¹ Tuyên ngôn của Nữ hoàng: Guds hjælp, Folkets kærlighed, Danmarks styrke ("Phước chúa, lòng dân, sức mạnh Đan Mạch")
² Cùng với tiếng Kalaallisut trên đảo Greenland, tiếng Faroe trên quần đảo Faroe và tiếng Đức tại các vùng đông dân gốc Đức
³ Không tính Greenland và quần đảo Faroe
Đan Mạch (tiếng Đan Mạch: Danmark,tiếng Anh:Denmark) là một quốc gia thuộc vùng Scandinavia ở Bắc Âu và là thành viên chính của Vương quốc Đan Mạch. Đan Mạch nằm ở vùng cực nam của các nước Nordic, nằm phía Tây Nam của Thụy Điển, phía Nam của Na Uy và giáp với Đức về phía Nam. Đan Mạch giáp cả biển Baltic và biển Bắc. Đan Mạch bao gồm một bán đảo lớn, Jutland (Jylland) và nhiều đảo, được biết đến nhiều nhất là Zealand (Sjælland), Funen (Fyn), Vendsyssel-Thy, Lolland, Falster, Bornholm, và hàng trăm đảo nhỏ thường được gọi là quần đảo Đan Mạch. Đan Mạch từ lâu đã kiểm soát cửa ngõ vào biển Baltic. Trước khi có kênh đào Kiel, nước chảy vào biển Baltic qua ba eo biển được gọi là những eo biển Đan Mạch.
Đan Mạch là một quốc gia quân chủ lập hiến với thể chế đại nghị. Đan Mạch có một chính phủ cấp quốc gia và chính quyền địa phương ở 98 khu tự quản. Đan Mạch là thành viên của Liên minh châu Âu từ năm 1973, mặc dù không thuộc khu vực đồng Euro. Đan Mạch là thành viên sáng lập của NATO và OECD.
Đan Mạch, với một nền kinh tế tư bản chủ nghĩa hỗn hợp và hệ thống phúc lợi quốc gia lớn, xếp hạng nhất trên thế giới về bình đẳng thu nhập. Theo tạp chí kinh tế Hoa kỳ Forbes, Đan Mạch có môi trường kinh doanh tốt nhất thế giới.
Từ năm 2006 đến 2008, theo thăm dò, Đan Mạch được xếp hạng là nơi hạnh
phúc nhất thế giới dựa trên các tiêu chí sức khỏe, phúc lợi xã hội và
giáo dục. Thăm dò Chỉ số hòa bình toàn cầu năm 2009 xếp Đan Mạch là nước yên bình thứ nhì trên thế giới sau New Zealand. Đan Mạch được xếp là nước ít tham nhũng nhất trên thế giới theo Chỉ số nhận thức tham nhũng 2008, cùng hạng với Thụy Điển và New Zealand Tiếng Đan Mạch,
ngôn ngữ quốc gia được coi là gần với tiếng Thụy Điển và tiếng Na Uy.
Đan Mạch cũng có văn hóa và lịch sử tương đồng với hai nước này. 82,0%
dân số Đan Mạch và 90,3% dân tộc Đan là thành viên của giáo hội Luther.
Năm 2009, 526.000 người (9,5% dân số Đan Mạch) là người nhập cư hoặc
thế hệ sau của những người nhập cư. Đa số (54%) trong số này có nguồn
gốc từ Scandinavia hoặc châu Âu, phần còn lại chủ yếu đến từ các nơi ở châu Á.
Đất nước thuộc vùng Scandinavia với diện tích 43.000 km², một phần ba trong số đó là diện tích của 443 hòn đảo lớn nhỏ. Hai hòn đảo lớn nhất là Zealand (Sjælland) – rộng khoảng 7.000 km² và Funen (Fyn) – khoảng 3.000 km². Đường bờ biển dài tới 7.314 km. Địa hình của Đan Mạch khá bằng phẳng, với điểm cao nhất cách 173 m so với mực nước biển
Bán đảo Jutland (Jylland) hình thành nên phần đất liền của Đan Mạch. Nó trải dài trên 300 km tính từ biên giới với Đức. Các cồn cát, vũng biển và bãi bồi bảo vệ bờ tây của bán đảo trước những cơn bão dữ dội từ ngoài Bắc Hải. 443 hòn đảo lớn nhỏ tập trung chủ yếu trên biển Baltic, ngay sát với bờ tây của Jutland. Chỉ 76 trong số này có người ở. Độ cao trung bình của Đan Mạch so với mực nước biển là 30 m..
Những khối băng lớn của thời kì băng hà đã hình thành nên Đan Mạch ngày nay. Một vành đai băng cổ đã chia cắt phần đông và tây của Jutland.
Vịnh hẹp khoét sâu vào đất liền lớn nhất có tên là Limfjorden, chạy xuyên ngang phần phía bắc bán đảo hướng tới mũi Skagen. Phía đông Jutland là Eo biển Lillebælt ngăn cách đảo Funen(Fyn) với lục địa. Đông nam Funen có hệ thống cầu nối với hòn đảo nhỏ Langeland. Chếch sang phía đông một chút là đảo Zealand (Sjælland), ngăn cách với Funen bởi Eo biển Storebælt. Trên bờ phía đông của đảo này ta sẽ tìm thấy thủ đô Copenhagen(København). Xa xa về phía đông là hòn đảo granit có tên Bornholm.
Trên đảo Greenland (Grønland)có khoảng hơn 55.000 dân cư sinh sống, 48.000 trong số họ là người thiểu số Inuit. Thủ phủ của Greenland là Nuuk. Từ năm 1380 hòn đảo này là thuộc địa của Đan Mạch, từ năm 1953 nó trở thành một lãnh thổ tự trị thuộc Đan Mạch.
Hình Đan Mạch chụp từ vệ tinh
Quần đảo Faroe (Farøerne) (thủ phủ: Tórshavn, diện tích 1.399 km², 44.800 dân) là thuộc địa của Na Uy từ năm 1035 tới năm 1814. Quần đảo này có khí hậu ôn hoà, dễ chịu chủ yếu nhờ vào ảnh hưởng của dòng hải lưu Gulf.
Cũng chính dòng hải lưu này, cùng với vị trí phía bắc của Đan Mạch,
ảnh hưởng phần lớn tới khí hậu của vương quốc: thường có một đợt gió từ
ôn hoà tới mạnh thổi chủ yếu từ phía tây, mùa hè lạnh hơn so với các
nước châu Âu khác, nhưng mùa đông lại ấm áp hơn, lượng mưa hàng năm vào
loại trung bình. Cây trồng đa phần là cây chắn gió và chắn cát lấn vào
đất liền.
Ngoại trừ loài hươu sừng nhiều nhánh (Cervus elaphus) Đan Mạch hầu như không có thêm loài thú lớn nào khác. Ngược lại, nơi đây lại là thế giới của vô số các loài chim. Ô nhiễm môi trường chính là nguyên nhân chủ yếu đe dọa sự tồn tại của các loài động vật vùng hồ và bờ biển của Đan Mạch.
Các tài nguyên chính của quốc gia: dầu mỏ, khí đốt, cá, muối và đá vôi.
Khí hậu
Đan Mạch có khí hậu ôn đới, đặc trưng bởi mùa đông ấm áp, với nhiệt
độ trung bình tháng một 1,5 °C (34,7 °F), và mùa hè mát, với nhiệt độ
trung bình tháng 8 17,2 °C (63,0 °F)
Đan Mạch có 179 ngày có giáng thủy với tổng lượng nước 765 milimét
(30 in) mỗi năm; mùa thu là mùa ẩm ướt nhất và mùa xuân khô nhất Vị trí giữa lục địa và đại dương làm cho thời tiết thường thay đổi.
Do vị trí phía bắc của Đan Mạch nên có những dao động theo mùa về ánh
sáng ban ngày. Ngày ngắn trong mùa đông khi mặt trời mọc khoảng
8:45 sáng và lặn lúc 3:45 pm (giờ chuẩn), và mùa hè kéo dài khi mặt trời
mọc lúc 4:30 sáng va lặn lúc 10 tối (giờ mùa hè)
Đan Mạch có tổng diện tích 43,094 kilômét vuông (16,639 sq mi) được phân thành 5 vùng hành chính (tiếng Đan Mạch: regioner). Các vùng này lại được chia thành 98 đô thị (kommuner). Vùng đất tận cùng phía đông ở Đan Mạch là quần đảo Ertholmene có diện tích 39 ha (0,16 m2), không phải là vùng đô thị cũng không phải một vùng nhưng trực thuộc Bộ Quốc Phòng của nước này.
Các vùng được thành lập ngày 01/01/2007 để thay thế 16 hạt trước đây.
Cùng lúc này, các đô thị nhỏ hơn được hợp nhất để tạo thành các đơn vị
lớn hơn nên giảm xuống từ 270. Hầu hết các đô thị có dân số ít nhất
20.000 dân tạo ra sự bền vững về tài chính và quản lý tốt hơn, mặc dù có
một vài ngoại lệ Đứng đầu các đơn vị hành chính là hạt được bầu cử trực tiếp nhiệm kỳ 4
năm; lần bầu cử gần đây nhất được tổ chức vào ngày 19 tháng 11 năm 2013.
Các cấu trúc vùng khác sử dụng các ranh giới đô thị, bao gồm các quận
cảnh sát, quận tòa án và quận bầu cử.
Các vùng
Chính thể của các vùng là các hội đồng hạt khu vực gồm 41 người được bầu nhiệm kỳ 4 năm. Đứng đầu hội đồng là regionsrådsformand người được bầu ra từ hội đồng Hội đồng chịu trách nhiệm về chăm sóc sức khỏe quốc gia, dịch vụ xã hội, và phát triển vùng. Không giống các hạt đã được thay thế, các vùng không được phép thu thuế
và dịch vụ y tế được chi trả chủ yếu từ đóng góp chăm sóc sức khỏe quốc
gia khoảng 6% (sundhedsbidrag) cộng thêm các quỹ từ chính phủ và đô thị
Diện tích và dân số của các vùng thay đổi nhiều; ví dụ vùng thủ đô Đan Mạch trãi dài vùng đô thị Copenhagen và đảo Bornholm có dân số gấp 3 lần vùng phía bắc Bắc Đan Mạch, trong đó bao gồm các khu vực thưa thớt dân cư của bắc Jutland. Theo hệ thống hạt các vùng đông đúc dân cư như Copenhagen và Frederiksberg được trao quy chế tương tự như các hạt, làm nó trởi thành các đơn vĩ hành chính cấp một. Các đô thị sui generis không được sáp nhập vào các dùng mới theo cải cách năm 2007.
Ngôn ngữ chính của Đan Mạch là tiếng Đan Mạch, ở vùng Sønderjylland (giáp với Đức) tiếng Đức là ngôn ngữ chính thứ hai, trên đảo Greenland người ta còn nói tiếng Kalaallisut (tiếng Anh: Greenlandic), còn ở quần đảo Faroe thì tiếng Faroe cũng là ngôn ngữ chính thức. Phía nam Đan Mạch có khoảng 80.000 dân nói tiếng Đức. Tiếng Đan Mạch thuộc nhánh phía Bắc của nhóm ngôn ngữ German của hệ ngôn ngữ Ấn-Âu với rất nhiều từ vay mượn từ ngôn ngữ miền Bắc nước Đức. Ngày nay tiếng Anh là ngoại ngữ quan trọng nhất ở Đan Mạch, đa số học sinh chọn tiếng Anh là sinh ngữ chính. Tuy nhiên tiếng Đức và tiếng Pháp vẫn có một ảnh hưởng đáng kể.
Tôn giáo
Một nhà thờKitô giáo được xây dựng từ năm 1200 theo kiến trúc tôn giáo điển hình của Đan Mạch.
Thời tiền sử cho tới ít năm trước thời Trung cổ, Đan Mạch cũng như các nước vùng Scandinavia có niềm tin vào các vị thần trong Thần thoại Bắc Âu, gọi là Asatroen hay Nordisk mytologi. Các tác phẩm quan trọng nhất về thần thoại Bắc Âu là 2 quyển Edda cổ (ældre Edda) và Edda mới (yngre Edda).
Quyển Edda
cổ (hay Edda bằng thơ) là một tuyển tập thơ về các vị thần và anh hùng
Bắc Âu, gồm 34 tập, trong đó có 2 tập quan trọng nhất là Voluspá và Hávamál, được viết bằng chữ Iceland cổ, từ khoảng năm 800 tới năm 1200.
Quyển Edda mới (hay Edda bằng văn xuôi), còn được gọi là Snorra Edda vì được thi sĩ người Iceland là Snorri Sturluson (1179 - 1241) viết khoảng năm 1220, dạy cách làm thơ cổ Bắc Âu (skjaldekvad) và có rất nhiều truyện thần thoại (khoảng 90.000 từ).
Các ngày trong tuần được gọi theo tên các vị thần:
Đan Mạch theo Kitô giáo từ khoảng năm 965. Tới thời Kháng Cách (reformationen) năm 1536 thì phong trào Kháng Cách dòng Giáo hội Luther trở thành quốc giáo. Có một bộ trong chính phủ phụ trách về tôn giáo. Theo thống kê năm 2006 thì những người theo Giáo hội Luther Quốc giáo chiếm 95%, Công giáo Rôma 3%, Hồi giáo 2% (hầu như toàn người nhập cư), các đạo khác hoặc vô thần 13,1%.
Lịch sử
Thời tiền sử
Các phát hiện khảo cổ ở Đan Mạch có niên đại từ năm 130.000–110.000 trước Công nguyên trong thời kỳ gian băng Eem[15]. Con người đã sống ở Đan Mạch từ khoảng năm 12.500 trước Công nguyên và có bằng chứng ngành nông nghiệp đã tồn tại từ khoảng năm 3900 trước Công nguyên[16]. Thời kỳ đồ đồng Nordic (1.800–600 trước Công nguyên) ở Đan Mạch đã được đánh dấu bằng các gò mộ để lại nhiều phát hiện khảo cổ, bao gồm lur và Sun Chariot.
Trong Thời kỳ Đồ sắt tiền La Mã (500 trước Công nguyên – 1 Công nguyên), các nhóm dân bản địa bắt đầu di cư về phía nam, dù[16] những người Đan Mạch đầu tiên đến Đan Mạch giữa thời kỳ tiền La Mã và Thời kỳ Đồ sắt German[17], trong Thời kỳ Đồ sắt La Mã (sau Công nguyên 1–400).
Thời tiền sử ở Đan Mạch cách nay khoảng 15.000 năm, khi sông băng lục địa (inland ice)
trôi chệch về phía bắc do một sự thay đổi khí hậu. Những người săn bắt
tuần lộc (loại hươu lớn có sừng nhiều nhánh, tên khoa học là Rangifer tarandus)
đã sống tại đây, sau đó tới những người sống bằng nghề săn bắt các
muông thú khác và những người đánh cá trải qua hàng thiên niên kỷ.
Cách nay khoảng 6.000 năm thì bắt đầu thời đại đồ đá của người săn bắt, dần dần thay thế bằng thời đại đồ đá của nông dân, sau đó là thời đại đồ đồng, rồi thời đại đồ sắt.
Ngay cuối thời đại đồ sắt, tức khoảng thế kỷ thứ 8, ở đây đã tồn tại
một chính quyền trung ương mạnh, bằng chứng là đã có công trình Dannevirke gồm hệ thống bờ lũy cao, dài 14 km ở cách phía nam biên giới Đan Mạch - Đức hiện nay khoảng 40 km, gần bên thành phố viking Hedeby (tiếng Đức là Haithabu),
vùng Slien gần Schleswig. Ngoài ra trong thời đại đồ sắt còn một hệ
thống kênh đào ngang qua đảo Samsø dài khoảng 500 m, rộng 11 m để tàu
thuyền lưu thông, thời đó dùng làm một khâu của căn cứ hải quân bảo vệ
thành phố Aarhus, gọi là Kanhavekanalen.
Trung cổ
Tàu Ladby, con tàu lớn nhất của người Viking được tìm thấy ngoài khơi Đan Mạch.
Cối xay gió Dybboel
Thời tiền sử kết thúc vào thời Viking, khi những người Viking Đan Mạch bắt đầu đi buôn bán và cứớp bóc ở phần lớn châu Âu.
Nhờ có 2 tấm bia đá khắc chữ rune ở Jelling (nam bán đảo Jylland, tấm nhỏ do Gorm già dựng khoảng năm 955, tấm lớn do Harald răng xanh dựng khoảng năm 965) mà ta biết vị vua đầu tiên của bán đảo Jylland là Gorm giàGorm den Gamle và là cha của Harald Blauzahn (Harald răng xanh), người sau này đã thống nhất Đan Mạch vào năm 980. Hai tấm bia kể trên được coi là "Giấy khai sinh của Đan Mạch".
Cho tới tận thế kỷ 11 người Đan Mạch vẫn còn được coi là người Viking,
dân tộc đã từng làm chủ nhiều thuộc địa và thâu tóm việc buôn bán khắp
châu Âu. Người Viking cũng như thường xuyên cướp phá và gây chiến. Họ
bắt đầu đòi cái gọi là Danegæld
(món nợ người Đan Mạch) theo đó thì các vua Anh phải nộp thuế cho vua
Đan Mạch, để không bị cướp bóc, vì họ có một hạm đội rất mạnh.
Một nhóm các binh sĩ Đan Mạch vào buổi sáng khi cuộc xâm lược của Đức vào Đan Mạch bắt đầu, ngày 9 tháng 4 năm 1940.
Sau Thế chiến thứ nhất biên giới Đan Mạch - Đức được tái xác lập, lần này là lui về phía nam. Năm 1920 nó được xác định chính thức và tồn tại cho đến ngày nay: bắc Schleswig trở về với Đan Mạch. Việc thường xuyên thay đổi đường biên giới dẫn tới sự tồn tại của hai bộ phận dân cư thiểu số ở hai phía: người Đức ở nam Đan Mạch và người Đan Mạch ở miền bắc nước Đức.
Từ ngày 9 tháng 4 năm 1940 cho đến khi kết thúc Thế chiến thứ hai Đan Mạch nằm dưới sự chiếm đóng của quân đội Đức. Cuộc nổi dậy của nhân dân Đan Mạch chống lại sự thảm sát người Do Thái đã trở nên tiêu biểu. Tháng 10 năm 1943 những người Do Thái ở Đan Mạch đã được nhân dân Đan Mạch cứu thoát.
Sau chiến tranh, Đan Mạch trở thành thành viên của khối NATO. Năm 1973 vương quốc này là quốc gia Bắc Âu đầu tiên trở thành thành viên của Cộng đồng châu Âu, nay là Liên minh châu Âu, sau cuộc trưng cầu dân ý.
Năm 1989, Đan Mạch trở thành nước đầu tiên trên thế giới thông qua luật cho phép người đồng tính luyến ái được phép chung sống với nhau.
Sau cuộc trưng cầu ý dân năm 1992, người Đan Mạch phản đối việc phê chuẩn hiệp ước Maastricht (Hiệp ước ngày 7 tháng 2 năm 1992, thành lập Liên minh châu Âu của 12 quốc gia thành viên của Cộng đồng Kinh tế châu Âu), nhưng lại chấp nhận vào năm 1993. Trong cuộc trưng cầu ý dân năm 2000, Đan Mạch từ chối lưu hành đồng euro.
Chính trị
Luật căn bản - cũng gọi là luật hiến pháp - của Vương quốc Đan Mạch (Danmarks Riges Grundlov) được vua Frederik VII ký ban hành ngày 5 tháng 6 năm 1849. Luật này chuyển quốc gia Đan Mạch từ một vương quốc do một người cai trị (enevælde) sang một quốc gia theo chính thể quân chủ lập hiến với chế độ tam quyền phân lập. Quyền lập pháp ở trong tay quốc hội (Folketinget), quyền hành pháp do chính phủ đảm nhiệm và quyền tư pháp độc lập.
Người đứng đầu quốc gia (chỉ đóng vai trò tượng trưng) là vua hoặc nữ hoàng. Hiện nay đứng đầu vương quốc là Nữ hoàng Margrethe II.
Luật căn bản này đã trải qua 3 đợt tu chính: lần thứ nhất vào năm
1866, lần thứ hai vào năm 1915 (cho phép các phụ nữ được quyền ứng và
bầu cử) và lần thứ ba vào năm 1953.
Kể từ năm 1953, Quốc hội Đan Mạch bỏ việc phân chia Quốc hội thành Thượng viện và Hạ viện
(do hai viện nay có quyền hạn như nhau nên rất khó để phân biệt) và
theo chế độ một viện (unicameral) với 179 nghị sỹ (trong đó 2 ghế dành
riêng cho đảo Greenland và 2 ghế dành cho quần đảo Faroe), được bầu trực tiếp với nhiệm kỳ 4 năm.
Đặc điểm nổi bật của hệ thống chính trị ở Đan Mạch là nền dân chủ
liên hiệp (collaborative democracy). Từ năm 1909, không có một đảng nào
giành đa số tuyệt đối trong bầu cử; phần lớn là chính phủ thiểu số của
một đảng hoặc chính phủ liên minh 2-3 đảng. Kể từ thập kỷ 1980, trong quốc hội luôn có đại diện của ít nhất là 7 đảng. Quốc hội Đan Mạch (Folketinget) nắm quyền lập pháp,
gồm 179 đại biểu và được bầu 4 năm một lần. Trong số 179 đại biểu quốc
hội có hai đại diện của đảo Greenland và hai đại diện của quần đảo
Faroe. Hiện nay - sau cuộc bầu cử trước thời hạn, ngày 23 tháng 11 năm 2007 - có tất cả 8 đảng phái đại diện trong quốc hội và số đại biểu được chia như sau:
Đảng Tả (chủ trương tự do kinh tế) (Venstre): 46 đại biểu
Đảng Dân chủ Xã hội (Socialdemokratiet): 45 đại biểu
Đảng Dân tộc Đan Mạch (Dansk Folkeparti): 25 đại biểu
Đảng Dân tộc Xã hội (Socialistisk Folkeparti): 23 đại biểu
Đảng Dân tộc Bảo thủ (Det Konservative Folkeparti): 18 đại biểu
Đảng Tả Cấp tiến (Det Radikale Venstre): 9 đại biểu
Quyền tư pháp hoàn toàn độc lập, do hệ thống các tòa án nắm giữ, đứng đầu là tòa án tối cao (højesteret), 2 tòa án quốc gia (landsret) miền đông và miền tây (tương đương tòa thượng thẩm) cùng các tòa án sơ thẩm cấp thành phố (byret) v.v.
Trước đây Đan Mạch chia ra thành 13 amt (tương đương tỉnh hạt) và 270 kommune (tương đương thị trấn hay xã nông thôn). Theo cuộc cải cách cơ cấu hành chính 2007 ( strukturreformen 2007) thì kể từ 1 tháng 1 năm 2007, bãi bỏ các amt, thay vào đó là 5 vùng:
vùng Thủ đô (Region Hovedstaden)
vùng Sjælland (Region Sjælland)
vùng Nam Đan Mạch (Region Syddanmark)
vùng Trung bán đảo Jylland (Region Midtjylland)
vùng Bắc bán đảo Jylland (Region Nordjylland)
Số 270 kommune cũng được nhập chung lại còn 98 kommune.
Quan hệ ngoại giao
Năm 2003, Đan Mạch được bầu làm thành viên không thường trực Hội đồng Bảo anLiên Hiệp Quốc nhiệm kỳ 2004-2006.
Đan Mạch luôn theo đuổi chính sách đối ngoại rộng mở, tích cực và gắn bó với Tây Âu và Mỹ; ủng hộ việc xây dựng một châu Âu thống nhất, vững về kinh tế, mạnh về chính trị, an ninh và quốc phòng. Đan Mạch có cùng quan điểm với Anh, Ý trong việc thông qua Hiến pháp EU mới; tăng cường quan hệ xuyên Đại Tây Dương.
Với EU: Năm 2010, Đan Mạch tiếp tục ưu tiên tăng cường quan hệ với EU, hoan nghênh phê chuẩn Hiệp ước Lisbon, ủng hộ lập Quỹ cứu trợ giúp các nước giải quyết khủng hoảng nợ công; đơn phương cam kết cho Ireland vay 400 triệu bảng Anh để khắc phục khó khăn tài chính. Đan Mạch ủng hộ EU lập Cơ quan đối ngoại chung và tích cực đóng góp để EU có vai trò quan trọng tại diễn đàn Liên Hợp Quốc
(LHQ) và trên thế giới. Chính phủ Đan Mạch hiện nay chủ trương Đan Mạch
cần tham gia đầy đủ vào các cơ chế của EU, tiến tới gia nhập khu vực
đồng euro và tích cực phát huy vai trò khi đảm nhận chức Chủ tịch luân phiên EU trong 6 tháng đầu năm 2012.
Với châu Âu: Năm 2010, Đan Mạch làm Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng tổ chức hợp tác khu vực Bắc Âu và Hội đồng các nước vùng Bắc Cực, đã tích cực thúc đẩy hợp tác với các nước này về đối ngoại, an ninh, ứng phó với biến đổi khí hậu. Đan Mạch tăng cường quan hệ với Nga, nhất là về kinh tế, năng lượng.
Với châu Á: Đan Mạch đánh giá cao sự phát triển kinh tế và vai trò to lớn của Trung Quốc, Ấn Độ và các nền kinh tế mới nổi ở châu Á, coi đây là khu vực ưu tiên hàng đầu trong chiến lược đẩy mạnh xuất khẩu và quan hệ kinh tế đối ngoại đến năm 2020. Tháng 12 năm 2010, Đan Mạch công bố "Chiến lược đối ngoại đến năm 2020", trong đó xác định ưu tiên phát triển quan hệ với Trung Quốc, Ấn Độ, Việt Nam và các nước mới nổi về kinh tế.
Các vấn đề quốc tế: Đan Mạch ủng hộ tăng cường vai trò của Liên Hiệp Quốc, cải tổ NATO, tăng cường phối hợp NATO, Liên Hiệp Quốc và các cơ chế đa phương khác để đảm bảo hòa bình và ổn định trên thế giới. Đan Mạch tiếp tục cam kết chống khủng bố và giúp bình ổn tình hình ở Afghanistan; nỗ lực cải thiện quan hệ với các nước Hồi giáo, cùng EU đóng góp thúc đẩy tiến trình hòa bình Trung Đông, giải quyết vấn đề hạt nhânIran, tham gia lực lượng chống hải tặc ở vùng ngoài khơi Somalia.
Đan Mạch có mạng lưới giao thông đường bộ tổng cộng khoảng 71.600 km,
trong đó 880 km là xa lộ. Có 35 cầu các loại, có chiều dài từ 200 m trở
lên. Vào mùa hè năm 1998, đã khánh thành cầu nối từ đảo Fyn sang đảo Zealand, Cầu Storebælt (Storebæltsbroen), là một trong các cầu dài nhất châu Âu, với một phần đường hầm dưới lòng biển (tunnel) dành cho xe lửa. Đan Mạch cũng xây dựng chung với Thụy ĐiểnCầu Oresund nối từ đảo Zealand (Đan Mạch) sang vùng Nam Thụy Điển (Øresundsbroen).
Ngoài ra còn các tàu phà (ferry) nối liền giao thông giữa đất liền với các đảo hoặc giữa các đảo với nhau.
Mạng lưới đường sắt Đan Mạch có tổng chiều dài 2.875 km (năm 2000), trong đó có 508 km đường sắt do công ty tư nhân khai thác, số còn lại do Công ty đường sắt quốc gia Đan Mạch ( Danske Statsbaner) quản lý. Từ ngày 19 tháng 10 năm 2002, Đan Mạch có thêm một số đường tàu điện ngầm (Metro) tại thủ đô Copenhagen.
Đan Mạch có bốn sân bay quốc tế là: sân bay Copenhagen, sân bay Billund, sân bay Aalborg và sân bay Aarhus.
Kinh tế
Các Tua-bin gió ngoài khơi gần Copenhagen, cung cấp một lượng lớn năng lượng bằng sức gió cho nước này.
Đan Mạch có một nền kinh tế thị trường hiện đại và một nền công nghiệp chuyên môn hóa, năng động, đủ khả năng cạnh tranh với các nước khác.
Ngoài các xí nghiệp trung bình và nhỏ, Đan Mạch cũng có các công ty đa quốc gia như A.P. Møller-Mærsk (hãng vận tải hàng hải quốc tế), Lego (sản xuất đồ chơi trẻ em), Carlsberg (hãng bia), Vestas (sản xuất quạt gió), các hãng dược phẩm Lundbeck và Novo Nordisk.
Do thị trường nội địa nhỏ bé, kinh tế Đan Mạch chủ yếu dựa vào việc
buôn bán với nước ngoài. Khoảng 70% là buôn bán với các nước trong Liên minh châu Âu, trong đó khoảng 17% là với Đức, đối tác lớn nhất.
Đan Mạch xuất cảng các dịch vụ, các máy móc công nghiệp, các dụng cụ chuyên ngành, sản phẩm hóa chất, thuốc chữa bệnh, hàng dệt may, v.v.
Nguồn dầu khí khai thác từ Bắc Hải được tiêu dùng trong nước, số thặng dư cũng được xuất cảng, mang lại một lợi tức đáng kể.
Ngành nông nghiệp
sản xuất thực phẩm hàng năm đủ cung cấp cho 15 triệu người (dân số Đan
Mạch là trên 5,4 triệu). Ngành chăn nuôi sản xuất thịt các loại và các
sản phẩm chế biến từ sữa, riêng thịt heo năm 2005 là trên 2 triệu tấn.
Các sản phẩm nông nghiệp nói chung, trị giá khoảng 90 tỷ kroner/năm (tỷ
giá hối đoái đầu tháng 12/2007 khoảng 1 US$ = 5,1 krone).
Đan Mạch không có thủy điện, cũng không sử dụng năng lượng hạt nhân, nhưng sử dụng nhiệt điện
và năng lượng sức gió từ các cánh quạt lớn. Nguồn năng lượng này đáp
ứng được 10% nhu cầu trong nước. Số năng lượng thiếu hụt được nhập từ Thụy Điển.
Thặng dư tài chính quốc gia năm 2005 là 4,9% BNP, năm 2006 là 4,2% BNP. Cán cân thanh toán các năm gần đây là thặng dư và Nhà nước hầu như không có nợ nước ngoài.
Tỷ lệ thất nghiệp tháng 10 năm 2007 là 3% tức 81.700 người.
Năm 1999, là năm bùng nổ của ngành du lịch Đan Mạch với việc đón trên 2 triệu lượt khách quốc tế tới thăm, trong số đó có trên một triệu người Đức. Doanh thu từ du lịch ước đạt khoảng 3,31 tỉ USD.
Do nghèo tài nguyên và thiếu nguyên liệu buộc người Đan Mạch
phải học cách sử dụng nguyên liệu một cách tiết kiệm và hiệu quả nhất
như ứng dụng năng lượng gió và các năng lượng tái tạo. Bên cạnh đó, Đan
Mạch cũng phụ thuộc lớn vào các hoạt động ngoại thương, đặc biệt trong
lĩnh vực xuất khẩu lương thực và năng lượng. Năm 2010, kim ngạch xuất
khẩu của Đan Mạch chiếm 31,8% GDP
(tương đương 99,37 tỷ USD) và kim ngạch nhập khẩu đạt 29,1% GDP cả nước
(tương đương 90,83 tỷ USD). Nền kinh tế Đan Mạch trong năm 2010 tuy
chưa thực sự phục hồi sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 nhưng cũng
đã có dấu hiệu tăng trưởng trở lại với mức tăng GDP 1% trong năm 2010
(so với mức suy thoái -5,2% vào năm 2009), tỷ lệ thất nghiệp giảm nhẹ
còn 4,2% trong năm 2010, tuy nhiên tỷ lệ lạm phát tăng ở mức 2,6%.[18]
Tiền tệ
Đơn vị tiền của Đan Mạch là đồng krone Đan Mạch (ký hiệu quốc tế DKK).
Ngày 28.9.2000, trong một cuộc trưng cầu ý dân (46,8% thuận, 53,2%
chống), Đan Mạch đã từ chối không gia nhập đồng tiền chung của Liên minh châu Âu. Cùng với Anh, Đan Mạch đã ký với các nước trong Liên minh một điều khoản gọi là opting-out (sự chọn lựa không tham gia) cho phép Đan Mạch không gia nhập đồng tiền chung của Liên minh là đồng euro.
Tuy nhiên trên thực tế, đồng krone gắn bó chặt chẽ với đồng euro qua hệ thống Cơ chế tỷ suất hối đoái châu Âu II (European Exchange Rate Mechanism II), một phần của Hệ thống tiền tệ châu Âu (European Monetary System). Tỷ giá giữa đồng euro và đồng krone bao giờ cũng xấp xỉ: 1 euro = 7,45 krone.
Nhà văn lớn đầu tiên của Đan Mạch là Saxo Grammaticus (khoảng 1160 - sau 1208), người viết tác phẩm Gesta danorum (Các kỳ công của người Đan Mạch) bằng tiếng Latin.
Nhà văn nổi tiếng thế giới của Đan Mạch là Ludvig Holberg(1684 - 1574, gốc Na Uy), tác giả của 31 hài kịch, 4 tập thơ, 4 tiểu luận, 8 tiểu thuyết lịch sử và một tiểu thuyết trào phúng. Về khuynh hướng lãng mạn có Johannes Ewald (1743 - 1781) và Jens Baggesen (1764 - 1826). Georg Brandes (1842 - 1927) là nhà phê bình văn học nổi tiếng. Ngoài ra còn các nhà văn nổi tiếng khác như Gustav Wied (1858 - 1914), Martin A. Nexø (1869 - 1954), Tom Kristensen (1893 - 1974).
Những nhà văn Đan Mạch có nhiều đóng góp cho văn học thế giới có thể kể đến Hans Christian Andersen (1805 - 1875) - tác giả của nhiều câu truyện cổ tích nổi tiếng, nhà văn nữ Karen Blixen (1885 - 1962), cũng như nhà văn từng đoạt giải thưởng Nobel năm 1944Johannes Vilhelm Jensen (1873 -1950), tiểu thuyết Kongens Fald của ông vừa được một số tờ báo chọn là tác phẩm thế kỉ của Đan Mạch.
Hai nhà văn Karl Gjellerup (1857 -1919) và Henrik Pontoppidan(1857 - 1943) cùng chia nhau giải Nobel năm 1917.
Nhà văn tiêu biểu cho trường phái ấn tượng của Đan Mạch là Herman Bang (1857 - 1912). Các tác phẩm nổi tiếng của ông là Ved Vejen (Bên đường, 1886) được Max von Sydow chuyển thể thành phim năm 1988, dưới tên Katinka, Stuk (1887) và Tine (1889), được Knud Leif Thomsen đưa lên màn ảnh năm 1964, Mikael (1904) cũng được Mauritz Stiller đưa lên màn ảnh năm 1916, sau đó Carl Theodor Dreyer cũng lại làm một bản phim mới (1924).
Mặc dù được biết đến nhiều hơn trong vai trò một nhà triết học, Søren Kierkegaard (1813 - 55) cũng là một tên tuổi lớn của nền văn học Đan Mạch.
Một tác giả nổi tiếng thế giới khác là Peter Høeg (1957 - ?), ông được biết đến với tác phẩm Frøken Smillas fornemmelse for sne (Cảm giác về tuyết của nàng Smillas).
Điện ảnh
Trong thời kì phim câm Đan Mạch là nhà sản xuất phim lớn của thế giới sau Mỹ, Đức và Pháp.
Dẫu cho địa vị này bị phá vỡ cùng với sự ra đời của phim có âm thanh,
nhưng những tác phẩm điện ảnh của Đan Mạch vẫn giành được sự chú ý trên
thế giới. Thập niên 1990 đánh dấu sự trở lại của Đan Mạch trên phim trường quốc tế cùng với phong trào tuyên ngôn Dogma 95.
Những đạo diễn nổi tiếng của Đan Mạch:
Bille August (s. 9 tháng 11 năm 1948) với phim Pelle Eroberen (Pelle người chinh phục, 1987) đoạt giải Cành cọ vàng ở Liên hoan phim Cannes (1988), giải Quả cầu vàng (Golden Globe) (1989) và giải Oscar cho phim nước ngoài hay nhất. Phim Den gode vilje (Thiện chí, 1991) đoạt Cành cọ vàng ở Liên hoan phim Cannes (1992).
Susanne Bier (s. 15 tháng 4 năm 1960), giải Bodil (1999) và giải Robert (của Viện hàn lâm phim Đan Mạch) (2000) cho phim Den eneste ene (Người duy nhất); giải Bodil và giải Robert (2003) cho phim Elsker dig for evigt (Yêu em mãi mãi). Phim Efter brylluppet (Sau đám cưới) (2006) cũng được đề nghị trao giải Oscar cho phim nước ngoài hay nhất.
Ole Bornedal (s. 26 tháng 5 năm 1959) với các phim như Nattevagten (Người trực gác đêm, tiếng Anh: Nightwatch) (1994) và I am Dina (2002) v.v.
Phim nước ngoài ở Đan Mạch thường không được lồng tiếng mà chỉ được làm thêm phụ đề, ngoại trừ một số phim thiếu nhi.
Sau gần một đêm lang thang và vật vã ở
Hamburg, chuyến tàu từ hơn 7g sáng xuất phát từ nơi này đưa chúng tôi
tới Copenhagen bằng cả đường sắt lẫn đường thủy. Tàu tới cửa biển và
chui luôn vào chiếc tàu thủy rộng lớn tự lúc nào không hay khiến chúng
tôi thật sự ngỡ ngàng.
Từ trước đến nay, tôi mới chỉ biết đến
việc xe hơi được vận chuyển qua tàu thủy, nhưng việc chiếc tàu hỏa gần
như nhanh nhất của nước Đức chui vào trong tàu thủy thì quả là lạ. Khi
tàu đã lọt vào trong, chúng tôi ra khỏi toa, bước sang tàu thủy. Chiếc
tàu rộng lớn cứ lênh đênh tiến về phía thủ đô. Trên tàu có đầy đủ tiện
nghi, vài nhà hàng hải sản nhỏ nhưng sang trọng, nhiều cửa hàng bán đồ
lưu niệm, mỹ phẩm… Hành khách có thể đi dạo thoải mái trên tàu thủy như
trong một thành phố bé xíu.
Copenhagen đón chúng tôi vào một buổi
trưa tháng 5 se lạnh. Nằm ở phương Bắc nên thời tiết ở đây lạnh hơn một
chút so với các nước châu Âu. Sau khi đã làm thủ tục nhận phòng và nghỉ
ngơi một lát, chúng tôi tìm một tấm bản đồ thành phố và bắt đầu khám
phá thủ đô của “những chú lính chì”.
Đan Mạch không sử dụng đồng
tiền chung châu Âu, bởi thế du khách phải đổi đồng euro sang tiền bản xứ
là đồng krone (7,5 krone = 1 USD). Sau những phút ngỡ ngàng vì thành
phố quá đẹp, chúng tôi bị giật mình bởi ở đây dường như cái gì cũng đắt
hơn so với ở Paris và London. Vào một quán ăn nhỏ có tên Yam Yam, mua ít
cơm và ít rau trộn thôi đã mất số tiền tương đương 7 euro (trong khi
giá ở Đức chừng đó chưa đến 4 euro). Quan sát thực khách đặt món ăn mới
thấy mức sống của người dân Đan Mạch khá cao.
Copenhagen hấp dẫn du khách với các
kiến trúc cổ xưa, các lâu đài, nhà thờ, các con kênh chảy qua thành phố.
Chúng tôi đi dạo trong nắng chiều vàng óng hắt lên những ngôi nhà cao
tầng và soi bóng dưới mặt nước. Chiều Copenhagen thật bình yên trong cái
se lạnh của gió biển. Những con đường đá lát mỏng, những cây cầu, những
ngôi nhà chung cư treo hoa lơ lửng trên ban công thật nên thơ. Do có
địa hình khá bằng phẳng nên xe đạp cũng được sử dụng rất nhiều ở
Copenhagen.
Stroget - con đường cổ
Sáng hôm sau, chúng tôi quyết định đi
thẳng tới Stroget - con đường cổ nhất Copenhagen, luôn đông nghịt người
qua lại, xuyên qua trung tâm thành phố, còn ở hai đầu là hai quảng
trường rộng lớn.
Stroget chỉ dành cho những người đi bộ, dài hơn
hai cây số, được chia thành nhiều đoạn phố nhỏ, trên đó có rất nhiều
quán ăn theo ẩm thực từ Trung Hoa, Thổ Nhĩ Kỳ, Ý, Pháp và dĩ nhiên là cả
Đan Mạch. Từ những quán ăn bình dân cho đến những quán ăn đắt đỏ, du
khách tới đây luôn có thể lựa chọn phù hợp với túi tiền của mình. Không
chỉ vậy, con phố còn có rất nhiều bảo tàng nhỏ trưng bày những đồ vật lạ
kỳ, hấp dẫn.
Từ con đường này, có khá nhiều con đường
phụ tỏa đi khắp nơi. Những con hẻm nhỏ vào đầu buổi sáng dường như vẫn
còn đang ngái ngủ, thậm chí ngay cả những cửa tiệm bán đồ ăn sáng trông
rất bắt mắt cũng vẫn còn thưa thớt người. Cách trưng bày của những tiệm
ăn ngoài trời ở Copenhagen khá ấn tượng. Khách ngồi dưới ánh nắng ban
mai nhấm nháp chút đồ ăn, trên những chiếc ghế mây họ ngồi bao giờ cũng
có một tấm chăn mỏng để nếu cần thì ai cũng có thể quàng lên người cho
đỡ lạnh.
Những bước chân vô định dẫn chúng tôi tới Christianborg,
nơi có trụ sở Quốc hội, Tòa án Tối cao và cũng là văn phòng của thủ
tướng rồi đi dọc tới bờ biển ngắm mặt nước xanh được nhuộm những tia
nắng vàng lóng lánh.
Dòng kênh đào Nytory
Chúng tôi tới Kongens Nytory và nghỉ
trưa ở đó. Dòng kênh đào Nyhavn đi qua quảng trường Kongens Nytorv được
kiến tạo cách đây 300 năm nhằm phục vụ cho việc buôn bán bằng đường
thủy. Đây là quảng trường lớn nhất nằm trong trung tâm thủ đô
Copenhagen, ngay giữa quảng trường là bức tượng của vua Christian V.
Dọc
hai bên bờ kênh là những ngôi nhà cổ lâu đời và sặc sỡ sắc màu. Khi
xưa, chỗ này là nơi ăn chơi của các thủy thủ từ nhiều châu lục khác
nhau, còn bây giờ chuyên phục vụ cho du khách. Những chiếc thuyền trên
kênh sẵn sàng đưa khách du lịch tham quan, những ai còn nán lại thì
thưởng thức bữa ăn “ngay dưới bầu trời”, theo cách gọi của người Đan
Mạch.
Cung điện Amelienborg nằm cách đó không
xa và được xây dựng từ năm 1794 theo lối kiến trúc của Pháp. Báo chí vẫn
ca ngợi rằng đây là một trong những cung điện đẹp nhất châu âu. Cung
điện này đã được vua Frederik đệ tam xây dựng vào những năm 1667-1673 và
được đặt từ tên của hoàng hậu Sophie Amalie. Cung điện bị cháy vào
tháng 4-1689, chỉ còn lại khu vườn và được giữ nguyên cho đến năm 1748.
Năm 1750, cung điện Amalienborg đã được xây dựng lại trên một mảnh đất
hình bát giác theo lối kiến trúc baroque.
Chúng tôi đến đó vào xế
chiều nên không được chứng kiến nghi lễ đổi gác (lễ đổi gác thường diễn
ra lúc 12g trưa) nhưng rồi bị lạc vào một nơi đang triển lãm những
chiếc xe hơi cực kỳ nổi tiếng và đắt đỏ. Xem ra, đó không phải là một
cuộc triển lãm chính quy, mà giống như nơi người ta tụ tập để khoe những
chiếc xe đẹp nhất, đắt nhất hoặc mới nhất. Quả là đáng sững sờ khi nhìn
thấy những chiếc xe rẻ nhất cũng cỡ 200 ngàn euro.
Điểm dừng chân tiếp theo của chúng tôi
là Rosenborg - một lâu đài cổ màu hồng theo kiến trúc Phục hưng, được
xây dựng vào thế kỷ XVII. Nơi đây lưu giữ nhiều hiện vật quý, xung quanh
được bao quanh bởi một khu vườn xinh đẹp, nổi bật là những bông hoa
tulip đua nhau khoe sắc.
Có lẽ ai tới Copenhagen cũng đều được
mong nhìn thấy bức tượng nàng tiên cá nổi tiếng do Edward Eriksen chế
tạo theo “đơn đặt hàng” của ông chủ hãng bia Carlsberg và được đặt trên
một tảng đá ở cảng Langilinic. Trước đây, tôi đã từng mơ có ngày sẽ được
tận mắt chiêm ngưỡng nó. Nhưng thật đáng buồn là nàng tiên cá đã bị
mang sang Thượng Hải dự World Expo 2010. Thôi thì đành vào Tivoli ngắm
bức tượng giả cũng đẹp không kém vậy.
Tivoli
Tivoli là điểm đến mà có lẽ ai đã từng
đến Copenhagen đều không thể bỏ qua. Đó là khu giải trí năm sao và vô
cùng lộng lẫy, nằm ngay ở trung tâm Copenhagen và được xây dựng từ năm
1843, chỉ mở cửa sáu tháng trong một năm (từ tháng 4 đến tháng 9), thu
hút mỗi năm vài triệu du khách.
Với diện tích hơn 80 ngàn mét
vuông, tại đây có đủ mọi thứ, từ các quán ăn Á, Âu, các quán giải khát,
các trò chơi truyền thống và hiện đại thu hút trẻ em và người lớn đến
những vườn hoa rực rỡ sắc màu, hồ phun nước... Những anh lính bảo vệ
trong trang phục theo kiểu hoàng gia thuở xưa đi diễu hành hộ tống những
đứa trẻ ngồi trong những cỗ xe ngựa. Tivoli cũng là một khu vườn giải
trí dành cho các sự kiện văn hóa với các rạp chiếu phim và hòa nhạc
ngoài trời.
Ngắm Tivoli về đêm quả thật không còn gì
tuyệt vời hơn. Trong màn đêm, vườn hoa này được chiếu sáng bởi 100 ngàn
bóng đèn màu. Cứ ngỡ đây là một thành phố nhỏ chỉ dành cho vua chúa
thời xưa và may mắn là chúng tôi được hưởng diễm phúc đó.
Khi đi
bộ từ Tivoli về chỗ trọ trong cái lạnh của buổi đêm để chuẩn bị cho
chuyến đi Thụy Điển ngày hôm sau, tôi tự nhủ thầm khi có điều kiện, nhất
định sẽ trở lại nơi này vì đơn giản là tôi đã yêu thành phố này ngay từ
khi đọc những câu chuyện cổ tích của Andersen và thật sự bị say đắm
trong lần viếng thăm này. Mọi con đường đều có thể dẫn ra biển, những
cơn gió se se lạnh và nắng hoàng hôn của mặt trời phương Bắc nhuộm vàng
óng những ngôi nhà nghiêng nghiêng ấy đâu có dễ quên.
Nguồn: Tuổi Trẻ Online
Điểm tên 10 thắng cảnh nổi tiếng của Đan Mạch
Điểm tên 10 thắng cảnh nổi tiếng của Đan Mạch
19 / 02/ 2013, 04:02:17
Đến Đan Mạch, bạn không thể bỏ qua những topten du lịch nổi tiếng của nơi đây như bức tượng Nàng Tiên Cá - một biểu tượng lớn trong lòng mỗi người dân Đan Mạch.
1. Lâu đài Egeskov
Egeskov, tòa lâu đài nằm trên đảo Funen, là một trong những công trình
tiêu biểu từ thời kỳ văn hóa Phục Hưng (thế kỷ 14 – 17) tiêu biểu ở châu
Âu. Egeskov có nghĩa là “rừng sồi” bởi phần lớn tòa lâu đài bề thế này
được làm từ gỗ sồi.
Cảnh quan đẹp với những khu vườn được trang trí theo kiểu Anh ngập tràn
hoa thơm, cỏ lạ cùng đài phun nước mơ màng bên mặt hồ thanh bình là điều
thu hút mọi du khách năm châu đến với “đất nước nàng tiên cá”.
2. Legoland Billund
Legoland Billund là một công viên giải trí siêu lý thú mà các nhà thám hiểm cũng như du khách không thể bỏ qua khi đến Đan Mạch.
Một khi đã bước vào thế giới của Legoland bạn sẽ được ngắm nhìn những mô
hình nhà “tí hon” vô cùng bắt mắt như Duplo Land, Legoredo Town,
Adventure Land và Lego City. Chưa hết nhá, nơi đây còn có tàu lượn siêu
tốc và rạp chiếu phim 4D cho bạn tha hồ trải nghiệm nữa đấy.
3. Lâu đài Kronborg
Nằm trên biên giới giữa Đan Mạch và Thụy Điển, lâu đài Kronborg là tòa
công trình xây dựng hồi thế kỷ 16 với mục đích làm pháo đài bất khả xâm
phạm của hoàng gia Đan Mạch. Về sau, Kronborg trở thành lâu đài hoàng
gia cho nhiều đời vua chúa sinh sống.
4. Cầu Oresund
Cây cầu dài 10km Oresund chính là cầu
nối liền giữa Đan Mạch và người hàng xóm Thụy Điển xinh đẹp. Hoàn thành
năm 2000, cây cầu trở thành điểm giao lưu vô cùng thuận tiện giữa Malmo
sang Copenhagen mà không cần phải dùng máy bay hay thuyền. Đây được xem
là cây cầu đường sắt dài nhất châu Âu và là biểu tượng tương giao giữa 2
quốc gia vùng Bắc Âu này.
5. Bức tượng Nàng tiên cá
Nhắc đến Đan Mạch, hẳn ai trong chúng ta cũng nghĩ ngay đến “xứ sở của
nàng tiên cá” xinh đẹp. Đúng vậy, khi đến thủ đô Copenhagen xinh đẹp,
bạn hãy nhớ chiêm ngưỡng biểu tượng của thành phố này nhé. Lấy cảm hứng
từ câu chuyên cổ tích của Hans Christian Andersen (1805 – 1875), tuyệt
phẩm điêu khắc về người cá Havfruen là món quà từ nhà sản xuất bia giàu
có Carl Jacobsen trong thành phố. Cứ vào ngày sinh nhật Nàng Tiên Cá 23
tháng 8 mỗi năm, bến cảng Copenhagen lại đông vui, nhộn nhịp những cô
cậu nhóc teen bơi xung quanh bức tượng nhỏ.
6. Old Town, Aarhus
Thị trấn cổ xưa ở thành phố cảng lớn thứ hai của Đan Mạch - Aarhus là
một bảo tàng khổng lồ ngoài trời, nơi có những căn nhà nhỏ truyền thống,
những cửa hàng thủ công, quán lưu niệm từ hồi thế kỷ 16 đến 20 trông
cực kỳ đáng yêu.
Nơi đây có vỏn vẹn 75 ngôi nhà nhỏ xinh và hầu hết trong số chúng mở cửa 24/24 giờ cho khách du lịch thăm quan.
Còn nữa, đến đây bạn có cơ hội thăm thúc các viện bảo tàng nổi tiếng như
Bảo tàng đồng hồ Đan Mạch, Bảo tàng Dệt may và Bảo tàng đồ chơi hay khu
vườn đẹp tuyệt mĩ trong khu Phố Cổ nữa cơ.
7. Vườn Tivoli
Nằm ngay giữa lòng thủ đô của xứ sở thần tiên, khu vườn Tivoli thực sự
là thiên đường vui chơi, nghỉ dưỡng của bạn bên gia đình thân yêu vào
dịp cuối tuần. Mở cửa năm 1843, Tivoli là một trong những khu vui chơi
giải trí lâu đời nhất thế giới.
Tới đây, các ấy sẽ được vút bay trên các chuyến tàu lượn siêu tốc như
Rutsjebanen, Demon và Himmelskibet nhé. Bên cạnh đó, các khu vườn nơi
đây được trang trí theo phong cách Trung Hoa ý nhị mà vô cùng lãng mạn.
8. Cung điện Amalienborg
Tòa cung điện rộng lớn Amalienborg là một công trình phức hợp gồm 4 tòa
nhà giống hệt nhau sắp xếp theo hình bát giác vuông, là nơi ở của các
đại gia đình hoàng gia Đan Mạch từ nhiều đời nay.
Công trình tuyệt mỹ này được xây dựng hồi thế kỷ 17 với kiểu phong cách
kiến trúc nội thất Rococo, ở chính giữa có bức tượng Vua Frederick V
(1596 – 1632) nổi tiếng.
Đến Amalienborg, du khách còn được chiêm nghiệm những câu chuyện lâu đời của các thế hệ gia đình hoàng gia Đan Mạch.
9. Pháo đài Hammershus
Hammershus là một pháo đài bề thế thời Trung Cổ nằm ngay trên bờ biển
của đảo Bornholm xinh đẹp. Được xây dựng hồi thế kỷ 13, Hammershus từng
là nơi sinh sống của Hoàng đế Valdemar II (1170 – 1241) và tổng giám mục
địa phương.
Nếu đứng trên pháo đài cao cao mà ngắm nhìn cảnh bình mình hay hoàng hôn
trên biển thì vô cùng thú vị. Điều này khiến cho pháo đài trở thành
điểm du lịch chính trên hòn đảo Bornholm.
10. Frigate Jylland
Đây là một trong những con tàu bằng gỗ dài nhất thế giới ở
thành phố cảng Ebeltorf, miền đông Đan Mạch. Con tàu này được xây dựng
hồi thế 19 và được tái thiết lại gần đây nhằm phục vụ nhu cầu thăm quan
của người dân và du khách.
Bạn hoàn toàn có thể vừa thưởng thức tách cà phê nóng hổi vừa đi sâu vào
thân tàu để khám phá câu chuyện lý thú từ nó. Thật tuyệt phải không
nào!
Du lịch Châu Âu và khám phá ẩm thực Đan Mạch nơi đây chắc chắn sẽ đem đến nhiều trải nghiệm thực sự thú vị cho du khách. Cùng Vietviet Tourisum điểm danh các món ngon "mê hoặc" này nhé!
1. Bánh Flødebolle
Du lịch Đan Mạch - Nếu New York có bánh Cupcake, Paris nổi tiếng với bánh hạnh nhân Macaron thì Đan Mạch có bánh Flødebolle.
Đây
là loại bánh có đế là bánh quy, bên trên là bánh trứng mềm được phủ
bằng sô cô la, khi dùng bánh bạn sẻ cảm nhận được hương vị hoàng tộc.
2. Bánh mì Smorrebrod
Du lịch Đan Mạch - Smorrebrod là món ăn
đặc trưng của thành phố Odense quê hương của nhà văn Andersen và đây
cũng là món ăn đặc trưng của đất nước Đan Mạch.
Ai đã từng đến các nước Bắc Âu hẳn biết
cá trích đóng một vai trò rất quan trọng trong ẩm thực vùng Scandinavia,
nhưng chỉ ở Đan Mạch cá trích mới được phát triển thành món sushi độc
đáo.
Smorrebrod là món ngon Đan Mạch "níu
chân" du khách, tạm dịch ra tiếng Việt là bánh phết bơ, nhưng thật ra
món bánh này không chỉ có bơ mà còn được phủ lên trên tôm xốt đỏ hồng,
patê gan béo ngậy, thịt jambon mềm mại nuột nà, cá trích xông khói thơm
phức, thịt heo quay nguyên mỡ và da giòn tan, cả trứng cá caviar...tuỳ ý
thích của khách.
Smorrebrod là món ngon Đan Mạch ăn trưa
hàng ngày cũng như phở là món điểm tâm của người Việt, một món ăn kinh
điển mà người địa phương cũng như khách nước ngoài đều ưa chuộng.
3. Thịt viên Frikadeller
Có nhiều cách chế biến cho món
Frikadeller nhưng theo truyền thống thịt viên thường được làm từ các
loại thịt được băm nhỏ như thịt bê, thịt heo hoặc thịt bò (hoặc hỗn hợp
của hai loại thịt), hành tây thái nhỏ, trứng, sữa (hoặc nước), bột bánh
mì, muối và hạt tiêu, sau đó được vo thành viên và đè dẹp một chút. Sau
đó đem chiên trong mỡ heo hoặc mỡ bò.
Đây là món ngon Đan Mạch "níu chân" du
khách. Theo cách hiện đại thì thịt viên thường được chiên trong bơ, bơ
thực vật hoặc dầu thực vật. Một chế biến phổ biến khác là dùng cá làm
thành phần chính thay thế cho thịt và thường được phục vụ với sốt
remoulade (của Pháp).
Thịt viên Frikadeller được ăn như một món ăn chính, thường ăn kèm với khoai tây luộc và nước thịt.
4. Xúc xích Pølse
Pølse là loại xúc xích đỏ vô cùng nổi
tiếng của Đan Mạch. Nó phổ biến đến mức đất nước xinh đẹp với chỉ hơn 5
triệu dân này sản xuất đến hơn100 triệu chiếc xúc xích mỗi năm. Xúc xích
Pølse được nhiều người xem như món ăn truyền thống của Đan Mạch.
Xúc xích Pølse được làm từ thịt heo xay
mịn nêm với hạt tiêu, hạt nhục đậu khấu hoặc hạt mù tạt. Điều đặc biệt
là da của Pølse được nhuộm màu đỏ tươi rất bắt mắt. Món ăn này thường
được dùng kèm với với mù tạt, nước xốt cà chua, hành tây chiên và dưa
chiên và dưa chuột ngâm, đây cũng là món ngon Đan Mạch "níu chân" du
khách.
5. Bánh ngọt Wienerbrød
Bánh ngọt Wienerbrød là một loại bánh
rất nổi tiếng trên toàn thế giới, đặc biệt đối với người Đan Mạch, có
thể nói đây là món ngon Đan Mạch "níu chân" du khách.
Các thành phần vỏ bánh bao gồm bột mì,
men, sữa, trứng, và một lượng dồi dào của bơ hoặc bơ thực vật. Bánh
wienerbrød được làm tại Đan Mạch có nhân mứt, hạnh nhân hoặc sữa trứng
custard phết lên với sô cô la, đường hoặc kem.
Tổng hợp
Bí quyết ẩm thực quốc gia hạnh phúc nhất thế giới
11:00 | 29/05/2014
Depplus.vn -
Theo
báo cáo mức độ hạnh phúc thế giới 2013 của Viện Trái Đất, Đại học
Columbia, Mỹ, Đan Mạch là quốc gia hạnh phúc nhất thế giới.
Mức
độ hạnh phúc được đánh giá trên nhiều tiêu chí như mức thu nhập, mức
sinh hoạt phí… Tuy nhiên, văn hóa ẩm thực cũng là một tiêu chí khá thú
vị để đánh giá mức độ hạnh phúc của quốc gia này. Người dân Đan Mạch có
lối sống lành mạnh, chế độ dinh dưỡng hợp lý, duy trì tốt thể trạng và
tinh thần sảng khoái.
Như
thói quen thông thường của tất cả mọi người, người Đan Mạch cũng có ba
bữa chính: sáng, trưa, tối trong đó bữa sáng và tối được chuẩn bị tại
nhà và ăn cùng gia đình, bữa trưa có thể ăn một mình hoặc cùng bạn bè
nhưng người Đan Mạch cũng thường có thói quen mang đồ ăn đã chuẩn bị từ
nhà cho bữa trưa. Có thể nói, bữa ăn gắn chặt với đời sống sinh hoạt của
mỗi gia đình tại quốc gia này, đó là một phần quan trọng của hạnh phúc.
Vào bữa sáng, hầu hết người lớn uống trà hoặc cà phê, trẻ nhỏ dùng các món sữa và ngũ cốc như bỏng ngô hoặc bột yến mạch.
Bữa
trưa thường là một bữa ăn nguội với bánh mì lúa mạch đen phủ bơ và các
loại xúc xích, pate gan...tên gọi smorrebrod. Bữa ăn này thường được
chuẩn bị từ sáng tại nhà và mang theo để ăn trưa.
Bữa
ăn tối của người Đan Mạch không được ăn vào bữa tối mà ăn vào khoảng
thời gian giữa buổi chiều, vì vậy nó còn được gọi là middag. Bữa tối là
dịp tập trung đông đủ nhất các thành viên trong gia đình với các món
nóng sốt.
Có 3 thứ làm
nên nền tảng văn hóa ẩm thực của Đan Mạch đó là cá trích, bánh mỳ
sandwich và bia. Bạn đừng quá ngạc nhiên khi người dân Đan Mạch ai nấy
đều phốp pháp mập mạp bởi họ ăn rất nhiều và uống rất nhiều bia.
Smorrebrod
Món
bánh mỳ đặc trưng nhất của đất nước Đan Mạch là smorrebrod. Smorrebrod
là một loại bánh phủ bơ, tôm xốt, pate gan, thịt jambon, cá trích xông
khói, heo quay, trứng cá caviar...Món ăn thú vị này còn được cả thế giới
biết tới với các tên sandwhich mở, bởi chỉ có một lớp bánh bên dưới chứ
không kẹp thịt vào giữa hai lớp bánh như nhiều nơi khác.
Cá
trích là loại nguyên liệu đóng vai trò cực kì quan trọng trong ẩm thực
vùng Scandinavia. Nhưng chỉ ở Đan Mạch cá trích mới được phát triển
thành món sushi độc đáo. Cá trích tươi thái mỏng ướp gia vị cùng một
loại sốt làm từ kem tươi, bơ, lòng đỏ trứng và rau thơm băm nhuyễn, đặt
lên lớp bánh lúa mạch, một sự kết hợp hoàn hảo giữa smorrebrod Đan Mạch
và sushi Nhật. Tuỳ theo mùa, có thể thay cá trích bằng cá tuyết, cá
bơn... để làm món sushi.
Người
Đan Mạch có một thương hiệu bia mà họ rất đỗi tự hào, đó là Carlsberg.
Trước kia, thị trường bia Đan Mạch còn được chi phối bởi một thương hiệu
khác là Tuborg nhưng nhãn hiệu này ngày nay cũng đã được Carlsberg mua
lại. Người Đan Mạch rất thích uống bia, chủ yếu là bia nhạt và phải là
bia do thị trường nội địa sản xuất.
Như
vậy, có thể nói khí hậu ôn hòa, cảnh sắc tuyệt đẹp, chế độ ăn giàu dinh
dưỡng và tinh thần gia đình là những báu vật của Đan Mạch, để người dân
nơi đây luôn cảm giác hạnh phúc và giữ được nếp sống ôn hòa, dễ mến.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét