Thứ Hai, 20 tháng 3, 2023

THỰC TẠI VÀ HOANG ĐƯỜNG 31/b

             THỰC TẠI VÀ HOANG ĐƯỜNG (III)
 
                                                                                                 
ĐẠI CHÚNG   
                                                            ----------------------------------------

                                                               PHẦN III

Nguồn cội 

“Đừng chê cõi trần nhơ
  Đừng khen cõi trần đẹp
  Cõi trần là thản nhiên
  Chỉ có đời nhơ, đẹp

                                  Trần Hạnh Thu



CHƯƠNG IX: THỜI CUỘC

“Nếu như sau cái đêm tối tăm của thời trung cổ, các ngành khoa học đột nhiên sống lại với một sức mạnh không ngờ và bắt đầu phát triển nhanh chóng một cách kỳ diệu, thì sự kỳ diệu ấy cũng chính là nhờ sản xuất mà có.”
Ph. Ăngghen

                                                                                     ***
(tiếp theo)
 
Chiến tranh Xô–Đức 1941–1945 là một cuộc chiến giữa Liên Xô và Đức Quốc xã trong Chiến tranh thế giới thứ hai, trải dài khắp Bắc, Nam và Đông Âu từ ngày 22 tháng 6 năm 1941 khi Quân đội Đức Quốc xã (Wehrmacht) theo lệnh Adolf Hitler xoá bỏ hiệp ước không xâm phạm lẫn nhau Liên Xô- Đức và bất ngờ tấn công Liên bang Xô Viết tới ngày 9 tháng 5 năm 1945 khi đại diện Đức Quốc xã ký kết biên bản đầu hàng không điều kiện Quân đội Xô Viết và các lực lượng của Liên minh chống Phát xít sau khi Quân đội Xô Viết đánh chiếm thủ đô Đức Berlin. Nó đã được biết đến bởi rất nhiều cái tên khác nhau tùy thuộc vào các quốc gia, phía Liên Xô gọi nó là Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại lấy theo tên trong lời hiệu triệu của Stalin trên radio gửi đến nhân dân Xô Viết vào ngày 3 tháng 7 năm 1941, hoặc cuộc Chiến tranh thần thánh; trong khi người Đức (và các nước phương Tây) thường gọi nó đơn giản là Mặt trận phía đông, Chiến dịch phía đông hoặc Chiến dịch nước Nga.
 Trong tổng số người chết ước tính khoảng 70 triệu của Chiến tranh thế giới thứ hai thì trên 30 triệu người đã chết tại mặt trận này, trong đó có nhiều dân thường. Cuộc chiến này có ý nghĩa quyết định đối với kết quả của Chiến tranh thế giới thứ hai và là nguyên nhân chính cho sự thất bại của Đức và việc tiêu diệt nước Đức quốc xã. Sau chiến tranh, Liên bang Xô viết trỗi dậy trở thành một siêu cường quân sự và công nghiệp, các Đảng Cộng sản thiết lập chính phủ trên phần lớn các nước Đông Âu, còn nước Đức bị khối Đồng Minh phân đôi thành Cộng hoà Dân chủ Đức và Cộng hoà Liên bang Đức. 
Đức Quốc xã  nhận được sự hỗ trợ từ 9 nước đồng minh (phát xít Ý, Romania, Bulgaria, Hungary, Phần Lan, Slovakia, Croatia, Vichy Pháp và Tây Ban Nha), 9 nước này đã cung cấp cho Đức khoảng 20% quân số, 1/3 số lao động và hơn một nửa lượng nguyên vật liệu để sản xuất vũ khí. Đức Quốc xã đã huy động nguồn nhân lực, toàn bộ các kho vũ khí, dự trữ kim loại, các nguyên liệu chiến lược, huy động gần như toàn bộ nền công nghiệp quân sự của toàn Tây Âu và Trung Âu vào cuộc chiến chống Liên Xô, ngoài ra Đức còn tuyển mộ hàng trăm ngàn lính đánh thuê từ các nước vùng Baltic, Nam Tư, Đan Mạch, người Cozak. Trên thực tế, quân đội Liên Xô phải cùng lúc đương đầu với quân đội của 9 nước châu Âu chứ không chỉ riêng Đức Quốc xã. Nếu không có sự trợ giúp của 9 nước này, Đức Quốc xã sẽ không thể có đủ nhân lực và tài nguyên để tiến hành chiến tranh tổng lực lâu dài với Liên Xô.
Tính đến ngày 21 tháng 6 năm 1941, Quân đội phát xít Đức và đồng minh phe Trục (gồm Phần Lan, Ý, Hungary, România, Croatia, Slovakia và quân Tây Ban Nha của Franco) bao gồm 190 sư đoàn trong đó có 152 sư đoàn Đức, 38 sư đoàn các nước đồng minh với tổng quân số 5,3 triệu người, tập trung dọc theo hơn 2.900 km biên giới (1800 dặm) từ bờ biển Baltic phía bắc đến bờ biển Đen phía nam.

Tổng cộng phía Đức và đồng minh có khoảng 5 triệu lính và sĩ quan, tính cả thê đội tấn công và dự bị có khoảng 190 sư đoàn, 5.000 xe tăng và pháo tự hành (trong đó có gần 3.000 chiếc xe hạng trung gồm 976 xe Panzer III, 439 xe Panzer T-IV, khoảng 400 xe StuG-3 và vài trăm xe tăng chiến lợi phẩm tịch thu của Ba Lan, Anh, Pháp, Tiệp Khắc...), 4.950 máy bay. Lực lượng này tập trung dọc theo hơn 2.900 km biên giới (1800 dặm) từ bờ biển Baltic phía bắc đến bờ biển Đen phía nam.

Khối tấn công mạnh nhất của Đức là cụm tập đoàn quân "Trung tâm" là cụm gần Moskva nhất (lúc gần nhất chỉ còn cách Moscow khoảng 25– 30 km), điều này thể hiện quan điểm "đánh nhanh thắng nhanh" của phía Đức. Bằng việc đánh phủ đầu bất ngờ với binh lực vượt trội, Đức dự tính sẽ nhanh chóng đánh bại Liên Xô chỉ trong khoảng 3-4 tháng.

Vào thời điểm này, Hồng quân có 230 sư đoàn, tổng cộng Hồng quân có 5.774.000 binh sĩ, 117.600 pháo và súng cối, 25.700 xe tăng, pháo tự hành và xe thiết giáp (95% là xe tăng, xe thiết giáp hạng nhẹ) và 18.700 máy bay các loại. Tuy nhiên, lực lượng này phải đóng quân rải khắp lãnh thổ bao la của Liên Xô, khoảng 2,5 triệu quân đóng ở những nơi rất xa xôi như Trung Á, Siberia, Viễn Đông, hải đảo... để canh gác biên giới và đề phòng Nhật Bản, không thể rút về để tham chiến. Do vậy, Liên Xô chỉ có khoảng một nửa quân đội đóng quân ở phía Tây để đối chọi với Đức. Khối các quân khu Xô Viết dọc biên giới phía tây có tất cả 170 sư đoàn (tại phần lãnh thổ châu Âu có 149 sư đoàn) và 2 lữ đoàn, với khoảng 3 triệu quân và 12.000 xe tăng, xe thiết giáp các loại. Nhưng tất cả đều trong giai đoạn xay dựng, còn thiếu thốn nhiều mặt, chưa hoàn chỉnh 

Vào 3 giờ 30 phút sáng, ngày 22-6-1941, không một lời tuyên chiến, phát xít Đức bất ngờ nổ súng, ào ạt tấn công trên khắp biên giới phía tây Liên Xô, từ biển Đen đến biển Bantích.
Toàn thế giới nín thở, tuyệt đại đa số lo âu nhưng không ít chính khách tư bản khấp khởi.
Trước đó, ngày 12-5-1941, Bộ chỉ huy tối cao Đức đã đề ra chỉ thị cho sĩ quan và binh lính Đức như sau:
“Hãy nhớ và thực hiện:
- Không có thần kinh, trái tim và sự thương xót - anh được chế tạo từ sắt, thép Đức…
- Hãy tiêu diệt trong mình mọi sự thương xót và đau khổ, hãy giết bất kỳ người Nga nào và không được dừng lại dù trước mặt anh là ông già hay phụ nữ, con gái hay con trai.
- Chúng ta phải bắt thế giới đầu hàng… anh là người Đức, và là người Đức thì phải tiêu diệt mọi sự sống cản trở con đường của anh”.
Về phía Stalin, ông không bao giờ tin tưởng vào sự thành thật của Hitler nhưng đã bị đánh lạc hướng về thời điểm cuộc chiến sẽ nổ ra. Họ biết chiến tranh với Đức sẽ nổ ra nhưng cho rằng không thể sớm hơn năm 1942. Thủ tướng Anh Winston Churchill từng cảnh báo trước cho Stalin biết về việc Đức sẽ tấn công Liên Xô, Stalin chỉ nói ngắn gọn: "Tôi không cần lời cảnh báo nào cả. Tôi biết chiến tranh sẽ nổ ra, nhưng tôi tin sẽ có thể làm nó chậm lại nửa năm nữa". Tại cuộc họp Bộ Chính trị ngày 18/11/1940, Stalin đã nói: "Cần phải hiểu tính hai mặt và trò chơi chính trị của Hitler. Hitler là một kẻ tráo trở. Ông ta đã ký hiệp ước hòa bình với Ba Lan, Áo, Tiệp, Bỉ và Hà Lan nhưng đã ngay lập tức xé bỏ chúng. Chắc chắn chúng ta không thể coi hiệp ước này là cơ sở an ninh của chúng ta…"

Sau những yếu kém rất rõ rệt của Hồng quân Liên Xô trong Chiến tranh Liên Xô-Phần Lan và sự thể hiện sức mạnh ghê gớm của quân đội Đức trong các chiến thắng tại chiến trường châu Âu, Stalin không muốn Liên Xô phải đương đầu với cuộc tấn công của Đức khi chưa có đủ thời gian chuẩn bị. Stalin coi những thông tin tình báo về khả năng Đức tấn công chỉ là những đòn hỏa mù để khiêu khích Liên Xô gây chiến trước, ông tránh mọi hành động để có thể bị coi là khiêu khích Đức, không cho phép quân đội áp dụng các biện pháp dự phòng và sẵn sàng chiến đấu... Ban lãnh đạo Liên Xô cho rằng sau khi đánh bại nước Anh thì Đức mới có thể tấn công Liên Xô, đó là tính toán hợp lý nhất đối với Đức để tránh phải giao chiến trên cả hai mặt trận, nhưng tính cách bốc đồng, ưa phiêu lưu của Hitler đã làm đảo lộn tính toán này (Đức đã tấn công sang phía đông dù Anh chưa bị đánh bại). Sự thất bại và thiệt hại to lớn, nguy cơ thất bại của Liên Xô trong giai đoạn thất trận năm 1941 có nguyên nhân rất lớn từ việc Liên Xô đã bị bất ngờ, quân đội đã không chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu do không nhận được bất kỳ mệnh lệnh báo động chiến đấu nào.

Nhưng ở một khía cạnh khác, việc dự đoán thời điểm Đức tấn công là không dễ, nếu đổ lỗi cho Stalin và ban lãnh đạo của ông cũng là không công bằng. Trong cuộc đấu này, Đức là bên chủ động, còn Liên Xô là bên bị động. Trước chiến tranh, Đức liên tiếp tung ra những tin tình báo giả, vô số những thời hạn tấn công đã được "hoạch định" rồi cố tình để lộ ra, làm nhiễu loạn tình báo Liên Xô. Mặt khác, tình báo Anh cũng tung ra những tin tức tương tự nhằm mong Liên Xô sẽ khai chiến với Đức. Nếu Stalin tin theo những dự đoán đó mà manh động thì không chỉ lãng phí thời gian chuẩn bị chiến tranh và huấn luyện quân đội, mà còn có thể khiến chiến tranh nổ ra sớm hơn.
Trận Białystok–Minsk là một chiến dịch tấn công chiến lược do Cụm Tập đoàn quân Trung tâm của Đức thực hiện nhằm chọc thủng các phòng tuyến biên giới của Liên Xô trong giai đoạn đầu của chiến dịch Barbarossa, kéo dài từ ngày 22 đến ngày 29 tháng 6 năm 1941. Sử sách một số nước còn gọi đây là Chiến dịch Belorusssia. Đây là trận mở màn cho chuỗi trận hợp vây của quân đội Đức quốc xã trên hướng trung tâm mặt trận Xô Đức. Quân đội Liên Xô tại Phương diện quân Tây đã hai lần liên tiếp bị quân Đức hợp vây ở Białystok (Ba Lan) và Minsk (Belarus) cách nhau khoảng 350 km chỉ trong vòng 10 ngày. Trận đánh này đã làm cho quân đội Liên Xô bị thiệt hại nặng trong khi quân đội Đức Quốc xã đánh chiếm hoàn toàn Belorussia, mở được cánh cửa đến sông Berezina, uy hiếp khu vực Smolensk là cửa ngõ vào Moskva. 
(Những thất bại tại Belorussia vào mùa hè năm 1941 đã có một tác động mạnh về tâm lý đến Ban lãnh đạo của Liên Xô. I. V. Stalin yêu cầu truy tố các tướng lĩnh đã chịu trách nhiệm về việc để thất trận nhanh chóng tại Belorussia. Ngày 1 tháng 7, tướng D. G. Pavlov cùng bộ chỉ huy của phương diện quân Tây đã bị triệu hồi về Moskva và bị đem ra xét xử ở tòa án quân sự vì đã tổ chức phòng ngự một cách hỗn loạn và rút lui vô tổ chức. Sự việc chưa dừng lại tại đó, ngày 8 tháng 7, Cơ quan thanh tra quân đội Liên Xô tiếp tục bắt giữ và đưa ra tòa án quân sự một số tướng lĩnh khác. Ngày 22 tháng 7 năm 1941, tướng D. G. Pavlov nguyên tư lệnh Phương diện quân Tây, tướng V. E. Klimovskikh, tham mưu trưởng phương diện quân và tướng T. A. Grigoriev, chủ nhiệm thông tin phương diện quân, tướng N. A. Klich, chủ nhiệm pháo binh của Phương diện quân, tướng A. A. Korobkov, tư lệnh tập đoàn quân 4, tướng S. I. Oborin, tư lệnh quân đoàn cơ giới 14 bị xử bắn. Sau cái chết của Stalin, năm 1956, tất cả các tướng lĩnh bị xử bắn trong vụ này đã được phục hồi danh dự quân nhân, phục hồi cấp bậc quân hàm và được truy tặng Huân chương Chiến tranh giữ nước vĩ đại.
Sử sách Liên Xô (cũ) và nước Nga hiện nay đánh giá cao công lao xương máu của những người lính Xô Viết đã tử trận trên chiến trường Belorussia trong thời kỳ đầu chiến tranh. Bất chấp sai lầm của các cấp chỉ huy, kể cả I. V. Stalin, trong ranh giới giữa cái sống và cái chết, xe hỏng, đạn hết; chỉ còn lại lựu đạn, chai cháy và súng trường, họ gần như đem thân mình ra cản bước tiến của các đoàn xe tăng Đức, kìm giữ các đạo quân này để các tuyến phòng thủ phía sau có thêm thời gian tổ chức phòng thủ. Trung tướng quân đội Đức Quốc xã Kurt von Tippelskirch nhận xét: "Đối phương tỏ ra có khả năng kháng cự hoàn toàn ngoài sức tưởng tượng. Họ đã bị tổn thất rất nặng nhưng những thiệt hại đó vẫn không thể đè bẹp được ý chí của họ. Người lính Nga khác hẳn những đối thủ khác của chúng ta ở chỗ họ coi thường cái chết. Tinh thần chịu đựng và ý thức nghĩa vụ đã làm cho họ kiên trì chiến đấu đến khi bị giết trong chiến hào hoặc trong các trận đánh cận chiến bằng lưỡi lê và báng súng").
Ngay từ ngày đầu, phát xít Đức đã làm chủ bầu trời bằng cuộc tập kích không quân vào các sân bay nằm trong vùng phía tây Liên Xô, gây thiệt hại ghê gớm, tạo điều kiện cho lực lượng mặt đất  của chúng tiến sâu vào lãnh thổ Liên Xô. Cuộc tiến công đã ít nhiều gây ra bất ngờ đối với Nhà nước Xô Viết.
Dù trong tình thế chịu bất lợi to lớn về nhiều mặt, nhưng lực lượng vùng biên giới của Hồng quân đã chống cự quyết liệt và anh dũng. Một trong những tấm gương tiêu biểu là cuộc chiến đấu ở pháo đài Brét. Các chiến sĩ Xôviết, dưới sự chỉ huy của thiếu tá P. M. Gabrilốp, đã ngoan cường cố thủ trong pháo đài từ những giờ phút đầu chiến tranh đến tận cuối tháng 7-1941, khi mặt trận đã lùi xa hàng trăm km về phía đông. Pháo đài Brét đã trở thành biểu tượng về tinh thần bất khuất của Hồng quân.
Với mục đích kìm chân địch càng lâu càng tốt trên các tuyến phòng ngự để tranh thủ thời gian đưa lực lượng từ phía sau tới, thành lập thêm lực lượng dự bị, di tản các mục tiêu công nghiệp vào sâu trong nước và chuyển hướng sản xuất công nghiệp sang phục vụ nhu cầu chiến tranh, Hồng quân Liên Xô đã phải chiến đấu trong tình thế vô cùng gay go trước một lực lượng quân Đức hoàn toàn áp đảo và đang giữ quyền chủ động chiến lược.

Bộ phận mạnh nhất của lực lượng Xô Viết ở khu vực biên giới phía tây là Quân khu đặc biệt Kiev đóng tại Ukraina, điều này thể hiện quan điểm của Liên Xô cho rằng nếu chiến tranh nổ ra đối phương trước tiên sẽ phải đánh chiếm những vùng quan trọng sống còn về kinh tế. Và kết quả là Phương diện quân Tây tương đối yếu của Xô Viết tại Belarus đã gặp phải lực lượng chủ lực tấn công mạnh nhất của Đức và đã thất bại nhanh chóng vì đã bị các mũi xe tăng Đức áp đảo, chia cắt, bao vây, tiêu diệt lớn, mở toang cửa ngõ cho quân Đức đi vào trung tâm nước Nga thẳng tiến đến thủ đô Moskva.

Từ ngày 22 tháng 6 đến ngày 30 tháng 9 năm 1941, Cụm tập đoàn quân Nam được sự hỗ trợ từ Cụm tập đoàn quân Trung tâm của quân đội Đức quốc xã đã bao vây và loại khỏi vòng chiến đấu những lực lượng cơ bản của Phương diện quân Tây Nam (Liên Xô) đang phòng thủ khu vực Tây Nam mặt trận mà trọng điểm là khu phòng thủ Kiev. Đây là một trong những chiến quả quân sự lớn nhất của quân đội Đức trong toàn bộ Chiến tranh Xô-Đức cũng như trong lịch sử quân sự thế giới. Kết quả trận đánh là chiến thắng quyết định của Quân đội Đức Quốc xã giúp họ ổn định được mặt trận của Cụm tập đoàn quân Nam để tập trung lực lượng cho Cụm tập đoàn quân Trung tâm tiến hành chiến dịch "Typhoon" tấn công thẳng vào thủ đô Liên Xô với ý đồ kết thúc sớm cuộc chiến Xô-Đức. 

Nguyên nhân chủ yếu dẫn tới thảm họa Kiev của Liên Xô được cho là đến từ sự chủ quan quá mức của lãnh tụ Iosif Vissarionovich Stalin. Thất bại của Phương diện quân Tây Nam và Phương diện quân Nam không những làm cho Liên Xô bị tổn thất rất lớn về binh lực và phương tiện mà còn khiến họ đánh mất một vùng công nghiệp phát triển, một vùng lúa mì trù phú. Ngoài ra, nguồn dầu mỏ từ Baku cũng bị uy hiếp, đường ra Biển Đen bị cắt đứt làm cho sức mạnh của Hải quân Liên Xô trên Địa Trung Hải bị suy giảm nghiêm trọng. Việc để mất Kiev cũng làm cho các cường quốc ở phương Tây thêm nghi ngờ vào khả năng giữ nước của Quân đội Liên Xô, ảnh hưởng đáng kể đến vị thế của Liên Xô trên trường quốc tế.

Trận đánh đẫm máu này có thể được xem là trận thắng vinh quang nhất của lãnh tụ Adolf Hitler nói riêng và Đức Quốc xã nói chung trong cuộc Chiến tranh Xô-Đức, và là thất bại thảm hại nhất của Quân đội Liên Xô thời đó.

Sau thành công ban đầu của Đức ở trận Kiev, Adolf Hitler đã nhìn thấy Liên Xô có nền quân sự yếu kém và chín muồi cho cuộc chinh phục ngay lập tức. Ngày 3 tháng 10 năm 1941, ông tuyên bố: "Chúng ta chỉ cần đá vào cửa và toàn bộ cái cấu trúc mục nát đó sẽ sụp đổ".

Trong hai năm đầu của cuộc chiến 1941-1942, do thiếu pháo chống tăng, Hồng quân còn huy động khoảng 60.000 con chó chống tăng (là những con chó được huấn luyện để có thể mang thuốc nổ đến chỗ xe tăng, phương tiện chiến đấu bọc thép, rồi kích nổ) và các mục tiêu quân sự khác phục vụ trong các đơn vị Hồng Quân để chống lại xe tăng Đức.
Trước một cố gắng giành lại chủ động chiến lược và phòng ngự tích cực, từ ngày 23-6 đến ngày 29-6, các quân đoàn cơ giới của ba phương diện quân Liên Xô đã thực hiện nhiều trận phản công lớn trên nhiều địa bàn. Một trận tao ngộ chiến bằng xe tăng rất lớn đã diễn ra ở miền tây - Ucraina, khoảng giữa hai thành phố Brôda và Đúpnô. Tại đây, 4 quân đoàn cơ giới của Hồng quân đã phản kích cụm xe tăng số 1 của phát xít Đức. Quân đoàn cơ giới số 8 của Hồng quân, sau khi vượt 400 km hành quân, đã tổ chức tiến công thọc sâu vào phía sau đội hình xe tăng địch; gây ra những tổn thất và buộc chúng phải dừng lại. Tuy vậy, trong tình hình chung còn rất bất lợi, cùng những thiếu sót trong chỉ huy và thiếu sự yểm trợ của không quân đã làm cho trận phản kích ấy cũng như những trận phản kích khác kết thúc không thắng lợi, dù có gây cho quân Đức những thiệt hại đáng kể.
Tình hình tại phương diện quân Tây của Liên Xô thực sự là một thảm họa. Tại đây Hồng quân có 4 tập đoàn quân 3, 4, 10, 13 được bố trí bất hợp lý, lại phải chống chọi với hai tập đoàn quân xe tăng số 2, số 3 và hai tập đoàn quân bộ binh số 4 và số 9 của Đức. Chỉ trong vòng một tuần lễ cụm tập đoàn quân Trung tâm của Đức trong chiến dịch Belostok-Minsk đã bao vây và tiêu diệt gần hết lực lượng của phương diện quân Tây của Hồng quân. Trong ngày 24 tháng 6 phương diện quân Tây gắng gượng tổ chức phản kích bằng hai quân đoàn cơ giới số 6 và 11 và quân đoàn kỵ binh số 6 nhằm vào tập đoàn quân bộ binh số 9 của Đức. Cuộc phản công được tổ chức kém và sai hướng nên bị tiêu diệt mà không có kết quả.
Ngày 29 tháng 6 thủ đô Minsk của Belarus thất thủ, ngày 30 tháng 6 phần lớn lực lượng quân đội Xô Viết bị bao vây đã bị tiêu diệt hoặc bị bắt làm tù binh. Trong tổng số 62,5 vạn binh lính và sĩ quan của phương diện quân Tây của Hồng quân, chỉ trong một tuần chiến tranh đầu tiên đã bị mất 42 vạn tại Belarus, chỉ còn hơn 20 vạn kịp thoát khỏi vòng vây để lập tuyến phòng thủ mới. 
Trước những đòn đột kích lớn của quân Đức đã phát triển vào sâu trong đất nước, Hồng quân, sau khi đã phải chịu những hy sinh, tổn thất nặng nề và để tránh bị bao vây tiêu diệt, đã phải rút lui trên toàn mặt trận. Ở hướng tây - bắc, Hồng quân phải rút về tuyến tây - Đơrina, nhưng cũng không giữ được, đành phải tiếp tục rút lui. Quân Đức đông hơn đã xâm nhập vùng Lêningrát. Ở hướng tây (chính diện), đến ngày 29-6, quân Đức đã hợp điểm được ở khu vực Minscơ. Nhiều đơn vị Hồng quân bị vây, vừa mở đường máu vượt thoát, vừa tiếp tục chiến đấu ngoan cường đến ngày 8-7. Họ đã kìm chân được bộ binh Đức, tạo thời gian cho các lực lượng dự bị của Hồng quân từ phía sau lên, tổ chức phòng ngự ở tuyến sông Đơnhiép. Ở hướng tây - nam, Hồng quân vừa tác chiến vừa rút lui về tuyến phòng ngự đã được củng cố, dọc theo biên giới quốc gia cũ (trước năm 1939). Tuy vậy Hồng quân cũng không giữ nổi tuyến này. Cụm xe tăng số 1 của quân Đức đã chọc thủng phòng tuyến, tiến đến sát cửa ngõ thành phố Kiép mới bị chặn lại.
Cuối tháng 7 cụm tập đoàn quân Trung tâm của Đức chọc thủng phòng tuyến của phương diện quân Trung tâm của Xô Viết ào ạt tấn công theo hướng Bắc – Nam về phía Gomel và chiếm thành phố này ngày 20 tháng 8 năm 1941. Quân Đức đe doạ nghiêm trọng sườn phải và lưng của phương diện quân tây nam Xô Viết đang phòng thủ hướng Kiev. Với triển vọng đánh vào lưng và bao vây tiêu diệt cụm quân Xô Viết tại Kiev, Hitler ra lệnh cho cụm quân Trung tâm tạm dừng tấn công trên hướng Moskva điều một nửa lực lượng của cụm quân này là tập đoàn quân xe tăng số 2 của Guderian và tập đoàn quân bộ binh số 2 đánh xuống phía nam bên bờ Đông sông Dnepr kết hợp cùng cụm tập đoàn quân Nam của Đức bao vây tiêu diệt phương diện quân tây nam đang phòng thủ khu vực Kiev.

Sau khi đột phá tại phía nam Kiev tập đoàn quân xe tăng số 1 của Paul Ludwig Ewald von Kleist thuộc cụm tập đoàn quân Nam của Đức từ bàn đạp Kremenchuk phía bờ Đông sông Dnepr đã tiến lên phía bắc. Ngày 15 tháng 9 tại Lokhvitsa tập đoàn quân xe tăng này đã gặp tập đoàn quân xe tăng số 2 của Guderian từ phía bắc đánh xuống, hợp vây hoàn toàn phương diện quân tây nam của Liên Xô.

Phương diện quân tây nam Xô Viết dù đã kháng cự rất quyết liệt từ ngày đầu chiến tranh và đã cầm cự có tổ chức được lâu dài giờ đây đã bỏ lỡ cơ hội rút lui, các tập đoàn quân Xô Viết của phương diện quân này đã rơi vào vòng vây siết chặt của quân Đức, lại bị ngăn cách bởi sông lớn Dnepr và đã bị tiêu diệt gọn. Khoảng 65 vạn quân Xô Viết đã tử trận hoặc bị bắt làm tù binh, trong đó có hầu hết các tư lệnh và chỉ huy các tập đoàn quân của phương diện quân này. Thượng tướng Mikhail Petrovich Kirponos, tư lệnh phương diện quân bị tử thương khi một viên đạn cối của quân Đức nổ ngay cạnh ông. Trung tướng V. I. Tupikov tham mưu trưởng Phương diện quân tử trận tại làng Ovdievsk. Ủy viên hội dồng quân sự phương diện quân, Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Ukraina đã tử trận tại khu rừng Sumeykovo. Chính ủy phương diện quân tây nam Yevgheni Pavpovich Rykov bị quân Đức bắt và hành quyết tại Lokhvitsa. Chỉ có khoảng 100 ngàn quân của Phương diện quân tây nam Xô Viết thoát khỏi vòng vây, họ cố gắng thiết lập tuyến phòng thủ mới ở bờ đông sông Dnepr.
Sau này có nhiều ý kiến cho rằng quyết định của Adolf Hitler phái một nửa lực lượng của cụm tập đoàn quân Trung tâm xuống phía nam tiêu diệt Kiev đã bỏ lỡ cơ hội đánh chiếm Moskva trước mùa đông. Tuy nhiên theo nguyên soái G.K Zhukov của Liên Xô thì quyết định này là đúng đắn cho quân Đức và sẽ phải xảy ra theo đúng quy luật quân sự và tình thế chiến trường khi đó, vì nếu quân Đức không tiêu diệt được Phương diện quân tây nam thì mũi tấn công của cụm tập đoàn quân Trung tâm vào Matxcova sẽ bị hở sườn phải và rất dễ bị Phương diện quân tây nam tấn công từ phía sau. Và vì nhận thức được khả năng này Bộ tổng tham mưu Xô Viết đã đề nghị Stalin sớm bỏ Kiev rút sang bờ đông sông Dnepr phòng ngự, nhưng đề nghị này G.K Zhukov đã không được Stalin chấp nhận vì những lý do đã nêu ở trên. 
Nhưng thất bại to lớn của quân đội Xô Viết tại Kiev còn có một khía cạnh khác, nó tác động lên tâm lý của lãnh tụ hai bên làm ảnh hưởng đến kết cục chiến tranh sau này: Tổng chỉ huy tối cao của Liên Xô Stalin sau các thất bại tại Belarus và Kiev đã nhận thức được hạn chế về kiến thức quân sự của cá nhân mình và đã biết chú ý lắng nghe ý kiến của Bộ tổng tham mưu và các tướng lĩnh Xô Viết. Trong khi đó Hitler đã quá tự tin vào thiên tài quân sự và khả năng không thể sai lầm của mình nên càng ngày càng bỏ qua các ý kiến của các tướng lĩnh Đức, điều này đã ảnh hưởng đến quá trình điều hành chiến tranh sau này của hai bên. 
Đến giữa tháng 7-1941, chiến cục biên giới coi như kết thúc. Mặt trận đã di chuyển từ biên giới phía tây về phía đông, vào sâu trong lãnh thổ Liên Xô từ 350 km đến 600 km. Tuy nhiên nước Đức phát xít đã phải trả một cái giá không rẻ: trong 22 ngày chiến đấu đã có 92 ngàn quân chết và bị thương, một nửa số xe tăng và một số lớn máy bay bị phá hủy, nguy cơ phá sản rõ ràng của “chiến tranh chớp nhoáng”, và nghiêm trọng hơn cả, theo như nhận định của đảng Cộng sản Liên Xô sau này là: “ngay từ thời kỳ đầu chiến tranh đã cho thấy việc phiêu lưu quân sự của nước Đức phát xít nhất định sẽ đi đến thất bại”.
Trái lại, Bộ chỉ huy Đức cho rằng từ thời điểm quân Đức tiến được đến sông Đơnhiép, các lực lượng chủ yếu của Hồng quân đã bị đập tan và nhiệm vụ chủ yếu của cuộc chiến tranh chống Liên Xô đã được giải quyết. Đánh giá tình hình như vậy nên Tổng hành dinh Đức đã giao nhiệm vụ cho các cụm tập đoàn quân:
- Cụm tập đoàn quân “Bắc” tiếp tục tấn công vào Lêningrát.
- Cụm tập đoàn quân “Trung Tâm” bao vây và tiêu diệt Hồng quân trong khu vực Xmôlenscơ.
- Cụm tập đoàn quân “Nam” tổ chức bao vây Hồng quân ở hữu ngạn Ucraina và dùng một phần lực lượng phát triển tấn công vào Kiép.
Đại bản doanh của Bộ tổng tư lệnh tối cao Hồng quân Liên Xô (gọi tắt là Đại bản doanh; được thành lập ngày 29-6-1941) đã tổ chức triển khai nhanh chóng các lực lượng dự bị chiến lược ở những hướng bị uy hiếp, tạo ra một chiều sâu phòng thủ thích hợp, và sau khi xác định hướng chính là phía tây, đã tập trung ở đó những lưc lượng dự bị chủ yếu. Ở cửa ngõ tiến vào Mátxcơva đã bắt đầu xây dựng tuyến phòng ngự Môgiaixki gồm 3 tập đoàn quân.
Cuộc chiến đấu tiếp tục sôi nổi và ác liệt ở trên cả 3 hướng phòng thủ: tây - bắc, tây và tây - nam. Nhưng diễn biến ở hướng tây là đặc biệt quan trọng.
Tại hướng tây, từ ngày 10-7 đến ngày 10-9-1941, đã diễn ra trận đánh lớn nhất của thời kỳ đầu chiến tranh ở Xmôlenxcơ. Khi bắt đầu trận đánh, lực lượng quân Đức trội hơn lực lượng Hồng quân về người là gần 2 lần, về đại bác và súng cối là hơn 2,4 lần, về máy bay là hơn 4 lần.
Trong thời gian từ ngày 10-7 đến ngày 20-7, với những cụm tập đoàn xe tăng mạnh, tập trung trên những địa đoạn hẹp của chính diện, được sự yểm trợ dày đặc của không quân, quân Đức đã đột phá sâu vài nơi. Quân đoàn 20 của Hồng quân đang phòng ngự “cửa ngõ Xmôlenxcơ” (giữa hai con sông Tây - Đơvina và Đơnhiép) có nguy cơ bị bao vây. Cụm xe tăng số 3 của quân Đức đã thực hiện được việc đánh vòng từ phía bắc vào hậu phương của lực lượng phòng thủ xô viết, tới tận Iaxêvô và cắt đứt trục đường sắt quan trọng nhất, cắt đứt xa lộ Minscơ - Mátxcơva. Ở phía nam, cụm xe tăng số 2 của quân Đức đã đột phá tới ngoại vi Xmôlenscơ vào ngày 16-7. Ở cánh phải của đội hình phòng ngự Hồng quân, quân Đức đã buộc tập đoàn quân số 22 Liên Xô phải rút về Veliki; ở cánh trái, chúng cũng đã chiếm được Ennhia, tạo được bàn đạp tiến về phía đông, tấn công Mátxcơva.
Hồng quân Liên Xô thuộc phương diện quân phía tây đã phải gồng mình chịu đựng những đòn tiến công mãnh liệt của quân Đức. Tuy nhiên họ đã không thụ động mà luôn phòng ngự tích cực bằng việc liên tục tổ chức những đòn phản kích và phản đột kích. Nhằm làm giãn lực lượng địch ở hướng chính Xmôlenscơ, tập đoàn quân 21 và cụm kỵ binh ở hướng Bôbruixki, dưới sự chỉ huy của tướng Ph. I. Cudơnhétxốp, vào ngày 13-7 đã mở chiến dịch đột kích vào hậu phương của cụm tập đoàn quân “Trung tâm”. Hành động này đã kìm chân khá lâu các lực lượng chính của tập đoàn quân số 2 Đức, không cho tập đoàn quân này phát triển tiến công. Bên cạnh đó là hàng loạt những cuộc phản đột kích của Hồng quân cũng được tổ chức ở vùng Ennhia và gần Xmôlenscơ. Một trong những trận đó là sư đoàn xe tăng số 57 của Hồng quân, dưới sự chỉ huy của đại tá V.A. Misulin đã đập tan một bộ phận lực lượng tiến công vào Xmôlenscơ của quân đoàn xe tăng số 2 của tướng Đức là Guđerian, ở gần thành phố Crátnôie.
Ngày 14-7, ở gần Óocxa, loạt đạn súng cối phản lực của Hồng quân trên chiến trường Xô - Đức đã lần đầu tiên được bắn ra từ đại đội do đại úy I.A Plêrốp chỉ huy. Sau loạt đạn đó, trong trận địa dày đặc quân địch bốc lên ngọn lửa cháy dữ dội làm đám lính Đức còn sống sót chạy tán loạn, đầu hàng, bị bắt làm tù binh trong nỗi kinh hoàng. Loại vũ khí tầm xa lợi hại có tính uy hiếp và sát thương rất cao đó được các chiến sĩ xô viết gọi một cách trìu mến là “Cachiusa” - tên của một thiếu nữ Nga.
Tập đoàn quân số 13 của Hồng quân đã bị chia cắt thành nhiều bộ phận. Tuy nhiên họ vẫn tiếp tục ngoan cường chiến đấu. Trong nhiều ngày đêm, quân đoàn số 16 cùng với những binh đội của quân đoàn cơ giới số 20 của tập đoàn quân này, trong tình thế bị bao vây, đã anh dũng phòng ngự Môghiliép, thu hút vào đó 5 sư đoàn Đức.
Thời gian từ 21-7 đến 7-8 là giai đoạn cường độ của trận đánh lớn lên cao nhất.
Tổng hành dinh quân Đức cho rằng lực lượng Hồng quân ở hướng Mátxcơva đã bị đánh phân tán. Trong chỉ thị số 33 ngày 19-7 về việc tiếp tục tiến hành chiến tranh ở phía Đông và chỉ thị bổ sung ký ngày 23-7, Hítle đã giao nhiệm vụ cho cụm tập đoàn quân “Trung Tâm” là “phải tiêu diệt quân địch còn đang tiếp tục kháng cự ở giữa Xmôlenxcơ và Mátxcơva… và phải chiếm bằng được Mátxcơva”. Đồng thời tổng hành dinh Đức còn vạch kế hoạch tiến công vào Cápcadơ cũng như Cận Đông và cả kế hoạch đưa quân đội trở về nước Đức “sau chiến thắng” (!?).
Đại bản doanh của Hồng quân, sau khi nhận định tình hình, đã tung lực lượng dự bị ra đối phó và chỉ trong tháng 7-1941 riêng ở hướng tây đã triển khai xong 3 thê đội gồm 74 binh đoàn mới. Ngày 20-7, Đại bản doanh đã giao nhiệm vụ cho bộ đội hướng tây chuyển sang tiến công “tiêu diệt địch, chiếm lại vùng Xmôlenscơ và đuổi quân Đức ra khỏi Óocxa”
Ngày 23-7, phương diện quân miền tây của Hồng quân chuyển sang tiến công vào Xmôlenscơ. Nhiều trận đánh ác liệt đã diễn ra. Ngày 27-7, các binh đoàn của tập đoàn quân 16 Liên Xô đã chiếm được nhà ga, triển khai chiến đấu nhằm giành lại phần phía bắc thành phố. Quân Đức đã đột kích vào sau lưng tập đoàn quân 16 và 20, tiến hành bao vây họ ở phía bắc và tây thành phố. Cuộc tiến công của Hồng quân không giành được thắng lợi quyết định nhưng đã bẻ gãy cuộc tiến công của cụm xe tăng số 3 của quân Đức, giúp ổn định tình hình ở hai bên sườn phương quân Miền Tây và gây cho địch nhiều thiệt hại nặng.
Tại khu vực Ennhia, tập đoàn quân 24, dưới sự chỉ huy của tướng K. I. Racuchin, trong suốt 26 ngày đêm đã chiến đấu rất kiên cường, buộc quân Đức phải rút khỏi bàn đạp Ennhia.
Những trận đánh ở khu vực Iaxêvô cũng không kém căng thẳng, ác liệt. Lực lượng Hồng quân ở đây đã bẻ gãy mọi ý đồ mở rộng tấn công của quân Đức, tổ chức phòng ngự vững chắc dọc đường giao thông Minxcơ…
Trong quá trình chiến đấu hết sức gay go của những ngày đầu tháng 8, trên hướng tây đã có biểu hiện về cân bằng lực lượng. Quân Đức đã bị kìm hãm và lần đầu tiên trong chiến tranh thế giới thứ hai, quân Đức ở hướng trung tâm đã buộc phải chuyển sang phòng ngự trong hai tháng.
Trận đánh lớn ở Xmôlenscơ đã đem lại thắng lợi cho Hồng quân, tỏ rõ trước thế giới lòng quả cảm vô song của các chiến sĩ Xô Viết. Ý đồ tiêu diệt Hồng quân tại khu vực trung tâm trên mặt trận Xô - Đức của Bộ chỉ huy phát xít Đức đã phá sản.
Do phương diện quân Miền Tây cũng bị thiệt hại đáng kể trong chiến đấu nên ngày 10-9-1941, Đại bản doanh ra lệnh cho lực lượng Hồng quân ở chính diện chuyển sang phòng ngự.
Tại hướng tây - bắc và tây - nam, từ tháng 7 đến tháng 9-1941, nhiều trận chiến đấu ác liệt, qui mô lớn cũng đã diễn ra.
Ở hướng tây - bắc, các phương diện quân miền Bắc, phương diện quân Tây - Bắc và cả hạm đội Bantích Cờ Đỏ đã tổ chức các chiến dịch phòng ngự chống lại cụm tập đoàn quân Bắc của phát xít Đức và lực lượng chủ yếu của quân đội Phần Lan. Bộ chỉ huy Đức chỉ thị phải chiếm Lêningrát và tiêu diệt hạm đội Bantích trong thời gian từ tháng 7 đến tháng 8. Ngày 10-7, quân Đức mở cuộc tiến công từ vùng Pêscốp và Ốtstrốp theo hướng Lugiơki và Nốpgôrốt. Tập đoàn quân số 11 của Hồng quân đánh rút lui. Quân đoàn cơ giới số 56 của Đức ngày 13-7 đã thọc được vào khu vực thành phố Xonxa và chuẩn bị đánh chiếm Nốpgôrốt. Phát hiện ra những sườn hở và đội hình kéo dài của quân đoàn 56 cơ giới Đức, Hồng quân của tập đoàn quân số 11 bất ngờ tổ chức phản đột kích. Trong 4 ngày chiến đấu quyết liệt, Hồng quân đã đánh tan sư đoàn xe tăng số 8 Đức và tiến về phía tây hơn 40 km. Cuộc tiến công của cụm xe tăng số 4 của Đức cũng phải tạm thời dừng lại. Đây là một thắng lợi rất lớn của bộ đội Xô viết, góp phần làm dừng cuộc tấn công vào Lêningrát và buộc quân Đức phải tung một bộ phận lực lượng ra để đối phó.
Tuy nhiên Lêningrát vẫn bị đe dọa ngày một nghiêm trọng. Ngày 25-8, một lực lượng gồm 9 sư đoàn quân Đức, có sự yểm trợ của không quân, tiếp tục mở cuộc tấn công vào Lêningrát. Quân đoàn cơ giới 39 Đức đã chọc thủng đến vùng Cônpinô mới bị chặn lại. Một lực khác của quân Đức tiến đến Xlitxenbua và phong tỏa Lêningrát từ phía đất liền. Bắt đầu từ ngày 8-9-1941, việc liên lạc của thành phố với thế giới bên ngoài chỉ còn có thể thực hiện được bằng đường không và qua hồ Lađôga. Ngày 9-9, phát xít Đức tiếp tục đột kích vào Lêningrát. Một cụm gồm 8 sư đoàn quân Đức đánh vào Urítxcơ và Lêningrát. Một mũi hỗ trợ gồm 3 sư đoàn bộ binh từ vùng Cônpinô đánh vào Lêningrát ở phía đông nam.
Lực lượng của tập đoàn quân 42, triển khai gần những vùng ngoại vi phía nam Lêningrát đã chống cự quyết liệt, làm tiêu hao và buộc quân Đức phải dừng lại gần Ligôvô. Tuy nhiên ở phía khác, gần Xtrelơmưi, quân Đức đã tiến được đến bờ biển vịnh Phần Lan, cô lập tập đoàn quân 8 của Hồng quân khỏi phương diện quân Lêningrát (lúc này phương diện quân miền Bắc đã được chia thành 2 phương diện quân là Caren và Lêningrát, trực thuộc Đại bản doanh).
Đến ngày 10-9, tình hình Lêningrát càng nghiêm trọng. Song, bằng những biện pháp tích cực, phương diện quân Lêningrát do tướng G. K. Giucốp chỉ huy, đã đẩy mạnh công cuộc phòng thủ và đã cứu vãn được tình hình. Cuối cùng cụm tập đoàn quân “Bắc” của phát xít Đức bị kiệt sức, mất hết khả năng tấn công. Ngày 23-9, cụm tập đoàn quân Bắc chuyển sang phòng thủ và Tổng hành dinh Đức quyết định bao vây phong tỏa dài ngày đối với Lêningrát.
Tại hướng tây - nam, những chiến dịch phòng ngự của Hồng quân Liên Xô ở Ucraina từ tháng 7 đến tháng 10-1941 cũng cực kỳ căng thẳng.
Giữa tháng 7, các binh đoàn cơ động của cụm xe tăng số 1 và theo sau nó là các đơn vị tập đoàn quân số 6 của Đức đã tiến về Kiép và bị chặn lại ở đây. Lúc này phương diện quân tây - nam của Hồng quân bị chia làm 2 cụm: cụm tập đoàn phía bắc (tập đoàn quân 5) triển khai chiến đấu ở Côrốtchen và cụm tập đoàn phía nam (tập đoàn quân 6 và 12) phòng ngự chạy dọc biên giới quốc gia cũ.
Trong tháng 7 và đầu tháng 8, cả hai cụm tập đoàn của phương diện quân tây - nam cùng một lúc tiến hành 2 chiến dịch: chiến dịch Côrốtchen và chiến dịch Umanski. Trong chiến dịch phòng ngự Côrốtchen, tập đoàn quân số 5 của Hồng quân phải trải qua những trận chiến đấu ác liệt, giam chân 8 sư đoàn Đức, gây cho chúng những thiệt hại lớn, góp phần làm giảm nhẹ tình hình của Hồng quân ở vùng Kiép, bảo vệ thủ đô Ucraina. Trong chiến dịch Umanski, cụm tập đoàn chủ yếu của phương diện quân Tây - Nam bị thu hút vào những trận đánh lớn trên Hữu ngạn Ucraina. Kết quả những trận đánh đó, dù có gây cho quân Đức nhiều thiệt hại (cụm xe tăng số 1 của Đức bị hao hụt hơn 50% khí tài), nhưng đều bất lợi cho Hồng quân. Quân Đức đã tiến được vào vùng Umana, bao vây cụm tập đoàn này. Các cánh quân bạn của phương diện quân Tây - Nam đã phải rút lui về phía đông làm cho lực lượng Hồng quân ở đây bị đe dọa bao vây cả hai bên sườn. Trước tình hình đó, Đại bản doanh đã lệnh cho các tập đoàn quân ở hướng tây - nam phải rút qua sông Đơnhiép, tổ chức phòng ngự ở bờ phía tây của vùng Kiép, Đờnheprôpêtrốpxca và các bàn đạp khác ở phía nam. Đến cuối tháng 8, Hồng quân đã rút qua sông Đơnhiép, một bộ phận khác rút về Ôđétxa. Quân Đức đã chiếm được bàn đạp ở Đétsna gần Cônôđốp.
Trận phản đột kích của phương diện quân Brianxcơ nhằm tiêu diệt cụm xe tăng số 2 của quân Đức không đem lại kết quả mong muốn, không xóa bỏ được mối đe dọa hở sườn phía bắc (sườn phải) của phương diện quân Tây - Nam.
Sau khi chọc thủng phòng tuyến của Hồng quân ở hướng Cônôđốp, quân Đức phát triển thắng lợi vào hậu phương của các lực lượng Hồng quân thuộc phương diện quân Tây - Nam đang phòng giữ tuyến Đơnhiép và Kiép. Quân đoàn cơ giới số 24 của Đức phát triển thắng lợi theo hướng Rômna và tập đoàn quân dã chiến số 2 của chúng tiến công từ Chécnhigốp vào Priluki.
Ngày 1-9-1941, cụm tập đoàn quân Nam của Đức vượt sông Đơnhiép. Những trận đánh giành giật bàn đạp phía Bắc Kiép, gần Klêmentrúc và Cakhốpca đã diễn ra ác liệt suốt 10 ngày đêm. Cụm xe tăng số 1 của quân Đức đã qua sông ở bàn đạp Klêmentrúc. Phương diện quân Tây - Nam của Hồng quân lâm vào tình thế nguy kịch. Việc Đại bản doanh không cho phép rút lui cùng một lúc bộ đội của phương diện quân Tây - Nam về phía đông đã làm cho các tập đoàn quân 5, 37, 26 và một bộ phận của các tập đoàn quân 21 và 38 bị bao vây ở phía đông Kiép. Chỉ sau này, phần lớn lực lượng đó mới tìm được cách rút ra khỏi vòng vây.
Các chiến sĩ Hồng quân ở Ôđétxa đã chống giữ anh dũng suốt 73 ngày, kìm chân 18 sư đoàn Đức trong một thời gian dài. Đến tháng 11, quân Đức đã tiến đến gần Rốtxtốp.
Sự thất bại của phương diện quân Tây - Nam của Hồng quân đã làm cho quân Đức tiến được vào Đônbát, chiếm được Tả ngạn Ucraina và có mặt ở cửa ngõ Crưm.
Hồng quân Liên Xô đã phải nỗ lực rất lớn, đưa các lực lượng dự bị mới vào chiến đấu, mới củng cố được mặt trận phòng ngự và đến cuối mùa thu thì chặn đứng được quân Đức. Bản thân cụm tập đoàn đột kích của cụm tập đoàn quân Nam của Đức lúc này cũng đã kiệt sức.
Nhìn chung, đến cuối tháng 9-1941, phát xít Đức đã tiến sâu vào lãnh thổ Liên Xô. Dù ở hai hướng chiến lược tây và tây - bắc, quân Đức phải chuyển sang phòng ngự tạm thời nhưng lực lượng của chúng còn rất lớn và vẫn đe dọa nghiêm trọng nền độc lập của đất nước Liên Xô.
Hitler đã chuẩn bị một kế hoạch chiến tranh hủy diệt đối với Moskva. Trong một cuộc họp tại Bộ tham mưu cụm tập đoàn quân Trung tâm, Hitler đã tuyên bố: "Thành phố sẽ bị vây chặt, không một lính Nga, không một dân thường - đàn ông, đàn bà, trẻ em có thể trốn thoát. Mọi ý đồ rời khỏi thành phố sẽ bị đè bẹp bằng sức mạnh. Mọi sự chuẩn bị đã sẵn sàng để làm chìm ngập Moskva và vùng phụ cận. Nơi hôm nay là Moskva sẽ là một cái hồ lớn mãi mãi nhấn chìm thủ đô của bọn Nga!". 
Tháng 10-1941, phát xít Đức tập trung nỗ lực mở chiến dịch có mật danh là “Bão táp” nhằm mục đích chủ yếu là chiếm Mátxcơva. Mátxcơva là trung tâm động viên, tổ chức kháng chiến của nhân dân Liên Xô; là vùng tập trung phần lớn sản xuất công nghiệp có ý nghĩa quốc phòng; là đầu mối giao thông đường sắt và đường bộ lớn nhất đất nước; là biểu tượng của chính quyền Xôviết. Do đó, Tổng hành dinh Đức cho rằng chưa chiếm được Mátxcơva tức là chưa giành được thắng lợi quyết định đối với Liên Xô.
Ý đồ của chiến dịch “Bão táp” là: đột kích chọc thủng mặt trận phòng ngự chính diện trên cửa ngõ Mátxcơva, đồng thời bao vây tiêu diệt lực lượng chủ yếu của Hồng quân tại vùng Viadơma và Brianxcơ, rồi phát triển tiến công đánh vu hồi từ phía bắc và nam, hoàn thành chiến dịch trong thời gian ngắn.
Cụm tập đoàn quân “Trung Tâm” được giao nhiệm vụ tiến hành chiến dịch nói trên với một lực lượng hơn 1 triệu quân, hơn 14 ngàn pháo và súng cối, 1.700 xe tăng và 950 máy bay.
Đối đầu với lực lượng đó của quân Đức trong việc phòng thủ Mátxcơva là 3 phương diện quân Hồng quân: Miền Tây, Dự Bị và Brianxcơ, bao gồm 800 ngàn quân, 6.800 pháo và súng cối, 780 xe tăng và 545 máy bay (phần lớn là kiểu cũ).
Trong hội nghị các tướng lĩnh, Hitle huênh hoang tuyên bố biến Mátxcơva “thành một cái hồ lớn bao phủ vĩnh viễn thủ đô của dân tộc Nga”. Hitle còn lệnh cho Bộ chỉ huy cụm tập đoàn quân “Trung Tâm”: “Phải bao vây thành phố thế nào để không một người lính Nga nào, không một người dân nào, dù là đàn ông, đàn bà hay trẻ con có thể bỏ chạy” và “phải hủy diệt nhân dân và thành phố Mátxcơva”.Trong nhật lệnh ngày 2-10-1941, Hitle yêu cầu phải tiêu diệt kẻ thù “trước khi mùa đông tới” và ấn định ngày 7-11-1941 sẽ “chiếm xong Mátxcơva và duyệt binh chiến thắng tại Hồng Trường”. Sự điên cuồng, ngạo mạn và vô văn hóa của Hitle lên đến tột đỉnh khi cho thành lập một đội đặc biệt để chờ phá hủy điện Cremli. Điều lạ lùng nhất là một kẻ mắc chứng thâm thù, khát máu, vĩ cuồng bệnh hoạn như thế đáng lẽ phải ở bệnh viện tâm thần thì lại nghiễm nhiên là Quốc trưởng của nước Đức ở thời văn minh, bắt cả dân tộc Đức thông thái mà ở quá khứ đã sản sinh ra những đứa con triết gia vĩ đại, tên tuổi còn lừng lẫy khắp địa cầu đến tận ngày nay, phải răm rắp phục tùng! Điều phi lý dị thường như thế phải chăng chỉ có thể giải thích được ở tầng nền tảng của nền tảng sinh học, tạm gọi nôm na là “Tầng thu phát bức xạ điện từ và cộng hưởng sinh học”?

