như
chúng ta lúc đó chẳng có bất cứ loại đồng hồ nào, chúng ta có cảm nhận được khoảng
cách dài lâu đó không? Có thể! Chúng ta có thể cảm nhận được là nhờ kinh nghiệm
ở những lần quan sát thấy những biến đổi, những lần so sánh độ dài của các biến
đổi, sự xuất hiện và mất đi của quá trình nào đó. Chẳng hạn con người quan sát
thấy sự tuần hoàn ngày và đêm, đồng thời cũng quan sát được sự hiện hữu của một
sự kiện nào đó mà khoảng dài lâu của nó ngắn hơn khoảng dài lâu của một ngày đêm
là 24 giờ. Một giờ và 24 giờ đã tạo cho chúng ta cảm giác về độ dài lâu, chúng
ta nhớ được, lưu giữ thành kinh nghiệm của cảm giác. Nhờ đó, ở những lần quan sát
sau, về mặt định tính, chúng ta sẽ cảm giác được độ dài lâu của các sự kiện khác.
Trong cuộc sống hàng ngày, theo dõi một sự kiện nào đó, chúng ta thường thốt lên:
“sao lâu quá!” hay: “nhanh thế?” là vì vậy.
Từ đó mà suy ra
rằng một hiện thực hay hiện hữu không biến đổi (tương đối) trước quan sát sẽ không
làm cho quan sát cảm nhận được thời gian và do đó cũng không định lượng “chính
xác” được thời gian. Nói rộng ra, nếu thế giới này bất biến như một bức tranh tĩnh
vật thì chẳng bao giờ xuất hiện khái niệm thời gian (vẫn có thể xuất hiện khái
niệm không gian!). Bị ràng buộc bởi kinh nghiệm, kiến thức về sự biến đổi, vì
thời gian đã được phát hiện từ trước nên trước một hiện thực bất biến, chúng ta
vẫn cảm nhận như thời gian hiện hữu trong đó, đang “trôi” trong đó, gây biết
bao nhiêu lẫn lộn, phiền toái trên đời.
Chỉ nhờ quan sát
được những biến đổi trong hiện thực và so sánh độ dài lâu giữa chúng trong quá
trình nhận thức để phục vụ đời sống mà khái niệm thời gian hình thành. Do vậy
chúng ta có thể nói nó có nguồn gốc từ sự biến đổi của các sự vật - hiện tượng
hiện hữu trong hiện thực, khái quát hơn, từ sự vận động của vật chất tác động lên
tư duy. Hay nói cách khác: thời gian là một đặc tính của vận động (sự lâu mau) đã
qua nhận thức.
Chúng ta có
linh cảm rằng quan niệm về thời gian như thế là mạch lạc, trong sáng và thời
gian vì thế trở nên dung dị, dễ hiểu. Một quan niệm càng mạch lạc, dung dị bao nhiêu
càng gần chân lý bấy nhiêu. Nếu vậy, cần phải xét lại quan niệm về không gian của
chúng ta. Việc đánh đồng không gian chính là vật chất là một hành động cực đoan,
thô bạo. Không, phải nói đó là một hành động hèn nhát thì đúng hơn. Vì thấy cái
trống rỗng có nguy cơ biến thành Hư Vô (cái mà chúng ta không bao giờ muốn nghĩ
tới!), chúng ta đã vội vàng, mù quáng ép buộc không gian thành vật chất, xây dựng
nên một quan niệm rất mực u ám, hàm chứa nhiều phi lý. Phải quan niệm lại không
gian!
Noi
gương cách quan
niệm về thời gian, chúng ta sẽ quan niệm lại không gian như thế này: Nhờ
quan sát
các sự vật đa dạng trong hiện thực; nhờ so sánh sự khác biệt về hình
dáng và về
qui mô (sự to nhỏ) giữa chúng mà khái niệm không gian được hình thành
trong nhận
thức. Do đó, có thể cho rằng khái niệm không gian có nguồn gốc từ sự
hiện hữu
trong hiện thực; khái quát hơn, từ hiện thực vật chất tác động lên tư
duy. Hay
nói cách khác, không gian là một đặc tính thể hiện của vật chất (sự to
nhỏ, tròn
méo) đã qua nhận thức, cái khoảng không gian trống rỗng hiện hữu trong
hiện thực
ấy, giờ đây chúng ta phải hiểu như thế nào? Khoảng ấy phải được lấp đầy
bởi vật
chất nền tảng (thứ vật chất mà chúng ta vừa tạm “xây dựng” mô hình như ở
trên
hoặc có thể là chân không lượng tử trong vật lý học, hoặc sự rỗng rang
nhưng không Hư Vô của Phật Giáo). Vật chất nền tảng đã hiện hữu trong
hiện thực (của con người)
như một sự trống rỗng, bất định về không gian và thời gian! Nếu thế thì
ta cũng
suy ra rằng sự hiện hữu và hiện thực chỉ có thể tồn tại môt cách xác
định trước
một quan sát nhờ hai đặc tính của chúng tác động vào tư duy như là không
gian và
thời gian.
Đến đây, câu hỏi
cuối cùng được đặt ra là với không gian và thời gian kiểu như vậy thì giữa chúng
có mối tương quan nào không, hay là chúng hoàn toàn độc lập so với nhau? Trả lời
được câu hỏi này không phải là điều dễ dàng gì vì trong quá trình lập luận diễn
giải hay tranh biện triết học, do sức ì của bộ não mà chúng ta thường xuyên lẫn
lộn giữa những cái chưa qua nhận thức và đã qua nhận thức (nghiêm trọng hơn khi
nhận thức còn sai lạc). Nhưng nếu không tìm cách trả lời thì sự tò mò sẽ mãi hành
hạ tâm can chúng ta, làm cho chúng ta sẽ phải khổ sở vì nó trong cuộc hành trình
này. Thôi thì mặc lòng, phải cố gắng một phen nữa, ra sao thì ra, được đến đâu
hay đến đấy.
Chúng ta sẽ lại
bắt đầu quan sát một hiện thực tưởng tượng (trong đời sống, tưởng tượng là thứ
vô cùng quí giá nhưng không phải giàu tiền giàu bạc là có thể mua được!).
Trước mắt chúng
ta là một môi trường (nói toẹt ra là không gian trống rỗng!), trong đó hiện hữu
các sự vật - hiện tượng. Các sự vật - hiện tượng đó vận động: tác động tương hỗ
với môi trường, thông qua môi trường tác động tương hỗ với nhau hoặc chuyển động
va chạm trực tiếp làm chuyển hóa nhau và cùng biến đổi. Có những sự vật - hiện
tượng biến đổi chậm, có những sự vật - hiện tượng biến đổi nhanh, có những sự
vật - hiện tượng lớn dần lên, có những sự vật - hiện tượng nhỏ dần đi, có những
sự vật - hiện tượng phân rã, tan rã, biến mất và cũng có những sự vật - hiện tượng
mới hình thành… nếu môi trường đủ rộng lớn, chúng ta sẽ thấy đó chính là một cuộc
xoay vần đa dạng về sự vật, phong phú về hiện tượng, muôn màu muôn vẻ đầy biến
loạn nhưng cũng trật tự, nhịp nhàng, các sự kiện cứ tiếp nối nhau như tiền định
và có vẻ như không bao giờ ngừng nghỉ. Từ kinh nghiệm rút ra của thế giới thiên
nhiên xung quanh con người, chúng ta thấy rằng vận động xoay vần là mang tính
chu kỳ, cân bằng nên có mức độ ổn định cao làm cho quá trình trở nên dài lâu và
so với khoảng thời gian gọi là ngắn nào đó, một cách tương đối, chúng ta nói đó
là quá trình bất tận. Đứng trước một cuộc xoay vần như vậy, chúng ta có cảm giác
các sự vật - hiện tượng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và với môi trường, thông
qua môi trường mà tác động lẫn nhau, làm nguyên nhân và kết quả của nhau, độc lập
tương đối trong phụ thuộc tuyệt đối, tự do vận động theo “tiền định” đảm bảo tự
do của toàn thể, sao cho sự tồn tại của tổng thể (cuộc xoay vần) được bảo tòan,
nghĩa là sự vận động của toàn thể được duy trì cân bằng, ổn định và dài lâu (nếu
không còn môi trường nào khác bao trùm môi trường đang xét làm cho môi trường đang
xét trở nên là một sự vật - hiện tượng của môi trường lớn ấy thì hiện thực mà
chúng ta đang thấy sẽ trở nên vĩnh cửu vì nó chính là biểu hiện của tổng thể Tự
Nhiên Tồn Tại!!!); nghĩa là có sinh thì có tử, có phát triển thì có suy tàn; cái
này mất đi để cái khác sinh ra (và buộc phải sinh ra!), cái khác phát triển làm
cho cái khác nữa phải suy tàn đi… cứ thế cái quá trình “có vay có trả” ấy là bất
tuyệt.
Môi trường
trong hiện thực đang được chúng ta quan sát (coi là cô lập so với bên ngoài nó)
cũng đóng vai trò như một hiện hữu, nhưng là hiện hữu đặc biệt, hiện hữu của sự
vật - hiện tượng nền tảng của các sự vật - hiện tượng có trong nó. Do đó nó cũng
“vui buồn” theo cuộc sinh sinh tử tử trong lòng nó. Mọi biến động gây ra bởi các
sự vật - hiện tượng trong môi trường đều làm mất cân bằng vận động của tổng thể
làm môi trường phải biến đổi theo để cân đối duy trì sự cân bằng vốn có, trong
trường hợp quá độ (phải có tác động từ bên ngoài), sự cân bằng mới sẽ được thiết
lập, một môi trường mới (tương đối khác môi trường cũ) xuất hiện, làm biến đổi
thậm chí làm tiêu vong một số sự vật - hiện tượng cũ đã không còn phù hợp, không
thể thích ứng với điều kiện mới và đồng thời những sự vật - hiện tượng mới ra đời
(có thể gọi như vậy là biến cố hay những biến cố không?).
Mô tả một hiện
thực sống động, “vĩ đại”, một cuộc xoay vần đến bất tuyệt mà chỉ với vài dòng
như thế rõ ràng là không đầy đủ, là sơ sài, phiến diện, “đui què mẻ sứt” và rất
dễ gây hiểu lầm sai lạc. Nhưng không sao, Tự Nhiên Tồn Tại đã chịu vô vàn sự hiểu
lầm rồi, thêm vài ba sự hiểu lầm nữa cũng chẳng làm trầm trọng thêm tình hình.
Vả lại, vâng theo lời khuyên của Sadi Carnot, nhà vật lý học tài năng người Pháp:
“Nói ít thôi về cái mà ta biết, và hoàn toàn đừng nói về cái mà ta chưa biết”,
chúng ta dại gì mà lòi cái dốt bao la của mình ra. Nhưng chủ yếu là vì chúng ta
chỉ cần nhận biết vài vấn đề có “tính nguyên tắc” về vận động (nội tại) của một
hiện thực để có cơ may lần mò đến được với điều mà chúng ta quan tâm.
Giữa các sự vật
- hiện tượng với nhau và với môi trường có những mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau
khắng khít. Không có một sự vật - hiện tượng nào tồn tại mà thiếu vắng môi trường
và không chịu sự ảnh hưởng ít nhiều của môi trường. Một sự suy tàn và tiêu vong
của sự vật - hiện tượng nào đó sẽ ảnh hưởng đến toàn thể, kích thích toàn thể
biến đổi phù hợp để duy trì vận động cân bằng. Sự chấm dứt tồn tại của (những)
sự vật hiện tượng không có nghĩa là sự mất đi của (lượng) vật chất làm nên nó
(lượng vật chất là bảo toàn trong một hệ cô lập) mà chỉ có nghĩa là sự phân rã
thành những dạng vật chất thành phần, hoặc vật chất nền tảng và (những) sự vật
hiện tượng đó không hiện hữu nữa. Cùng với quá trình suy tàn và tiêu vong ấy,
thỏa mãn đòi hỏi về sự cân bằng vận động của tổng thể và dưới tác động tương hỗ
trong tổng thể mà hình thành nên mầm mống ra đời (những) sự vật - hiện tượng mới.
Sự vật - hiện tượng mới xuất hiện và tồn tại được là nhờ có toàn thể và sau đó
là nhờ có vận động nội tại tương đối độc lập, có tính cá biệt, phân biệt được với
xung quanh, cái mà do chính toàn thể “góp sức” xây dựng nên (hay là do Thượng đế?).
Cần nói thêm
cho rõ là tất cả những khái niệm như hiện thực, hiện hữu, nội tại… chỉ mang ý
nghĩa tương đối, theo quan điểm của quan sát. Tùy thuộc vào quan sát mà một nội
tại được coi là một hiện thực (bị cô lập tương đối) và ngược lại. Đó cũng chính
là sự “bấp bênh” cố hữu, tất yếu của khái niệm và cũng có lẽ vì thế mà nhiều người
cho rằng thế giới này là không thể nhận thức được, là một phù phiếm đơn thuần tư
duy, hay như Phật Giáo; là một sự giả hợp. Dù sao đi nữa thì “trái đất vẫn
quay” (theo lời Galillê) và Tồn Tại cứ vẫn tồn tại (theo lời của những người bình
dân)!
Chúng ta nói năng
loanh quanh từ nãy tới giờ để đạt đến điều này (không biết có đạt không nữa?):
một sự vật - hiện tượng luôn là thành phần làm nên nội tại của một sự vật -
hiện tượng bao trùm nó, đồng thời bản thân nó cũng có một nội tại; không có nội
tại thì không có tồn tại, vận động nội tại là sự thể hiện của tồn tại trước
quan sát, được quan sát gọi là sự vật - hiện tượng, và hiện hữu trước quan sát.
Hiểu ngắn gọn thì: hiện hữu là sự trình hiện (phô diễn) vận động nội tại của một
(hay một số) sự vật - hiện tượng nào đó. Khi đi trong sa mạc, chúng ta thường
thấy ảo ảnh. Đó phải được cho là một hiện hữu. Nhưng là loại hiện hữu gì? Ảo ảnh
là một hiện hữu thực (không ảo!) và hữu hình, là sự trình hiện của những vận động
tác động lẫn nhau của hàng loạt các sự vật - hiện tượng (hay có thể là một sự
vật - hiện tượng, tùy theo qui mô của sự kiện cũng như qui ước của quan sát) mà
truy sát ra là vận động nội tại và truy cho đến cùng, chính là vận động vật chất.
Chỉ khi ta hình dung lại ảo ảnh đó trong não thì cái được hình dung ra ấy mới được
gọi là hiện hữu ảo, lúc này ảo ảnh được gọi là ảo ảnh ảo.
Sự vật - hiện tượng
được quan sát cảm nhận thì gọi là hiện hữu, vì thế mà không có hiện hữu nào mà
không có nguồn gốc từ vận động nội tại. Mặt khác, như chúng ta đã trình bày, một
trong những đặc tính cơ bản nhất của hiện hữu, nhờ đó mà có thể nhận biết được
hiện hữu, đó là không gian. Nói đặc tính cơ bản của một hiện hữu là vì ngoài ra
nó còn có những đặc tính không cơ bản, không phổ biến khác nữa. Chẳng hạn trong
hoàn cảnh điều kiện đặc thù của Trái Đất, tất cả mọi hiện hữu trong đó (kể cả
con người quan sát) đều có những nét đặc thù phù hợp, thích nghi với điều kiện ấy,
do đó mà con người quan sát còn cảm giác hiện hữu bởi mùi thơm thối, vị ngọt đắng,
sự nóng lạnh, tĩnh lặng và ồn ào… (nhưng rốt cuộc, tất cả những điều ấy cũng là
biểu hiện của vận động nội tại và thấp thóang không gian). Có lẽ là một võ đoán:
tuy chưa chắc đã là tất cả nhưng mọi chủ thể quan sát có tư duy không thể không
cảm nhận được cái mà trong khái niệm, con người gọi là không gian, khi đứng trước
một hiện thực?
Vật chất và vận
động vật chất làm nên tất cả. Một nội tại chắc chắn cũng chỉ là hệ thống vận động
đặc thù nào đó của vật chất. Để được gọi là nội tại, nội tại phải vận động như
một hành động thể hiện mình. Nói đến nội tại là nói đến vận động nội tại. Một nội
tại không vận động là điều vô nghĩa (nói theo nghĩa tuyệt đối của khái niệm này!).
Như vậy, thông
qua hiện hữu, vận động nội tại bộc lộ ra như một đặc tính của hiện hữu, như một
hình thức của hiện hữu mà chúng ta gắn nhãn mác, đặt tên cho nó là không gian.
Quan sát ở một
góc độ khác (chẳng hạn ở tầng nấc “sâu” hơn, có qui mô nhỏ hơn), có các sự vật
- hiện tượng nào đó hiện hữu, vận động, tương tác lẫn nhau và biến đổi. Vì đó là
một hiện thực đầy biến động nên quan sát sẽ cảm nhận được mối tương quan về mặt
lâu mau, về thứ tự sớm muộn của các biến đổi và trong tư duy hình thành nên khái
niệm thời gian.
Tiếp
tục thay đổi
góc độ quan sát kiểu như thế, ngày một sâu hơn, vào thế giới vô cùng
nhỏ, chúng
ta luôn luôn thấy cảnh tượng tương tự: nội tại của sự vật - hiện tượng
là một
hiện thực, cũng có khoảng rỗng rang và các sự vật - hiện tượng biến đổi,
chuyển
động trong đó, chỉ có điều càng về hướng vô cùng nhỏ, các sự vật - hiện
tượng càng
mất đi tính đa dạng của chúng (sự giống nhau càng nhiều), và khoảng rỗng
rang càng
ngày càng như “đặc sệt” lại. Rồi cái gì đến sẽ phải đến! Hiện thực cuối
cùng hiện
ra; chất chứa một mâu thuẫn “khủng khiếp”, đe dọa nghiêm trọng đến sự
tích về một Vũ Trụ đầy vật chất mà chúng ta đang say sưa kể, có vẻ như
rất hay ho mà cũng có
lý nữa. Các sự vật là những hạt vật chất, biến đổi chuyển động trong cái
rỗng
rang mà giờ đây cũng đặc chặt các hạt vật chất (chúng ta đã “muốn” thế
mà!)!
Để bảo vệ “thành
quả” của mình, nhất thiết chúng ta phải đạp bằng mâu thuẫn nêu trên, đồng thời
lý giải được cái hiện thực cuối cùng mà chúng ta đã “vô phúc” nhận thấy trong lúc
này, vẫn có đủ đặc tính của một hiện thực “thông thường”, vẫn gồm những hiện hữu
biến đổi, chuyển hóa lẫn nhau mà thôi; nghĩa là gồm các sự vật - hiện tượng và
môi trường (khoảng rỗng rang).
Chúng ta chẳng đủ
năng lực làm việc đó. Cứ giả sử rằng chúng ta có thể vượt qua mâu thuẫn “đáng
ghét” đó thì một vấn đề còn “khủng khiếp” hơn nữa (có lẽ khủng khiếp nhất từ đầu
cuộc hành trình đến giờ!) lại hiện ra: nội tại hạt vật chất là gì, trong đó có
vận động không và vận động đó có phải của vật chất không? Vì thế, để tránh một
chướng ngại không thể vượt qua nổi, chúng ta hãy giấu nhẹm tất cả những gì quan
sát thấy về hiện thực cuối cùng, đừng cho ai biết và quay trở lại ở một tầng nấc
nào đó với một hiện thực vẫn còn phô diễn rõ ràng, các sự vật - hiện tượng và
khoảng rỗng rang, để tiếp tục khảo sát, suy tư nhưng theo… hướng khác.
Từ
những góc độ
quan sát khác nhau theo chiều sâu (nhớ là trong đó không có lần quan sát
cuối cùng
vì chúng ta đã “ỉm” nó đi mất rồi), chúng ta đi đến nhận xét: các khái
niệm “hiện
thực”, “sự vật - hiện tượng”, “nội tại” đều mang tính tương đối, tùy
thuộc vào
cảm nhận chủ quan, sự qui ước của quan sát, cũng như tầng nấc qui mô của
thế giới
khách quan được quan sát. Cái là sự vật hiện tượng ở tầng qui mô lớn hơn
sẽ được
thấy như một hiện thực ở tầng có qui mô nhỏ hơn và ngược lại. Và ngược
lại…, ừ
nhỉ, chiều kích cực đại của hiện thực chính là Vũ Trụ, là nội tại của
Tồn Tại.
Nhưng chúng ta đã quan niệm rằng Tồn Tại mang tính nước đôi, vừa có
ngoài, vừa
có trong, là cả hai mà cũng không phải cả hai, do đó buộc phải thừa nhận
Vũ Trụ
vừa hữu hạn để có nội tại, vừa vô hạn để không có nội tại; vừa quan sát
được vừa
không quan sát được và như vậy Vũ Trụ là một hiện thực vừa thực vừa ảo.
Chúng
ta cũng đồng tình với quan niệm về Vũ Trụ của nhà vật lý học Stephen
Hawking: Vũ
Trụ hữu hạn nhưng vô biên (thực ra quan niệm này là phiến diện, chỉ đúng
trong một phạm vi giới hạn nhất định!). Tuy nhiên, chúng ta sẽ nói thêm
rằng: vì là hữu hạn
nên Vũ Trụ có vô cùng lớn và vô cùng nhỏ; vì là vô biên nên vượt qua vô
cùng lớn
sẽ là vô cùng nhỏ và ngược lại, vượt qua vô cùng nhỏ sẽ là vô cùng lớn.
Nếu
chui được vào hạt vật chất, chúng ta sẽ thấy một hiện thực của cái Vô
Cùng Lớn, nghĩa là sẽ lại trở về với quang cảnh thiên văn quen thuộc. Và
cả những điều tưởng
tượng này, chúng ta cũng phải giấu nhẹm nốt!
Quan sát ở bất
cứ “góc biển, phương trời” nào cũng đều chỉ thấy sự vật - hiện tượng với nội tại
cũng là những sự vật - hiện tượng và rốt cuộc chỉ là vật chất và vận động của vật
chất. Không có nội tại thì sự vật - hiện tượng không tồn tại. Nội tại vận động
và vận động theo một cách thức nào đó làm cho sự vật - hiện tượng phân biệt được
và luôn biến đổi phù hợp với biến đổi của môi trường chính nó. Đối với sự vật -
hiện tượng, biến đổi là tuyệt đối, sự ổn định chỉ là tương đối. Sự ổn định tương
đối ấy làm cho có ý niệm về không gian; quá trình biến đổi ấy làm cho quan sát
có ý niệm về thời gian. Một sự vật - hiện tượng được coi là xác định trong hiện
thực khi chúng ta biết được vị trí (tọa độ), hình dáng, kích thước… của nó, nghĩa
là phải biết những yếu tố làm nên các biểu hiện không gian của nó trong không
gian hiện thực; hay nói gọn lại là phải biết được không gian của nó trong hiện
thực. Bởi cái mà không gian của sự vật - hiện tượng “chứa đựng” (nội tại) luôn
vận động nên nó chỉ ổn định tạm thời, tương đối theo qui ước của quan sát và luôn
luôn biến đổi… Nhờ theo dõi đuợc những biến đổi của sự ổn định mà quan sát nhận
diện được thời gian. Ổn định và biến đổi chính là một biểu hiện về tính phân định
của Tồn Tại, về mối quan hệ giữa bất biến và thường biến, về sự không phân biệt
được và phân biệt được của một sự vật - hiện tượng với chính nó. Nói đến không
gian thì phải nói đến biến đổi, nói đến biến đổi thì phải nói đến thời gian; không
gian biến đổi là sự phân biệt với chính nó và có thể nói không gian biến đổi
theo thời gian. Để so sánh mức độ biến đổi hay khoảng tồn tại được cho là ổn định
(về không gian) của các sự vật hiện tượng, quan sát quy ước một “thước đo” thời
gian chung làm hình thành nên mối quan hệ giữa không gian và thời gian.
Mối quan hệ đó
có thể là khác nhau và cũng có thể là giống nhau giữa các sự vật - hiện tượng.
Những sự vật - hiện tượng có mối quan hệ không - thời gian giống nhau được cho
là giống nhau. Giống nhau không có nghĩa là không phân biệt được. Mọi sự vật -
hiện tượng luôn được phân biệt trong không gian và thời gian (quy ước) của hiện
thực. Hai sự vật dù có giống nhau đến mấy thì quan sát cũng phân biệt được, chí
ít thì chúng cũng khác biệt về tọa độ. Tồn tại tình hình đó là do nội tại, cái
không gian chứa đựng, quy định. Tại sao khoảng rỗng rang và các sự vật - hiện tượng
xét cho cùng thì đều “chứa đầy” một “thứ” là vật chất vận động mà sao chúng lại
khác nhau, có thể phân biệt đuợc với nhau? Vì Vũ Trụ, đâu đâu cũng đầy vật chất
như nhau nên sự khác nhau về lượng sẽ dẫn tới khác nhau về quy mô không gian. Nếu
chỉ thế thôi thì sự vật - hiện tượng làm sao mà hiện hữu được, do đó cũng không
thể phân biệt được. Phải đi đến suy đoán rằng chính vận động của vật chất là
nguyên nhân làm nên mọi sự khác biệt. Những nội tại khác nhau đều có cách thức
và mức độ vận động khác nhau tương đối, làm hình thành nên những cấu trúc đặc
thù, có tính riêng và được gọi là “chất” của nội tại. Nhớ lại rằng vật chất muốn
vận động được thì trước tiên phải phân biệt được với nhau, phải phân định thành
những lực lượng tương phản nhau, để chuyển hóa nhau, nghĩa là cần phải cho rằng
vật chất ở tầng sâu thẳm của nó luôn tồn tại ở ba trạng thái âm, dương và trung
tính (cái ở giữa). Có nhiều khả năng mối tương quan của ba trạng thái ấy trong
một nội tại làm hình thành nên mức độ và cách thức vận động của nội tại, tùy
thuộc vào môi trường, cái đã sinh thành, cưu mang nó. Nếu chúng ta gọi vận động
là bị biến đổi và cũng có khả năng làm biến đổi thì cũng có thể gọi khả năng làm
biến đổi là năng lượng và như vậy mức độ vận động cũng có thể được gọi là lượng
năng lượng; mức độ vận động của một nội tại có thể được xác định bởi một giá trị
gọi là mật độ năng lượng (năng lượng chia cho thể tích chứa nó).
Có thể đó là hướng
giải thích khả dĩ nhất về sự khác nhau giữa các sự vật - hiện tượng. Các sự vật
- hiện tượng khác nhau là khác nhau về “lượng” và “chất”. Trong một hiện thực,
cái khoảng không gian rỗng rang, suy ra từ sự giải thích trên có thể có mức năng
lượng thấp nhất; thậm chí cho là bằng không nhưng vật chất vẫn luôn đầy và vẫn
vận động. Vận động nội tại của khoảng rỗng rang ở mức độ thuần khiết hoàn toàn
của nó (không xuất hiện những trạng thái tương phản làm nên năng lượng), là vận
động tự thân, phi năng lượng; vận động theo sự quy định chặt chẽ của mối liên hệ
phụ thuộc lẫn nhau, là tiền đề và kết quả của nhau của toàn thể các hạt vật chất
trung tính có trong đó cũng như trong Vũ Trụ. Để phân biệt hạt vật chất trung tính
với các hạt tương phản (trạng thái tương phản của chính nó), chúng ta tạm gọi (ở đây thôi!), hạt vật
chất trung tính là tiền vật chất (khái niệm của các nhà vật lý hiện đại trong công
cuộc tìm kiếm căn nguyên của Vũ Trụ).
Mối quan hệ giữa
không gian và thời gian của sự vật hiện tượng chính là sự bộc lộ sự biến đổi về
chất và lượng; về cách thức và mức độ vận động nội tại của nó. Cách thức và mức
độ vận động nội tại không phải cái gì khác cả, cũng là mối quan hệ giữa không
gian và thời gian bên trong nội tại. Sự biến đổi không gian nội tại theo thời
gian bên trong, bộc lộ ra thành sự biến đổi không gian theo thời gian bên ngoài
và làm xuất hiện khái niệm năng lượng.
Đường nào thì cũng
đến La Mã! Và La Mã đã hiện ra: đặc trưng của vật chất là không gian, đặc trưng
của vận động là thời gian, một cách hình thức và nôm na, không gian biến đổi
theo thời gian là vật chất vận động, mức độ vận động (trước quan sát và nhận thức!) của vật chất là năng lượng,
năng lượng là động lực của quy trình nhân - quả, của phát triển và suy tàn, của
tạo dựng và phá hủy, là linh hồn của tất cả các sự vật - hiện tượng.
Không gian mở
ra một hiện thực, hiện thực là cái nôi của Nhân - Quả, và thời gian chính là cơ
hội cho Nhân - Quả được dàn trải mà nên hiện hữu. Hiện thực là vườn hoa hiện hữu
hồn nhiên vui sống và rực rỡ hiến dâng!
***
Vấn đề không
gian và thời gian coi như đã được giải quyết xong. Dù có thể còn hấp tấp trong
nhận định, thô nhám và rườm rà, lẫn lộn về mặt ngôn từ, nhưng chúng ta coi như đã
hoàn thành nhiệm vụ vì đã “sắm sửa” cho mình một bộ cánh phù hợp theo sở thích.
Phải nói rằng chặng đường vừa qua là chặng đường đầy trắc trở, làm chúng ta mệt
nhoài. Nhưng chúng ta thấy rất vui vì đã vượt qua được một cửa ải mà không phải
ai muốn cũng có thể vượt qua cho dù có cánh đi chăng nữa. Đó là cửa ải luôn bị
che khuất, ngụy trang hết sức kín đáo. Sự tình cờ đã giúp chúng ta tìm ra được
nó, vượt qua nó một cách “oai hùng” hơn bao giờ hết!!!
Nhận thức về không
gian và thời gian của chúng ta là phù hợp với riêng chúng ta, dù ắp đầy hoang tưởng, và nếu có trở
nên hoang đường thì đó lại chính là điều chúng ta muốn. Chúng ta cứ tự hào là
những người đầu tiên bíết lang thang đến đâu, để tìm và nhặt được những viên bích ngọc
của quá khứ và tự tưởng thưởng cho mình một câu nói rất hay không biết của ai đó
nhưng vẫn còn tạc ghi rất sâu trong tiềm thức: “Không có những chiến công lớn
lao cho những tâm hồn phẳng lặng!”.
Giờ đây, chúng
ta đang đứng trước một quang cảnh trong sáng và rực rỡ, hứa hẹn bao điều kì thú
nữa của Tự Nhiên Tồn Tại. Nhưng cũng không nên vội làm gì vì ông bà nói “dục tốc
bất đạt”. Hãy nghỉ ngơi cái đã! Và trong khi nghỉ ngơi chúng ta đọc lại một đoạn
đối thoại rất thú vị và sâu sắc giữa nhà vật lý Trịnh Xuân Thuận và nhà sư Mathiêu
Ricard trong “Cái vô hạn trong lòng bàn tay” (NXB Trẻ, 2005):
“Trịnh Xuân
Thuận: Gaston Bachelard từng nói: “Suy ngẫm về thời gian là nhiệm vụ hàng đầu của
mọi khoa học siêu hình”. Hẳn thời gian không phải là một khái niệm dễ nắm bắt,
như Augustin từng nhận xét vào thế kỉ IV: “Thời gian là gì? Nếu không ai hỏi ta
điều đó thì ta biết nó là gì. Nhưng nếu có người hỏi ta và ta cố giải thích thì
lúc đó ta sẽ không biết nó là gì nữa”. Thời gian đóng vai trò quan trọng không
chỉ trong siêu hình học mà cả trong vật lý. Trong quá trình nghiên cứu tự nhiên,
các nhà vật lý đã liên tục vấp phải vấn đề thời gian. Điều này thoạt nhiên có vẻ
nghịch lý, vì thời gian đo sự thoáng qua trong khi các nhà vật lý lại đi tìm các
quy luật, nghĩa là các mối quan hệ bất biến, không thay đổi. Tuy nhiên khái niệm
thời gian vẫn liên tục xuất hiện trong vật lý học. Galille là người đầu tiên vào
thế kỉ XVI, đã đưa thời gian vào như một chiều (hay thứ nguyên) vật lý cơ bản
nhằm sắp xếp và liên hệ về mặt toán học các phép chuyển động của các vật thể.
Nhưng chính Newton
với các định luật cơ học của mình vào thế kỉ XVII mới là người đưa ra định nghĩa
rõ ràng về thời gian. Ông xác định chuyển động của các vật trong không gian bằng
cách chỉ ra chính xác vị trí và vận tốc của chúng ở những thời điểm nối tiếp
nhau (…).
Năm 1905, khái
niệm thời gian tuyệt đối này đã bị Einstein lật đổ bằng việc cho công bố thuyết
tương đối hẹp. Với Einstien, thời gian mất đi tính bất biến và phổ quát mà Newton đã gán cho nó. Thời
gian không còn dửng dưng với Vũ Trụ trong đó nó được coi là trôi liên tục mà trở
nên co giãn khi nó tỏ ra phụ thuộc vào chuyển động của người quan sát. Nếu ta
chuyển động càng nhanh thì thời gian càng chậm lại (…).
Một thay đổi lớn
khác: thời gian và không gian không tồn tại tách biệt nhau nữa. Einstien cho rằng
không gian và thời gian là một cặp thống nhất. Không gian cũng trở nên co giãn.
Các hành trang của không gian và thời gian luôn bổ sung cho nhau. Khi thời gian
giãn ra và chậm lại, thì không gian bị co lại (…). Những biến dạng liên quan với
không gian và thời gian có thể được coi như là sự chuyển hóa của không gian thành
thời gian và ngược lại. Không gian bị co lại biến thành một thời gian kéo dài
ra. Từ đây Vũ Trụ có bốn chiều. Để xác định một vật thể trong vũ trụ cần phải
cho không những ba tọa độ không gian chỉ vị trí của nó mà còn cần phải cho cả
thời gian đo được ở vị trí này.
Thời gian bị chậm
lại không chỉ do vận tốc mà còn do cả lực hấp dẫn. Đây là điều Einstein đã phát
biểu năm 1915 trong thuyết tương đối. Ở lân cận lỗ đen có lực hấp dẫn cực lớn, đống
hồ của nhà du hành vũ trụ sẽ chạy chậm lại so với đồng hồ của một người quan sát
trên mặt đất. Sự chậm lại của thời gian không phải là kết quả của trí tưởng tượng.
Nó đã được quan sát rõ nhất trong trường hợp các hạt được phóng với vận tốc cực
lớn trong các máy gia tốc: các hạt này sống lâu hơn (trước khi bị phân rã) so với
khi chúng ở trạng thái đứng yên, và điều này luôn theo đúng tỷ lệ mà Einstein đã
tiên đoán:
Tính co giãn của
thời gian đã dẫn tới một hệ quả rất cơ bản: thời gian mất đi tính phổ quát của
nó, nó không còn là như nhau đối với tất cả mọi người quan sát. Hiện tại của tôi
có thể là quá khứ của ai đó khác và là tương lai của người thứ ba, nếu cả hai
người này đều chuyển động so với tôi. Vì khái niệm “đồng thời” không còn ý nghĩa,
nên từ “bây giờ” trở nên mơ hồ, không xác định. Và nếu đối với một người nào đó
khác nữa tương lai đã tồn tại và quá khứ vẫn còn đang hiện diện, thì tất cả các
thời điểm đều có giá trị như nhau. Do đó không còn thời điểm nào là ưu tiên cả.
Theo Einstein, sự trôi của thời gian chỉ là ảo giác. Như để làm dịu đi nỗi buồn
của mình, ông đã bộc lộ quan điểm này trong một lá thư viết năm 1959 sau cái chết
của người bạn Michele Besso: “Đối với chúng tôi, những nhà vật lý xác tín, sự
phân biệt giữa quá khứ, hiện tại và tương lai chỉ là một ảo giác; ngay cả khi sự
phân biệt này khó mà lay chuyển được”. Theo các nhà vật lý hiện đại thì thời
gian không trôi: nó đơn giản chỉ là hiện hữu đó, bất động, như một đường thẳng
kéo dài đến vô tận ở cả hai chiều.
Mathiêu: Theo cách
phân tích kinh điển của Phật Giáo, thời gian vật lý và tuyệt đối chỉ là một khái
niệm. Nó không tồn tại tự thân. Sự trôi của thời gian là không thể nắm bắt được
ở thời điểm hiện tại, thời điểm chưa trôi qua mà cũng không có độ dày cần thiết
đề có đầu có cuối. Đối với hiện tại này, quá khứ đã chết và tương lai còn chưa
sinh ra. Vậy thì làm sao hiện tại có thể tồn tại lơ lửng giữa cái không còn nữa
và cái còn chưa sinh ra? Thời gian thuộc chân lý tương đối của thế giới các hiện
tượng, thuộc lĩnh vực của trải nghiệm và chỉ là một khái niệm gắn liền với sự
biến đổi được cảm nhận bởi người quan sát.
Thời gian vật lý
không có tồn tại độc lập, bởi vì người ta không thể nhận thức được một thời
gian tách rời khỏi những thời điểm tạo nên nó. Không thể nhận dạng được nó lúc
bắt đầu, lúc đang diễn ra hay lúc kết thúc của một giai đoạn nhất định. Nếu người
ta định nghĩa một khoảng thời gian như một tổng thể được cấu thành từ khởi đầu,
giữa và kết thúc của nó, thì rõ ràng là “tổng thể” này không hề tồn tại trong bất
kì bộ phận nào trong ba bộ phận nói trên. Mặt khác, khoảng thời gian này cũng
không tồn tại bên ngoài sự khởi đầu, giữa và kết thúc của nó, và do vậy bản thân
khái niệm khoảng thời gian cũng thuần túy mang tính quy ước. Thời gian cũng như
không gian, chỉ tồn tại đối với kinh nghiệm của chúng ta và đối với các hệ quy
chiếu cụ thể. Tóm lại, thời gian là một phương thức tổng quát các hiện tượng.
Khi không có các hiện tượng này, nó không hề tồn tại.
Trịnh Xuân
Thuận: cần phải phân biệt thời gian chủ quan hay còn gọi là thời gian tâm lý với
thời gian vật lý vốn được coi là khách quan, luôn trôi đều đặn và không phụ thuộc
vào ý thức của chúng ta. Thời gian vật lý là thời gian của các loại đồng hồ. Người
ta đo nó bằng một chuyển động đều đặn: như sự dao động của một nguyên tử hay sự
chuyển động của trái đất quanh mình nó. Chính vì thế, nói về thời gian (hay không
gian) trước khi Vũ Trụ ra đời là vô nghĩa, bởi vì không có bất kì chuyển động nào
có thể đo được. Trong lý thuyết Big Bang, thời gian và không gian được sinh ra đồng
thời với Vũ Trụ. Chính Augustin cũng đã từng đưa ra ý tưởng cho rằng thời gian xuất hiện cùng với thế giới.
Ông cho rằng ý tưởng về một vị Chúa phải chờ một thời gian vô hạn trước khi quyết
định tạo ra thế giới là điều nực cười (…)
Ngược lại, thời
gian trải nghiệm tức là thời gian mà chúng ta cảm thấy bên trong chúng ta, là
chủ quan và không trôi một cách đều đặn. Nó rất co giãn (…). Mặt khác, tất cả
chúng ta đều nhận thấy rằng càng về già chúng ta cảm thấy thời gian trôi càng
nhanh. Thời gian trôi nhanh cùng với tuổi tác đã được kiểm chứng bằng nhiều
nghiên cứu đối với sự sinh trưởng của cây cối và động vật: tuổi càng cao, sự kéo
dài “sinh lý” càng ngắn.
Sự tương phản
giữa thời gian chủ quan và thời gian vật lý thường xuyên hiện diện trong lịch sử
tư tưởng. Theo các nhà triết học trước Socrate thì thời gian được xác định qua
chuyển động, như thời gian vật lý. Thật vậy, Héraclite từng nói rằng : “thời
gian là một đứa trẻ chơi trò cá ngựa” (có nghĩa là thời gian trôi theo nhịp dịch
chuyển của các con ngựa trên bàn cá ngựa). Còn theo Aristote, thời gian là “con
số của chuyển động”, nhưng ông cũng đã tự hỏi: “Vấn đề rắc rối cần phải biết là
nếu như không có linh hồn, thì thời gian có còn tồn tại không?”. Vào thế kỉ IV,
Agustin đã bác bỏ những lập luận của Aristote: “Thời gian không phải là chuyển động
của một vật thể” và khẳng định chiều hiện sinh (hay chiều tâm lý) của thời
gian: thời gian chỉ trôi trong linh hồn, vì rằng đối tượng của chờ đợi (tương
lai) trở thành đối tượng của chú ý (hiện tại) và đối tượng này lại biến thành đối
tượng của ký ức (quá khứ). Triết gia người Đức, Husserl, thế kỉ XX cũng đã tán đồng
quan điểm này.
Mathiêu: Kant cũng
từng nói rằng các khái niệm về không gian và thời gian xuất hiện từ các mối
quan hệ của chúng ta với tự nhiên, chứ không phải là đặc tính riêng của bản thân
tự nhiên: “Thời gian chỉ là một điều kiện chủ quan của tri giác chúng ta, và nó
sẽ chẳng là gì khi nằm ngoài chủ thể”. Các nhà triết học Phật Giáo cũng đưa ra
một ý tưởng tương đương, họ khẳng định rằng thời gian không có hiện thực tối hậu
và không có bất kỳ tồn tại nào bên ngoài các hiện tượng và bên ngoài những người
quan sát chúng: Hình dung thời gian như “mũi tên”, chẳng qua chỉ là phản ánh sự
gắn bó của chúng ta với hiện thực của vạn vật mà thôi. (…)
Trịnh Xuân
Thuận: (…) Chúng ta gán cho thời gian một chiều không gian, và chính cách biểu
diễn sự chuyển động thời gian trong không gian như thế đã tạo cho chúng ta cảm
giác về quá khứ, hiện tại và tương lai. (…)
Tuy nhiên, ý niệm
này về sự trôi của thời gian đối với ý thức bất động của chúng ta không phù hợp
với ngôn ngữ của vật lý hiện đại. Nếu thời gian chuyển động thì vận tốc của nó
là bao nhiêu? Một câu hỏi hiển nhiên là vô lý. Chúng ta hãy thay dòng thời gian
tâm lý bằng sự ỳ tĩnh lặng của thời gian vật lý, thì câu hỏi trên không còn được
đặt ra nữa. Tại sao lại có sự khác biệt này giữa hai loại thời gian?.
Mathiêu:
Điều đó
chỉ là một bí ẩn nếu người ta cho rằng chúng ta hoàn toàn tách biệt khỏi
thế giới.
Khái niệm thời gian vật lý lẽ nào không đơn giản chỉ là sự trừu tượng
hóa của
thời gian tâm lý sinh ra từ sự phân biệt do chúng ta tạo nên giữa cái đã
hoàn
thành và cái sẽ xảy ra? Các nhà vật lý chẳng phải đã đảo ngược thứ tự ưu
tiên khi muốn giải thích cái mà chúng ta đang sống bằng vật lý và khi
vật hóa quan
niệm ảo tưởng của chúng ta về thời gian để biến nó thành một thực tại đó
sao?
Trịnh Xuân
Thuận: (…)
Ngoài ra còn vấn
đề về hướng (người ta còn gọi là mũi tên) của thời gian. Thời gian tâm lý luôn đi
theo một hướng duy nhất và đưa chúng ta từ sinh đến tử. Giống như một mũi tên
luôn bay về phía trước sau khi rời khỏi dây cung, thời gian tâm lý không bao giờ
quay ngược trở lại. Chính tính không thể đảo ngược này của thời gian tâm lý là
thủ phạm gây ra nỗi ám ảnh của chúng ta về cái chết. Tất cả mọi người đều biết
rằng mình sẽ đi từ cái nôi đến nấm mồ. Triết gia người Pháp, Henti Bergson, không
chấp nhận quan niệm của Einstein theo đó thời gian chỉ là ảo tưởng, không thực
và không kéo dài. Theo ông, thời gian phải có độ “dày”. Chỉ có độ dày này của
thời gian mới tương hợp với sự sống nội tại. Chỉ có sự kéo dài của thời gian mới
cho phép tự do và sáng tạo, tiến bộ và mới mẻ, phát minh và thăng hoa trí tuệ.
Triết gia người Đức, Edumnd Husserl, cũng đã nói về một “thời gian không thể nén
được” và ý tưởng này đã được sinh học thần kinh hiện đại khẳng định. Phải chăng
thời gian vật lý của Einstein là quá ư tất định và không mang tính con nguời? Nếu
tất cả những gì đã xảy ra đều đã được quy định từ trước thì tự do ý chí và hy vọng
của con người sẽ ra sao?
Mathiêu: Ngay ý
tưởng cho rằng: “mọi thứ sẽ xảy ra đều đã được quyết định” là phi logic. Như chúng
ta đã thấy, khi xem xét khái niệm về đấng sáng thế, nếu mọi chuyện đều đã được
quyết định từ trước thì tất cả các nguyên nhân và điều kiện của tương lai đều đã
phải hiện diện. Trong trường hợp này, không có gì có thể ngăn cản chúng xuất hiện
đồng thời. Còn nếu chúng chưa xuất hiện đầy đủ thì vẫn còn cái gì đó để viết.
(…)
Trịnh Xuân
Thuận: Khái niệm này về thời gian liệu có giống với quan niệm của Einstein về một
thời gian không trôi không? Trong thuyết tương đối, thời gian vật lý hiện hữu đó
bất động và tĩnh. Không - thời gian cũng hiện hữu đó trong tính tổng thể của nó,
chứa tất cả các sự kiện từ khi vũ trụ ra đời đến khi kết thúc.
Mathiêu: Không,
thời gian không hiện hữu đó, bất động và tĩnh bởi vì nó không có thực tại! Không,
thời gian của Einstein không thể được coi là tuyệt đối. Lại một lần nữa, đó cũng
chỉ là một qui ước. Bản chất tuyệt đối của thời gian là sự trống rỗng của nó, là
sự không tồn tại độc lập của nó. Người ta gọi đó là “mặt thứ tư của thời gian,
vượt lên trên ba mặt khác”, (là quá khứ, hiện tại và tương lai). Thời gian thứ
tư này đôi khi bị đồng hóa với thời điểm hiện tại, thời điểm mà về bản chất vốn
vượt ra ngoài khái niệm độ kéo dài. Trên phương diện thiền định về mặt nội tại
mà nói, thì dừng lâu trong “sự tươi mới của thời điểm hiện tại” giúp ta nhận ra
bản chất trống rỗng và sáng tỏ của tinh thần và sự trong suốt của thế giới các
hiện tượng. Bản chất này là bất biến, không phải theo nghĩa nó là một dạng thực
thể vĩnh hằng, mà bởi vì nó là một kiểu tồn tại đích thực của tinh thần và các
hiện tượng, vượt ra ngoài các khái niệm đi và đến, tồn tại và không tồn tại, một
và vô số, bắt đầu và kết thúc.
Trịnh Xuân
Thuận: Người ta lại tìm thấy tiếng vọng của khái niệm này trong lời của Boèce:
“Cái bây giờ trôi qua tạo nên thời gian, cái bây giờ đang dừng lại tạo nên vĩnh
cửu”
Theo Kant, thời
gian không thể tách rời khỏi sự vận động của tư duy tri giác nó. Ông cho rằng
thời gian cho phép sự kế tiếp của các sự kiện, trong khi không gian làm cho tính
đồng thời của chúng trở nên có thể. Nhưng cũng giống như Newton, ông coi thời gian và không gian tách
biệt nhau. Điều này không tương hợp với sự liên kết lẫn nhau giữa không gian và
thời gian mà Einstein đã phát hiện ra. Tôi nghĩ hình như Phật Giáo cũng coi thời
gian và không gian như các thực thể tách biệt?
Mathiêu: Không đúng,
bởi vì Phật Giáo cũng bác bỏ quan niệm về không gian như một thực thể có thật.
Không gian cũng như thời gian đều có liên quan với trải nghiệm của chúng ta về
chúng trong các khuôn khổ qui chiếu vật lý cụ thể. Nếu ta xét một vùng không
gian nào đó, bất kể to nhỏ thế nào thì không gian có gì khác hơn là một khái niệm.
Không gian không thể bị giản lược thành một trong các bộ phận của nó. Nếu thực
thể “không gian" tương ứng với tổng thể các bộ phận của nó (nếu là quảng tính thì
nó phải có các phần hoặc các vùng) thì để xâm nhập vào thực thể này, cần phải xâm
nhập vào tất cả các bộ phận của nó một cách đồng thời, mà điều này là không thể.
Như vậy, thực thể “không gian” cũng chỉ là một cái nhãn tinh thần, không có sự
tồn tại độc lập.”
Đoạn đối thoại
trên cho thấy Trịnh Xuân Thuận và Mathiêu đều là những nhà tư tưởng về tự nhiên
uyên thâm, đã có nhiều ý kiến sắc sảo về không gian và thời gian. Tuy nhiên, cả
hai ông vẫn chưa “vượt thoát” được những mâu thuẫn nội tại còn ẩn chứa tiềm tàng
trong quan niệm của cả vật lý học và phật học về chúng. Mathiêu đã không thể biết rằng, không phải
không gian không có sự tồn tại độc lập mà ngược lại, sự tồn tại của nó là một sự
thực tuyệt đối không thể bàn cãi và chính vật chất, xét cho cùng, mới không có
sự tồn tại độc lập. Vật chất và vận động vật chất thực ra là sự thể hiện hùng hồn trước
quan sát - nhận thức sự tồn tại đích thực của không gian và sự chuyển hóa không gian. Hơn
nữa, một đặc trưng cơ bản của chuyển hóa không gian chính là thời gian.
Điều
dễ hiểu và giản dị làm sao (?), nhưng phải đến hàng bao nhiêu ngàn năm
sau, có lẽ đến tận bây giờ chúng ta mới bắt đầu...thấm thía về chúng. Và
nếu nhận định trên là chân lý thì tất cả những hiện tượng như "xuyên
không gian", "vượt thời gian" về quá khứ hay đến tương lai, cùng với
những quan niệm như không - thời gian cong, không - thời gian co giãn...
chỉ là ảo tưởng, không bao giờ là sự thật!
_____________________________
(Hết chương V)
_____________________________
Nhận xét
Đăng nhận xét