THỰC TẠI VÀ HOANG ĐƯỜNG (III)
ĐẠI CHÚNG
----------------------------------------
PHẦN III
Nguồn cội
“Đừng
chê cõi trần nhơ
Đừng khen cõi trần đẹp
Cõi trần là thản nhiên
Chỉ có đời nhơ, đẹp
Trần Hạnh Thu
CHƯƠNG IX:
THỜI CUỘC
“Nếu như sau cái đêm tối tăm của thời
trung cổ, các ngành khoa học đột nhiên sống lại với một sức mạnh không ngờ và bắt
đầu phát triển nhanh chóng một cách kỳ diệu, thì sự kỳ diệu ấy cũng chính là nhờ
sản xuất mà có.”
Ph. Ăngghen
Hậu quả của cuộc
chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918) cùng với sự thành công của Cách mạng
tháng Mười Nga đã kích thích sự nổi dậy mạnh mẽ phong trào đấu tranh của nhân dân
lao động toàn thế giới. Năm 1919, ở Hungari đã thành lập được chính quyền Xô viết
và tồn tại 133 ngày. Ở xứ Bavie (Đức) và Đông Xlôvaki cũng đã nổi dậy lật đổ chính
quyền, đòi thành lập chính quyền Xô viết. Ở nhiều nước tư bản khác như Anh, Pháp,
Mỹ… phong trào đấu tranh của công nhân cũng lan rộng, sôi nổi hơn. Tại châu Á,
châu Phi, châu Mỹ Latinh, ở nhiều nước thuộc địa và nửa thuộc địa như Triều Tiên,
Trung Quốc, Ấn Độ, Iran, Ai Cập, Braxin, Pêru, Cuba, Mêhicô…, phong trào chống
thực dân, đế quốc đòi độc lập dân tộc, dân chủ cũng diễn ra mạnh mẽ. Đặc biệt, ở
Mông Cổ, cuộc cách mạng nhân dân đã thành công đưa đến việc thành lập nhà nước
cộng hòa nhân dân.
Trước sự phát
triển của phong trào đấu tranh đó, tháng 3-1919, Quốc Tế Cộng Sản được thành lập
(còn gọi là Quốc Tế III). Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Lênin, Quốc Tế Cộng Sản
đẩy mạnh việc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin và kinh nghiệm của Cách mạng tháng
Mười ra toàn thế giới, thúc đẩy sự ra đời của các Đảng Cộng Sản và giúp đỡ
phong trào cách mạng các nước.
Trong bầu không
khí đấu tranh rộng khắp thời bấy giờ, tiếng vang của sự kiện Cách mạng tháng Mười
và cuộc chiến thắng oanh liệt trước thù trong giặc ngoài, giữ vững chính quyền
vô sản của Nhà nước Xô viết ở nước Nga không thể không lan truyền đến tai những
nhà hoạt động yêu nước Việt Nam đang khắc khoải tìm cách giải thoát dân tộc mình
khỏi đói khổ, uất ức dưới cái ách bạo ngược thực dân - nửa phong kiến.
Một triều đình
phong kiến khi ở giai đoạn phản động nhất của nó, nghĩa là khi quyền lợi ích kỷ
của nó đối kháng cực độ với quyền lợi Đại Chúng và sẵn sàng phản bội lại đất nước,
bán rẻ đất nước vì quyền lợi ích kỷ ấy thì nó chẳng khác gì giặc ngoại xâm, thậm
chí còn tệ hơn. Lúc đó, chế độ thực dân của kẻ xâm lược hóa ra lại tiến bộ hơn
so với chế độ phong kiến đã thối nát. Vì thế mà trong thời kỳ đầu dưới chế độ
thực dân, nhiều nhà cách mạng đã lầm tưởng “lòng tốt” của chế độ ấy và muốn dựa
vào nó để thủ tiêu triều đình phong kiến tàn dư (mà chính thực dân âm mưu cho nó
tồn tại!).
Đối với giai cấp
tư sản bản địa thời kỳ ấy thì tìm kiếm tình yêu thương ở nó bằng tuyên truyền, vận động
chính trị là vô vọng; đối với chủ nghĩa thực dân thì xin xỏ dân chủ, dân quyền
(chưa cần nói đến độc lập dân tộc) bằng giải thích suông là ảo tưởng.
Bản chất tàn nhẫn
của chủ nghĩa thực dân, cùng với sự thất bại của các cuộc đấu tranh manh mún, cải
lương đã dẫn cuộc đấu tranh tư tưởng trong đội ngũ những chí sĩ yêu nước Việt
Nam đến kết quả nhất quán và cuối cùng này: chỉ có cuộc đấu tranh quần chúng rộng
lớn và phải bằng bạo lực cách mạng mới có thể đạt được độc lập dân tộc và qua đó
mới có thể nói đến dân chủ, dân quyền, nghĩa là phải có một lực lượng đủ mạnh đánh
đuổi được kẻ cướp cùng với chủ nghĩa thực dân của nó ra khỏi bờ cõi, đồng thời đánh
đổ luôn cái “nửa phong kiến” ma quái kia (mà không chừng không đánh, cái chỗ dựa
thực dân đã không còn thì nó cũng tự động tan biến!).
Nhưng bằng cách
nào? Cách mạng tháng Mười đã soi rọi đến!
Và khí thiêng sông
núi Việt Nam đã hun đúc nên một đứa con đại anh hùng của dân tộc Việt nữa để đặt
lên vai người đó cái trách nhiệm như Phù Đổng Thiên Vương, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi
- Nguyễn Trãi… đã từng gánh vác: Giải phóng đất nước Việt, giành độc lập tự do
cho dân tộc Việt, thu giang sơn về một mối.
Ngày 19-5-1890,
tại xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, miền Trung đất Việt, trong một
gia đình nhà nho yêu nước nghèo, một bé trai chào đời và được đặt tên là Nguyễn
Sinh Cung. Lớn lên ở một địa phương có truyền thống yêu nước, chống ngoại xâm và
nhờ tư chất thông minh mà hấp thụ được trực tiếp cái tinh thần ấy cũng như tư tưởng
đấu tranh từ thân phụ mình là Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc cùng bạn bè nhà nho cách
mạng của ông, Cung đã sớm nhận thức được cảnh nước mất nhà tan và nuôi chí đánh
đuổi thực dân, giành lại đất nước cho đồng bào.
Vào tuổi thiếu
niên, khi vào học ở Huế, Cung lấy tên là Nguyễn Tất Thành như một quyết tâm cứu
nước. Ở đây, Tất Thành đã tích cực tham gia vào phong trào đấu tranh chống sưu
cao thuế nặng trong hàng ngũ học sinh.
Năm 1910, Nguyễn
Tất Thành đến Phan Thiết (tỉnh Bình Thuận) và dạy học ở trường Dục Thanh.
Năm 1911, Nguyễn
Tất Thành vào Sài Gòn và từ bến Nhà Rồng, xuống một tàu buôn Pháp, nhận chân phụ
bếp, lấy tên là Ba, với mục đích là bôn ba ra thế giới để trực tiếp được thấy,
nghe, học hỏi, từ đó mà có thể phát hiện con đường khả dĩ đánh đuổi thực dân Pháp;
giải phóng đất nước.
Anh Ba đã đi hầu
như khắp thế giới, đến rất nhiều nước ở các châu Á, Âu, Phi, Mỹ Latinh. Trước mắt
anh Ba, đại bộ phận quần chúng đâu đâu cũng cực khổ, cả ở những thuộc địa, cả ở
những nước tự xưng là đi khai hóa văn minh, và đâu đâu cũng có sự phản kháng, đấu
tranh. Sẵn có lòng nhân hậu và qua cuộc sống lao động hòa mình với xung quanh,
cuộc đi đó đã cho anh Ba nhận thức được nhiều điều quan trọng cho bước đường
sau này, nhất là tính phổ biến và tinh thần quốc tế của các cuộc đấu tranh chống
áp bức bất công của nhân dân lao động thế giới.
Cuối năm 1917,
anh Ba từ Anh trở lại Pháp hoạt động trong phong trào Việt kiều yêu nước, phong
trào công nhân Pháp. Năm 1919, anh Ba lấy tên là Nguyễn Ái Quốc và thay mặt những
người Việt Nam yêu nước tại Pháp gửi tới Hội nghị Vécxây (Versailles) bản yêu sách
đòi quyền tự do cho nhân dân Việt Nam và cũng là quyền tự do cho nhân dân các nước
thuộc địa.
Đầu thế kỷ XX,
vấn đề dân tộc và thuộc địa dần mang tính thời sự nổi trội và vì thế cũng trở
thành một trong những vấn đề chính yếu trong đường lối chiến lược và sách lược
của Quốc Tế Cộng Sản. Vấn đề này đã được đặt ra ngay từ Đại hội lần thứ I của
Quốc Tế Cộng Sản (1919).
Lênin đã đặc biệt
theo dõi phong trào giải phóng dân tộc ở các nước chậm phát triển và thuộc địa,
nhất là khu vực châu Á. Ông cho rằng mâu thuẫn cơ bản của thời đại gồm: một là
mâu thuẫn giữa một bên là giai cấp tư sản đế quốc và một bên là giai cấp vô sản
quốc tế đã có nhà nước của mình trên 1/6 địa cầu (ý nói Nhà nước Xô viết Nga);
hai là mâu thuẫn giữa các dân tộc đế quốc chủ nghĩa đi bóc lột và các dân tộc
thuộc địa, phụ thuộc bị bóc lột. Do sự vận động của hai mâu thuẫn cơ bản đó,
giai cấp vô sản quốc tế và các dân tộc bị áp bức phải giúp đỡ nhau, đoàn kết lại
xung quanh Nhà nước Xô viết để cùng nhau đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc. Và
trong quá trình đấu tranh cách mạng, với sự giúp đỡ của giai cấp vô sản các nước
tiên tiến, các dân tộc lạc hậu, trải qua các giai đoạn phát triển nhất định, có
thể tiến lên chủ nghĩa xã hội, không qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
Trên tinh thần
nghiên cứu đó, Lênin đã viết “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân
tộc và thuộc địa” (gọi tắt là “Những luận cương”) vào tháng 6-1920 để làm cơ sở
thảo luận về vấn đề đặc biệt quan trọng này tại Đại hội lần thứ II của Quốc Tế
Cộng Sản. “Những luận cương” được công bố trên tạp chí “Quốc Tế Cộng Sản và được
dịch ra nhiều thứ tiếng. Báo “Nhân đạo” (Pháp) đăng tải trong hai số ra ngày 16
và 17-7-1920.
Tiếp xúc nội
dung của “Những luận cương”, Nguyễn Ái Quốc đã xúc động sâu sắc vì tìm thấy ở đây
con đường cứu nước mà ông đã khao khát tìm tòi khắp thế giới suốt cả quãng đời
thanh xuân và đã thốt lên: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết
cho chúng ta! Đây là con đường giải phóng chúng ta”. Cũng do tác động của Cách
mạng tháng Mười Nga và “Những luận cương” mà vào tháng 12 năm 1920, khi tham dự
Đại hội XVIII của Đảng Xã hội Pháp họp ở thành phố Tua, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ
phiếu tán thành Đảng gia nhập Quốc Tế Cộng Sản và trở thành một trong những người
sáng lập Đảng Cộng Sản Pháp. Nguyễn Ái Quốc khẳng định: “Muốn cứu nước và giải
phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Khẳng định như thế có nghĩa, con đường cách mạng vô sản chỉ như là cứu cánh, phương tiện duy nhất nếu muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, chứ không phải để xây dựng dân giàu nước mạnh!
Năm 1921, cùng
với một số người yêu nước của các thuộc địa Pháp, Nguyễn Ái Quốc sáng lập Hội
Liên hiệp thuộc địa. Tháng 4-1922, Hội xuất bản tờ báo “Người cùng khổ” (Le Paria)
nhằm đoàn kết, tổ chức và hướng dẫn phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các
thuộc địa. Nhiều bài báo của Nguyễn Ái Quốc đã được đưa vào tác phẩm “Bản án chế
độ thực dân Pháp”, xuất bản năm 1925. Đây là tác phẩm nghiên cứu, vạch trần bản
chất bóc lột của thực dân, đế quốc.
Tháng 6-1923,
Nguyễn Ái Quốc sang Liên Xô (tên gọi tắt của Liên bang Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa
Xô viết) để học hỏi, tìm hiểu, nghiên cứu cách mạng vô sản Nga và tham gia hoạt
động trong Quốc Tế Cộng Sản. Tại Đại hội V của Quốc Tế Cộng Sản, Nguyễn Ái Quốc
đã đọc một bản tham luận quan trọng, bảo vệ quan điểm của Lênin về vấn đề dân tộc
và thuộc địa. Trong thời gian này, ngoài công việc trong Quốc Tế Cộng Sản và cùng
với việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc cũng luôn theo
dõi diễn biến tình hình đấu tranh cách mạng trong nước.
Ngày 11-11-1924,
với tư cách ủy viên Ban Phương Đông của Quốc Tế Cộng Sản và ủy viên Đoàn Chủ tịch
Quốc Tế Nông dân, Nguyễn Ái Quốc về đến Quảng Châu (Trung Quốc). Tại đây, ông vừa
làm việc trong đoàn cố vấn Bôrôdin của chính phủ Liên Xô bên cạnh chính phủ Tôn
Dật Tiên, vừa tìm hiểu và tiếp xúc với những người Việt Nam yêu nước sang, chọn
một số thanh niên yêu nước thuộc tổ chức Tâm tâm xã, trực tiếp mở lớp huấn luyện,
đào tạo cấp tốc. Các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc được tập hợp lại, in thành cuốn
sách “Đường Cách Mệnh”, một tác phẩm quan trọng đặt cơ sở tư tưởng cho đường lối
cách mạng Việt Nam. Nội dung cơ bản của tác phẩm này là:
- Muốn cứu nguy
dân tộc thì phải làm cách mạng. Cuộc cách mạng tháng Mười Nga là triệt để nhất.
Cho nên Cách mạng Việt Nam
muốn thành công thì phải noi theo Cách mạng tháng Mười Nga.
- Động lực của
Cách mạng Việt Nam
chủ yếu là Công - nông. Còn học sinh, tiểu thương, điền chủ nhỏ chỉ là bầu bạn
của Cách mạng.
- Cách mạng Việt
Nam là bộ phận của Cách mạng thế giới, do đó đoàn kết quốc tế là vấn đề quan trọng
đảm bảo cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam, bên cạnh tinh thần tự lực tự cường,
tự chủ làm cách mạng.
- Muốn đưa cách
mạng đến thắng lợi thì phải có Đảng cách mạng. Muốn Đảng vững mạnh thì phải lấy
chủ nghĩa Mác - Lênin làm kim chỉ nam.
Tháng 6-1925,
Nguyễn Ái Quốc thành lập tổ chức “Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí Hội” tại
Quảng Châu, với nòng cốt là những thanh niên đã qua huấn luyện; ra tuần báo
“Thanh niên” nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về Việt Nam, chuẩn bị cho việc
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam sau này. Một số thanh niên đã qua huấn luyện cùng
lần lượt được phái về nước hoạt động tuyên truyền, vận động cách mạng.
Hà Nội, từ đó
trở thành nơi đưa đón thanh niên yêu nước từ trong nước sang Quảng Châu dự lớp
huấn luyện, từ Quảng Châu về nước hoạt động và cũng là nơi rất sớm đón nhận sách
báo, tài liệu cách mạng ở Pháp sang, ở Trung Quốc về theo con đường bí mật, bất
hợp pháp. Đặc biệt, các tác phẩm của Nguyễn Ái Quốc như “Bản án chế độ thực dân
Pháp”, “Đường cách mệnh”, báo “Thanh niên”… đã được người dân Hà Nội khao khát
tìm đọc, bất chấp sự theo dõi, khủng bố của thực dân Pháp.
Cuối năm 1926,
chi bộ “Việt Nam
thanh niên cách mạng đồng chí Hội” được thành lập tại một địa điểm ở làng Dịch Vọng
(Từ Liêm). Đến năm 1927, cơ sở của Hội được mở rộng. Tháng 3-1927, kỳ bộ Bắc Kỳ
của Hội được thành lập và cơ quan chỉ đạo được đặt ngay tại Hà Nội để từ đó đẩy
mạnh việc tuyên truyền, phát triển tổ chức ở các địa phương. Tháng 6-1927, tỉnh
bộ Hà Nội của Hội được thành lập và đẩy mạnh hoạt động (theo chủ trương của kỳ
bộ Bắc Kỳ thì phạm vi hoạt động của tỉnh bộ Hà Nội gồm các tỉnh Hà Đông, Sơn Tây,
Vĩnh Yên, Phúc Yên, Hưng Yên, Phú Thọ và huyện Gia Lâm thuộc tỉnh Bắc Ninh cũ).
Tháng 5-1927,
Nguyễn Ái Quốc từ Quảng Châu trở lại Mátxcơva, sau đó đi Béclin (Đức), đi Brúcxen
(Bỉ), tham dự phiên họp mở rộng của Đại hội đồng Liên đoàn chống chiến tranh đế
quốc, rồi đi Ý. Từ tháng 7-1928 đến tháng 11-1929, Nguyễn Ái Quốc hoạt động
trong phong trào Việt kiều yêu nước ở Xiêm (Thái Lan), tiếp tục chuẩn bị cho sự
ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Từ năm 1928, thực
hiện chủ trương “vô sản hóa”, nhiều hội viên của Hội đã xâm nhập vào đời sống công
nhân, đến trực tiếp làm việc tại các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền… để tự cải tạo mình
thành những người cách mạng có lập trường kiên định của giai cấp vô sản, đồng
thời tích cực tuyên truyền, vận động, lôi kéo công nhân. Nhờ thế, phong trào đấu
tranh ngày càng nâng cao cả về số lượng lẫn chất lượng. Đó cũng là kết quả bước
đầu của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong
trào yêu nước ở Việt Nam.
Thực tiễn phát
triển của phong trào công nhân lúc này đã cho thấy tổ chức “Thanh niên cách mạng
đồng chí Hội”, không còn đủ khả năng lãnh đạo; đòi hỏi phải có một chính đảng
thực sự của giai cấp vô sản. Cuối tháng 3-1929, để đáp ứng tình hình đó, những
phần tử tiên tiến trong kỳ bộ Bắc Kỳ và tỉnh bộ Hà Nội là Ngô Gia Tự, Nguyễn Đức
Cảnh… đã họp tại nhà số 5 Đ, phố Hàm Long, gấp rút thành lập ra một chi bộ Cộng
sản. Lần đầu tiên một chi bộ Cộng sản đã xuất hiện trên lãnh thổ Việt Nam.
Tại Đại hội kỳ
bộ Bắc Kỳ lần thứ II (28-3-1929), chủ trương thành lập Đảng Cộng sản được nhiệt
liệt tán thành. Nhưng đến Đại hội của “Thanh niên cách mạng đồng chí Hội” toàn
quốc họp ở Hương Cảng (Trung Quốc) ngày 1-5-1929, đề nghị thành lập Đảng Cộng sản
của đoàn Bắc Kỳ do Ngô Gia Tự làm trưởng đoàn đã bị bác bỏ. Ngay sau đó, đoàn Bắc
Kỳ bỏ Đại hội ra về, triệu tập cuộc họp tại chùa Hương Tuyết (Bạch Mai) bàn về
việc thành lập đảng. Ngày 17-6-1929, tại nhà số 312 phố Khâm Thiên, Đông Dương
Cộng sản Đảng chính thức được thành lập, chính cương và tuyên ngôn của Đảng được
công bố. Tờ báo Búa Liềm, cơ quan trung ương của Đảng, các tổ chức quần chúng của
Đảng cũng lần lượt ra đời tại Hà Nội. Tỉnh bộ Thanh niên cách mạng đồng chí Hội
chuyển thành Thành ủy lâm thời của Đông Dương Cộng Sản Đảng.
Sự ra đời của Đông
Dương Cộng sản Đảng đã có ảnh hưởng to lớn đến phong trào cách mạng trong cả nước.
Tháng 10-1929, An Nam Cộng sản Đảng ra đời ở Nam Kỳ. Tháng 1-1930, phái tả
trong Đảng Tân Việt ở Trung Kỳ cũng tự tổ chức thành Đông Dương Cộng sản Liên đoàn.
Chỉ trong một
thời gian ngắn, ba tổ chức Đảng Cộng sản nối tiếp nhau ra đời tại Việt Nam đã nói lên sự bức bách mang tính tất yếu phải
có một chính đảng vô sản để lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam.
Có lẽ, sự thất
bại trong đau thương nhưng hừng hực khí phách của cuộc khởi nghĩa chưa chín muồi
do Quốc Dân Đảng phát động đã báo hiệu kết thúc quá trình đấu tranh tư tưởng cùng
với trào lưu đấu tranh cách mạng cải lương, bất toàn, manh mún và không triệt để
của cách mạng Việt Nam; mở ra một thời kỳ mới đầy hy vọng nhờ qui tụ được về một
mối lực lượng quần chúng ngày càng đông đảo hơn, giác ngộ hơn, nhờ vào một đội
ngũ lãnh đạo trung kiên hơn, kinh nghiệm hơn qua quá trình hoạt động đấu tranh
yêu nước và cách mạng trước đó cũng như qua việc nhận thức ngày một sâu sắc
nguyên lý, lý tưởng của cách mạng vô sản, và nhất là nhờ có được một mục đích cách mạng cụ
thể, rõ ràng, phù hợp với nguyện vọng của Đại Chúng, đáp ứng được quyền lợi sát
sườn của quần chúng cần lao Việt Nam, mà công đầu vạch đường mở lối đã gắn liền
với cái tên, nghe đã rung động lòng người: Nguyễn Ái Quốc.
Ngày 3-2-1930,
tại Hồng Công (Trung Quốc), Nguyễn Ái Quốc đã chủ trì Hội nghị thành lập Đảng,
thống nhất ba Đảng Cộng sản Việt Nam và cũng thông qua Chính cương vắn tắt, Sách
lược vắn tắt, Chương trình vắn tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam
cùng với Lời kêu gọi do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Các văn kiện này, cùng với tác
phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” và “Đường Cách Mệnh” đã đánh dấu sự
hình thành về cơ bản tư tưởng của con đường cách mạng Việt Nam. Nội dung cơ bản về đường lối
do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo lúc đó có thể nêu vắn tắt là: Cách mạng Việt Nam sẽ
trải qua hai giai đoạn, trước làm cách mạng dân chủ tư sản, sau làm cách mạng xã
hội chủ nghĩa; hai giai đoạn đó nối tiếp nhau không được chia tách, “chủ trương
làm tư sản dân quyền cách mệnh và thổ địa Cách mệnh để đi tới xã hội cộng sản”;
trong giai đoạn làm “cách mệnh tư sản dân quyền”, cách mạng thực hiện nhiệm vụ đánh
đổ ách thống trị của Thực dân Pháp và vua quan phong kiến, tư sản phản cách mạng,
giành độc lập tự do dân tộc, dựng nên Chính phủ công nông binh, tổ chức quân đội
công nông, tịch thu hết sản nghiệp của đế quốc, tịch thu ruộng đất của đế quốc
và bọn phản cách mạng đem chia cho dân cày nghèo, tiến hành “cách mệnh ruộng đất”,
thực hiện khẩu hiệu “dân cày nghèo có ruộng”; lực lượng đánh đổ thực dân, phong
kiến, tư sản phản động là công nhân và nông dân, “công nông là gốc cách mệnh” đồng
thời cách mạng “phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông… để
kéo họ đi về phe vô sản giai cấp; còn đối với phú nông, trung tiểu địa chủ và tư
sản Việt Nam mà chưa lộ “rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít ra cũng làm
cho họ trung lập”; Cách mạng Việt Nam là bộ phận của cách mạng thế giới; Đảng Cộng
sản Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của Cách mạng Việt Nam, Đảng lấy
chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng.
Chúng ta thấy, đường
lối cách mạng cơ bản này, chính là sự rút ra bài học về nguyên tắc từ cuộc cách
mạng tháng Mười Nga (Có một điều đáng ngạc nhiên là tình hình xã hội của nước
Nga và Việt Nam, cũng như bước đường đấu tranh giành và giữ chính quyền của Cách
mạng tháng Mười và Cách mạng Việt Nam sau đó đã có những nét tương đồng lớn
lao. Có như thế phải chăng bản chất của chế độ Đế quốc phong kiến quân phiệt
Nga đã không khác bao nhiêu so với bản chất chế độ thực dân - nửa phong kiến Việt
Nam?
Nếu đúng như thế thì là ngẫu nhiên hay định mệnh? Dù sao thì hiện tượng này vẫn
cứ gợi nhớ đến Sự Tương Tự - một đặc tính vĩ đại và phổ biến của Tự Nhiên Tồn Tại
trình hiện ra trước quan sát - nhận thức. Và điều này có lẽ thiêng liêng hơn:
thành quả phi thường của Cách mạng tháng Mười Nga và của Cách mạng tháng Tám Việt
Nam, trong tương lai sẽ mãi mãi được người đời khâm phục, một khi còn đấu tranh
cách mạng giành quyền sống cơ bản của con người).
Thế nhưng, tại Đại
hội VI, Quốc tế Cộng Sản đã phê phán đường lối (dự thảo) đó của Nguyễn Ái Quốc.
Cho nên hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam họp vào tháng 10-1930, đã
theo chỉ thị của Quốc Tế Cộng Sản vạch “án nghị quyết” thu hồi “Chính cương vắn
tắt” và “sách lược vắn tắt”, đổi tên Đảng thành Đảng Cộng sản Đông Dương.
Tại sao lại như
vậy? Chúng ta sẽ quay lại với cuộc đấu tranh tư tưởng về vấn đề dân tộc và thuộc
địa trong Quốc Tế Cộng Sản!
Để thảo luận
“Những luận cương” của Lênin, Đại hội II Quốc Tế Cộng sản đã thành lập một tiểu
ban riêng gồm 20 người, trong đó có đại biểu của Anh, Áo, Bungari, Hungari, Đức,
Hà Lan, Ấn Độ, Inđônêxia, Aixơlen, Trung Hoa, Triều Tiên, Mêhicô, Nga, Mỹ, Thổ
Nhĩ Kỳ, Pháp, Nam Tư. Cuộc tranh luận của Tiểu ban xoay quanh vấn đề: Quốc Tế Cộng
sản tuyên bố ủng hộ phong trào dân chủ tư sản ở các nước thuộc địa lạc hậu là đúng
hay không đúng: Nói cách khác, cách mạng thuộc địa là cách mạng gì và từ đó nảy
sinh ra những vấn đề gì.
Theo nhãn quan
mácxít, tình hình cụ thể ở đa số các thuộc địa và phụ thuộc lúc đó là: nông dân
chiếm 90% dân số, các quan hệ tiền tư bản chủ nghĩa, phong kiến, gia trưởng còn
thống trị hay chiếm ưu thế; còn giai cấp vô sản công nghiệp thì đang hình thành,
hoặc còn rất bé nhỏ, chưa giác ngộ giai cấp sâu sắc, chưa có tổ chức riêng của
mình; chủ nghĩa cộng sản chưa được tuyên truyền một cách có hệ thống trong giai
cấp công nhân… Trong điều kiện đó Lênin đã đi đến kết luận rằng: “Không còn
nghi ngờ gì nữa, mọi phong trào dân tộc chỉ có thể là dân chủ tư sản thôi, vì
quảng đại quần chúng nhân dân ở các nước lạc hậu là nông dân, tức là những đại
biểu cho giai cấp tư sản - tư bản”. Cho nên “nhất thiết phải có sự giúp đỡ của
tất cả đảng cộng sản đối với phong trào giải phóng dân chủ tư sản những nước ấy”.
Tuy nhiên Lênin viết: “Chúng ta phải và sẽ chỉ ủng hộ những phong trào giải phóng
có tính chất tư sản trong những nước thuộc địa, khi những phong trào đó thực sự
có tính chất cách mạng, khi những đại biểu của các phong trào đó không ngăn trở
chúng ta giáo dục và tổ chức - theo tinh thần cách mạng - nông dân và quảng đại
quần chúng bị áp bức. Nếu không có những điều kiện như thế thì những người cộng
sản chúng ta ở trong các nước đó phải đấu tranh chống giai cấp tư sản cải lương”.
Để thể hiện rõ hơn tư tưởng đó, sau khi thảo luận, Tiểu ban đã nhất trí thay thế
danh từ “dân chủ tư sản” bằng “dân tộc cách mạng”. Như vậy, theo quan điểm của
Lênin, một mặt, phải ủng hộ phong trào dân chủ tư sản mà chủ yếu là phong trào
nông dân để thúc đẩy phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa phát triển, lôi
kéo các dân tộc thuộc địa tham gia quá trình cách mạng thế giới và qua thực tiễn
đấu tranh tự quyết định vận mệnh của mình, mặt khác vì sự hạn chế của phong trào
dân chủ tư sản, nhất là của giai cấp tư sản đang lãnh đạo phong trào ở một số nước,
cho nên “không bao giờ được sát nhập với phái đó và phải kiên quyết giữ vững tính
độc lập của phong trào vô sản, dù cho phong trào ấy còn ở dưới hình thức phôi
thai nhất”.
Trong quá trình
thảo luận “Những luận cương” tại Đại hội II Quốc Tế Cộng sản, một số người cộng
sản phương Đông, tiêu biểu là M.N.Rôi (Ấn Độ) đã phản đối những quan điểm nêu
trên của Lênin, đề ra những quan điểm sau này gọi là “tả khuynh, biệt phái”.
Theo Rôi: phong trào dân chủ tư sản ở các nước thuộc địa không phản ánh được
nguyện vọng của quần chúng, các thủ lĩnh của nó không tin vào những người lao động,
không được công nhận và nông dân ủng hộ; do đó phong trào dân chủ tư sản không
thể thành công. Trái lại, việc quần chúng không ủng hộ phong trào dân chủ tư sản
đã mở đường cho những người cộng sản giành quyền lãnh đạo cách mạng, cho nên
nhiệm vụ hàng đầu là thành lập ngay các đảng cộng sản. Biên bản tóm tắt của hội
nghị Tiểu ban về vấn đề dân tộc và thuộc địa có ghi: “Đồng chí M.N.Rôi đi đến kết
luận cần phải bỏ một đoạn trong luận cương thứ 11 về vấn đề dân tộc nói rằng tất
cả các đảng cộng sản phải gíup đỡ phong trào giải phóng dân chủ tư sản ở các nước
phương Đông. Quốc Tế Cộng Sản chỉ cần giúp xây dựng và phát triển phong trào cộng
sản ở Ấn Độ. Còn Đảng Cộng Sản Ấn Độ thì chỉ cần quan tâm đến việc tổ chức quảng
đại quần chúng để đấu tranh vì những lợi ích của họ”. Về vấn đề tính chất của cách
mạng thuộc địa, Rôi còn cho rằng Ấn Độ và các nước phương Đông khác đang đứng
trước cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa; làm cách mạng xã hội, các dân tộc bị áp
bức vừa tự giải phóng được khỏi ách thống trị của bọn tư bản đế quốc nước ngoài,
vừa ngăn chặn được sự phát triển của chủ nghĩa tư bản trong nước, lãnh đạo sự
nghiệp cách mạng đó cần phải có Đảng cộng sản; vì ở các nước thuộc địa, giai cấp
vô sản hoặc còn rất yếu, hoặc chưa ra đời cho nên Đảng cộng sản có thể bao gồm
những phần tử nông dân bị áp bức. Hơn nữa, theo Rôi thì lực lượng trung tâm và
then chốt của quá trình cách mạng thế giới là phương Đông. Biên bản hội nghị Tiểu
ban còn lưu lại: “Đồng chí Rôi bảo vệ tư tưởng cho rằng vận mệnh của phong trào
cách mạng châu Âu hoàn toàn phụ thuộc vào quá trình cách mạng phương Đông. Không
có thắng lợi của cách mạng ở các nước phương Đông thì phong trào cộng sản ở phương
Tây có thể chỉ là con số không… Bọn tư bản châu Âu trong trường hợp cần thiết có
thể cho công nhân tất cả giá trị thặng dư và bằng cách đó kéo họ về phía mình,
giết chết ý chí cách mạng ở họ. Nhờ giai cấp vô sản ủng hộ, chính bản thân bọn
tư sản sẽ tiếp tục bóc lột châu Á… Vì vậy, cần phải phát triển và đẩy mạnh
phong trào cách mạng ở phương Đông và phải chấp nhận một luận cương cơ bản nói
rằng vận mệnh của chủ nghĩa cộng sản thế giới phụ thuộc vào thắng lợi của chủ
nghĩa cộng sản ở phương Đông”.
Trên đây là hai
quan điểm về dân tộc và thuộc địa đã từng tồn tại một thời gian dài trong Quốc
Tế Cộng Sản và cuộc đấu tranh dai dẳng giữa hai quan điểm ấy đã kéo dài suốt từ
Đại hội II đến Đại hội VII của Quốc Tế Cộng Sản.
Ngày
nay, khi đứng
ở vị trí cách xa thời cuộc ấy ngót 100 năm, đã đủ khoảng cách và độ công
tâm để
nhìn lại, chúng ta phân vân tự hỏi: “Vậy thì Lênin đúng hay Rôi đúng?”
Có lẽ cả
hai đều có đúng có sai và muốn tìm nguyên nhân gốc rễ của sự đúng sai ấy
phải tìm
trong những quan niệm xã hội của chủ nghĩa Mác. Dù vậy, nếu hiểu sự vật -
hiện
tượng xã hội theo quan niệm của chủ nghĩa Mác thì Lênin gần chân lý hơn.
Thực tế
lịch sử đã chứng minh hùng hồn rằng: các nước thuộc địa giành được độc
lập dân
tộc rồi tiến lên chủ nghĩa xã hội thật hiếm hoi và không riêng gì thuộc
địa mà
hầu hết các nước, bằng con đường khác tiến lên chủ nghĩa xã hội, trong
thời kỳ
xây dựng xã hội ấy, chỉ phát triển gọi là nhanh vào thời kỳ đầu, khi vẫn
còn sự
kích thích tinh thần trong xã hội, rồi chậm dần đi, rồi thì hoặc sụp đổ
để biến
thái hoặc phải rẽ sang con đường khác, không từ bỏ nhãn mác chủ nghĩa xã
hội nhưng
cũng biến thái nốt. Đặc biệt là chất lượng cuộc sống của Đại Chúng dưới
chế độ
xã hội chủ nghĩa, xét cho cùng, cũng chẳng lấy gì làm hay ho hơn, thậm
chí là còn
“đạm bạc” hơn nếu đem so với chất lượng cuộc sống Đại Chúng ở các nước
tư bản
hoặc ở một số nước dân chủ tư sản cùng thời. Vì sao vậy? Có thể có nhiều
nguyên
nhân, có thể có nguyên nhân từ những hoạt động thù địch từ hệ thống các
nước tư
bản chủ nghĩa, nhưng không thể đổ vấy tất cả cho yếu tố khách quan được
và phải
có một nguyên nhân có tính cốt lõi, có tính cội rễ của mọi nguyên nhân
gây ra
hiện tượng có tính phổ biến đó. Vậy nguyên nhân cội rễ đó là gì? Phải
chăng là do nhận thức còn cực đoan, lý tưởng hóa, siêu hình ...về một số
quan niệm trong triết học duy vật về cách mạng vô sản và xây dựng chủ
nghĩa xã hội? Một xã hội"đạm bạc" mà bền vững, mức sống tối thiểu của
nhân dân luôn được đảm bảo chưa chắc là không tươi đẹp!...
Nhưng thôi, chúng
ta quay về để tiếp tục kể câu chuyện về Tổ quốc muôn vàn kính yêu của mình, về
thủ đô Hà Nội linh thiêng của mình.
Đảng Cộng sản Đông
Dương ra đời, ngay lập tức đã phất cao ngọn cờ lãnh đạo đấu tranh của giai cấp
vô sản, tạo nên cao trào cách mạng 1930 - 1931 mà đỉnh cao là cuộc nổi dậy Xô
Viết - Nghệ Tĩnh của quần chúng công - nông. Dù bị đàn áp đẫm máu và thất bại
nhưng cuộc nổi dậy ấy đã đóng vai trò như một cuộc tổng diễn tập đầu tiên và cùng
với cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ mà sự thất bại của nó đã phải trả một giá rất đắt, đã
là những bài học quý giá nhất góp phần to lớn cho sự thành công của cuộc khởi
nghĩa tháng Tám năm 1945.
Cao trào Xô Viết
- Nghệ Tĩnh đã làm cho Thực dân Pháp hoảng hốt, lo sợ, ra sức đẩy mạnh khủng bố,
lùng bắt hàng loạt chiến sĩ cách mạng. Sự khủng bố trắng khốc liệt của chính
quyền thực dân đã làm cho Cách mạng Việt Nam tổn thất nặng, gây ra một giai đoạn
gọi là “thoái trào”. Đối với riêng Hà Nội, phần lớn các Đảng viên Cộng sản và
quần chúng cách mạng đều bị thực dân Pháp bắt giam, kết án. Nhà pha Hỏa Lò chật
ních tù cách mạng, chật đến độ mà theo lời khai của viên sĩ quan Pháp tên là Lămbe
(Lambert) tại tòa án ở Hà Nội bị xử vì tội giết tù: thống sứ Bắc Kỳ là Rôbanh
(Rene Robin) đã dặn miệng cho bọn dưới quyền là “giết bớt đi”. Tuy nhiên sự bóc
lột ngày càng tàn bạo của Pháp trong khắp các tầng lớp cần lao Việt Nam, không
từ một thủ đoạn đê tiện nào, đã là môi trường thuận lợi cho cách mạng Việt Nam
duy trì cuộc đấu tranh, mau chóng hồi phục lực lượng để chuẩn bị bước vào cao
trào mới.
Năm 1935, tại Đại
hội VII, Quốc Tế Cộng Sản đã tự phê bình về khuynh hướng “tả” trong việc bỏ rơi
ngọn cờ dân tộc và dân chủ trong phong trào Cộng sản, để cho các đảng tư sản,
tiểu tư sản, phát xít lợi dụng chống phá phong trào cách mạng. Đại hội đã chuyển
hướng về sách lược và chủ trương thành lập Mặt trận dân chủ chống phát xít.
Tháng 6-1931,
Nguyễn Ái Quốc bị chính quyền Anh bắt giam tại Hồng Công. Mùa xuân năm 1933, ông
được trả tự do. Từ năm 1934 đến năm 1938, ông nghiên cứu tại Viện Nghiên cứu các
vấn đề dân tộc thuộc địa tại Mátxcơva, đồng thời tiếp tục theo dõi chỉ đạo
phong trào Cách mạng Việt Nam.
Tháng 10-1938, Nguyễn Ái Quốc rời Liên Xô về Trung Quốc, bắt liên lạc với tổ chức
Đảng Cộng sản Đông Dương. Lúc này, trên thực tế, Đảng đã trở lại với “Chánh cương
vắn tắt” và “Sách lược vắn tắt” của Nguyễn Ái Quốc. Nghị quyết Hội nghị Trung ương
Đảng tháng 11-1939 đã khẳng định: “Đứng trên lập trường giải phóng dân tộc, lấy
quyền lợi dân tộc làm tối cao, tất cả mọi vấn đề của cuộc cách mệnh, cả vấn đề điền
địa cũng phải nhằm vào cái mục đích ấy mà giải quyết”. Để thấy rõ hơn quãng đời
hoạt động ở thời kỳ này của Nguyễn Ái Quốc, chúng ta sẽ trích lược sau đây bài
báo “Nguyễn Ái Quốc, những năm tháng gian khó”, đăng trên tờ “Thế giới mới”, số
ra ngày 29-11-2008, tác giả là Văn Thanh Mai - Đỗ Hoàng Linh:
“… Khi tới Mátxcơva,
mặc dù muốn nhận công tác ngay, nhưng Quốc Tế Cộng Sản thu xếp để Nguyễn Ái Quốc
đi nghỉ an dưỡng ở Xôchi bên bờ biển Đen. Mùa thu năm 1934, Quốc Tế Cộng Sản ra
Quyết định số 45 cử Người đi học tại Trường Bồi dưỡng Lý luận quốc tế mang tên
Lênin, đăng ký trong danh sách sinh viên số hiệu 375, bí danh Lin, niên khóa
1934 - 1935.
… Dù đã trở về
trung tâm phong trào cộng sản quốc tế, sống giữa những người đồng chí, nhưng
Nguyễn Ái Quốc vẫn phải đối mặt với sự nghi kị về nhiều lý do khác nhau. Đó là
vì sự xuất hiện những chủ trương mang tính chất “tả khuynh” trong tư tưởng và lý
luận của Quốc Tế Cộng Sản, đặc biệt là ảnh hưởng của Nghị quyết Đại hội VI Quốc
Tế Cộng Sản (6-1928) với các Đảng Cộng sản, trong đó có Đảng Cộng sản Đông Dương,
đến vấn đề đặt tên Đảng, vấn đề dân tộc và giai cấp trong đường lối chiến lược
và sách lược của Đảng… Nguyễn Ái Quốc còn bị đánh giá là một người mang nặng tư
tưởng chủ nghĩa dân tộc, cùng sự nghi ngờ ám ảnh về việc hình như Người được thực
dân Anh trả tự do quá dễ dàng? Thậm chí đầu năm 1935, một lá thư gửi Vụ Hải ngoại
Quốc Tế Cộng Sản còn đề nghị: “Về vấn đề liên quan đến Quốc, thì trong vòng hai
năm, đồng chí ấy phải nghiêm túc tu dưỡng bản thân trong học tập và không bố trí
công tác khác. Sau khi kết thúc học tập, chúng ta sẽ có kế hoạch giao công việc
riêng”… Tháng 8-1935, đúng ra Nguyễn Ái Quốc đi dự Đại hội VII Quốc Tế Cộng Sản
tại Mátxcơva “với tư cách là đại biểu của Ban phương Đông của Quốc Tế Cộng Sản”.
Đảng Cộng sản Đông Dương đã đề nghị đại biểu chính thức Nguyễn Ái Quốc dự Đại hội
VII Quốc Tế Cộng Sản và là đại diện của Đảng Cộng sản Đông Dương bên cạnh Quốc
Tế Cộng Sản nhưng không được chấp nhận. Người chỉ được tham gia Đại hội với tư
cách là đại biểu tư vấn và được cấp thẻ mang số đăng ký 154… Kết thúc khóa học ở
Trường Quốc Tế Lênin, Nguyễn Ái Quốc đề nghị Quốc Tế Cộng Sản cho trở về Việt Nam. Một
lần trả lời phỏng vấn của một nhà văn Liên Xô, Người cũng nói: Mong ước lớn nhất
hiện nay của tôi là sớm được trở về Tổ Quốc. Mùa hè năm 1936, sau khi làm tờ
khai lý lịch, hộ chiếu, giấy thông hành, chuyến đi lại bị hủy bỏ, vì tình hình
thế giới có những biến động và vì chưa được Quốc Tế Cộng Sản chấp nhận.
… Ngày
6-6-1938, Nguyễn Ái Quốc tiếp tục gửi thư cho lãnh đạo Viện Nghiên cứu các vấn đề
dân tộc và thuộc địa, Quốc Tế Cộng Sản và đồng chí Manuilxki trình bày nguyện vọng:
“Các đồng chí thân mến! Hôm nay kỷ niệm lần thứ 7 tôi bị bắt ở Hồng Công và cũng
là khởi đầu năm thứ 8 tôi không hoạt động gì. Tôi viết thư này để yêu cầu các đồng
chí thay đổi hoàn cảnh đau buồn này. Hãy cử tôi đến nơi nào đó hoặc cứ giữ tôi ở
lại đây nhưng giao cho tôi những việc mà các đồng chí thấy có ích. Những gì tôi
yêu cầu là các đồng chí đừng để tôi ngừng hoạt động quá lâu và chỉ ở bên cạnh,
phía ngoài Đảng”. Sau khi có ý kiến phê duyệt của cấp trên để đồng chí Lin được
dự kiến trở về hoạt động công tác Đảng trong nước, ngày 8-6-1938, Phòng Tổ chức
các bộ của Quốc Tế Cộng Sản cũng đã có công văn gửi đồng chí Dimitơrốp đề nghị
“giải quyết dứt điểm tất cả những người Đông Dương về vị trí sắp xếp của Đảng Cộng
sản Đông Dương” và ý kiến của V. I. Vaxiliêva gửi lên Ban Bí thư Quốc Tế Cộng Sản”:
Đồng chí
Lin là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương, là người có uy tín trong Đảng Cộng sản
Đông Dương, từ nay về sau thì Đảng sẽ chăm chú lắng nghe những ý kiến của đồng
chí ấy… Đầu tháng 10-1938, Nguyễn Ái Quốc đáp xe lửa ở ga Iarôxlápxki rời Mátxcơva
đi về phương Đông. Như vậy trong 5 năm (1934 - 1938), Nguyễn Ái Quốc đã phải sống
trong bầu không khí nghi ngờ bao trùm, trong những xáo động của Quốc Tế Cộng
Sản, trong cuộc thanh trừng nội bộ căng thẳng ngay trong Đảng Cộng sản Liên Xô.
Thực tế, dù rất phiền lòng, nhưng Người chấp hành theo quyết định cấp trên, kiên
trì chờ đợi và hy vọng.
… Đánh giá về
những tháng ngày khó khăn thử thách của Nguyễn Ái Quốc, J. Lacouture viết:
Trong những năm 1934 - 1938, Hồ Chí Minh đã chăm chỉ học tập nhất trong đời mình,
tránh những cuộc tranh chấp, thanh trừng đang diễn ra gay gắt trong Đảng Cộng sản
Liên Xô và Quốc Tế Cộng Sản. Sôphie Quyn Judge trong “Hồ Chí Minh những năm tháng
lưu lạc (1919 - 1941)” cũng nhận định: khó có thể hình dung một người Cộng sản
lão làng như Hồ Chí Minh có thể lại tiếp tục hoạt động trong thời kỳ rối ren này.
Sự tồn tại của ông qua những tháng năm tồi tệ nhất của cuộc thanh trừng, đã không
chỉ chứng tỏ sự chịu đựng, mà còn chứng minh bản lĩnh cách mạng phi thường của
Nguyễn Ái Quốc.
… Trong 30 năm
hoạt động ở nước ngoài, quãng thời gian từ 1934 đến 1938 là một khoảng lặng buồn
trong cuộc đời cách mạng sôi nổi của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh như Người đã
từng viết cho một người bạn ở Quốc Tế Cộng Sản: Xin đồng chí giúp đỡ tôi thay đổi
tình cảnh đau buồn này. Nhưng chính khoảng lặng đó càng giúp chúng ta hiểu sâu
sắc hơn về một Nguyễn Ái Quốc với nghệ thuật sống “dĩ bất biến ứng vạn biến””.
Ngày
28-11-1941, sau hơn 30 năm rời Tổ quốc tìm đường cứu nước cứu dân, Nguyễn Ái Quốc
về nước. Tháng 5-1941, ông trực tiếp chủ trì Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng
lần thứ VIII, xác định đường lối cách mạng trong thời kỳ mới: đặt nhiệm vụ giải
phóng dân tộc lên hàng đầu, tạm thời gác lại vấn đề điền địa, xóa bỏ vấn đề liên
bang Đông Dương, thực hiện đại đoàn kết dân tộc trên cơ sở liên minh công - nông,
đứng về phe đồng minh trong cuộc đấu tranh chống phát xít, theo đường lối đó
quyết định thành lập tổ chức “Việt Nam độc lập đồng minh” (gọi tắt là Việt
Minh), tổ chức lực lượng vũ trang, xây dựng căn cứ địa cách mạng. Đến đây, tư tưởng
về đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc đã định hình ở mức
hoàn thiện. Việc đề ra những quyết sách hành động kịp thời vào lúc này còn chứng
tỏ rõ ràng tầm nhìn xa trông rộng, tư duy phán đoán và linh cảm chỉ có ở bậc vĩ
nhân - thiên tài của Nguyễn Ái Quốc.
Tháng 8-1942,
Nguyễn Ái Quốc mang tên mới là Hồ Chí Minh, sang Trung Quốc, đại diện cho Mặt
trận Việt Minh và Phân hội Việt Nam
thuộc Hiệp hội Quốc tế chống xâm lược để tìm sự liên minh quốc tế, cùng phối hợp
hoạt động chống phát xít trên chiến trường Thái Bình Dương. Tại Trung Quốc, Hồ
Chí Minh bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam trong các nhà lao của tỉnh Quảng
Tây. Trong tù ông đã viết tập thơ “Nhật ký trong tù” gồm 133 bài chữ Hán, rất
hay, rất nổi tiếng. Dưới đây là vài bài chúng ta thích trong tập thơ đó:
ĐƯỜNG
ĐỜI HIỂM TRỞ
Đi khắp đèo
cao, khắp núi cao
Ngờ
đâu đường phẳng lại lao đao
Núi
cao gặp hổ mà vô sự
Đường phẳng gặp
người bị tống lao.
Ta là đại biểu
dân Việt Nam
Tìm
đến Trung Hoa để hội đàm
Ai
ngờ đất bằng gây sóng gió,
Phải
làm “khách quí” tại nhà giam.
Ta người ngay
thẳng, lòng trong trắng
Lại
bị tình nghi là Hán gian
Xử
thế từ xưa không phải dễ
Mà
nay, xử thế khó khăn hơn.
(Nam
Trân dịch)
BUỔI
TRƯA
Trong tù khoan
khoái giấc ban trưa
Một
giấc miên man suốt mấy giờ
Mơ
thấy cưỡi rồng lên thượng giới
Tỉnh
ra trong ngục vẫn nằm trơ.
(Nam
Trân dịch)
ĐI
ĐƯỜNG
Đi đường mới biết
gian lao
Núi
cao rồi lại núi cao chập chùng
Núi
cao lên đến tận cùng
Thu
vào tầm mắt muôn trùng nước non.
(Nam
Trân dịch)
TỰ
KHUYÊN MÌNH
Ví không có cảnh
đông tàn
Thì
đâu có cảnh huy hoàng ngày xuân
Nghĩ
mình trong bước gian truân
Tai
ương rèn luyện tinh thần thêm hăng.
(Nam
Trân dịch)
CẢNH
BINH KHIÊNG LỢN CÙNG ĐI
Khiêng lợn lính
cùng đi một lối
Ta
thì người dắt, lợn người khiêng
Con
người mà rẻ hơn con lợn
Chỉ
tại người không có chủ quyền!
Trên đời nghìn
vạn điều cay đắng,
Cay
đắng chi bằng mất tự do!
Mỗi
việc mỗi lời không tự chủ
Để
cho người dắt tựa trâu bò.
(Nam
Trân dịch)
CỘT
CÂY SỐ
Chẳng cao cũng
chẳng sang
Không
đế cũng không vương
Một
phiến đá nho nhỏ
Đứng
sừng sững bên đường
Người
nhờ anh chỉ lối
Đi
đúng hướng đúng phương
Anh
chỉ cho người biết
Nào
dặm ngắn, dặm trường
Mọi
người nhớ anh mãi,
Công
anh chẳng phải thường.
(Văn
Trực – Văn Phụng dịch)
TỨC
CẢNH
Cành lá khéo in
hình Dực Đức
Vầng
hồng sáng mãi dạ Quan Công
Năm
tròn Tổ quốc tăm hơi vắng
Tin
tức quê nhà bữa bữa trông.
(Nam
Trân dịch)
Sau một năm 14
ngày bị tù đày, tháng 9-1943, Hồ Chí Minh được trả tự do. Và bài thơ sau đây đã
trở thành tuyệt bút thủy mạc, nhân tình của Hồ Chí Minh:
TÂN
XUẤT NGỤC HỌC ĐĂNG SƠN
Vân ủng trùng sơn,
sơn ủng vân
Giang
tâm như kính tịnh vô trần
Bồi
hồi độc bộ Tây Phong lĩnh
Dao
vọng Nam
thiên ức cố nhân.
Nam Trân dịch:
MỚI
RA TÙ, TẬP LEO NÚI
Núi ấp ôm mây,
mây ấp núi
Lòng
sông gương sáng, bụi không mờ
Bồi
hồi dạo bước Tây Phong lĩnh
Trông
lại trời Nam,
nhờ người xưa.
Tháng 9-1944, Hồ
Chí Minh về căn cứ Cao Bằng. Tháng 12-1944, ông chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, tiền thân của
Quân đội nhân dân Việt Nam.
Đến đây, cuộc đấu
tranh trường kỳ chống xâm lược và giải phóng Tổ quốc của nhân dân Việt Nam, bắt
đầu từ phát đại bác đầu tiên của thực dân Pháp bắn vào Đà Nẵng, đã đứng trước bến
bờ xán lạn của nó: nhân hòa đã có, địa lợi đã sẵn và thiên thời đang đến từ cuộc
chiến tranh thế giới lần thứ hai.
Có lẽ chúng ta
cũng nên nghe kể sơ qua về cuộc chiến tranh này, vì nó là con đẻ của nhân loại đau
thương, cái lực lượng tự nhiên mà một bộ phận không ít những thành viên của nó
lúc nào cũng tưởng mình sáng suốt trong vai trò chúa tể nhưng thực ra là hoàn toàn
mù quáng, hành xử thậm chí là tệ hơn rất nhiều so với loài động vật hoang dã.
***
Sau đây là câu
chuyện về một thời ly loạn nhất của “Lịch sử thế giới” mà chúng ta đã nghe từ lâu
qua lời kể của Nguyễn Anh Thái (chủ biên) và bây giờ đem kể lại. Vì trí nhớ và
khả năng diễn đạt có hạn nên câu chuyện kể lại này so với “gốc” của nó đã không
còn đúng và đủ về chi tiết nữa mà may ra chỉ có thể đúng về cốt lõi sự kiện. Biết
làm sao được khi những câu chuyện truyền khẩu đều phải chịu sự “bóp méo” như thế.
Tuy nhiên, nói như Vương Hồng Sển thì: “Coi vậy mà xài được!”. Chúng ta bắt đầu:
Ngày xửa ngày xưa
vào thời… hiện đại (hay đã là cận đại?)…
Sau Chiến tranh
thế giới thứ nhất, các nước thắng trận mở “Hội nghị hòa bình” ở Vécxai (ngoại
vi Pari - thủ đô nước Pháp) để phân chia lại thế giới.
Hội nghị khai mạc
ngày 18-1-1919 và kéo dài suốt năm sau, trong bối cảnh thế giới đã có nhiều biến
đổi lớn lao:
Do hậu quả của
Chiến tranh thế giới thứ nhất và sự thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga mà một
cao trào đấu tranh cách mạng đã bùng nổ và phát triển mạnh mẽ trong những năm
1918 - 1923 ở hầu hết các nước tư bản lẫn các nước thuộc địa, phụ thuộc. Chiến
tranh cũng đã tàn phá nghiêm trọng các nước tham chiến ở châu Âu và làm thay đổi
căn bản tương quan lực lượng giữa các nước tư bản: ba nước đế quốc lớn là Đức, Áo
- Hung, Thổ Nhĩ Kỳ bị bại trận thì suy sụp, phân rã; các nước Anh, Pháp, Ý, Nhật
tuy thắng trận nhưng cũng bị suy yếu nghiêm trọng; riêng Mỹ vì tham gia chiến
tranh muộn lại thu về 24 tỷ đôla nhờ buôn bán vũ khí nên đã vươn lên hàng đầu về
kinh tế, trở thành chủ nợ của các nước châu Âu.
Ngày 8-1-1918,
tổng thống Mỹ là Uynxơn đưa ra “Chương trình 14 điểm” dưới hình thức một thông điệp
gửi Quốc hội Mỹ nhằm lập lại hòa bình. Nội dung 14 điểm của Uynxơn gồm:
1 - Hòa ước ký
công khai (không thương lượng riêng hoặc kín).
2 - Hoàn toàn tự
do đi lại trên mặt biển.
3 - Hủy bỏ những
hàng rào kinh tế.
4 - Giảm vũ khí
các nước đến mức tối thiểu.
5 - Giải quyết
công tâm những vấn đề thuộc địa, chiếu cố các dân tộc bản xứ và các chính phủ.
6 - Rút quân khỏi
Nga, để Nga tự chọn lấy chính phủ.
7 - Rút quân khỏi
Bỉ, không hạn chế chủ quyền.
8 - Rút quân khỏi
Pháp và hoàn lại Andát - Loren cho Pháp
9 - Điều chỉnh
biên giới Ý theo nguyên tắc dân tộc.
10 - Đảm bảo
quyền phát triển tự lập của các dân tộc Thổ, tự do quốc tế vùng eo biển.
11 - Rút quân
khỏi Rumani, Môngtênêgiơrô. Mở đường ra biển cho Xécbi.
12 - Bảo đảm
quyền phát triển tự lập của các dân tộc Thổ, tự do quốc tế vùng eo biển.
13 - Phục hưng
Ba Lan độc lập, có đường ra biển.
14 - Thành lập
một “Tổng hội các dân tộc”.
Bóng bẩy như thế
nên ngày 11-11-1918, các bên tham chiếu chấp nhận ngưng xung đột vũ trang theo
chủ trương của Mỹ và “chương trình 14 điểm” được coi là nguyên tắc để thảo luận
tại hội nghị Vécxai.
Tham dự Hội nghị
gồm đại biểu của 27 nước thắng trận. Điều khiển Hội nghị là 5 cường quốc Mỹ,
Anh, Pháp, Ý, Nhật nhưng thực sự nắm quyền quyết định Hội nghị là Mỹ, Anh, Pháp.
Các cường quốc thắng trận đều muốn bảo vệ quyền lợi ích kỷ của mình nên cũng có
những ý đồ, tham vọng hết sức khác nhau trong việc phân chia, thiết lập trật tự
thế giới sau chiến tranh.
Do đó Hội nghị Vécxai đã diễn ra hết sức gay go, quyết
liệt. Ý đồ của Pháp (nước có lực lượng bộ binh mạnh nhất Châu Âu) là muốn làm bá
chủ Châu Âu lục địa, đòi chuyển biên giới với nước Đức đến tận sông Ranh, muốn
làm suy yếu hẳn nước Đức bằng cách bắt nước Đức bồi thường thật nhiều, hạn chế
lực lượng quân sự Đức xuống mức tối thiểu, tán thành mở rộng lãnh thổ một số nước
Đông Âu như Ba Lan, Tiệp Khắc, Xécbi, Rumani để kiềm chế Đức và hình thành “vành
đai vệ tinh” chống chủ nghĩa Bônxêvich. Ngoài ra, Pháp còn nhòm ngó đến thuộc địa
của Đức ở Châu Phi và một phần đất của Tiểu Á của đế quốc Ôtôman trước kia.
Tuy
nhiên trước Anh và Mỹ, con nợ Pháp phải nhận những biện pháp thỏa hiệp dù không
muốn. Lập trường của Anh thì muốn làm yếu Đức về mặt hải quân, thủ tiêu hệ thống
thuộc địa của Đức, đồng thời cũng muốn duy trì một nước Đức tương đối mạnh ở
trung tâm châu Âu để chống lại phong trào cách mạng đang sôi sục ở khu vực đó,
chống lại âm mưu bá chủ lục địa Châu Âu của Pháp. Mỹ ủng hộ chính sách “cân bằng
lực lượng này”. Bên cạnh đó, Anh còn muốn củng cố địa vị ở Trung Cận Đông, chiếm
miền Trung Á của Liên Xô, xây dựng quyền thống trị của mình trên các eo biển
thuộc Biển Đen ở Iran
và Ápganixtan.
Nhật không những muốn củng cố địa vị ở Trung Quốc mà còn định
chiếm cả vùng viễn đông của Liên Xô, mở rộng ảnh hưởng ra cả vùng Châu Á - Thái
Bình Dương. Ý thì muốn mở rộng lãnh thổ của mình xuống vùng Địa Trung Hải và vùng
BanCăng. Các nước nhỏ như Ba Lan, Rumani… cũng yêu cầu được mở rộng đất đai.
Tóm
lại, các nước thắng trận họp Hội nghị đều cố đấu đá, tranh giành hết khả năng để
thu được càng nhiều càng tốt những lợi lộc, béo bở về cho mình. Lênin đã bình
luận châm biếm về Hội nghị Vécxai như sau “… Chúng đã cãi cọ nhau từ 5 tháng
nay, chúng không còn kìm chế được mình và bầy thú dữ đó cắn cấu nhau loạn xạ đến
nỗi chỉ còn lại cái đuôi”
Sau 3 lần có
nguy cơ tan vỡ vì tranh cãi, bất đồng, cuối cùng thì các cường quốc thắng trận
cũng thỏa hiệp được với nhau và đi đến ký kết cái gọi là “Hệ thống hòa ước Vécxai”.
Nội dung chủ yếu
của Hệ thống này là: thành lập “Hội Quốc Liên” và ký hòa ước với các nước bại
trận.
Quy ước thành lập
Hội Quốc Liên (ký ngày 25-1-1919) nêu rằng mục đích thành lập tổ chức này là nhằm
phát triển sự hợp tác, đảm bảo hòa bình và an ninh cho các dân tộc, theo nguyên
tắc: không dùng vũ lực trong quan hệ giữa các nước, quan hệ quốc tế phải rành mạch
và dựa trên đạo lý, phải thi hành những cam kết quốc tế… Tuy nhiên, về thực chất
là nhằm giữ gìn trật tự của thế giới do các cường quốc tư bản chủ nghĩa đã xếp đặt
lại tại Hội nghị Vécxai. Nó là kết quả của sự tạm thời dung hòa các mâu thuẫn
trong hệ thống các nước tư bản chủ nghĩa và không thể là một công cụ bảo vệ hòa
bình hữu hiệu vì chiến tranh có nguồn gốc từ chính sự tồn tại và cạnh tranh
kinh tế của chủ nghĩa đế quốc.
Hòa ước Vécxai
với Đức (ký ngày 28-6-1919) bao gồm ba loại điều khoản chủ yếu về lãnh thổ, về đảm
bảo an ninh và về bồi thường chiến tranh.
Với hòa ước này, nước Đức mất 1/8 đất
đai, gần 1/2 dân số, 1/3 mỏ sắt, gần 1/3 mỏ than, 2/5 sản lượng gang, gần 1/3 sản
lượng thép và gần 1/7 diện tích trồng trọt; chỉ được giữ lại 10 vạn bộ binh với
vũ khí thông thường, không có không quân và hải quân (chỉ có một hạm đội nhỏ);
phải bồi thường khoản chiến phí to lớn
(sẽ do một Ủy ban xác định sau, lên tới 130 tỷ mác)…
Tiếp đó, những hòa ước Vécxai
ký với các nước khác là Hòa ước Xanh Giécmanh (ký với Áo ngày 10-9-1919), Hòa ước
Nơiy (ký với Bungari ngày 27-11-1919), Hòa ước Trianông (ký với Hungari ngày
4-4-1920) và Hòa ước Xevrơ (ký với Thổ Nhĩ Kỳ ngày 11-8-1920) đều theo lối áp đặt
kiểu “đè đầu cưỡi cổ” tương tự như vậy. Lênin nói “Đấy là một thứ hòa ước kỳ quái,
một thứ hòa ước ăn cướp. Nó đẩy hàng chục triệu con người, trong đó có những người
văn minh nhất, rơi vào tình cảnh bị nô dịch. Đấy không phải là một hòa ước, đấy
là những điều kiện mà bọn ăn cướp tay cầm dao buộc một nạn nhân không có gì tự
vệ phải chấp nhận…”
Tóm lại Hệ thống
hòa ước Vécxai không những không làm giảm mà còn làm tăng thêm sự chia rẽ, mâu
thuẫn giữa các nước đế quốc trong hệ thống các nước tư bản chủ nghĩa; gây ra mầm
mống chiến tranh mới, đe dọa hòa bình thế giới. Đến nguyên soái Phốc, nguyên tổng
tư lệnh quân đội Đồng Minh ở Châu Âu cũng nói: “Đây không phải là hòa bình. Đây
là một cuộc hưu chiến trong 20 năm”. Uyliam Bulít, cộng tác viên đắc lực của
Uynxơn, khẳng định: “Hội nghị hòa bình chỉ làm được một việc là chuẩn bị những
xung đột quốc tế trong tương lai”.
Sau khi Hệ thống
hòa ước Vécxai đã ký kết, các nước phe thua ấm ức đã đành, các nước phe thắng cũng
chẳng thỏa mãn. Mỹ nhân thời cơ thuận lợi, ra sức củng cố quyền lực của mình trên
thế giới. Do đó, mâu thuẫn Anh - Mỹ trở nên gay gắt. Tuy nhiên hai nước này vẫn
có lúc phải bắt tay nhau nhằm chống lại Pháp (định nắm quyền bá chủ lục địa Châu
Âu), và chống Nhật (muốn giành ưu thế ở Thái Bình Dương). Hơn nữa Thượng nghị
viện Mỹ đã không thông qua Hòa ước Vécxai. Năm 1920, Đảng Cộng Hòa ở Mỹ lên nắm
quyền, người của Đảng Cộng hòa là Hácđinh thắng cử tổng thống, bắt đầu thực hiện
đường lối mới, nhất là về mặt đối ngoại.
Ngày 25-8-1921,
Mỹ ký hòa ước với Đức theo quan điểm của mình. Tháng 11-1921, Mỹ mời 8 nước là
Anh, Pháp, Ý, Bỉ, Hà Lan, Bồ Đào Nha, Nhật Bản, Trung Quốc họp hội nghị tại
Oasinhtơn. Nội dung hội nghị là thảo luận và quyết định tỷ lệ hải quân giữa các
cường quốc, các vấn đề ở Thái Bình Dương và Viễn Đông. Chính quyền Mỹ tuyên
truyền rầm rộ là hội nghị này nhằm “hạn chế vũ trang”; phù hợp với mong muốn hòa
bình của nhân dân thế giới và Hácđinh được đề cao như là vị “cứu tinh của văn
minh thế giới”.
Những nghị quyết
quan trọng nhất của Hội nghị Oasinhtơn thể hiện tập trung trong 3 hiệp ước quan
trọng nhất: Hiệp ước 4 nước, Hiệp ước 9 nước và Hiệp ước 5 nước.
Ngày 3-12-1921,
bốn nước Mỹ, Anh, Nhật, Pháp ký “Hiệp ước cùng đảm bảo không xâm phạm đến các đảo
thuộc địa ở Thái Bình Dương”. Đây là việc xác nhận lại về mặt pháp lý việc phân
chia thuộc địa đã được tiến hành ở Hội nghị Vécxai cho phù hợp với tình hình mới.
Trong dịp này, Mỹ đã gây áp lực để Anh không gia hạn thêm Hiệp ước liên minh
Anh - Nhật (ký từ năm 1902), nhằm cô lập Nhật thêm một bước.
Hiệp ước 9 nước,
được ký ngày 6-2-1922, công nhận nguyên tắc “hoàn chỉnh về lãnh thổ và tôn trọng
chủ quyền Trung Quốc”, đồng thời cũng nêu nguyên tắc “mở rộng cửa Trung Quốc”
cho các nước tự do vào buôn bán trên cơ sở bình đẳng (thực chất là biến Trung
Quốc thành thị trường chung của các nước đế quốc, bất chấp lợi ích dân tộc của
Trung Quốc, trong đó nhờ tiềm lực kinh tế vượt trội của mình, Mỹ có lợi nhất).
Hiệp ước này và hiệp ước trên còn thể hiện rõ sự cấu kết giữa các nước đế quốc
trong việc chống lại phong trào giải phóng dân tộc của nhân dân Trung Quốc và ở
các nước thuộc địa châu Á khác.
Cùng ngày 6-2-1922,
năm nước Mỹ, Anh, Nhật, Pháp, Ý cùng ký “Hiệp ước hạn chế vũ trang và hải quân”
nhằm quy định lại tỷ lệ lực lượng hải quân cho mỗi nước. Theo Hiệp ước, trọng tải
tàu chiến của Mỹ và Anh bằng nhau, là 525.000 tấn; Nhật là 315.000 tấn; Pháp và
Ý bằng nhau, là 175.000 tấn. Xét ra lực lượng hải quân của các cường quốc đế quốc
không bị hạn chế mà còn được tăng lên, do đó rõ ràng Hiệp ước này chỉ là sự
tranh phân quyền lực giữa các cường quốc đế quốc chứ không vì mục đích hòa bình
nào. Nhật không thỏa mãn vì xếp sau Mỹ và Anh; Pháp không thỏa mãn vì xếp sau
Nhật; Anh cũng chẳng thỏa mãn vì mất quyền bá chủ trước đây trên mặt biển.
Nhìn chung kết
quả của Hội nghị Oasinhtơn hoàn toàn có lợi cho Mỹ. Được như thế là do Mỹ đang
có ưu thế nổi trội về kinh tế và quân sự nhờ “gặt hái” được qua cuộc chiến
tranh thế giới thứ nhất (trong đó có một phần nhờ “lái súng”, cho vay).
Một trật tự thế
giới mới, vượt ra khuôn khổ Hội nghị Vécxai và được điều chỉnh, bổ sung từ Hội
nghị Oasinhtơn, hình thành và tuân thủ nguyên tắc, luật lệ mới gọi là “Hệ thống
Vécxai - Oasinhtơn”.
Nói chung, bắt đầu
từ năm 1924, các cường quốc tư bản chủ nghĩa đã chế ngự được phong trào đấu
tranh cách mạng dâng cao trong những năm 1918 đến năm 1923, khôi phục được nền
kinh tế và bước vào thời kỳ phát triển phồn thịnh trong giai đoạn những năm
1924 - 1929. Trong thời kỳ này, nhờ tích tụ tư bản mà xuất hiện những công ty tư
bản độc quyền khổng lồ mới mà về qui mô vượt hơn tất cả những gì đã có trước năm
1914; nhờ sự tiến bộ, những phát minh khoa học kỹ thuật, nhờ hợp lý hóa sản xuất,
tổ chức lao động hiệu quả (nổi tiếng là phương pháp Taylo (Taylor)), nên công
nghiệp tư bản chủ nghĩa tăng trưởng mạnh mẽ.
Sự ổn định và
phát triển kinh tế của các nước tư bản châu Âu phần quan trọng là nhờ vào vốn đầu
tư và tín dụng của Mỹ, phụ thuộc về tài chính vào Mỹ. Đây là thời kỳ chuyển
trung tâm kinh tế - tài chính của hệ thống tư bản chủ nghĩa từ châu Âu sang Mỹ.
Kinh tế phồn
vinh làm giảm bớt nạn thất nghiệp, nâng cao đời sống nhất định cho tầng lớp lao
động ở các nước tư bản chủ nghĩa đã kéo theo sự ổn định xã hội, củng cố quyền lực
tư sản, các đảng phái, tổ chức chính trị của giai cấp tư sản ở đó cũng lấy lại được
địa vị đã bị mất trước kia. Phong trào cách mạng vô sản đi vào thoái trào.
Hệ thống các nước
tư bản chủ nghĩa, với những nền kinh tế hàng hóa - thị trường cạnh tranh tự do,
xô bồ vô tổ chức, trong khi khả năng tiêu thụ (hoặc cung ứng) của thị trường có
hạn, tất yếu làm xuất hiện mặt trái của sự phát triển. Mặt trái đó ngày một bị
dồn nén và nếu không có biện pháp giải tỏa nó (thường không giải quyết kịp thời
được bởi lòng tham là mù quáng!) thì ở trạng thái tột độ, nó sẽ bục vỡ, phát nổ,
tạo thành khủng hoảng (thừa hoặc thiếu).
Tháng 10-1929,
cuộc khủng hoảng kinh tế bùng nổ ở Mỹ, sau đó lan ra tất cả các nước tư bản chủ
nghĩa và kéo dài đến năm 1933, chấm dứt thời kỳ ổn định 1924 - 1929. Khủng hoảng
diễn ra trên tất cả các ngành công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp, tài chính
và đưa đến giảm sút mạnh mẽ mậu dịch thế giới. Nguyên nhân chủ yếu đưa đến cuộc
khủng hoảng này là do sản xuất của chủ nghĩa tư bản tăng lên, tương ứng làm hàng
hóa ngày càng giảm giá và trở nên ế thừa, dẫn tới suy thoái trong sản xuất.
Cuộc khủng hoảng
năm 1929 - 1933 đã tàn phá nặng nề nền kinh tế, từ đó mà làm bất ổn xã hội, gây
hậu quả tai hại về chính trị ở các nước tư bản chủ nghĩa. Trong cuộc khủng hoảng
này, số công nhân thất nghiệp đã lên tới 50 triệu. Hàng triệu người mất nhà cửa
vì không trả được tiền cầm cố. Hàng triệu nông dân bị mất ruộng đất, lâm vào
nghèo đói. Ở nhiều nước đã không có bảo hiểm xã hội và thất nghiệp không được
phụ cấp hoặc phụ cấp ít ỏi không thể đảm bảo nhu cầu tối thiểu cho cuộc sống. Tình
hình đó đã làm cho phong trào đấu tranh cách mạng trỗi dậy: từ thoái trào tiến
dần lên cao trào. Hàng ngàn cuộc biểu tình, tuần hành của những người thất nghiệp,
trong nhiều trường hợp đã xung đột với cảnh sát và quân đội. Nhiều cuộc bãi công
chống việc hạ thấp tiền lương đã nổ ra ở hầu khắp các nước. Theo thống kê chưa đầy
đủ, trong thời gian từ năm 1928 đến cuối năm 1933, số người tham gia bãi công ở
các nước tư bản chủ nghĩa đã lên tới 17 triệu, còn số ngày bãi công là khoảng hơn
2.500 ngày (?).
Kinh tế học là
một ngành khoa học không phải… đùa, bởi vì nó rất khó. Do có quá nhiều mối quan
hệ kinh tế - xã hội phụ thuộc nhau, đan xen nhau, tác động lẫn nhau “xảy ra hàng
ngày, hàng giờ”, khắp nơi trong “thế giới nhân loại” mà đến tận ngày nay, nhiều
nhà nghiên cứu được cho là uyên bác, khi nói thì rất bùi tai, rất… hùng biện,
nhưng khi cho ra tham mưu quản lý một nền kinh tế “tầm tầm bậc trung” nào đấy
thì… không ít vị bị nó “quật” cho te tua, và xin lỗi “ngài cố vấn”, coi chừng…
chết chứ chả chơi đâu! Tuy nhiên, đối với chúng ta, những kẻ hoang tưởng bạt mạng
nhất, đến bí ẩn của Tự Nhiên Tồn Tại cũng phải… chào thua, thì kinh tế học kể
ra cũng… dễ. Dễ theo cách nhìn nhận chất phác, thô mộc của chúng ta!
Nguyên lý Tự
Nhiên đã làm trình hiện ra trước quan sát - nhận thức sự vận động và chuyển hóa
(tùy theo định nghĩa, qui ước mà có thể vận động cũng là chuyển hóa hoặc là bộ
phận của chuyển hóa, mà cũng có thể quan niệm ngược lại, tùy thích!). Ở mức độ
khả năng và phạm vi có hạn độ quan sát của loài người thì sự trình hiện ấy chính
là sự ảnh hưởng, tương tác, trao đổi, làm biến đổi lẫn nhau giữa các sự vật -
hiện tượng và giữa các sự vật - hiện tượng với môi trường (thực ra cũng là một
sự vật - hiện tượng, có tính bao hàm, dung dưỡng, nền tảng…) “chứa” chúng.
Quá
trình đó là không ngừng làm suy tàn, mất đi những sự vật - hiện tượng “cũ”, “lỗi
thời”, đồng thời làm xuất hiện, phát triển những sự vật - hiện tượng “mới”, “hợp
thời” hơn. Trong một chừng mực nhất định và cũng do bản chất cảm nhận của quan
sát ở loài người (nói riêng) mà chúng ta thấy tồn tại (đúng hơn là hiện hữu) có
tính duy trì trong thời gian. Nhưng qua nhận thức hay quan sát gián tiếp nhờ các
thiết bị hỗ trợ quan sát tinh vi hơn (chúng ta cho rằng nhận thức cũng chính là
một dạng đặc thù của quan sát, có tính siêu phàm), chúng ta lại thấy tồn tại
(hay hiện hữu) là luôn thay đổi.
Vì thế mà người ta nói ổn định là nhất thời
(gián đoạn, tương đối), biến đổi là vĩnh viễn (liên tục, tuyệt đối). Thế nhưng đừng
tùy tiện “áp” câu nói đó cho mọi trường hợp về bản thân nó cũng lại chỉ là tương
đối thôi. Chẳng hạn, đối với Tự Nhiên Tồn Tại thì ổn định có thể là vĩnh viễn,
tuyệt đối mà cũng có thể… đừng nói như thế!
Trong một giai đoạn
thích hợp, môi trường thiên nhiên Trái Đất sẽ làm hình thành nên một lực lượng đặc
thù, có tính bộ phận của nó, nhận nó làm nền tảng, đó là sinh vật. Một sinh vật
(hay một lực lượng sinh vật) tồn tại được là nhờ có vận động nội tại. Vận động
nội tại chính là một biểu hiện sự tương tác, chuyển hóa làm biến đổi lẫn nhau
giữa sinh vật đó với môi trường, hay chúng ta thường gọi quá trình đó là sự
trao đổi chất. Có thể nói trao đổi chất là nguyên tắc của tồn tại và duy trì tồn
tại ở sinh vật. Sinh vật nhận được ở môi trường những chất (ở đây nên hiểu “chất”
với ý nghĩa rộng hơn, bao gồm cả chẳng hạn như ánh nắng mặt trời, nhiệt…) cần
thiết cho sự sống và đào thải những chất “cặn bã” (cặn bã đối với nó thôi!).
Theo một chu trình “vĩ đại” hơn, các cặn bã sẽ được môi trường biến đổi để tạo
nên, tái tạo lại những chất cần thiết cho sự sống sinh vật tiếp theo. Nhiều loại
rác thải nhân tạo “kiểu công nghiệp” đã là “trái đắng khó gặm” của môi trường và
con người hãy coi chừng!).
Sự trao đổi chất
ấy, đứng về phía tồn tại sinh vật mà xét, là sự cung - cầu và mối quan hệ giữa
môi trường và sinh vật về sự cung - cầu được gọi là mối quan hệ cung - cầu. Chính
mối quan hệ cung - cầu này, cùng với những biến động của nó, cũng như sự chuyển
hóa lực lượng giữa cung và cầu đã là giềng mối làm phát sinh ra tất cả những hiện
tượng: đấu tranh sinh tồn, tiến hóa thích nghi, đa dạng giống loài, hình thành
loài người… trong thế giới sinh vật.
Như vậy, khi xuất
hiện một sinh vật thì ngay lập tức cũng xuất hiện một nhu cầu và vì có nhu cầu ấy
mà “cung” được xác định. “Cung” là thứ có sẵn, thứ làm nên “cầu” nhưng trước nhận
thức thì được đặt tên sau “cầu”. Chúng ta nói: Cung - cầu là một quá trình biện
chứng thống nhất, có cầu ắt có cung và cung làm phát sinh, mở rộng cầu, từ đó đến
lượt cầu sẽ làm tăng khả năng cung.
Loài người, là
một lực lượng sinh vật, do đó không thể thoát được sự tác động mạnh mẽ của mối
quan hệ cung - cầu cùng với sự biến đổi tương quan về mặt lực lượng giữa cung và
cầu. Nếu chúng ta phân định tương đối khái niệm “tự nhiên” ra thành “tự nhiên”
và “xã hội” thì có thể nói rằng mối quan hệ cung - cầu vốn dĩ là tự nhiên, nhưng
khi xuất hiện trong xã hội loài người, bị tính chủ động thích nghi cao độ của loài
người tác động rất đáng kể đến tương quan lực lượng cung - cầu, làm cho nó cũng
biến đổi một cách nhân tạo ngày một rõ rệt hơn, mạnh mẽ hơn, đã trở thành mối
quan hệ mang nặng tính xã hội nữa, và trong nền sản xuất hàng hóa, nó đã trở thành
một qui luật kinh tế cơ bản, có tính tác động chủ yếu, quyết định đến mọi mặt đời
sống xã hội.
Thuở sơ khai,
khi cung không đủ cầu, con người đã chế tạo công cụ để tăng khả năng cung. Cung
tăng lên làm cho cầu tăng theo. Sự phát hiện ra cây lương thực đã là một cuộc cách
mạng vĩ đại làm cho cung trở nên dồi dào và ổn định, làm phương thức sống của
con người chuyển sang định cư và sản xuất nông nghiệp. Phương thức sống đó đã làm
cho loài người phát triển nhanh về số lượng và nâng cao về mức sống, nghĩa là làm
cho cầu tăng nhanh bởi hai hướng số lượng nhân khẩu và đa dạng hóa. Chính hướng
tăng đa dạng hóa nhu cầu đã làm xuất hiện những khả năng cung “sản xuất phi lương
thực” - tiền đề cho sản xuất trao đổi hàng hóa cũng như tiểu thủ công nghiệp và
công nghiệp sau này…
Dù có thế nào
chăng nữa, dù nhu cầu tiêu dùng có đa dạng đến mấy chăng nữa thì nhu cầu về “miếng
ăn” vẫn cứ luôn là mục tiêu đầu tiên và tối hậu, là động lực tối thượng, cốt lõi
của mọi quá trình hoạt động cung ứng, có thể thấy được trực tiếp hoặc gián tiếp.
Sự xuất hiện hàng hóa trao đổi, mua bán chính là vì nhu cầu miếng ăn. Trong một
xã hội chủ yếu là sản xuất nông nghiệp thì khi việc cung ứng miếng ăn đạt mức dư
thừa sau khi đã đáp ứng đầy đủ nhu cầu ăn (và ăn ngon), sẽ làm xuất hiện những
nhu cầu “cái mặc” (và mặc đẹp, chỉ chung những nhu cầu không phải là ăn). Theo đó
mà kích thích loại hình cung “cái mặc” ra đời, phát triển để thỏa mãn những nhu
cầu đó và thông qua đó mà thỏa mãn luôn nhu cầu về ăn mới phát sinh.
Đó là quá
trình vận động xã hội làm cân bằng cung - cầu mà chủ yếu là do tăng cầu. Cầu miếng
ăn ngày một tăng rồi sẽ vượt cung miếng ăn, hay là do thiên tai, mất mùa… sẽ gây
ra hiện tượng cung miếng ăn không đủ cầu miếng ăn nữa. Điều đó sẽ làm “đình đốn”
sản xuất hàng hóa phi thức ăn, góp phần làm tăng nhanh lực lượng cầu thức ăn. Sự
mất cân bằng cung - cầu theo hướng cung thiếu, cầu dư ngày một trầm trọng. Để
giải quyết, tự nhiên là phải tăng cường sản xuất nông nghiệp tạo thêm “miếng ăn”
để đáp ứng “miệng ăn”.
Thế nhưng, trình độ sản xuất chưa kịp phát triển, đất đai
thiên nhiên có hạn và thậm chí là điều kiện thời tiết khí hậu đang ở giai đoạn
chưa qua thiên tai đã hạn chế khả năng giải quyết theo hướng này, thậm chí là đến
mức bế tắc. Vậy thì phải theo hướng nào? Một cách hoàn toàn tự nhiên, theo như
chúng ta nhìn nhận, phải giảm cầu bằng cách cần phải chết bớt (nghe ghê quá!)
do đói, bệnh tật, hoặc một bộ phận cầu phải “đi chỗ khác chơi” (lan tỏa dân cư).
Nếu không thế thì chỉ còn cách nổi dậy phá bỏ sự bóc lột, đè ép của tầng lớp thống
trị, bóc lột (nếu có) để giải phóng điền địa (nếu là nguyên nhân của không đủ
cung), và cuối cùng là phải đi xâm lược, cướp bóc khắp nơi để thỏa mãn nhu cầu
miếng ăn (nếu muốn sống còn).
Hình như thời cổ, trung đại, chiến tranh là một
biện pháp thường xuyên tạo lập cân bằng của cán cân cung - cầu khi cầu tăng vượt
quá cung đến mức tột độ? Phải chăng chiến tranh là giải pháp cuối cùng, duy nhất
để giải quyết sự mất cân đối cung - cầu ấy? Trong suốt quá trình tồn tại của xã
hội loài người? Không, chúng ta hi vọng là không phải, dù quá khứ đã là như vậy!
Còn một cách giải quyết hữu hiệu nạn mất cân đối cung - cầu dạng cầu vượt quá
cung là áp dụng khoa học - kỹ thuật (tất yếu xuất hiện ở giống loài có tư duy và
biết chủ động thích nghi) một cách có ý thức vào việc tăng khả năng cung ứng miếng
ăn, cái mặc một cách phù hợp, đồng thời với việc giảm và duy trì cầu ở mức tương
xứng. Đây có thể là một giải pháp khả thi ở tương lai, khi não người đã thực sự
tiến hóa hơn, đã thấu tỏ hơn về thân phận con người và làm cho lòng tham của
con người bị giới hạn đến chừng mực vừa đủ thực sự, như là một sự kìm hãm hoàn
toàn bản năng. Còn bây giờ, vẫn là một ước mơ!
Khoa học kỹ thuật
ngay từ đầu và ngày càng tác động mạnh mẽ đến quá trình vận động của các lực lượng
tạo nên mối quan hệ cung - cầu trong xã hội, về cường độ cũng như tốc độ. Nó làm
tăng khả năng cung ứng cả miếng ăn lẫn cái mặc (và thông qua đó cũng chừng mực
làm tăng cầu). Sự áp dụng khoa học - kỹ thuật một cách mù quáng, thiếu định hướng
tổng thể sẽ làm cho trình độ đáp ứng cung - cầu nâng cao, qui mô đáp ứng cung -
cầu tăng lên, có thể làm ổn định mối quan hệ cung - cầu một cách cục bộ, theo từng
giai đoạn xen kẽ với những giai đoạn khủng hoảng (mất cân đối nghiêm trọng) của
mối quan hệ ấy, chứ không thể tạo được sự ổn định lâu dài, không thể làm mất khủng
hoảng (chúng ta cho rằng sự mất cân đối là thường xuyên, là đương nhiên, còn sự
mất cân đối nghiêm trọng hay gọi là khủng hoảng do hoạt động mù quáng của con
người gây ra (nhân tạo chứ không phải thiên tạo!) là có thể tiêu trừ được); và
như vậy đó chính là một con dao hai lưỡi vừa làm ổn định vừa làm mất ổn định mối
quan hệ cung - cầu (theo cả hai chiều cung thừa cầu thiếu, cung thiếu cầu thừa).
Ngày xưa, khi nền
kinh tế xã hội dựa chủ yếu vào sản xuất nông nghiệp (cung lương thực - thực phẩm)
thì chỉ có khủng hoảng thiếu mà không có khủng hoảng thừa (vì sản xuất tiểu thủ
công, là con đẻ của sản xuất nông nghiệp, vẫn còn mang tính bộ phận của sản xuất
nông nghiệp mà chưa thoát ly ra khỏi nó). Sự dư dôi của lương thực - thực phẩm luôn
được cầu sử dụng hết, biểu hiện ra là đời sống sung túc hơn, ăn ngon mặc đẹp hơn
và vui chơi, nhảy múa, hội hè nhiều hơn. Sự thịnh vượng đó sẽ giảm đi nếu sản
xuất nông nghiệp gặp khó khăn. Rồi một quá trình tương tự sẽ lặp lại và nếu chỉ
đơn thuần có tính chu kỳ điều hòa hoàn hảo và thuần túy thịnh rồi suy, suy rồi
thịnh… thế thôi thì đã chẳng có gì phiền toái, thì cũng coi như tốt đẹp rồi.
Than ôi! Toàn thịnh mang tính lý tưởng đã đành, thịnh - suy điều hòa cũng lý tưởng
nốt.
Bản thân Tự Nhiên Tồn Tại không là gì cả, không có gì cả, cả thịnh lẫn
suy. Hay nói cách khác có “nhân tính” hơn: trước một nhận thức đầy sự thị phi
thì ngay đến cả Tự Nhiên Tồn Tại cũng không hoàn hảo. Vậy thì ở dưới gầm trời này
làm sao mà có sự vật - hiện tượng nào gọi là toàn hảo? Sự sung túc sẽ làm cho
“no lưng ấm cật, dậm dật mọi nơi” làm tuổi thọ bình quân tăng lên, sinh đẻ nhiều
hơn, dẫn đến sự tăng trưởng về dân số (tăng số lượng cầu). Sự tăng dân số ấy, một
cách tự nhiên, trong trường hợp “mưa thuận gió hòa” sẽ trở nên đột phát; nhanh
chóng đè lên vai cung một cái gánh ngày một nặng. Đến khi nặng quá thì cung này
buộc phải “san sẻ bớt” sang gánh của những cung khác ở đâu đó gọi là láng giềng.
Nhất là khi cung đã gánh quá nặng, “san sẻ” không kịp hoặc khó khăn mà lại còn
bị “trượt chân” (thiên tai, mất mùa) nữa thì nó sẽ “nổi điên lên”, “quẳng gánh
lo đi mà vui sống”, kệ nhu cầu “sống chết mặc bay” thì thật là thảm họa!
Bên cạnh
đó, sự mất cân đối cung - cầu với tác động theo cả hai chiều tích cực và tiêu cực,
tốt và xấu của nó đã là nguyên nhân sâu xa làm phân hóa xã hội thành kẻ giàu,
người nghèo, thành tầng lớp bị trị và tầng lớp thống trị. Kết quả ấy, cùng với
loài người vốn dĩ không hoàn hảo về bản tính, thậm chí là đầy tật nguyền (tật
nguyền hơn cả loài thú?!) sẽ tác động mạnh mẽ trở lại quá trình vận động của
Cung - Cầu. Tất cả những điều đó đã làm xuất hiện một cách vừa tự nhiên vừa nhân
tạo một quá trình thăng giáng thịnh - suy lặp đi lặp lại mang tính chu kỳ nhưng
không điều hòa, có vẻ cưỡng bức nhưng không hoàn toàn rối loạn. Có thể cho rằng
những hiện tượng như nạn đói, trộm cướp, nổi dậy chém giết lẫn nhau, chiến
tranh, xâm lược… đều từ đó mà ra cả.
Đặc biệt, chúng
ta thấy rõ điều này: sự xuất hiện và phát triển tất yếu của khoa học - kỹ thuật
đã quyết định đến sự biến dạng “ghê gớm” của sự cung - cầu trong xã hội loài người,
theo hướng làm cho bản chất tự nhiên của nó “lặn” đi, bị “ẩn dấu” đi, đồng thời
tính xã hội, tính nhân tạo nổi trội lên làm cho sự cung cầu đó mang tính đặc thù
chỉ có ở xã hội loài người. Hơn nữa chính sự áp dụng khoa học - kỹ thuật vào sản
xuất làm tăng khả năng cung để thỏa mãn nhu cầu về cả ăn lẫn mặc nhằm làm ổn định
mối quan hệ cung - cầu (kéo theo cả sự kích cầu một cách “hồn nhiên”!) đã làm một
bộ phận sản xuất tiểu thủ công nghiệp thoát ly (tương đối) ra khỏi sản xuất nông
nghiệp, vươn lên thành một ngành sản xuất độc lập mới gọi là công nghiệp (sản
xuất những mặt hàng cung ứng phi lương thực - thực phẩm). Nền kinh tế lúc này
không còn là nền kinh tế nông nghiệp thuần túy nữa mà là nền kinh tế công - nông
nghiệp (trong tương lai, phải chăng sẽ xuất hiện một nền kinh tế giống với nền
kinh tế nông nghiệp, nhưng ở trình độ cao hơn, gọi là nền kinh tế nông - công
nghiệp, sản xuất lương thực - thực phẩm theo trình độ cơ khí - tự động hóa công
nghiệp và lấy đó làm trọng tâm của phát triển kinh tế?)
Trên Trái Đất này,
đất đai trồng trọt, chăn nuôi, cái nền tảng tạo ra lương thực - thực phẩm từ
thiên nhiên thì có giới hạn, trong khi đó, số lượng loài người cứ tăng lên mãi.
Trong xã hội phong kiến, tình hình đó làm xuất hiện nổi trội mối quan hệ lao động
- việc làm (để kiếm ăn) và mối quan hệ đó ngày một mất cân đối theo hướng dư thừa
lực lượng lao động. Đó là nguyên nhân chủ yếu hình thành một tầng lớp thường trực
gọi là vô sản ngày một đông đảo: những người nông dân bị bần cùng hóa, không còn
“mảnh đất cắm dùi”, phải “cày thuê, cuốc mướn”, tha hương đi khắp nơi tìm việc,
kiếm ăn. Do nhiều nguyên nhân mà lực lượng lao động tự do đó có thể dao động về
số lượng tùy thuộc vào tình hình của từng thời kỳ cụ thể, nhưng xu hướng của nó
là tăng dần lên.
Việc áp dụng khoa học kỹ thuật trong sản xuất cũng góp phần đáng
kể vào sự gia tăng ấy, đồng thời với sự gia tăng sản lượng lương thực - thực phẩm
lên mức đáng kể (chỉ cần một bộ phận lao động trong sản xuất nông nghiệp cũng đủ
làm ra miếng ăn nuôi sống toàn bộ xã hội loài người). Thế nhưng lực lượng lao động
dư thừa không thể hưởng không “miếng ăn” từ thành quả ấy. Họ vẫn đói khổ trong
khi có một bộ phận người sung túc, giàu có muốn ăn ngon mặc đẹp hơn nữa, muốn
thưởng thức đủ thứ “của ngon, vật lạ” có trên đời. Sự bất ổn của thiên nhiên
nhiều lúc càng làm cho tình cảnh thêm bi đát và phân hóa sâu sắc: bộ phận thiểu
số thì muốn duy trì, bộ phận đa số thì vì sự sống còn của mình mà muốn phá bỏ cái
xã hội đang tồn tại đi. Sự bức bối, bất công khi đã đạt đến cao độ thì đó cũng
là lúc bạo lực lên tiếng. Hiện tượng nổi dậy đấu tranh, khởi nghĩa vũ trang của
nông dân ở hầu như khắp nơi và triền miên đã là một căn bệnh mãn tính của xã hội
phong kiến có lẽ chủ yếu là vì vậy. Chiến tranh đã ra tay giải quyết những bức
xúc xã hội nhưng không triệt để và dù có muốn cũng không thể triệt để được…
Để giải quyết
những căng thẳng, bức bối tồn tại trong xã hội phong kiến như: nạn thiếu nghiêm
trọng công ăn việc làm, nạn “kẻ ăn không hết, người lần không ra”, nhu cầu tiêu
dùng ngoài miếng ăn (hay còn gọi là trình độ tiêu dùng) ngày một tăng lên của xã
hội cũng như những đòi hỏi có cuộc sống tiện nghi xa hoa hơn của tầng lớp có của
ăn của để, giàu có và của đám cường hào ác bá, quan quyền, bạo chúa (mà thực ra
bản chất chính là giải quyết lượng lương thực - thực phẩm “dư thừa” tích lũy, vơ
vét được của bộ phận người này!)…, đến một thời điểm chuyên môn hóa và tập
trung cao độ: công nghiệp. Quá trình hình thành ngành sản xuất công nghiệp cũng
là quá trình ra đời một hình thái kinh tế xã hội mới gọi là Tư bản chủ nghĩa.
Sản xuất công
nghiệp đã phân định rạch ròi, giữa chủ tư bản (người bỏ vốn đầu tư, sở hữu nhà
xưởng, máy móc thiết bị, thuê người làm để hưởng lợi) và công nhân (người làm
thuê, bỏ sức lao động ra để hưởng lương, một lượng tiền được chủ ấn định hoặc
thỏa thuận). Sản xuất công nghiệp đã tạo ra vô số công ăn việc làm cho lực lượng
nông dân tự do, cho những người vô sản. (Chúng ta quan niệm vô sản là những người
đói khổ, bần cùng do thiếu công ăn việc làm hoặc làm với đồng lương rẻ mạt vừa đủ
ăn hoặc thậm chí là không đủ ăn. Như vậy, giai cấp công nhân chỉ là một bộ phận
của tầng lớp vô sản và vô sản được hiểu tương đối như là tầng lớp quần chúng
thu nhập thấp nhất trong xã hội).
Xã hội tư bản
ra đời là một lẽ tự nhiên, do sự phát triển của qui mô sản xuất hàng hóa đòi hỏi, do đòi hỏi của Đức Huyền Diệu. Cho nên phải thừa nhận
rằng xã hội ấy có tính nhân đạo cao hơn, tự do hơn, bình đẳng hơn, dân chủ hơn
so với xã hội phong kiến.
Sự xuất hiện xã
hội tư bản không thể là do từ trên trời rơi xuống mà là sự thoát thai từ xã hội
phong kiến; là sự kế thừa cái quan hệ, sản xuất tiến bộ đã manh nha ở giai đoạn
cuối của thời đại phong kiến; để rồi phát huy đến hoàn thiện với qui mô to lớn,
rộng khắp và được đặt tên là quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Qua đó mà tính
chất hàng hóa của sản xuất cũng như của nền kinh tế thị trường đạt đến mức triệt
để, hoàn chỉnh và ngày nay đã có qui mô toàn cầu.
“Châu Âu là một
cái hang chuột”, đó là lời nói của Napôlêông. Chính sự “chật hẹp” của nó cùng với
mùa đông lạnh giá đã không dung dưỡng nổi số lượng dân cư ngày càng tăng đã là
nguyên nhân sâu xa nhất của những cuộc chiến tranh ăn cướp dưới lớp áo giáp tôn
giáo: Thập tự chinh. Hiện tượng đó lại có thể là một trong những nguyên nhân thúc
đẩy nền khoa học - kỹ thuật châu Âu nhanh chóng vượt trội, sớm được áp dụng vào
sản xuất và trở thành bà đỡ cho xã hội tư bản chào đời để thay thế xã hội phong
kiến già nua. Đến đây, chúng ta hiểu được vì sao xã hội tư bản xuất hiện và phát
triển đầu tiên trên thế giới là ở châu Âu.
Theo quan niệm
của Đức Huyền Diệu thì hình thái tư bản chủ nghĩa là một tiến bộ của xã hội loài
người. Tuy nhiên nó vẫn chưa phải là một ước vọng lý tưởng của Đức Huyền Diệu,
vì trong lòng nó vẫn tồn tại những vấn nạn về áp bức, bất công, đói khổ, tàn bạo,
nhất là vào thời đoạn tích lũy tư bản đầu tiên và tranh giành đế quốc.
Thực ra những vấn
nạn đó không phải là những đặc thù của chế độ tư bản mà có tính phổ biến; thấy được
ở mọi chế độ xã hội có nền sản xuất hàng hóa trước đây. Hay cũng có thể nói những
vấn nạn đó, dù có thể ở những mức độ khác nhau tùy từng chế độ, tùy từng thời kỳ,
thì đều là đặc thù của một xã hội có nền sản xuất hàng hóa. Khi tính hàng hóa
giảm đi và đồng thời não trạng con người bớt thèm khát danh lợi hơn, tình yêu
thương đồng loại dồi dào hơn thì những vấn nạn đó sẽ giảm đi. Nhưng bằng cách nào
khi dân số cứ ngày một tăng trong khi tài nguyên thiên nhiên ngày một cạn kiệt
và môi trường sinh thái ngày càng bị tàn phá đến trơ trọi? Khi loài người đã biết
sản xuất ra tràn ngập và phong phú những sản phẩm tiêu dùng (kể cả lương thực -
thực phẩm, không khí và nước sinh hoạt) đến mức “cầu gì được nấy” từ nguồn nguyên,
nhiên liệu vô tận ở đâu đó ngoài vũ trụ và rác thải được “quăng” trả lại vũ trụ
bao la thì những vấn nạn kể trên có mất đi không?!
Lịch sử đã ghi
nhận sự quá ư tàn bạo của chủ nghĩa tư bản trong thời kỳ đầu tích lũy tư bản và
tranh đoạt thị trường bằng vũ lực của nó. Không thể chối cãi nổi rằng quá trình
tích lũy tư bản ban đầu đã được thực hiện bằng nhiều biện pháp tăng cường như
chiếm đoạt ruộng đất, tăng thuế, ban hành quốc trái… trong đó có hai biện pháp
mà Mác cho là trắng trợn và tàn bạo nhất: phong trào rào đất ở Anh và việc cướp
bóc thuộc địa. Lúc bấy giờ, do sự phát triển nhanh chóng của nghề len dạ ở nước
Anh, nhu cầu về lông cừu ngày càng nhiều và giá lông cừu cũng tăng vọt. Vì vậy,
“biến đồng ruộng thành bãi chăn cừu đã trở thành khẩu hiệu của các chúa phong
kiến” (trong bộ “Tư bản” của C. Mác), và: “Việc tìm thấy những vùng có mỏ vàng
và mỏ bạc ở châu Mỹ, việc tuyệt diệt người bản xứ, bắt họ làm nô lệ và chôn vùi
họ trong các hầm mỏ, việc bắt đầu đi chinh phục và cướp bóc miền Đông Ấn, việc
biến châu Phi thành khu cấm để săn bắt, buôn bán người da đen - đó là buổi bình
minh của thời đại sản xuất tư bản chủ nghĩa” (cũng trong “Tư bản”). Cũng theo Mác
thì: “Những kho tàng trực tiếp chiếm đoạt được ở ngoài châu Âu bằng cướp bóc nô
dịch người địa phương, giết người cướp của, được dồn về chính quốc và trở thành
tư bản ở đó”, và như vậy, quá trình tích lũy ban đầu, dù dưới hình thức nào cũng
“được thực hiện với một sự phá phách tàn nhẫn nhất và dưới sự thúc đẩy của những
dục vọng thấp hèn nhất, bẩn thỉu nhất, nhỏ nhen nhất và đáng ghét nhất”. Do đó,
“nếu tiền, theo lời của Ôgiê: “ra đời với một vết máu ở bên má” thì tư bản mới
ra đời lại có máu và bùn nhơ rỉ ra ở tất cả các lỗ chân lông, từ đầu đến chân”.
Đặc trưng của
kinh tế tư bản là sản xuất công nghiệp qui mô lớn. Muốn vậy phải có quá trình tích
lũy và hội tụ tư bản (đồng vốn lớn) mới đủ khả năng đáp ứng. Nhưng phải chăng sự
tích lũy tư bản chỉ có thể là ăn cướp, giết chóc? Có lẽ không, vì đó không phải
là điều kiện tiên quyết của tích lũy tư bản nói chung; có lẽ có, vì chủ nghĩa tư
bản thoát thai từ xã hội phong kiến nên nó vẫn còn mang nặng trong tâm trí tàn
dư của tính chuyên quyền bạo ngược và độc ác, bên cạnh lòng thèm muốn danh lợi đến
vô độ, đến mù quáng vốn đã như một bản tính con người được hun đúc nên bởi sự
ghê sợ đói khát từ muôn đời truyền kiếp. Chính vì vậy mà vào buổi giao thời cũng
như trong giai đoạn phát triển lan tỏa của chủ nghĩa tư bản ra khắp thế giới, tích
lũy tư bản đáng lẽ đã có thể được tiến hành bằng những biện pháp ôn hòa hơn, hòa
bình hơn (như áp dụng khoa học kỹ thuật để nâng cao trình độ sản xuất, tích lũy
thặng dư hợp lý, hợp tác làm ăn, giúp đỡ nhân dân các nước tạm gọi là “thuộc địa”
đánh đổ chế độ phong kiến hà khắc, rồi trao quyền tự quyết cho họ, rồi liên kết
làm ăn một cách bình đẳng thông qua những hiệp ước - nghĩa là đi khai hóa thực
sự), thì trái lại nó đã làm cho thế giới xám xịt khói, nổi trôi lên những quái
tượng bạo tàn, nô dịch, cùng khổ, những núi xương, sông máu của triệu triệu oan
hồn trải dài suốt hàng thế kỷ.
Bản thân quan hệ
sản xuất tư bản chủ nghĩa cũng như chế độ tư hữu không xấu, sự thi đua hay cạnh
tranh lành mạnh trong hoạt động kinh tế là chính đáng. Lao động thặng dư là mục
tiêu tất yếu của nền sản xuất hàng hóa vì nó cũng chính là động lực cho nền sản
xuất ấy tồn tại. Vươn lên giàu có, sung túc, thịnh vượng chính là hành động phù
hợp Đức Huyền Diệu (nhưng vươn lên bằng bất cứ giá nào, kể cả bằng những biện
pháp bóc lột, ăn cướp độc ác nhất, đê tiện nhất thì lại là có tội, thậm chí là
trọng tội theo quan niệm của Đức Huyền Diệu). Dư luận của Đại Chúng mọi thời đại
bao giờ cũng ngợi ca chứ chưa từng chê trách sự giàu có, miễn sự giàu có đó có
nguồn gốc từ sức lực, tài năng và trí tuệ của bản thân chủ sở hữu.
Nói
cho công bằng,
chủ nghĩa tư bản đã tháo gông xiềng cho nền kinh tế - xã hội phát triển
lên cao
độ bằng chiếc chìa khóa gọi là “cạnh tranh tự do”. Mặt phải của cạnh
tranh tự
do là tiến bộ, giải quyết những vấn nạn, bức bối, căng thẳng của quan hệ
cung -
cầu trong xã hội… Nhưng mặt trái của cạnh tranh tự do, vì những nguyên
nhân “nhân
tạo” như đã nêu ở trên (bạo ngược, độc ác, tham lam), là sự mù quáng,
thiếu kìm
chế, điều tiết và định hướng trong sản xuất cũng như kích thích tiêu
dùng một cách
thái quá gây lãng phí; và tính hiếu chiến của nó. Điều lạ lùng ở đây là
bản thân
cạnh tranh tự do là bình đẳng, nhưng trong thực tiễn, do có sự lũng đoạn
của tâm
trí con người mà sự bình đẳng ấy luôn bị xâm phạm, và trong nhiều trường
hợp không
hẳn là tốt. Rất có thể mức sống xã hội ảnh hưởng tới văn hóa xã hội. Ví
dụ như người ở vùng có mức sống "dễ thở" hơn thường có lối sống "khoáng
đạt" hơn người sống ở vùng khó khăn hơn...Hiện nay, nếu có người nói
người Châu Âu sống nhân văn hơn người Châu Á thì có thể là vì hiện tượng
ấy!
Có thể nói cạnh
tranh tự do đã làm nên nền kinh tế hàng hóa tư bản chủ nghĩa và trở thành linh
hồn của cái cơ thể ấy. Không có nó, hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa
không thể tồn tại được. Khi nói cạnh tranh tự do thiếu tính điều tiết thì cũng
có nghĩa là vẫn có sự điều tiết, nhưng sự điều tiết ở đây là tự điều tiết, điều
tiết một cách tự phát theo tác động của qui luật cung cầu (trong đó có qui luật
tỷ suất bình quân lợi nhuận) vì lòng tham cũng như vì quyền lợi sát sườn, có tính
sống còn của các nhà tư bản và của cả đại chúng cần lao. Chính sự mù quáng của
cạnh tranh tự do đã là một trong số những nguyên nhân cơ bản làm cho thời kỳ đầu
của xã hội tư bản trở nên đẫm máu và nước mắt; làm cho chủ nghĩa tư bản với những
“kinh nghiệm” có được từ việc tích lũy tư bản bằng bạo lực, áp bức nhân dân “chính
quốc”, đi gây chết chóc tang thương để chiếm đoạt, nô dịch khắp thế giới. Và chạy
đua vũ trang cấu xé lẫn nhau giữa các cường quốc tư bản, gây ra hai cuộc chiến
tranh thế giới khủng khiếp. Cũng chính sự mù quáng của cạnh tranh tự do đã là
nguyên nhân chính yếu gây ra những vấn nạn vừa có tính chung của nến sản xuất hàng
hóa, vừa có tính đặc thù, riêng có của nến kinh tế hàng hóa - thị trường tư bản.
Một trong những biểu hiện đặc thù đó, là sự xuất hiện tình trạng “khủng hoảng
thừa” trong đời sống kinh tế xã hội có tính chu kỳ và như một căn bệnh mãn tính…
Nghe đến “thừa”
chúng ta thường nghĩ đến sự dư dả, sung túc, nhưng khủng hoảng thừa lại là tai
họa. Tại sao sự dư thừa hàng hóa lại tàn phá nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, gây
nên thất nghiệp và làm cho đời sống nhân dân khốn đốn, nghèo khổ đi? Nếu một ngày
đẹp trời trong tương lai, đột nhiên “đại ngộ”, chúng ta sẽ tiếp tục câu chuyện
khủng hoảng này. Còn bây giờ, chúng ta hãy quay lại với câu chuyện “thời cuộc”!
Chúng ta sẽ tìm
hiểu tình hình “thời sự” của một số cường quốc chủ yếu trong thời kỳ đại khủng
hoảng năm 1929 - 1933, sau này đã góp mặt “xứng danh anh hào” trong việc gây ra
chiến tranh thế giới thứ hai mà đến ngày nay, từ thế kỷ XXI nhìn lại, chúng ta
thấy cuộc chiến tranh đó chỉ đạt được một mục đích duy nhất là đã tiêu diệt được
một lực lượng con người (sức lao động và miệng ăn) khổng lồ, còn ngoài ra là hoàn
toàn vô tích sự. Nhưng ở góc độ khác, nó lại “vô tình” tạo cơ hội có một không
hai cho cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc ở các nước thuộc địa.
1 - Nước Mỹ:
“Chúng ta đã đi
gần đến chỗ xóa sạch nạn nghèo đói hơn bất kỳ nước nào trên thế giới”, đó là câu
nói thiếu hiểu biết một cách “vui vẻ” nhất của Huvơ (Hoover), ứng cử viên đảng
Cộng Hòa, trúng cử tổng thống Mỹ vào năm 1928. Nhiều người Mỹ cũng đã tin như
thế vì họ chưa thấy được cái ngày gọi là “Ngày thứ năm đen tối” ở thị trường chứng
khoán Niu Óoc đã ở ngay trước mặt.
Ngày
24-10-1929, giá cổ phiếu đột nhiên hạ xuống mức thấp kỷ lục, kích hoạt tình trạng
hoảng loạn chưa từng có trong lịch sử thị trường chứng khoán Niu Óoc vào ngày
29-10-1929. Lúc này giá một loại cổ phiếu được coi là bảo đảm nhất đã sụt 80%
so với tháng 9, các cổ đông đã mất 15 tỷ đôla, và giá trị các loại chứng khoán đã
giảm 40 tỷ đôla. Hàng triệu người đã mất sạch số tiền mà họ tiết kiệm cả đời.
Tiếp theo là sự
suy thoái diễn ra như con ngựa bất kham, không thể kìm chế nổi: Hàng loạt nhà tư
bản phá sản, hàng loạt nhà máy đóng cửa, hàng ngàn ngân hàng theo nhau sụp đổ,
hàng triệu người thất nghiệp, mất nhà cửa và phương kế sinh sống; nhà nước không
thu được thuế, công chức và giáo viên không được trả lương.
Đến năm 1932,
cuộc khủng hoảng đã đạt đến đỉnh điểm. Tổng sản lượng công nghiệp chỉ đạt 53,8%
so với năm 1929. Sản xuất than hạ xuống mức của năm 1904, gang xuống mức năm
1896, thép lùi về mức 1901. Công nghiệp đúc thép chỉ hoạt động còn 16% công suất.
Có 115.000 xí nghiệp công thương nghiệp, 58 công ty đường sắt bị phá sản, 10 vạn
ngân hàng (40% tổng số ngân hàng Mỹ) đóng cửa. Trong nông nghiệp thì nông sản bị
mất giá trầm trọng. Trong những năm 1929 - 1930, đã có tới 75% trang trại bị phá
sản. Diện tích gieo trồng ở các bang miền Nam bị thu hẹp còn khoảng 80%. Giá
trị hàng xuất khẩu giảm từ 5,241 tỷ xuống còn 2,4 tỷ đôla; giá trị nhập khẩu giảm
từ 4,399 tỷ xuống còn 1,322 tỷ đôla. Thu nhập quốc dân giảm một nửa. Đến năm
1932, số người thất nghiệp lên tới 12 triệu.
Các nguyên nhân
dẫn đến cuộc suy thóai nặng nề nhất và cũng kéo dài nhất này trong lịch sử nước
Mỹ, theo các nhà kinh tế học Mỹ là như sau:
*
Khả năng sản xuất đã vượt quá khả năng tiêu thụ
thực tế. Trong khi lợi nhuận công ty tăng 76% (thời kỳ 1922 - 1929) thì công nhân
và nông dân vẫn không được nhận thêm phần xứng đáng của họ trong thu nhập quốc
dân, do đó không tăng được sức mua xã hội.
*
Chính sách của chính phủ về thuế và nợ chiến
tranh làm cho hàng hóa khó bán ra nước ngoài, đặc biệt là những hàng nông sản
truyền thống: lúa mì, bông, thuốc lá.
*
Việc cấp tín dụng quá dễ dàng đã tạo ra sự lạm dụng.
Người ta mua chứng khoán chủ yếu là để đầu cơ. Nợ của chính phủ và của tư nhân đã
vượt qua số 100 tỷ đôla.
*
Sự cơ giới hóa được đẩy mạnh đã làm giảm nhu cầu
về thợ không lành nghề làm tăng lực lượng thất nghiệp.
Chính phủ Huvơ đã
không giải quyết được khủng hoảng mà còn có những biện pháp không phù hợp làm tăng
mức độ nghiêm trọng của tình hình. Năm 1930, Huvơ ký ban hành thuế biểu mới
(thuế biểu Hawky - Smooth) cao hơn thuế biểu ban hành năm 1920, làm Châu Âu không
thể mua lúa mì của Mỹ, càng làm cho hàng nông phẩm ế thừa. Huvơ không thi hành
biện pháp gì để cứu trợ những người thất nghiệp; phản đối dành một khoản ngân sách
liên bang để cứu trợ nghèo đói. Hơn nữa, chính quyền Huvơ còn đồng ý giảm tiền
lương công nhân và đàn áp phong trào bãi công, biểu tình phản đối của quần chúng.
Trong cuộc bầu
cử năm 1932, Huvơ tiếp tục ứng cử, nhưng ứng cử đại diện cho đảng Dân Chủ là
Rudơven (Franklin D.Roosevelt) đã thắng và trở thành Tổng thống Mỹ với lời hứa
thực hiện “chính sách mới” (New Deal). Cơ sở lý luận của “Chính sách mới” chính
là học thuyết kinh tế Kên (John Maynard Keynes), một học thuyết có cái nhìn sâu
sắc hơn về nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, đặt nền móng cho sự xuất hiện hình thức
nhà nước tư bản độc quyền (điều tiết vĩ mô nến kinh tế đất nước). Trong bài diễn
văn nhậm chức, Rudơven khẳng định sẽ cứu trợ nạn thất nghiệp, nghèo đói, lập lại
sự cân đối giữa công nghiệp và nông nghiệp, tiến hành kiểm tra chặt chẽ các hoạt
động ngân hàng… Ông đề nghị Thượng Nghị viện cho tổng thống những quyền hành rộng
rãi hơn để ông có thể đương đầu với những thảm họa quốc gia và khắc phục nó. Thượng
Nghị viện chấp nhận và thông qua tất cả những biện pháp mạnh mẽ và táo bạo của ông.
Với việc thực
thi “Chính sách mới”, có thể không có lĩnh vực nào trong đời sống kinh tế Mỹ mà
những cải cách của Rudơven không đụng chạm tới.
Trong lĩnh vục
ngân hàng, Rudơven cho đóng cửa tất cả các ngân hàng rồi cho mở lại với sự kiểm
soát chặt chẽ của chính phủ và thiết lập chế độ bảo đảm đối với tiển gửi của khách
hàng. Ông phá giá đồng đôla để nâng giá các nhu yếu phẩm, giám sát thị trường
chứng khoán, qui định những nguyên tắc thương mại công bằng để chấm dứt gian lận,
đặt mức thuế cao hơn đối với các công ty và người giàu, điều chỉnh phần nào sự
phân phối của của cải của các bang và cả liên bang. Trong hai nhiệm kỳ đầu làm
tổng thống (8 năm), Rudơven đã quyết định chi 16 tỷ đôla cứu trợ trực tiếp cho
những người thất nghiệp, lập ra nhiều quĩ liên bang giúp những doanh nghiệp đang
tan rã, tạo thêm nhiều việc làm mới bằng cách lập chương trình rộng lớn và xây
dựng những tiện nghi, công trình công cộng đồng thời tạo ngân quĩ cho các công
ty xây dựng vay tiền.
“Đạo luật khôi
phục công nghiệp quốc gia” (National Industrial Recovery Act, viết tắt là NIRA,
được Thượng Viện Mỹ thông qua vào tháng 6-1933) nhằm cải thiện quan hệ sản xuất,
tổ chức lại sản xuất. Trong đó có qui định việc cơ cấu các xí nghiệp cùng ngành
thành những liên hiệp xí nghiệp để thông qua những hợp đồng về sản xuất và tiêu
thụ, qui định công nhân có quyền cử đại biểu thương lượng với chủ về mức lương
và chế độ làm việc nhằm mục đích giảm giờ làm, tăng lương và đảm bảo quyền lợi
những hợp đồng tập thể… Hai năm sau, Tòa án tối cao Pháp viện Mỹ đã phán quyết đạo
luật này là vi hiến. Tuy nhiên sau này, một số chủ trương của nó đã được lấy lại
trong một số đạo luật khác.
Nhờ có “Đạo luật
điều chỉnh nông nghiệp (tháng 5-1933, gọi tắt là “AAA”) mà tình trạng của nông
nghiệp được cải thiện đáng kể: nâng giá nông sản, giảm bớt sản xuất thừa, cho
vay dày hạn ở nông thôn…, trong đó có hai điều đáng chú ý, thứ nhất là phụ cấp
cho những nông dân nào chịu giảm bớt diện tích độc canh làm cho đất bạc màu,
thay vào đó những loại cây trồng khác có thể bảo vệ độ màu mỡ của đất, và thứ
hai là tăng tỷ giá các mặt hàng nông nghiệp so với những mặt hàng phi nông nghiệp
lên mức trung bình của những năm 1909 - 1914. Trên thực tế, đạo luật này chỉ có
lợi cho những chủ trại lớn và tương đối phát đạt, dù sao, như đã đề cập, nó vẫn
đem đến cho sản xuất nông nghiệp những yếu tố kích thích tích cực.
Năm 1935, “Đạo
luật về an ninh xã hội” (Social Security Act) qui định việc lập giữ bảo hiểm thất
nghiệp, chế độ hưu bổng cho người già, người mù và trẻ em tàn tật. Dù còn hạn
chế (thời gian trợ cấp người, số người được trợ cấp ít…) song nhiều người coi đây
là cuộc cách mạng đối với nước Mỹ…
Sự kiện quan trọng
đầu tiên trong chính sách đối ngọai của Mỹ là vào tháng 11-1933, chính quyền Rudơven
tuyên bố công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với Liên Xô. Mục đích của việc này
thực chất là vì quyền lợi kinh tế của bản thân nước Mỹ (tăng khả năng cầu chẳng
hạn). Tuy nhiên Liên Xô cũng có lợi không những về kinh tế mà còn về chính trị.
Trước thời Rudơven,
chính sách “Cây gậy lớn” mang tính kẻ cả nô dịch của Mỹ đã làm cho quan hệ giữa
Mỹ và khu vực Châu Mỹ - Latinh rất căng thẳng, nhân dân ở các nước đó chống đối
ngày một mạnh mẽ. Hơn nữa, các nước tư bản châu Âu cũng xâm nhập về kinh tế ngày
càng tăng vào khu vực “sâu sau” này của Mỹ. Trước tình hình đó, ngay từ năm
1934, Rudơven tuyên bố “Chính sách láng giềng thân thiện” đối với các nước Mỹ -
Latinh. Trên tinh thần đó, năm 1934, chính phủ Mỹ tuyên bố bãi bỏ “điều bổ sung
Pơlát” (Platt) ghi trong hiến pháp tự cho phép Mỹ có quyền can thiệp vũ trang vào
Cuba (bị người Cuba cực lực phản đối), rồi chấm dứt can thiệp vào Haiti và Cộng
hòa Đôminica. Cũng năm đó, Rudơven hứa sẽ trao trả quyền độc lập cho Philipin.
Ngoài ra khi Mêhicô ra lệnh trưng dụng tất cả các công ty dầu lửa của Mỹ tại đó,
thay vì đưa quân đội sang can thiệp như thường làm thì Rudơven chỉ yêu cầu bồi
thường thỏa đáng thông qua thương lượng. Nhờ thế, Mỹ đã xoa dịu ở mức độ nhất định
cuộc đấu tranh chống Mỹ của nhân dân Mỹ - Latinh trong khi vẫn đảm bảo được sự
bành trướng kinh tế - tư bản Mỹ ở khu vực này.
Tóm lại, nhờ
“Chính sách mới” với những biện pháp cụ thể mang nhiều tích cực, chính quyền Rudơven
đã đưa nền kinh tế Mỹ thoát cơn nguy kịch, dần phục hồi và phát triển ổn định
trở lại trên con đường dân chủ tư sản. Dù còn nhiều hạn chế, nhưng những quyết
sách đối nội và đối ngoại của Rudơven - một nhân vật cấp tiến, sáng suốt – cùng
với những kết quả đạt được của chúng đã là đề tài đặc sắc có thể rút ra từ đó
những bài học sâu sắc về “đối nhân xử thế” cho những nhà nước tư bản chủ nghĩa
sau này. Và dù chưa trọn vẹn nhưng những cải cách của Rudơven đã đáp ứng được
những đòi hỏi của nhân dân Mỹ, người lao động Mỹ đương thời đó. Sự “trị vì” suốt
16 năm (4 nhiệm kỳ tổng thống liên tiếp - lâu nhất trong các đời tổng thống Mỹ
từ trước tới nay) của Rudơven trong thể chế dân chủ tư sản Mỹ đã nói lên tất cả.
2 - Nước Anh
Cuộc khủng hoảng
kinh tế ở Anh bắt đầu từ cuối năm 1929. Mức độ khủng hoảng không trầm trọng bằng
các nước tư bản chủ nghĩa khác vì nền kinh tế Anh chưa phát triển lắm. Nhìn
chung, cuộc khủng hoảng đã làm tổng sản lược công nghiệp năm 1932 giảm 20%, ngành
ngoại thương (đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế Anh) giảm đến 60%, giá
trị đồng bảng Anh giảm 1/3. Nông nghiệp Anh cũng lâm vào khủng hoảng: diện tích
trồng trọt và sản lượng nông nghiệp đều giảm.
Để chống lại cuộc
khủng hoảng, chính phủ Công đảng (cầm quyền lần thứ hai vào tháng 6-1929) đã đề
ra những chính sách nhằm rút bớt chi tiêu nhà nước, giảm chi phí công cộng và lập
quĩ trợ cấp. Năm 1931, khi khủng hoảng diễn ra nặng nề nhất, chính phủ quyết định
thi hành một chương trình tiết kiệm ngặt nghèo. Đó là những biện pháp, hời hợt,
không giải quyết được căn cơ những khó khăn do khủng hoảng gây ra như không làm
giảm được nạn thất nghiệp, không phục hồi được sản xuất… Cuộc sống khó khăn làm
nổi dậy phong trào công nhân, quần chúng đấu tranh chống đối trong Đế quốc Anh
(chính quốc, thuộc địa và chư hầu). Tình hình đó làm cho nội bộ Công Đảng bị
chia rẽ sâu sắc. Chính phủ Công Đảng lâm vào khủng hoảng phải xin từ chức. Ngày
24-8-1931, một chính phủ mới bao gồm đại biểu của đảng bảo Thủ, công Đảng và đảng
Tự Do do Mác Đônan (Mac Donad) cầm đầu, được thành lập với tên gọi là “Chính phủ
dân tộc”
Ngày 21-9-1931,
Chính phủ dân tộc tuyên bố hạ giá đồng bảng Anh. Tháng 8-1932, chính phủ này bãi
bỏ chính sách tự do mậu dịch, thay bằng chính sách bảo hộ thuế quan. Chính sách
này đã làm cho việc buôn bán trong nội bộ Đế quốc Anh được phát triển vì thị trường
nội bộ của nó được bảo vệ trước sự cạnh tranh của các nước tư bản chủ nghĩa khác.
Do đó mà cũng tạo điều kiện cho công nghiệp Anh phát triển. Chính phủ dân tộc
chủ trương chống Đảng Cộng sản và đàn áp rát rạt phong trào công nhân.
Trong chính sách
đối ngoại, Chính phủ dân tộc tuyên bố “Qui chế Uétminstơ” (Wesminster) vào tháng
11-1931, công nhận quyền tự chủ của các nước tự trị về đối nội và đối ngoại. Tháng
10-1932, chính phủ này biểu hiện chống Liên Xô ra mặt bằng tuyên bố hủy bỏ hiệp
định buôn bán Anh - Xô (ký năm 1930) và tháng 4-1933, ra lệnh cấm nhập khẩu hàng
hóa Liên Xô. Trong khi đó, nước Anh lại khuyến khích nước Đức trong việc phục hồi
tiềm lực kinh tế và quân sự…
Nước Anh thoát
khỏi khủng hoảng kinh tế vào năm 1934, nhưng phát triển yếu ớt. Trong những năm
trước chiến tranh, nhà nước Anh lấy danh nghĩa “điều chỉnh kinh tế” (chắc theo
gương Mỹ?!) để can thiệp ngày càng sâu vào nền kinh tế quốc dân và kết hợp với
các công ty lũng đoạn. Chính phủ tăng cường chính sách thuế quan bảo hộ, thành
lập khối đồng bảng Anh, điều chỉnh xuất khẩu hàng hóa và tư bản, định mức sản
xuất và tiêu thụ, đặt hàng quân sự cho các xí nghiệp. Năm 1935, Anh ký với Đức
hiệp ước hải quân (mà thực chất là để cho Đức phát triển hải quân theo qui mô lớn).
Với chính sách “không can thiệp” mù quáng, nước Anh đã làm ngơ trước những hành
động xâm lược của các nước thuộc phe trục sau này là Đức, Ý, Nhật Bản (chẳng hạn
hành động xâm lược Trung Quốc của Nhật; sự can thiệp vũ trang chống nước Cộng hòa
Tây Ban Nha của Đức và Ý dù rất nhiều quyền lợi của Anh ở đây bị xâm phạm). Khi
mâu thuẫn giữa Anh và các nước nói trên ngày càng rõ nét và Liên Xô đề nghị nước
Anh thành lập một hệ thống an ninh chung, giới cầm quyền Anh đã một mực cự tuyệt.
Anh đã giải quyết mâu thuẫn với Đức bằng thỏa hiệp và hướng Đức tấn công sang
phía đông (tức Liên Xô). Đỉnh cao của chính sách này là hiệp ước Muynich năm
1938.
3 - Nước Pháp:
Mãi đến giữa năm
1930, cuộc khủng hoảng kinh tế mới bắt đầu ở Pháp bằng sự phá sản của các ngân
hàng, rồi từ đó lan sang tất cả các ngành của nền kinh tế. Khủng hoảng làm cho
sản lượng công nghiệp Pháp giảm 1/3, nông nghiệp giảm 2/5, ngoại thương giảm
3/5, thu nhập quốc dân giảm 1/3. Cuộc khủng hoảng gây thiệt hại nghiêm trọng
cho ngành công nghiệp nhẹ: 130 xí nghiệp dệt vải bị phá sản trong giai đoạn
1929 - 1935. Sản lượng tơ lụa và len năm 1934 giảm còn một nửa so với của năm
1929.
Khủng hoảng ở
Pháp có đặc điểm kéo dài rất lâu. Mãi đến năm 1936 mới thấy sự phồn vinh cục bộ,
nhưng năm 1937 lại lâm vài khủng hoảng và không đạt được mức phát triển năm
1929.
Sản xuất bị thu
hẹp gây ra nạn thất nghiệp hàng loạt: năm 1935 có trên nửa triệu người thất
nghiệp. Khủng hoảng đã làm cho tiền lương thực tế giảm từ 30% đến 40%; làm cho
một vạn chủ xí nghiệp nhỏ, 10 vạn tiểu thương bị phá sản; làm cho thu nhập nông
dân giảm 2,7 lần. Tình hình đó làm cho các cuộc bãi công của công nhân liên tiếp
xảy ra, đồng thời cũng làm xuất hiện nhiều tổ chức phát xít.
Ngày 6-2-1934,
trên 20.000 kẻ phát xít có vũ trang, biểu tình đòi giải tán quốc hội. Ngay sau đó,
25.000 công nhân Pari đã xuống đường chống lại đám vô chính phủ đó. Binh lính cũng
tỏ tình đoàn kết với công nhân để bảo vệ nền Cộng hòa. Cuộc bạo động phát xít bị
dẹp tan.
Tháng 5-1935, đảng
Cộng Sản, đảng Xã Hội, đảng Cấp Tiến và một số đảng phái, đoàn thể xã hội cấp
tiến khác đã họp hội nghị tại Pari, thông qua nghị quyết thành lập Mặt trận nhân
dân chống chủ nghĩa phát xít và chiến tranh. Ngày 14-7-1935 (Quốc Khánh Pháp), ở
Pari và các thành phố khác đã xảy ra các cuộc biểu tình với trên 2 triệu người
tham gia để ủng hộ Mặt trận nhân dân.
Tháng 1-1936, Mặt
trận nhân dân công bố cương lĩnh bao gồm những yêu cầu chính trị quan trọng, đó
là: giải tán và giải giáp tất cả các tổ chức phát xít, hạn chế quyền lực của tư
bản tài chính, bảo đảm quyền tự do dân chủ, thi hành chính sách an ninh tập thể,
bảo vệ nước Pháp trước nguy cơ xâm lược của nước Đức phát xít…
Từ ngày 26-4 đến
ngày 3-5-1936, nước Pháp bầu cử quốc hội. Các đảng phái của Mặt trận nhân dân
thu được 5,6 triệu phiếu (nhiều hơn 1 triệu phiếu so với của khối đối lập). Chính
phủ của Mặt trận nhân dân được thành lập do Lêông Bơlum (Leon Blum), người của đảng
Xã Hội, đứng đầu Chính phủ đã thực hiện một số điều khoản của cương lĩnh Mặt trận:
cải cách ngân hàng, xuất quĩ tín dụng để giải quyết những vấn đề xã hội, ổn định
giá cả cho nông dân, tăng tiền lương trung bình của công nhân lên 15% và đảm bảo
chế độ làm việc 40 giờ một tuần, quốc hữu hóa một bộ phận công nghiệp chiến
tranh, chuẩn y sắc lệnh cấm các tổ chức phát xít hoạt động.
Phe đối lập đã
ra sức chống lại chính sách của chính phủ Mặt trận; thực hiện lãn công tài chính,
đưa vốn ra nước ngoài nhằm gây rối loạn tài chính trong nước, xúi giục gây nên
những vụ khiêu khích phá hoại trật tự xã hội, ra sức nói xấu Mặt trận nhân dân…
Trong khi đó, chính phủ ngày càng xa rời những nguyên tắc cơ bản của cương lĩnh.
Tháng 6-1937, Blum xin từ chức. Tháng 4-1938 Đalađiê (Daladier), một phần tử phát
hữu của đảng Cấp Tiến lên cầm đầu chính phủ.
Tháng 11-1938,
chính phủ này đã thi hành sắc lệnh tăng thuế bất thường, bãi bỏ chế độ làm việc
40 giờ một tuần. Thậm chí, chính phủ còn đem quân đội và cảnh sát đàn áp công
nhân bãi công và tuyên bố “tình hình đặc biệt” ở trong nước. Bất chấp sự phản đối
của dư luận Pháp, chính phủ Đalađiê đã tham gia ký hiệp ước Munich. Do hành động phản bội của giới cầm
quyền, Mặt trận nhân dân Pháp đã tan vỡ.
Tuy nhiên, sự hình
thành và tồn tại trong một thời gian của Mặt trận nhân dân Pháp và Chính phủ Mặt
Trận đã để lại những bài học kinh nghiệm quí báu cho nhân dân cần lao trên bước
đường đấu tranh xây dựng một chính quyền do dân và thực sự vì dân, đồng thời cũng
từ đó mà nhận thức sâu sắc hơn vai trò lịch sử của xã hội tư bản chủ nghĩa để
chắt lọc mà giữ lại những ưu việt, mà gột rửa những nhơ bẩn chứa chấp trong lòng
nó, nhằm cải tạo nó mà gặt hái hạnh phúc chứ đừng “chửi đổng” nó, khăng khăng đạp
đổ nó. Hãy nhớ rằng tất cả các danh xưng hay nhãn mác đều do chúng ta đặt ra và
qui ước để phục vụ cho nhận thức. Khi đã nhận thức đúng rồi thì bỏ hết danh xưng,
nhãn mác đi, lúc đó lịch sử nhân loại sẽ hiện ra là một quá trình liên tục kế
thừa, liên tục loại bỏ và liên tục sáng tạo, như những dòng sông xuất phát từ một
nguồn duy nhất, quanh co, lúc ghềnh thác cuồn cuộn, lúc phẳng lặng êm đềm, có đục
có trong, dù mỗi sông là mỗi cảnh mỗi vẻ nhưng đều không xa lạ, đều thống nhất
chảy xuôi, quan hệ mật thiết với nhau bởi sự chi phối chung của nguồn cội, bởi
những nhánh rẽ liên thông, bởi mưa nắng… và đều cố gắng vươn về một đích: Đại Dương
- nguồn của đầu nguồn.
4 - Nước Đức:
Nước Đức lâm vào
một cuộc khủng hoảng hết sức nghiêm trọng về sản xuất công nghiệp. Sau 3 năm đình
trệ thực sự, đến năm 1930, mức sản xuất công nghiệp của Đức giảm 8,4% so với của
năm 1929. Bộ máy sản xuất công nghiệp Đức vào năm 1933 chỉ sử dụng hết 35,7 công
suất, mà số sản phẩm ít ỏi đó vẫn không tiêu thụ hết. Do đó, nhiều xí nghiệp bị
phá sản. Năm 1932, tổng giá trị xuất khẩu không quá 5,7 tỷ Mác (năm 1929 là
13,5 tỷ Mác)…
Khủng hoảng
kinh tế ở Đức làm cho tiền lương thực tế của công nhân giảm 30%, tổng thu nhập
của nông dân giảm khoảng 3 tỷ Mác. Nạn thất nghiệp lan tràn khắp nước và tăng lên
không ngừng. Năm 1932, ở Đức có tới 9 triệu người thất nghiệp.
Tác hại to lớn
của khủng hoảng kinh tế kéo dài tất yếu dẫn đến khủng hoảng chính trị gay gắt. Đó
là nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ nội các chính phủ của đảng Xã hội - Dân chủ Đức.
Ngày 28-3-1930, Bơruninh, lãnh tụ đảng Trung Tâm, đứng ra lập nội các mới. Chính
phủ này đã ra những sắc lệnh hạ lương công nhân viên chức và công chức cao cấp,
giảm bớt trợ cấp xã hội, đánh thêm nhiều loại thuế mới nhằm vào người lao động,
trong khi lại giảm thuế cho các nhà tư bản. Những biện pháp có tính thiên hữu đó
chỉ làm cho đời sống nhân dân Đức thêm khốn đốn, chỉ có lợi cho nhà tư bản, và
không thể khắc phục khủng hoảng. Hơn nữa, sự thiên hữu của chính quyền đã tạo
thuận lợi cho các thế lực phản động, cực đoan mở rộng ảnh hưởng, trong đó có đảng
Công nhân quốc gia xã hội (gọi tắt là đảng Quốc Xã, xuất hiện vào năm 1919). Thực
tế cho thấy giới đại tư bản, địa chủ quí tộc và giới quân nhân ngày càng ủng hộ
lực lượng cực hữu.
Trong tình hình
đó, các lực lượng cách mạng và dân chủ cũng ra sức hoạt động để lôi kéo quần chúng
lao động, tăng cường đấu tranh chống nguy cơ phát xít. Đảng Cộng Sản Đức đã công
bố “Cương lĩnh giải phóng nhân dân Đức về mặt xã hội và dân tộc” vào năm 1930 và
năm sau công bố tiếp “Cương lĩnh ruộng đất”. Uy tín của đảng Cộng Sản ngày một
nâng cao và thực tế là tất cả những cuộc đấu tranh lớn của giai cấp vô sản
trong những năm khủng hoảng đều do đảng này lãnh đạo. Tuy nhiên đảng có tiếng nói
lớn nhất trong quần chúng lao khổ - đảng Xã hội Dân Chủ Đức (có gần 40 vạn đảng
viên) lại không hợp tác với đảng Cộng Sản khiến cho đội ngũ công nhân Đức bị
chia rẽ nghiêm trọng.
Đầu năm 1932, ở
Đức diễn ra bầu cử tổng thống và Hindenbua lại thắng cử do có sự ủng hộ của đảng
Xã Hội Dân Chủ. Ngày 30-5-1932, Hindenbua đã đưa Phôn Papen thay Bơruninh lập
chính phủ mới. Chính quyền Hindenbua - Phôn Papen là một bước tăng cường và củng
cố địa vị của phe cực hữu. Nước Đức đứng trước sự lựa chọn quyết liệt giữa hai
con đường Cách mạng dân chủ vô sản và Chuyên chính phát xít để giải quyết khủng
hoảng (vì đảng Xã hội Dân Chủ đã tỏ ra bất lực).
Trong cuộc bầu
cử tháng 7-1932, đảng Cộng sản Đức với tư cách là đảng phái kiên quyết nhất
trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít giành được thắng lợi to lớn với
27% số phiếu (tăng gấp 10 lần năm 1926) và trong cuộc bầu cử bất thường vào tháng
11-1932 lại thu được 5.972.000 phiếu (hơn lần trước 66.000 phiếu). Tuy nhiên,
như thế vẫn chưa đủ. Mặt trận dân chủ chống phát xít chỉ hình thành được để giành
đa số phiếu, nếu đảng Cộng sản liên minh được với đảng Xã Hội Dân Chủ.
Dù sao, kết quả
bầu cử cũng đưa đến sự thay thế chính phủ Papen bằng chính phủ do Phôn Sơlâykhơ
(Vôn Schleischer) thành lập. Chính phủ mới này chỉ tồn tại được hai tháng. Dưới
áp lực của giới quân phiệt và tài phiệt Đức đòi hỏi một chính phủ “mạnh” hơn mà
xu hướng chuyên chính tư sản cực đoan và dân tộc hẹp hòi nhanh chóng thắng thế.
Đảng Quốc Xã được coi là “lực lượng thực tế” duy nhất và Hitle lĩnh tụ của đảng
này được cho là “người hùng” có thể giải quyết được khủng hoảng, đồng thời ngăn
chặn được chủ nghĩa Bônsêvich ở Đức. Ngày 30-1-1933, tổng thống Hindenbua đã cử
Hitle lên chức thủ tướng Đức. Nước Đức đã chọn con đường phát xít hóa chính quyền,
con đường sẽ dẫn không những là bản thân nó mà cả nhân dân thế giới đến thảm họa
chiến tranh vô cùng tàn khốc, vô cùng đau
thương!
Vừa nắm được chính
quyền, Hitle cùng bè đảng đã nhanh chóng thiết lập chế độ chuyên chính độc tài,
khủng bố công khai, thủ tiêu nền dân chủ tư sản, tuyên truyền mạnh mẽ chủ nghĩa
dân tộc cực đoan, ráo riết chuẩn bị lực lượng chiến tranh.
Ngày 23-2-1933,
chính phủ Hitle được trao quyền hành đặc biệt, thêm cả chức năng lập pháp. Ngày
7-4, Hitle ra đạo luật thủ tiêu mọi quyền tự trị của các tỉnh, thiết lập bộ máy
khủng bố khốc liệt mà lịch sử trước đó chưa biết đến. Tất cả các chính đảng và
tổ chức quần chúng đều bị giải tán, chỉ còn duy nhất đảng Quốc Xã và cái gọi là
“Mặt trận lao động Đức” do chính phát xít Đức lập ra (thực chất là mị dân).
Đặc biệt, chính
quyền phát xít đã ra sức đàn áp nhằm tiêu trừ lực lượng tiến bộ tiên phong, nhất
là Đảng Cộng Sản. Tháng 2-1933, bọn phát xít đốt nhà Quốc hội, rồi vu cáo cho
những người cộng sản, đặt đảng Cộng Sản ra ngoài vòng pháp luật. Tháng 9-1933,
chúng đưa Ghêoócghi Đimitơrốp ra tòa nhằm phá bỏ uy tín của phong trào cộng sản
quốc tế. Song, trước những lý lẽ đanh thép của Đimitơrốp và phong trào bảo vệ ông
diễn ra ở các nước, chúng buộc phải thả ông ra. Ngày 3-3-1933, chúng bắt giam lãnh
tụ đảng Cộng Sản Đức là Tenlơman cùng hàng vạn đảng viên. Năm 1934 có 10 vạn đảng
viên Đảng Cộng Sản Đức bị cầm tù.
Năm 1935, Hitle
thông qua đạo luật Nuyrembéc nhằm bài trừ người Do Thái. Những trại tập trung
khét tiếng sau này như Bukhenvan (Buchenwall), Đasô (Dachau)… liên tiếp mọc lên.
Đêm 29-6-1934,
trong chiến dịch thanh trừng nội bộ đảng Quốc Xã, Hitle đi khắp nước Đức bằng máy
bay để chỉ huy việc bắt giam toàn bộ cơ quan lãnh đạo đội xung kích. Trong cái đêm
“của những lưỡi dao dài” này; gần 1.500 người bị giết, trong đó có Rơm - Tham mưu
trưởng kiêm bộ trưởng các đội xung kích (gọi tắt là S.A). Sau vụ này, các đội
xung kích được cải tổ thành đội quân hậu bị của quân đội phát xít Đức.
Ngày 2-8-1934,
Hindenbua chết, Hitle tuyên bố hủy bỏ hiến pháp Vâyma, ra đạo luật sát nhập chức
tổng thống với thủ tướng và như thế, Hitle nghiễm nhiên trở thành “thủ lĩnh tối
cao” (Fuhrer). Đến đây, chế độ độc tài phát xít đã được thiết lập trên nước Đức.
(Có thể nói thế
này: Đảng Quốc Xã và lãnh tụ của nó là Hitle đã “tẩy chay” được chính quyền dân
chủ tư sản nhờ sự ủng hộ từ lực lượng quân phiệt và cực hữu; thiết lập và giữ
chính quyền độc tài quân sự bằng chuyên chính phát xít. Chính quyền ấy đã điều
hành đất nước Đức theo đường lối, chủ trương của đảng cầm quyền duy nhất là Đảng
Quốc Xã. Phải cho rằng, trong tình hình nước Đức lúc đó, đó chính là một cuộc
phản cách mạng thành công. Tại sao đảng Cộng Sản Đức đã không làm được như vậy?
Hay, tại sao ở Pháp, nơi có truyền thống đấu tranh cách mạng, và nhất là đã từng
có “tiền lệ” là “Công Xã Pari” anh dũng, đảng Cộng Sản Pháp cũng đã không làm được
như vậy? Nếu chỉ nhìn ở góc độ hình thức, bề ngoài mà không dựa trên lập trường
chính trị nào, thì dù có vẻ thô kệch (và không ưa gì chủ nghĩa phát xít!?) chúng
ta thấy sự thành công của phản cách mạng phát xít Đức cùng với hành động thành
lập và giữ chính quyền của nó là (na ná) giống với sự thành công cũng như hành động
thành lập và giữ chính quyền của Cách mạng tháng Mười Nga.
Điều gì đã làm nên sự
(na ná) giống nhau ấy? Chúng ta biết rằng một chế độ (đại diện cho một lực lượng
đứng sau và ủng hộ nó) không dễ gì “khơi khơi” rời bỏ vũ đài chính trị, từ bỏ bảo
vệ quyền lợi của “kẻ” dựng nó lên để thống trị xã hội. Muốn lật đổ nó, thay nó
bằng chế độ mới có bản chất khác nó, thì mọi cuộc cách mạng (hay phản cách mạng)
đều phải dùng áp lực, bạo lực (không nhất thiết là bạo lực vũ trang nhưng thường
là bạo lực vũ trang khi chế độ cũ vẫn còn được bảo vệ bởi một lực lượng vũ
trang). Và để bảo vệ chính quyền mới thì cách mạng hay phản cách mạng đều phải
có lực lượng trấn áp gọi là chuyên chính (cụ thể ở đây là chuyên chính phát xít,
chuyên chính vô sản…). Một lực lượng to lớn, có tính quyết định trong việc tạo
ra áp lực, bạo lực cũng như một sự thành công của cách mạng (hay phản cách mạng)
chính là sự ủng hộ từ Đại Chúng.
Trong lòng một đất nước với sự cầm quyền thuộc
về giai cấp tư sản và trong thời đại đang phát triển của chủ nghĩa tư bản thì
việc cách mạng vô sản có được một bạo lực đủ lật đổ chính quyền tư sản và xây dựng
chính quyền mới chưa có mô hình, cấu trúc, thể chế rõ ràng, lại còn chủ trương
sẽ “cấm tư hữu” (về tư liệu sản xuất) thì thật vô cùng khó khăn, thậm chí là không
thể. Phải chăng vì thế mà hoạt động cách mạng của các đảng Cộng Sản trong các
“chính quốc” chỉ có tác dụng góp phần cải cách chế độ tư bản chủ nghĩa chứ không
thể thiết lập được chính quyền mới, chuyên chính vô sản? Tuy nhiên, nếu đứng trên
lập trường của Đức Huyền Diệu thì cách mạng và phản cách mạng có bản chất tương
phản nhau: một đàng vì quyền lợi của tầng lớp cần lao, một đàng vì quyền lợi của
tầng lớp giàu có. Một đàng là quân tử, một đàng là tiểu nhân và “người quân tử
trong khi làm việc nghĩa có thể vô tình gây ra điều bất nhân, nhưng chưa từng
thấy kẻ tiểu nhân làm được điều nhân nghĩa”) (Khổng Tử).
Vậy thì trong
thời đại ngày nay, nhiều tình thế đã biến chuyển, cách mạng vô sản dưới sự lãnh
đạo của đảng Cộng Sản có thể giành chính quyền từ tay lực lượng tư sản bằng con
đường nghị viện không? (Có thể mà cũng không thể! Là không thể nếu đòi lật đổ để
thay vào đó một chính quyền hoàn toàn có bản chất mới, đối kháng với chế độ cũ
và hơn nữa cứ “nằng nặc” đòi “công hữu”; là có thể nếu đảng Cộng Sản biết tự nhận
thức lại tư tưởng của mình cho phù hợp hơn với lẽ tự nhiên, chấp nhận kế thừa
chế độ cũ để từ đó không phải lật đổ mà là chuyển đổi chính quyền như một cải cách
lớn, thỏa mãn lòng người hơn, chẳng hạn: sở hữu nhà nước lúc này vừa là tư hữu
nhà nước, vừa là tư hữu toàn dân; quyền lực nhà nước vừa chuyên quyền lại vừa có
tính dân chủ cao độ).
Để giải quyết rối
ren, khủng hoảng trong nước, đi đôi với đàn áp, tuyên truyền chính trị, phát xít
Đức tiến hành tổ chức nền kinh tế theo hướng tập trung, mệnh lệnh, bao cấp, tự
cấp tự túc và ưu tiên phục vụ nhu cầu tái vũ trang.
Tháng 7-1933,
Hitle lập Tổng hội đồng kinh tế trực thuộc Bộ kinh tế để tác động, giám sát chặt
chẽ mọi hoạt động kinh tế đất nước. Bản thân bọn đầu sỏ phát xít tham gia ban
quản đốc và hội đồng kiểm soát các công ty lũng đoạn lớn nhất.
Ở các xí nghiệp,
lao động được quân sự hóa, lực lượng công nhân bị quản lý sát sao. Theo sắc lệnh
được Hitle ký ngày 1-5-1933, Thanh niên Đức từ 18 đến 25 tuổi phải thực hiện chế
độ lao động “tự nguyện” trong 2 năm. Họ phải sống như binh lính tập trung trong
các doanh trại.
Công nghiệp Đức
được đẩy lên mức hoạt động hết sức khẩn trương, tập trung vào công nghệ chế tạo
và tìm cách đạt được tự túc về dầu lửa, kim loại, cao su và bông.
Những năm tiếp
theo, nền kinh tế “quân sự hóa” càng được đẩy mạnh công khai, tất cả các ngành đều
hoạt động ưu tiên phục vụ cho việc xây dựng lực lượng quân sự để chuẩn bị chiến
tranh xâm lược. Cả một guồng máy sản xuất công nghiệp được định hướng nhằm thỏa
mãn kế hoạch chế tạo vũ khí, khí tài phát triển lực lượng vũ trang, đặc biệt là
không quân và hải quân, của Bộ tổng tham mưu Đức. Nông nghiệp cũng được cải tổ
theo định hướng đó. Phát xít Đức cũng tăng cường xây dựng đường xá, cầu cống,
kho tàng, căn cứ quân sự trên khắp đất nước. Do đó, nền kinh tế Đức đã được kích
hoạt lên trạng thái rất sôi nổi, khẩn trương, nạn thất nghiệp được giải quyết.
Một số ngành công nghiệp quân sự hoạt động hết công suất, trình độ chế tạo ở
nhiều mặt đã đuổi kịp, thậm chí có mặt vượt trội so với của nhiều nước tư bản lớn.
Tuy nhiên, chúng ta thấy, giải quyết khủng hoảng bằng một nền công - nông nghiệp
đột biến, sôi nổi một cách thái quá do cưỡng bức như vậy, nhất định sẽ lại sụp đổ
nhanh chóng nếu không giải quyết được “đầu ra” bằng chiến tranh xâm lược. Vì vậy
sự gây chiến trong tương lai gần của phát xít Đức là không tránh khỏi.
Bên cạnh những
nỗ lực xây dựng, sản xuất cơ sở đáp ứng cho cuộc chiến tranh qui mô lớn, guồng
máy tuyên truyền, mị dân của phát xít Đức cũng được vận động hết công suất
trong xã hội về một “nước đại Đức”, về một “dân tộc Đức thuần chủng”, về tư tưởng
“phục thù rửa hận” cho sự thất trận của nước Đức trong thế chiến thứ nhất…, nhằm
nhồi sọ nhân dân Đức, nhất là tầng lớp thanh thiếu niên. Bắt đầu từ tháng
3-1935, tức khoảng 7 tháng sau khi được bè đảng và lực lượng quân phiệt suy tôn
lên làm “Quốc trưởng”, Hitle lập tức ban hành sắc lệnh “Cưỡng bức quân sự”, qui
định tất cả trai tráng từ 18 đến 35 phải đăng lính. Ba năm sau, phát xít Đức đã
có một đạo quân thường trực tới hơn một triệu người và khi cần thiết, có thể
huy động tới hơn 5 triệu lính.
Nói thêm, có quân
đội, vũ khí nhiều, chưa hẳn đã quyết định được chiến trường. Bên cạnh việc “tái
vũ trang” nước Đức, bên cạnh việc cải tiến, thiết kế chế tạo mới những trang
thiết bị, vũ khí cơ động hơn, phát huy hiệu quả hỏa lực hơn, Hitle cùng Bộ tổng
chỉ huy Đức cũng ráo riết xây dựng cho được một học thuyết chiến tranh với chiến
lược “chiến tranh chớp nhoáng” và sau này thực tế đã áp dụng nó để phát động
Chiến tranh thế giới thứ hai.
Thật ra, sau
Chiến tranh thế giới thứ nhất, đã có nhiều nhà lý luận quân sự Đức luận bàn, đề
xướng những cách thức tiến hành cho cuộc chiến “phục thù” ở tương lai. Chẳng hạn,
năm 1927, tướng quí tộc là Phôn Braosít đã đề ra thuyết “Chiến tranh tổng lực”,
nghĩa là huy động toàn bộ nhân tài vật lực của nước Đức vào chiến tranh. Tiếp đó,
các viên tướng phát xít là Âymenxbécgiơ, Phulơ, Guđêrian nhấn mạnh rất nhiều đến
vai trò xe tăng và đưa ra luận điểm sử dụng xe tăng thành “một lực lượng xung kích
trong mũi tiến công”. Tướng Gơrinh đề ra thuyết “ném bom rải thảm” và điều cần
thiết phải “tận dụng lực lượng không quân trong những trận ném bom hủy diệt”.
Theo bản huấn
thị do Hitle ký ngày 25-10-1938 thì về đại thể, nguyên tắc của “chiến tranh chớp
nhoáng” là:
- Tận dụng ưu
thế về xe tăng và các sư đoàn bộ binh cơ giới có máy bay yểm trợ, đột phá mạnh,
chọc thủng phòng tuyến đối phương rồi cứ thế tiến thật sâu, thật xa tùy theo điều
kiện va khả năng cho phép.
- Tập trung cao
độ binh lực, hỏa lực vào mũi tiến công chủ yếu. Tùy trường hợp cụ thể, có khi
không cần tổ chức mũi tiến công thứ yếu mà chỉ cần một mũi đánh thật mạnh vào
chính diện đối phương.
- Đặt nhiệm vụ
tiêu diệt sinh lực địch là chính, chiếm giữ đất là phụ. Sau khi đột phá bằng các
mũi tiến công sâu, mạnh thì lúc đó sự phát triển của chiến dịch sẽ hình thành
thế bao vây vu hồi, tiêu diệt, làm tan rã bộ phận binh lực chủ yếu của đối phương,
từ đó mới bắt đầu tổ chức càn quét, bình định, chiếm đóng lâu dài.
Về chính sách đối
ngoại, ngay khi lên nắm chính quyền, Hitle đã tuyên bố hủy bỏ hiệp ước Vécxây.
Tháng 3-1936, Hitle cho quân chiếm đóng khu phi quân sự Rênani (Rhenanie). Ngày
25-11-1936, Đức ký với Nhật bản hiệp ước “chống Quốc Tế Cộng Sản”. Tháng
11-1937, Ý chính thức tham gia hiệp ước này. Như vậy liên minh chính trị - quân
sự tay ba Đức - Ý - Nhật đã hình thành, ba lò lửa chiến tranh thế giới thứ hai đã
hợp thành một “Trục”.
Sau các cuộc đánh
chiếm có tính chất thăm dò (thôn tính Áo vào tháng 3-1938 rồi Tiệp Khắc vào tháng
3-1939) mà không gặp sự phản kháng nào từ các cường quốc tư bản Anh, Pháp, Mỹ
(với chính sách hòa hoãn, “không can thiệp”), phát xít Đức quyết định tấn công
Ba Lan, gây ra cuộc chiến tranh thế giới thứ hai.
5 - Ý:
Sau chiến tranh
thế giới thứ nhất, Ý thiệt hại nặng, đất nước kiệt quệ mọi nguồn dự trữ về vật
chất và tài chính: tiêu mất 65 tỷ Lia vàng (tiền Ý), gần 60% tàu buôn bị hủy hoại,
63,5 vạn người chết và gần 50 vạn người bị thương vì chiến tranh, còn vay của Mỹ,
Anh 4 tỷ đôla; nông nghiệp bị thu hẹp 10% diện tích trồng trọt. Thêm vào đó, dù
thuộc phe thắng trận, nhưng là nước nhỏ, yếu thế, không kiếm chác được gì ở hội
nghị Vécxây nên nền kinh tế Ý càng lâm vào tiêu điều. Đời sống giảm sút nghiêm
trọng, nhiều người khốn đốn, cộng thêm ảnh hưởng từ Cách mạng tháng Mười mà
phong trào đấu tranh quần chúng dâng lên mạnh mẽ.
Cuộn đấu tranh
của công nhân Ý đạt đến đỉnh cao nhất vào năm 1920. Mùa thu năm 1920, phong trào
lan khắp toàn quốc. Quần chúng, công nhân sau khi chiếm nhà máy, xí nghiệp đã tổ
chức quản lý sản xuất và phân phối, thành lập các “đội cận vệ đỏ” để bảo vệ xí
nghiệp. Ở một số thành phố, công nhân còn nắm giữ các hội đồng, thị chính. Tuy
nhiên, đảng Xã Hội và các lãnh tụ công đoàn đã đi đến thỏa hiệp, ký kết thỏa ước
với chính phủ và các chủ xí nghiệp với một số nhượng bộ đối với công nhân. Đạt được
những nhượng bộ về quyền lợi đó, phong trào công nhân lắng xuống.
Những người phái
tả (chiếm thiếu số) trong đảng Xã Hội, không đồng tình với chủ trương thỏa hiệp,
do Antôniô Gơramxi đứng đầu, đã tách ra thành lập đảng Cộng Sản Ý vào ngày
21-1-1921.
Trong bối cảnh đó,
các thế lực cực hữu và dân tộc cực đoan cũng nổi dậy và tăng cường hoạt động. Từ
đầu năm 1919, thành lập “Liên minh chiến đấu của nước Ý” (Fascio Italiani di
combattimento); tập hợp lực lượng bằng một “cương lĩnh xã hội” mị dân, kích động
chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi. Lúc đầu, nó gồm các cựu chiến binh đã tham gia chiến
tranh thế giới thứ nhất, sau mở rộng, kết nạp thêm công nhân, thanh niên, công chức.
Buổi đầu thành lập (1919), tổ chức này có khoảng 17.000 hội viên, đến năm 1922
(khi công bố chính cương, điều lệ như một đảng) số hội viên đã lên đến 700.000
người.
Từ năm 1921, đảng
phát xít (từ này có nguồn gốc từ Fascio) của Mútxôlini. Chủ trương chống lại
phong trào cách mạng công nhân. Mùa thu năm 1922, lực lượng phát xít đã nắm được
những hội đồng của các thành phố lớn nhất, trong đó có Bôlônhơ và Milanô. Ngày
29-10-1922, dưới sức ép của chúng, vua Vichto Emmanuen III đã tuyên bố đề cử Mútxôlini
làm Thủ tướng. Ngày 30-10-1922, bốn vạn thành viên phát xít có vũ trang đã thực
hiện cuộc “tiến quân vào Rôma”, cướp được chính quyền một cách dễ dàng. Sau khi
nhậm chức, Mútxôlini tuyên bố: chính phủ cũ (theo chế độ đại nghị tư sản) đã bị
lật đổ và chính thức thành lập một “chính quyền mạnh” (thực chất là theo chế độ
độc tài quân sự).
Trong hai năm
1923 - 1924, công nghiệp Ý đã có sự phát triển, nhờ một phần quan trọng là vay được
những khoản tiền lớn của Mỹ. Riêng nước Mỹ đã đầu tư vào các công ty cổ phần ở Ý
gần 200 triệu đôla.
Ngay từ đầu cầm
quyền, chính phủ Mútxôlini đã thủ tiêu mọi ràng buộc về hoạt động kinh doanh, bãi
bỏ nhiều thứ thuế cho bộ phận đại tư bản, bỏ chế độ làm việc 48 tiếng một tuần,
cho phép chủ tư bản được tự do định đoạt chế độ làm việc ở các xí nghiệp, áp dụng
chính sách khủng bố tàn bạo và công khai chống lại phong trào cách mạng vô sản,
truy nã và giết hại hàng loạt những người Cộng Sản, hạ thấp lương công nhân, tăng
thuế đánh vào nông dân, cho các đảng tư sản tham gia chính phủ và giữ nguyên các
tổ chức công đoàn, nghị viện…
Đầu năm 1926, tình
hình chính trị trong nước trở nên rối loạn. Phong trào chống chủ nghĩa phát xít
tăng cao. Các đảng Cộng Sản, đảng Xã Hội, đảng Thiên Chúa Giáo và nhiều đảng phái
khác lập thành phe đối lập chống chính phủ. Mútxôlini nhiều lần bị ám sát hụt.
Nhân đó, chính phủ ban bố hàng loạt đạo luật nhằm tăng cường chuyên chính phát
xít, như: cấm tất cả các đảng phái (trừ đảng phát xít), thủ tiêu tư cách các
nghị viện và đóng cửa các cơ quan báo chí của họ, lập tòa án đặc biệt để bắt bớ,
xử tử những người chống phát xít… Cuối cùng, đạo luật ban hành tháng 3-1928
trao cho lãnh tụ đảng phát xít quyền chọn đại biểu quốc hội, Mútxôlini trở thành
độc tài, “nhân danh quyền lợi quốc gia” để thực hiện cai trị. Từ đây, chế độ dân
chủ tư sản ở Ý bị thủ tiêu tận gốc, nhường chỗ cho chế độ phát xít khắc nghiệt
và độc đoán.
Về đối ngoại, nước
Ý phát xít tìm cách bành trướng, giành quyền làm chủ vùng biển Ađơriatich, mở rộng
và duy trì ảnh hưởng ở Trung Âu. Trong những năm 1926 - 1927, phát xít Ý ra sức
hoạt động và đã ký kết hiệp ước liên minh với Anbani mà trên thực tế là để kiểm
soát nước này về tài chính và quân sự, chuẩn bị điều kiện cho những cuộc xâm lược
ra vùng Bancăng sau này.
Năm 1929, cuộc
khủng hoảng kinh tế thế giới lan sang Ý, giáng đòn nặng nề về nền kinh tế vốn còn
yếu ớt ngay trong thời kỳ ổn định trước đó. Sản lượng công nghiệp năm 1932 giảm
xuống còn 66,8% so với năm 1929, ngoại thương giảm 3 lần, khối lượng vận tải đường
sắt giảm 44%. Cuộc khủng hoảng kinh tế ở Ý kéo dài rất lâu và không có giai đoạn
phục hưng.
Đời sống của quần
chúng trong những năm tháng này ngày càng khổ cực, tiền lương giảm sút rõ rệt,
số người thất nghiệp lên đến gần 1 triệu, rất nhiều nông dân bị phá sản, lâm vào
khốn quẫn. Chính vì vậy mà phong trào đấu tranh của quần chúng cần lao lại nổi
lên mạnh mẽ và lẽ đương nhiên là bộ máy đàn áp của chế độ phát xít phình lên
theo (tính đến năm 1938, riêng lực lượng cảnh sát đã lên tới 721 ngàn người).
Nước Ý phát xít
cũng mưu đồ thoát ra khỏi khủng hoảng bằng cách tăng cường trấn áp, bóc lột nhân
dân trong nước đồng thời với những cuộc phiêu lưu quân sự ở nước ngoài nhằm giành
giật thị trường và đòi chia lại thuộc địa. Mútxôlini đã nuôi giấc mộng “Đại đế
quốc La Mã” muốn xâm chiếm Bancăng, Ai Cập, Xu Đăng…, muốn biến Địa Trung Hải
thành hải phận của mình và thiết lập nền thống trị ở Cận Đông. Ngày 3-10-1935, Ý
đem quân xâm lược Êtiôpi và chiếm toàn bộ nước này vào tháng 5-1936. Năm 1936, Ý
và Đức tiến hành can thiệp chống nước Cộng hòa Tây Ban Nha. Tháng 10-1936, Ý kí
hiệp ước liên minh với Đức, sau đó gia nhập hiệp ước “Chống Quốc Tế Cộng Sản”.
Tháng 4-1939, Ý thôn tính Anbani và ký hiệp định mới về liên minh quân sự và chính
trị với Đức trong thời hạn 10 năm.
Qua theo dõi tình
hình thời sự nước Ý vừa rồi chúng ta thấy rằng nhà nước phát xít đầu tiên trên
thế giới không phải là ở Đức mà chính là ở Ý, và người “sáng lập ra chủ nghĩa
phát xít” không phải là Hitle mà là Mútxôlini. Rất nhiều khả năng là để đi đến
mô hình chính quyền phát xít, Mútxôlini đã có thể học đòi một cách hình thức từ
mô hình nhà nước Xô Viết và nền kinh tế kiểu tập trung của nó. Lời phán đoán này
có vẻ “đổng”, nhưng… thôi kệ. Chúng ta tắt ngang, kể câu chuyện ngoài lề sau đây
để bảo vệ ý mình, dù có thể là… ỉu xìu.
Bênitô Amincare
Andrêa Mútxôlini ra đời ngày 25-7-1883 trong một gia đình nghèo ở Ý, cha làm thợ
rèn, mẹ là giáo viên tiểu học. Cuộc đời của Mútxôlini từ thời thơ ấu đến khi trở
thành lãnh tụ phát xít Ý là một chặng đường biến đổi tư tưởng kỳ lạ. Ngay từ thời
kỳ còn ngồi trên ghế nhà trường, Mútxôlini đã được hấp thụ tư tưởng của người
cha lúc đó là đảng viên đảng Xã Hội hoạt động trong phong trào công nhân Ý. Năm
18 tuổi, ngay sau khi tốt nghiệp Trường trung cấp sư phạm, Mútxôlini lập tức
xin gia nhập đảng Xã Hội. Năm sau, Mútxôlini bỏ nghề dạy học, sang Thụy Sĩ, vừa
làm thợ nề kiếm sống, vừa hoạt động trong phong trào công nhân Thụy Sĩ. Tại đây,
Mútxôlini đã được tiếp xúc với nhiều trào lưu cách mạng thế giới hồi đầu thế kỷ
XX. Bị trục xuất vì dính líu đến hoạt động tổ chức bãi công của công nhân, Mútxôlini
quay về Ý, rồi thực hiện nghĩa vụ quân sự 2 năm (1905 - 1907), sau đó là giáo
viên dạy tiếng Pháp trong một trường trung học, nhưng vẫn tiếp tục hoạt động chính
trị trong hàng ngũ đảng Xã Hội nhằm lật đổ chế độ quân chủ Ý. Đích thân Mútxôlini
đã từng là chủ bút tờ tuần báo của đảng Xã Hội mang tên “Đấu tranh giai cấp”
(La lotta di classa) rồi tờ báo hàng ngày “Tiến lên” (Avanti) của đảng Xã Hội.
Năm 1914, chiến
tranh thế giới thứ nhất bùng nổ. Mútxôlini là một trong những nhà hoạt động chính
trị công khai phản đối cuộc chiến tranh đế quốc nhằm xâu xé thị trường thế giới.
Đến tháng 3-1915, chính nước Ý, tổ quốc của Mútxôlini cũng bị lôi cuốn vào chiến
tranh. Một lần nữa, Mútxôlini lại nhập ngũ. Tháng 2-1917, Mútxôlini bị thương,
xuất ngũ và sau khi bình phục, lại tiếp tục viết báo, hoạt động chính trị.
Như vậy là cho đến
35 tuổi, tức là khi kết thúc chiến tranh thế giới, Mútxôlini vẫn theo lập trường
đấu tranh của đảng Xã Hội và trở thành nhà hoạt động trong phong trào công nhân
ở Ý, được người ta biết đến tên tuổi qua các bài báo, qua các bài “diễn văn nảy
lửa” về “đấu tranh giai cấp”, về “đoàn kết nhân dân”, về “bảo vệ hòa bình” của ông
ta.
Bước ngoặt thay
đổi lập trường tư tưởng của Mútxôlini có thể đã xảy ra ngay sau khi chiến tranh
kết thúc, trong tình hình xám xịt và tiêu điều của đời sống xã hội - kinh tế nước
Ý. Hoàn cảnh đó đã làm Mútxôlini suy nghĩ, tìm tòi cơ sở lý luận cũng như những
kinh nghiệm thực tiễn trên thế giới để đề ra một đường lối chính trị khả dĩ nhằm
khôi phục đất nước, chấn hưng dân tộc, để rồi bắt đầu từ năm 1919, ông ta đã đi
đến một chủ nghĩa và làm cho nó xuất hiện trên chính trường Ý mà sau này được gọi
là “chủ nghĩa phát xít” - con đẻ quái thai từ tư tưởng chuyên chế, độc tài cùng
với sự hô hào tinh thần dân tộc vị kỷ để huy động toàn bộ đất nước đi tìm kiếm
danh lợi bằng những cuộc chiến tranh xâm lược đất nước khác, bằng sự nô dịch các
dân tộc khác, mà thực chất ra là phục vụ quyền lợi cho đám tài phiệt đại tư bản.
“Chủ nghĩa phát
xít” (Fascism), về mặt ngôn từ, bắt nguồn từ danh từ “Fascio” của Ý, nghĩa đen
là “bó” (như bó rau, bó củi), nghĩa bóng là liên minh, liên kết với nhau.
“Fascio” còn là tên gọi của một vũ khí cổ ở Ý. Vũ khí này gồm có một cái rìu, cán
rìu được buộc thêm một bó củi ở chung quanh cho chắc. Mútxôlini đã chọn vũ khí
Fascio này làm biểu tượng cho đảng của ông ta. Hình ảnh bó củi buộc chặt vào cán
rìu tượng trưng cho sự liên minh, liên kết, sự gắn bó chặt chẽ của các đảng viên
với nhau xung quanh lãnh tụ (El Đuce). Lãnh tụ đó chính là chiếc rìu tự xưng, có
tên gọi Benitô Mútxôlini. Tiền thân của đảng phát xít với thủ lĩnh là Mútxôlini
chính là tổ chức “Liên minh chiến đấu của nước Ý” (cũng do chính Mútxôlini sáng
lập).
Hitle nổi bật
trên vũ đài thế giới như một tên phát xít đầu sỏ khét tiếng tàn bạo, từng làm mưa
làm gió trên khắp chiến trường châu Âu. Nhưng rõ ràng chính Mútxôlini mới là
cha đẻ của “chủ nghĩa phát xít”. Vị “cha đẻ” này nhỏ và yếu đến nỗi bị cái bóng
của Hitle che khuất và phải nhờ che chở bằng cách đi theo, trở thành đồng minh
“bèo bọt” của phe Trục.
Nhiều nhà sử học
phương Tây khẳng định, Mútxôlini đã đề xướng ra nhiều đường lối chính sách, thậm
chí cả những chủ trương cụ thể của chủ nghĩa phát xít mà sau đó Hitle đã bắt chước,
rập khuôn. Nổi bật lên trên hết là cái “chủ nghĩa phát xít” và “chính đảng phát
xít” Mútxôlini đã đề ra từ năm 1922 thì đến năm 1927, Hitle mới vay mượn để phác
thảo “chính cương” của đảng Quốc Xã Đức. Năm 1922, Mútxôlini thành lập tổ chức
“áo sơmi đen” nhằm lôi cuốn thanh niên làm lực lượng xung kích cho lực lượng phát
xít Ý, thì đến 10 năm sau, ở Đức cũng xuất hiện tổ chức tương tự với tên “áo sơmi
nâu”. El Duce có nghĩa là lãnh tụ tối cao; Mútxôlini sữ dụng đề tập trung quyền
lực với khẩu hiệu “El Duce quyết định tất cả”. Danh xưng “thủ lĩnh tối cao”
(Fuhrer) của Hitle chính là phiên dịch ra tiếng Đức từ El Duce…
6 - Nhật Bản:
Mùa xuân năm
1927, ở Nhật đã xuất hiện những dấu hiệu của khủng hoảng kinh tế, đó là cuộc khủng
hoảng tài chính. Đến năm 1929, sự sụp đổ của thị trường chứng khoán Mỹ dẫn đến đại
suy thoái ở Châu Âu đã giáng một đòn nặng nề vào nền kinh tế Nhật. Khủng khoảng
xảy ra trầm trọng nhất trong nông nghiệp (vì nông nghiệp Nhật phụ thuộc vào thị
trường ngoài nước). Việc xuất khẩu tơ sống (chiếm gần 45% số hàng xuất cảng) giảm
đến 84%. Mậu dịch đối ngoại năm 1930 so với năm 1925 giảm 2%, năm 1931 so với năm
1930 giảm 20%, và năm 1933 còn giảm nữa. Giá gạo năm 1930 so với năm 1929 hạ xuống
còn một nửa. Sản xuất công nghiệp cũng sụt giảm nhanh chóng, năm 1930 sản lượng
gang giảm 30%, thép giảm 47%.
Thị trường
trong nước cũng bị thu hẹp do sự bần cùng hóa của nhân dân lao động. Chính phủ
Hamaguxi (cầm quyền từ năm 1927) đã thi hành chính sách tiết kiệm bằng cách giảm
ngân sách và hạ lương công nhân viên chức. Vào đầu năm 1930, ở Nhật có 1,5 triệu
người thất nghiệp, đến giữa năm 1931 là 2,5 triệu người và cuối năm đó tăng lên
là 3 triệu người.
Cuộc khủng hoảng
gây ra những hậu quả tai hại trong xã hội Nhật. Mâu thuẫn xã hội trở nên ngày một
gay gắt. Năm 1929 có 276 cuộc bãi công nổ ra, năm 1930 có 907 cuộc và năm 1931
có 998 cuộc.
Chủ nghĩa tư bản
- đế quốc Nhật ngay từ khi mới ra đời đã mang sẵn tính quân phiệt và hiếu chiến
khi khủng hoảng nổ ra, theo xu thế chung là tăng cường quản lý nhà nước để giải
quyết hậu quả ở các nước tư bản và trong trường hợp thiếu nguyên liệu, thiếu thị
trường tiêu thụ do nạn khủng hoảng toàn diện, toàn bộ hệ thống tư bản chủ nghĩa
bị phong tỏa thì tương tự như Đức, Ý, nước Nhật cũng kiện toàn bộ máy nhà nước
theo hướng quân phiệt hóa.
Thị trường Trung
Quốc rộng lớn luôn là đối tượng mà giới tài phiệt Nhật muốn độc chiếm từ lâu, đặc
biệt là vùng đông - bắc, nơi tập trung 77% tổng số vốn của Nhật vào Trung Quốc.
Ngày 18-9-1931, Nhật tạo ra “sự kiện đường sắt Nam mãn Châu” với lấy cớ đó đánh
chiếm vùng đông - bắc Trung Quốc, dựng lên cái gọi là “nước Mãn Châu”, dựng Phổ
Nghi (hoàng đế cuối cùng của nước Trung Hoa quân chủ) đứng đầu chính phủ bù nhìn,
biến miền đó thành thuộc địa và bàn đạp của những cuộc phiêu lưu quân sự mới.
Tuy nhiên,
trong nội bộ giới quân phiệt Nhật có sự mâu thuẫn nhau, chủ yếu trong vấn đề tiến
hành chiến tranh xâm lược. Phái “Tân hưng” (“Sĩ quan trẻ”, được đám tài phiệt mới
ủng hộ) chủ trương lật đổ chính phủ lập hiến, thành lập chính quyền độc tài quân
sự mạnh và khẩn trương tiến hành chiến tranh xâm lược qui mô lớn. Còn phái “Thống
chế” (“Sĩ quan già”, được đám tài phiệt cũ ủng hộ) thì muốn dùng bộ máy nhà nước
sẵn có để tiến hành chiến tranh thận trọng và có sự chuẩn bị kỹ hơn. Từ năm
1932 đến năm 1935, xung đột gay gắt đã diễn ra giữa hai phái này.
Ngày 26-2-1936,
phái “Sĩ quan trẻ” đã tiến hành đảo chính lật đổ chính phủ Ôcada để lập chính
quyền độc tài quân sự. Cuộc đảo chính thất bại do không được đa số quân đội ủng
hộ và bị phản đối bởi đông đảo nhân dân Tôkiô (thủ đô Nhật) và nhiều nơi khác.
Dù bất thành nhưng ảnh hưởng của nó đã tăng cường tính cực hữu, phát xít đối với
các chính phủ sau đó.
Tháng 2-1937, tướng
Haiaxi lập nội các mới và ngày 31-3, tuyên bố giải tán quốc hội. Tháng 6-1937,
sau cuộc tuyển cử, công tước Cônôê - chủ tịch thương viện - giữ chức thủ tướng.
Chính phủ Cônôê là sự hòa hoãn tạm thời giữa các phe phái đối lập trên cơ sở thừa
nhận cương lĩnh chiến tranh và đảm bảo đặc quyền của nghị viện.
Ngày 4-1-1939,
chính phủ Cônôê từ chức. Nội các mới do Hiranuma cầm đầu ra đời. mặc dù tuyên bố
rằng chính sách của mình “Không phải dân chủ cũng không phải phát xít” (?) nhưng
thực chất đã thi hành những biện pháp của một chế độ độc tài quân sự, hiếu chiến:
ra đạo luật tổng động viên toàn quốc, tăng cường kiểm soát kinh tế bằng cách thành
lập “đội cảnh sát kinh tế”, thiết lập chế độ kiểm duyệt gắt gao để triệt thoái
mọi biểu hiện chống chính phủ. Chính quyền Hiranuma cho rằng Mặt trận nhân dân
là nguy hiểm nhất nên tiến hành đàn áp thẳng tay. Về đối ngoại, chính quyền này
coi nhiệm vụ phát động chiến tranh xâm lược, cùng đồng minh trong phe Trục chống
Liên Xô, Anh, Pháp, Mỹ là mục đích của mình.
Trước khi nổ ra
chiến tranh thế giới thứ hai, giới quân phiệt Nhật đã mở rộng chiến tranh ra toàn
cõi Trung Quốc, tiến hành xâm lấn Mông Cổ, khiêu khích Liên Xô. Ngày 7-12-1941,
Nhật bất ngờ tấn công căn cứ hải quân Mỹ là Trân Châu Cảng (Pearl
Harbor), gây ra cuộc chiến tranh Thái Bình Dương.
***
Nguyên nhân sâu
xa của chiến tranh thế giới là bản chất chuyên quyền, bạo ngược, vô nhân của nền
quân chủ chuyên chế phong kiến còn đọng lại trong xã hội mới có nền kinh tế ưu
tiên phát triển sản xuất hàng hóa công nghiệp qui mô lớn mà sự thịnh suy của nó
hoàn toàn lệ thuộc vào khả năng cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường.
Nguyên nhân trực
tiếp của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai là cuộc đại khủng hoảng thừa
1929 - 1933 trong toàn bộ hệ thống các nước tư bản chủ nghĩa gây tác hại nặng nề
lên toàn cầu trong thời đại thực dân - đế quốc
Chiến tranh thế
giới thứ hai có thể là không tránh khỏi, nhưng mức độ tàn phá, hủy diệt về của
và người của nó đến mức ghê gớm cũng như qui mô lan tỏa của nó như đã xảy ra là
có thể hạn chế được nếu các cường quốc tư bản không có thái độ thù địch quá đáng
đối với nước Nga Xô viết để ngay từ sớm hình thành một liên minh thực sự kiên
quyết chống sự bành trướng xâm lược của cả ba lò lửa chiến tranh là Đức, Ý, Nhật.
Tất cả các sự kiện dồn dập xảy ra trong 10 năm, từ năm 1929 đến năm 1939 trên
chính trường thế giới đã chứng minh điều đó.
Không kể ra cho
lê thê, nhưng có thể chia thời kỳ mười năm đó ra thành hai giai đoạn. Giai đoạn
thứ nhất, trong khoảng 1929-1936, là giai đoạn hình thành hệ thống các nước phát
xít, làm tan vỡ về cơ bản hệ thống hiệp ước Vécxai - Oasinhtơn. Giai đoạn thứ
hai, trong khoảng những năm 1936-1939, là thời kỳ xuất hiện phe Trục đe dọa thế
giới, sự thỏa hiệp nhân nhượng đến mức nhu nhược đối với các nhà nước phát xít đồng
thời thái độ cực đoan chống Liên Xô của Anh, Pháp, Mỹ đã gây khó khăn, làm chậm
việc hình thành khối đồng minh kiên quyết chống chủ nghĩa phát xít, dẫn đến sự
bùng nổ cuộc chiến tranh thế giới thứ hai mà không gì ngăn chặn được, để rồi không
những các cường quốc Đồng Minh mà cả thế giới phải trả một cái giá quá đắt.
Trong cuộc chiến
tranh thế giới lần thứ hai, có một đất nước mà định mệnh đã giao làm người lính
xung kích của lực lượng tiến bộ chống chủ nghĩa phát xít và thực tế đã đóng vai
trò quyết định đến việc tiêu diệt chủ nghĩa phát xít, chấm dứt chiến tranh thế
giới thứ hai, đó là Liên bang Xô Viết.
Sau 4 năm chiến
tranh đế quốc và 3 năm chiến tranh can thiệp - nội chiến, nước Nga Xô Viết bước
vào thời kỳ xây dựng hòa bình từ một nền kinh tế tan hoang. Năm 1920, sản xuất
công nghiệp giảm 7 lần so với năm 1913, khai thác dầu mỏ giảm khoảng 3 lần, sản
lượng gang giảm 30 lần. Do thiếu cả nguyên liệu lẫn nhiên liệu, phần lớn các nhà
máy phải đóng cửa, đình chỉ sản xuất. Giao thông vận tải hầu như không còn đủ sức
duy trì những mối liên hệ bình thường giữa các vùng trong nước. Hơn 7 vạn km đường
sắt, một nửa số đầu máy xe lửa bị phá hủy. Nông nghiệp cũng bị tàn phá nặng nề,
sản lượng nông nghiệp chỉ còn khoảng một nửa so với thời kỳ trước chiến tranh.
Do không có đủ bánh mì và các thực phẩm cần thiết khác, các thành phố và các
trung tâm công nghiệp đã lâm vào nạn đói trầm trọng. Nhiều công nhân phải bỏ về
nông thôn để kiếm sống. Theo sau nạn đói là sự hoành hành của các loại bệnh dịch
nguy hiểm.
Trong khi đó tình
hình đối ngoại của nước Nga Xô Viết cũng không kém phần khó khăn, phức tạp. Mặc
dù phải ký một số hiệp ước thương mại nhưng các nước tư bản chủ nghĩa vẫn không
công nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao với nước Nga Xô Viết. Trong những năm
1921-1922, chính phủ Xô viết đã tiến hành ký kết hiệp ước hữu nghị và thiết lập
được quan hệ ngoại giao với các nước: Iran, Ápganixtan, Thổ Nhĩ Kỳ, Mông Cổ, Na
Uy, Áo, Thụy Điển, Ý, Tiệp Khắc và Đức. Âm mưu của các nước đế quốc định thành
lập một mặt trận thống nhất thù địch, chống nước Nga Xô Viết thất bại (mang tư
tưởng chống đối chủ nghĩa tư bản “điên cuồng” thì cũng phải chịu sự chống cộng
sản điên cuồng của chủ nghĩa tư bản, lẽ tự nhiên là thế!).
Về đối nội, bên
cạnh những khó khăn về kinh tế, từ mùa xuân năm 1921, nước Nga Xô Viết còn vấp
phải những khó khăn nghiêm trọng về chính trị. Trong nông dân xuất hiện tình trạng
bất mãn. Chính sách cộng sản thời chiến với việc trưng thu toàn bộ lương thực
thừa của nông dân để bảo vệ thành quả cách mạng và cứu nước là cần thiết và được
đa số nông dân chấp nhận thì đến thời bình, việc làm đó đã không những đối lập
với lợi ích bản thân người nông dân mà còn là một trở ngại đối với sự phát triển
kinh tế đất nước. Nông dân muốn được tự do sử dụng sản phẩm lao động của mình,
tự do trao đổi ở thị trường và tự do mua hàng nông nghiệp (giống hệt thời kỳ trước
đổi mới ở Việt Nam!).
Đói kém và mệt mỏi
cũng làm cho nhiều công nhân bất bình. Trong giai cấp công nhân có tình trạng vừa
giảm sút về số lượng, vừa phân tán về đội ngũ. Số lượng công nhân công nghiệp
chỉ còn bằng một nửa so với năm 1913. Đội ngũ công nhân lành nghề lại càng ít ỏi.
Tình hình đó đã
làm lực lượng phản cách mạng có điều kiện ngóc đầu dậy, ra sức kích động sự bất
bình trong nông dân và công nhân. Nổi dậy đã xảy ra rải rác ở nhiều địa phương
như: Ucraina, Uran, Xibia, vùng dọc sông Vônga… Bạo loạn mang tính chất phá hoại
xuất hiện khắp nơi. Ở tỉnh Tambốp (Ucraina), một nhóm phản cách mạng đã chiếm được
5 huyện. Ngay tại Mátxcơva và Pêtrôgrát, các thành phần phản cách mạng đã lôi kéo
được công nhân tổ chức đình công.
Đặc biệt nghiêm
trọng là cuộc nổi loạn ở pháo đài Crôngxtát vào đầu tháng 3-1921 do thành viên
Xã hội cách mạng, Mensêvích, Bạch Vệ cầm đầu và nhận được sự ủng hộ của thế lực
đế quốc. Chúng định biến pháo đài thành căn cứ xuất phát cho một cuộc can thiệp
vũ trang mới của các nước đế quốc. Chính quyền Xô Viết đã phải thi hành biện pháp
kiên quyết nhất. Sau một đêm tấn công quyết liệt, sáng sớm ngày 18-3, các chiến
sĩ Xô Viết đã chiếm được pháo đài, dẹp tan cuộc bạo loạn.
Những sự kiện ở
Crôngxtát và ở các địa phương khác đã trở thành những dấu hiệu rõ ràng của sự
khủng hoảng chính trị và cuộc khủng hoảng ấy đã lan vào cả nội bộ đảng Bônsêvich.
Trong Đảng đã xuất hiện các nhóm đối lập chống lại đường lối của Lênin và Ban
chấp hành trung ương như các nhóm “Đối lập công nhân”, “Tập trung dân chủ”, “Cộng
sản phái tả” và nguy hại nhất là nhóm của Trốtxki. Trốtxki đã khởi xướng cuộc
tranh luận về cái gọi là vấn đề công đoàn, đòi áp dụng những phương pháp cưỡng
bức mệnh lệnh, biến công đoàn thành vật phụ thuộc vào nhà nước.
Tình hình khó
khăn vô vàn của đất nước và hiện tượng xói mòn lòng tin vào chế độ đòi hỏi Đảng
và Nhà nước Xô Viết phải có biện pháp cấp bách để khắc phục.
Từ ngày 8 đến
ngày 16-3-1921, Đảng Bônsêvích tiến hành Đại hội lần thứ X. Dựa theo báo cáo của
Lênin, Đại hội đã thông qua nghị quyết quan trọng về việc chuyển từ Chính sách
cộng sản thời chiến sang Chính sách kinh tế mới (NEP). Nội dung chủ yếu của NEP
là:
- Thay chế độ
trưng thu lương thực thừa bằng chính sách thuế lương thực. Thuế lương thực nộp
bằng hiện vật. Sau khi nộp đủ số thuế đã qui định từ trước mùa gieo hạt, nông dân
được toàn quyền sử dụng số nông phẩm còn lại của mình và được tự do bán ra thị
trường.
- Trong công
nghiệp, Nhà nước Xô Viết tập trung lực lượng và phương tiện khôi phục công nghiệp
nặng, đồng thời cho phép tư nhân được thuê hoặc xây dựng những xí nghiệp loại
nhỏ (dưới 20 công nhân) dưới sự kiểm soát của Nhà nước, cho phép tư nhân nước
ngoài được thuê một số xí nghiệp dưới hình thức tô nhượng. Chấn chỉnh tổ chức lại
việc lãnh đạo, quản lý sản xuất công nghiệp; phần lớn các xí nghiệp được chuyển
sang chế độ hạch toán kinh tế; cải tiến chế độ tiền lương, ban hành chế độ tiền
thưởng nhằm đẩy mạnh sản xuất, nâng cao năng suất lao động.
- Trong lĩnh vực
thương nghiệp và tiền tệ, tư nhân được tự do buôn bán, tự do trao đổi, mở lại các
chợ, khôi phục và đẩy mạnh mối liên hệ giữa thành thị và nông thôn. Tiến hành cải
cách tiền tệ.
Chính sách kinh
tế mới đã thể hiện rõ ràng sự quan sát thực tiễn sắc sảo, sự cảm nhận nhạy bén
và mẫn tiệp của Lênin thiên tài.
Chính sách kinh
tế mới đã như một luồng gió mát lành thổi vào đời sống kinh tế - xã hội nước
Nga Xô Viết nói chung và đặc biệt là vào nông nghiệp sản xuất lương thực nói riêng.
Một nền kinh tế tiêu điều và bị bao vây thì vấn đề giải quyết trước tiên là “có
thực mới vực được đạo”. Nông nghiệp sản xuất lương thực được giải phóng thì mới
có cơ lưu thông được hàng hóa và qua đó mà đưa đến sự kích cầu, phục hưng công
nghiệp. Một nền đại công nghiệp nếu không đảm bảo được loại hàng hóa “tầm thường”
nhất nhưng cơ bản nhất có tính quyết định đến vận mạng con người là lương thực
thì nền đại công nghiệp ấy trở nên thừa, vô tích sự và sẽ bị ruồng bỏ. Lênin nói:
“Thực chất của chính sách kinh tế mới… là sự liên minh của giai cấp vô sản với
quảng đại quần chúng nông dân”.
Chính những phát
sinh gay gắt trong xã hội của nước Nga Xô Viết thời kỳ sau nội chiến bước vào xây
dựng hòa bình đã cho Lênin thấy ra sự cần thiết phải thay đổi cơ bản về nhận thức,
quan niệm trước đó về chủ nghĩa xã hội. Đó là sự chuyển hướng chiến lược từ quá
độ trực tiếp sang quá độ gián tiếp, từ từ, từng bước một, kiên quyết tìm tòi những
bước đi thích hợp, vừa tầm để tiến tới chủ nghĩa xã hội. Qua đó, Lênin thấy rằng
phải áp dụng những biện pháp cần thiết là thỏa hiệp với nông dân, tự do buôn bán,
mở rộng thị trường, sử dụng quan hệ hàng hóa - tiền tệ… vì lợi ích của chủ nghĩa
xã hội; chuyển từ ảo tưởng “kế hoạch tập trung, phân phối trực tiếp bằng hiện vật”
sang thực thi kinh tế hàng hóa - thị trường, phát triển dân chủ đồng thời củng
cố vai trò lãnh đạo của đảng Bônsêvich. “Về sự thống nhất của Đảng” do Lênin đề
nghị, Đại hội X cũng đã thông qua nghị quyết lên án nghiêm khắc tất cả các nhóm
đối lập, cấm chỉ mọi hoạt động và tổ chức bè phái - coi đó là nguyên tắc không
lay chuyển trong sinh hoạt và xây dựng Đảng.
(Chúng ta cho rằng
chính sách kinh tế mới hình thành là xuất phát từ đòi hỏi của thực tiễn kết hợp
với nhận định sáng suốt, tài tình của Lênin. Chỉ có Lênin mới đủ năng lực để không
bảo thủ cực đoan, mà kiên định, đề ra được sáng kiến nhằm bảo vệ thành quả cách
mạng vô sản và trung thành với chủ nghĩa xã hội. Quan Công đã “hàng Hán chứ không
hàng Tào”! Tuy nhiên NEP vẫn chưa triệt để. Tính không triệt để này rất khó nhận
biết vì nó là biểu hiện của một nhược điểm nằm ẩn dấu rất sâu trong triết học Mác.
Lênin có sống lâu hơn cũng khó có khả năng nhận biết được bởi “đức tin” của ông
đã gắn chặt vào triết thuyết này trong trình độ nhận thức chung của thời đại.
Không thể trách được! Và Lênin vẫn là vị anh hùng dân tộc của nước Nga. Nước
Nga có được như ngày nay, dù có gắn nhãn mác gì đi nữa vẫn không thể giũ bỏ được
công lao to lớn của Lênin. Lênin sẽ mãi mãi được nhân loại cần lao tôn vinh như
một nhà hoạt động đầy lòng nhân hậu và thiên tài vì quyền sống cơ bản của con
người. Chúng ta nghĩ như vậy!).
Chiều ngày
30-12-1922, tại Mátxcơva, Đại hội lần thứ nhất các Xô viết toàn Liên bang được
tiến hành với sự tham dự của 2215 đại biểu. Đại hội đã nhất trí thông qua bản
Tuyên ngôn thành lập Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô Viết (gọi tắt là Liên
Xô - CCCP) và bản hiệp ước Liên bang. Đại hội đã bầu ra cơ quan lập pháp tối
cao - Ban chấp hành Trung ương Liên Xô do M.I.Calini làm chủ tịch và bầu Lênin
làm Chủ tịch Hội đồng ủy viên nhân dân Liên Xô.
Sự ra đời của
Liên bang Xô Viết làm cho sức mạnh của Nhà nước Xô Viết được tăng cường và là
thắng lợi của chính sách dân tộc theo chủ nghĩa Lênin, của tình hữu nghị anh em
giữa các dân tộc trong quốc gia công nông đầu tiên trên thế giới.
Tháng 1-1924, bản
hiến pháp đầu tiên của Liên Xô được thông qua. Việc thành lập Liên bang Xô Viết
là thành tựu cuối cùng được thực hiện dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Lênin. Từ
mùa thu năm 1922, Lênin ốm nặng. Sang đầu năm 1923, sức khỏe của Lênin được phục
hồi tốt hơn, nhưng đến tháng 3-1923 ông lại bị ốm nặng và vào lúc 18 giờ 50 phút
ngày 21-1-1924, ông lìa trần. Ông ra đi sau khi đã hoàn thành việc vạch kế hoạch
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô. Cả đất nước Xô Viết và thế giới tiến bộ xúc
động, đau buồn. Cái chết của Lênin là một tổn thất vô cùng nặng nề đối với đảng
Bônsêvích và nhân dân Liên Xô, đối với phong trào đấu tranh cách mạng của quần
chúng cần lao thế giới.
Nhờ áp dụng chính
sách kinh tế mới, tới năm 1926, nhân dân Liên Xô đã hoàn thành thắng lợi công
cuộc khôi phục nền kinh tế quốc dân, sản xuất đã đạt bằng mức năm 1913. Tuy đạt
thành tựu như thế nhưng Liên Xô vẫn là một nước nông nghiệp, sản xuất công nghiệp
còn yếu và lạc hậu so với các nước tư bản phát triển. Hàng loạt các ngành công
nghiệp nặng quan trọng vẫn hầu như bằng không.
Muốn bảo vệ và
xây dựng chủ nghĩa xã hội thì trước tiên không được lệ thuộc vào tư bản nước ngoài,
những thế lực không ưa gì chế độ cộng sản và luôn âm mưu thủ tiêu nó. Cần phải
vươn lên tự lực tự cường. Nhưng bằng cách nào nếu không có một cơ sở công nghiệp
mạnh, đủ sức sản xuất, chế tạo phục vụ nhu cầu của phát triển kinh tế cũng như
an ninh quốc phòng? Vậy thì trong hoàn cảnh của thời đại ấy, bước tiếp theo của
đất nước Liên Xô trong phát triển kinh tế là tăng cường công nghiệp hóa, trong đó
trọng tâm là phát triển công nghiệp nặng (đối với một nước nhỏ và trong thời đại
nền kinh tế có tính toàn cầu ngày nay, chính sách đó không hẳn đã đúng, thậm chí
là có hại). Lênin khi còn sống đã chỉ rõ: “Cơ sở vật chất duy nhất của chủ nghĩa
xã hội chỉ có thể là nền đại công nghiệp cơ khí có khả năng cải tạo cả nông
nghiệp.” (câu nói này là rất đúng đối với Liên bang Xô Viết thời bấy giờ, và có
thể cũng đúng luôn đối với xã hội loài người ở thời tương lai còn rất xa vời,
khi thế giới đã đại đồng, nghĩa là nó không mang tính phổ biến!).
Tháng Chạp năm
1925, đảng Bônsêvích họp Đại hội lần thứ XIV, kết thúc thời kỳ khôi phục kinh tế
và chuyển sang giai đoạn mới, giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nội dung
quan trọng nhất của Đại hội là dựa trên kế hoạch xây dựng chủ nghĩa xã hội của
Lênin, đề ra đường lối, nhiệm vụ và phương châm công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa.
Trong Báo cáo chính trị trình bày tại Đại hội, Xtalin nói: “Biến nước ta từ một
nước nông nghiệp thành một nước công nghiệp có thể tự lực sản xuất lấy thiết bị
cần thiết, đó là điểm căn bản, là cơ sở của đường lối chung của chúng ta… Biến
nước ta từ một nước nhập khẩu thiết bị thành một nước chế tạo được những thiết
bị ấy, vì đó là điều đảm bảo chủ yếu cho sự độc lập kinh tế của nước ta. Và chính
đó là điều đảm bảo cho nước ta không biến thành vật phụ thuộc vào các nước tư bản
chủ nghĩa. Đại hội XIV cũng thông qua điều lệ mới của đảng Bônsêvích và quyết định
đổi tên đảng Cộng sản Nga thành đảng Cộng sản Liên Xô (Bônsêvích).
Sau Đại hội
XIV, giai cấp công nhân và nhân dân Liên Xô, với lòng yêu nước nồng nàn, đã dốc
hết sức mình vào công cuộc công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
Tuy gặp không ít
những khó khăn gian khổ do sự phức tạp trong đấu tranh tư tưởng, thái độ thù địch,
chống phá của các thế lực bên ngoài nước, do xây dựng kinh tế trên con đường hoàn
toàn mới, chưa có tiền lệ trong lịch sử nhưng Nhà nước Xô Viết và nhân dân Liên
Xô, nhờ sự lao động và làm việc quên mình, mà chỉ trong vòng 20 năm, đã đạt được
thành tựu vô cùng to lớn: từ một nước nông nghiệp đã trở thành một cường quốc công
nghiệp dựa trên cơ sở kỹ thuật hiện đại và một nền nông nghiệp bước vào cơ giới
hóa với qui mô sản xuất tập trung ở mức cao. Tính theo tổng sản lượng công nghiệp
thì Liên Xô đứng ở hàng đầu châu Âu và đứng thứ hai trên thế giới, đuổi kịp và
vượt các nước Đức, Anh, Pháp.
Tuy nhiên, bên
cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được, trong lòng xã hội ở Liên Xô cũng đồng
thời xuất hiện những yếu tố không lành mạnh, đóng vai trò như lực cản sự phát
triển kinh tế và có nguy cơ phá hoại ngầm chủ nghĩa xã hội. Nguyên nhân có thể
là do cách hiểu giáo điều về cách mạng xã hội chủ nghĩa mà sâu xa hơn là từ sự
nhận thức triết học về hình thái kinh tế xã hội Cộng sản chủ nghĩa. Ít ra thì một
cách trực tiếp, đã không trung thành với chính sách kinh tế mới của Lênin.
Sau
khi Lênin mất, chính sách kinh tế mới với nền kinh tế đa thành phần đã ngày càng
bị thu hẹp để dần hình thành một thiết chế nhà nước Xã hội chủ nghĩa tập trung,
hành chính, bao cấp mà về kinh tế, chỉ còn tồn tại hai thành phần kinh tế là sở
hữu Nhà nước và sở hữu tập thể (thực ra cũng là một hình thức đã biến tướng,
qui mô nhỏ của hình thức sở hữu nhà nước). Mô hình kinh tế ấy tuy cũng có vai
trò và tác dụng nhất định, và thậm chí là cần thiết nhưng chỉ trong những giai đoạn,
hoàn cảnh lịch sử đặc biệt và ngắn hạn (chẳng hạn như tạm thời áp dụng để tập
trung chống thiên tai, địch họa, để vượt qua những thời đoạn ngặt nghèo chẳng đặng
đừng nào đó). Việc duy trì mô hình ấy một cách lâu dài trong điều kiện bình thường
rõ ràng là vi phạm vào quyền tự do dân chủ trong hoạt động kinh tế của công dân,
làm mất dần nhiệt tình lao động và sự năng động sáng tạo của xã hội. Tình hình đó
tất yếu nảy sinh tệ quan liêu, chụp mũ, áp chế đối với những người không đồng tình
với cơ chế ấy, tạo nên mặt trái của tấm huân chương.
Tác giả một bức tranh cho
rằng nó đẹp, rồi bắt tất cả mọi người chiêm ngưỡng phải thấy rằng nó đẹp, nếu
không sẽ bị qui vào tội phản động, thuộc “bè lũ tư sản”, nếu không sẽ bị “vặn cổ”,
thì đó có phải là chuyên chính vô sản? Và nếu vứt chữ “vô sản” đi thì đó có phải
là độc tài? “Độc tài” kèm theo với chém giết bừa bãi thì phải chăng là phát xít?
Chúng ta nhớ đến “Cái đêm hôm ấy, đêm gì?” của Phùng Gia Lộc mà nổi da gà về một
thời đã qua!
Với thời gian,
trong xã hội Liên Xô thời kỳ đó, những khuất tất, thiếu sót ngày càng tích tụ,
trầm trọng và đã trở thành bệnh “di căn” ngay từ những năm 30. Đó là bệnh thiếu
dân chủ, thiên về cưỡng chế mệnh lệnh, vi phạm pháp chế xã hội chủ nghĩa, truy
nã đàn áp hàng loạt những người bất đồng ý kiến… Căn bệnh ấy gây ra những tổn
thất, mất mát không phải là nhỏ. Xây dựng chủ nghĩa xã hội với thiết chế tập
trung mệnh lệnh, quan liêu bao cấp kiểu ấy sẽ tất yếu dẫn đến chuyên quyền, độc
đoán (bản chất “công nhân” ở từng “đồng chí” lãnh đạo mất dần đi, nhường chỗ
cho tính “thích làm cha” vốn có ở mỗi con người) và cơ chế xã hội cũng vì thế mà
ngày càng xơ cứng, mất năng động, hoạt động xa rời cái mục đích ban đầu vô cùng
đẹp đẽ của nó: “vì nhân dân phục vụ”. Ít người biết điều này: chiến tranh đã khỏa
lấp tất cả.
Nói gì thì nói,
bôi bác thế nào cũng được, nhưng đây là sự thực lịch sử: nếu nước Nga Xô Viết
không đạt được thành tựu ngoạn mục về khôi phục kinh tế, nếu Liên Xô không đạt được
những thành tựu rực rỡ về xây dựng kinh tế thì chủ nghĩa xã hội ở đó, thành trì
của cách mạng vô sản thế giới, đã không thể tồn tại, nhưng quan trọng hơn, Liên
Xô đã không thể đương đầu được với sự xâm lăng của phát xít Đức. Chính Liên Xô
chứ không nước nào khác, đã đóng vai trò quyết định trong việc tiêu diệt chủ
nghĩa phát xít và chấm dứt chiến tranh thế giới thứ hai. Hai quả bom nguyên tử của
Mỹ thả xuống nước Nhật, chẳng làm nên trò trống gì ngoài việc chứng minh cho Tạo
Hóa thấy một giống loài khi đã được trang bị thêm tư duy, nếu không khéo, sẽ trở
nên thâm thù, độc ác, tàn bạo, phát xít đến cỡ nào!
Từ khi ba nước
phát xít Đức, Ý, Nhật ký hiệp ước “Chống Quốc Tế Cộng sản” và xảy ra những hành
động bành trướng của ba nước đó thì nguy cơ chiến tranh thế giới đã trở nên rõ
ràng. Trước thái độ ngày một hung hăng và cuồng chiến của nước Đức phát xít, Liên
Xô đã nhiều lần đề nghị với các nước tư bản như Anh, Pháp, Tiệp Khắc, Ba Lan… cùng
thành lập một tổ chức an ninh tập thể ở châu Âu để kịp thời giáng trả một khi
Hitle phát động chiến tranh xâm lược. Cho tới ngày 12-8-1939, tức là chưa đầy một
tháng trước ngày Đức tấn công Ba Lan, Liên Xô còn đề nghị với Anh, Pháp mà cụ
thể là:
- Trong trường
hợp Đức tấn công Anh và Pháp thì Liên Xô sẽ đóng góp một số quân tương đương là
70% số quân của cả Anh và Pháp để cùng chống Đức. Ba Lan là nước đã ký hiệp ước
liên minh tương trợ với Anh và Pháp tất nhiên cũng phải tham gia chống phát xít
Đức.
- Trong trường
hợp Đức tấn công Ba Lan và tuyên chiến với Anh và Pháp thì Liên Xô sẽ góp một số
sư đoàn tương đương với tổng số sư đoàn của cả Anh và Pháp để cùng tham gia chiến
đấu.
- Trong trường
hợp Đức tấn công Liên Xô thì Anh và Pháp cũng phải huy động một lực lượng tương
đương với 70% số quân triển khai của Liên Xô và Ba Lan phải góp 45 sư đoàn để cùng
đánh Đức.
Trong cuộc họp
ngày 12-8-1939 tại Máxcơva, Liên Xô khẳng định là trong trường hợp Hitle phát động
chiến tranh xâm lược các nước láng giềng thì chỉ trong vòng từ 8 đến 20 ngày,
Liên Xô có thể huy động được 136 sư đoàn bộ binh và kỵ binh, 5000 pháo nặng,
10000 xe tăng, 5500 máy bay chiến đấu.
Tiếc thay, Anh
và Pháp đã từ chối, vẫn nuôi ảo vọng “chĩa mũi nhọn của Hitle vào Liên Xô và muốn
nhân nhượng, hòa giải với Đức phát xít. Đây là chỉ thị mà phái đoàn Anh nhận được
từ chính phủ trước khi đến Máxcơva hội đàm: “Không nên nhận một cam kết dứt khoát
nào có thể trói tay chúng ta trong tất cả mọi trường hợp”.
Bản thân chính
quyền tư sản Ba Lan thì còn “sợ cộng sản hơn sợ phát xít”, nên khăng khăng từ
chối đề nghị của Liên Xô đưa một lực lượng quân đội vào để cùng quân đội Ba Lan
phòng thủ đất nước của họ một khi bị Đức tấn công. Họ hoàn toàn tin tưởng vào
hiệp ước liên minh tương trợ đã ký kết với Anh, Pháp: nếu Hitle cho nổ súng tấn
công Ba Lan thì ngay lập tức, Anh và Pháp sẽ “đánh vào phía sau quân đội phát xít”,
đúng như các điều khoản đã ghi trong hiệp ước. Giới quân sự Anh, Pháp và Ba Lan
trù tính: đầu năm 1939, Ba Lan có trong tay 30 sư đoàn, nếu chiến tranh nổ ra,
lệnh tổng động viên và huy động quân trù bị sẽ làm tăng vọt lực lượng vũ trang
Ba Lan lên 80 sư đoàn. Tổng số lực lượng vũ trang của nước Đức khi đó chỉ có
103 sư đoàn và Hitle chỉ có thể sử dụng ½ số đó, tức khoảng 50 sư đoàn là cùng để
đánh Ba Lan, vì cần phải duy trì một lực lượng đủ để đối phó với Anh, Pháp và bảo
vệ nhà nước phát xít. Thời đó đường biên giới phía tây Ba Lan với Đức chỉ cách
thủ đô Đức vẻn vẹn 100 km. Cả Anh, Pháp và Ba Lan đều tin chắc nếu Đức đánh Ba
Lan thì chính họ, mà chủ yếu là lực lượng Ba Lan sẽ là người cắm cờ chiến thắng
tại tòa nhà Quốc hội Đức và “chính tại Béclin, sào huyệt của Đức Quốc Xã hiếu
chiến sẽ là điểm kết thúc chiến tranh và là nơi ký kết hiệp ước hòa bình”.
Về sự “cả tin”
của giới cầm quyền Ba Lan, nhà sử học Pháp là Rêmông Cácchiê có kể một sự kiện
(trong cuốn “Chiến tranh thế giới thứ hai - giai đoạn 1939 - 1942”) như sau:
15-8-1939, đại
sứ Ba Lan ở Pari là Lucátxiêvich tới gặp Bộ trưởng ngoại giao Pháp là Gioócgiơ
Bonnê. Khi được Pháp tiết lộ một nguồn tin tình báo rằng Hitle tuyên bố với cao
ủy Đức ở Đanxít (tức Gơđanxcơ): “sẽ đánh bại Ba Lan trong 3 tuần bằng đạo quân
cơ giới hóa của Đức”, thì đại sứ Lucátxiêvich đã trả lời: “Không phải! Chính quân
đội Ba Lan chúng tôi sẽ thôn tính nước Đức ngay sau khi chiến tranh bùng nổ”.
Ở Viễn Đông, các
nước tư bản phương Tây cũng thi hành một chính sách đối với nước Nhật phát xít
tương tự như đối với nước Đức phát xít ở châu Âu. Vì vậy việc Nhật đánh chiếm
Trung Quốc, xâm phạm nhiều quyền lợi của Anh, Mỹ ở đó nhưng họ vẫn làm ngơ. Thái
độ này của Anh và Mỹ đã như một dung túng, khuyến khích Nhật tấn công Liên Xô vào
cuối tháng 7-1938, tại khu vực hồ Khaxan. Tuy nhiên chỉ mấy ngày, quân phiệt Nhật
đã phải chịu thất bại thảm hại. Tháng 5-1939, lợi dụng tình hình châu Âu căng
thẳng, Liên Xô đang bận đối phó ở đó, quân đội Nhật lại tấn công vào lãnh thổ nước
Cộng hòa nhân dân Mông Cổ tại khu vực sông Khankhingôn, định chiếm Mông Cổ, khống
chế vùng tiếp cận đường sắt chính xuyên qua Xibia, uy hiếp trục giao thông huyết
mạch của Liên Xô ở Viễn Đông, để mưu đồ xâm lược Liên Xô về sau. Trung thành với
hiệp ước tương trợ, Liên Xô đã bảo vệ Mông Cổ. Từ tháng 5 đến tháng 8-1939, các
lực lượng vũ trang Xô - Mông đã đánh bại quân xâm lược Nhật và đến ngày 16-9,
Nhật phải xin đình chiến.
Ngày 23-7-1939,
Anh đã ký với Nhật một hiệp ước nhục nhã, thường gọi là “Hiệp ước Arita - Cơrâyxi”,
giao Trung Quốc cho Nhật để đổi lấy việc Nhật gây chiến chống Liên Xô.
Liên Xô đến lúc
này, trước sự bất hợp tác chống phát xít của thế giới tư bản và lâm vào cảnh “lưỡng
đầu thọ địch”, đã không còn đường nào khác là nỗ lực tự cứu mình.
Nước Đức phát xít
dù lúc đó đã phát triển thành xà tinh và dù vô cùng thèm khát cũng biết rằng chưa
đủ sức nuốt nổi con voi: Liên Xô đã là một cường quốc với lãnh thổ rộng mênh mông
và không kém phần hùng mạnh. Vậy thì để thực hiện được mưu đồ làm bá chủ thế giới,
việc đầu tiên mà nước Đức phát xít phải làm không phải là xâm lược Liên Xô mà
phải chiếm châu Âu để tạo thêm thế và lực lên một tầm tương xứng. Nhưng muốn nắm
châu Âu thì phải tạm thời loại được không phải hai kẻ nhu nhược là Anh và Pháp
mà chính là Liên Xô ra ngoài vòng chiến. Trù tính như thế nên Đức đã đề nghị Liên
Xô ký một hiệp ước không xâm lược lẫn nhau.
Ngày 7 tháng 6 năm 1939, hiệp ước không xâm lược lẫn nhau cũng được Đức Quốc xã tiếp tục ký với ba nước Baltic (Estonia, Latvia, Lithuania) và Đan Mạch, những nước có biên giới nằm khá gần Liên Xô. Điều này càng khiến Liên Xô trở nên lo ngại hơn.
Việc Anh, Pháp từ chối lập liên minh với Liên Xô và còn ký với
Đức "Hiệp ước không xâm phạm lẫn nhau", đồng thời bỏ mặc đồng minh Tiệp
Khắc cho Đức tiêu diệt, tất cả khiến Liên Xô thấy rằng phương Tây không
hề thực tâm trong việc ngăn chặn Hitler, mà thực ra họ đang tìm cách lợi
dụng cỗ máy chiến tranh Đức để tiêu diệt Liên Xô. Lập trường của các
cường quốc phương Tây đưa Liên Xô đứng trước 2 sự lựa chọn: hoặc sẽ bị
cô lập và phải một mình chống đỡ với các cuộc tấn công của phát xít Đức;
hoặc phải đàm phán với Đức để ký một hiệp ước không xâm lược nhằm tranh
thủ thời gian củng cố quân đội. Tình hình cho thấy sự lựa chọn thứ hai
là không thể tránh khỏi, và Liên Xô phải tìm cách hòa hoãn với Đức.
Trong vòng 1 năm, tới tháng 8 năm 1939,
mối quan hệ Liên Xô – Đức đã có sự thay đổi lớn: từ quan hệ thù địch về
tư tưởng và quyền lợi, hai nước liên tiếp ký kết các hiệp ước thương mại, hiệp ước hữu nghị và giúp đỡ lẫn nhau. Trong mối quan hệ an ninh quốc phòng hai nước ký hiệp ước không xâm phạm lẫn nhau và biên bản bí mật
phân chia khu vực ảnh hưởng giữa Đức và Liên Xô trên lãnh thổ các quốc
gia khác. Xa hơn nữa, hai bên đang tiến hành tham khảo để Liên Xô gia
nhập khối liên minh Đức – Ý – Nhật.
Mối quan hệ hữu hảo toàn diện Liên Xô – Đức không phải là mối quan hệ
của các quốc gia đồng minh có chung quyền lợi chiến lược lâu dài mà chỉ
là sự lợi dụng lẫn nhau nhất thời giữa các kẻ thù. Đức muốn rảnh
tay ở phía đông để dồn quân tấn công Pháp-Anh, tránh phải chiến đấu trên
hai mặt trận. Còn Liên Xô muốn tranh thủ hòa hoãn để có thêm thời gian
củng cố quân đội và công nghiệp quốc phòng.
Hiệp ước hòa bình giữa Đức – Liên Xô đảm bảo cho Đức không phải chiến
đấu trên hai mặt trận trong chiến tranh thế giới mà Hitler đang trù tính
và sẽ sắp xảy ra, đồng thời phía Đức sẽ có nguồn nhập khẩu các nguyên
liệu chiến lược từ phía Liên Xô mà không sợ vòng vây trên biển của khối Anh – Pháp phong toả, ngoài ra hạm đội tàu ngầm Đức còn được phép đi ngang qua các căn cứ hải quân Xô viết gần Biển Bắc trong chiến tranh Đại Tây Dương
phong toả nước Anh. Các cơ quan mật vụ an ninh của hai nước cũng hợp
tác trong việc cung cấp thông tin, dẫn độ các những người Đức chống phát
xít và các phần tử kháng chiến Ba Lan giao cho mật vụ Sicherheitsdienst
(SD) của Đức: đến tháng 6 năm 1941 phía Liên Xô đã giao cho Đức khoảng
4.000 người trong đó có cả những đảng viên Đảng Cộng sản Đức cùng thân
nhân của họ, về phía mình mật vụ SD cũng giao cho phía Liên Xô những
người mà NKVD (Bộ Dân ủy Nội vụ, viết tắt NKVD là một cơ quan hành pháp của Liên Xô, đơn vị trực tiếp thi hành quyền lực của Đảng Cộng sản Liên Xô trong lĩnh vực an ninh, tình báo) tìm kiếm.
Phía Liên Xô bằng cách ký kết hiệp ước không xâm phạm lẫn nhau và biên
bản bí mật đã không gặp trở ngại nào trong việc thu hồi các vùng lãnh
thổ cũ của đế chế Nga đang bị Ba Lan chiếm đóng, các quốc gia Baltic, Phần Lan, Bessarabia.
Nước này đồng thời muốn tránh mũi nhọn chiến tranh của Đức, hướng nó
sang chống khối liên minh Anh – Pháp. Liên Xô cũng đặt hàng và được phía
Đức cung cấp cả các hệ vũ khí và phương tiện kỹ thuật hiện đại để hiện
đại hoá hải, lục, không quân của mình.
Theo đúng tinh thần của biên bản bí mật, ngay sau khi Đức tấn công Ba Lan gây chiến tranh thế giới (1 tháng 9 năm 1939),
Quân đội Xô Viết tiến quân chiếm lại Tây Belarus, Tây Ukraina từ tay Ba
Lan (vùng lãnh thổ mà Ba Lan đã chiếm của họ sau cuộc chiến năm 1921),
đòi lại vùng Bessarabia (vùng lãnh thổ mà Romania chiếm của Nga từ năm 1922) để lập nên nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Moldavia (ngày nay là Moldova). Năm 1940, Liên Xô sát nhập ba quốc gia vùng Biển Baltic: Estonia, Latvia, Litva lập nên ba nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa vùng Baltic và gây chiến tranh chống Phần Lan để đòi lại dải đất Karelia (vùng lãnh thổ mà Phần Lan
chiếm của Nga từ năm 1922) để lập nên nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa
Karelia... Bằng việc thu hồi các lãnh thổ của đế chế Nga cũ, Liên Xô đã
đẩy biên giới của mình về phía tây được hàng trăm km, Hitler đã bị tước
đi các bàn đạp chiến lược rất thuận lợi để tấn công Liên Xô
Dù không ảo tưởng
nhưng để tranh thủ thời gian xây dựng lực lượng và tổ chức phòng thủ đất nước,
Liên Xô đã đồng ý. Ngày 23-8-1939, hiệp ước Xô - Đức đã được ký kết và ngày hôm
sau, 24-8-1939, một “biên bản mật” giữa hai nước được ký thêm, nhằm phân chia phạm
vi ảnh hưởng của hai nước ở Đông Âu.
Thực chất của cuộc chơi chính trị – ngoại giao này được thể hiện rõ qua Adolf Hitler: Hitler không bao giờ từ bỏ lập trường nguyên tắc của mình và luôn coi việc "giải quyết vấn đề người Slav" là mục đích số một của đời mình (sách Mein Kampf).
Khi ký kết hiệp ước với Stalin, Hitler đã đạt được hai mục đích: một
mặt đã phân hoá được các địch thủ Anh, Pháp, Liên Xô để tránh được việc
phải chiến đấu trên hai mặt trận và đã đảm bảo thắng lợi trên chiến
trường Ba Lan và châu Âu trong hai năm 1939 và 1940. Mặt khác những hiệp
định này đã giúp cho Stalin rằng sẽ tránh được nguy cơ chiến tranh nổ
ra sớm với Đức, và sau này yếu tố bất ngờ đã có vai trò rất lớn trong
giai đoạn đầu thắng lợi của quân đội Đức trong chiến tranh Xô – Đức. Tất
cả những nhượng bộ và giúp đỡ của phía Đức cho Liên Xô theo tính toán
của Hitler chỉ là tạm thời và sẽ bị vô hiệu hoá khi chiến tranh chống
Liên Xô bắt đầu và các toan tính này của Hitler đã thành công.
Về phía Stalin và ban lãnh đạo Liên Xô, họ không bao giờ tin
tưởng vào sự thành thật của Hitler nhưng đã bị đánh lạc hướng về thời
điểm cuộc chiến sẽ nổ ra. Họ biết chiến tranh với Đức sẽ nổ ra nhưng cho
rằng không thể sớm hơn năm 1942. Thủ tướng Anh Winston Churchill từng cảnh báo trước cho Stalin biết về việc Đức sẽ tấn công Liên Xô, Stalin chỉ nói ngắn gọn: "Tôi không cần lời cảnh báo nào cả. Tôi biết chiến tranh sẽ nổ ra, nhưng tôi tin sẽ có thể làm nó chậm lại nửa năm nữa" Tại cuộc họp Bộ Chính trị ngày 18/11/1940, Stalin đã nói: "Cần
phải hiểu tính hai mặt và trò chơi chính trị của Hitler. Hitler là một
kẻ tráo trở. Ông ta đã ký hiệp ước hòa bình với Ba Lan, Áo, Tiệp, Bỉ và
Hà Lan nhưng đã ngay lập tức xé bỏ chúng. Chắc chắn chúng ta không thể
coi hiệp ước này là cơ sở an ninh của chúng ta…"
.Sau những yếu kém rất rõ rệt của Hồng quân Liên Xô trong Chiến tranh Liên Xô-Phần Lan
và sự thể hiện sức mạnh ghê gớm của quân đội Đức trong các chiến thắng
tại chiến trường châu Âu, Stalin không muốn Liên Xô phải đương đầu với
cuộc tấn công của Đức khi chưa có đủ thời gian chuẩn bị. Stalin coi
những thông tin tình báo về khả năng Đức tấn công chỉ là những đòn hỏa
mù để khiêu khích Liên Xô gây chiến trước, ông tránh mọi hành động để có
thể bị coi là khiêu khích Đức, không cho phép quân đội áp dụng các biện
pháp dự phòng và sẵn sàng chiến đấu... Ban lãnh đạo Liên Xô cho rằng
sau khi đánh bại nước Anh
thì Đức mới có thể tấn công Liên Xô, đó là tính toán hợp lý nhất đối
với Đức để tránh phải giao chiến trên cả hai mặt trận, nhưng tính cách
bốc đồng, ưa phiêu lưu của Hitler đã làm đảo lộn tính toán này (Đức đã
tấn công sang phía đông dù Anh chưa bị đánh bại). Sự thất bại và thiệt
hại to lớn, nguy cơ thất bại của Liên Xô trong giai đoạn thất trận năm
1941 có nguyên nhân rất lớn từ việc Liên Xô đã bị bất ngờ, quân đội đã
không chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu do không nhận được bất kỳ mệnh lệnh
báo động chiến đấu nào.
Nhưng ở một khía cạnh khác, việc dự đoán thời điểm Đức tấn công là không
dễ, nếu đổ lỗi cho Stalin và ban lãnh đạo của ông cũng là không công
bằng. Trong cuộc đấu này, Đức là bên chủ động, còn Liên Xô là bên bị
động. Trước chiến tranh, Đức liên tiếp tung ra những tin tình báo giả,
vô số những thời hạn tấn công đã được "hoạch định" rồi cố tình để lộ ra,
làm nhiễu loạn tình báo Liên Xô. Mặt khác, tình báo Anh
cũng tung ra những tin tức tương tự nhằm mong Liên Xô sẽ khai chiến với
Đức. Nếu Stalin tin theo những dự đoán đó mà manh động thì không chỉ
lãng phí thời gian chuẩn bị chiến tranh và huấn luyện quân đội, mà còn
có thể khiến chiến tranh nổ ra sớm hơn. Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, khi Nga hoàng ra lệnh tổng động viên, Đức đã ngay lập tức tuyên chiến với Nga, và Stalin không muốn điều đó lặp lại.
Quan trọng hơn, trong giai đoạn 2 năm hòa hoãn có được, Stalin và ban
lãnh đạo Liên Xô cũng đã làm được nhiều việc, gây dựng nền móng to lớn
cho quân đội Xô viết. Công nghiệp quốc phòng của Liên Xô có bước phát
triển lớn. Kể từ 1-1-1939 tới 22-6-1941, Hồng quân đã được trang bị hơn
7.000 xe tăng
và nếu chỉ tính riêng năm 1941 thì đã được cung cấp gần 5.500 xe,
29.637 pháo dã chiến, 52.407 súng cối. Cuối năm 1940, sản xuất máy bay
Liên Xô đã tăng 70%.
Quân số Hồng quân tăng 2,3 lần; pháo và súng cối tăng 2,1 lần; máy bay
chiến đấu tăng 2,4 lần. Nhờ những bước tiến to lớn này, Hồng quân đã trụ
vững được trước đòn tấn công mạnh mẽ nhất của Đức, thay vì sụp đổ hoàn
toàn như Ba Lan hay Pháp trước đó.
Hiệp ước Xô - Đức
ngay lập tức làm vỡ “giấc mộng xấu xí” bao vây chống Liên Xô, “ngư ông đắc lợi”
của Anh, Pháp, Mỹ và làm cho Nhật bất mãn ra mặt (thủ tướng Nhật là Hiranuma
xin từ chức để phản đối Đức ký hiệp ước này). Riêng Ba Lan thì hình như vẫn
trong giấc ngủ ngon lành trước miệng con xà tinh.
Ngày 23-3-1939,
Hitle đòi Ba Lan chuyển giao Đăngdích cho Đức và lập một hành lang cho Đức nối
với Đông Phổ. Ở biên giới hai nước, Hitle bí mật cho máy bay Đức sơn cờ hiệu Ba
Lan ném bom xuống một đồn biên phòng Đức rồi đổ vấy cho Ba Lan để tạo cớ thực
hiện kế hoạch đánh Ba Lan mang mật danh “Kế hoạch trắng” được thảo ra từ tháng
5-1939.
Đêm 30 rạng ngày
31-8-1939, Đức gởi tới Ba Lan một bản công hàm mang tính chất tối hậu thư về vấn
đề Đăngdích và hành lang Ba Lan. Chính phủ Ba Lan bác bỏ những yêu sách của Đức.
Mờ sáng ngày 1-9-1939, đúng 4 giờ 15 phút, gần 1500 máy bay Đức hết đợt này đến
đợt khác tới ném bom, bắn phá toàn bộ các căn cứ không quân và trường bay trong
khu vực miền Tây - Ba Lan, mở màn cuộc xâm lược Ba Lan và cũng đồng thời làm bùng
nổ cuộc chiến tranh thế giới thứ hai.
Ngay từ đầu, không quân Ba Lan đã bị đánh quỵ,
“đành chỉ làm mồi cho không quân phát xít”. Làm chủ được bầu trời, máy bay Đức
tha hồ bắn phá các mục tiêu dưới đất của Ba Lan.
Sau đợt bắn phá
đầu tiên của không quân Đức, đúng 4 giờ 45 phút, tàu chiến Đức từ Đanxít (tức Gơđanxcơ)
đồng loạt nã đại bác cấp tập vào “căn cứ lõm” Vextêplát của Ba Lan. Đồng thời bộ
binh Đức, đi đầu là các đơn vị xe tăng, xe bọc thép, mô tô cơ giới cũng ồ ạt vượt
biên giới tiến vào Ba Lan trong lúc sương mù chưa tan hết.
Quân đội Đức
triển khai trên một tuyến hình cánh cung rất rộng, từ Đông Phổ qua Pôpêrani,
Xilêri đến Xlôvencô, coi như “ôm lấy Ba Lan từ các mặt phía Tây - Bắc, Tây, Tây
- Nam, nhằm “kẹp chặt quân chủ lực Ba Lan trong hai gọng kìm lớn rồi khép lại
thật mạnh để tiêu diệt đồng thời thọc sâu vào Vácxava”. Gọng kìm trái, gọi là Cụm
tập đoàn quân Bắc, có hai tập đoàn quân gồm 21 sư đoàn, trong đó có 2 sư đoàn
xe tăng và xe bọc thép. Mũi tiến công chủ yếu của gọng kìm này do tập đoàn quân
số 4 đảm nhiệm, từ miền duyên hải Dômêrani vượt biên giới, chọc thủng tuyến phòng
ngự của Ba Lan trên sôngVixla rồi tiến dọc triền sông này tới vùng ngoại vi phía
Bắc Vácxava. Gọng kìm phải, gọi là Cụm tập đoàn quân Nam có 3 tập đoàn quân gồm
36 sư đoàn, trong đó có 4 sư đoàn xe tăng và xe bọc thép, từ vùng Cácpát và miền
Thượng - Xilêdi tiến vào lãnh thổ Ba Lan, bao vây tiêu diệt lực lượng quân Ba
Lan đóng ở miền Tây sông Vixla rồi cũng tiến về Vácxava.
Ngay trong ngày
đầu tiến công, tập đoàn quân 4, thuộc cánh trái của Đức đã gặp nhiều thiệt hại
khi vấp phải tuyến phòng ngự kiên cố có chuẩn bị sẵn của Ba Lan. Nhưng liền sau
đó, tập đoàn quân 8 thuộc cánh phải quân Đức, sau khi chọc thủng trận địa phòng
ngự Ba Lan, đánh thốc lên đã góp phần quyết định trong việc bao vây tiêu diệt tập
đoàn quân Pôdơman của Ba Lan, lấy lại thế tiến công cho cánh trái quân Đức.
Trước sức mạnh áp
đảo của quân Đức với sự tràn ngập của máy bay, đại bác, xe tăng và lối “tấn công
chớp nhoáng”, Bộ tổng tư lệnh Ba Lan phải cho quân tháo lui để tránh bị tiêu diệt.
Ngay cả việc này họ cũng không thực hiện được trót lọt, nói gì đến “mở được mũi
phản công đánh ngược trở lại hướng Béclin” theo như phương án đã bàn bạc với
Anh và Pháp.
Ngày 6-9-1939,
khi hai cánh quân của Hitle từ phía tây - bắc đánh xuống và phía tây - nam đánh
lên đang ồ ạt tiến về phía Vácxava thì chính phủ tư sản Ba Lan đã vội vã chạy về
Lublin và sau đó ít ngày đã đáp máy bay trốn sang Anh.
Ngày 14-9-1939,
hai gọng kìm quân Đức đã hoàn thành việc bao vây quân chủ lực Ba Lan từ nhiều nơi
rút về bờ tây sông Vixla. Vácxava cũng bị bao vây từ ba mặt. Ngày 15-9-1939, quân
Đức mở đợt tấn công cuối cùng, quyết định số phận Ba Lan.
Dù đã hoàn toàn
thất thế, dù chính phủ đã hèn nhát bỏ mặc đất nước trong cảnh lâm nguy để thoát
thân, dù Anh và Pháp không chịu đánh vào “sau lưng” nước Đức như đã thỏa thuận,
dù đã chịu tổn thất nặng, thì trước kẻ thù xâm lược, quân đội Ba Lan vẫn không
chịu hạ vũ khí. Hưởng ứng lời kêu gọi của đảng Cộng sản và các tổ chức yêu nước
Ba Lan, nhân dân Ba Lan đã vùng lên sát cánh cùng quân đội chặn đánh quân thù bằng
nhiều hình thức, một cách hết sức kiên cường, hết sức dũng cảm.
Cuộc kháng chiến
của nhân dân thủ đô Vácxava, dẫn đầu là các chiến sĩ Cộng sản đã diễn ra ác liệt,
đập tan một sư đoàn thiết giáp Đức, được duy trì đến tận 28-9-1939. Trên bán đảo
Vexiêplatê, gần 300 chiến sĩ Ba Lan bị phát xít Đức bao vây, đã chống cự quyết
liệt đến khi hết cả lương ăn, nước uống và đã bắn tới viên đạn cuối cùng. Pháo đài
Môđơlin cầm cự với quân Đức mãi tới 30-9-1939 mới chịu thất thủ. Cuộc chiến đấu
của lực lượng biên phòng Ba Lan trên bán đảo Hen ở phía bắc Gơđanxcơ, mặc dầu bị
cắt đứt hoàn toàn với hậu phương, vẫn kéo dài đến tận ngày 2-10-1939.
Nói ngay ra thì
liền sau khi Hitle mở cuộc tiến công xâm lược Ba Lan, chính phủ hai nước Anh và
Pháp cũng đã lập tức trao đổi ý kiến với nhau nhằm “nhận định tình hình và tìm
cách giải quyết”.
21 giờ 30 phút,
tối 1-9-1939, Anh và Pháp gửi thông điệp chung đến chính phủ Đức, yêu cầu “đình
chỉ ngay lập tức mọi hành động quân sự từ trên không, trên biển, trên mặt đất
thuộc phạm vi lãnh thổ Ba Lan và nhanh chóng lệnh cho quân đội Đức rút về tuyến
xuất phát từ trước khi bùng nổ chiến sự”, và nhấn mạnh: “nếu những yêu cầu chính
đáng này không được đáp ứng, bắt buộc các chính phủ Anh và Pháp sẽ phải áp dụng
những hành động phù hợp với những điều đã cam kết với chính phủ Ba Lan hiện đang
là nạn nhân của một cuộc xâm lược vô đạo lý”.
Bức thông điệp
có cái vẻ cứng rắn kiểu tối hậu thư này chỉ làm Hitle cười mũi. Tình báo chiến
lược của phát xít Đức đã tóm được gáy hai “đại ca” này: “… chưa kịp chuẩn bị bước
vào vòng chiến và cũng chưa muốn nhảy ngay vào vòng chiến”, và hơn nữa “họ còn
muốn chờ xem một cuộc xung đột Đức - Nga khi quân Đức tiếp tục tiến về phía đông”.
Trước sức ép của
dư luận và cũng để giữ thể diện trước sự “phớt tỉnh Ănglê” của Hitle, ngày
3-9-1939, Anh và Pháp buộc phải lần lượt tuyên chiến với Đức. Tuy nhiên, mặc dù
Anh, Pháp đã tuyên bố chiến tranh với Đức bằng những lời lẽ hùng hồn nhất phát
vang trên đài phát thanh và rùm beng trên báo chí, mặc dù lệnh tổng động viên đã
được ban hành, các phương tiện vận tải trên đất Pháp đã được huy động, quân đội
Anh đóng trên đất Pháp đã được tăng cường lực lượng thì mặt trận phía tây nước Đức
vẫn… lặng im như tờ. Các nhà báo Mỹ gọi hiện tượng đó là cuộc “chiến tranh kỳ
quặc”, người Pháp gọi là cuộc “chiến tranh buồn cười”, còn người Đức thì gọi là
“chiến tranh ngồi” (kéo dài suốt từ tháng 9-1939 đến tháng 4-1940). Riêng Bộ chỉ
huy quân đội Đức Quốc Xã thì càng tin chắc rằng với 23 sư đoàn đóng ở biên giới
phía tây là “quá thừa để đối phó với cuộc chiến tranh bằng mồm của Anh và Pháp”.
Cũng trong khoảng
thời gian xảy ra các sự kiện nói trên, ngày 17-9-1939, theo thỏa thuận với Đức
(qua “Biên bản mật” ký ngày 24-9-1938), quân đội Liên Xô tiến vào miền Đông -
Ba Lan, thu hồi vùng lãnh thổ của đế quốc Nga bị mất vào những năm 1918 - 1920
và cũng là một phần lãnh thổ của Tây - Ucraina và Tây - Bêlarút (bị trao cho Ba
Lan năm 1920), để sát nhập trở lại vào hai nước Cộng hòa Xôviết này trong Liên
bang Xô Viết.
Ngày 18-9, Liên
Xô lên án 3 nước Ban Tích là không giữ vai trò trung lập. Dưới sức ép về quân sự,
lãnh đạo 3 nước này gồm Extônia, Látvia, Litva lần lượt ký với Liên Xô hiệp ước
không xâm lược và tương trợ, lần lượt vào các ngày 28-9, 5-10, 10-10. Cả 3 nước
không chấp nhận cho Liên Xô quyền đóng quân trên lãnh thổ của họ. Tháng 6-1940,
quân đội Liên Xô tiến vào 3 nước Ban Tích, gây áp lực lật đổ các chính phủ tư sản
ở đây. Ngày 14-7, bầu cử được tiến hành và quốc hội mới ở 3 nước đó kêu gọi sát
nhập đất nước mình vào Liên Xô. Tháng 8-1940, sau khi Xôviết tối cao Liên Xô thông
qua, 3 nước Ban Tích gia nhập Liên bang Xô Viết.
Ngày
28-11-1939, Liên Xô hủy bỏ hiệp ước không xâm lược năm 1932 và ngày hôm sau thì
cắt đứt quan hệ ngoại giao với Phần Lan. Chiến tranh Xô - Phần bùng nổ và diễn
ra ác liệt đến tháng 3-1940. Kết quả là một hiệp ước được ký kết tại Mátxcơva
ngày 12-3-1940, theo đó, Phần Lan phải nhường vĩnh viễn eo đất Carêli (sau đó
Liên Xô đã thành lập nước Cộng hòa Xôviết Calêri của mình), biên giới Liên Xô -
Phần Lan được lùi xa Lêningát thêm 150 km nữa; ngoài ra, Phần Lan còn phải cho
Liên Xô thuê cảng Hănggô trong 30 năm với số tiền 8 triệu Mác Phần Lan.
Betxarabia và Bắc
- Bucôvina là vùng tranh chấp lâu dài giữa Nga với Rumani mà Rumani chiếm được
năm 1918. Xtalin gửi tối hậu thư cho Rumani đòi:
- Vùng
Betxarabia mà Nga chưa bao giờ chịu mất, phải trả về cho Nga.
- Sát nhập vùng
Bắc - Bucôvina mà dân cư ở đó về mặt lịch sử và ngôn ngữ gắn bó với nước Cộng hòa
Xôviết Ucraina.
Chính phủ
Rumani kêu gọi Đức và Ý can thiệp giúp đỡ nhưng bị từ chối nên đành chấp nhận yêu
sách đó. Thế là Betxarabia và Bắc - Bucôvina trở thành một bộ phận thuộc nước Cộng
hòa Xôviết Mônđavia của Liên Xô vào tháng 8-1940.
Tính chung, Liên
Xô đã lập thêm 5 nước Cộng hòa Xôviết, mở rộng lãnh thổ 2 nước Cộng hòa Xôviết,
đưa tổng số nước Cộng hòa Xôviết trong thành phần Liên Bang lên 16 và số dân thêm
được là 23 triệu. Biên giới phía tây Liên Xô được đẩy lùi ra xa thêm từ 200 đến
300 km.
***
Khi quân Đức
chiếm được Brét - Litốp của Ba Lan và ào ạt tiến về phía đông thì quân Liên Xô
cũng đã tiến vào miền đông - Ba Lan (vùng trước đây thuộc Tây - Ucraina và Tây
- Bêlarút như đã kể). Tại nhiều điểm quân đội hai nước Nga và Đức đã “chạm trán
nhưng không xảy ra xung đột”. Biết chưa phải lúc, Hitle đã hạ lệnh “ngừng tiến
về phía đông”, thậm chí cho rút quân khỏi thị trấn Lembéc vừa chiếm được để tránh
đụng đầu với lực lượng Xô Viết.
Sự tồn tại của
“chiến tranh kỳ quặc”, một phần cũng là do Anh, Pháp vẫn còn mù quáng nuôi hi vọng:
“Hitle sẽ quyết định hướng quân đội về phía đông để chống Nga”. Trong hồi ký của
tướng Đờ Gôn có đoạn: “Phải nói rằng một số giới muốn nhìn kẻ thù ở Xtalin hơn
là Hitle. Họ lo lắng đến những biện pháp để đánh nước Nga, hoặc giúp Phần Lan,
hoặc ném bom Bacu, hoặc đổ bộ ở Xtambun nhiều hơn là cách làm sao để thắng đế
chế Đức”.
Trong khi đó, lợi
dụng thời gian “ngồi” từ 1939 - 1940, nước Đức đã phát triển bộ binh lên tới
136 sư đoàn, xe tăng: 10 sư đoàn, máy bay: 4 vạn chiếc, nghĩa là thực lực quân
sự Đức tăng lên chừng gấp đôi so với thời kỳ trước khi đánh Ba Lan. Kế hoạch tỷ
mỷ tấn công các nước Tây Âu cũng đã được vạch ra.
“Quay ngược trở
lại phía Tây”, ngày 9-4-1940, quân Đức tràn vào Đan Mạch. Vua và chính phủ Đan
Mạch không kháng cự, ra lệnh cho quân đội của họ hạ vũ khí đầu hàng. Cùng ngày,
quân Đức đổ bộ lên tất cả các cảng lớn của Na Uy. Nhân dân Na Uy kháng chiến rất
anh dũng. Chiến sự đã diễn ra ác liệt ở một số nơi. Do có sự phản bội tổ quốc
trong chính phủ, Na Uy mau chóng bị đánh bại. Quân Anh, Pháp sang cứu bị đánh bật
ra biển.
Ngày 10-5-1940,
vào 5 giờ 30 phút sáng, quân Đức tràn vào Bỉ, Hà Lan, Lucxembua và Pháp. Mặt trận
phía tây bây giờ mới chính thức diễn ra. Lực lượng bộ binh hai bên không chênh
lệch nhau nhiều nhưng phía Đức ưu thế hơn về máy bay và xe tăng. Quân Đức do tướng
Phôn Bốc chỉ huy, vượt qua sông Mơdơ (Mense), đồng thời nhảy dù xuống chiếm các
sân bay, các đầu mối giao thông và các cứ điểm quan trọng của Hà Lan và Bỉ.
Ngày 15-5, quân
đội Hà Lan hạ vũ khí qui hàng, chính phủ Hà Lan chạy sang Luân Đôn. Ngày 27-5, đến
lượt Bỉ đầu hàng vô điều kiện.
Trong khi đó,
quân Đức do tướng Phôn Runxđét chỉ huy, vượt qua Lúcxembua, đánh bại đạo quân
thứ 9 của Pháp do tướng Coráp chỉ huy, chọc thủng phòng tuyến của Pháp trên một
khu vực rộng 90 km giữa Xơđăng và Namuya. Ngày 5-6, quân Đức tiến về Pari như bão
táp. Ngày 10-6, chính phủ Pháp bỏ Pari chạy về Tua. Cùng ngày này, thấy Pháp
nguy ngập, sắp thua, để “dấy máu ăn phần”, phát xít Ý vội tuyên chiến với Anh,
Pháp và tấn công ngay vào vùng đông - nam nước Pháp. Sự tham chiến của Ý làm
cho tình hình Pháp thêm trầm trọng.
Ngày 16-6, thủ
tướng Anh là Sơcsin đưa ra đề nghị về việc ký kết “Liên minh không thể hủy bỏ”
giữa Anh và Pháp, theo đó, Anh và Pháp sẽ trở thành một quốc gia thống nhất với
một hiến pháp thống nhất. Chính phủ Pháp chia làm hai phe, phe do Râynô cầm đầu
muốn giao nước Pháp cho đế quốc Anh, phe do Pêtanh cầm đầu muốn qui hàng phát xít
Đức (chẳng một ai quan tâm đến việc đấu tranh cho tự do và độc lập của nước Pháp!).
Ngày 17-6, Râynô từ chức, Pêtanh cầm đầu phe đa số lên nắm chính phủ và xin hàng
Đức, Ý với những điều kiện nhục nhã. Nhưng nhân dân Pháp, dưới sự lãnh đạo của đảng
Cộng Sản Pháp đã đứng lên kháng chiến chống quân xâm lược bằng cuộc chiến tranh
du kích trong lòng nước Pháp. Đờ Gôn (đang công cán ở Anh) tích cực tập hợp một
số người Pháp ở hải ngoại, thành lập “chính phủ Pháp tự do” vào ngày
27-10-1940, dựa vào lực lượng Anh, Mỹ để mưu cầu giải phóng đất nước.
Tháng 7-1940, nước
Đức lên kế hoạch “Sư tử biển” nhằm đổ bộ lên đất Anh. Mục đích là khuất phục,
khống chế nước Anh đồng thời tung hỏa mù che đậy động tác chuẩn bị tấn công Liên
Xô.
Tháng 8-1940, Đức
tấn công bằng không quân vào nước Anh. Nhiều cuộc không chiến ác liệt xảy ra. Dù
ưu thế thuộc về Đức nhưng Anh cũng chống cự hiệu quả nhờ hệ thống ra-đa mới phát
minh, sáng chế ra, phát hiện được mục tiêu từ xa… Hai bên đều thiệt hại nặng nề.
Đức chuyển sang ném bom ban đêm. Thủ đô Luân Đôn bị hàng vạn tấn bom tàn phá dữ
dội. Thêm nữa, Đức còn phong tỏa chặt chẽ hải phận Anh bằng “chiến tranh tàu ngầm”,
đánh đắm rất nhiều tàu chiến Anh. Tình hình của Anh ngày một trở nên nghiêm trọng.
Anh quay sang cầu
cứu Mỹ. Mỹ đã giao cho Anh gần 1 triệu súng trường thời kỳ những năm 1917 - 1918,
50 chiến hạm cũ kỹ. Đổi lại, Anh phải giao cho Mỹ những căn cứ quan trọng về
chiến lược ở Đại Tây Dương cũng như những phát minh khoa học kỹ thuật mới nhất
của Anh (như rađa, những công trình nghiên cứu về nguyên tử của các nhà bác học
Anh và Pháp…). Mỹ đã giúp Anh như thế nên có thể thấy rằng chính cuộc chiến Xô
- Đức mới cứu được nước Anh thoát khỏi số phận như nước Pháp.
Ngày 27-9-1940,
Đức, Ý và Nhật ký hiệp ước đồng minh quân sự và chính trị ở Béclin, “trước hết
nhằm chống Liên Xô” nhưng cũng chống cả Anh, Mỹ. Hiệp ước đề ra không úp mở việc
phân chia thế giới: Đức, Ý ở châu Âu, Nhật ở Viễn Đông.
Nhờ sự giúp đỡ
của Đức, các phần tử chống Liên Xô làm chính biến thắng lợi, đưa Antônexcô lên
nắm chính quyền tại Rumani. Được sự đồng thuận của chính phủ Antôexcô, ngày
7-10-1940, quân Đức kéo vào Rumani. Sau đó, lần lượt Hunggari, Rumani va Xlôvakia
đều tuyên bố tham gia Hiệp ước Béclin vào tháng 11-1940. Tháng 3-1941, chính phủ
phát xít Bungari cũng tham gia hiệp ước đó và để cho quân đội Đức vào chiếm đóng.
Thế là cuối năm 1940, đầu năm 1941, bốn
nước nói trên đã mặc nhiên trở thành “chư hầu” của Đức mà Đức không tốn một viên
đạn, lập nên một vành đai bao vây miền tây Liên Xô, miền đông - bắc Hi Lạp và
Nam Tư.
Do muốn giành ăn
với Đức trong việc xâm chiếm vùng Bancăng mà ngày 28-10-1940, Ý bất ngờ tấn công
Hi Lạp từ phía Anbani, không thông báo và thỏa thuận với Đức. Với 20 vạn quân hùng
hổ tiến vào Hi Lạp, Ý dự định chiếm thủ đô Aten sau mấy tiếng đồng hồ. Thế nhưng
một tuần lễ sau, quân Ý vẫn không tiến được quá 10 km, để rồi đầu tháng 11, quân
Hi Lạp được quân Anh yểm trợ đã phản công không những quét sạch quân Ý ra khỏi
Hi Lạp mà còn chiếm luôn cả Anbani thuộc Ý nữa.
Lúc này, tại mặt
trận châu Phi, Ý cũng đang thua liểng xiểng. Ngày 3-10-1940, quân Anh đột ngột
chuyển sang phản công ở Bắc Phi, đẩy lùi quân Ý và đến hè năm 1941 thì chiếm lại
tất cả các thuộc địa của Ý ở Đông Phi, kể cả Êtiôpi.
Trước tình hình
khó khăn của phát xít Ý, Đức lờ đi chẳng giúp gì cho ông bạn đồng minh đã từng
giở trò láu cá với mình.
Đức định qui phục
chính quyền Nam Tư như 4 nước Bancăng nêu trên. Nhưng nhân dân Nam Tư đã nổi dậy
kháng chiến lập chính phủ mới, ký hiệp ước thân thiện, không xâm phạm với Liên
Xô ngày 5-4-1941. Trước tình hình đó, Hitle phải ra lệnh tạm hoãn kế hoạch tấn
công Liên Xô để đè bẹp Nam Tư và Hi Lạp trước. Đêm 6-4-1941, không quân Đức dội
bom xuống thủ đô Nam Tư và 56 sư đoàn Đức cùng chư hầu tràn vào Nam Tư. Chính
phủ Nam Tư bỏ chạy sang Ai Cập. Cùng ngày, Hi Lạp cũng bị Đức tấn công. Quân đội
Hi Lạp đầu hàng, quân đội Anh bị đánh bật ra biển.
Việc chiếm bán đảo
Bancăng là tạo bàn đạp quan trọng cho quân đội Đức tấn công Liên Xô. Dù bị Đức
chiếm đóng nhưng phong trào đấu tranh vũ trang giải phóng dân tộc ở những nước đó
ngày càng lớn mạnh, đặc biệt là ở Nam Tư và Hi Lạp, đã biến những sự chiếm đóng
đó thành cuộc chiến tranh đẫm máu và dai dẳng, cản trở Hitle tận dụng tiềm lực
của vùng này vào việc xâm lược Liên Xô.
Sau khi thôn tính
xong 11 nước châu Âu với diện tích gần 2 triệu km2, dân số 142 triệu
người, phát xít Đức đã chiếm được những vị trí có ý nghĩa chiến lược hết sức
quan trọng về kinh tế và quân sự. Các nguồn dự trữ về nguyên liệu chiến lược, các
nhà máy luyện thép, chế tạo quốc phòng; kho tàng vũ khí… của hầu hết các nước Tây
Âu đều lọt vào tay nước Đức.
Việc chiếm đóng
Tây Âu và Bancăng, đánh tan các lực lượng vũ trang của các nước ở đó tuy có gây
cho nước Đức những thiệt hại không nhỏ về chính trị và quân sự (lột trần bộ mặt
ăn cướp tàn bạo của chủ nghĩa phát xít, khí thế kháng chiến đấu tranh chống phát
xít của nhân dân châu Âu ngày càng tăng, quân Đức bị mất khoảng 2000 xe tăng,
nhiều máy bay, tàu chiến…) nhưng chiến quả mà nước Đức gặt hái được vẫn rất to
lớn. Quân đội Đức trở thành một lực lượng hùng mạnh bậc nhất thế giới. Quân số
trước cuộc chiến với Ba Lan chỉ là 103 sư đoàn thì đến mùa xuân năm 1941 đã tăng
lên là 214 sư đoàn (khoảng 8,5 triệu người). Chỉ trong một thời gian từ mùa thu
năm 1940 đến mùa xuân năm 1941, để bổ sung thêm cho lực lượng hiện có, Đức Quốc
Xã đã thành lập thêm 58 sư đoàn, trong đó có 11 sư đoàn xe tăng và 8 sư đoàn cơ
giới. Có thể nói vào giữa năm 1941, trước cuộc tấn công Liên Xô, nước Đức đã có
một đội quân nguyên vẹn khổng lồ, được trang bị và hậu thuẫn kỹ càng từ hầu như
toàn bộ tiềm lực kinh tế, quân sự của châu Âu tư bản, với một hậu phương chiến
lược Tây Âu khá rộng lớn.
Với một lực lượng
vũ trang hùng mạnh như vậy, với chiến thuật “đánh chớp nhoáng” đã thể hiện sự
“bách thắng” của nó trên chiến trường Tây Âu và Ban căng, Hitle cùng Bộ chỉ huy
tối cao quân sự Đức Quốc Xã, ngông cuồng và ngạo mạn, cho rằng thời cơ tiêu diệt
kẻ thù số một là Nhà nước Xô Viết cùng với chế độ xã hội chủ nghĩa đầu tiên của
thế giới, đồng thời độc chiếm luôn vùng tài nguyên bao la và nhiều như vô tận, đã
chín muồi. Trước mắt phát xít Đức lúc này, Liên Xô chỉ là “tên khổng lồ chân đất
sét”. Do đó Hitle dự tính “đánh quỵ nước Nga” trong vòng tối đa là 2 tháng và “đánh
bại nước Nga bằng một cuộc chiến tranh chớp nhoáng trước khi kết thúc chiến
tranh với Anh” (chỉ thị số 21 của Hitle).
Dù có thể là phởn
chí quá hóa cuồng, tưởng mình tài năng hơn Napôlêông, nhưng Hitle cùng đồng bọn
chắc rằng không thể không xem lại cuộc chiến tranh Pháp - Nga năm 1812 và rút
ra bài học “nhỏ” mà Bônapác đã để lại: chớ có chọc ghẹo quá trớn ông khổng lồ dù
chân ông ta có làm bằng đất sét! Không hẳn là hoàn toàn vì điều đó nhưng điều đó
cũng góp phần làm nên một số kế hoạch được chuẩn bị kỹ càng, chu đáo của phát xít
Đức gây chiến xâm lược Liên Xô.
“Kế hoạch
Bacbarôxa” (nghĩa là “Râu hung”, biệt hiệu của Phêđêrich, Hoàng đế Đức thời
Trung Cổ) được thảo ra từ tháng 6-1940 và chỉ thị số 21 về kế hoạch này được
Hitle phê chuẩn ngày 18-12-1940. Kế hoạch nhằm tiêu diệt quân đội Liên Xô (thường
gọi là Hồng quân) trong một cuộc chiến tranh đánh nhanh thắng nhanh, do đó
Hitle đã huy động tới 190 sư đoàn với 5,5 triệu quân, 3.712 xe tăng, 47.260 khẩu
pháo, 4.950 máy bay và 193 tàu chiến, trong đó có 153 sư đoàn Đức, 17 sư đoàn
Phần Lan, 18 sư đoàn Rumani và 2 sư đoàn Hunggari, cho giai đoạn đầu cuộc chiến
với nhiệm vụ được xác định là: “Chia cắt chính diện của lực lượng chủ yếu của
quân Nga đang tập trung ở phía tây nước Nga, sử dụng các cụm quân cơ động mạnh ở
phía bắc và phía nam vùng đầm lầy Pripiátxki mở những đòn đột kích này tiêu diệt
những cụm tập đoàn quân của đối phương đã bị chia cắt”. Cụ thể, khi bắt đầu tiến
công Liên Xô, quân đội phát xít Đức triển khai đội hình như sau:
- Ở cực Bắc là
tập đoàn quân Đức “Na Uy” (gồm 6 sư đoàn), ở phía đông - nam Phần Lan là 2 tập đoàn
quân (gồm 15 sư đoàn). Nhiệm vụ của chúng là chiếm vùng Muốcmanxcơ và đồng thời
tiến công theo 2 phía của hồ Lađôga rồi hợp điểm với các lực lượng của cụm tập đoàn
quân “Bắc” ở khu vực Lêningrát. Các đơn vị này được 900 máy bay thuộc tập đoàn
không quân số 5 của Đức và lực lượng không quân Phần Lan chi viện.
- Cụm tập đoàn
quân “Bắc” (gồm 29 sư đoàn, trong đó có 3 sư đoàn xe tăng, 3 sư đoàn cơ giới,
do thống chế Đức là Phôn Lép (Von Leeb) chỉ huy) đột kích chủ yếu từ vùng
Tindit theo hướng Đangapinsơ, đông bắc Ôpốtxka, có nhiệm vụ tiêu diệt các đơn vị
Xôviết tại vùng Pribantich và sau đó hiệp đồng với một bộ phận lực lượng của cụm
“Trung Tâm” chiếm Lêningrát và Crôngstát. Cụm tập đoàn quân “Bắc” được tập đoàn
không quân số 1 (gồm 1.070 máy bay chiến đấu) yểm trợ.
- Lực lượng chủ
yếu của Đức là cụm tập đoàn quân “Trung Tâm” (gồm 50 sư đoàn, trong đó có 9 sư đoàn
xe tăng, 6 sư đoàn cơ giới và 2 lữ đoàn, do thống chế Vôn Bốc (Von Bock) chỉ
huy). Với sự tổ chức những cụm xe tăng mạnh ở hai bên sườn, cụm tập đoàn quân này
mở những mũi đột kích đánh vu hồi vào hướng chung tiến đến Minxcơ để bao vây các
đơn vị Xôviết ở phía tây Bêlarút, sau đó phát triển tiến công trên hướng chung
tiến về Xmôlenxcơ. Cụm tập đoàn quân này được tập đoàn không quân số 2 (1.600 máy
bay) yểm trợ.
-Cụm tập đoàn quân
“Nam” (gồm 57 sư đoàn, trong đó có 5 sư đoàn xe tăng, 4 sư đoàn cơ giới và 13 lữ
đoàn, do chuẩn thống chế Phôn Runxtét (Von Rundsted) chỉ huy) có nhiệm vụ tiến
công quân đội Xôviết ở Hữu ngạn Ucraina, đột kích triển khai trên cánh trái tới
Kiép, chiếm lấy bến vượt sông Đơnhiép. Sau đó các binh đoàn xe tăng phải phát
triển tiến công ở hướng đông - nam, không cho những lực lượng còn khả năng chiến
đấu của Hồng quân rút qua sông Đơnhiép để bao vây tiêu diệt những lực lượng ấy.
Cụm tập đoàn quân “Nam” được tập đoàn không quân số 4 của Đức và không quân của
Rumani (tất cả có 1.300 máy bay chiến đấu) yểm trợ.
Các đạo quân ấy
được đặt dưới quyền tổng chỉ huy trực tiếp của thống chế Phôn Bơraosít (Von
Brauchitsch).
Trước đội quân
cực mạnh, đã có kinh nghiệm chiến đấu và với một kế hoạch tấn công chu đáo, tỷ
mỷ như thế, Liên Xô đã tổ chức chuẩn bị đối phó như thế nào?
Lúc sinh thời,
V. I. Lênin đã nói: “Một quân đội ưu tú nhất, những con người trung thành nhất đối
với sự nghiệp cách mạng sẽ bị quân địch tiêu diệt nhanh chóng, nếu họ không được
trang bị đầy đủ…”. Tuân theo lời dạy đúng đắn đó, Đảng và Nhà nước Xôviết trong
suốt thời kỳ xây dựng và phát triển kinh tế trước chiến tranh đã rất chú trọng đến
việc xây dựng lực lượng vũ trang ngày một lớn mạnh cả về số lượng binh sĩ, cả về
trang thiết bị quân sự tiên tiến và cả về nghệ thuật tác chiến.
Nhịp độ sản xuất
binh khí kỹ thuật của các nhà máy quốc phòng đã tăng theo hàng năm. Vũ khí mới
cũng được tích cực nghiên cứu, chế tạo. Chẳng hạn các loại súng cối phản lực, các
pháo tự hành đã được sản xuất những mẫu thí nghiệm thành công; năm 1939 đã xuất
xưởng hai loại xe tăng KV và T-34 có tính năng hơn hẳn các loại xe tăng của các
nước tư bản; đầu năm 1941, nhiều loại máy bay mới đã được trang bị cho không quân,
mà phần lớn, về một số tính năng đã hơn hẳn các máy bay cùng loại của Đức và đặc
biệt, máy bay cường kích I.L-2 là chưa có máy bay nào trên thế giới sánh kịp…
Nói chung, nghệ
thuật quân sự Xôviết đã được xây dựng lên một trình độ cao, phù hợp với tính năng
kỹ thuật tiên tiến của binh khí và trang thiết bị quân sự trong thời đại mới.
Chiến lược đã xác định đúng đắn những nhiệm vụ của quân chủng và binh chủng.
Chiến lược Xôviết phủ định và phê phán có cơ sở lý luận những học thuyết thiên
kiến, đề cao vai trò chủ đạo của một phương tiện chiến tranh nào đó và trong điều
kiện lúc bấy giờ đã vội hy vọng trông chờ vào “cuộc chiến tranh chớp nhoáng”, đó
là những học thuyết chẳng hạn như “chiến tranh xe tăng”, “chiến tranh không quân”,
“chiến tranh hải quân”…Chiến lược Xôviết đã biết đánh giá đúng tính chất của cuộc
đấu tranh vũ trang và cả những phương thức cơ bản, cần có để giành thắng lợi đối
với kẻ địch mạnh hơn về trang bị kỹ thuật, trong đó yếu tố con người luôn mang
tính chất cơ bản, quyết định.
Lực lượng vũ
trang Xôviết cũng đã đề ra được lý luận mới có cơ sở khoa học kỹ thuật cho việc
chuẩn bị và tiến hành các chiến dịch qui mô tập đoàn quân và phương diện quân.
Các vấn đề tiến công, các trận đánh gặp gỡ (tao ngộ chiến), bao vây và tiêu diệt
địch, tổ chức phòng ngự tích cực và có chiều sâu, đảm bảo hậu cần… đã giữ một vị
trí đặc biệt trong lý luận quân sự Xôviết và đã tỏ ra đáp ứng được những đòi hỏi
trong cuộc chiến tranh sắp tới.
Tuy nhiên, do
thời gian quá ngắn, đã không đủ cho nhân dân Liên Xô giải quyết được tất cả những
vấn đề bảo đảm chắc chắn cho nền an ninh của đất nước.Nhiều biện pháp quan trọng
còn chưa được thực hiện.
Từ năm 1939, trước
sự đe dọa xâm lược ngày một tăng của phát xít Đức, Liên Xô đã phải áp dụng hàng
loạt biện pháp cấp bách nhằm tăng nhanh hơn nữa sức mạnh chiến đấu của Hồng quân.
Mùa xuân năm
1941, 81 sư đoàn (trong đó có 40 sư đoàn xe tăng, 20 sư đoàn cơ giới) đang ở
giai đoạn thành lập. Đến tháng 1-1941, số quân đã là 4,2 triệu người và tăng lên
khoảng 5 triệu vào ngày 1-6-1941. Thế nhưng như đã nói, nền kinh tế Liên Xô khi
đó không thể trong một thời gian quá ngắn đảm bảo trang bị mọi thứ cần thiết được
cho một số lớn sư đoàn triển khai cùng một lúc.
Do vậy mà khi
chiến tranh nổ ra, hầu hết các quá trình trang bị mới, trang bị lại, xây dựng đội
ngũ, tổ chức bố trí lại đội hình theo khu vực lãnh thổ… đều đang ở giai đoạn
triển khai hoặc dở dang và nói chung, nếu so sánh lực lượng thì quân phát xít Đức
hơn quân đội Liên Xô về quân số là 1,8 lần, về xe tăng loại trung và loại nặng
là 1,5 lần, về máy bay chiến đấu kiểu mới là 3,5 lần, về pháo và súng cối là
1,25 lần.
Đến đây, sự vận
động nội tại của xã hội loài người, vừa mang tính tự nhiên vừa có tính nhân tạo,
trong cuộc xoay vần của một thời đại, đã đạt đến trạng thái căng thẳng tột độ của
nó và đòi hỏi phải giải quyết. Lúc này, mối quan hệ tương phản giữa chủ nghĩa độc
tài hiếu chiến quân phiệt và chủ nghĩa dân chủ cộng hòa nhân văn đã biến thành đối
kháng một mất một còn giữa chủ nghĩa Cộng sản và chủ nghĩa phát xít, được cho là
kết quả tổng hợp, cộng hưởng của hàng loạt mối quan hệ thành phần hòa quyện, đan
xen, kích thích lẫn nhau, như: chiến tranh và hòa bình, tiêu vong và tồn tại, nô
lệ và tự do, khổ đau và hạnh phúc, hận thù và yêu thương… Sự vận động nội tại xã
hội đã lựa chọn Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xôviết và Đức phát xít làm
hai tuyến đầu để giải quyết mối quan hệ đối kháng mất - còn ấy, và như một lẽ tự
nhiên, số phận thế giới được định đoạt theo hướng ưu tiên đòi hỏi thiết tha của
Đức Huyền Diệu là thắng lợi thuộc về Đại Chúng nhân loại.
Như vậy, cuộc
xung đột Xô - Đức là không thể tránh khỏi, tất yếu dẫn đến sự tiêu vong của chủ
nghĩa phát xít tham tàn, và như một định mệnh, quân dân Liên Xô sẽ viết nên một
thiên anh hùng ca bất hủ về lòng yêu nước có tựa đề: “Cuộc chiến tranh vệ quốc
vĩ đại”, đồng thời cũng làm nên một chiến công chói lọi đến muôn đời, dâng lên Đức
Huyền Diệu.
(còn nữa)
Nhận xét
Đăng nhận xét