Để bảo vệ Moskva quân đội Xô Viết cho thiết lập ba tuyến phòng thủ: tuyến Rzhev – Viazma – Briansk cách thủ đô khoảng 200–500 km, tuyến Volokolamsk – Mozhaisk – Kaluga cách Moskva khoảng 100–150 km và tuyến cuối cùng là vành đai xung quanh thành phố. Quân đội Xô Viết bố trí ba phương diện quân Tây, Dự bị và Briansk để phòng thủ Moskva: tổng cộng gần 1,25 triệu quân, 1.000 xe tăng, gần 700 máy bay, 7.600 pháo và súng cối. Cho đến thời điểm tấn công quân Đức có lực lượng vượt trội cả về quân số, trình độ huấn luyện tác chiến, số lượng và chất lượng vũ khí.

Kế hoạch của quân Đức trước tiên hợp vây tiêu diệt các đơn vị Xô Viết tại tuyến Rzhev – Viazma – Briansk mở đường cho 2 mũi lao nhọn từ Bắc và Nam tiến đến bao vây Moskva tại Orekhovo-Zuevo khoảng 60 km về phía đông Moskva. Sau khi vây hãm Moskva, sẽ dùng không quân, xe tăng và bộ binh đánh chiếm thành phố.

Trận đánh bắt đầu vào ngày 30 tháng 9 năm 1941 và chia làm nhiều giai đoạn khốc liệt. Trong 10 ngày đầu tháng 10 năm 1941, quân Đức đập tan tuyến phòng thủ Rzhev – Viazma – Briansk của Hồng quân, bao vây tiêu diệt khoảng nửa triệu quân của ba phương diện quân Xô Viết. Tuyến phòng thủ vòng ngoài của Moskva đã bị đánh tan.

Mở màn chiến dịch, các cụm tập đoàn đột kích của phát xít Đức đã đánh vào phương diện quân Brianxcơ ngày 30-9, đánh vào phương diện quân miền Tây và phương diện quân Dự Bị ngày 2-10-1941. Với lực lượng trội hơn từ 5 đến 8 lần, quân Đức nhanh chóng chọc thủng dải phòng ngự chính diện. Trên tất cả các hướng, Hồng quân nỗ lực tổ chức các cuộc phản đột kích nhằm làm chậm bước tiến đối phương nhưng vẫn không khôi phục lại được tuyến mặt trận đã bị chọc thủng. Cụm tập đoàn xe tăng Đức, sau khi đánh bật những cuộc phản kích của Hồng quân, đã tiến vào chiều sâu phòng ngự chiến dịch và đến 6-10 đã hợp quân được ở vùng Viadơma. Các tập đoàn quân 19, 20, 24, 32 của Hồng quân đã bị bao vây gần Viadơma, còn các tập đoàn quân 3, 13, 50 của phương diện quân Brianxcơ thì bị vây hãm tại khu rừng Brianxcơ. Tất cả các tập đoàn quân đó, trong tình thế hết sức khó khăn, vẫn tích cực chiến đấu một cách quyết liệt, gây cho quân thù những thiệt hại to lớn và mặc dù phải chịu những tổn thất nặng nề, đặc biệt là về trang bị vũ khí, cũng đã rút ra được khỏi vòng vây về tập kết ở tuyến qui định. Tại vùng Viadơma, tình hình cũng trở nên rất nghiêm trọng! Từ ngày 7 đến ngày 14-10, Hồng quân đã phải trải qua những trận đánh ác liệt trong vòng vây. Bằng những tốp nhỏ, một bộ phận lớn Hồng quân đã rút được về phía đông.
Dù bị đánh tê liệt 28 sư đoàn, nhưng quân Đức vẫn còn rất mạnh. Đại bản doanh Hồng quân buộc phải điều lực lượng mới từ lực lượng dự bị và các phương diện quân khác về, tung vào hướng chủ yếu, chiếm lĩnh tuyến phòng ngự Môgiaiscơ. Phương diện quân Dự Bị được sát nhập vào phương diện quân miền Tây, dưới sự chỉ huy của tướng G. K. Giucốp, cũng đồng thời là tổng tư lệnh chỉ huy phòng thủ Mátxcơva.
Ngày 15/10/1941, quân Đức chỉ cách Moskva 27 km. Tình hình đã trở nên nguy cấp, Stalin hỏi Đại tướng Zhukov: "Anh có tin là chúng ta giữ được Moskva không? Tôi hỏi anh điều này với nỗi đau lớn. Anh hãy nói một cách chân thành với tư cách người đảng viên". Zhukov trả lời: "Nhất định chúng ta giữ được, nhưng chúng ta cần tăng cường ít nhất 2 quân đoàn và 200 xe tăng!". Stalin đồng ý và lập tức triệu tập cuộc họp Hội đồng Quốc phòng. Ông đã yêu cầu từng người trả lời câu hỏi: "Tử thủ hay rút chạy?". Tất cả đều thể hiện sẵn sàng chiến đấu. 
Ngày 14-10, quân Đức chiếm được thành phố Calinin, tạo ra khả năng đột kích thẳng vào Mátxcơva và vào hậu phương của phương diện quân Tây - Bắc. Để loại trừ nguy cơ đó, ngày 17-10, phương diện quân Calinin của Hồng quân được thành lập. Từ ngày 18 đến ngày 20-10, lực lượng này đã mở cuộc phản kích vào cụm xe tăng số 3 của quân Đức, buộc quân Đức ở hướng Calinin phải chuyển sang phòng ngự.
Quân đoàn bộ binh cận vệ số 1 của Hồng quân được điều đến hướng Oóclốp-Tula trong vùng Mxenscô. Lữ đoàn xe tăng số 4 của quân đoàn đã tỏ ra rất xuất sắc (sau trận này được phong danh hiệu “Cận vệ”), đã đương đầu với 2 sư đoàn xe tăng Đức và chỉ trong vài ngày, bằng lối đánh phục kích, đã tiêu diệt 133 xe tăng  của chúng. Sự hoạt động thành công của quân đoàn bộ binh đã cải thiện rất nhiều tình hình của các tập đoàn quân 50, 3 và của phương diện quân Brianxcơ. Các đơn vị này đã rút lui có tổ chức về tuyến Beliép, Pônưri, Phategiơ, Lơgốp để tiếp tục phòng ngự.
Khi quân Đức tiến đến Tula, chúng tổ chức nhiều trận tiến công bằng xe tăng và bộ binh cơ giới vào thành phố, nhưng đều bị các đơn vị Hồng quân, dân quân bảo vệ thành phố cùng một lực lượng của tập đoàn quân 50 đến tăng cường, đánh lùi.
Vào hạ tuần tháng 10, tại tuyến phòng ngự Môgiaixcơ đã diễn ra những trận đánh ác liệt. Quân Đức đã chiếm được Caluga, Malôiarốtxláp, Môgiaixcơ và Vôlôcôlamscơ và như vậy đến tháng 10, chúng đã tiến quân được 230 - 250 km. Tuy nhiên, sự chiến đấu ngoan cường của các chiến sĩ Xôviết trong những hoạt động phòng ngự tích cực của các binh đoàn Hồng quân đã buộc quân Đức phải phân tán lực lượng trên chính diện rộng, phải tổ chức tiến công theo nhiều hướng phân tán với những tổn thất ngày một tăng cao. Đến cuối tháng 10-1941, quân Đức phải tạm dừng tiến công để tổ chức lại.
Trận tiến công đầu tiên của phát xít Đức vào Mátxcơva đến đây, đã bị bẻ gãy. Song tình hình vẫn còn rất căng thẳng. Bộ chỉ huy Đức vẫn quyết tâm chiếm Mátxcơva trước mùa đông.
Trước cuộc tiến công lần thứ hai của quân Đức, nhìn trên toàn cục, lực lượng quân Đức hơn lực lượng Hồng quân về quân số là gần gấp 2 lần, về xe tăng là gấp 1,5 lần, về pháo binh và súng cối là gấp 2,5 lần, nhưng ít hơn về máy bay là 1,5 lần.
Lòng yêu nước nồng nàn và tinh thần bất khuất của nhân dân Liên Xô đã thể hiện rõ ràng nhất  trong công cuộc phòng thủ Mátxcơva. Sự xả thân của nhân dân Mátxcơva vì tổ quốc, vì thủ đô của họ thật vô cùng cảm động! Trong một thời gian ngắn, họ đã biến Mátxcơva thành một pháo đài quyết tử, một công binh xưởng khổng lồ hoạt động hết công suất dưới làn bom đạn. Ngay trong tháng 9 và tháng 10, gần 500 ngàn người dân Mátxcơva và các vùng phụ cận đã xây dựng những tuyến phòng ngự Viadơma và Môgiaiscơ. Tháng 11, trong giá rét và dưới những cuộc tập kích của máy bay Đức, họ tiếp tục xây dựng tuyến phòng ngự ngay trên các đường vào và trong lòng thủ đô. Họ đã đào được 676 km hố chống tăng, 445 km hào chống tăng, dựng trên 1.300 km hàng rào kẽm gai và ở hướng chính diện, đã đào đắp được 380 km các ụ chống tăng, xây dựng trên 30 ngàn điểm hỏa lực. trong các khu rừng phụ cận Mátxcơva, họ cũng dựng được 1.528 km các bãi cọc chống tăng.
Theo sáng kiến của nhân dân và hưởng ứng lời kêu gọi của Đảng bộ Mátxcơva, 12 sư đoàn dân quân với nhiều tổ xung kích đánh xe tăng của thủ đô đã được thành lập. Có tới 41 đội du kích hoạt động ngay trong vùng quân Đức tạm chiếm, trên địa bàn tỉnh Mátxcơva.
Có hơn 500 nhà máy lớn đã được di chuyển an toàn vào sâu trong hậu phương đất nước Liên Xô. những xí nghiệp còn lại (gần 2 ngàn) đều được chuyển sang sản xuất súng máy, cối, pháo, hỏa tiễn, đạn dược và cả máy bay, xe tăng, xe bọc thép, tàu hỏa bọc thép.
Sáng ngày 7-11-1941, kỷ niệm lần thứ 24 Cách mạng tháng Mười, tại Hồng Trường đã diễn ra cuộc duyệt binh như thường lệ. Có điều đặc biệt là những đơn vị duyệt binh với vũ khí và đạn dược sẵn sàng, diễu qua Hồng Trường chào tổ quốc rồi tiến thẳng ra mặt trận. Quân thù đã đến cửa ngõ và Mátxcơva đang lâm nguy!
Đến giữa tháng 11, tình hình ở các hướng tây - bắc và hướng nam có khá hơn. Gần Chichvin và Rôtstốp, Hồng quân đã chuyển sang tấn công, làm nhẹ bớt cường độ chiến đấu ở hướng chiến lược phía tây.
Ngày 15 và 16 tháng 11, các cụm xe tăng số 3 và số 4 của quân Đức bắt đầu tấn công ở hướng Vôlôcôlamxcơ; ngày 18-11, tập đoàn quân xe tăng số 2 của Đức mở cuộc tấn công ở hướng Tula; vài ngày sau, tập đoàn quân số 2 của chúng tiến công phương diện quân Tây - Nam ở hướng Elét. Trên một chính diện rộng 600 km lại rộ lên những trận đánh ác liệt. Sức kháng cự của Hồng quân đã mạnh lên rất nhiều.
Trong những trận đánh ở trước cửa ngõ Mátxcơva, các chiến sĩ Xô Viết đã tỏ ra vô cùng anh dũng. Ngày 16-11, một tổ Hồng quân thuộc sư đoàn bộ binh số 316, đã đương đầu với một đại đội quân Đức trang bị tiểu liên và có xe tăng yểm hộ. Dù chịu nhiều hy sinh nhưng các chiến sĩ Xô Viết đã không để trận địa lọt vào tay quân thù. Chính tại đây đã vang lên tiếng hô của chính ủy đại đội V. G.  Klốtrơcốp: “Nước Nga vĩ đại, quyết không lùi bước, đằng sau chúng ta là Mátxcơva!”.
Các tập đoàn quân cánh phải của phương diện quân Miền Tây bị các cụm xe tăng 3 và 4 của quân Đức tiến công, dù đã ra sức chiến đấu và chịu nhiều thương vong, vẫn không giữ được dải phòng ngự chính. Sau khi đã gây cho quân Đức những thiệt hại không thể khắc phục được, lực lượng này từ từ rút lui.

Trong tháng 10 các nỗ lực phòng thủ đã cho kết quả: quân đội Xô Viết trong chiến đấu đã tạo được tuyến phòng thủ chiều sâu dày đặc, cộng với việc quân Đức không thể bổ sung kịp thời cho các tổn thất rất to lớn trong quá trình chiến đấu, các điều kiện thời tiết cũng đã giúp cho phía Liên Xô làm chậm tốc độ và sức công phá của các cuộc tấn công của Đức. Và cuối cùng qua ba đợt tấn công càng ngày càng khó khăn đến đầu tháng 12 năm 1941, cuộc tấn công của Đức đã hụt hơi và bị chặn đứng tại ngay cửa ngõ Moskva. Vào ngày 2/12/1941, Sư đoàn Thiết giáp số 5 của Đức đã dừng lại ở ngôi làng Dmitrov và Jokroma, áp sát và cách Moscow 14 km, cách Kremlin đúng 24 km, đây là điểm xa nhất mà quân Đức tiến được trong cuộc chiến.

Trước đó, bộ chỉ huy Đức đã phạm phải một sai lầm nghiêm trọng: chủ quan với những thắng lợi lớn ở mặt trận, ngày 16 tháng 8 năm 1941, Thống chế lục quân Đức Wilhelm Keitel đề nghị cắt giảm nỗ lực sản xuất quân sự vào mùa thu năm 1941 vì chắc chắn rằng Đức sẽ đánh bại Liên Xô trước mùa đông, và Hitler đồng ý. Hậu quả là Đức đã không chuẩn bị đầy đủ trang bị cho một chiến dịch trong mùa đông. Cùng với số chết trận, binh lính Đức còn bị bị tê cóng và bệnh dịch do thời tiết lạnh. Bình luận cả về sình lầy (mùa Thu) và tuyết lạnh (mùa Đông), Tướng Zhukov của Nga nói rất đơn giản rằng: "quân Đức đáng ra phải hiểu rõ về thời tiết, nhưng họ đã không lo ứng phó với nó". Trong trường hợp này, thời tiết đóng một vai trò quan trọng (nhưng không phải là quan trọng nhất) giải thích tại sao Hồng quân Liên Xô – với hơn 1 triệu binh sĩ hy sinh trong giai đoạn đầu của kế hoạch Barbarossa kéo dài 2 tháng – không chỉ có thể giữ vững Moscow, mà còn tiến hành các đợt phản công mạnh mẽ. Quân Đức vì chủ quan khinh địch, tin rằng sẽ sớm chiến thắng nên đã không chuẩn bị kỹ cho cuộc chiến trong mùa đông, đây là sai lầm chiến lược của họ (và "chủ quan khinh địch" cũng là một dạng sai lầm nghiêm trọng nhất trong bất kỳ một cuộc chiến tranh nào).

Đến cuối tháng 10, những binh đội đi trước thuộc cụm đột kích phía bắc của quân Đức đã đến được kênh đào Mátxcơva - Vônga và đã vượt qua kênh đào ở khu vực Iacrôma. Trước tình huống này, Hồng quân đã tổ chức những cuộc phản đột kích bằng một phần lực lượng các tập đoàn quân dự bị và quân Đức đã bị đẩy lui trở lại bờ tây kênh đào.
Đến đầu tháng 12 năm 1941 các nỗ lực tấn công cuối cùng của Đức đã hụt hơi trong khi đó các lực lượng dự bị hùng hậu của Hồng quân đã được huy động để phản công. Lúc này phía Xô viết vẫn còn tới 3 tập đoàn quân dự trữ để phản công còn phía Đức thì không còn lấy lực lượng dự trữ nào.

Mặc dù đã có lệnh của Hitler không lùi một bước, quân Đức đã bị hất ra xa ra khỏi Moskva từ 150 đến 300 km. Hơn 500.000 quân Đức bị tiêu diệt, hàng chục sư đoàn bị tiêu diệt và tiêu hao.

Chiến lược đánh nhanh thắng nhanh (hay còn gọi là chiến tranh chớp nhoáng) của Đức đã thất bại hoàn toàn. Sau trận đánh này, cho dù Liên Xô chỉ tạm thời giành thế thượng phong, nước Đức Quốc xã đã buộc phải chấp nhận tiến hành chiến tranh tiêu hao kéo dài với đối thủ là cường quốc rộng lớn nhất thế giới, đông dân với tiềm lực chiến tranh ngày càng được huy động mạnh hơn. Đây là một chiến thắng bước ngoặt của quân đội Liên Xô trong suốt cuộc chiến.

Ở cánh trái phương diện quân Miền Tây, tập đoàn quân xe tăng số 2 của Đức dù đã tiến sâu vào hậu phương của tập đoàn quân 50 của Hồng quân nhưng vẫn không chiếm được Tula. Việc thành phố Tula và vùng phụ cận được giữ vững đã tạo điều kiện củng cố phòng ngự ở cánh trái phương diện quân Miền Tây và cho phép tổ chức hàng loạt các đòn phản đột kích mạnh mẽ vào quân Đức. Trận phản đột kích lớn hơn cả là trận đánh lớn gần Casira, do lực lượng của quân đoàn kỵ binh vận vệ số 1 phối thuộc với sư đoàn xe tăng số 112 của Hồng quân tiến hành.
Do kết quả của các trận đánh, ngày 4-12, tập đoàn quân xe tăng số 2 của quân Đức đã buộc phải ngừng tiến công và chuyển sang phòng ngự.
Trong thời gian ấy, tại vùng Riadan, việc tập kết tập đoàn quân số 10 thuộc lực lượng dự bị của Đại bản doanh cũng đã hoàn thành.
Ngày 5-12-1941, các mũi đột kích của quân Đức, thuộc cụm tập đoàn quân Trung Tâm đã bị chặn đứng trên toàn mặt trận. Cuộc tiến công thứ hai của phát xít Đức vào Mátxcơva đã bị đập tan.
Mặc dù còn nhiều khó khăn to lớn và xét đơn thuần về quân lực thì quân Đức vẫn còn ưu thế hơn Hồng quân, nhưng Đại bản doanh vẫn hạ lệnh quân đội Xôviết trên mặt trận Mátxcơva chuyển sang phản công, vì cho rằng: quân Đức đã mệt mỏi; chúng không có lực lượng dự bị chiến lược, chưa kịp tổ chức phòng ngự hoàn chỉnh và thiếu những tuyến phòng ngự có chiều sâu; quân đội Đức không chuẩn bị chu đáo cho chiến đấu trong điều kiện mùa đông lạnh giá; đã xuất hiện hình thái có lợi trên chiến trường tạo điều kiện cho Hồng quân đánh vào sườn và hậu phương quân Đức; tinh thần chiến đấu lên cao của chiến sĩ Xôviết.
Tham gia cuộc phản công này có phương diện quân Calinin, phương diện quân Miền Tây và phương diện quân Tây - Nam; trong đó phương diện quân Miền Tây đóng vai trò chính.
Ngày 5-12-1941, phương diện quân Calinin bắt đầu phản công. Ngày hôm sau, đến lượt hai phương diện quân Miền Tây và Tây- Nam cũng chuyển sang phản công.
Ở cánh phải của phương diện quân Miền Tây, Hồng quân đã bẻ gãy sự kháng cự của quân Đức, buộc chúng phải rút lui về tuyến Klin và Itstra. Ngày 13-12, cụm quân Đức tại vùng Klin bị bao vây. Để cố giữ tuyến phòng ngự dọc đường xe lửa Mátxcơva-Calinin, quân Đức ở đây đã chống cự quyết liệt. Ngày 13 và 14-12, quân Đức đã tổ chức bốn lần phản kích nhằm phá vây cho cụm tập đoàn ở Klin nhưng không thành công. Hồng quân đã đánh bật chúng về phía tây. Ngày 15-12, Hồng quân chiếm được thành phố. Trên hướng Itstra, quân Đức tổ chức phòng ngự mạnh tại vùng Kriucôvô. Sau khi chuẩn bị chu đáo, Hồng quân tấn công và chiếm được vị trí này và tiếp tục triển khai tấn công Itstra, cho hai lực lượng cơ động bao vây vu hồi. Để tránh bị vây, quân Đức ở đây đã vội vã rút chạy về Vôlôcôlamxcơ, bỏ lại khí tài, thiết bị. Hồng quân chuyển sang truy kích.
Ngày 25-12, lực lượng Hồng quân cánh phải của phương diện quân Miền Tây tiến đến tuyến sông Lam và Rudơ, định đánh bật quân Đức phòng thủ ở đây trong hành tiến nhưng không thực hiện được.
Phương diện quân Calinin, phối hợp với các tập đoàn quân cánh phải của phương diện quân Miền Tây, chiếm lại được thành phố Calinin vào ngày 16-12. Lực lượng cánh trái của phương diện quân Miền Tây tiến công theo những hướng hợp vây vào Udơlốp, đánh bại tập đoàn quân xe tăng số 2 của Đức. Đến ngày 7-1-1942, Hồng quân đã tiến được 220 km và đã bao vây cụm tập đoàn quân Trung Tâm của Đức từ phía nam.
Quân của phương diện quân Tây- Nam, hiệp đồng với lực lượng cánh trái của phương diện quân Miền Tây, tiến về phía tây được từ 100 km đến 200 km.
Như vậy là trong thời gian từ 25 đến 30 ngày tiến công liên tục của Hồng quân, hai cụm đột kích của tập đoàn quân Trung Tâm ở vùng Kalinin và Elét đều bị đánh thiệt hại nặng. Mối đe dọa trực tiếp đối với thủ đô Xôviết đã bị loại trừ. Chiến dịch “Bão táp” hòng chiếm Mátxcơva của phát xít Đức đã hoàn toàn thất bại và cuồng vọng của Hitle cũng tan vỡ theo. Thất bại đó đã bộc lộ ra một vấn đề quan trọng như tướng Đức là Vétphan thú nhận: “Quân đội Đức, trước đây được coi là không thể đánh bại, nay sắp bị tiêu diệt”.
Trong sự cay cú và “quê độ” ê chề, Hitle đã điên tiết cách chức hàng loạt các tướng lĩnh phát xít, trong đó có Phôn Bơraosít, Phôn Bốc, Guđêrian.
Cũng nên nhớ lại rằng có một sự kiện vô cùng quan trọng, góp phần làm nên thắng lợi của Hồng quân trong việc phòng thủ Mátxcơva nói riêng và cuộc vệ quốc nói chung, đó là: vào giai đoạn đầu của “Cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại” (từ cuối tháng 6 đến cuối tháng 11-1941), trong điều kiện rất khó khăn, nhân dân Liên Xô đã tiến hành một cuộc di chuyển khổng lồ chưa từng có trong lịch sử: 1500 xí nghiệp lớn (chủ yếu là phục vụ quốc phòng) và 10 triệu dân (gồm cụ già, phụ nữ và trẻ em) đã được di tản sâu về phía đông. Việc di chuyển, khôi phục và phát triển ngành công nghiệp trong những năm chiến tranh, theo lời Xtalin, có ý nghĩa “cũng trọng đại ngang với các chiến dịch vĩ đại nhất của cuộc chiến tranh vệ quốc”.
Cuộc phản công thắng lợi trong trận đánh Mátxcơva đã chuyển quyền phòng ngự tích cực sang phía Hồng quân Liên Xô.
***
Sau khi đã giải vây cho thủ đô, nhằm triệt để lợi dụng thời cơ, Đại bản doanh Xô viết đã quyết định tiếp tục cuộc tiến công và phản công trên cả 3 hướng chiến lược. Tháng 1-1942, chín phương diện quân Hồng quân đã chuyển sang tiến công trên chính diện rộng tới 2.000 km.
Trong cuộc tổng tiến công này, Hồng quân đã đánh bật quân Đức ra xa từ 100 km đến 350 km, diệt 50 sư đoàn của chúng. Tuy nhiên các chiến dịch Hồng quân đã không hoàn toàn thắng lợi. Chẳng hạn ở hướng Tây - Bắc, lực lượng Hồng quân của phương diện quân Lêningrát và phương diện quân Vônkhốp đã không hoàn thành nhiệm vụ tấn công nhằm đánh tan cụm tập đoàn quân Bắc của Đức để giải vây cho Lêningrát. Nguyên nhân chủ yếu là qui mô của kế hoạch tác chiến đã không phù hợp, vượt quá khả năng của lực lượng vũ trang Hồng quân ở đó.
Đến tháng 4 năm 1942, Quân Đức phải chuyển sang phòng ngự chiến lược để chuẩn bị lại một cách kỹ lưỡng cho chiến tranh dài lâu và quân Đức đã phòng ngự thành công để chờ đến mùa hè năm 1942. Các cuộc tấn công của Xô Viết trong thời gian này có đẩy lùi quân Đức nhưng với tổn thất rất lớn và kết quả rất hạn chế: gần như không tạo được đột biến trên mặt trận, Hồng quân chỉ tiến xa một cách tương đối tại hướng Kharkov của phương diện quân tây nam và hướng Rostov tại phương diện quân Nam và Hồng quân cũng không đạt được một trận thắng lớn nào đánh tiêu diệt đối với quân Đức phòng ngự.
Nhìn chung, đến mùa hè năm 1942, tình hình của Hồng quân trên mặt trận có tốt hơn một chút: lực lượng chiến đấu tiếp tục tăng lên, kinh nghiệm chiến đấu dày dặn hơn, vũ khí được trang bị đầy đủ hơn, bắt đầu trang bị hàng loạt vũ khí mới… dù rằng sự hy sinh mất mát cán bộ chỉ huy ở thời kỳ đầu chiến tranh là rất to lớn và còn đầy những căng thẳng, gian nguy ở phía trước.
Lợi dụng việc Anh, Mỹ chưa mở mặt trận (thứ hai) ở Châu Âu, nước Đức phát xít không ngớt tăng cường lực lượng sang chiến trường Xô - Đức. Từ tháng 12-1941 đến tháng 5-1942, số sư đoàn Đức ở đây đã tăng từ 191 lên 211 sư đoàn (không kể lực lượng của Tổng hành dinh). Ý đồ của phát xít Đức là trong mùa hè năm 1942, tổ chức đòn tấn công quyết định, tiêu diệt các lực lượng Hồng quân chủ yếu, tạo bước ngoặt để kết thúc chiến tranh, hoàn thành cuộc xâm lược Liên Xô. Do không đủ lực lượng tổ chức tiến công trên toàn tuyến mặt trận Xô - Đức và khó lòng chiếm Mátxcơva bằng cuộc tấn công chính diện, Bộ chỉ huy tối cao Đức chọn mũi đột kích chủ yếu là hướng nam nhằm bẻ gãy cánh trái của Hồng quân, chiếm các vùng sông Đông, khu vực sông Vônga và Cápcadơ (vùng dầu lửa và vựa lúa mì lớn nhất Liên Xô) sau đó sẽ chiếm hoàn toàn vùng Crưm và tiến tới chiếm Mátxcơva từ phía sau.
Tháng 4 năm 1942, Đại bản doanh của Hitler đã ra bản huấn thị số 41 quy định đòn tấn công chính của quân Đức mùa hè 1942 là nhằm vào mặt trận tây nam Liên Xô. Mục tiêu là vùng sông Đông và Kavkaz - những trung tâm sản xuất lương thực và dầu mỏ quan trọng của Liên Xô. Nếu mục tiêu trên thành công, quân Đức sẽ triển khai lực lượng lên phía bắc đánh vu hồi Moskva, triển khai lực lượng xuống phía nam chiếm toàn vùng Krym. Theo kế hoạch của Đức Quốc xã đòn tấn công sẽ diễn ra tại cánh nam mặt trận Xô – Đức đánh vào hai phương diện quân tây nam và phương diện quân Nam của Xô Viết để thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược:
-Một mũi đột phá thẳng đến Kavkaz chiếm các đèo ngang và xông đến thành phố Baku trên bờ biển Kaspi chiếm trung tâm dầu mỏ Kavkaz cắt nguồn năng lượng phục vụ chiến tranh của Liên Xô.
-Một mũi khác tấn công trận tuyến sông Đông Để tiến đến Stalingrad trên sông Volga chiếm vùng đồng bằng sông Đông và vùng phía nam nước nga là nguồn lúa mì chính của đất nước chiếm các nguồn điện và than tại miền nam nước Nga. Tiến đến sông Volga cắt mạch vận tải bắc – nam của Liên Xô theo dòng sông này đây là tuyến vận tải quan trọng để chuyển dầu mỏ từ phía nam và viện trợ của đồng minh cho Liên Xô qua Iran. Sau đó phát triển tiếp theo là chiếm toàn bộ hạ lưu sông Volga. Về mặt quân sự cánh quân này đồng thời còn làm nhiệm vụ bảo vệ sườn trái cho cánh quân Đức đánh Kavkaz.
Trong quá trình thực hiện kế hoạch chiến cuộc 1942, Bộ chỉ huy Đức có sự chuyển hướng chiến lược lấy Stalingrad làm hướng tấn công chính và điều bớt lực lượng từ hướng Kavkaz về tăng cường, dần dần Stalingrad trở thành trọng tâm chiến sự của chiến tranh trong năm 1942.
Ngày 8-5, tập đoàn quân 11 của Đức tiến công bán đảo Kécchencô. Tập đoàn quân 14 thuộc phương diện quân Crưm phòng ngự sơ hở nên bị vỡ trận. Dù đã chống cự quyết liệt, nhưng phương diện quân Crưm cũng không ngăn nổi sự đột phá của quân Đức. Ngày 20-5, những đơn vị còn lại của binh đoàn phòng ngự buộc phải rút lui về bán đảo Tamanxki.
Sau thắng lợi đó, quân Đức tiếp tục tiến đánh Xêvátxtôpôn. Hồng quân đã không giữ nổi thành phố. Ngày 4-7, Crưm lọt vào tay quân Đức. Hạm đội Biển Đen mất những căn cứ chính.
Ngày 12-5-1942, Hồng quân mở cuộc tiến công Kháccốp nhằm bao vây tiêu diệt quân Đức tại đây. Trong hai ngày, tập đoàn quân 6 và 28 của phương diện quân tây - nam đã chọc thủng phòng ngự quân Đức và tiến sâu được 20 - 30 km. Ngày 17-5, quân Đức mở những cuộc phản đột kích mạnh, bao vây trở lại tập đoàn quân 6, 57 và cụm quân của tướng L. V. Bốpkin. Đến cuối tháng 5, chỉ từng đơn vị lẻ phá được vây, về tập kết ở Bắc - Đônét. Sự thất bại ở Kháccốp đã làm thay đổi tình hình ở cánh phía nam mặt trận Xô - Đức có lợi cho phát xít Đức. Quyến chủ động lại chuyển sang tay chúng. 

Đến đầu tháng 6 năm 1942 các việc triển khai lực lượng về phía nam của Đức đã cơ bản hoàn thành.

Kế hoạch tấn công miền nam Liên Xô của Bộ tư lệnh tối cao Đức Quốc xã chứa đựng nhiều yếu tố chủ quan và quân Đức đã hành động trái với nguyên tắc tập trung binh lực của nghệ thuật quân sự: quân Đức thực hành tấn công theo hai hướng tách rời nhau rất xa là điều kiện để bị đối phương bao vây tiêu diệt sau này. Các tướng lĩnh Đức đã cảnh báo Hitler nhưng ý kiến này đã không được Hitler chấp nhận. 

Về phía Liên Xô, đầu tháng 3 sau các thắng lợi tạm thời trong giai đoạn tấn công đầu năm 1942, tại Bộ tổng tư lệnh tối cao Xô Viết đã có sự chủ quan và đánh giá thấp, quá đơn giản về quân đội Đức một đối thủ đầy bản lĩnh, kỷ luật, nguy hiểm cho đến ngày cuối cùng và luôn chứa đựng sự bùng phát không thể ngờ. Trong khi Bộ tổng tham mưu đứng đầu là Tổng tham mưu trưởng Boris Mikhailovich Shaposhnikov cùng phó tổng tư lệnh tối cao G.K Zhukov có quan điểm thận trọng, đề nghị trong mùa hè 1942 chỉ tấn công tại khúc lồi Rzhev – Viazma còn trên toàn mặt trận sẽ phòng ngự chiến lược để tích luỹ lực lượng dự bị còn đang rất thiếu của quân đội Xô Viết. Nhưng Tổng tư lệnh tối cao Stalin muốn tấn công trên toàn mặt trận để đánh bại quân đội Đức ngay trong năm 1942 và ý kiến cuối cùng của Tổng tư lệnh tối cao đã hình thành kế hoạch chiến lược của Hồng quân trong năm này. Đó là tổng tấn công trên toàn tuyến mặt trận tại Crimea, Leningrad, Rzhev, Demiansk, Smolensk, Lgov – Kursk.

Do thiếu sự hiểu biết cần thiết và chủ quan về đối thủ, lại không có lực lượng dự bị cho tham vọng quá lớn, các chiến dịch tấn công đầu hè 1942 của quân đội Xô Viết đều đã thất bại: hoặc thương vong quá lớn mà không đạt được kết quả như tại khúc lồi Rzhev-Viazma và tại Demiansk, hoặc bị quân Đức phản công đánh tan như chiến dịch Crimea và Kharkov. Và do dự đoán sai hướng hoạt động của quân địch nên khi quân Đức tấn công quy mô lớn tại cánh nam chiến trường mùa hè 1942 thì tại đó Hồng quân lại không có lực lượng dự bị để đối phó, kết quả là quân Đức tiến công được rất xa chiếm được vùng lãnh thổ rất rộng lớn. 

Chủ lực quân Đức bắt đầu tiến công vào ngày 28-6 sau khi đã chọc thủng tuyến phòng ngự của các phương diện quân Brianxcơ và Tây - Nam, phát triển thắng lợi về hướng Vôrônhegiơ rồi mở mũi đột kích vào hướng nam.
Để tránh bị bao vây, ngày 17-7, phương diện quân Miền Nam đã rút về tuyến sông Đông. Sự thất bại trong phòng ngự của Hồng quân ở hướng Vôrônhegiơ và Đônbát cùng với sự rút lui đã tạo ra một khe hở phòng ngự rộng đến 170 km ở cánh phía nam, tạo điều kiện cho chủ lực quân Đức tiến công vào Cápcadơ và tập đoàn quân 6 của chúng tiến công vào Xtalingrát.
Ngày 25-7, quân Đức vượt sông Đông ở gần Rốtxtốp, tiến công vùng Cubăng và tiến về vùng dầu lửa Bắc - Cápcadơ. Hồng quân chống cự quyết liệt nhưng cũng phải bỏ Maicốp (ngày 10-8) và cả Crátsnôđa (ngày 11-8). Cuối tháng 8, quân Đức đã đến được vùng Môdơdốc với nhiều tổn thât.
Sự chấn chỉnh kịp thời đã làm sức đề kháng của Hồng quân mạnh dần lên. Âm mưu đột phá Tuáp và Ócdơgiônhikítdê không thành công. Quân Đức cũng không đạt được mục đích trong tiến công dọc bờ biển ở Dacápcadơ.
Để ngăn chặn quân Đức chọc thủng mặt trận Xtalingrát, Đại bản doanh nhanh chóng điều các tập đoàn quân 62, 63, 64 trong lực lượng dự bị đến tuyến sông Đông. Ngày 12-7-1942, phương diện quân Xtalingrát được thành lập. Nhiệm vụ của phương diện quân Xtalingrát là giữ vững dải phòng ngự rộng 530 km, không cho quân Đức tiến sâu hơn nữa.
Trận Stalingrad (23 tháng 8 năm 1942 – 2 tháng 2 năm 1943) là một trận đánh lớn diễn ra trong Chiến tranh Xô-Đức giữa phát xít Đức cùng với các nước chư hầu và Hồng quân Liên Xô tại thành phố Stalingrad (nay là Volgograd) ở miền Tây Nam nước Nga. Trận đánh diễn ra từ tháng 8 năm 1942 đến ngày 2 tháng 2 năm 1943, và thường được đánh giá như một bước ngoặt quan trọng và bước đầu làm xoay chuyển cục diện trong chiến tranh thế giới thứ 2, thậm chí là một trong những bước ngoặt lớn nhất của nền quân sự thế giới trong thế kỷ XX. Đây cũng là trận đánh đẫm máu nhất trong lịch sử thế giới, với con số thương vong của hai bên lên đến hơn 2 triệu người. 
Trận Xtalingrát là một trong những trận đánh lớn nhất trong cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai, là “trận đánh của thế kỷ” theo lời tướng V. Truicốp, và cũng là một trong những trận đánh oai hùng nhất của Hồng quân Liên Xô trong “Cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại”.
 Bắt đầu từ đầu tháng 7 năm 1942 cụm tập đoàn quân B của Đức với lực lượng chủ lực là tập đoàn quân dã chiến số 6 của đại tướng Paulus phát triển tấn công ào ạt tại vùng trung lưu Sông Đông về phía đông hàng trăm km hướng đến phía sông Volga. Ngày 17 tháng 7 năm 1942 các đơn vị tiên phong của Tập đoàn quân số 6 Đức đã giao chiến với các đơn vị phòng thủ Stalingrad tại tuyến phòng thủ sông Chir và sông Shimla trận đánh lớn nhất trong lịch sử các cuộc chiến bắt đầu. Ai đó có nói rằng: người ta có thể gây chiến khi mình muốn nhưng không thể kết thúc lúc mình mong. Trong trường hợp trận đánh lớn Xtalingrát, câu nói trên thật đúng đối với phát xít Đức!
 Ban đầu phía Đức chỉ có 13 sư đoàn với 27 vạn quân, đến đỉnh điểm trận đánh Đức đã huy động vào đây 80 sư đoàn với hơn 1 triệu quân, phía Liên Xô cũng điều quân dự bị đến, chiến trường Stalingrad trở thành trọng tâm của mặt trận: có trên 2,3 triệu quân cả hai bên tham chiến vào lúc cao điểm, quy mô vượt cả trận Moskva.
Các đơn vị tiền vệ của tập đoàn quân 62 và 64 của Hồng quân đã bước vào cuộc chiến đấu không cân sức một cách ngoan cường, kéo dài đến 6 ngày đêm.
Ngày 23-7, quân Đức tiến công dải phòng ngự chính. Với lực lượng chiếm ưu thế hơn về quân số, máy bay, xe tăng, chúng mở đòn đột kích rất mạnh vào sườn phải (là nơi tổ chức phòng ngự yếu nhất) của tập đoàn quân 62, chọc thủng dải phòng ngự chính và đến cuối ngày 25-7 thì tiến công được đến vùng Verơkhơnhe - Budinốpca. Do đó gần 2 sư đoàn của tập đoàn quân 62 bị bao vây.
Lại một lần nữa người Nga kêu gọi "Tổ quốc lâm nguy". Một mặt Bộ tổng chỉ huy Xô Viết liên tiếp ném thêm các đơn vị mới thành lập vào chiến đấu để hãm đà tiến công của địch, mặt khác áp dụng mệnh lệnh "Không lùi một bước". Các công tác Đảng và chính trị được thi hành tại chiến hào để nâng cao tinh thần cho binh sĩ và kỷ luật được siết chặt: bất cứ một chiến sĩ, sĩ quan nào tự ý rút lui mà không có mệnh lệnh hoặc văn bản công vụ đều bị bắt giữ hoặc xử bắn ngay tại trận. 
Để khôi phục lại tình hình, phương diện quân đã đưa 2 tập đoàn quân xe tăng số 1 và 4 chưa xây dựng xong vào chiến đấu cùng với quân đoàn xe tăng 13 của tập đoàn quân 62, nhằm phản kích lực lượng đột nhập của quân Đức, đảm bảo cho bộ phận bị vây trở về với lực lượng chủ yếu. Trong 3 ngày chiến đấu ác liệt, quân Đức bị thiệt hại nặng và phải dừng bước tiến.
Không đạt được kết quả mong muốn ở giải phòng ngự thuộc tập đoàn quân 62 của Hồng quân, quân Đức chuyển sang tiến công phía nam dải phòng ngự của tập đoàn quân 64. Tại hướng này, chúng đã tiến được đến sông Đông và chiếm được bến phà ở vùng Nhigiơnhe - Chirơ. Tuy nhiên, do kết quả phản đột kích của tập đoàn quân 64, quân Đức cũng đã phải dừng lại.
Bộ chỉ huy Đức nhận thấy chỉ riêng tập đoàn quân Paulus chưa đủ sức để chiếm Stalingrad nên ngày 31 tháng 7 năm 1942 Hitler ra lệnh điều tập đoàn quân xe tăng số 4 từ cụm tập đoàn quân A sang cho cụm B để tăng cường tấn công Stalingrad và từ 2 tháng 8 tập đoàn quân xe tăng này bắt đầu tấn công phía tây nam thành phố. Ngày 7-8, bốn sư đoàn của tập đoàn xe tăng số 4 của Đức đột phá vào khu vực Ápganherôvô. Tập đoàn quân 64 đã tổ chức 3 sư đoàn bộ binh và quân đoàn xe tăng số 13 phản đột kích hiệu quả, khôi phục lại tình huống đã mất. Quân Đức buộc phải chuyển sang phòng ngự và trong suốt 10 ngày không có những hoạt động tích cực nào. Từ nay trọng tâm chú ý của Bộ chỉ huy Đức dồn chủ yếu cho chiến trường Stalingrad. Càng ngày Stalingrad càng thu hút nhiều binh lực của Đức từ các chiến trường khác: từ chỗ ban đầu chỉ có 13 sư đoàn với khoảng 27 vạn quân, đến cuối tháng 9 năm 1942 tại hướng Stalingrad đã có 80 sư đoàn quân Đức và đồng minh Hungary, Ý và Rumani, chiếm tỷ trọng rất lớn trên toàn chiến tuyến Xô - Đức. Phía Đức có 1.260 xe tăng, 17.000 pháo và cối, 1.640 máy bay. Theo kế hoạch tấn công của phía Đức tập đoàn quân số 6 tấn công tại mặt bắc và tây bắc Stalingrad và tập đoàn quân xe tăng số 4 tại phía nam và tây nam. Sau khi đột phá đến bờ sông Volga hai cánh quân này sẽ đánh dọc theo bờ sông tiến ngược chiều nhau và hợp vây quân đội Xô Viết phòng thủ thành phố. 
Lúc này ý đồ của phát xít Đức đã quá rõ ràng, và Hồng quân bắt đầu xúc tiến việc phòng thủ thành phố Stalingrad. Họ đã đưa các lực lượng dự bị chiến lược là tập đoàn quân 62, 63, 64, tập đoàn quân cận vệ số 1 và các tập đoàn quân xe tăng số 1 và số 4 và rất nhiều các đơn vị khác. Nơi đây thành khu vực tập trung binh lực lớn nhất của cả hai bên trận đánh có quy mô vượt cả trận Moskva năm 1941. Ranh giới phía Đông của Stalingrad chính là dòng sông Volga rộng lớn, và ở bên kia sông Hồng quân cũng bố trí thêm các lực lượng phụ trợ. Các lực lượng này hình thành nên một tập đoàn quân mới mang số 62 do Trung tướng V. I. Chuikov chỉ huy vào ngày 11 tháng 9 năm 1942. Tình hình lúc này phải nói là cực kì nghiêm trọng. Khi được hỏi bằng cách nào mà ông có thể hoàn thành nhiệm vụ, vị tướng trả lời: "Chúng tôi sẽ chiến đấu đến chết để bảo vệ thành phố." Tức là nhiệm vụ của Tập đoàn quân số 62 là bảo vệ Stalingrad bằng bất cứ giá nào. Vai trò của Chuikov trong việc bảo vệ Stalingrad đã mang lại cho ông một trong hai danh hiệu Anh hùng Liên bang Xô Viết.
Ngày 19-8, quân Đức lại chuyển sang tiến công quyết liệt.

Chiến sự diễn ra mãnh liệt và căng thẳng và quyết định nhất là tại cánh bắc và tây bắc nơi đối đầu với Tập đoàn quân số 6 của Đức. Để phòng thủ hướng này Liên Xô thành lập phương diện quân Stalingrad, tư lệnh đầu tiên là nguyên soái Semyon Timoshenko, từ ngày 23 tháng 7 là trung tướng Vasily Gordov và sau đó là trung tướng Konstantin Rokossovsky (từ 28 tháng 9 phương diện quân này đổi tên thành phương diện quân Sông Đông). Trong đó tập đoàn quân 62 là lực lượng chịu áp lực trực tiếp mạnh nhất của quân Đức. Tại đây Tập đoàn quân dã chiến số 6 Đức cố gắng đánh chia cắt tập đoàn quân 62 Xô Viết ra khỏi khối quân còn lại hòng tiêu diệt tập đoàn quân này.

Các trận đánh trong nội đô diễn ra cực kỳ ác liệt và đẫm máu. Cuộc chiến này điển hình của tính chất không khoan nhượng khi cả hai bên không chấp nhận bắt tù binh. Quân Đức một mặt theo lệnh của Hitler phải chiếm bằng được thành phố mang tên Stalin biểu tượng của quân thù, mặt khác họ hiểu được tầm quan trọng phải chiếm thành phố làm chỗ trú chân cho mùa đông đang đến gần. Quân Đức tiến công rất mãnh liệt và dũng cảm. Quân Nga Xô Viết cũng tử thủ rất anh hùng và kiên cường, họ đã bị bao vây tất cả các phía, chỉ có thể nhận được tiếp viện bằng tàu bè chạy qua sông lớn Volga.

Để nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo vệ thành phố và chặn đứng tư tưởng muốn rút lui của một số binh sĩ, I. V. Stalin ban hành mệnh lệnh số 227 vào ngày 27 tháng 7 năm 1942 quy định những binh sĩ và sĩ quan nào tự ý bỏ đi khỏi đơn vị mà không có mệnh lệnh văn bản sẽ bị đưa ra toà án binh. Mệnh lệnh nêu rõ: "Mỗi chỉ huy trưởng, mỗi chiến sĩ Hồng quân, mỗi các bộ chính trị phải hiểu rằng lúa mì và phương tiện của chúng ta không phải là vô hạn, lãnh thổ Liên Xô không phải là hoang mạc mà ở đó có nông dân, công nhân, trí thức, cha mẹ, vợ con, anh em chúng ta... Cuộc xâm lược của kẻ thù đã lấy đi của chúng ta hơn 70 triệu dân, trên 800 triệu put lúa mì và trên 10 triệu tấn kim loại mỗi năm. Rút lui xa hơn nữa tức là tự giết mình và giết chết cả Tổ quốc của chúng ta.
Vì thế, cần phải chấm dứt việc rút lui. Không lùi một bước!".

Chiến sự tại đồi Mamayev Kurgan, một cao điểm trong thành phố, diễn ra cực kỳ khốc liệt. Vị trí này đã "đổi chủ" không biết bao nhiêu lần. Đến ngày 12 tháng 9 năm 1942, Tập đoàn quân số 62 của Liên Xô chỉ còn 90 xe tăng, 650 pháo cối và 2 vạn binh sĩ.

Sư đoàn Cận vệ số 13 của Hồng quân, đơn vị nhận nhiệm vụ giải phóng đồi Mamayev Kurgan và Nhà ga số một trong ngày 13 tháng 9 năm 1942, chịu nhiều thương vong hết sức khủng khiếp. Hơn 80 phần trăm quân số của họ bị tử trận trong 24 tiếng đồng hồ đầu tiên và chỉ có 320 người trong số 1 vạn sĩ quan, binh sĩ của sư đoàn còn lành lặn sau trận đánh. Sư đoàn đã hoàn thành nhiệm vụ được giao trong ngày 13 tháng 9, nhưng chỉ là tạm thời. Thật vậy, nhà ga xe lửa đã "đổi chủ" suốt 14 lần chỉ trong 6 giờ đồng hồ. Đến chiều tối hôm sau, hầu hết Sư đoàn Cận vệ số 13 đã nằm lại trận địa, bên cạnh đó là ngổn ngang xác chết của một số lượng tương đương lính Đức

Ngày 23-8, cụm tập đoàn xe tăng thuộc tập đoàn quân 6 của Đức đã chọc thủng đến bờ sông Vônga về phía bắc Xtalingrát. Cũng trong ngày đó, không quân Đức đánh cấp tập vào thành phố với 2.000 lần chiếc. Thành phố bị đánh phá khắp nơi. Máy bay tiêm kích của Hồng quân đã anh dũng đánh lui nhiều đợt tập kích đường không của Đức. Pháo cao xạ cũng góp phần không nhỏ trong việc phòng thủ trên không và trong nhiều trường hợp, đã phải hạ nòng bắn thẳng vảo quân Đức ở mặt đất.
Để làm giảm áp lực tấn công của quân Đức vào thành phố, trong những ngày từ 20 đến 28-8, bộ đội của các tập đoàn quân 63, 21 và tập đoàn quân cận vệ số 1 đã tổ chức nhiều trận phản kích đế chiếm lại các bàn đạp trên sông Đông và thu hút một bộ phận lực lượng đáng kể của tập đoàn quân 6 Đức lên phía bắc. Đến ngày 28-8, Hồng quân đã chặn được quân thù ở ngoại ô tây - bắc thành phố Xtalingrát.
Quân Đức tăng cường sức tiến công. Tháng 8, tập đoàn quân số 8 của Ý và tháng 9 là tập đoàn quân số 3 của Rumani bắt đầu tham chiến vào trận đánh lớn này. Trong tháng 9, quân Đức huy động 50 sư đoàn vào hướng Xtalingrát, còn ở Cápcadơ khoảng 30 sư đoàn. Tình hình đối với cuộc phòng ngự của Hồng quân tiếp tục xấu đi. Đại bản doanh đã phải điều động bổ sung cho phương diện quân Xtalingrát tập đoàn quân 24 và 66. Hai tập đoàn quân này cùng với tập đoàn quân cận vệ số 1 đã tiến hành nhiều trận phản đột kích vào quân Đức đang tiến đến sông Vônga ở phía bắc Rưnốc, làm một bộ phận lực lượng quân Đức phải thu hút vào đây. Tuy vậy, tình hình vẫn rất căng thẳng.
Ngày 12-9, quân Đức ồ ạt đánh vào thành phố. Để tiến được 100 - 120 km, trong thời gian 63 ngày đêm, quân Đức đã phải trả một giá đắt: mất 87 ngàn binh lính và sĩ quan, trên 350 xe tăng, 400 máy bay mà vẫn chưa chiếm được Xtalingrát.
Nhiệm vụ bảo vệ vành đai phòng thủ bên trong thành phố lúc này do hai tập đoàn quân 62 và 64 của Hồng quân đảm nhiệm. Tinh thần chiến đấu của các chiến sĩ Xô Viết phòng thủ Xtalingrát ngày một cao, đã ngoan cường lại càng ngoan cường. Sự quả cảm của họ thật không có bút nào tả xiết. Đó chính là kết quả của lòng yêu nước nồng nàn trước kẻ thù xâm lược, của tình yêu tin vào chế độ mà họ xả thân phụng sự. Quân Đức được hun đúc khiên cưỡng từ gang thép Đức. Còn Hồng quân trở thành gang thép từ chính ngọn lửa rừng rực căm thù trong lòng họ khi tổ quốc thiêng liêng, thân yêu và vô tội của họ bị dày xéo và đang lâm nguy. Chính nghĩa thuộc về ai đã quá rõ, khỏi bàn! Tinh thần hy sinh chiến đấu quên mình của các chiến sĩ Xô Viết trong công cuộc phòng thủ Xtalingrát đã là nguyên nhân quan trọng nhất trong số những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thắng lợi của Hồng quân Liên Xô trong “trận đánh của thế kỷ”.
Trong những trận đánh ác liệt từ ngày 13 đến ngày 26-9, quân Đức đã chiếm được phần phía nam của thành phố, đã thọc được đến sông Vônga trong khu vực nhà máy chế tạo máy kéo và ngày 11-10, chúng đã đột phá được ra bờ sông ở phía nam nhà máy “Baricátdơ”. Tuy vậy quân Đức vẫn không làm chủ được thành phố. Cuộc kháng cự anh hùng của các chiến sĩ xô viết trong thành phố đã không cho chúng thực hiện điều đó. Có một sự kiện sáng ngời: ngày 28-9, một tổ trinh sát Hồng quân do hạ sĩ cận vệ Ia. Ph. Páplốp đã đánh bật nhóm quân Đức ra khỏi tòa nhà 4 tầng ở phố Penden. Sau 2 ngày đêm, quân tăng viện do trung úy cận vệ I. Ph., Aphanaxép chỉ huy đã dần biến ngôi nhà thành ổ đề kháng làm gợi nhớ đến pháo đài Brét. Quân Đức phải dùng không quân đánh phá và nhiều lần cho xe tăng và bộ binh đánh chiếm lại nhưng đều thất bại. Các chiến sĩ Xô viết ở đó đã chiến đấu một mất một còn trong suốt 58 ngày đêm và đã giữ vững trận địa. Sự kiện đó đã trở thành biểu tượng bất diệt về con người bất khuất của người lính Xô Viết.
Hạm đội sông Vônga đã dùng hỏa lực từ các tàu chiến của mình để chi viện cho các đơn vị bộ binh chiến đấu trong thành phố. Quan trọng hơn, vì không có bến phà cố định, hạm đội sông Vônga đã đảm nhiệm vai trò trọng yếu vận chuyển qua sông tiếp tế cho thành phố. Dưới làn mưa bom bão đạn của máy bay và pháo binh Đức, hạm đội này đã chuyển qua sông được hàng chục ngàn binh sĩ và hàng ngàn tấn hàng.
Những binh sĩ bắn tỉa của cả hai phe cũng gây nhiều thiệt hại cho quân địch. Chiến sĩ bắn tỉa thành công nhất và cũng nổi tiếng nhất của trận đánh này là V. G. Zaytsev với thành tích bắn hạ 242 đến 400 binh sĩ và sĩ quan (đã được kiểm chứng) Đức trong trận đánh. Ông cũng là một trong những binh sĩ bắn tỉa đã đào tạo hơn 30 học viên với tổng thành tích bắn hạ 3 nghìn lính Đức. Tương truyền, ông cũng là người đã bắn hạ người lính bắn tỉa lừng danh Erwin König của phát xít Đức, dù nhiều ý kiến cho rằng đây chỉ là một nhân vật hư cấu. Trong giai đoạn cuối trận đánh, Zaytsev bị thương do trúng mảnh đạn pháo, ông được giải ngũ và trở về hậu phương làm công tác huấn luyện thế hệ lính bắn tỉa tiếp theo. Về sau Zaytsev đã được phong tặng danh hiệu Anh hùng Liên bang Xô Viết vì kỳ công của ông trong trận này. 
Dù gặp muôn vàn khó khăn gian khổ, tổn thất hy sinh, cuộc phòng ngự của Hồng quân bên trong thành phố Xtalingrát đã đứng vững. Các đảng viên Cộng sản đã là linh hồn của sự phòng thủ đó.
Mùa đông khắc nghiệt của nước Nga đã đến, quân Đức đã bị sa lầy - họ không thể chiếm thành phố mà mùa đông đã tới, với lại họ ở quá xa các lực lượng tiếp ứng của mình. Tình hình quân Đức thực sự đã nguy ngập chí ít thì cũng báo hiệu cái gì đó như mùa đông năm 1941.
Trong khi phía Đức đang sa lầy trong việc chiếm thành phố thì Hồng quân đã tập trung một lực lượng lớn sẵn sàng phản công. Kế hoạch tấn công đã được Bộ tổng tư lệnh quân đội Xô Viết soạn thảo kỹ lưỡng có tính đến những kinh nghiệm xương máu trong hơn một năm thất thế của quân đội Xô Viết. Trong việc soạn thảo kế hoạch này có dấu ấn cá nhân rất lớn của Đại tướng Georgi Konstantinovich Zhukov và thượng tướng Aleksandr Mikhailovich Vasilevsky. Và lần này, cũng như mùa đông 1941 trong trận phản công tại Moskva, các lực lượng nòng cốt để phản công lại là các sư đoàn mới tinh, giàu sức sống của các quân khu Siberia và Viễn Đông được điều tới. Ngày 19 tháng 11 năm 1942, quân đội Xô viết tổng phản công bằng hai mũi thọc sâu bằng xe tăng kết hợp cùng bộ binh cơ giới đánh vào hai sườn của tập đoàn quân số 6 của Paulus. Việc lựa chọn điểm đột kích cũng rất hợp lý: đánh vào các vị trí bố phòng của các đơn vị Hungary, Ý và Romania là các đơn vị có sức chiến đấu và tinh thần kém xa so với quân Đức. Chỉ sau 3 đến 4 ngày tiến công, các lực lượng Xô Viết đã gặp nhau tại khu vực Kalach và đã hợp vây hoàn toàn tập đoàn quân này. Có khoảng 330.000 quân Đức của 22 sư đoàn thuộc tập đoàn quân số 6 và một phần tập đoàn quân xe tăng số 4 của Đức đã rơi vào vòng vây siết chặt.  
***
Cuộc phản công trong trận đánh lớn Stalingrát của Hồng quân Liên Xô đã tạo ra bước ngoặt trên chiến trường Xô - Đức: quyền chủ động chiến lược chuyển hẳn sang tay Hồng quân và quân Đức, do không thể phục hồi, đã phải chuyển sang phòng ngự chiến lược trên toàn chiến trường để rồi bị đánh tới tấp, buộc phải rút lui dần đến tận sào huyệt của chúng là Béclin.
Đến giữa tháng 11-1942, tương quan lực lượng trên toàn mặt trận Xô - Đức là:
- Hồng quân có: 385 sư đoàn (hơn 6,1 triệu người), 72,5 ngàn pháo và súng cối, trên 6 ngàn xe tăng và pháo tự hành, 3.068 máy bay chiến đấu, 233 tàu chiến.
- Quân Đức có: 258 sư đoàn (6,2 triệu người; biên chế sư đoàn Đức hơn sư đoàn Hồng quân 1,5 lần); 70.980 pháo và súng cối, 6.600 xe tăng và pháo xung kích, 3.500 máy bay, 194 tàu chiến.
Tham gia vào cuộc phản công ở khu vực Stalingrát là 3 phương diện quân Liên Xô là phương diện quân Tây - Nam, phương diện quân Sông Đông và phương diện quân Xtalingrát; cụ thể gồm hơn 1 triệu người, 13,5 ngàn pháo và súng cối, 979 xe tăng, 1.350 máy bay. Còn phía quân Đức gồm: hơn 1 triệu người, 10.290 pháo và súng cối, 675 xe tăng và 1.200 máy bay. Theo đó, ưu thế của Hồng quân tại đây so với quân Đức là không đáng kể cho nên kết quả của chiến dịch to lớn này là do tài năng quân sự quyết định. Và ở đây, một cái tên rất nổi tiếng trong hàng ngũ tướng lĩnh Hồng quân lại xuất hiện: Ghêoócghi Giucốp. Chúng  ta sẽ kể đôi nét về ông.
Giucốp sinh ngày 1-12-1896 trong một gia đình nghèo tại làng Stơrencốtca, tỉnh Kaluga và mất năm 1974. Ông tham gia chiến tranh thế giới thứ nhất được thưởng hai huân chương Thánh Gioóc. Năm 1918, ông tham gia Hồng quân và năm 1919 trở thành đảng viên Đảng Cộng sản Nga.
Chính Giucốp là người đã chỉ huy Hồng quân đánh bại quân Nhật trong trận Khankhingôn (Mông Cổ). Hè 1940, Giucốp chỉ huy quân khu Kiép, tháng 1-1941 làm Tổng tham mưu trưởng rồi Phó tổng tư lệnh tối cao, đại diện của Đại bản doanh trên nhiều mặt trận, đại diện Bộ tổng tư lệnh tối cao chủ tọa lễ ký văn bản của phát xít Đức đầu hàng phe Đồng Minh.
Theo hồ sơ lưu trữ của phát xít Đức do Hồng quân thu được sau chiến tranh thì tướng lĩnh Đức đã sớm coi Giucốp là đối thủ đáng gờm nhất, ngay từ sau chiến thắng của ông ở Khankhingôn. Trong chiến tranh thế giới thứ hai, ông thực sự là vì sao sáng chói về tài năng quân sự. Quân dân Liên Xô đã thừa nhận ông là vị chỉ huy lỗi lạc nhất của quân đội Xôviết trong “Cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại”. Có thể nói rằng trên mặt trận Xô - Đức, ông luôn có mặt ở những nơi xung yếu nhất, lúc tình hình nghiêm trọng nhất. Với tất cả đức tính cần có của một nhà chỉ huy quân sự vĩ đại, ông đã được Xtalin tin cậy, giao phó những mặt trận nóng bỏng nhất và ở đâu ông cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
Trong những ngày đầu chiến tranh, trước sức tiến công vũ bão của quân thù, trong cuộc họp khẩn cấp của Bộ chính trị, Giucốp đã đề xuất các biện pháp phòng ngự ngăn chặn. Người ta đã bác ý kiến của ông: “Không phải ngăn chặn mà là tiêu diệt”. Nhưng thực tiễn cho thấy điều đó không thể thực hiện được.
Trong thời kỳ đặc biệt khó khăn ấy, trên cương vị Tổng tham mưu trưởng, Giucốp đã làm việc cật lực, chỉ huy các quân đoàn và nhiều khi trực tiếp đến cấp sư đoàn trong việc tổ chức phòng ngự chiến lược theo chiều sâu. Nhưng tầm nhìn chiến lược của ông đã không bị cuốn hút vào những trận đánh phòng ngự ác liệt. Ông đã lệnh cho rút các đơn vị cơ giới và pháo binh về làm dự bị và xây dựng lại. Quyết định đó đã đem lại sức mạnh to lớn cho Hồng quân sau này. Chưa đầy một năm sau, nhiều tập đoàn thiết giáp của Hồng quân được thành lập hoàn chỉnh và tiến ra mặt trận. Từ 1942, chính pháo binh và thiết giáp lực lượng dự bị của Bộ Tổng tư lệnh đã mở ra cho quân đội Xô Viết con đường tiến về phía Tây.
Sau khi quân Đức đã tiến sâu vào lãnh thổ Liên Xô tới 500 - 600 km và nhịp điệu tiến công đã bắt đầu chậm dần lại, Tổng tham mưu trưởng Giucốp và các phụ tá nhận định: khả năng quân Đức không phải là vô hạn; do bị tổn thất nặng bởi sự chống trả quyết liệt của Hồng quân nên không còn có thể tiến công trên toàn mặt trận mà chỉ có thể tập trung đột kích vào một trong những hướng chiến lược; mũi nhọn đột kích chủ yếu của quân Đức có thể nhắm trước hết vào phương diện quân Miền tây rồi tới phương diện quân Tây - Nam. Ngày 29-7, Giucốp báo cáo với Xtalin, đề nghị tăng cường phương diện quân Miền Tây, rút các đơn vị của phương diện quân Tây - Nam ở bên kia sông Đơnhiép, bỏ ngỏ Kiép và tổ chức ngay một cuộc phản kích trong khu vực Ennhia vì từ nơi này, quân Đức có thể đánh vào Mátxcơva.
Xtalin phản đối bỏ Kiép. Ngay ngày hôm ấy, Giucốp phải thôi giữ chức Tổng tham mưu trưởng để nhận chức Tư lệnh phương diện quân Dự Bị, tuy vẫn là Phó Ủy viên Nhân dân quốc phòng và thành viên Đại bản doanh.
Vừa nhận chức mới, ngày 4-8, Giucốp ra lệnh cho tướng Kátsalốp rút ngay các đơn vị ở cánh trái và trung tâm về phía đông mà không chờ đội quân này được chuyển biên chế từ phương diện quân Miền Tây sang phương diện quân Dự Bị. Quyết định sáng suốt này được Tổng tham mưu trưởng mới là Sapốtxnhicốp hoàn toàn nhất trí. Quân Đức ở gần Rốtxláp đông gấp bội. Nếu chúng chiếm được Rốtxláp thì lực lượng của tướng Kátsalốp sẽ lâm vào tình thế nguy hiểm.
Trên cương vị là thành viên của Đại bản doanh, khi Liên Xô đã tập hợp được những lực lượng vũ trang quan trọng điều về phòng thủ Mátxcơva thì Giucốp nhận định: quân Đức sẽ tạm thời dừng cuộc tiến công chính diện vào Mátxcơva, giữ thế phòng ngự tích cực ở hướng đó, đồng thời có thể chúng sẽ tổ chức đột kích mạnh vào vùng sườn trái của phương diện quân Miền Tây và Dự Bị để tiến vào vùng Chécnigốp - Cônôtốp - Prinxki, đánh tập hậu tiêu diệt các đơn vị của phương diện quân Tây - Nam, sau đó mới mở cuộc tiến công chính vào Mátxcơva, và cùng lúc sẽ đánh chiếm Đônét.
Nhận định ấy là một trong những thí dụ về sự sáng suốt đáng kinh ngạc của tài năng quân sự chiến lược tầm cỡ vĩ nhân của Giucốp, nếu biết rằng đúng lúc đó, Tổng hành dinh Đức cũng đã thông qua kế hoạch tấn công mới, trùng hợp với dự kiến của ông: chia mũi nhọn đột kích vào Ucraina và Lêningrát.
Khi mặt trận vùng trước Lêningrát lâm vào tình huống cục kỳ khó khăn, Giucốp đã lập tức đến đó theo lệnh của Đại bản doanh để tổ chức phòng thủ. Quân thù đông hơn bội phần và khí thế rất mạnh. Không hy vọng đẩy lùi chúng ngay được, nhưng cũng không thể để chúng vào được Lêningrát. Quyết định đầu tiên của Hội đồng quân sự phương diện quân dưới sự chỉ huy trực tiếp của tướng Giucốp là phải bảo vệ Lêningrát đến người cuối cùng bằng lối đánh phòng ngự tích cực nhất: tiến công, tiến công hơn nữa. Ngay từ đầu, những mệnh lệnh của ông đã mang tư tưởng của lối đánh phòng ngự - tiến công, tích cực tiến công để phòng ngự, đánh mạnh, chớp thời cơ đánh mọi lúc, mọi nơi có thể, mở những cuộc hành quân phản đột kích táo bạo giáng cho quân thù những đòn sấm sét, không cho chúng rảnh tay tổ chức lại các binh đoàn xung kích và đồng thời bị tiêu hao, kiệt sức.
Lực lượng quân Đức mở đường đến các vùng phụ cận Lêningrát được trang bị rất nhiều xe tăng. Giucốp tổ chức trước hết một lưới lửa bắn chặn ở vùng Uritxcơ - điểm cao Puncôvô bằng pháo binh, pháo cỡ lớn của hải quân và một số pháo phòng không được chuyển sang nhiệm vụ chống tăng. Ông đã điều cả một bộ phận lính thủy rời tàu ra mặt trận trên bộ, tạo ra khắp nơi những tuyến phòng ngự có chiều sâu và cuối cùng là rút cả một phần lực lượng Hồng quân ở eo đất Carêli để bố trí trước Uritxcơ (việc này quả thực táo bạo vì Hitle đang thúc dục Tổng tư lệnh Phần Lan là Mannéchem chuyển sang tấn công). Tổng tham mưu trưởng Sapốtxnhicốp đánh giá: “Đây là một quyết định đúng đắn duy nhất”.
Nghe tin cuộc phòng ngự của quân đội Liên Xô  trên mặt trận Ucraina thất bại, Giucốp tiên đoán: Hítle say sưa với thắng lợi, sẽ tung trở lại về hướng Mátxcơva cụm tập đoàn quân xe tăng của Guđêrian cũng như các quân đoàn thuộc cụm thiết giáp của Hốt. Nếu quân Đức tổ chức đột kích vào Mátxcơva thì chiến dịch đó phải xảy ra trước mùa đông. Do đó lực lượng xe tăng của Hốt  chắc chắn rời khu vực Lêningrát. Nhưng trong khi chờ đợi, PhônLép, tư lệnh cụm tập đoàn quân “Bắc”, dưới sức ép mạnh mẽ của Hítle, buộc phải chiếm bằng được thành phố Lêningrát, sẽ tranh thủ sử dụng lực lượng xe tăng này đến phút chót.
Đó là suy luận xuất sắc về mặt chiến lược của tướng Giucốp.
Trong một thời gian rất ngắn, chỉ có 27 ngày, Giucốp đã hoàn thành được nhiệm vụ hết sức nặng nề. Xoay chuyển cục diện có lợi cho Hồng quân, ổn định được mặt trận phòng thủ Lêningrát. (Sau này Giucốp còn được cử đến Lêningrát lần thứ hai để phối hợp mọi cố gắng nhằm phá vỡ cuộc bao vây phong tỏa của quân Đức. Ngày 12-1-1942, các phương diện quân Lêningrát và Vônkhốp chuyển sang tấn công từ hai bên hành lang đi đến hồ Lađôga nối liền Lêningrát với phần còn lại của đất nước Liên Xô. Cần nói thêm điều này: Sau 900 ngày đêm sống và chiến đấu ngoan cường trong vòng bao vây phong tỏa khốc liệt của phát xít Đức, nhân dân Lêningrát đã phải chịu sự tổn thất hết sức nặng nề, riêng về nhân mạng đã có 16.747 người chết và 33.782 người bị thương vì phi pháo, trên 800.000 người chết vì đói, và bệnh tật do thiếu thốn).
Như đã kể, ngày 30-9-1941, mặt trận phòng ngự Brianxcơ bị chọc thủng, một bộ phận quân đội Xô Viết bị bao vây. Ngày 2-10, quân Đức đột kích mạnh mẽ từ hai hướng bắc và nam về phía thủ đô. Nhiều đơn vị thiết giáp của Đức đã bắt liên lạc được với nhau trong khu vực Viadơma. Ngày 7-10-1941, Giucốp từ Lêningrát cấp tốc đáp máy bay về Mátxcơva. Trước tai họa thực sự đang đe dọa thủ đô, Xtalin đã cử Giucốp với tư cách đại diện Đại bản doanh, có toàn quyền chỉ huy mặt trận phòng thủ Mátxcơva.
Ngày 15-10-1941, quân Đức chỉ còn cách Matxcơva 27 km. Tình hình thật nguy ngập. Xtalin hỏi Giucốp: “Anh có tin là chúng ta giữ được Matxcơva không? Tôi hỏi anh điều này với nỗi đau đớn. Anh hãy nói một cách chân thành với tư cách là một đảng viên!”. Giucốp trả lời: “Nhất định chúng ta giữ được! Nhưng chúng ta cần tăng cường ít nhất 2 quân đoàn và 200 xe tăng”. Xtalin đồng ý và quyết định điều quân dự bị từ Xibêri về.
Theo Giucốp, hiểm họa chính nằm trong sự mỏng manh của tuyến phòng ngự Môgiaixcơ. Xe tăng Đức có thể bất ngờ thọc vào Mátxcơva bất cứ lúc nào. Ông cố gắng bắt liên lạc với các đơn vị đang chiến đấu trong vòng vây phía bên kia Viadơma để lên phương án thoát vây nhưng không kịp, liên lạc đã bị cắt đứt. Do đó các đơn vị này đã không thực hiện được một cuộc rút lui có tổ chức. Chỉ một vài đơn vị thoát ra, tìm được về căn cứ. “Chịu đựng mọi tổn thất và đổ máu không phải là vô ích”, về sau Giucốp đã viết như vậy. Hai mươi tám sư đoàn quân Đức đã bị giam chân tại đây trong vòng từ 9 đến 10 ngày đã tạo điều kiện cho quân đội Xô Viết tranh thủ được thời gian củng cố sự phòng thủ trên tuyến Môgiaixcơ. Phán đoán chính xác, Giucốp đã tập trung nỗ lực đánh tan cả hai cánh quân Đức ở hai phía bắc và nam, tiến tới giải vây cho Mátxcơva như chúng ta đã biết.
Cuộc đời của nguyên soái G. Giucốp sau chiến tranh thế giới thứ hai có nhiều thăng trầm và đau buồn riêng tư do “chữ tài đi với chữ tai một vần” trước thói đời ghen bạc. Lịch sử là quá khứ đã qua nhận thức nên nó bị sự chủ quan hóa làm méo mó đi và thậm chí là bị xuyên tạc bởi những mưu đồ, những thèm muốn vị kỷ. Một quá khứ có thể có nhiều lịch sử nhưng bản thân nó là duy nhất! “Nhớ lại và suy nghĩ” của Giucốp là một tác phẩm trong sáng, chúng ta cho là như vậy.
Sáng ngày 29-8-1942, Giucốp, lúc này đã là Phó tổng tư lệnh tối cao, nhận lệnh rời Mátxcơva đi Xtalingrát. Thế là ông lại đến với nơi xung yếu nhất của mặt trận Xô - Đức. Kẻ thù đã đến được sông Vônga. Đạo quân Đức đang tiến về Xtalingrát là tập đoàn quân xuất sắc nhất của Hitle trong những chiến dịch ở hướng tây năm 1940 và chưa từng bại trận nào.
Đến nơi, qua tìm hiểu tình hình thực tế, ông thấy kế hoạch tiến công thì đã hoàn tất nhưng các đơn vị Hồng quân không đủ thời gian tập kết ở tuyến xuất phát. Ông vội gọi điện về cho Xtalin đề nghị hoãn, nhưng chưa nhận được trả lời. Với trách nhiệm của một tướng “ngoài biên ải”, Giucốp đã tự quyết định ngưng cuộc tấn công đến ngày 13-9. Sau đó, ông nhận được điện của Đại bản doanh báo tin quân thù chỉ còn cách Xtalingrát 3 vecxtơ (đơn vị chiều dài của Nga, bằng 1.067 m) và lệnh phải cho các tư lệnh bộ đội hướng bắc và tây - bắc lập tức tiến công nhằm hỗ trợ cuộc phòng thủ của Hồng quân trước cửa ngõ Xtalingrát. “Không được chậm trễ một phút! Sự chậm trễ trong tình thế hiện nay cũng tương tự như một tội ác!”. Mệnh lệnh trên do Xtalin ký với lời lẽ cả quyết hiếm có. Giucốp báo cáo ngay cho Tổng tư lệnh tối cao (Xtalin) bằng điện thoại và được lệnh hoãn cuộc tiến công.
Ngày 12-9, Giucốp cùng Vaxilépxki, người vừa được bổ nhiệm làm Tổng tham mưu trưởng, báo cáo cho Xtalin tình hình ở vùng Cápcadơ và Xtalingrát. Sau đó, họ đã đi đến kết luận: trong cuộc tiến công ở hướng nam, quân Đức đã nắm quyền chủ động chiến lược, vậy cần phải giành lại quyền chủ động đó. Xét về tương quan lực lượng và sự bố trí lực lượng của quân Đức thì không thể đánh vào những đơn vị ưu tú còn rất mạnh của chúng. Vậy thì đánh vào đâu? Đạo quân tiến đánh Xtalingrát là mũi nhọn đột kích của một tam giác khổng lồ mà các cạnh kéo dài hàng trăm km, trong đó có đoạn do các đơn vị quân đội Hungari, Rumani, Ý, kém thiện chiến hơn nhiều đảm nhiệm. Cần phải đánh vào đúng chỗ này, nơi rất gần với cạnh đáy của tam giác.
Tối 13-9, Giu cốp và Vaxilépxki báo cáo cho Xtalin kế hoạch tác chiến. Chiến dịch sẽ chia làm 2 giai đoạn, giai đoạn 1 là chọc thủng hệ thống phòng ngự của quân thù, bao vây đội quân Đức đang chiến đấu ở Xtalingrát, xây dựng một phòng tuyến bên ngoài đủ vững chắc để đẩy lui quân tiếp viện Đức; giai đoạn 2: tiêu diệt các đơn vị Đức đã bị bao vây. Mọi người  nhất trí kế hoạch đó.
Trong khoảng thời gian 5 ngày đêm trước cuộc phản công, ở các hướng đột kích chính, Hồng quân đã tiến hành những trận đánh thăm dò để trinh sát.
Ngày 19-11-1942, quân đội Xôviết trên mặt trận Xtalingrát chuyển sang phản công bắt đầu bằng những đòn đột kích của các phương diện quân Tây - Nam và Sông Đông. Bộ đội phương diện quân Xtalingrát chuyển sang tấn công vào ngày 20-11.
Sau khi hoàn thành việc đột phá trận địa phòng ngự đối phương, lực lượng của cả 3 phương diện quân Hồng quân tiếp tục phát triển tiến công theo chiều sâu. Các quân đoàn xe tăng và cơ giới của Hồng quân, sau khi đánh lui các đợt phản kích của quân thù, đã cơ động táo bạo, trong một vài ngày cá biệt, tiến được 50 - 70 km.
Ngày 22-11, quân đoàn cơ giới số 4 của tập đoàn quân 51 Hồng quân đã đến được vùng Xôvétski. Ngày hôm sau, các binh đoàn của quân đoàn xe tăng số 4 cũng đã tiến đến vùng này. Sự xuất hiện lực lượng xe tăng và cơ giới của các phương diện quân Tây - Nam và Xtalingrát ở vùng Calát và Xôvétski đã cho Hồng quân thực hành được việc bao vây 22 sư đoàn, tức là 160 binh đội độc lập của tập đoàn quân dã chiến số 6 và một phần lực lượng của tập đoàn quân xe tăng số 4 của Đức, gồm 330 ngàn quân. Bộ đội của phương diện quân Sông Đông không ngăn được quân địch ở khúc cong nhỏ của Sông Đông và từng bộ phận của chúng đã rút được về với lực lượng chủ lực đang hoạt động sát gần Xtalingrát.
Tuy nhiên, kế hoạch giai đoạn 1 của chiến dịch đã hoàn thành, Hồng quân đã chọc thủng hệ thống phòng ngự của quân Đức và đã bao vây được lực lượng chủ yếu của chúng. Quyền chủ động chiến lược ở cánh phía nam của mặt trận Xô - Đức đã thuộc về quân đội Xôviết.
Để giải vây và khôi phục lại tình hình, Tổng hành dinh Đức vội vã rút bớt lực lượng từ những địa đoạn khác trên mặt trận Xô - Đức, từ Tây Âu, thành lập cụm tập đoàn quân đặt tên là “Sông Đông”, gồm 30 sư đoàn. Cụm tập đoàn quân này có nhiệm vụ đột kích phá vỡ vòng vây bên ngoài, phát triển tiến công về phía Xtalingrát.
Ngày 12-12, quân Đức tiến công từ khu vực Côtennhicôvô. Dù gặp sự kháng cự mãnh liệt của các lực lượng thuộc tập đoàn quân 51 và lực lượng dự bị tăng cường của Hồng quân, ngày 19-12 quân Đức vẫn đến được sông Mưsơcốp. Nhưng đến đây, gặp một lực lượng đánh chặn mạnh hơn của Hồng quân, chúng đã bị khựng lại.
Ngày 16-12, bằng lực lượng của phương diện quân Tây - Nam và tập đoàn quân 6 của phương diện quân Vôrônegiờ, Hồng quân tổ chức tấn công và chỉ trong có mấy ngày, đã đánh tan tập đoàn quân số 8 của Ý và bộ phận còn lại của tập đoàn quân số 3 của Rumani.
Do tiến công thắng lợi của phương diện quân Tây - Nam và sự phòng ngự vững chắc của phương diện quân Xtalingrát ở sông Mưsơcốp, quân Đức buộc phải từ bỏ ý đồ cứu nguy cho lực lượng đang bị bao vây của chúng và chuyển sang phòng ngự.
Ngày 24-12, phương diện quân Xtalingrát mở cuộc tiến công quyết định tiêu diệt lực lượng đối phương ở Côtennhicôvô, buộc chúng rút về phía nam. Ngày 29-12, Hồng quân chiếm được Côtennhicôvô. Vòng vây phía ngoài đã vững chắc bởi những cuộc tiến công, phản kích đánh quân tiếp viện Đức một cách hiệu quả.
Ngày 8-1-1943, để tránh đổ máu vô ích, quân đội Xôviết kêu gọi quân Đức đang bị bao vây chặt ra hàng, nhưng tư lệnh tập đoàn quân 6 Đức (lực lượng bị vây) là thống chế Vôn Pauluýt đã cự tuyệt.
Sáng ngày 10-1, sau đợt pháo và “Cachiusa” bắn chuẩn bị mãnh liệt, các lực lượng của phương diện quân Sông Đông bắt đầu tấn công. Đến cuối tháng 1, lực lượng trong vòng vây của quân Đức bị chia cắt thành hai bộ phận. Trước những đòn đột kích mạnh của Hồng quân, tình thế quân Đức bị vây trở nên vô vọng, ngày 31-1, bộ phận phía nam trong đó có Pauluýt, đầu hàng và ngày 2-2, bộ phận phía bắc cũng hạ vũ khí. Trận đánh lớn Xtalingrát đến đây kết thúc và đi vào lịch sử như một khúc ca nặng trĩu u uất cho thân phận con người nhưng cũng thật hùng tráng trong thiên anh hùng ca “Cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại” mà quân dân Liên Xô đã phải viết bằng máu, xương, nỗi bất hạnh thấm ngập lệ của mình và của cả binh lính Đức.
Sau này, Giucốp viết: “ Trận đánh trong vùng Xtalingrát cực kỳ ác liệt. Riêng tôi, tôi chỉ có thể so sánh nó với trận Mátxcơva…”.
Công lao của Giucốp trong cuộc phản công thắng lợi của Hồng quân ở mặt trận Xtalingrát cũng như trong những trận đánh trước đó mà ông tham dự là tấm huân chương Suvôrốp hạng nhất. Tấm huân chương đó được đánh số 1.
Sáng ngày 3-2-1943, đài phát thanh ở nước Đức quốc xã loan tin về việc để tang toàn quốc. Giọng phát thanh viên trầm buồn: “Chiến dịch Xtalingrát đã kết thúc. Trung thành với lời thề của mình cho đến hơi thở cuối cùng, quân đoàn 6, dưới sự chỉ huy gương mẫu của thống chế Pauluýt, đã ngã gục trước lực lượng áp đảo của kẻ thù và trước những hoàn cảnh bất lợi. Trận đánh cuối cùng đã diễn ra dưới nếp gấp của lá cờ có chữ thập ngoặc cắm ở nơi cao nhất của đống hoang tàn Xtalingrát. Các tướng lĩnh, sĩ quan, hạ sĩ quan và binh sĩ của chúng ta đã kề vai sát cánh chiến đấu đến viên đạn cuối cùng.”
Trong mọi cuộc chiến tranh, không thiếu gì những lời dối trá “dễ tin” như thế ở cả hai phía đối địch. “Thật thà là cha đứa dại”, ai cũng nghĩ thế nên chẳng ai thấy xấu hổ trước sự dối trá được cho là có lợi. Nhưng hậu thế lại chẳng thích bị mắc lừa tý nào!
Sự đầu hàng để chọn lấy sống còn của quân đoàn 6 Đức và tư lệnh của nó là có thật. Panluýt đã từng là tù binh của Hồng quân, có mặt tại tòa án xét xử tội phạm chiến tranh Nurembe như một nhân chứng và còn sống đến tận năm 1957 cũng là những sự thật.
Chúng ta tin vào câu chuyện kể về Pauluýt của giáo sư tiến sĩ Alêchxăng Blăng, người đã từng phục vụ trong một trại giam tù binh Đức với tư cách là phiên dịch:
Pauluýt sử dụng phần lớn thời gian của mình trong trại giam để đọc sách. Ông ta đọc cả “Tư bản” của Mác, “Biện chứng của Tự nhiên” và “Chống Đuyrinh” của Ăngghen. Có lần Pauluýt nói:
- Nghĩ cũng lạ! Tôi, một người Đức mà lại ngồi ở nước Nga để đọc những triết gia lớn người Đức là Mác và Ăngghen, trong một trại tù binh.
Cuối tháng 6-1943, Pauluýt được nghe dịch lại bản thông cáo tổng kết 2 năm chiến tranh của Cục thông tin Liên Xô. Ông ta thừa nhận rằng phần lớn những kết luận trong bản thông cáo ấy là tương ứng với hiện thực. Riêng về tính trầm trọng của khủng hoảng ở nước Đức quốc xã và tình hình phát triển của phong trào phản kháng ở đó thì ông ta còn nghi ngờ. Pauluýt nói:
- Đó là sự thổi phồng trong việc tuyên truyền của riêng những nước đang tiến hành chiến tranh. Tôi khẳng định rằng nhân dân Đức tiếp tục đi theo quốc trưởng, rằng chẳng có kẻ nào dám đánh lại quốc trưởng, vì Đức là một dân tộc có kỷ luật.
Khi Pansép, bí thư đảng ủy vùng Ivanôvô hỏi Pauluýt một cách phẫn nộ:
- Tại sao ông đã hành động tàn bạo như vậy chống lại thường dân trong cuộc chiến này?
Pauluýt khô khan trả lời:
- Tôi không hề biết tý gì về việc đó. Quân đội không quan tâm tới những hoạt động loại này.
Tuy nhiên một thời gian sau, khi nghe đọc dịch lại bài phóng sự nhan đề “Hận thù” đăng trên báo “Sự thật” (Pravđa) viết về một công nhân ở Xtalingrát trở thành xạ thủ ưu tú sau khi quân Đức tàn sát hết toàn bộ gia đình, trong đó có bốn người con trai cuả người này, Pauluýt đã lặng yên hồi lâu rồi nói:
- Cần phải biết bao thời gian để làm dịu nỗi đau khủng khiếp mà chúng tôi đã mang đến đất nước này. Không, chẳng thể nào làm dịu được, vì chẳng có ai có thể làm sống lại những đứa trẻ đã bị tàn sát. Chỉ có một điều mà người ta có thể làm được là phấn đấu để không bao giờ làm cho chuyện đó xảy ra nữa. Đó là nghĩa vụ của nhiều thế hệ tương lai.
Theo nhận xét của Blăng thì trong khoảng thời gian đầu ở trại tù binh, nội tâm Pauluýt đã phải chịu những day dứt, giằng xé trong một xung đột dữ dội, dẫn đến sự biến đổi tư tưởng dần dần nhưng rõ ràng của ông ta.
Cũng khoảng cuối tháng 6-1943, Vinhem Pich (Wilhelm Piek, 1876 - 1960, là một trong những người thành lập đảng Xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức, sau này là chủ tịch đầu tiên của nước Cộng hòa dân chủ Đức) đã gặp Pauluýt, tự xưng là đại biểu quốc hội Đức, đề nghị Pauluýt có ý kiến về số phận nước Đức và nhân dân Đức, đồng thời thông báo cho Pauluýt việc thành lập phong trào chống phát xít có tên gọi là “Nước Đức tự do” có sự tham gia của nhiều binh lính, sĩ qaun Đức đang là tù binh.
Lúc đầu Pauluýt tuyên bố:
- Tôi là một người lính được giáo dục theo những nguyên tắc của danh dự nhà binh, và rồi nếu tôi không thể chiến đấu bên cạnh các chiến hữu của tôi, thì với tư cách tù binh, tôi phải giữ im lặng. Đó là nghĩa vụ của tôi đối với tổ quốc, đối với quân đội.
Nhưng Vinhem Pich đã nói những lời chí lý:
- Có nhiều điều ngăn cách chúng ta và hẳn rằng chẳng bao giờ chúng ta hiểu và nhìn nhận những sự kiện bằng cùng một cách. Tuy nhiên, có một điểm hội tụ chúng ta lại. Cả hai ta đều là người Đức và cùng yêu nước Đức. Ai yêu nước mình thì phải làm tất cả những gì có thể làm để cứu nước và để cứu nước Đức, chỉ còn một con đường: lật đổ Hítle và ngừng chiến không thời hạn.
Về sau, Pauluýt nhớ lại:
“Cuộc hội đàm đó đã là một động lực đầu tiên đẩy tôi ra khỏi khuôn khổ chật hẹp của cái lôgic quân sự nghiêm cách và bắt đầu lò dò quan tâm đến những vấn đề chính trị”.
Tháng 8-1943, trong một lần đi dạo, Pauluýt có nói với Blăng:
- Nếu không có những thèm muốn của quốc trưởng thì số phận tôi đã ngoặt khác đi…
Trong một lần đi dạo khác, bàn về con người Hítle, Pauluýt đã bộc bạch:
- Tôi trông thấy Hítle thường xuyên nên tôi nghĩ rằng tôi hiểu ông ta. Đó là một con bệnh suy nhượng thần kinh bẩm sinh: là “hiện tượng” nhớ dai. Ông ta thuộc lòng số hiệu của tất cả các sư đoàn và cả số hiệu của nhiều trung đoàn ở nhiều tiểu khu trên mặt trận, nhớ cả tên của hầu hết các tướng lĩnh. Trước mắt ông ta hình như bao giờ cũng có một bản đồ chiến cuộc. Song tất cả cái đó là phục vụ cho mục đích tội ác. Toàn bộ năng lực của ông ta, toàn bộ ý chí của ông ta đều hướng về việc chống lại quốc gia mình. Hítle có tính bảo thủ đến cùng trong những đánh giá của mình. Ông ta từ chối mọi lời khuyên, trong đó không thiếu những lời khuyên có lý. Ông ta là một người cuồng tín, cứ như người nửa điên nửa tỉnh, tính khí kỳ cục. Ông ta đánh giá sức mạnh của Liên Xô chỉ bằng một nửa so với thực tế, và cả chúng tôi nữa, bị ảnh hưởng của ông ta, cũng bị lừa bịp một cách tàn bạo. Ngay cả những ai biết rõ thực tế và nhìn thấy cái thực tế ấy cũng sợ không dám thú nhận. Hítle không muốn nghe ngay cả những cái khách quan dè dặt nhất. Tất cả những ai phản đối hoặc nghi ngờ, sẽ rơi vào sự ghét bỏ, bất hạnh…
Có nhiều yếu tố dẫn đến sự chuyển biến tư tưởng và quyềt định tham gia vào phong trào chống phát xít “Nước Đức tự do” của Pauluýt, trong đó ắt hẳn tin tức về cuộc tiến công thắng lợi của Hồng quân trong những năm 1943 - 1944 đã là một yếu tố quan trọng. Khi đó Pauluýt đã viết: “Sự diễn biến chiến cuộc cho đến mùa hè năm 1944 giúp cho tôi hiều được rằng Hítle đã khước từ việc rút ra những bài học do tình hình mất hy vọng đặt ra. Ông ta vẫn thúc ép nhân dân Đức lâm vào một thảm họa không thể hình dung nổi. Ngoài ra tôi còn có thể có một khái niệm đầy đủ hơn về những tàn bạo có hệ thống và những biện pháp hủy diệt dân chúng được thực hiện theo lệnh của Hítle ở những lãnh thổ bị Đức chiếm đóng. Đối với tôi, đã rõ ràng là Hítle không những không thắng, mà còn không được thắng cuộc lần này”, và: “Tôi đau buồn không chịu nổi khi nghĩ rằng những hy sinh của quân đoàn 6 trong chiếc dịch Xtalingrát, đánh dấu bước ngoặt chiến tranh, là ngu xuẩn đến mức nào! Những hy sinh đó chỉ là để đóng góp cho việc kéo dài chiến tranh và gia tăng tổn thất cho nhân dân Đức”
Ngày 8-8-1944, cùng cái ngày mà ở Béclin, Hitle ra lệnh treo cổ thống chế Witzleben, một trong những người cầm đầu nhóm sĩ quan Đức âm mưu ám sát Hitle, thống chế Pauluýt loan báo không úp mở việc ông ta tham gia phong trào chống phát xít, trên đài phát thanh “Nước Đức tự do”.
Nhiều năm sau này, Pauluýt viết: “Tôi đã đi đến kết luận rằng điều quan trọng tuyệt nhiên không phải là hoàn thành cuộc chiến trong những điều kiện có thể chịu đựng được, mà chính là cổ vũ những lực lượng hận thù với chủ nghĩa Quốc Xã, làm tan rã mặt trận để ngừng các cuộc xung đột và như vậy là để tránh khỏi một thảm họa có tính định mệnh”.
***
Cuộc phản công và bao vây tiêu diệt ở Xtalingrát đã góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho quân đội Xôviết tổ chức những chiến dịch tiến công thắng lợi ở các khu vực khác trên mặt trận Xô - Đức. Cánh nam của quân Đức đã bị bẻ gãy, phá vỡ cuộc bao vây phong tỏa Lêningrát, mặt trận đã lùi xa Mátxcơva thêm 150 km…
Sau chiến thắng ở Xtalingrát, Hồng quân Liên Xô đã giành lại quyền chủ động trên khắp chiến trường và liên tục tiến công, phát triển được theo chiều sâu là 600 - 700 km trên một chính diện rộng. Trong thời gian bốn tháng rưỡi liên tục tiến công, Hồng quân đã đập tan trên 100 sư đoàn địch, cụ thể là làm chúng mất: 1,7 triệu sĩ quan và binh lính, 24 ngàn khẩu pháo, trên 3.500 xe tăng và 4.300 máy bay. Uy tín sức mạnh quân sự Đức trước con mắt thế giới đã bị sụp đổ!
Ngay từ mùa xuân năm 1943, nước Đức phát xít đã khẩn trương sản xuất hàng loạt xe tăng hạng trung và hạng nặng (là “Con báo”, “Con hổ”), pháo tự hành “Phécđinăng”; đẩy mạnh sản xuất các loại vũ khí khác cũng như máy bay chiến đấu với nhịp điệu nhanh hơn so với năm 1942. Nhờ ban hành tổng động viên, Đức đã hầu như bổ sung được những thiệt hại về quân số cho lực lượng vũ trang.
Để giành lại quyền chủ động chiến lược, Tổng hành dinh của phát xít Đức quyết định tiến hành một chiến dịch tiến công lớn vào mùa hè năm 1943 lấy tên là “Xitađen”.
Quân Đức sẽ tiến công, nhưng chúng sẽ hành động ra sao? Câu hỏi đó được đặt ra tại Đại bản doanh từ khá sớm và đòi hỏi phải trả lời đúng để đề ra được phương án đối phó tối ưu. Đã có những ý kiến khác nhau. Người ta ra sức thuyết phục Xtalin rằng giáng một đòn tiến công ngăn ngừa trước trên trục Bengôrốt - Kháccốp là tốt hơn cả. Với cương vị là đại diện Đại bản doanh tại mặt trận, Giucốp nắm được tin tức cũng như các tư lệnh phương diện quân. chỉ có điều ông đã rút ra một kết luận hoàn toàn khác.
Giucốp chủ trương chưa chuyển sang tiến công ngay mà làm cho quân Đức bị kiệt sức trên trận địa phòng ngự của Hồng quân; tiêu diệt các xe tăng của chúng rồi sau đó mới sử dụng những lực lượng dự bị còn nguyên vẹn chuyển sang tiến công toàn diện đánh tan binh đoàn chủ lực của chúng. Theo ông, quân Đức, với tiềm lực đã bị hạn chế, chỉ có khả năng mở cuộc tiến công trên một mặt trận thu hẹp, có thể chúng sẽ tổ chức đánh chủ yếu vào 3 phương diện quân Hồng quân là Trung Tâm, Vôrônegiơ và Tây - Nam. Trong báo cáo gửi cho Xtalin, ông nêu rõ:
“- Có thể trong đợt đầu, quân địch sẽ tiến đánh và tràn ngập Cuốcxcơ từ phía đông - bắc và phía tây - nam…
- Địch có thể tung 15 hoặc 16 sư đoàn cơ giới và khoảng tối đa 2.500 xe tăng để tiến công binh đoàn Cuốcxcơ…
- Để làm cho quân địch bị tan vỡ trước hệ thống phòng ngự của chúng ta, ngoài những biện pháp về phòng ngự chống tăng… cần phải bố trí khối chủ yếu của các lực lượng dự bị chiến dịch trong vùng Elétxơ - Vôrônegiơ…”
Tóm lại, ngày 8-4-1943, Giucốp đã quyết đoán được địa điểm của trận đánh lớn sắp xảy ra, lực lượng mà quân Đức sẽ sử dụng và nêu ra những biện pháp đối phó cụ thể. Ngày 12-4, Đại bản doanh đã thông qua phương án của ông.
Trong khi đó, ngày 15-4-1943, tại Tổng hành dinh Đức, Hitle ban bố mệnh lệnh số 6: “Bằng một đòn tập trung kiên quyết và nhanh chóng do tập đoàn quân xung kích tiến hành từ khu vực Bengôrốt và bằng một đòn khác từ khu vực phía nam Ôriôn, dựa vào tiến công tập trung, thực hiện bao vây bộ đội địch trong khu vực Cuốcxcơ và tiêu diệt chúng…”.
Hitle không thể ngờ rằng trước đó một tuần lễ, nguyên soái Giucốp đã tiên đoán tình hình, chính xác đến kỳ lạ không chỉ hướng tiến công của các mũi đột kích mà cả về lực lượng tham gia chiến dịch của quân Đức. Thực tế Bộ chỉ huy Đức đã huy động vào chiến dịch Xitađen, 50 sư đoàn, trong đó có 16 sư đoàn xe tăng và cơ giới, cụ thể là khoảng 900 ngàn người, 10 ngàn pháo và súng cối, gần 2.700 xe tăng và trên 2.000 máy bay.
Ngày 15-7-1943, phát xít Đức tấn công mở màn chiến dịch Xitađen nhưng chỉ trong vòng một tuần lễ, chiến dịch đó đã hoàn toàn thất bại. Lúc đầu Hồng quân tổ chức phòng ngự chặt chẽ. Quân Đức đã phải trả giá rất đắt mới chọc thủng được vài chỗ ở tuyến phòng ngự đầu. Hai hướng chúng tiến được sâu nhất cũng chỉ là 12 km (ở hướng Ôriôn - Cuốcxcơ) và 35 km (ở hướng Bengôrốt - Cuốcxcơ). Bộ đội Hồng quân của các phương diện quân Trung Tâm, Vôrônegiơ phối hợp với một bộ phận Hồng quân của phương diện quân Thảo Nguyên đã đánh cho các lực lượng đột kích Đức bị suy yếu, kiệt quệ, tạo điều kiện thuận lợi để chuyển sang phản công. Trước sự phòng thủ kiên cường và những đòn phản đột kích mãnh liệt của Hồng quân, cuộc tiến công của quân Đức đã bộc lộ ngày một rõ ràng sự khủng hoảng.
Sáng ngày 12-7, phương diện quân Vôrônegiơ tổ chức phản đột kích. Một trận đánh gặp gỡ rất lớn bằng xe tăng đã xảy ra tại vùng Prôkhôrốpxki và kéo dài đến tận khuya. Quân Đức tổn thất nặng nề buộc phải chuyển sang phòng ngự. Đây có thể là trận đánh gặp gỡ xe tăng lớn nhất trong chiến tranh thế giới thứ hai. Cũng ngày này, phương diện quân Brianxcơ và Miền Tây, theo lệnh Đại bản doanh đã chuyển sang tiến công trên hướng Ôriôn. Có thể nói ngày 12-7 là ngày đánh dấu bước ngoặt trên chiến trường lớn ở vòng cung Cuốcxcơ.
Ngày 3-8, Hồng quân mở chiến dịch tiến công Bengôrốt - Kháccốp. Trong chiến dịch này cũng có một trận đánh gặp gỡ xe tăng lớn, xảy ra tại Bôgôđukhốp.
Cả hai chiến dịch đều hoàn toàn thắng lợi. Quân Đức đã bị tổn thất không thể bù đắp được, ngay cả ý đồ muốn giữ vững bàn đạp chiến dịch Ôriôn - Kháccốp của chúng cũng bị phá vỡ.
Kết quả thắng lợi của trận đánh lớn Cuốcxcơ thuộc về Hồng quân, đã bẻ gãy xương sống của quân Đức, buộc chúng phải chuyển sang phòng ngự chiến lược vĩnh viễn trên mặt trận Xô - Đức. Cuộc tổng tiến công của Hồng quân trên toàn mặt trận đã đến giai đoạn chín muồi.
Thua trận ở Cuốcxcơ đã buộc Bộ chỉ huy phát xít Đức phải rút khỏi chiến trường Địa Trung Hải mọi hoạt động quân sự của các binh đoàn lớn và không quân, tạo điều kiện cho quân Mỹ - Anh chiến thắng trong cuộc chiến tranh Bắc - Phi để rồi tiến hành chiến dịch thắng lợi ở Ý.
Tháng 10-1943, Hội nghị các ngoại trưởng ba nước Xô - Mỹ - Anh đã họp ở Mátxcơva, thông qua nhiều quyết định quan trọng về việc tổ chức thế giới sau chiến tranh cũng như chuẩn bị điều kiện cho cuộc gặp gỡ những người đứng đầu ba nước lớn đó.
Ngày 23-11-1943, tại Têhêran (thủ đô của Iran), Hội nghị những người đứng đầu 3 cường quốc Xô - Mỹ - Anh lúc đó là Xtalin, Rudơven và Sơcsin khai mạc. Trong hội nghị này, Mỹ và Anh đồng ý mở mặt trận thứ hai, đổ bộ lên châu Âu qua miền Bắc và Nam nước Pháp, trước ngày 1-5-1944. Hội nghị cũng đã thỏa thuận nhiều vấn đề liên quan đến Đức, Ba Lan, Iran… sau chiến tranh. Hội nghị này đã làm cho những hy vọng chia rẽ liên minh chống phát xít tan vỡ và âm mưu ký hòa ước riêng rẽ với Mỹ, Anh của một số tướng lĩnh phát xít Đức nhằm tránh một sự đầu hàng nhục nhã và cũng nhằm chạy tội đã thất bại.
Trên mặt trận Xô - Đức, bước sang năm 1944, các đơn vị tác chiến của Hồng quân đã có tới 6,1 triệu người, 88,9 ngàn khẩu pháo và súng cối, 2.167 dàn pháo phản lực (Cachiusa), gần 4,9 ngàn xe tăng và pháo tự hành, 8,5 ngàn máy bay chiến đấu. Xét tương quan số lượng thì Hồng quân hơn quân Đức 1,2 lần về quân số, 1,6 lần về pháo binh, 2,8 lần về máy bay. Quân Đức có ưu thế về xe tăng hơn Hồng quân một chút. Tuy nhiên Hồng quân còn có thêm ưu thế từ việc chất lượng vũ khí được nâng lên, tinh thần chiến đấu đầy khí thế, các cấp chỉ huy đã dày dạn kinh nghiệm trong việc tổ chức, điều phối chiến dịch và trình độ về nghệ thuật quân sự đã được nâng cao lên nhiều.
Ngày 24-12-1943, Hồng quân phát động tiến công ở Hữu ngạn Ucraina, mở ra giai đoạn tấn công vũ bão, ào ạt trên cả ba hướng chiến lược của mặt trận Xô - Đức.
Tại khu vực mặt trận Ucraina, Hồng quân đã tiến hành hàng loạt chiến dịch đánh tiêu diệt. Kết quả: 66 sư đoàn Đức bị loại khỏi vòng chiến đấu, Ucraina được hoàn toàn giải phóng, từ tháng 3 đến tháng 5-1944, Ôđétxa và Crưm cũng lần lượt thoát khỏi tay quân Đức.
Ở vùng bắc mặt trận Xô - Đức, từ tháng 1-1944, Hồng quân tiến đánh giải phóng Lêningrát, Nốpgôrốt và tiến tới sát biên giới Extônia. Hè năm 1944, Hồng quân tiến vào giải phóng các nước vùng Ban tích, đánh đuổi quân Phần Lan ra khỏi lãnh thổ Liên Xô, buộc nước này phải ký hiệp ước đình chiến với Liên Xô ngày 19-9-1944 (đây là một hành động mã thượng, đậm nét nhân văn của Nhà nước Xô Viết!).
Hướng tây là hướng ngắn nhất để tiến đến biên giới nước Đức. Nhận thấy tầm quan trọng có ý nghĩa chiến lược đối với sinh mạng nước Đức của khu vực lãnh thổ Bêlarút, Tổng hành dinh Đức đã cho xây dựng ở đây một trận địa phòng thủ mạnh, có chiều sâu lên đến 250 - 270 km. Cụm tập đoàn quân Trung Tâm và các binh đoàn của các cánh thuộc cụm tập đoàn quân bạn chịu trách nhiệm chống giữ ở đây, với lực lượng tổng cộng là 1,2 triệu người, 9,5 ngàn pháo và súng cối, 900 xe tăng và pháo cường kích, gần 1.300 máy bay.
Chiến dịch giải phóng Bêlarút (có mật danh là “Bagrachion”, tên một hoàng thân Nga và cũng là một vị tướng mà Napôlêông cho rằng giỏi nhất của quân Nga trong chiến dịch nước Nga năm 1812, chết ở trận Bôrôđinô) là một trong những trận đánh lớn nhất của cuộc chiến tranh thế giới thứ hai. Để tiến hành chiến dịch này, Bộ chỉ huy tối cao Xô Viết đã huy động 4 phương diện quân, không quân tầm xa, hạm đội sông Đơnhiép và các binh đoàn du kích bêlarút. Lực lượng của 4 phương diện quân gồm 1,4 triệu người, 31 ngàn pháo và súng cối, 5.200 xe tăng và pháo tự hành, gần 5.000 máy bay.
Chiến dịch được bắt đầu từ ngày 23-6 đến ngày 29-8-1944 thì coi như kết thúc, bước vào giai đoạn phát triển tiến công mới. Kết quả của chiến dịch là Hồng quân đã tiêu diệt những lực lượng chủ yếu của cụm tập đoàn quân Trung Tâm, giải phóng phần lớn lãnh thổ Bêlarút và thủ đô của nó là Minxcơ, giải phóng một phần Litva, giải phóng phần lớn Ba Lan.
Sau khi giải phóng hoàn toàn đất nước Liên bang Xô Viết, Hồng quân Liên Xô tiến vào giải phóng hoàn toàn Ba Lan, Rumani, Bungari, Nam Tư, Anbani và một phần đáng kể lãnh thổ Tiệp Khắc, Hungari và Áo. Ngày 19-1-1945, những đơn vị Hồng quân đầu tiên đã vượt qua đường biên giới cũ giữa Ba Lan và Đức, tiếp tục tiến tới sông Ôđe.
Ngay từ đầu mùa hè năm 1944, cuộc tổng tiến công vũ bão liên tiếp xuất hiện những thắng lợi vang dội của Hồng quân Liên Xô đã cho cả thế giới thấy rõ rằng sự diệt vong của phát xít Đức trong một tương lai gần là không thể đảo ngược được và hơn nữa là Hồng quân Liên Xô đã có thừa khả năng giải phóng cả châu Âu bị nô dịch mà không cần đến lực lượng vũ trang Đồng Minh. Chính điều đó đã buộc Anh - Mỹ không thể chây ì để vụ lợi ích kỷ được nữa mà phải vội vàng mở mặt trận thứ hai (nhằm mục đích cũng chỉ là… vụ lợi ích kỷ nốt!) ở châu Âu.
Mặt trận thứ hai ở châu Âu chính thức được mở ra vào ngày 6-6-1944 với cuộc đổ bộ bằng đường biển lớn nhất chiến tranh thế giới thứ hai, thường gọi là cuộc đổ bộ Noócmăngđi.
Kế hoạch chung của Bộ chỉ huy quân sự Đồng Minh là trong khi tiếp tục tiến công ở Ý nhằm tiến vào đồng bằng sông Pô, sẽ mở hai cuộc đổ bộ vào châu Âu bằng đường biển, nhanh chóng tiến về nước Đức và chiếm những mục tiêu quan trọng nhất ở châu Âu trước khi Hồng quân đến. Chính Sớcsin, thủ tướng Anh lúc đó, đã viết trong hồi ký của mình: “Tôi muốn rằng chúng ta sẽ đến trước người Nga ở một số khu vực Trung tâm châu Âu”.
Trong hai cuộc đổ bộ thì cuộc đổ bộ Noócmăngđi đóng vai trò chính và xảy ra trước. Có nhiều yếu tố chủ quan và khách quan tạo nên thành công cho cuộc đổ bộ Noócmăngđi. Về mặt chủ quan, là do công tác tình báo hiệu quả, hoạt động nghi binh đánh lạc hướng rất tốt, khâu tổ chức chuẩn bị chu đáo, trình độ trang bị kỹ thuật cao… của quân Đồng Minh. Về mặt khách quan là do Bộ chỉ huy Đức mắc sai lầm nghiêm trọng: phán đoán sai địa điểm đổ bộ để rồi tập trung những lực lượng chính ở chỗ khác, trên bờ biển Pađờ - Calé. Nhưng đây là nguyên nhân chủ yếu: cuộc đổ bộ xảy ra khi mà đại bộ phận lực lượng vũ trang của phát xít Đức đã bị thu hút và giam chân ở chiến trường Xô - Đức. Lúc đó lực lượng quân Đức tập trung ở phía Đông để chống đỡ áp lực tiến công mãnh liệt của Hồng quân là 228 sư đoàn và 23 lữ đoàn. Ở phía Tây chỉ còn vỏn vẹn 61 sư đoàn, trong số đó nhiều sư đoàn đã bị đánh tơi tả trên mặt trận Xô - Đức được ném về đây. 22 sư đoàn toàn người già và thiếu niên 17 tuổi chưa kịp được huấn luyện quân sự đầy đủ. Với lực lượng quân Đức như vậy, về mặt so sánh số lượng thôi, quân Đồng Minh đã trội hơn là: 2,1 lần về người, 2,2 về máy bay chiến đấu, 2,2 lần về xe tăng, hơn hoàn toàn áp đảo về tàu chiến, ngoài ra còn một lực lượng du kích đáng kể của phong trào kháng chiến do Đảng Cộng Sản Pháp lãnh đạo đang hoạt động giam chân không ít lực lượng quân Đức.
Mờ sáng ngày 6-6, suốt 8 tiếng đồng hồ, không quân Đồng Minh đã ném 9.400 tấn bom, trong đó có 4.200 tấn bom cỡ lớn xuống phòng tuyến Đức ở khu vực vịnh Xen. Đến 6 giờ 30, dưới sự chi viện của xe tăng lội nước, các tốp xung kích bắt đầu đổ bộ, đánh chiếm các bàn đạp. Trong ngày đầu, 5 sư đoàn bộ binh đã họp quân được với lực lượng đổ bộ đường không. Ngày 24-7, một bàn đạp rộng 100 km vào sâu từ 30 đến 40 km đã hình thành với sự tập trung của 37 sư đoàn và 13 lữ đoàn quân Đồng Minh. Ngày 25-7, quân Đồng Minh bắt đầu tiến công vào các khu vực nước Pháp, Bỉ và Hà Lan. Đối diện với lực lượng đó là 29 sư đoàn Đức đã rệu rã.
Tập đoàn quân số 1 của Mỹ đánh đòn đột kích chính ở phía tây Xenlô trên một địa đoạn 8 km, chọc thủng được tuyến phòng ngự của quân Đức, tiến đến sông Xêlium, tạo ra điều kiện thuận lợi cho cuộc tiến công lên bán đảo Brơtanhơ (ở đây, sau lưng quân Đức có 45 ngàn du kích Pháp đang hoạt động) và cho việc đánh vu hồi cánh trái tập đoàn quân 7 của Đức. Ngày 1-8, tập đoàn quân số 3 của Mỹ bước vào chiến đấu và ngày 6-8 thì chiếm được thành phố Lavan.
Sự phát triển tiến công có phần chậm chạp của quân Đồng Minh đã làm cho Bộ chỉ huy Đức tập trung được ở phía Đông các thành phố Vitơ và Moócten một lực lượng gồm 12 sư đoàn và mờ sáng ngày 17-8 tổ chức cuộc phản đột kích vào Avơrăngxơ, nhằm tiến ra phía biển, chia cắt tập đoàn quân số 3 của Mỹ. Tuy nhiên, cuộc phản đột kích đó do không được yểm trợ bằng không quân đầy đủ nên không thu được kết quả.
Ngày 10-8 tập đoàn quân số 3 Mỹ và tập đoàn quân số 1 Canađa nhận lệnh bao vây tập đoàn quân Phalesơ của Đức. Do lực lượng quá ít và cũng một phần do sai lầm chiến thuật mà cuộc bao vây không kịp thời: mãi tới ngày 19-8, khi các sư đoàn xe tăng Đức còn khả năng chiến đấu rút về Xen rồi thì vòng vây mới được khép kín. Ba ngày sau đó, thêm một lực lượng khoảng 30 - 35 ngàn người nữa của quân Đức cũng thoát được vây.
Sau thất bại ở Phaledơ, quân Đức bắt đầu rút lui chung trên toàn tuyến. Quân Đồng Minh truy kích hối hả đến ngày 16-8 thì đến được dải Loarơ và Xen.
Nhân dân lao động Pari nổi lên khởi nghĩa vào giữa tháng 8 và đến ngày 19-8 thì giải phóng thủ đô. Ngày 25-8, quân Đồng Minh tiến vào Pari.
Ngày 15-8, quân Đồng Minh tổ chức cuộc đổ bộ thứ hai lên bờ biển phía đông Tulông, miền Nam nước Pháp. Sau khi đổ bộ, với ưu thế tuyệt đối về lực lượng và phương tiện, tập đoàn quân số 7 của Mỹ tiếp tục truy kích quân Đức đang rút lui, đến giữa tháng 9 thì hợp quân được với tập đoàn quân số 3 của Mỹ. Một mặt trận dày đặc quân Đồng Minh đã hình thành từ Pađờcale đến Địa Trung Hải.
Trong lúc đó, các tập đoàn quân Mỹ - Anh từ Xen đã tiến đến Díchphơridơ nhưng không đột phá được nó trong hành tiến. Quân Đức, sau khi rút lui về phía nam Hà Lan và đường ranh giới Díchphơridơ, đã tổ chức phòng thủ quyết liệt. Một chiến dịch đột phá phòng ngự quân Đức ở đây của quân Đồng Minh đã xảy ra từ ngày 17 đến ngày 26-9-1944. Quân Đồng Minh đã tổ chức đổ bộ đường không xuống khu vực tổ chức phòng ngự của quân Đức trên một chiều sâu từ 30 đến 90 km, nhằm đánh chiếm các bến phà, đánh phá hậu phương quân Đức, hỗ trợ cho lực lượng tiến công ở hướng chính diện. Trong khi các sư đoàn đổ bộ ở chiều sâu 30 đến 60 km về cơ bản hoàn thành nhiệm vụ thì sư đoàn đổ bộ đường không số 1 của Anh và lữ đoàn dù của Ba Lan đổ bộ xuống vùng Ácnem, cách mặt trận 90 km đã bị quân Đức đánh tan tác. Ở hướng chính diện, quân Đồng Minh đã để các lực lượng đột kích bị yếu sườn và quân Đức ngay trong ngày đầu đã điều lực lượng từ các địa đoạn khác đánh vào sườn quân Đồng Minh khi đã lọt vào trận địa phòng ngự. Nhìn chung, chiến dịch này của quân Đồng Minh đã là một thất bại.
Dù sao thì sau chiến dịch đó, với ưu thế quân sự của mình, quân Đồng Minh đã tiến được đến biên giới nước Đức trên địa đoạn từ Straxơbuốc đến Ácnem.
Ở Ý, quân Đồng Minh đạt được kết quả ít hơn. Suốt năm 1944, lực lượng Đồng Minh không tiến được đến đồng bằng sông Pô. Ngày 4-6, họ đánh chiếm được Rôm và cuối năm thì tiến đến tuyến Raven, Pietrasăng và bị quân Đức chặn lại ở đó suốt mùa đông.
Cuối năm 1944, quân Đức đã tương đối ổn định được mặt trận phía Tây.
Với mục đích đánh tan quân Đồng Minh ở Bỉ và Hà Lan, buộc Anh - Mỹ phải ký kết một hiệp ước riêng lẻ hoặc làm cho tình hình ở đó ổn định một thời gian dài, tạo điều kiện tăng cường lực lượng cho mặt trận Xô - Đức nóng bỏng, Bộ chỉ huy Đức đã bí mật tập trung tại khu vực đồi núi Ácđen một lực lượng gồm 22 sư đoàn và 2 lữ đoàn để tổ chức một chiến dịch đột kích mạnh. Đòn đột kích được tiến hành ngày 16-12-1944. Trong những ngày đầu, quân Đức chọc thủng tuyến phòng ngự Mỹ, tiến sâu được 30 - 40 km. Quân Đồng Minh cấp tốc tổ chức lại lực lượng, tăng cường phòng thủ những cứ điểm quan trọng, đánh phá trục giao thông bằng không quân oanh tạc, đột kích quyết liệt. Hành động tích cực của quân Đồng Minh đã làm chậm được bước tiến của quân Đức ở Ácđen. Tuy nhiên tình hình vẫn căng thẳng. Một tập đoàn lớn quân Đức trên một địa đoạn 80 km đã thọc sâu được tới 100 km. Theo số liệu phía Đức, số tù binh Mỹ bị  bắt lên tới 30 ngàn người. Thêm nữa, mờ sáng ngày 1-1-1945, quân Đức đã tiến hành các trận đột kích mạnh mẽ vào các cánh sườn của tập đoàn quân số 7 Mỹ ở Angiátsơ và tiến được 30 km. Tình hình đã nghiêm trọng đến nỗi tướng Mỹ là Đ. Páttơn (D. Patton) đã viết vào nhật ký của ông ta ngày 4-1-1945: “Thậm chí chúng ta có thể thua cuộc chiến tranh”. Ngay Aixenhao, khi điện về Oasintơn cũng nói rằng nếu không có sự giúp đỡ của quân đội Liên Xô thì quân đội Mỹ có thể lâm vào một tình thế cực kỳ khó khăn.
Trước tình hình đó, ngày 6-1-1945, thủ tướng Anh là Sơớcxin đã gửi công hàm cho Xtalin, đề nghị: “Ở phía tây đã diễn ra những trận đánh rất ác liệt và vào bất kỳ lúc nào Bộ tổng chỉ huy cũng có thể yêu cầu có những giải pháp quan trọng. Với kinh nghiệm của mình hẳn là Ngài hiểu rõ tính chất nguy hiểm của tình hình khi cần phải bảo vệ một mặt trận rộng lớn sau khi đã mất thế chủ động trong một thời gian… Tôi rất biết ơn nếu tôi được Ngài cho biết là liệu chúng tôi có thể trông cậy được không vào một cuộc tiến công lớn của Nga ở mặt trận Vixtuyn hoặc tại một nơi nào đó trong tháng 1 (1945) hoặc vào những ngày khác mà Ngài có thể cho biết”.
Ngày 7-1, Xtalin đã trả lời Sơớcsin: “Chúng tôi đang chuẩn bị một cuộc tiến công, nhưng thời cơ chưa thuận lợi cho cuộc tiến công đó. Tuy nhiên, lưu ý với tình thế Đồng Minh của chúng tôi tại mặt trận phía Tây, Bộ tổng chỉ huy đã quyết định tăng nhanh tốc độ chuẩn bị và, bất chấp vấn đề thời cơ, mở những cuộc tiến công to lớn trên toàn mặt trận trung tâm không chậm quá nửa cuối tháng 1. Mong Ngài có thể tin chắc rằng chúng tôi sẽ làm tất cả những gì có thể làm được để giúp cho quân đội Đồng Minh quang vinh của chúng tôi”.
Ngày 12-1-1945, như Xtalin đã hứa, Hồng quân Liên Xô mở chiến dịch tiến công lớn Vixtuyn (Vistule) - Ôđe sớm hơn kế hoạch 8 ngày, buộc phát xít Đức phải tung tập đoàn quân xe tăng SS (lực lượng tinh nhuệ) số 6 về phía Đông rồi sau đó tung thêm 16 sư đoàn nữa. Trong vòng 23 ngày, Hồng quân đã đánh tan một lực lượng phòng ngự to lớn của quân Đức, tiến sâu vào nước Đức 500 km, đến sông Ôđe. Nhờ kết quả này, Bộ chỉ huy Đức buộc phải thừa nhận rằng không còn khả năng duy trì tiến công ở phía Tây đánh vào Đồng Minh. Ngày 20-1, quân Đức phải ngừng tấn công. Ngày 28-1, những đơn vị quân Đức cuối cùng đã rút về vị trí xuất phát cũ và chuyển sang phòng ngự.
Sau thất bại ở Ácđen, mãi tới tháng 2-1945, quân Đồng Minh mới có thể bắt đầu tổ chức tiến công và tiến được đến bờ phía tây sông Ranh. Sau khi vượt sông Ranh thắng lợi, quân Đồng Minh tiến công hối hả về trung tâm nước Đức. Ngày 1-4, tại Ruarơ, một tập đoàn quân Đức gồm 325 ngàn người đã bị quân Đồng Minh bao vây, buộc phải đầu hàng. Sau đó quân Đồng Minh nhanh chóng tiến đến bờ sông Enbơ mà không gặp phải sự kháng cự nào của quân Đức. Ngày 25-4, các đơn vị đi trước của tập đoàn quân số 1 Mỹ đã gặp bộ đội của phương diện quân Ucraina 1 của Hồng quân ở vùng Tôrôgau.
Ngày 4-5, với sự giúp đỡ tích cực của nhân dân Ý, miền bắc Ý được giải phóng, cả nước Ý đến đây thoát khỏi ách phát xít Ý - Đức. Phát xít Ý bị tiêu diệt.
Sau khi Ba Lan đã hoàn toàn giải phóng thì nhiệm vụ chủ yếu và cuối cùng của Hồng quân Liên Xô là đánh chiếm Béclin, sào huyệt của Đức quốc xã. Trong hội nghị Yanta đang diễn ra (từ ngày 4 đến ngày 12-2-1945 giữa ba nước Liên Xô, Mỹ, Anh nhằm xác định kế hoạch chung trong việc đánh bại chủ nghĩa phát xít, thỏa thuận những vấn đề thế giới sau chiến tranh, thành lập tổ chức Liên Hiệp Quốc…), Hồng quân đã ở cách Béclin 60 km, còn quân Anh - Mỹ cách 500 km. Tướng Đônôvan, trùm tình báo chiến lược Mỹ, đã liên hệ với các chỉ huy cấp cao Đức, thỏa thuận về việc quân Đức bỏ ngỏ mặt trận phía Tây để quân Anh - Mỹ tiến nhanh về phía Đông, hy vọng chiếm Béclin trước Liên Xô. Đọc những tin tức do lực lượng tình báo Xôviết gửi về mà Xtalin trao cho, Giucốp đã nhận xét: “Không loại trừ bọn Hitle mở đường cho quân đội Đồng Minh đến Béclin”.
Ngày 2-4-2945, Xtalin ký lệnh cho phương diện quân Bêlarút 1 do Giucốp chỉ huy, đánh chiếm Béclin và tiến đến bờ sông Enbơ trong vòng 12 đến 15 ngày.
Chiến dịch Béclin là một chiến dịch tấn công binh chủng hợp thành vĩ đại. Để tiến hành chiến dịch, Đại bản doanh Xôviết đã điều động bộ đội của các phương diện quân Bêlarút 1 và 2, phương diện quân Ucraina 1, tập đoàn không quân tầm xa 18, hạm đội sông Đơnhiép, một bộ phận hạm đội Bantích, tập đoàn quân 1 và 2 của Ba Lan. Tổng cộng có tới 2,5 triệu người, trên 42 ngàn pháo và súng cối, 6.250 xe tăng và pháo tự hành, 7.500 máy bay chiến đấu. So với quân Đức, Hồng quân chiếm ưu thế gấp 2,5 lần về người, gấp 4,2 lần về pháo, gấp 4,1 lần về xe tăng và pháo tự hành, gấp 2,3 lần về máy bay.
Ngày 16-4-1945, Hồng quân Liên Xô bắt đầu đột phá tuyến phòng ngự Ôđe - Nâyxe, mở màn chiến dịch lớn Béclin. Sau 30 phút pháo cấp tập và máy bay oanh tạc dữ dội vào trận địa phòng ngự của đối phương, bật 140 đèn pha cực mạnh đặt cách nhau 200 m với tổng công suất lên tới 100 tỷ oát làm lóa mắt quân Đức, bộ binh và xe tăng Hồng quân xông lên, vượt qua dải phòng ngự thứ nhất không gặp sự kháng cự đáng kể nào. Quân Đức đã rút về dải phòng ngự thứ hai (các cao điểm Dêêlốp). Tại đây đã xảy ra những trận đánh dữ dội. Quân Đức bổ sung thêm 4 sư đoàn làm cho cuộc chiến đấu thêm ác liệt. Tuy nhiên, trong vòng một ngày, dải phòng ngự thứ hai đã bị chọc thủng.
Ngày 18-4, Hồng quân chọc thủng hai trận địa trung gian sau giải phòng ngự thứ hai và đến cuối ngày 19-4 thì hoàn thành việc đột phá dải thứ 3 của tuyến phòng ngự Ôđe. Trên cánh phải tập đoàn quân 47 và 3 đã tiến quân thắng lợi, chuẩn bị điều kiện vu hồi Béclin từ phía bắc và tây - bắc. Trên cánh trái, đã tạo điều kiện thuận lợi để đánh vu hồi tập đoàn Phơrăngphua Guben của Đức từ phía bắc và chia cắt tập đoàn ra khỏi Béclin. Ngày 22-4, tất cả các tập đoàn quân của cụm đôt kích thuộc phương diện quân Bêlarút 1 đã bắt đầu chiến đấu trong thành phố.
Phát xít Đức quyết tâm phòng thủ Béclin đến khả năng cuối cùng với khẩu hiện kích động của Hítle: “Trao Béclin cho quân Mỹ - Anh tốt hơn là để nó lọt vào tay quân Nga”; “các sĩ quan Đức phải dốc mọi cố gắng làm cho quân Nga không chiếm nổi Béclin”. Cũng trong ngày 22-4, Hítle ra lệnh cho tập đoàn quân số 12 (gồm 10 sư đoàn) đang hoạt động chống quân đội Mỹ phải quay về mặt trận phía đông, hợp quân với tập đoàn quân số 9 để tiến hành một cuộc đột kích gặp gỡ; đồng thời cụm tập đoàn quân của Xđâynerơ (gồm 5 sư đoàn) phải tập kích vào bộ đội Hồng quân đang bao vây thành phố từ phía bắc. Nhưng tất cả những ý đồ quân sự đó của quân Đức đều bị đánh ngăn chặn mạnh mẽ và không thực hiện được.
Ngày 24-4 bộ đội phương diện quân Bêlarút 1 và Ucraina 1 đã hợp quân với nhau ở đông - nam Béclin; kết thúc việc bao vây tập đoàn Phơrăngphua Guben của Đức. Ngày 25-4, bộ đội của hai phương diện quân đó cũng đã hội quân với nhau ở tây Béclin, kết thúc việc bao vây toàn bộ quân Đức phòng thủ ở Béclin.
Cuộc chiến đấu trong thành phố đã xảy ra rất khốc liệt. Tiêu biểu là cuộc đánh chiếm tòa nhà Quốc hội Đức. Cuộc chiến đấu đó xảy ra vào ngày 30-4 với hàng loạt cuộc xung phong của Hồng quân không đạt kết quả. Đến 18 giờ cùng ngày Hồng quân mới đột nhập được vào bên trong tòa nhà nhưng phải chiến đấu ác liệt để giành giật từng căn phòng, từng hành lang. Tối hôm đó, sau khi kết thúc trận đánh đẫm máu, lá cờ chiến thắng của Hồng quân Liên Xô đã phấp phới bay trên nóc tòa nhà Quốc hội Đức. Hitle và Gơben (Bộ trưởng bộ tuyên truyền của Đức quốc xã) đã tuyệt vọng, tự sát từ buổi chiều.
Ngày 2-5, lực lượng phòng thủ còn lại của quân Đức ở Béclin (khoảng 70 ngàn người) hạ vũ khí.
Ngày 9-5-1945, tại thị trấn Cácxơkhoóctơ, ngoại ô Béclin, thống chế Tổng tư lệnh quân đội Đức là Câyten đã ký vào văn bản đầu hàng vô điều kiện. Phát xít Đức nát bét đầu, trở thành hồn ma lởn vởn đến tận ngày nay. Sau chiến thắng Béclin, nguyên soái Giucốp được tặng danh hiệu Anh hùng Liên Xô lần thứ ba. Về sau, ông lại được phong danh hiệu Anh hùng Liên Xô một lần nữa. Không biết ở Liên Xô, có còn ai được tặng danh hiệu cao quý này tới bốn lần hay không?
Chỉ riêng trận công phá Béclin lực lượng Hồng quân đã có đến gần 300 ngàn người thương vong và mất tích. Hầu hết trong số họ đã là vô danh trước lịch sử. Đó phải chăng là mặt trái phi nghĩa của mặt phải chiến thắng? Nếu không có những mất mát hy sinh to lớn như thế thì làm sao có được chiến thắng lừng lẫy? Hay đừng chiến đấu và mưu cầu chiến thắng trước bạo ngược, hung tàn? Nhưng nếu xử sự như thế thì đương thời ít mất mát hy sinh hơn hay nhiều mất mát hy sinh hơn và hậu thế nhân loại sẽ đi về đâu, có về được miền cực lạc trong niềm tin tôn giáo? Và Đức Huyền Diệu - được cho là lẽ phải, là sự ưu tiên lựa chọn của nhân loại để sống còn, có còn được thể hiện ra như là một sức mạnh vô địch nữa không?
Trận đánh Béclin đã có thể được coi là trận cuối cùng của chiến trường Xô - Đức, kết thúc “Cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại”. Tuy nhiên, cuộc tạo dựng nên núi xương sông máu của quân dân Liên Xô nói riêng và của cả nhân loại nói chung vẫn chưa ngừng lại mà còn đang chờ bồi đắp thành khổng lồ hơn nữa, đổ chảy tràn trề hơn nữa vì chiến tranh thế giới thứ hai vẫn chưa kết thúc dù chiến sự ở Bắc - Phi đã chấm dứt (vào ngày 12-5-1943 với sự hạ vũ khí của quân Đức trước quân Mỹ - Anh) và chiến trường châu Âu đã im tiếng súng.
 
(Còn nữa)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét