Trong suốt chiều dài lịch sử hình thành và phát triển của Trái đất, vô số loài sinh vật đã xuất hiện và rồi lại biến mất. Đôi khi nguyên nhân gây ra những sự tuyệt chủng đó vẫn còn là bí ẩn chưa được làm sáng tỏ, thách thức cả nền khoa học hiện đại.
Dưới đây là danh sách 7 loài đã biến mất một cách khó hiểu nhất.
1. Châu chấu núi Rocky
Thông thường, khi nói đến sự tuyệt
chủng, nhiều người sẽ nghĩ ngay đến khủng long, chim dodo (còn gọi là
chim cu lười) hay các sinh vật to lớn khác. Trên thực tế, nhiều loài côn
trùng cũng không nằm ngoài nguy cơ đó, thậm chí còn có thể biến mất
hoàn toàn trong một khoảng thời gian rất ngắn. Châu chấu núi Rocky (Melanoplus spretus)
là ví dụ tiêu biểu cho trường hợp này. Thường bay theo đàn với số lượng
vô cùng lớn, chỉ trong vòng 4 năm (từ năm 1873 đến 1877), châu chấu núi
Rocky đã tàn phá hầu hết cây trồng trên khắp khu vực trung tây nước Mỹ,
gây thiệt hại hàng trăm triệu USD. Nhưng chưa đầy 30 năm sau, loài này
gần như đã tuyệt chủng trong sự ngỡ ngàng của con người. Và bởi vì không
ai dự kiến được một loài phổ biến như vậy lại tuyệt chủng nên có rất ít
mẫu vật được thu thập.
Lý do dẫn đến sự biến mất của chúng
hiện vẫn gây nhiều tranh cãi. Không ít ý kiến cho rằng chính sự phát
triển canh tác và những công trình thủy lợi đã làm phá vỡ chu kỳ đời
sống tự nhiên của chúng. Trong khi đó, một số nhà khoa học lại chỉ ra sự
thiếu hụt về biến thể di truyền có thể là gốc rễ vấn đề.
2. Cá mập Megalodon
Khoảng 28 triệu năm đến 1,5 triệu năm
trước, các đại dương trên Trái đất đều bị thống trị bởi một kẻ săn mồi
siêu hạng Megalodon. Loài cá mập khổng lồ này được coi là sinh vật có
xương sống hung tợn bậc nhất trong lịch sử với những chiếc răng nhọn dài
đến 18 cm. Cơ thể Megalodon có thể đạt tới chiều dài 18 mét, nặng hơn
100 tấn trong khi cá mập trắng vốn cũng là loài to lớn nhưng chỉ dài tối
đa 6 mét.
Có rất nhiều giả thuyết được đưa ra cho sự biến mất kỳ lạ này. Các chuyên gia tin rằng megalodon đã
không thể thích ứng với sự suy giảm của mực nước biển cũng như nhiệt độ
đại dương xuất hiện vào thời kỳ băng hà cuối kỷ Pliocene, đầu kỷ
Pleistocene. Mặt khác, sự biến mất của những con cá voi khổng lồ - thức
ăn chủ yếu của Megalodon cũng được xem là 1 phần nguyên nhân.
3. Voi ma mút lông xoăn
Cách đây khoảng 250.000 năm, voi ma mút lông xoăn (Mammuthus primigenius)
phân bố trên phạm vi rộng lớn khắp Bắc Mỹ, Châu Âu và Châu Á. Trong khi
phần lớn chúng đã bị tuyệt chủng vào khoảng 10.000 năm trước thì một
quần thể nhỏ vẫn còn sống sót trên đảo Wrangel, Bắc Băng Dương cho đến
tận năm 1700 TCN.
Quá trình săn bắn của con người từ lâu
vẫn được xem là nguyên nhân khiến voi ma mút lông xoăn tuyệt chủng. Số
khác thì đổ lỗi cho sự biến đổi khí hậu toàn cầu với nền nhiệt độ băng
giá. Một nghiên cứu chi tiết đăng tải trên tạp chí Nature Communications
ngày 12/6/2012 vừa qua lại kết luận do cả 2.
4. Chuột túi mặt rộng
Sau khi người châu Âu đến định cư tại
Úc cách đây vài trăm năm, nhiều sinh vật trên đất nước này đã bị suy
giảm và dẫn tới tuyệt chủng do môi trường sống bị thu hẹp, do nạn săn
bắn phổ biến vào giữa những năm 1800, trong đó có chuột túi mặt rộng (Potorous platyops).
Các nhà nghiên cứu đã tiến hành thu
thập những mẫu vật cuối cùng của Potorous platyops (một loài thú có túi
dài chưa đến 0,25 mét) vào khoảng năm 1875. Tuy không biết sau đó chúng
còn tồn tại được bao lâu nữa nhưng nhiều nghiên cứu cho thấy việc bị mèo
hoang ăn thịt cũng là nguyên nhân không nhỏ góp phần vào sự biến mất
nhanh chóng đó.
5. Cóc Atelopus longirostris
Atelopus longirostris là một loài cóc mõm dài sống tại các khu rừng ẩm ướt ở miền Bắc Ecuador và đã không còn được nhìn thấy kể từ năm 1989.
Lý do tuyệt chủng của loài lưỡng cư này
hiện vẫn chưa được xác định, nhưng các chuyên gia tin rằng căn bệnh
chytridiomycosis do nấm Batrachochytrium dendrobatidis gây nên chắc chắn
là một phần nguyên nhân. Chỉ trong vòng 30 năm qua, bệnh
chytridiomycosis đã lây lan với tốc độ chóng mặt gây ra sự suy giảm hay
tuyệt chủng của nhiều loài động vật lưỡng cư với tỷ lệ chết lên tới 100%
nếu chẳng may mắc phải. Ngoài ra, các nhà khoa học cũng nhận định
A.longirostris biến mất có thể còn vì chúng phải đối mặt với sự biến đổi
khí hậu và mất môi trường sống.
6. Chim voi
Chim voi Aepyornis -
loài chim khổng lồ không biết bay sống ở Madagascar được xem là loài
chim lớn nhất trên thế giới. Chúng có chiều cao chót vót (tới 9m) và
nặng gần 454 kg trong khi những con đà điểu châu Phi đực khi trưởng
thành cũng chỉ cao 2,7 mét. Các nhà nghiên cứu cho rằng chúng đã hoàn
toàn bị tiêu diệt vào đầu thế kỷ 18.
Có hai giả thuyết chính giải thích sự
biến mất của chim voi, cả hai đều liên quan đến con người khi chính con
người là thủ phạm không chỉ phá hủy môi trường sống mà còn lấy đi của
chúng những quả trứng có khối lượng gấp 150 lần trứng gà. Ngoài ra,
nhiều ý kiến khác cũng cho rằng những căn bệnh từ loài gà nhà đã tàn phá
các quần thể chim voi.
7. Người Neanderthal
Từ lâu, nguyên nhân tuyệt chủng của người Neanderthal
- người anh em gần gũi với tổ tiên loài người - cách đây khoảng 30.000
năm là một trong những đề tài tranh luận sôi nổi nhất của ngành nhân
chủng học. Nhiều nhà khoa học ủng hộ ý kiến cho rằng một vụ phun trào
núi lửa lớn kết hợp với đợt lạnh khủng khiếp đã giết chết người
Neanderthal vốn là nhóm người khó thích ứng với những biến đổi của khí
hậu.
Tuy nhiên, sau đó, các chuyên gia lại
tìm được bằng chứng chứng minh thủ phạm thật sự có khả năng chính là con
người hiện đại (Homo sapien), trong đó giả thuyết có sức thuyết phục
nhất tính đến thời điểm hiện tại là quá trình giao phối giữa người
Neanderthal với người Homo sapien bằng cách nào đó đã dẫn đến sự biến
mất của họ.
Tham khảo: Livescience
Những thần đồng thông minh nhất trong lịch sử
|
Cập nhật lúc 14h14' ngày 03/02
|
|
Tài
không đợi tuổi, nhận xét này hoàn toàn đúng với những thần đồng dưới
đây, khi tài năng của họ được bộc lộ ở những thời điểm mà thậm chí,
nhiều đứa trẻ còn chưa thể nhận thức hết được thế giới xung quanh.
Wolfgang Amadeus Mozart - Nhà soạn nhạc từ tuổi lên 6
Tài năng âm nhạc của nhà soạn nhạc huyền
thoại người Áo đã nhanh chóng được bộc lộ sau khi được sinh ra. Vào năm
lên 3 tuổi, Mozart đã có thể chơi đàn Clavico (một dạng đàn tương tự
như piano, với kích cỡ nhỏ hơn), đến năm 6 tuổi, nhạc sĩ thiên tài này
đã viết được bản hợp âm đầu tiên, tiếp đó là bản giao hưởng đầu tiên vào
năm 8 tuổi và nhạc kịch opera vào năm 12 tuổi.
Vào năm 5 tuổi, Mozart đã được biểu diễn
đàn piano tại trường Đại học Salzburg (Áo) và một năm sau đó là biểu
diễn tại Cung điện Hoàng gia ở thủ đô Viên của nước Áo. Ở năm 14 tuổi,
Mozart được mời đến Ý để sáng tác nhạc Opera tại đây. Mozart qua đời vào
năm 35 tuổi và để lại hơn 600 tác phẩm khác nhau.
William Rowan Hamilton - Nhà đa ngôn ngữ tuổi lên 5
Sinh ra tại Dublin, Ireland vào năm
1805, William Rowan Hamilton đã cho thấy trí tuệ siêu phàm của mình rất
sớm, khi mới 5 tuổi, ông đã có thể nói thông thạo tiếng Latin, Hy Lạp và
Do Thái. Vào năm 13 tuổi, nhà toán học tương lai này đã có thể nói được
13 thứ tiếng khác nhau, bao gồm tiếng Phạn, Ba Tư, Ý, Ả Rập, Syria,
tiếng địa phương Ấn Độ…
Không chỉ thể hiện trình độ về ngôn ngữ,
Rowan Hamilton còn bộc lộ tài năng về toán học từ rất sớm. Ở tuổi 15,
Hamilton đã phát hiện ra các lỗi trong khi nghiên cứu về công trình của
nhà toán học nổi tiếng người Pháp Pierre Simon.
Rowan Hamilton có nhiều đóng góp trong
việc phát triển lý thuyết về động lực học và quaternions, một phương
pháp được sử dụng cho không gian ba chiều trong toán học. Ông là nhà
toán học vĩ đại nhất được phong tước Hiệp sĩ ở Ireland vào năm 1835 và
qua đời vào năm 1865.
Pablo Picasso - Nghệ sĩ vĩ đại nhất thế kỷ 20
Sinh năm 1881 tại Tây Ban Nha, Pablo
Picasso đã phát triển kỹ năng hội họa của mình từ rất sớm, với sự giúp
đỡ của người cha cũng là họa sĩ, năm 15 tuổi, Picasso đã trình làng bức
tranh bằng sơn dầu của mình tại Barcelona, với tên gọi “Buổi hiệp thông đầu tiên”.
Năm tiếp sau đó, bức tranh “Khoa học và lòng nhân từ”
đã giúp Picasso đạt được huy chương vàng trong cuộc thi vẽ tranh nghệ
thuật tại Malaga (Tây Ban Nha) và giúp ông góp mặt với vai trò khách mời
danh dự tại triểm lãm quốc gia về mỹ thuật diễn ra tại thủ đô Madrid
trong năm này.
Đầu thế kỷ 20, Picasso đã sáng lập ra
phong cách nghệ thuật vẽ tranh lập thể và tiếp tục sáng tạo ra những
kiệt tác cho ngày nay. Họa sĩ thiên tài này qua đời tại Pháp năm 1973.
William James Sidis - Người thông minh nhất trong lịch sử thế giới
Từ năm 8 tuổi, William James Sidis đã
chứng minh được tài năng toán học thiên phú của mình bằng cách phát
triển một bảng logarit mới dựa trên con số 12 và đã có một bài giảng tại
trường Đại học Harvard một năm sau đó.
Thần đồng toán học này cũng đã lập nên
kỷ lục thế giới cho người trẻ tuổi nhất học và tốt nghiệp đại học, khi
đặt chân vào trường đại học Harvard vào năm 11 tuổi và tốt nghiệp 5 năm
sau đó.
Sidis được coi là người thông minh nhất từng sống trên trái đất, với chỉ số thông minh IQ ước tính trong khoảng từ 250-300.
Trước khi bộc lộ tài năng về toán học,
Sidis đã tự mình học cách để đọc và nhanh chóng thông thạo 8 loại ngôn
ngữ khác nhau và bắt tay viết sách từ năm 7 tuổi.
Sau một tuổi thơ với những trải nghiệm
khó tin, Sidis lại trải qua một tuổi trưởng thành khá bình lặng. Sau khi
trưởng thành, báo chí không ngừng săn đuổi ông, tuy nhiên Sidis quyết
tâm tìm sự riêng tư. Ông từ bỏ toán học và chuyển sang viết sách. Năm
1925, ông xuất bản cuốn sách về vũ trụ học trong đó ông dự đoán về các
hố đen trong vũ trụ. Sidis qua đời vì xuất huyết não vào năm 1944.
Shakuntala Devi - “Phù thủy toán học” của Ấn Độ
Sinh năm 1939 tại Bangalore, Ấn Độ, là
con của một người dạy thú, Shakuntala Devi bắt đầu tình yêu với những
con số thông qua những lá bài mà bà thường chơi với cha mình từ năm 3
tuổi.
Biệt danh “người máy tính” và “phù thủy toán học” được
gán cho Devi sau khi bà thể hiện trình độ toán học siêu việt của mình
tại trường đại học Mysore và Annamalai khi còn còn là một đứa trẻ.
Tài năng của Devi đã giúp bà nhiều lần
được vinh danh trong sách kỷ lục Guiness, chẳng hạn khi bà có thể tính
nhẩm kết quả căn 23 một con số có 201 chữ số…
Năm 2006, Devi xuất bản cuố sách với tiêu đề “Mảnh đất thần tiên của những con số”, viết về câu chuyện của một cô bé gái thể hiện tình yêu với những con số, cũng chính là câu chuyện về cuộc đời bà.
Robert James Fischer - Đại kiện tướng cờ vua trẻ tuổi nhất thế giới
Năm 1957, Robert “Bobby”
Fischer trở thành nhà vô địch cờ vua thế giới từ năm 14 tuổi, và là kiện
tướng trẻ tuổi nhất vô địch tại giải đấu danh giá này. 1 năm sau đó,
Fischer tiếp tục phá một kỷ lục mới khi trở thành đại kiện tướng trẻ
tuổi nhất thế giới, ở tuổi 15.
Trước đó, khi mới 13 tuổi, Fischer đã
chơi một ván cờ cầm quân đen và thắng Kiện tướng người Mỹ Donald Byrne.
Ván cờ này về sau được chọn là “ván cờ thế kỷ”.
Năm 1972, Robert Fischer được xếp hạng cao nhất trong lịch sử môn cờ vua, với thứ hạng FIDE đạt 2785.
Năm 1992, Fischer đã đấu một trận cờ vua
với đại kiện tướng người Nga Spassky tại Nam Tư, khi đó đang bị Liên
Hợp Quốc cấm vận, điều này đã khiến Fischer trở nên phạm pháp và phải
trốn tránh các nhà chức trách trong suốt 12 năm tiếp theo, trước khi bị
bắt giữ vào năm 2004 tại Nhật Bản. Sau đó, Fischer được trả tự do vào
năm 2005 và được cấp quốc tịch. Fischer qua đời tại Iceland vào năm
2008.
Theodore Kaczynski - Từ cử nhân trẻ tuổi của Harvard trở thành khủng bố
Sinh năm 1942, Theodore Kaczynski được biết đến với biệt danh "Unabomber",
nổi tiếng như một thần đồng và được phép học tại trường Đại học Harvard
từ năm 16 tuổi. Trước đó, Kaczynski đã có chỉ số thông minh IQ 167 khi
mới học lớp 5.
Sau khi tốt nghiệp Harvard, Kaczynski
tiếp tục nhận được bằng tiếng sĩ toán học tại trường Đại học Michigan,
nơi mà luận án tiến sĩ của ông phức tạp đến nổi các giáo sư ở đó phải
thừa nhận rằng không thực sự hiểu hết được nó.
Ở tuổi 25, Kaczynski trở thành giáo sư
trẻ tuổi nhất tại trường Đại học California, tuy nhiên đã từ chức sau đó
2 năm, chuyển đến sống cùng với bố mẹ và cuối cùng đến sống tại một
cabin hẻo lánh ở trong rừng. Kaczynski đã quyết định bắt đầu một chiến
dịch đánh bom thư sau khi nhìn thấy các vùng đất hoang quanh nhà của
mình bị phá hủy bởi sự phát triển.
Trong gần 20 năm, từ 1978 đến 1995,
Kaczynski đã gửi 16 quả bom thư đến nhiều mục tiêu khác nhau, bao gồm cả
các trường đại học, các hãng hàng không… giết chết 3 người và làm bị
thương 23 người.
FBI đã liệt kê Kaczynski vào 1 trong 100
tên tội phạm nguy hiểm nhất và đã tiến hành một chiếc dịch điều tra gắt
gao. Hiện Kaczynski đang phải chịu một án tù chung thân không được ân
xá sau khi bị bắt giữ vào năm 1995.
Kim Ung-Young - Tham gia các lớp đại học từ năm 3 tuổi
Ở tuổi lên 3, Kim Ung-Yong đã bắt đầu
được tham gia các lớp học về vật lý với vai trò sinh viên khách mời tại
trường đại học Hanyang, Hàn Quốc. Đến năm 8 tuổi, Kim được cơ quan vũ
trụ Mỹ NASA mời sang học tại Mỹ.
Sinh năm 1962, thần đồng trẻ tuổi này
bắt đầu biết nói vào 4 tháng tuổi, và 2 năm sau đã có thể đọc được tiếng
Nhật Bản, Hàn Quốc, Đức và Anh. Kim Ung-Yong đã được tổ chức sách kỷ
lục Guiness trao tặng danh hiệu người có chỉ số IQ cao nhất, với 210
điểm.
Năm 16 tuổi, Kim rời khỏi NASA và quyết
định quay trở lại học đại học tại Hàn Quốc và nhận bằng tiến sĩ về kỹ
thuật dân sự. Kim hiện đang là giáo sư tại trường Đại học Chungbuk (Hàn
Quốc) từ năm 2007 và đã xuất bản hơn 90 bài viết khác nhau trên các tạp
chí khoa học.
|
10 lời nguyền kỳ lạ trong lịch sử
|
Cập nhật lúc 09h15' ngày 07/04
|
|
Có
những lời nguyền rất đơn giản nhưng rất nhiều trong số đó khiến người
ta phải sởn tóc gáy. Dưới đây là 10 lời nguyền nổi tiếng nhất.
1. Lời nguyền Siêu nhân
Nói đến lời nguyền của Siêu nhân người ta thường nhắc
tới những tai ương xảy ra với những người có liên quan đến câu chuyện
Siêu nhân trong quãng thời gian gần 100 năm qua.
Có lẽ George Reeves và Christopher Reeve - diễn viên
trong loạt phim truyền hình và điện ảnh Siêu nhân đầu tiên - là 2 người
nổi tiếng nhất trong số những người vướng phải lời nguyền.
George Reeves tự tử còn Christopher Reeve bị liệt sau
khi ngã ngựa. Các nạn nhân khác có Jerry Siegel và họa sĩ Joe Shuster, 2
người đã sáng tạo ra nhân vật nhưng thu được rất ít tiền bởi công ty DC
Comics nắm tất cả bản quyền. Một số người nói rằng Jerry và Joe đã áp
đặt lời nguyền lên nhân vật viễn tưởng này bởi họ cho rằng mình bị đối
xử bất công so với công sức bỏ ra.
Thậm chí có lời đồn rằng John F Kennedy là nạn nhân
của lời nguyền vì không lâu trước cái chết của ông, nhân viên của tổng
thống đã phê chuẩn cho xuất bản một cậu chuyện Siêu nhân (trong đó người
hùng “khoe” tham vọng có được thân hình của tổng thống) vào tháng
4/1964.
Do khiếp sợ trước lời nguyền này, rất nhiều diễn viên
đã từ chối đóng vai Siêu nhân trong những bộ phim phiên bản mới nhất.
Paul Walker (nằm trong danh sách 10 diễn viên tồi tệ nhất) là một trong
số các diễn viên không hề hấn gì, nhưng Paul đã giết chết nhân vật anh
đóng hơn là bị Siêu nhân làm cho điêu đứng.
2. Hòn đá Björketorp
Đây là một trong số những hòn đá được tìm thấy tại
tỉnh Blekinge, Thụy Điển có từ thế kỷ thứ 6 sau công nguyên. Chúng cao
đến 4,2 m. Một số hòn xếp thành vòng tròn, trong khi những hòn khác đứng
một mình. Trên hòn đá Björketorp có khắc dòng chữ:
“Ta, chủ nhân của những hòn đá che dấu
sức mạnh của chúng tại đây. Anh ta sẽ ngập tràn trong tội lỗi xấu xa,
phải chịu cái chết âm thầm nếu là người phá vỡ tấm bia mộ này. Ta tiên
đoán được sự hủy diệt”.
Một câu chuyện được người dân địa phương lưu truyền có liên quan tới lời
nguyền này đã từng được kiểm chứng và chứng minh là có thật. Cách đây
rất lâu rồi, có một người đàn ông muốn dịch chuyển hòn đá để có thêm đất
canh tác. Anh ta chất đống củi xung quanh để đun nóng, sau đó dội nước
để làm vỡ hòn đá.
Tuy nhiên, không khí lúc đó cực kỳ lặng gió. Anh ta
chỉ vừa kịp châm lửa thì một cơn gió đột nhiên xuất hiện chuyển hướng
ngọn lửa khiến cho tóc của người đàn ông bốc cháy. Anh ta lăn lộn trên
mặt đất để dập tắt lửa, nhưng nó đã lan ra quần áo và người đàn ông tội
nghiệp đã chết trong đau đớn tột cùng.
3. Lời nguyền Bambino
Lời nguyền Bambino ám chỉ đến chuỗi đen đủi mà đội
bóng chày Boston Red Sox phải hứng chịu sau khi chuyển nhượng cầu thủ
Babe Ruth cho đội New York Yankees vào năm 1920.
Cho đến lúc đó, NY Yankees chưa bao giờ giành được
giải World Series, họ hi vọng Ruth sẽ thay đổi vận mệnh cho đội và anh
đã hoàn thành sứ mệnh của mình. Sau khi chuyển nhượng, Boston Red Sox
chẳng giành lấy được một danh hiệu World Series nào nữa mãi cho đến năm
2004.
Trong thời gian diễn ra trận đấu phá bỏ lời nguyền,
hiện tượng nguyệt thực hoàn toàn xuất hiện lần đầu tiên trong lịch sử
World Series. Chiến thắng năm 2004 thậm chí còn kịch tính hơn khi đó là
cuộc đối đầu giữa Boston Red Sox với New York Yankees.
4. Lời nguyền Tippecanoe
Vào năm 1840, William Henry Harrison lên nắm chức
tổng thống Mỹ với khẩu hiệu “Tippecanoe và Tyler Too” (ám chỉ việc ông
tham gia vào Trận chiến Tippecanoe năm 1811). Một năm sau, W Harrison
qua đời. Kể từ đó cho đến khi Ronald Reagan lên nắm quyền năm 1980, mỗi
tổng thống được bầu lên đều ra đi khi vẫn đang ở trong nhiệm kỳ của
mình.
Dưới đây là năm mất và nguyên nhân cái chết của các
vị tổng thống: 1840 (W Harrison - chết tự nhiên), 1860 (Lincoln - bị bắn
chết), 1880 (Garfield - bị bắn chết), 1900 (McKinley - bị bắn chết),
1920 (Harding - chết tự nhiên), 1940 (F Roosevelt - chết tự nhiên) and
1960 (Kennedy - bị bắn chết). Một điều thú vị là nếu âm mưu ám sát nhắm
vào Reagan thành công, thì ông cũng đã chết trước khi kết thúc nhiệm kỳ
đầu tiên của mình.
5. Lời nguyền của Dê Billy
Lời nguyền áp đặt lên đội bóng chày Chicago Cubs xuất
hiện vào năm 1945. Billy Sianis, một người nhập cư gốc Hy Lạp có 2 tấm
vé 7,2 USD xem trận Game 4 của World Series giữa Chicago Cubs và Detroit
Tigers và ông quyết định đem theo chú dê Murphy yêu quý của mình đi
theo.
Ông chủ khoác cho Murphy một tấm vải có đề dòng chữ “Chúng tôi có chú dê của Detroit”
trên người. Sianis và Murphy được cho phép vào sân vận động Wrigley
Field và thậm chí họ đã đi vòng quanh sân trước trận đấu. Tuy vậy, người
chỉ chỗ trong sân vận động đã can thiệp và dẫn 2 người đi ra khỏi sân.
Sau cuộc tranh cãi nảy lửa, Sianis và chú dê mới được quay trở lại chỗ
ngồi. Trước khi trận đấu kết thúc, họ lại bị đuổi ra một lần nữa theo
lệnh của ông chủ đội Cubs, Philip Knight Wrigley, do chú dê tỏa ra mùi
rất khó chịu.
Bởi vì người của đội Cubs đã xúc phạm chú dê nên chủ
của nó tức giận và buông ra một tràng nguyền rủa rằng Cubs sẽ không bao
giờ giành chức vô địch hoặc được chơi ở một trận ở giải World Series tại
sân Wrigley Field nữa. Kết quả là Cubs thua thảm hại trong trận Game 4,
trong khi đó Sianis hả hê viết lên sân Wrigley bằng tiếng Hy Lạp “Giờ thì ai bốc mùi nào?”.
Năm sau, Cubs về thứ 3 tại giải National League và
chỉ lẹt đẹt ở giải hạng 2 quốc gia trong 20 năm liên tiếp. Chuỗi đen đủi
cuối cùng chấm dứt vào năm 1967, khi Leo Durocher trở thành quản lý của
câu lạc bộ.
6. Lời nguyền của Tutankhamen
Nguyên nhân chính xác của cái chết không rõ, có giả thuyết cho rằng ông
bị nhiễm trùng do côn trùng cắn. Người ta nói rằng khi ông qua đời,
Cairo bị mất điện trong chốc lát và tất cả những ngọn lửa đang cháy ở
đây đều vụt tắt.
Con trai của Carnarvon có ghi chép lại rằng tại biệt
thự của ông ở Anh, con chó mà ông Carnarvon yêu quý bỗng nhiên tru lên
và lăn ra chết. Còn lạ lùng hơn khi xác ướp của Tutankhamun được mở lớp
vải quấn quanh người, người ta phát hiện ra Tutankhamun có một vết
thương trên má trái ở vị trí chính xác vết côn trùng cắn Carnarvon dẫn
đến cái chết của ông.
Năm 1929, 11 người có liên quan tới ngôi mộ đều đột
tử vì những nguyên nhân kỳ lạ. Trong đó có 2 người họ hàng của
Carnarvon, thư ký riêng của nhà khảo cổ học Howard Carter là Richard
Bethell và cha của Bethell, Huân tước Westbury. Westbury chết do nhảy
xuống một tòa nhà. Ông để lại một tờ giấy có ghi “Ta thực sự không
thể chịu nổi bất kỳ sự hãi hùng nào nữa và gần như không hiểu được sẽ
tạo ra điều tốt đẹp gì ở đây, vì vậy ta tự tạo lối thoát cho mình”.
7. Lời nguyền từ chiếc Porsche của James Dean
Vào lúc 5h45 phút chiều ngày 30/9/1955, ngôi sao điện
ảnh James Dean bỏ mạng trong một tai nạn ô tô khi chiếc xe Porsche
Spyder mới (có biệt danh “Kẻ đáng nguyền rủa”) của anh lao đầu
vào một chiếc xe khác. Rolf Wutherich, anh bạn thợ cơ khí của Dean khi
đó cũng ngồi cùng ngôi sao trên ghế trước, đã bị văng ra khỏi chiếc xe
nhưng may mắn sống sót, còn Dean mắc kẹt ở trong và bị gẫy cổ. Donald
Turnupseed, người lái chiếc xe ngược chiều chỉ bị thương nhẹ.
Sau thảm kịch, một người chuyên mông má xe có tên George Barris mua “con xế”
rúm ró về với giá 2.500 USD. Khi vừa về đến ga-ra của Barris, chiếc
Porsche trượt ra và rơi xuống một thợ cơ khí khiến anh này gẫy cả 2
chân. Trong khi Barris có những linh cảm không hay về chiếc xe khi mới
nhìn thấy nó lần đầu tiên, sự nghi ngờ của ông đã được khẳng định trong
cuộc đua tại Hội chợ Pomona vào ngày 24/10/1956.
2 bác sĩ Troy McHenry và William Eschrid, đang đua bằng 2 chiếc xe có các bộ phận lấy từ “Kẻ đáng nguyền rủa”
đều gặp xúi quẩy: McHenry chết khi chiếc ô tô bị mất kiểm soát và đâm
sầm vào một cái cây, ô tô của Eschrid bị lật úp xuống. Eschrid sống sót
dù bị thương nặng, cho biết chiếc xe bỗng nhiên hãm lại khi ông đi vào
đoạn đường vòng. Sau đó, chiếc ô tô của Eschrid liên tiếp gặp tai nạn
cho đến năm 1960 thì nó biến mất.
8. The 27 Club
Lời nguyền của 27 Club (hay 27 Club Mãi Mãi) là tên
của một nhóm các ca sĩ nhạc Blue và Rock nổi tiếng và có ảnh hưởng, tất
cả đều chết ở tuổi 27, đôi khi trong những trường hợp bí ẩn. Có một số
tranh cãi về tiêu chuẩn dùng để tuyển mộ người vào 27 Club. Động lực để
thành lập Club là cái chết của một số ca sĩ danh tiếng trong vòng 2 năm.
Trong danh sách này có Hendrix, Morrison, Joplin và Brian Jones. Kurt
Cobain giờ cũng được cho vào danh sách nhờ ảnh hưởng của anh tới âm nhạc
trong những năm gần đây.
9. Lời nguyền của viên kim cương Hy Vọng
Có xuất xứ từ năm 1642, đây là viên kim cương nổi
tiếng nhờ màu sắc, kích cỡ, độ trong suốt, vẻ đẹp và lịch sử đặc biệt
của nó. Hy Vọng có hình trứng, nhiều mặt sáng bóng và màu xanh xẫm rực
rỡ, kích cỡ 25,60 x 21,78 x 12 mm và nặng 45,52 cara.
Hy Vọng được dùng làm mặt của chuỗi vòng cổ và người
ta gắn thêm16 viên kim cương trắng nhỏ khác bao quanh nó. Màu của Hy
Vọng là sự kết hợp của màu xanh da trời do nguyên tố Bo tạo ra, có trong
tất cả các viên kim cương màu xanh và màu xám.
Theo một câu chuyện nói về nguồn gốc của Hy Vọng thì
một người đàn ông tên Tavernier đã thực hiện một chuyến đi đến Ấn Độ và
ăn trộm viên kim cương xanh lớn từ trán của một bức tượng nữ thần Sita
của người Hindu. Vì tội lỗi này mà Tavernier đã bị các con chó hoang cắn
xé trong chuyến đi đến Nga sau khi ăn trộm viên kim cương.
Vua Louis XVI nằm trong số những người sở hữu nổi
tiếng nhất của Hy Vọng - ông bị chặt đầu cùng vợ là nữ hoàng Marie
Antoinette. Cuối cùng Hy Vọng được tặng cho Học viện Smithsonian, hiện
nó đang nằm tại nơi trưng bày Bộ sưu tập khoáng sản và đá quý ở Bảo tàng
Lịch sử tự nhiên quốc gia Mỹ (tại thủ đô Washington).
10. Lời nguyền Kennedy
Dù một vài sự việc bất hạnh có thể xảy ra với bất cứ
gia đình nào, nhưng một số người cho rằng những tai ương liên tiếp ập
đến gia đình Kennedy là do một lời nguyền. Gia đình Kennedy có vài thành
viên chết trẻ, nổi tiếng là 2 anh em John F. Kennedy và Robert F.
Kennedy bị ám sát khi đang nắm quyền, còn con trai của John F. Kennedy
thiệt mạng trong một tai nạn máy bay năm 1999.
Chị gái của John F Kennedy, phải vào viện dưỡng lão
vì bị phẫu thuật thùy não nhầm. Joseph Kennedy chết trong thế chiến thứ
2, Edward Kennedy Jr phải cắt cụt chân năm 12 tổi, Michael Kennedy chết
trong một tai nạn trượt tuyết.
|
Những bí ẩn lớn nhất trong lịch sử
|
|
|
Bản thảo Rongorongo, quá trình biến mất của thành phố Helike, Robin Hood là ai...là những bí ẩn mà con người chưa tìm ra lời giải.
Những bí ẩn lớn chưa có lời giải trong lịch sử nhân loại
1. Bản thảo Rongorongo
Được xem là một điều bí ẩn nữa của đảo Phục Sinh, Rongorongo là tên của bản thảo viết bằng chữ tượng hình
do những cư dân đầu tiên của đảo viết ra. Rongorongo xuất hiện một cách
đầy bí ẩn vào vào những năm 1700 trong khi cư dân những vùng đảo lân
cận còn chưa có chữ viết. Ngôn ngữ này đã biến mất từ lâu khiến cho việc
giải mã bản thảo trở nên vô vọng. Thực dân châu Âu cấm đoán ngôn ngữ
này vì nguồn gốc ngoại giáo của người dân trên đảo.
(Ảnh: Jeanhervedaude.com)
2. Thành phố Helike biến mất như thế nào?
Nhà văn Hy Lạp Pausanias đã miêu tả lại cảnh tượng trận động đất
kinh hoàng đã phá hủy thành phố Helike trong một đêm, kéo theo một cơn
sóng thần khủng khiếp nhấn chìm tất cả những gì còn sót lại của thủ phủ
phồn thịnh một thời.
(Ảnh: LiveScience)
Thủ đô của các nước liên minh vùng Achaean này là trung tâm thờ phụng thần biển cả Poseidon. Ngoài các văn tự Hy Lạp cổ, không có dấu hiệu gì cho thấy thành phố này đã từng tồn tại cho đến khi một nhà khảo cổ phát hiện đồng tiền Helike có chạm khắc hình đầu thần Poisedon.
Năm 2001, hai nhà khảo cổ đã xác định được vị trí của
thành phố Helike bên dưới một lớp bùn và sỏi. Công tác khai quật đang
được tiến hành và các nhà khoa học hy vọng sẽ tìm hiểu được quá trình
lớn mạnh và diệt vong của thành phố được một số người xem là thành phố
Atlantis trong huyền thoại.
3. Xác ướp đầm lầy
Cho đến nay đã có hàng trăm xác ướp – chủ yếu từ thời đồ sắt
– được phát hiện ở vùng đầm lầy phía bắc châu Âu. Phần nhiều các xác
ướp được bảo quản rất tốt có niên đại đến 2000 năm và mang dấu vết của
việc bị tra tấn và bạo lực. Những vết tích đáng sợ này khiến các nhà
khoa học phải đặt giả thiết rằng họ là nạn nhân của một nghi thức cúng
tế của người xưa.
(Ảnh: Civilization.ca)
4. Sự sụp đổ của Đế chế Minoan
Trong khi các sử gia ngày càng khám phá thêm nhiều nguyên nhân khiến Đế chế La Mã sụp đổ thì bí ẩn vẫn bao trùm lên sự biến mất của Đế chế Minoan.
Cách đây khoảng 3.500 năm, một trận động đất xảy ra trên đảo Thera đã
cuốn đi tất cả sự sống trên đảo Crete, nơi xuất phát câu chuyện về một
vị vua và con quái vật đã ăn thịt ông ta. Những tấm bảng đất sét do các
nhà khảo cổ phát hiện ra lại cho thấy đế chế này vẫn còn tồn tại sau đó
khoảng 50 năm trước khi biến mất hoàn toàn. Các giả thiết về sự sụp đổ
bao gồm một lớp tro núi lửa làm mùa màng thất bát hoặc họ đã bị quân Hy Lạp chiếm quyền.
(Ảnh: Accd.edu)
5. Các cột đá Carnac
Công trình đá Stonehenge ở Anh vẫn còn là bí ẩn đối với các nhà khoa học nhưng công trình Carnac tại bờ biển Brittany đông bắc Pháp có lẽ còn gây tò mò hơn nữa.
Hơn 3000 cột đá cự thạch được sắp xếp thành một đường
hoàn hảo trải dài hơn 12 km. Truyền thuyết địa phương kể rằng những cột
đá này là một quân đoàn La Mã bị pháp sư Merlin hóa đá.
Một nhà khoa học nghiên cứu công trình hơn 30 năm lại giả thiết rằng
những cột đá này là một công cụ dự báo động đất. Nhân dạng của những
người thuộc thời kỳ đồ đá mới xây dựng công trình này hiện vẫn còn nằm
trong vòng bí ẩn.
(Ảnh: Brittany-flats.com)
Robin Hood là ai?
Các sử gia vẫn tiếp tục tìm kiếm nhân vật Robin Hood huyền thoại, một hiệp sĩ rừng xanh
cướp của người giàu chia cho dân nghèo và danh sách những người tình
nghi xuất hiện khá nhiều tên tuổi. Trong số đó bao gồm một người chạy
trốn đến Yorkshire tên Robert Hod, Hobbehod và một Robert Hood vùng
Wakefield. Việc lọc ra những cái tên trở nên ngày càng phức tạp vì “Robin Hood”
mang nghĩa người sống ngoài vòng pháp luật như trong trường hợp của
William Le Fevre. Người này sau đó đổi họ thành RobeHod, theo như những
ghi chép của tòa án. Cuộc tìm kiếm nhân vật huyền thoại này trở nên khó
khăn hơn vì về sau những người kể chuyện lại thêu dệt thêm nhiều nhân
vật câu chuyện, ví dụ như Hoàng tử John và Richard Dũng Mãnh.
6. Sự mất tích của một binh đoàn La Mã
Sau khi một đội quân La Mã kém cỏi
của tướng Crassus bị quân Parthians đánh bại, người ta cho rằng một nhóm
nhỏ tù binh chiến tranh đã lang thang qua sa mạc và cuối cùng gia nhập
vào quân đội của 17 năm sau. Sử gia Ban Gu sống ở Trung Quốc thế kỷ thứ
nhất có ghi lại một trận đối đầu với đội quân lạ lùng chiến đấu theo đội
hình vảy cá, một nét đăc trưng của quân đội La Mã.
Một sử gia thuộc Đại học Oxford so sánh các tài liệu cổ và cho rằng tàn quân La Mã đã xây dựng một thị trấn nhỏ tên Liqian gần sa mạc Gobi (cách viết của từ “La Mã" theo tiếng Trung).
Các nhà khoa học đang tiến hành thử nghiệm DNA đế chứng minh cho giả
thiết trên và để giải thích một số đặc điểm của hậu duệ hiện nay: mắt
màu lục, tóc vàng và thú vui đấu bò.
(Ảnh minh họa: Varusbattle.com)
7. Bản thảo Voynich
Bản thảo viết tay Voynich có lẽ là quyển sách khó đọc
nhất trên thế giới. Di vật 500 tuổi này được phát hiện vào năm 1912 ở
một thư viện ở Rome, bao gồm 240 trang chữ viết và tranh minh họa hoàn
toàn xa lạ. Các nhà mật mã đã ra sức giải mã chữ viết lạ lùng
này nhưng chưa ai thành công. Thậm chí một số người còn cho đây chỉ là
một trò đùa của người xưa. Tuy nhiên, phân tích quyển sách cho thấy bản
viết tay này dường như tuân theo các cấu trúc và quy luật của một ngôn
ngữ thật sự.
(Ảnh: Boingboing.net)
8. Xác ướp hồ Tarim
Trong một cuộc khai quật bên dưới lưu vực Tarim phía tây Trung Quốc, các nhà khảo cổ đã phát hiện ra hơn 100 xác ướp
có tuổi thọ hơn 2000 năm. Victor Mair, một giáo sư đại học đã hết sức
ngạc nhiên khi đối mặt với các xác ướp tóc vàng, mũi dài trong một cuộc
trưng bày ở viện bảo tàng đến nỗi năm 1993 ông đã quay lại để thu thập
các mẫu DNA.
Xét nghiệm DNA đã củng cố giả thiết của ông là các xác ướp này mang bộ gien của người châu Âu.
Văn tịch cổ Trung Quốc thuộc thế kỷ thứ I trước Công nguyên có đề cập
đến những nhóm người định cư da trắng được gọi là Bai, Yeuzhi và
Tocharians. Tuy nhiên, vẫn chưa có lời giải thích nào về nguyên nhân tại
sao những người này lại xuất hiện ở đây.
(Ảnh: Imageshack.us)
9. Sự biến mất của nền văn minh Thung lũng Indus
Nền văn minh Thung lũng Indus trải dài từ tây Ấn đến
Afghanistan và dân số lên đến 5 triệu người. Đây là nền văn minh lâu đời
nhất được biết đến của Ấn Độ. Cho đến tận năm 1922, ông John Marshall khai quật thành phố đã phát hiện ra một nền văn hóa cực kỳ “vệ sinh”.
Có hệ thống thoát nước cực kỳ phức tạp và những bồn tằm được thiết kế
hoàn hảo. Điều kỳ lạ là không có bằng chứng khảo cổ cho thấy sự tồn tại
của quân đội, nhà vua, nô lệ, mâu thuẫn xã hội hoặc các tệ nạn phổ biến
thời cổ đại.
(Ảnh: Indiana.edu)
10. Ngôi sao Giáng sinh Bethlehem
Nhiều câu hỏi xoay quanh ngôi sao này vẫn cần lời giải đáp. (Ảnh: Wikipedia).
Đối với những người theo đạo Cơ đốc, sự xuất hiện của ngôi sao Bethlehem (ngôi sao Giáng sinh) là môt sự kiện tôn giáo mà không cần phải giải thích.
Gần 2000 năm qua, ngôi sao sáng nhất vẫn là một bí ẩn. Với các nhà khoa học và những người không theo Cơ đốc giáo, nhiều câu hỏi xoay quanh ngôi sao này vẫn cần lời giải đáp.
Từ
thời cổ đại, sự xuất hiện của ngôi sao Bethlehem đã thu hút sự chú ý
của các nhà nghiên cứu ở các lĩnh vực thiên văn học, lịch sử và khảo cổ.
Nhà thiên văn học vĩ đại người Đức Johannes Kepler cho rằng ngôi sao này là sự kết hợp của hai hành tinh để hình thành một ngôi sao mới.
Các
học giả hiện đại cho rằng đó là một vật thể bay không xác định. Tuy
nhiên, các cơ sở khoa học cho tới nay vẫn chưa đủ sức thuyết phục. Do
vậy, ngôi sao Bethlehem vẫn là một bí ẩn.
|
Những trận động đất lớn nhất trong lịch sử
|
Cập nhật lúc 10h41' ngày 12/03
|
|
Đúng
ngày này cách đây một năm, trận động đất mạnh 9,0 richter đã làm rung
chuyển bờ biển đông bắc Nhật Bản, kéo theo một cơn sóng thần cực lớn.
Tưởng niệm tròn một năm ngày xảy ra thảm hoạ kép, cùng điểm lại những
trận động đất lớn nhất trong lịch sử.
Năm 1906: Trận động đất mạnh 7,8 độ richter ở California, San Francisco, Mỹ làm 3.000 người chết.
Năm 1908: Trận động đất 7,5 độ richter đã làm rung chuyển Messina, Italy, cướp đi sinh mạng của 25.926 người.
Năm 1923: Khung cảnh hoang tàn sau khi trận động đất mạnh 8,3 độ richter
tấn công Tokyo và Yokohama, Nhật Bản, làm 142.800 người chết.
Năm 1936: Cảnh tượng đổ nát sau trận động đất mạnh 7,5 độ richter tại Quetta, Pakistan, khiến 35.000 người thiệt mạng.
1939: Trận động đất mạnh 8,3 độ richter ở Concepcion, Chile đã cướp đi sinh mạng của 28.000 người.
1939: Hơn 36.700 người đã thiệt mạng trong cơn địa chấn mạnh 8,0 độ richter ở Erzincan, Thổ Nhĩ Kỳ.
1970: Trận động đất ở Chimbote, Peru mạnh 7,7 đã khiến 67.000 người chết.
1976: Trận động đất mạnh 8,0 độ richter ở thành phố Đường Sơn, tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc, cướp đi sinh mạng của 290.000 người.
1976: Nhà cửa bị phá huỷ trong trận động đất mạnh 7,5 độ richter ở thủ
đô Guatemala City của Guatemala, khiến 22.084 người bỏ mạng.
1985: Cảnh tượng đổ nát tại thủ đô Mexico City của Mexico sau trận động đất mạnh 8,1 độ richter, làm 10.000 người chết.
1995: Động đất mạnh 7,2 độ richter đã làm rung chuyển thành phố Kobe của Nhật Bản, làm gần 6.350 người thiệt mạng.
1999: Trận động đất mạnh 7,4 độ richter tại Kocaeli, Thổ Nhĩ Kỳ đã cướp đi 19.118 mạng sống.
2004: Động đất mạnh 9,2 độ richter và sóng thần ở Ấn Độ Dương đã làm 230.000 người chết.
2008: Tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc đã bị rung chuyển bởi cơn địa chấn mạnh 8,0 độ richter, làm 68.000 người thiệt mạng.
2010: Trận động đất mạnh 8,8 độ richter tại vùng Maule, Chile khiến gần 500 người chết.
2010: Trận động đất mạnh 7,0 độ richter tại thủ đô Port-au-Prince của Haiti đã cướp đi 316.000 mạng sống.
2011: Trận động đất mạnh 9,0 richter ở đông bắc Nhật Bản kéo theo sóng
thần đã khiến 15.854 người thiệt mạng và 3,271 người khác vẫn mất tích.
|
Nhầm lẫn về chuyện cuồng dâm, bạo chúa thời La Mã
|
Cập nhật lúc 10h38' ngày 29/08
|
|
La Mã là một đế quốc suy đồi, người La Mã phân biệt chủng tộc... là những suy nghĩ có phần phiến diện về đế chế vĩ đại này.
La Mã là một trong những đế quốc vĩ đại
nhất của nhân loại, trải dài hàng vạn dặm trên lãnh thổ châu Âu. Đế chế
này đã để lại nhiều di sản quý giá về tôn giáo, kiến trúc, triết học,
khoa học… nhưng vì nhiều lý do khác nhau, có những câu chuyện hoàn toàn
sai lầm về đế chế này mà chúng ta vẫn cứ tin là thật…
1. La Mã là một đế quốc suy đồi
Khi nhắc tới La Mã, nhiều người thường
sẽ nhớ ngay đến những hình ảnh trụy lạc, bạo lực trong các bộ phim hiện
đại. Chính vì vậy hầu như những người hiện đại vẫn hình dung La Mã cổ
đại chỉ toàn kẻ hiếp dâm, nghiện sex, suy đồi, vô đạo đức.
Nhiều người cho rằng, người La Mã cổ đại chỉ toàn kẻ hiếp dâm, nghiện sex, suy đồi, vô đạo đức
Các bộ phim cũng có phần đúng vì ở thời
điểm đó, người dân La Mã thuộc mọi tầng lớp rất thoải mái và công khai
thảo luận về tình dục. Họ có thể nói chuyện đó ở những nơi công cộng,
trong bữa ăn, thậm chí kể cả khi đến nơi linh thiêng và tối thượng như
tại nhà thờ hay một địa điểm thờ cúng nào đó.
Người La Mã rất thực tế, họ coi tình ái
là một hoạt động sinh lý bình thường và việc thỏa mãn nó cũng cần thiết
như bữa ăn hàng ngày. Thậm chí, họ còn tổ chức lễ hội thờ thần tình yêu
Venus.
Tại những lễ hội này, các chàng trai và các cô gái La Mã đã thoải mái hẹn hò và thực hiện ân ái theo sự tự nguyện đôi bên.
Nhưng người La Mã chắc chắn không phải
là những kẻ suy đồi hay vô đạo đức. Dù thoáng về mặt tình dục, họ lại vô
cùng tôn trọng luật pháp. Các chính sách bảo vệ phụ nữ được thực hiện
hiệu quả và bất cứ kẻ nào phạm tội hiếp dâm sẽ bị tử hình.
Người La Mã chế tạo ra bao cao su từ vải
và da thú để bảo vệ sức khỏe. Nền văn minh cổ đại này còn tiên tiến tới
độ, họ ủng hộ hôn nhân đồng tính và coi đây là một xu hướng tình dục
bình thường, lành mạnh. Chính vì vậy, đế chế này kéo dài tới 12 thế kỷ,
cùng với đó, người La Mã tạo ra vô số phát minh, công trình nghệ thuật
đỉnh cao mà tới nay vẫn là bài học quý giá cho người hiện đại.
2. Giải oan cho bạo chúa
Nero là một trong những vị hoàng đế La
Mã bị xem là bạo chúa vì sự tàn ác tột cùng. Sử sách ghi lại ông đã giết
hại mẹ của mình - Agrippina, và người vợ đầu Octavia để được cưới người
vợ mới. Sau đó, Nero còn giết anh trai, giết người thầy và là nhà triết
học nổi tiếng Seneca.
Chưa hết, bạo chúa còn bị lên án với
hành động đốt cả thành La Mã để mua vui vào năm 64 và thản nhiên chơi
đàn khi dân chúng bị lửa đỏ thiêu cháy. Chính Nero đã châm lửa đốt thành
Rome nhưng ông hoàn toàn đổ lỗi việc này cho những người dân theo đạo
Cơ đốc. Bởi vậy, hàng nghìn người dân theo đạo Cơ đốc đã bị bỏ đói cho
đến chết và bị thiêu.
Nhiều
tài liệu ghi rằng, bạo chúa Nero vô cùng tàn bạo, ông sẵn sàng ném cả
ngàn người vào đấu trường Colosseum để làm mồi cho sư tử
Nổi bật nhất về Nero chính là câu chuyện
ông tàn bạo ném cả ngàn người vào đấu trường Colosseum để làm mồi cho
sư tử. Những đạo hữu Cơ Đốc sẽ bị phanh thây, bị lấy ra làm vật thử
nghiệm cho các trò tra tấn biến thái, độc ác tại đấu trường danh tiếng.
Câu chuyện ghê rợn này được ghi lại trong các văn bản tôn giáo, được
miêu tả lại trong nhiều cuốn sách nổi tiếng nhưng chắc chắn là không có
thật.
Lý do là bởi lúc này, đấu trường La Mã
vẫn còn đang trong quá trình xây dựng, mãi tới năm 80 dưới thời vua
Titus, kiến trúc vĩ đại này mới chính thức hoàn thành. Chính vì vậy
những câu chuyện ghê rợn, đẫm máu về hoàng đế Nero cùng đấu trường La Mã
hoàn toàn là điều không có thật.
3. Người La Mã phân biệt chủng tộc
Rất nhiều bộ phim nổi tiếng về thời La
Mã như Spartacus, Gladiator… cùng nhiều cuốn truyện, sách đều mô tả giai
cấp cầm quyền của Rome là những người da trắng còn người da đen phải
chịu cảnh nô lệ tội nghiệp, bị đánh đập, hành hạ.
Nhiều người còn cho rằng, người La Mã chỉ là những người da trắng hung hăng, tàn bạo
Thế nhưng đế chế La Mã là một bản hợp ca
hài hòa nhiều màu sắc, trải dài từ Bắc Phi tới Tây Á, châu Âu, trong đó
có đẩy đủ người da đen, da vàng, da trắng. Và khi ấy, những người La Mã
hoàn toàn không có một định kiến gì về màu da ảnh hưởng tới sự tiến
thân hay giá trị của bản thân.
Khác với đế chế của người Hy Lạp, đế chế
La Mã chỉ bắt những vùng đất họ chinh phục được phải tuân theo luật
pháp cùng mức thuế của thành Rome chứ không hề thay đổi nguồn gốc, phong
tục của họ.
Chế độ nô lệ có tồn tại ở thành Rome
nhưng nô lệ gồm cả người da đen lẫn người da trắng. Việc buôn bán nô lệ
là một thành phần kinh tế trong cuộc sống và không liên quan gì tới sự
phân biệt chủng tộc. Thậm chí trong những phiên mua bán, mọi người vẫn
làm thơ ca ngợi những nô lệ da đen vì dáng vẻ oai phong cũng như coi
trọng các nô lệ người Hy Lạp tóc vàng, mắt xanh.
Hình ảnh vua Macrinus
Bằng chứng rõ nhất về sự công bằng trong
nền văn minh La Mã, chính là trong lịch sử đế chế này có tới 2 vị vua
châu Phi là Severus và Macrinus. Vua Severus là người dân Libya - vùng
đất khi ấy mới trở thành thuộc địa của Rome.
Nhưng chỉ sau vài năm, ông liên tục
thăng tiến và nắm giữ nhiều chức vụ quan trọng, trở thành vị hoàng đế vĩ
đại của La Mã. Vị vua còn lại - Marcinus còn xuất thân từ tầng lớp bần
cùng nhưng với tài năng cùng lòng bác ái, ông vẫn được người dân ủng hộ
để trở thành người đứng đầu đất nước.
|
Những thành phố cổ vĩ đại nhất trong lịch sử
|
Cập nhật lúc 10h27' ngày 31/01
|
|
Nhiều
thành phố từng đạt đến sự phát triển đỉnh cao từ kinh tế đến quân sự,
văn hóa, nhưng nay chỉ còn lại dấu vết của thời kỳ hoàng kim do những
biến động của lịch sử.
Jericho, thành phố lớn nhất thế giới năm 7.000 trước Công nguyên. Nép
mình giữa biển Chết và núi Nebo, thành phố Jericho có hệ thống thủy lợi
tự nhiên từ sông Jordan, và một ốc đảo nổi tiếng nhất khu vực. Trong
kinh Cựu ước, Jericho được ví là thành phố của những cây cọ. Những dòng
suối nhỏ chảy trong thành phố khiến nó trở thành một nơi cư trú tuyệt
vời cho người cổ đại. Các nhà khảo cổ đã khám phá nhiều hài cốt trong
hơn 20 khu định cư ở đây, cổ nhất có niên đại khoảng 11.000 năm trước,
tức năm 9.000 trước Công nguyên.
Uruk, thành phố dẫn đầu thế giới năm 3.500 trước Công nguyên. Uruk là
một thành phố nổi tiếng trong sử thi Gilgamesh. Do vị trí địa lý ở gần
sông Euphrates, nên cư dân Uruk cổ đại có những vụ mùa bội thu, tạo điều
kiện thúc đẩy giao thương cũng như đạt được bước tiến trong lĩnh vực
chữ viết và thủ công mỹ nghệ. Thành phố, từng nằm ở Iraq hiện nay, bắt
đầu lụi tàn vào những năm 2.000 trước Công nguyên do các cuộc xung đột
trong khu vực.
Mari, dẫn đầu thế giới năm 2.400 trước Công nguyên. Rami là thành phố
thương mại sầm uất ở khu vực Lưỡng Hà, nó còn là trung tâm vận chuyển
đá, gỗ, nông sản và đồ gốm trong toàn khu vực. Mari là quê hương đầu
tiên của các vua Sumerite, sau đó là các vua Amorite.
Babylon, thành phố số một thế giới năm 700 trước Công nguyên. Thành phố
nổi tiếng này xây dựng khoảng 2.500 trước Công Nguyên và trở thành trung
tâm lớn của nền văn minh Lưỡng Hà trong 500 năm sau, khi Hammurabi - vị
vua đầu tiên của đế quốc Babylon tạo dựng nên thủ đô của ông. Thành phố
Babylon bị người Assyria phá hủy thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên, sau đó
nó lại bị phá hủy vào thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên sau cái chết của
Alexander đại đế.
Carthage, thành phố có vị thế số 1 thế giới vòa khoảng năm 300 trước
Công nguyên. Carthage duy trì vị thế thành phố vĩ đại nhất thế giới
trong một thời gian ngắn trước khi trở thành tro tàn năm 146 trước Công
nguyên bởi người Roman. Giống như các tiền đồn hay thành phố khác thời
La Mã cổ đại, phế tích Carthage của Tunisia vùng Bắc Phi phải trải qua
nhiều giai đoạn phát triển để đạt đến sự thịnh vượng mà nó từng có.
Ban đầu nơi đây chỉ là một thị trấn nhỏ xây dựng trên đống đổ nát tạo
ra bởi các cuộc chiến tranh và khi trở về thuộc địa của người La Mã nơi
đây thật sự huy hoàng nhất. Các công trình dân sinh như đường sá, cầu
cống, hệ thống dẫn nước, các tòa nhà công cộng được xây dựng lên thì cả
thị trấn nhỏ bé ấy phình to ra thành một thành phố lớn.
Rome, giữ vị trí quán quân năm 200. Từ vị thế khiêm tốn của một ngôi
làng nhỏ ở Italy 1.100 năm trước đó, bước sang thế kỷ thứ 2 trước Công
nguyên cho đến vài trăm năm sau, thành Rome trở thành thủ đô của Đế chế
La Mã hùng mạnh nhất thế giới, và là trung tâm cai quản một miền đất
rộng lớn kéo dài từ Bắc Âu qua Địa Trung Hải đến Ai Cập. Hai thế kỷ sau
của đế quốc La Mã được coi là thời kỳ vững vàng và thịnh vượng nhất của
lịch sử nhân loại từ trước đó tới lúc bấy giờ, ảnh hưởng của La Mã ăn
sâu vào Tây Âu.
Damascus là thủ đô của Syria. Nơi huyền diệu này đã được biết đến từ
thời cổ đại, hiện là một trong những thành phố lâu đời nhất trên thế
giới. Người ta tin rằng các khu định cư hiện nay đã có con người lần đầu
tiên đến sinh sống cách đây 12.000 năm.
Jerusalem. Đây là một trong những nơi có tầm quan trọng bậc nhất trên
toàn thế giới, Jerusalem là thành phố quan trọng nhất đối với Kitô giáo,
Hồi giáo và Do Thái giáo. Vẻ đẹp của thành phố là sự đa dạng của văn
hóa và tôn giáo, đây cũng như được biết đến với lịch sử vô cùng phức
tạp. Jerusalem còn là nơi tuyệt vời để khám phá, thành phố đã có 6.000
năm lịch sử.
Athens là một thành phố lừng danh với những câu chuyện đầy bí ẩn về lịch
sử, văn hóa nếu có kể trong nhiều đêm cũng khó mà hết được. Thành phố
tuyệt vời này được hình thành từ 3.500 năm trước đây, nhưng có thể nó
còn lâu đời hơn thế. Nơi ra đời của một mô hình dân chủ đầu tiên, văn
minh và kiến trúc của hiện đại. Với nhiều người, Athens là nơi không thể
không đến một lần trong đời.
|
Lễ hội bia rượu và tình dục của người Ai Cập cổ
|
|
|
Nghe
qua, nó có vẻ là lễ hội của đám thanh niên nổi loạn: Mọi người nốc bia
xả láng, đánh chén, đập phá, đắm chìm trong những cuộc mây mưa bất tận.
Họ tỉnh dậy sáng hôm sau trong tiếng nhạc ầm ĩ và cầu mong cho mọi
chuyện đều tốt đẹp.
Những phát hiện thú vị về lễ hội bia rượu và tình dục của người Ai Cập cổ đại
Vào năm 1479 trước Công nguyên, đó chính là chương trình của một trong những lễ hội hoang tàn nhất của Ai Cập cổ đại: "Lễ hội say xỉn", với ý nghĩa kỷ niệm sự cứu rỗi linh hồn
của con người. Các nhà khảo cổ cho biết họ đã tìm thấy giữa đống đổ nát
trong ngôi đền ở Luxor bằng chứng cho thấy, buổi lễ được diễn ra hằng
năm, bao gồm sex, chất kích thích và thứ âm nhạc "rock 'n' roll" cổ đại.
Ảnh minh họa
Tác giả nghiên cứu Betsy Bryan tại Đại học Johns Hopkins, Mỹ, cho biết: "Chúng ta đáng nói về một lễ hội mà ở đó mọi người cùng đến với nhau để say xỉn, thực sự là say bí tỉ không biết một tí gì cả".
Cuộc khai quật ngôi đền đã làm lộ ra ngọn đuốc của lễ hội, gắn liền với Hatshepsut, người vợ và là chị em với vua Thutmose II.
Sau khi vua Thutmose II qua đời vào năm 1479 trước Công nguyên,
Hatshepsut đã trị vì Tân vương quốc Ai Cập trong 20 năm và ngọn đuốc đã
được dựng lên dưới thời trị vì của bà.
Một trong những chữ khắc được tìm thấy ở ngôi đền nói về một chi tiết "du lịch qua đầm lầy" của lễ hội - một cách nói lóng về quan hệ tình dục
của người Ai Cập cổ đại. Mối liên quan đến sex càng được củng cố bằng
hình vẽ graffiti miêu tả đàn ông và phụ nữ ở các tư thế khác nhau.
(Ảnh: msnbc.msn.com)
Lễ hội còn đặt ra quy luật chọn ra vài người luôn tỉnh táo để làm "tài xế" cho những người say. Vào buổi sáng hôm sau, các nhạc sĩ đi lại đánh trống để đánh thức những kẻ tham dự cuộc vui.
Nhưng mọi người không chỉ đến đó để mua vui. Lễ hội diễn ra vào tháng đầu tiên của năm, sau đợt lũ đầu tiên của sông Nile do nữ thần chiến tranh đầu sư tử Sekhmet
tạo ra. Theo truyền thuyết, vị thần khát máu Sekhmet gần như tiêu diệt
hết cả loài người, nhưng thần mặt trời Re đã lừa bà ta uống rất nhiều
bia có màu đỏ tươi khiến thần Sekhmet tưởng là máu. Đến khi Sekhmet say
xỉn, bà bị biến thành một nữ thần tử tế hiền lành tên là Hathor và nhân loại được cứu rỗi.
Bryan cho biết đỉnh điểm của lễ hội là
khi những người đánh trống đánh thức người tham dự. Mục tiêu cuối cùng
của sự say xỉn là để nhìn thấy và được tiếp xúc với vị thần.
Đó là khi người Ai Cập sẽ cầu xin nữ thần bảo vệ dân chúng khỏi bị hiểm
nguy. Đó là một lời yêu cầu cho cả cộng đồng chứ không phải mang tính
cá nhân.
Phát hiện tại đền cũng trùng với các ghi chép lịch sử về các lễ hội say xỉn vào thời kỳ Hy Lạp - La Mã
của Ai cập. Tác giả Herodotus đã ghi lại vào năm 440 trước Công nguyên
rằng những lễ hội như vậy thu hút được tới 700.000 người. Tại đó, những
cô gái say xỉn còn phơi bày thân thể trước những người có mặt. Rượu nho được tiêu thụ trong lễ hội này nhiều hơn tất cả thời gian còn lại trong năm.
|
Kho báu của Salomon và Hòm ước vàng
|
|
|
Solomon sinh vào khoảng năm 974 trước Công nguyên. Solomon là vị vua thứ 3 của Israel. Là
con trai của Vua David, Solomon đã thống trị đế chế trải dài từ
Euphrates tới mỏm Bắc của Vịnh Aqaba. Vua Solomon thành lập vương quốc
Edom và được mệnh danh là "nhà thống trị vĩ đại nhất của Israel".
Bí ẩn kho báu của vua Salomon
Ông là người xây dựng Ngôi đền Đầu tiên của người Do Thái ở Jerusalem, sở hữu một lượng vàng lớn và là tác giả của cuốn Book of Proverbs, Ecclesiastes và The Song of Songs.
Solomon trị vì Israel trong gần 40 năm trước khi băng hà vào năm 931
trước Công nguyên. Không những vậy ông còn là người giàu nhất trong lịch
sử.
Theo truyền thuyết lịch sử và văn hóa cổ đại, Salomon thường được gọi là một Quốc Vương lý tưởng, một Ông Vua thánh hiền.
Thực ra ông ta là một bạo chúa, ông
ta đánh thuế nặng nề, thực thi cưỡng bức lao động, bắt thần dân phải xây
dựng một cung điện và miếu thần vô cùng tráng lệ trên núi Jerusalem. Trong Kinh Thánh đã ghi lại chân thực câu chuyện Salomon xây dựng cung điện cho thần Jéhova:
"Salomon cho là cần phải xây cho Thần Jéhova một cung điện thờ, cho
mình một cung điện. Thế là Salomon cho tuyển 8 vạn phu khuân vác, 8 vạn
thợ đục đá và 3600 đốc công đến xây dựng".
Theo Kinh Thánh viết: Salomon ra lệnh 20 vạn người xây dựng miếu thần
đều không phải là người Israel. Ông ta lại chọn trong người Israel được
5 vạn nhân công làm lao dịch. Công trình đó kéo dài đến 7 năm. Điện
thần này hướng từ Đông sang Tây dài 250m, rộng hơn 90m được xây dựng cẩn
trọng chặt chẽ, nguy nga tráng lệ, phía bên trong trang trí vô cùng hoa
mỹ. Thật là một tác phẩm kiến trúc tuyệt vời. Điện thần này đã trở
thành trung tâm tôn giáo và hoạt động chính trị của người Do Thái Cổ, đồng thời cũng là biểu tượng của họ.
Hàng ngày, các giáo đồ đến đây để bái yết và hiến tế thần linh. Đá Thánh A La
được đặt giữa điện thần. Đá Thánh cao 20m rộng 15m, là một tảng đá hoa
cương, được dỡ bởi hai trụ đá cẩm thạch tròn. Phía dưới Đá Thánh là Nham Đường cao 35m, bên trong có bàn thờ, trên bàn thờ đặt một hòm thánh có khắc dòng chữ "Maxi Thập giới" còn gọi là "Mười lời răn của Thánh Jéhova", Jéhova là giáo chủ của Đạo Do Thái. Trong hòm thánh, ngoài những điều răn của Thánh còn có Tây Nại pháp điển.
Hòm Thánh được làm bằng vàng ròng, gọi la Hòm của Jéhova cũng còn gọi là Hòm ước vàng.
Nó được người Do Thái cổ đại coi là Bảo vật giữ nước liên quan đến việc
tồn vong hưng thịnh của dân tộc Do Thái. Ở phía dưới Đá Thánh A La,
Salomon cho xây một căn hầm và một đường hầm bí mật. Theo truyền thuyết
Salomon đã cất giấu ở căn hầm và đường hầm này rất nhiều châu báu và các
đồ vật quý giá. Đó chính là kho báu của Salomon mà cả thế giới đều đã được nghe nói tới.
Suốt hơn 2000 năm, các hoạt động tìm kiếm kho báu của
Salomon và Hòm ước vàng chưa bao giờ ngừng. Vào hồi đầu thế kỷ, có một
số nhà thám hiểm người Anh đã vào Thành Jerusalem. Đầu tiên, họ dùng
tiền vàng hối lộ người gác đêm. Khi đêm đã về khuya, đoàn người lặng lẽ
vào điện thần, cậy tấm đá bên cạnh Đá Thánh
lên, rồi đào đất xúc đổ ra bên ngoài tường. Khi trời đã sáng, họ lại
khuân tấm đá đậy lại như cũ, tuyệt nhiên không để lại dấu vết gì, rồi
lặng lẽ rút ra ngoài. Cứ như vậy, họ bí mật đào suốt 7 đêm liền, cái hố
ngày một sâu, mà không một ai biết. Đến sáng ngày thứ 8, họ bị một thầy
tu Do Thái vô tình phát hiện ra. Các tín đồ gần đấy được thậy tu khua
dậy, tay dao tay gậy kéo tới vây bắt. Mấy nhà thám hiểm thấy vậy sợ quá
vội vàng chạy mất. Về sau, các tín đồ phát hiện ra là người gác đêm đã
bị mấy nhà thám hiểm người Anh mua chuộc, và là họ lấy đá đập chết ông
ta. Từ đó, các tín đồ càng tăng cường bảo vệ điện thần về ban đêm hơn
nữa.
Cũng có một số người cho rằng kho báu của Salomon và
Hòm ước vàng có thể có cách đây 2000 năm. Vào năm 586 trước Công Nguyên
trước khi quân của Vương quốc Babylon vào Thành Jerusalem kho báu đã
được chuyển đến cất giấu ở Đường hầm bí mật Uanbu.
Hầm ngầm Uanbu có một lai lịch rất cổ xưa. Theo truyền thuyết vào hơn 3000 năm trước (khoảng Thế kỷ XI trước Công Nguyên). Jerusalem
bị người Ibux xâm lược. Bố của Salomon là David chỉ huy bộ lạc vây đánh
người Ibux ở Thành Jerusalem. Do Thành Jerusalem cao hiểm trở, người
Ibux lại canh phòng cẩn mật, nên David mãi không hạ được thành. Một đêm,
một viên tướng của David tên là Uanbu thấy khát nước
quá, ông ta rời doanh trại đi xuống dưới khe suối bên thành, phát hiện
ra một cái hang có dòng nước chảy ra, lại nghe thấy trong hang phát ra
những tiếng như thể tiếng gầu đang múc nước. Ông ta thấy lạ quá bèn chui
vào xem, chỉ thấy một chiếc gầu có sợi dây ngược lên phía trên. Nghĩ
một lát ông ta hiểu rằng: Do trong Thành Jerusanlem rất thiếu nước,
người Ibux sống ở đấy đã đào một đường hầm dài ra tận khe suối ngoài
thành. Hàng đêm, người Ibux thường lấy nước qua đường hầm này. Uanbu lập
thức báo cáo với David: Ông ta đã phát hiện ra một đường ngầm để vào
thành và sau đó ông ta dẫn một toán quân ra phía hang đó rồi theo đường
ngầm vào trong thành mở toang cổng thành đón đại quân của David vào đánh
tan người Ibux. David nhanh chóng chiếm được Jérusalem và quyết định
lấy đó làm Thủ đô của Isarel - Vương quốc của người Do Thái.
Bởi vì đường ngầm ấy là do Uanbu tìm ra, lập được
công lớn nên sau này người ta gọi đó là đường hầm Uanbu. Trong Thánh
Kinh cũng có nói tới câu chuyện Uanbu vào thành qua đường ngầm đánh tan
người Ibux, nhưng lại không thấy nói rõ đường ngầm ấy nằm ở đâu. Hơn hai
nghìn năm, mọi người vẫn ôm mối hoài nghi: Rất có thể Đường hầm Uanbu
đang cất giấu kho báu của Salomon và Hòm ước vàng. Nhưng đường hầm Uanbu
nằm ở đâu cũng không có ai biết.
Đến năm 1868, viên Thượng úy Holan, sỹ quan Anh trong lúc đi vãn cảnh ở ngoại ô Jérusalem đã vô tình phát hiện ra một cái hang sâu
khúc khuỷu. Ông ta liền chui vào trong hang, tiến thẳng, leo qua rất
nhiều bậc đất do con người đục nên. Khi đến bên một hồ nước, Holan lại
nhìn thấy một dòng suối. Ông ta ngẩng đầu lên đột nhiên nhìn thấy trên
đỉnh mỏm đá có một cái lỗ tròn, theo đó, ông ta bèn leo lên lỗ hòn đá
bằng một sợi dây leo núi, rồi tiếp tục đi theo đường ngầm, lại leo qua
một cầu thang nữa. Lên cao khoảng 40m, Holan phát hiện ra một đường ngầm
sâu khúc khuỷu dẫn vào động núi tối mò. Đi ra khỏi cái động đó cuối
cùng ông ta vào tới thành Jérusalem. Holan tự hào cho rằng Đường hầm
Uanbu cổ đại đã được chính ông tìm ra. Nhưng ông ta không hề tìm thấy
kho báu của Salomon và Hòm ước vàng trong đường hầm mà người xưa đã kể.
Vì vậy mà có một số người không đồng ý với phán đoán suy luận của Holan.
Họ cho rằng, cái mà viên Thượng úy tìm thấy không phải là Đường hầm
Uanbu cổ đại, mà là một đường hầm khác không nổi tiếng chưa được mọi
người biết tới mà thôi.
Cũng có một số người tin rằng kho báu của Salomon và
Hòm ước vàng vẫn ở trong đường hầm bí mật của thành Jérusalem. Vào những
năm 30 của thế kỷ XX, hai nhà thám hiểm người Mỹ - Hêlibatti và Matăngxtơ,
lặng lẽ chui vào đường hầm mà trong truyền thuyết là do Uanbu tìm ra.
hai người với đèn pin, xẻng và một số đồ dùng thiết yếu cùng một nỗi sợ
hãi, mò mẫm đi vào đường hầm âm u ma quái. Ở trong đó, họ bắt đầu tìm
thấy một nơi có cả đất và những thứ gì đó, họ phát hiện ra có 2 đường
hầm khúc khuỷu sâu tối. Hai người đoán: môt đường có thể là đường ngầm
cũ của người Ibux cổ ra ngoài thành lấy nước, còn đường kia có lẽ là hầm
ngầm bí mật thông với Đá Thánh A La. Và 2 người quyết định đi theo một
trong hai con đường đó. Nhưng đi được khoảng 150m thì hết đường ngầm, họ
gặp những bậc đá ăn lên trên đều đã bị bùn cát lấp tịt, không thể đi
tiếp được nữa. Hai người lấy xẻng ra xúc cát.
Cát xúc ra lại đánh đóng vào đường ngầm phía sau và
đường ngầm dường như bị bùn cát lấp lại nên cát ở trên bậc đá vẫn cứ
chảy xống không ngừng, như thể có ai đó đang cố tình phá hoại, làm cho 2
nhà thám hiểm không thể có cách nào hót sạch chỗ cát cứ chảy ùn ùn trên
bậc đá. Hai người cảm thấy, trên bậc đã có một uy lực vô biên, không thể chống lại sức mạnh thần bí
đang tác quái, họ càng xúc, cát chảy xuống càng nhiều, nếu dừng thì cát
cũng không chảy nữa. Hai người vô cùng sợ hãi, vội vàng theo đường cũ
trở ra ngoài. Sau khi ra ngoài họ ra sức tô vẽ, thêm nếm cái nỗi sợ hãi
trong đường hầm làm cho người nghe phát sợ, sởn cả tóc gáy. Sau này
Hêlibatti đi thuyền buồm vượt Thái Bình Dương, gặp phải cơn bão lớn,
thuyền chìm, chôn thân dươi đáy biển. Từ đó về sau, không còn người nào
biết về đường ngầm thần bí đó, lại càng không có ai đi tìm nó nữa.
Lại có một số nhà khảo cổ cho rằng, Salomon thường
xuyên phái các đoàn thuyền ra khơi xa, mỗi lần quay về thì vàng đều chất
đầy khoang. Vì vậy, họ mạnh dạn suy đoán rằng, rất có thể ở ngoài biển
xa xôi ấy nhất định phải có một hòn đảo châu báu. Đó là
nơi Salomon đã cất giấu kho báu của mình, chỗ vàng kia là từ hòn đảo
châu báu đó ùn ùn chuyển về không dứt. Nhưng câu chuyện vẫn là một bí
mật cho tới nay chưa ai có thể làm sáng tỏ hơn.
Năm 156 sau Công nguyên, nhà hàng hải Tây Ban Nha dẫn
một đoàn thám hiểm đến hòn đảo châu báu nọ thì thấy thổ dân trên đảo
đeo các đồ trang sức đều lấp lánh ánh vàng. Họ đã vô cùng kinh ngạc cho
rằng đã tìm thấy kho báu của Salomon, nên liền đặt tên cho nơi này là Quần đảo Salomon, đó là nguyên do vì sao hòn đảo này có tên gọi là Quốc đảo Salomon. Từ đó về sau, người châu Âu cứ kéo nhau đến quần đảo Salomon để tìm "Kho báu của Salomon".
Do vị trí của quần đảo Salomon nằm ở phía Tây Nam Thái Bình Dương, bao
gồm 6 đảo lớn và gầm 1000 đảo nhỏ nằm rải rác trên diện tích đất biển là
60.000km2, rừng rậm phủ kín 90% diện tích đảo, nên rất khó khăn trong
việc tìm kho báu. Mấy trăm năm trở lại đây, hàng ngàn hàng vạn lượt
người tìm kho báu đã không tìm kiếm được gì ở quần đảo này. Có người cho
rằng, trên quần đảo Salomon làm gì có kho báu của Salomon, đó chẳng qua
chỉ là tin đồn nhảm nhí.
Sự thật về kho báu của Salomon và Hòm ước vàng cho đến tận ngày nay vẫn là một bí ẩn.
|
Kho báu mất tích của hoàng đế Juba (Phần 1)
|
Cập nhật lúc 09h03' ngày 03/05
|
|
Frank Joseph
Có những khám phá khiến chúng ta phải thay
đổi hoàn toàn những quan niệm lâu đời về thế giới mà chúng ta đang sống.
Nội dung của câu chuyện này cũng là một điều như thế.
Nó đã phá vỡ niềm tin của người Mỹ hình thành từ khi
đất nước của họ ra đời về người phát hiện ra châu Mỹ - Christopher
Columbus. Một hang khảo cổ tại nam Illinois đã tiết lộ rằng hàng chục
nghìn người tị nạn đã ra đi trên những con thuyền sau vụ án mạng của
hoàng đế và cuộc xâm lăng trên quê hương họ đã đến trước Columbus gần 15
thế kỉ. Những con người đó thích phưu lưu mạo hiểm vượt Đại Tây Dương
hơn là cảnh tàn sát, nô lệ trên đất liền; do đó họ đã giao phó tính mạng
của mình cho biển cả.
Nhưng phần trọng tâm của câu chuyện chính là đây. Nó
cho chúng ta biết về khám phá ra hang khảo cổ, tiếp đó là bí mật bị chôn
giấu suốt 20 năm, những kho báu bị đánh cướp, những cuộc tranh cãi
quyết liệt và cuối cùng đều được phơi bày. Câu chuyện thứ hai thậm chí
còn cổ xưa hơn. Nó nói về một đế chế huy hoàng từng tồn tại trong thế
giới cổ đại – một phần sống còn của đế chế La Mã cổ đại - phong phú về
văn hóa với nền kinh tế hùng cường. Do chiến tranh đế chế này đã dần
chìm vào lãng quên. Phải lựa chọn giữa cái chết trên quê hương và sự
giải phóng trên đại dương với những điều không thể lường trước, những
người sống sót của đế chế đã trở thành những thuyền nhân của thế kỉ đầu
tiên. Họ đều kết thúc chuyến đi thành công và đặt chân lên châu Mỹ chỉ vài năm sau khi chúa Jesus băng hà.
|
Một trong số 7000
phiến đá khắc họa chân dung lấy từ hang động phía nam Illinois. Phiến đá
này thể hiện hình ảnh của một chỉ huy quân đội.
|
Trong khi đa phần các nhà khảo cổ chuyên nghiệp đều
cho rằng những cuộc hành trình vượt Đại Tây Dương chỉ là ảo tưởng thì
chính bản thân họ lại bị mâu thuẫn khi thu được rất nhiều phiến đá khắc
chữ hoặc hình minh họa từ một địa điểm ngầm dưới mặt đất tại vùng trung
tâm phía bắc châu Mĩ. Những kiệt tác đáng khâm phục đã khắc họa chính
xác hàng ngàn người thời cổ đại – cả đàn ông và phụ nữ - đến từ một miền
đất xa xôi. Có cả những người lính với khuôn mặt dữ dằn, những thầy tu
khôn ngoan, thủy thủ, người cúng tế, cả đức vua và hoàng hậu. Sau đó là
những phiến đá được khắc bằng 7 loại ngôn ngữ viết khác nhau, một số đã
được dịch tuy còn chưa hoàn chỉnh. Còn có cả vàng nữa - một kho báu mà
đến cả hoàng đế Solomon với tất cả sự uy nghi, oai hùng cũng phải ghen
tị.
Cả hai câu chuyện trên hẳn là khó tin. Nhưng rất nhiều bằng chứng lịch sử xác thực đã khẳng định độ tin cậy của chúng. Di sản kếch xù như thần thoại này được chôn giấu gần 2000 năm trước
và chỉ có những người cao tuổi của một bộ lạc người da đỏ mới biết do
tù trưởng cuối cùng của bộ lạc đã để lộ bí mật trước lúc qua đời. Kể từ
thời điểm ấy, không ai biết cái hang cất giấu kho báu nằm ở đâu cho
đến khi nó được phát hiện một cách tình cờ 24 năm sau đó. Người ta
đã phải mất một thời gian dài cố gắng nỗ lực để có thể tìm ra
cách vào hang cũng như khám phá ý nghĩa của nó.
Chúng ta cũng vẫn đang nỗ lực tìm kiếm. Nhưng đã đến
lúc câu chuyện được phơi bày. Câu chuyện xảy ra ở một vùng đất xa xôi
phía nam Illinois, một vùng văn hóa trên lý thuyết đã bị lãng quên nằm
đâu đó giữa St. Louis (nằm ở biên giới phía tây Missouri) và trường đại
học của bang (tại Carbondale) cách Kentucky 45 dặm về phía bắc. Dân cư
phân bố thưa thớt với số lượng nhỏ. Mặc dù thu nhập chung và trình độ
giáo dục thấp hơn mức trung bình của cả nước, hoặc cả bang nhưng người
dân nơi đây rất chăm chỉ, am hiểu kinh thánh. Những con người yêu nước
mang súng cư trú tại những nông trại cổ, nằm cách biệt hoặc trong những
ngôi làng nhỏ tuy không giàu có nhưng quyến rũ. Người dân rất thân thiện
nhưng cũng vẫn cảnh giác với người lạ. Họ muốn không ai biết đến họ,
không ai vãng lai đến nơi họ sống. Điệu bộ có thể là đặc trưng của vùng,
quê mùa và dân dã. Địa chủ có ý thức rất cao về việc bảo vệ chủ quyền
với tài sản đất đai họ sở hữu mà trên đó họ trồng cấy mùa màng, chủ yếu
là đậu và ngô.
|
Một đồng xu vàng
thu được ở hang động nam Illinois có biểu tượng hình con voi của nữ
hoàng Cleopatra cùng với những kí tự Numidia.
|
Nam Illinois vẫn luôn là nơi ẩn náu của những kẻ
bạo gan. Lịch sử địa phương đã kể cho chúng ta nghe những câu chuyện về
tình trạng vô pháp luật xảy ra từ thời các cuộc chiến băng đảng với
những kẻ tội phạm, như Tony Accardo hay Al Capone (từ Chicago) vào những
năm 1960, nhóm "Roaring Twenties", hay trước đó khá lâu là
nhóm anh em nhà Harpe. Chúng đã sát hại 50 nạn nhân tại Cave-in-the-Rock
trên sông Ohio, trước khi Micajah và Wiley bị chặt đầu vào năm 1799.
Tính từ St. Louis, Richland là hạt kế tiếp gần nhất
với biên giới phía đông Indiana. Phía trên những ngọn đồi và hẻm núi
thưa thớt dân cư là những trang trại xanh hình ô vuông nằm như những
mảnh ghép trò chơi hướng về phía chân trời. Ở tận cùng góc đông bắc hạt
Richland, dòng sông Embarras uốn mình rẽ nhánh từ con sông lớn Wabash
chảy vào Illinois. Cư dân ở đây qua nhiều thế hệ luôn thích thú khám phá
cũng như đi cắm trại tại vô số hang động trong vùng. Có một địa điểm ít được lui tới và không mấy ai biết nằm ở phía ngoài vùng phụ cận của Richland.
Nó chẳng lớn hơn một cái hố trong lòng đất là mấy. Nhưng lối vào, rộng
khoảng 10 fit và cao 8 fit, cũng đủ để du khách khom mình len lỏi qua
một hành lang tự nhiên chạy dài 15 fit vào trong lòng một quả đồi cách
bờ nam sông Embarras khoảng 3/4 dặm.
(Còn nữa)
|
Kho báu mất tích của hoàng đế Juba (Phần 2)
|
Cập nhật lúc 00h06' ngày 07/05
|
|
Ở
tận cuối của cái hang dường như chẳng có gì lấy làm đặc biệt này là một
căn phòng nhỏ, rất khó để xác định nó là do tự nhiên hay con người tạo
ra. Du khách cho rằng những bức tường được trang trí bằng “những dấu hiệu của người da đỏ”
– hình khắc cổ về những con vật kì quái, nét chạm bí ẩn, cùng những
người đàn ông phục trang lạ thường; tất cả đều được thể hiện bằng những
nét thẳng nguyên sơ đã bị phai mờ theo năm tháng.
Chắc chắn cái hang này từng là nơi cư ngụ của bộ lạc
Kickapoo hoặc Shawnee, họ đã sống trên hạt Richland đến đầu những năm
1800. Kể từ thời điểm đó cho đến năm 1982 người ta mới suy nghĩ lại về
nó. Các nhà khảo cổ, dù cho có biết đến sự tồn tại của cái hang, cũng
không công khai cấm dân chúng đến gần hay cấm mọi người làm những việc
mà họ thích ở đó.
Ngày 02 tháng 04, một người đàn ông 47 tuổi đã đi vào
nơi tối tăm của hang động với đồ nghề là một chiếc đèn pin, cuốc chim
và ba lô. Ông sống ở Olney, một thị trấn nhỏ nằm cách cái hang 15 dặm.
Sinh ra ở tây Virginia, Russell E. Burrows đã chuyển đến nam Illinois
khi tham gia quân đội Mỹ trong chiến tranh Hàn Quốc. Tại đây niềm say mê
tìm hiểu lịch sử địa phương đã hình thành trong ông. Ông bắt đầu thu
thập những đồ dùng hàng ngày trong quá khứ.
|
Chân dung được thể hiện khác thường của một quan chức cấp cao được lấy từ hang động phía nam Illinois.
|
Dần dần, ông đã thu được những cái móng bò, đinh hình vuông, lọ sắt, đèn
lồng và cả những đồ chế tác từ thế kỉ 19 hoặc đầu thế kỉ 20 làm phong
phú thêm bộ sưu tập của mình. Bản thân là một người thợ khắc gỗ, ông có
thể hiểu rõ giá trị của những đồ vật làm bằng tay của những năm gần đây.
Có lẽ những đồ vật cùng loại cũng có thể được tìm thấy ở cái hang nhỏ
kỳ lạ mà ông từng được nghe kể. Ông tìm thấy nó nằm trơ trọi như nó vốn
thế, ông dừng lại trong giây lát để quan sát bầu trời bất ổn, tiếng sấm
rền báo hiệu điềm xấu ở đằng xa. Đúng như mô tả, bên trong cái hang rất
nhỏ, có hàng rào tự nhiên không mấy ấn tượng bao xung quanh như những
cái hang khác mà ông biết. Đi đến tận cùng, Burrows bước vào căn phòng.
Có lẽ nó do con người tạo ra, nhưng tại sao lại có người tạo ra nó thì
không ai biết. Người da đỏ lại làm những điều mà không một người da
trắng hiện đại nào có thể hiểu được. Ánh sáng của chiếc đèn pin chiếu
lên những hình vẽ còn chưa được gọt giũa tô điểm đó đây trên tường.
Chúng sẽ tô điểm thêm sắc màu cho bộ sưu tập những đồ lặt vặt của ông.
Rõ ràng vào thế kỉ 19 chưa hề xuất hiện loại đinh đầu
to. Thế nhưng sau nhát cuốc đầu tiên ông đã nhận thấy có gì đó lạ lùng.
Nó không tạo ra âm thanh rắn chắc như ông nghĩ. Mà lại có tiếng vang
nhỏ, như thể có một khoảng không trống rỗng ở mặt bên kia. Tò mò tìm
hiểu thực hư về sự tồn tại của khoảng không bên ngoài, ông tiếp tục cuốc
với một sự quyết tâm được khích lệ bởi âm thanh giống như tiếng vang
vọng của tiếng cuốc từ một nơi nằm sâu trong quả đồi.
Công việc quả thực gian nan, nhưng Burrows là một
người đàn ông khỏe mạnh. Chỉ sau 15 phút lao động đổ mồ hôi, những viên
đá cuối cùng cũng phải khuất phục. Đột nhiên, chúng đổ nhào xuống nền
đất, mở ra một căn phòng nhỏ khác. Không có gì phải tranh cãi, đây là
một căn phòng nhân tạo. Nó là nơi bắt đầu của những bậc thang bằng đá
dường như dẫn vào lòng trái đất. Ông chiếu đèn lên các bậc thang, cẩn
thận đi theo ánh sáng vào màn đêm dày đặc. Bậc thang rất dốc, Burrows
phải thận trọng đi nghiêng và cuối cùng cũng xuống đến nơi. Từ lối vào
phía trên đến bậc thang cuối cùng ước chừng cũng khoảng 30 fit. Một cái
hành lang dài, thẳp tắp chìm vào trong bóng tối trước mắt ông. Ánh sáng
của cây đèn pin làm lộ rõ cái vẻ tĩnh lặng, nhớp nháp của phần bên trong
hành lang khi Burrows cẩn thận tiến vào.
|
Chân dung một linh
mục Xemit được thể hiện bởi túm tóc cột kiểu đuôi ngựa theo nghi thức và
dòng chữ Do Thái ở bên trái; dòng chữ phía dưới là tiếng Numidia – một
ngôn ngữ viết vùng Bắc Phi.
|
Nó được đục đẽo hoàn hảo, với những cây đèn dầu lỗi
thời treo bên trên ở khoảng cách hợp lý. Trông chúng giống như bộ phim
ông đã từng được xem về thành La Mã cổ đại. Ông bước đi thận trọng.
Không khí nặng nề bởi những bí ẩn bao quanh, và cả những con rắn nữa,
đặc biệt là loài hổ mang nguy hiểm chết người vốn rất ưa thích môi
trường ẩm thấp trong lòng đất như thế này. May mắn là ông không gặp con
rắn nào. Âm thanh khẽ khàng duy nhất mà ông nghe được chính là tiếng
bước chân của mình trong không gian ngột ngạt. Đường hầm cứ kéo dài mãi,
ông đi qua hàng tá chiếc đèn dầu đã tắt ngấm trên cả hai bên tường.
Chiếu ánh sáng đèn pin lên trần thấp, ông nhận thấy
toàn bộ chiều dài của nó đều được phủ một lớp vết lửa hun – có lẽ là dấu
tích của vô số chiếc đuốc từng qua đây, từ bao lâu ông không thể đoán
được. Sau khi Burrows đi được khoảng 500 fit, hành lang dường như kết
thúc đột ngột. Nó rẽ ngoặt sang bên phải. Chiếc đèn pin chiếu rọi một
đoạn hầm dài, chạy thẳng phía trước quầng sáng đung đưa của bóng đèn.
Khi ông tiến vài bước thì một cánh cửa thấp đang mở
hiện ra bất thình lình ở bên trái. Cúi mình đi qua cánh cửa, ông đặt
chân vào một căn phòng nhỏ, gần như ngay lập tức ông loạng choạng ngã về
phía sau do quá ngạc nhiên. Ánh sáng chói mắt của cây đèn làm hiển hiện
một bức tượng đàn ông cao 5 fit được đúc bằng vàng đặc. Nó không đơn
giản chỉ là hình tượng trưng của một người đàn ông bình thường. Dáng vẻ
bao dung cùng với những cái lỗ trên cánh tay vươn dài rõ ràng đang khắc
họa một chân dung cụ thể. Cách bức tượng một vài fit về phía sau bên
trái, có một cái bục cao khoảng 3 fit. Trên đó đặt một cỗ quan tài cũng
bằng vàng ở kích thước thật.
Hết choáng váng về phát hiện của mình, Burrows nín
thở chiêm ngưỡng nét đẹp tinh tế của chúng nhưng vẫn ngần ngại không dám
chạm tay vào. Ông gần như không tin vào mắt mình. Rời căn phòng, ông
thấy có một vài căn phòng nữa nằm kế tiếp nhau...
Frank Joseph
(Còn nữa)
|
Kho báu mất tích của hoàng đế Juba (Phần 3)
|
Cập nhật lúc 03h43' ngày 07/05
|
|
Bên
kia sàn của một căn phòng là những loại vũ khí sắc bén – một chiếc kiếm
kim loại có khiên và rìu, cùng với một bộ thương đồng dài từ 3 đến 6
fit. Có cả áo giáp bằng đồng – miếng che ngực và che ống chân, cùng với
mũ sắt. Gần đó là những bức tượng nhỏ bằng đá khắc họa những người đàn
ông thuộc tầng lớp quý tộc, còn những người phụ nữ ăn mặc lạ kì dường
như ở Carthage hay vùng Thung lũng sông Nile cổ đại.
Những chiếc lọ đựng di cốt bằng đất nung hoặc đá,
một số cao bằng nửa người, được đặt tại hai góc phía cuối căn phòng. Rất
nhiều cái đã đổ và vỡ từ lâu làm lộ ra những thứ đựng bên trong – những
cuộn giấy da viết bằng thứ ngôn ngữ bí hiểm. Rải rác nằm giữa những cái
lọ này là những cái lọ được sơn màu và những cây đèn dầu nhỏ, giống như
những cái gắn trên tường hành lang.
Một cái giá nằm thụt bên trong bức tường đá, có hình
điêu khắc giống như các vị thần Hy Lạp, chạy xung quanh. Sát với một bức
tường là một chồng đá gồm khoảng 100 phiến đá đen, nhẵn phẳng. Trên mỗi
phiến đá có khắc tiểu sử của một người cũng với những dòng chữ không
thể nhìn ra.
Những gương mặt của đàn ông và phụ nữ đang hoang mang
(phần lớn là đàn ông giống như những người lính đội mũ sắt kiểu La Mã,
hoặc có thể là những thầy tu mặc áo choàng dài) có nét mặt của người
châu Âu hoặc Xemit nhưng mặc áo choàng rộng hay trang phục của dân cư đã
có từ rất lâu trong lịch sử. Bước vào căn phòng kế bên cùng kích cỡ,
Burrows nhận thấy trên mặt đá có vết cắt hình vòm. Lấp lánh dưới ánh
sáng chiếc đèn pin là những chồng tiền vàng (về sau được xác định khoảng
trên 1 tấn). Một cái vòm tương tự có một cái bát đá cỡ chừng 1 lít chứa
đầy những viên kim cương chưa hề được cắt gọt.
|
Phiến đá khắc họa
chân dung giống chúa Giê-su lấy từ hang động phía nam Illinois này có
dòng chữ Do Thái Yahweh trên đỉnh; bên trái là chữ thập hình lá; bên
dưới là hình chạm khắc của Alexander Helios – con trai của nữ hoàng
Cleopatra, có thể là người đã dẫn đoàn người tị nạn Bắc Phi đến Bắc Mỹ
vào năm 41 trước công nguyên.
|
Choáng váng trước phát hiện của mình, ông chiếu cây đèn pin trong bàn
tay run rẩy của mình lên bức tường phía xa căn phòng. Ngay lập tức ông
thấy nó mở ra một căn phòng khác to hơn rất nhiều với kích cỡ 20 – 25
fit. Tại trung tâm là một cỗ quan tài bằng đá lớn. Bên trong là một
chiếc quan tài bằng vàng được tạo ra bởi đôi bàn tay siêu phàm. Giống
như ở những căn phòng nhỏ hơn, những chồng đá đen khổng lồ cũng được
trang trí bởi nét chữ khác thường, loằng ngoằng, biểu tượng lạ kì cùng
với hình ảnh của cả con người lẫn những con thú trong hầm mộ. Hình tượng
con người được khắc họa là sự pha trộn không tin nổi giữa người La Mã,
người Phê-ni-xi, người Do Thái, người theo đạo Cơ Đốc, người da đỏ Bắc
Mỹ, thậm chí cả người da đen châu Phi. Một số loài vật cũng được khắc
hóa trên đá ví dụ như sư tử, voi, lạc đà (vốn không phải các loài bản
địa của Mỹ) từ ít nhất trước kỉ Băng Hà cuối cùng cách đây 12.000 năm
trước. Nhưng chúng đã ở đây cùng với tất cả những điều phi lý của mình.
Những điều không thực tế của cái hang dưới lòng đất
này đã làm Burrows choáng ngợp. Ông cần hít thở không khí trong lành,
cần quay lại thế giới bên trên. Không khí dưới hang quá ngột ngạt với sự
hiện diện vô danh của sự vật. Quay trở lại căn phòng thứ 3, ông tự
trang bị cho chiếc túi của mình càng nhiều càng tốt rồi vội vã hết tốc
lực. Cái balô phình ra, còn túi quần áo thì nặng trĩu vang lên tiếng
lanh canh của tiền vàng cộng thêm vài chục viên kim cương.
Chẳng mấy chốc, ông đã trườn qua được bức tường đổ
quay trở lại căn phòng nhỏ ở cuối hang. Burrows quá đỗi vui mừng với vận
may không thể nào tin được của mình. Đó là gia sản cả một đời người mới
kiếm được. Nhưng dù nơi này có là gì đi nữa, cũng không thể bỏ mặc tầm
quan trọng cũng như của cải trong đó mà không hề được canh giữ. Ông cố
sắp lại bức tường bị cuốc đổ để lấy lối đi, nhưng bất cứ một ai tình cờ
nhìn thấy những viên đá đã bị di dời sẽ biết được rằng họ vừa mới bị kẻ
nào đó cho bại trận. Cái hang từ trước đó rất hiếm khi có người lui tới,
nhưng bây giờ nó rất dễ dàng cuốn hút những người tò mò như Burrows.
|
Đây là chân dung
của một người lính có khắc hình sao chổi hoặc thiên thạch trên đỉnh
phiến đá. Góc phải là kí tự Phenixi chỉ số 27, có lẽ là tuổi của người
đàn ông này.
|
Những người khác có thể tìm được lối vào bên trong và lấy đi toàn bộ của
cải còn lại. Trở ra phía ngoài, Burrows thấy nhẹ nhõm khi chỉ còn một
mình. Do ông không thể khôi phục lại bức tường đổ trở về tình trạng cũ
như khi ông tìm thấy nó, Burrows đã giấu giếm rằng cái hang tự nó mở ra.
Kinh nghiệm trong chiến tranh Hàn Quốc của ông trong quân đội Mỹ vẫn
chưa hề bị lãng quên. Ông kéo những cây bụi và những cành cây to che kín
cái hố nhằm ngụy trang sự có mặt của nó, sau đó đặt lại những phiến đá
lớn để thay đổi mặt trước so với môi trường xung quanh. Trong vòng 1 giờ
đồng hồ, cái hang đã hoàn toàn bị biến đổi, những người không quen
thuộc với nó sẽ không bao giờ có thể tìm được lối vào. Yên tâm rằng phát
hiện của mình đã được giấu kĩ bằng cách xáo trộn mọi vật xung quanh,
ông quay trở lại chiếc xe nằm cách đó 200 dặm. Trời chiều ngả về đêm.
Bóng tối sâu thẳm chìm trong những rãnh nước và khe núi. Nó che giấu cái
hang thậm chí còn hiệu quả hơn cả vỏ bọc tự nhiên từ cây cối và đất đá
xung quanh.
Phát hiện khó tin này quả thực là của Burrows, không
có gì phải bàn cãi cho dù có biết được tài sản bên trong cái hang hiện
là sở hữu của ai đi chăng nữa. Cái hang vẫn cứ nằm im lìm bấy lâu khi
Burrows tiếp tục giữ bí mật về vị trí của nó. Dù một ngày nào đó có
người cố chứng minh cái hang thuộc về anh ta, thì Burrows vẫn sẽ cứ trầm
ngâm với bản thân mình khi lê bước trên con đường trải dài về nhà lúc
mờ sáng. Cái hang vẫn sẽ ở đó và mãi mãi được biết đến với cái tên “hang Burrows”.
Frank Joseph
(Còn nữa)
|
Kho báu mất tích của hoàng đế Juba (Phần cuối)
|
Cập nhật lúc 15h54' ngày 07/05
|
|
19
năm sau, Russell Burrows công bố rộng rãi bài miêu tả chi tiết về sự
kiện ngày 02 tháng 04 trước hội thảo khảo cổ quốc tế tại Trung tâm nghệ
thuật Vienna, Áo.
“Cái hang sâu 535 fit tính từ điểm tận cùng. Góc
xuống là 6 độ. Đồ tạo tác tôi thu được có trong bùn là nhiều nhất. Tuy
nhiên cũng có một số nằm trong hốc hay giá dọc theo các bức tường. Cũng
có cả những đèn đã bị bỏ nút bằng đá trên tường. Một số được bố trí cứ
15 đến 20 fit một cây”. Đáng kể là các kích thước cũng như các đặc
điểm lại tương tự với lăng mộ của Kubr-er-Roumia – Hoàng đế Juba đệ nhị.
Xác ướp của hoàng đế cũng kho báu của ngài đặt trong lăng mộ đã bị lấy
đi trước cuộc xâm chiếm của đế chế La Mã vào năm 44 trước Công nguyên.
Những người điều tra chuyên nghiệp đầu tiên về lăng mộ của hoàng đế “nhận thấy họ như đang ở trong một phòng triển lãm cao 8 fit và rộng 6,5 fit”.
“Dọc các bức tường đều có hốc nhỏ dường như được tạo ra để đặt những cây đèn”, nhà sử học A. MacCallum Scott cho biết. Giống như một cái hang tại nam Illinois, hành lang trong lăng mộ hoàng gia Mauretania “dài khỏang 500 fit”. “Vách
tường phía trên những cây đèn được thắp sáng bằng mỡ động vật, dầu hay
nguyên liệu nào đó đều phủ một lớp màu đen từ khói đèn. Có một lần tôi
thắp sáng 10 cây nến tại một số vị trí đặt đèn, rồi sau đó tắt đèn đi.
Tôi đã phải ngạc nhiên vì cả không gian đều được soi sáng. Khoảng không
rộng nhất của cái hang có 5 bức tượng cùng làm từ một loại chất liệu màu
đen giống như những đồ vật trưng bày ở đây. Những bức tượng này được
sắp xếp theo hình bán nguyệt, và chúng xuất hiện theo cấp bậc của người
Hy Lạp: chân trái và tay trái ở phía trước; tay trái cầm quyền trượng.
Những bức tượng này cao trên 8 fit, làm từ một loại nguyên liệu màu đen.
Tôi ước tính trọng lượng của chúng vào khoảng 4 đến 6 tấn, do loại
nguyên liệu này đặc và rất nặng”.
|
Dựa vào chiếc mũ sắt có thể biết được chiến binh được khắc họa trên phiến đá hang động nam Illinois này thuộc “nhóm đặc biệt” của đế chế La Mã.
|
“Tôi cũng khám phá có 13 ô cửa trên các bức tường
của hang động. Các ô cửa này được khép kín nhớ những khối đã cắt gọt
vừa vặn. Các khe hở được bịt kín bằng dầu hắc ín hoặc sáp ong. Tôi đã
lấy một khối đá ra và ngạc nhiên khi phát hiện ra rằng ô cửa được bịt
kín lại là lối vào một lăng mộ có diện tích chừng 12 fit vuông đặt một
cỗ quan tài bằng đá ở giữa.Trong lăng mộ này, tôi tìm thấy một bộ xương
đàn ông xác định được nhờ xương chậu. Trên bộ xương này có đồng xu, vàng
và trang sức; bên trong cỗ quan tài cạnh bộ xương còn có thanh kiếm,
rìu và khiên. Có cả những cái lọ lớn, bây giờ vẫn còn, một cái trong số
chúng bị đổ và vỡ. Bên trong cái lọ vỡ là khoảng 20 cuộn giấy da. Tôi
không chạm vào chúng, tôi biết khá rõ rằng nếu tôi làm thế tôi sẽ làm
hỏng chúng. Chúng vẫn thế khi tôi bỏ đi”.
“Lăng mộ tiếp theo tôi mở ra rồi xem xét rất
giống với cái đầu tiên về kích cỡ cũng như cấu trúc. Tuy nhiên, phần còn
lại của những bộ xương là của một người phụ nữ cùng 2 đứa trẻ. Tại vị
trí trái tim của người phụ nữ, luồn qua xương sườn là một vật nhọn mỏng
bằng vàng đủ lớn để xuyên vào trái tim. Với tôi dường như vật này có
hình thù giống như mũi của ngọn giáo lớn hay lưỡi gươm đã bị xương giữ
lại. Chính vì thế khi cố gắng lất nó ra, nó rời khỏi cán và nằm lại đây.
Bộ xương của hai đứa trẻ có một cái lỗ lớn trên trán. Trong quan tài
cũng có 2 cái rìu làm từ đá cẩm thạch trắng. Một cái trong đó vừa khít
với cái lỗ trên đầu 2 đứa trẻ”.
"Trong lăng mộ này cũng có những cái lọ lớn,
nhưng không cái nào bị vỡ nên tôi không thể biết có gì trong đó. Trên
những bộ xương là rất nhiều đồ trang trí chôn theo người chết."
“Xa hơn về phía sau ở tầng dưới của hang động lại
là một ngôi mộ khác to hơn, khác biệt hơn trong đó lại có một quan tài
nằm chính giữa có nắp đậy kín bằng đá. Bên trong là cỗ quan tài bằng
vàng giống như những quan tài trong lăng mộ Ai Cập. Trong cỗ quan tài
bằng vàng này là một thứ giống như xác ướp. Tôi không dám nói chắc vì
không chạm vào lớp vải mục nát xung quanh cái cơ thể đó. Ngôi mộ được
khép kín nhờ một thiết bị giống như bánh xe, bằng đá, tròn. Khi khe hở
cuối cùng xuất hiện, nó sẽ rơi xuống máng và lăn xuống, đóng kín lăng
mộ. Trong lăng mộ là một cái giá cắt ngang bức tường đá. Có rất nhiều
tượng trông giống Amen-Ra – một vị thần Ai Cập. Ở đây còn rất nhiều đồ
tạo tác như những chiếc giáo đồng đủ kích cỡ, kiếm và khiên đồng cũng
như đồ dùng cá nhân khác. Tôi không hề chạm vào bất kì vật gì, quan tài
vẫn đóng kín cũng như cỗ quan tài đá, và cả lăng mộ cũng thế”.
Lắng nghe bài thuyết trình với giọng nói kéo dài
nhưng điềm tĩnh đặc trưng của vùng tây Virginina của Burrows, các nhà
khoa học tại hội nghị Vienna đã hoàn toàn sửng sốt. Câu chuyện hoàn toàn
đáng tin. Nhưng câu chuyện như trong mơ của Burrows còn chứa đựng rất
nhiều điều chứ không đơn giản chỉ là những lời tường thuật.
Frank Joseph
|
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét