Thứ Hai, 16 tháng 5, 2016
Nhạc sĩ Châu Kỳ
Châu Kỳ
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Châu Kỳ | |
---|---|
Thông tin nghệ sĩ | |
Tên khai sinh | Châu Kỳ |
Sinh | 5 tháng 11, 1923 Huế, Đông Dương thuộc Pháp |
Mất | 6 tháng 1, 2008 (84 tuổi) Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam |
Nghề nghiệp | Nhạc sĩ |
Thể loại | Nhạc vàng |
Ca khúc tiêu biểu | "Con đường xưa em đi", "Đón xuân này nhớ xuân xưa", "Đừng nói xa nhau", "Được tin em lấy chồng", "Giọt lệ đài trang", "Túy ca" |
Tiểu sử
Châu Kỳ sinh ngày 5 tháng 11 năm 1923 tại Dưỡng Mong, Thừa Thiên. Cha ông là Châu Huy Hà, một nghệ nhân ca Huế; chị là Châu Thị Minh, được coi là một trong Ngũ nữ minh tinh (miền Nam có Phùng Há, Năm Phỉ; miền Bắc có Ái Liên, Bích Hợp và miền Trung có Châu Thị Minh).Thuở nhỏ, Châu Kỳ học ở Trường Tiểu học Dưỡng Mong, sau ông lên Huế học ở trường Lycée Khải Định. Ở đây, Châu Kỳ gặp được sư huynh Petrus Thiều, một tu sĩ vừa giỏi về nhạc lý và sáng tác vừa sử dụng thành thạo nhiều loại nhạc cụ phương Tây.
Sẵn dòng máu văn nghệ trong người, lại được thầy giỏi hướng dẫn, nên việc học nhạc và học hát của Châu Kỳ rất mau tiến bộ. Lúc mới biết hát, ông thường bắt chước ngân nga các bài hát bằng tiếng Pháp thịnh hành vào thời đó như là "J'ai deux amours, Tant qu'il y aura des etoiles" mà nam danh ca người Pháp Tino Rossi thường trình bày, nên ông được bạn bè gọi "là Deuxième Tino Rossi".
Đến khi chị Châu Thị Minh lập đoàn ca kịch Huế mang tên Hồng Thu, ông đi hát trong đoàn của chị. Vừa được hát, lại vừa có tiền giúp cha mẹ, ông bỏ học luôn để đi theo nghiệp cầm ca.
Khoảng năm 1942, Đoàn ca kịch Hồng Thu lưu diễn sang Lào: Savanakhet rồi Thakhet. Ở Thakhet, Châu Kỳ bị mật thám Pháp bắt khi đang diễn vở kịch Hồn lao động (cùng với Trần Văn Lang, Châu Thành và nữ nghệ sĩ Mộng Điệp) và đưa lên Ba Vì (nay thuộc Hà Nội) giam giữ.
Năm 1943, Châu Kỳ được trả tự do, nhưng khi về tới Huế thì mới hay mẹ đã bị chết đuối trong một cơn lũ. Buồn rầu, Châu Kỳ đã viết ca khúc đầu tay Trở về và đã được giới yêu tân nhạc rất chú ý.
Sau đó, một số tác phẩm mang âm hưởng cổ nhạc miền Trung của ông ra đời, như: "Khúc ly ca", "Từ giã kinh thành", "Khi ánh trăng vàng lên khơi",...gặt hái được nhiều thành công. Ông tiếp tục sáng tác cho đến hết đời.
Nhạc của ông đã được nhiều thế hệ ca sĩ từ trước 1975 đến nay thể hiện ở Việt Nam và hải ngoại.
Lúc 1 giờ 10 phút rạng sáng ngày 6 tháng 1 năm 2008 tại Thủ Đức (Thành phố Hồ Chí Minh), nhạc sĩ Châu Kỳ đã qua đời ở tuổi 85 sau gần hai tháng nằm liệt trên giường vì bệnh. Ông được đưa về quê hương Huế và an táng vào ngày 11 tháng 1 năm 2008 tại đồi Nam Giao.
Cuộc sống gia đình
Người vợ đầu của nhạc sĩ Châu Kỳ là nữ ca sĩ gốc Hải Phòng - Mộc Lan, người sau nay đã bỏ Châu Kỳ để đến với một người đàn ông quyền quý khác vốn cũng là chỗ quen biết của ông. Người vợ sau của ông là bà Kha Thị Đàng, chị em con chú con bác với Kha Vạng Cân. Bà gắn bó với ông tới cuối đời và hai người có với nhau bốn người con.Tác phẩm
Tên ca khúc | Năm sáng tác | Đồng sáng tác | Lời/Thơ | |
---|---|---|---|---|
Áo trắng màu vu quy | ||||
Âm vang | thơ Đinh Thụy Uyên | |||
Bắc cầu tương tư | thơ Hà Nguyễn | |||
Bến nước Dương Đông[1] | 1955 | |||
Bỏ phố lên rừng | thơ Trương Minh Dũng | |||
Cành hoa mai | ||||
Cánh nhạn hồi âm | 1965 | |||
Chiến công rừng Sác | ||||
Chiều trên đồi thông | thơ Hoài Hương Tử | |||
Chuỗi cười vô tận | ||||
Chờ anh | ||||
Chuyện người ngậm ngãi tìm trầm | lời Hồ Đình Phương | |||
Cố đô yêu dấu[2] | 1968 | |||
Con đường xưa em đi | 1968 | lời Hồ Đình Phương | ||
Cuối đường kỷ niệm | ||||
Dưới chân thánh giá | 1971 | lời Hồ Đình Phương | ||
Đàn tôi đã vỡ | ||||
Đàn không tiếng hát | 1967 | |||
Đi giữa quê hương | ||||
Đón xuân này nhớ xuân xưa | 1968 | |||
Đoàn người gánh cỏ | lời Hồ Đình Phương | |||
Đừng nói xa nhau | lời Hồ Đình Phương | |||
Được tin em lấy chồng | 1961 | |||
Được tin em lấy chồng 2 | ||||
Đường về nhà em | 1966 | |||
Em sắp về chưa | 1967 | thơ Tô Kiều Ngân | ||
Giòng Bến Hải | lời Hồ Đình Phương | |||
Giòng thời gian | ||||
Giọt đàn theo giọt lệ | thơ Trương Minh Dũng | |||
Giọt lệ đài trang | 1970 | |||
Giữa lòng đất mẹ | 1966 | |||
Gọi tên em | ||||
Gửi người em nhỏ | ||||
Hoài thu | lời Hồ Đình Phương | |||
Hồi âm (Sao chưa thấy hồi âm 2) | 1965 | thơ Trương Minh Dũng | ||
Hương Giang còn tôi chờ | ||||
Em bé mồ côi | lời Hồ Đình Phương | |||
Em đi về đâu | thơ Trương Minh Dũng | |||
Em không buồn nữa chị ơi | 1966 | thơ Nguyễn Bính | ||
Khi bóng trăng vàng lên khơi | lời Hồ Đình Phương | |||
Khúc ly ca | ||||
Khuya nay anh đi rồi | 1965 | lời Hồ Đình Phương | ||
Lá vàng khóc lá xanh rơi | ||||
Lòng mẹ | ||||
Lời kỹ nữ | thơ Xuân Diệu | |||
Ly hương hoài khúc | lời Hồ Đình Phương | |||
Mái tóc thề | 1967 | |||
Miền Trung thương nhớ | ||||
Mộng đào nguyên | 1965 | |||
Một chiều mưa | lời Hồ Đình Phương | |||
Mùa thu còn đó[3] | lời Duy Khánh | |||
Mưa trên Quảng Đức | thơ Trương Minh Dũng | |||
Nén hương yêu | 1964 | lời Duy Khánh | ||
Nếu mai này hoà bình | ||||
Ngày mai hôm nay đã tới | Huy Tài | |||
Người đi chưa về | thơ Trương Minh Dũng | |||
Người em văn khoa | thơ Hoài Hương Tử | |||
Người nhớ bài ca, ta nhớ người | thơ Trương Minh Dũng | |||
Nhạc sĩ trong sương chiều | ||||
Nhớ | thơ Tô Như | |||
Nhớ mong | ||||
Nhớ về xứ Thượng | ||||
Nhớ Trúc Giang | 1965 | Nguyễn Minh Chung | ||
Niềm thương của mẹ | Huy Tài | |||
Nợ trần | 1970 | |||
Nỗi lòng TTKH | ||||
Nửa vầng trăng | thơ Hà Nguyễn | |||
Nước mắt quê hương | lời Hồ Đình Phương | |||
Nụ cười trong mộng | 1966 | Huy Tài | ||
Phượng tìm hoàng | lời Đinh Hùng | |||
Rừng thay lá | ||||
Rừng thương biển nhớ | ||||
Sao chưa thấy hồi âm | 1965 | thơ Trương Minh Dũng | ||
Sầu đông | lời Hồ Đình Phương | |||
Thương người em phố nhỏ | ||||
Tiếng ca đó về đâu | thơ Nguyễn Tiến Thịnh | |||
Tiếng hát dân Chàm | lời Hồ Đình Phương | |||
Tiếng hát đồng xanh | lời Hồ Đình Phương | |||
Tiếng ru | ||||
Tìm mà không thấy | Hoàng Bảo | |||
Tìm nhau trong kỷ niệm | ||||
Tìm quên | ||||
Tình quê | lời Hồ Đình Phương | |||
Tình thơ ý nhạc | thơ Trương Minh Dũng | |||
Tôi chưa có mùa xuân | ||||
Tôi viết nhạc buồn | ||||
Tôi thấy mắt em cười | 1966 | |||
Trở về | ||||
Trôi vào xứ mộng | ||||
Từ giã kinh thành | 1954 | lời Hồ Đình Phương | ||
Túy ca | 1973 | thơ Trương Minh Dũng | ||
Vào mộng cùng em | thơ Tô Kiều Ngân | |||
Vẫn Huế ngày xưa | ||||
Về sông cũ | thơ Trương Minh Dũng | |||
Vui bước phong trần | lời Hồ Đình Phương | |||
Xin làm người tình cô đơn | lời Hồ Đình Phương | |||
Xin trời thôi mưa | 1966 | |||
Xông pha | ||||
Xuân đến con về | ||||
Xuân về người có vui |
- Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 04:49 ngày 22 tháng 1 năm 2016.
Chuyện tình Nhạc sĩ Châu Kỳ (Phần 1)
Nhạc sĩ Châu Kỳ và chuyện tình “Giọt lệ Đài Trang“
Đăng Bởi Một Thế Giới -
Trước khi trở thành nhạc sĩ chuyên nghiệp, Châu Kỳ là một trong những ca sĩ thuộc lớp đầu tiên của nền tân nhạc Việt Nam. Chàng là con bướm đa tình đã gieo rắc giọng hát tiếng đàn và cả những mối tình trên chặng đường lưu diễn (kể cả tận bên Lào).
Có cô tiểu thư vì chàng mà phải quyên sinh nhưng cũng có giai nhân đã cứa vào hồn chàng những vết thương rớm máu...
Nhạc sĩ Châu Kỳ thời trẻ - Ảnh: Tư liệu |
Người viết có được cái may mắn là chơi
rất thân với nhạc sĩ Châu Kỳ khi ông đã... gần 80 tuổi. Tình bạn vong
niên này kéo dài được khoảng 10 năm thì nhạc sĩ mất. Quen nhau bên những
ly bia ở Hội quán Văn nghệ (81 Trần Quốc Thảo, Q.3, TP.HCM, gọi tắt là
81 TQT), tôi thuộc rất nhiều những ca khúc của Châu Kỳ và thường hát cho
ông nghe (say mới dám hát). Ông ngồi im gật gù, đôi lúc “nhắc tuồng”.
Dạo ấy, nhà ông ở tuốt bên Tân Quy
Đông (Nhà Bè). Hằng ngày, ông đi xe đạp khoảng gần 20 km đến 81 TQT chỉ
để uống vài ly bia, nhìn mặt bạn bè, người quen cho đỡ nhớ rồi lại đạp
xa ngần ấy cây số về nhà. Có lẽ nhờ “hoạt động thể thao” này mà sức khỏe
của ông khá dẻo dai, 80 tuổi mà vẫn minh mẫn, tinh anh.
Ông cũng lập một “kỷ lục” ngồ ngộ: mất
18 chiếc xe đạp chỉ vì ham vui với bạn bè. Rồi bạn bè cũng gom góp mua
lại chiếc khác cho ông (rồi nhại câu hát Đón xuân này tôi nhớ xuân xưa
của ông để trêu ông: “Mất xe này ta sắm xe kia...”). Ít bữa sau... lại
mất!
Ông không thể “tự phá kỷ lục” của
chính mình khi nhà ông chuyển về phường Phước Bình (Q.9) xa đến 30km nên
phải giã từ chiếc xa đạp chuyển qua đi xem ôm đến 81 TQT (ông bao bia
cho tài xế xe ôm uống, nhưng phải ... “chừa tỉnh” để chở ông về)...
Châu Kỳ sinh ngày 05.11.1923 tại làng Dưỡng Mong (xã Phú Mỹ, huyện Phú Vang, Thừa Thiên – Huế).
Cha ông là Châu Huy Hà một nghệ nhân
cổ nhạc cung đình Huế. Chị ruột là Châu Thị Minh, được coi là nữ minh
tinh duy nhất của miền Trung (trong “Ngũ nữ minh tinh”. Miền Nam: Phùng
Há, Năm Phỉ. Miền Trung: Châu Thị Minh. Miền Bắc: Ái Liên, Bích Hợp).
Ở Lycée Khải Định, Châu Kỳ được học
nhạc với "sư huynh" Pière Thiều – giáo sư âm nhạc đầu tiên ở Huế. Vị này
còn dạy cho Châu Kỳ kỹ thuật hát.
Dạo đó hầu như chưa có nhạc Việt nên
Châu Kỳ thường được hát những bài do ca sĩ Tino Rossi (danh ca Pháp, hát
được 300 bài hát quốc tế) hát như J’ai deux amours, Tant qu’il aura
estoiles, Òu vous étiez, Mademmoiselle... đến nỗi bạn bè gọi ông là
“Deuxième Tino Rossi”. Khi bà chị Châu Thị Minh lập đoàn ca Huế hiệu
Hồng Thu, Châu Kỳ trở thành ca sĩ chính của đoàn hát này, “nghiệp cầm
ca” khoác lên đời ông từ đấy.
Năm 1942, đoàn Hồng Thu lưu diễn ở
Savannakhet rồi Thakhet (Lào). Trên bước đường lưu diễn, Châu Kỳ từng
“quan hệ tình cảm” với ít nhất 2 cô ca sĩ người Lào. Khi đang diễn vở
kịch Hồn lao động thì Châu Kỳ bị mật thám Pháp bắt, đem lên giam ở Ba
Vì.
Trại giam do một viên trung úy người
Pháp trông coi. Ông này có người vợ đầm lai rất đẹp tên là Anna. Nhờ có
biệt tài hát những bản nhạc Pháp đang rất thịnh hành thời đó nên Châu Kỳ
rất được lòng viên trung úy trưởng trại. Chính vị chỉ huy tốt bụng này
đã vận động để Châu Kỳ được ra khỏi tù. Ông còn xuất tiền túi mua vé tàu
và cho cô vợ Anna đi theo tiễn Châu Kỳ từ Ba Vì về ga Hàng Cỏ (Hà Nội)
để xuôi Nam.
Họ đã có một đêm ngủ lại khách sạn.
Người viết đánh bạo hỏi Châu Kỳ: “Thế có xảy ra chuyện gì... “trên mức
tình cảm” không?”. Châu Kỳ trả lời với đôi mắt xa xăm: “Người ta là ân
nhân của mình. Làm sao dám thất thố... Chỉ lúc tôi sắp lên tàu, Anna có
hôn nhẹ vào má tôi và nói “Tôi rất quý anh”. Cái hôn phớt đó, tôi nhớ
đến suốt đời...”.
Về đến Huế, Châu Kỳ bàng hoàng nghe
tin mẹ mình bị chết đuối trong một cơn lũ. Những buổi chiều bên dòng
Hương Giang ngổn ngang tâm sự, Châu Kỳ viết nhạc phẩm đầu tay Trở về
(1943): “Về đây nhìn mây nước bơ vơ. Về đây nhìn cây lá xác xơ. Về đây
tìm bóng chiều mơ. Mong tìm mái tranh chờ. Mong tìm thấy người xưa…”
Nhạc phẩm Trở về đã gây một tiếng vang trong giới tân nhạc lúc đó. Tuy
nó được viết ở cung Ré trưởng nhưng vẫn có nỗi buồn man mác, càng nghe
càng thấm thía…
Từ đó cho đến cuối đời, Châu Kỳ đã viết khoảng 200 nhạc phẩm. Về ca từ,
ông đã viết được những câu “xuất thần”, chẳng hạn để tả nét đẹp của cô
gái Huế ông chỉ cần 3 câu: “Buổi trưa em che nón lá, cá sông Hương liếc
nhìn ngẩn ngơ, lũ chim quên ngất ngây từ xa…” (Huế xưa).
Tuyệt vời! Đâu cần phải tả em e ấp đi
qua cầu Tràng Tiền, đâu cần phải tả mắt mũi miệng em ra sao… Một khi cá
còn phải bơi lên mà liếc, chim ở đằng xa còn… ngất, thì … thánh thật!
Nhạc sĩ Châu Kỳ và Chế Linh tại Sài Gòn - Ảnh tư liệu |
Tài hoa như thế nêu Châu Kỳ cũng luôn
là khách đa tình. Khi đoàn Hồng Thu vào Nha Trang lưu diễn, Châu Kỳ có
đến thăm bà dì ruột đang sống tại đây và định mệnh đã đưa đẩy để Châu Kỳ
gặp gỡ cô thiếu nữ Đoàn Thị Sum.
Năm ấy Sum mới 16 tuổi, là bạn bè với
đám con dì của Châu Kỳ. Đoàn Thị Sum là tiểu thư con nhà gia thế, nhưng
đôi tâm hồn thơ trẻ đã “hút” lấy nhau một cách cuồng si mặc cho gia đình
nàng ra sức cấm đoán vì đã hứa hôn với một gia đình “môn đăng hộ đối”.
Ngăn cấm không được, bà mẹ của Sum đã
tạo áp lực để “nhổ” đoàn hát Hồng Thu rời khỏi Nha Trang. Cô Sum có ý
định trốn nhà đi theo Châu Kỳ nhưng bị ông bố nhốt kỹ trong nhà. Quá bức
bối và phẫn uất, cô đã lấy trộm thuốc phiện của bố hòa với giấm thanh
uống. Bi kịch này xảy ra khi Châu Kỳ đang diễn ở Phan Rang.
Nghe tin cô Sum tự tử, Châu Kỳ cũng
quyết hủy mình theo nhưng bà chị Châu Thị Minh khóc lóc, khuyên giải nên
Châu Kỳ bỏ vào Sài Gòn (năm 1947) để tìm quên.Muời lăm năm sau, khi
Châu Kỳ đưa cô vợ người Sài Gòn mới là Kha Thị Đàng ra Nha Trang thăm bà
dì, họ đã đến đốt nhang trước mộ cô Đoàn Thị Sum.
Theo sự gợi ý của vợ, Châu Kỳ đã sáng tác bản nhạc Giọt lệ đài trang: “Ngày
xưa ai lá ngọc cành vàng. Ngày xưa ai quyền quý cao sang. Em chính em
ngày xưa đó, ước xây đời lên tột đỉnh nhân gian… Ngày xưa ai mến nhạc
yêu đàn. Ngày xưa ai nghệ sĩ lang thang. Tôi chính tôi ngày xưa đó, cũng
đèo bồng mơ người ngọc lầu quan…”.
Bài hát Giọt lệ đài trang qua giọng ca của Ngọc Huyền và Trường Vũ
Ngoài ca khúc Giọt lệ đài trang,
chuyến trở về Nha Trang dạo đó Châu Kỳ còn tưởng niệm hương hồn cô Đoàn
Thị Sum bằng ca khúc Nha Trang mà sau này bà Kha Thị Đàng sửa lại cái
tựa là Nha Trang hoài nhớ, nhưng bản nhạc này không mấy phổ biến.
Trích Chuyện tình nghệ sĩ - Hà Đình Nguyên (NXB Trẻ)Hải Phòng, Người Hải Phòng
Sài Gòn đón Châu Kỳ vào năm 1947, và cũng chính Sài Gòn là nơi định mệnh đã chọn để tạo nên một hiện tượng của làng ca nhạc thời đó với sự xuất hiện của cặp đôi uyên ương Châu Kỳ - Mộc Lan…
Chàng là ca sĩ – nhạc sĩ tài hoa, nàng
là con họa mi giọng ca vang khắp Bắc Trung Nam. Chính nàng đã cho chàng
nếm trải để biết thế nào là hạnh phúc và cũng chính nàng đã cứa vào tim
chàng những vết thương đớn đau tưởng chừng không bao giờ nguôi…
Với những người am hiểu và gắn bó với
nền tân nhạc Việt Nam, hẳn vẫn còn ghi nhớ một cách đậm nét về một thế
hệ nữ ca sĩ cách đây hơn 60 năm. Đó là những giọng ca: Mộc Lan, Tâm Vấn,
Châu Hà, Kim Tước… May mắn là cho đến giờ này tất cả họ vẫn đều còn
sống thọ, người viết đã may mắn được gặp gỡ một người trong số họ: danh
ca Mộc Lan.
Danh ca Mộc Lan |
Tiếng tăm của nữ danh ca một thời Mộc
Lan thì tôi đã từng nghe biết từ lâu qua những lời truyền tụng và sách
vở. Thời hoàng kim của bà đã cách đây hơn nửa thế kỷ nên một kẻ hậu bối
như tôi dù rất ao ước cũng khó lòng gặp được bởi bà đã “mai danh ẩn
tích” từ rất lâu… Thời may, qua sự giới thiệu của một nhà thơ, được biết
nhà văn Trần Áng Sơn chính là em ruột của bà. Tôi đánh bạo nhờ anh
hướng dẫn tới thăm bà, anh nhiệt tình nhận lời…
Một ngày cận tết Canh Dần (2010), anh
Trần Áng Sơn đưa tôi đi… Dù đã được anh Trần Ánh Sơn báo trước nhưng tôi
cũng không thể ngờ người đàn bà tài sắc một thời này, nay lại có hoàn
cảnh khó khăn như thế. Bà hiện sống – có thể nói là cô độc trong một căn
nhà rất nhỏ, chỉ chừng mười mấy mét vuông cuối con hẻm nhỏ trên đường
Lê Văn Sỹ (Q.3, TP.HCM).
Càng cô độc hơn khi bà phải nuôi nấng,
chăm lo cho người con gái trên 50 tuổi bị bệnh tâm thần. Mảnh lưng ong
ngà ngọc một thời nay đã còng xuống, trí nhớ đã có phần mai một nhưng vẻ
xuân sắc ngày ấy vẫn chưa phai nét trên khuôn mặt mà mái tóc đã gội
tuyết sương…
Hãy nghe nhà văn Trần Áng Sơn tả lại
nhan sắc của chị mình… ngày xưa: “Ngày các anh chị rời xa gia đình, tôi
còn quá nhỏ nên không hình dung được họ ra sao, nhưng qua lời mẹ tôi kể
lại thì các anh chị tôi đều rất đẹp: anh Long cao lớn, đẹp như thầy
chúng tôi. Còn chị Ngà đẹp như tranh vẽ, mẹ kể da của chị trắng như
trứng gà bóc, răng đều tựa như hạt cườm, tay cứ như tay tiên. Tóm lại là
trong năm chị gái, chị Ngà tôi đẹp nhất. Tôi giữ hình ảnh đẹp như tranh
vẽ của người chị trong tâm hồn như một niềm kiêu hãnh…
Sau chuyến lưu diễn ở Hà Nội, chị tôi và anh Long về Hải Phòng
thăm mẹ và các em sau hơn 10 năm đứt liên lạc. Đúng như mẹ nói, chị tôi
đẹp thật, đẹp hơn cả lời miêu tả với tất cả niềm âu yếm của mẹ tôi…”
(Những trang sách khép mở - Trần Áng Sơn).
Còn bây giờ, bà ngậm ngùi: “Bây giờ buồn
lắm, bạn bè chỉ còn dăm người, ai nhớ tới mình gọi điện hỏi thăm hay
gởi cho chút quà là mừng lắm, cảm động lắm… Châu Hà , Kim Tước đang ở
nước ngoài, chỉ có Tâm Vấn thỉnh thoảng có ghé thăm. Tất cả đều già yếu
rồi nên chẳng ai trách ai…
Tôi tên thật là Phạm Thị Ngà, sinh năm
1931, tuổi Mùi. Đi hát từ thời 14-15 tuổi ở Đài Pháp Á. Nghệ danh Mộc
Lan là do nhạc sĩ Lê Thương đặt cho tôi. Bài hát đầu tiên thì không thể
nhớ nổi nhưng tôi nổi tiếng cới bài hát Đi chơi chùa Hương (thơ Nguyễn
Nhược Pháp, nhạc Trần Văn Khê). Ông Khê viết bài này rất kỳ công, có xen
kẽ những đoạn vừa nói vừa diễn tả lại rồi hát, cho nên bài hát rất dài
và rất kén người hát. Tôi may mắn được coi là người đầu tiên thể hiện
thành công bài hát này…
Dạo đó, “bài tủ” của tôi nhiều
lắm: Tiếng thời gian, Hình ảnh một buổi chiều (Lâm Tuyền), Gởi gió cho
mây ngàn bay, Chuyển bến (Đoàn Chuẩn), Thoi tơ (Đức Quỳnh), Nhớ
nhung (Thẩm Oánh), Phố buồn (Phạm Duy)… Sau này tôi hát trong ban Tiếng
Tơ Đồng của nhạc sĩ Hoàng Trọng. Lúc đó Hoàng Trọng được mệnh danh là
“Vua Tango” nên những bài tango của Hoàng Trọng đều do tôi hát đầu
tiên…”
Gần 60 năm sau (tức những năm 2000), mối
tình này được nhạc sĩ Châu Kỳ nhiều lần kể riêng với người viết. Rằng
khi vào Sài Gòn, ông ở đậu nhà nhạc sĩ Mạnh Phát. Hai người thành lập
nhóm “Thần Kinh nhạc đoàn” (sau này là ban nhạc Tiếng Thùy Dương).
Một năm sau, nàng ca sĩ gốc Hải Phòng
cũng có mặt tài Sài Gòn. Những ngày “chân ướt, chân ráo” ở Sài thành
được nữ ca sĩ Minh Diệu (vợ Mạnh Phát) cưu mang. Vậy là “tài tử” và
“giai nhân” gặp nhau tại căn nhà của một cặp nghệ sĩ cũng rất ư “tài tử,
giai nhân”. Tiếng sét ái tình đánh ngay từ cái nhìn đầu tiên.
Chàng dắt dìu nàng đi hát ở các rạp Văn
Cầm (gần cầu chữ Y), Nguyễn Văn Hảo (trên đường Trần Hưng Đạo), Aristo
(đường Lê Lai), Thanh Bình (đường Phạm Ngũ Lão), Quốc Thanh (đường
Nguyễn Trãi), Khải Hoàn (đối diện chợ Thái Bình)…
Chỉ không đầy nửa năm sau là họ chính
thức trở thành vợ chồng. Rồi chàng đưa nàng về Huế, ra mắt gia đình nhà
chồng. Được ông Thái Văn Kiểm – giám đốc Nha Thông tin và Đài Phát thanh
Huế là chỗ thân tình tạo điều kiện cho cả hai vợ chồng được hát thường
xuyên trên đài với mức lương 3.800 đồng/tháng – một mức lương phải nói
là hậu hĩ vào thời điểm bấy giờ.
Ở Huế, danh tiếng của đôi uyên ương Châu
Kỳ - Mộc Lan nổi như cồn, mặc dầu ở đất Thần kinh lúc đó cũng có một
đôi vợ chồng nghệ sĩ nổi tiếng không kém, đó là nhạc sĩ Nguyễn Hữu Thiết
và ca sĩ Ngọc Cẩm (song thân của ca sĩ Hồng Hạnh bây giờ). Đó là khoảng
thời gian hạnh phúc nhưng cũng thật ngắn ngủi – trở thành một kỷ niệm
đẹp và đau thương của nhạc sĩ Châu Kỳ…
Trích Chuyện tình nghệ sĩ - Hà Đình Nguyên (NXB Trẻ)
Nguồn: motthegioi.vn
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét