Thứ Ba, 24 tháng 10, 2017

CÂU CHUYỆN TÌNH BÁO 202

(ĐC sưu tầm trên NET)

Điệp viên thế kỷ XX: Gia đình gián điệp (1)

VietnamDefence - Vụ phản bội lớn nhất trong lịch sử Hải quân Mỹ.

 Đó là ai?


John A. Walker
Dấu vết mơ hồ đầu tiên đã có thể vĩnh viễn biến mất nếu như không có bà trưởng phòng sâu sát của “phòng khiếu nại” của FBI ở San Francisco.

Liên tục có cả dòng thác những lời vu cáo đối với láng giềng, khiếu nại của các bà goá cô đơn, những lời thú tội của những con ma men, những điều bịa đặt ngôn cuồng của những kẻ mắc bệnh tâm thần, những cáo giác tội lỗi của thân nhân, bạn bè, đồng nghiệp đổ đến FBI để báo tin cho các chiến sĩ chuyên chống lại bọn càn quấy của nước Mỹ và việc làm lợi ích cho đất nước này đang được người Mỹ chính thức khuyến khích. Toàn bộ số thư từ muôn màu muôn vẻ này được chắt lọc kỹ lưỡng để phát hiện ra vàng trong đống cát.

Ngày 11 tháng 5 năm 1984, bà trưởng phòng ấy đã đọc một bức thư đánh bằng máy chữ: “Thưa ngài kính mến! Tôi đã làm gián điệp mấy năm và đã chuyển giao các sổ mật mã, hướng dẫn kỹ thuật của máy mã tuyệt mật, các bức điện mật... Đến một lúc nào đó mà tôi không biết thì thông tin đó được gửi tới, Liên Xô, từ đó tôi rất dằn vặt và ân hận. Mục đích của lá thư này là giúp cho FBI khám phá ra một lưới gián điệp cực kỳ quan trọng. Tôi biết người liên lạc với tôi đã tuyển vào lưới đó ít nhất là ba người nữa....”.

Tiếp đó, người nặc danh còn tỏ ý mong muốn hợp tác với FBI với điều kiện bảo đảm miễn tố hoàn toàn cho anh ta. Kẻ ranh ma này đề nghị bàn bạc thông qua mục rao vặt trên báo Los Angeles Times và chọn cho mình bí danh là Rus.

Các cố gắng của FBI nhằm xác định nhân thân anh ta đều không đem lại kết quả.


Những lời bộc bạch của con ma men


Barbara Walker
Những bức thư nặc danh này đã nằm yên phủ bụi trong tàng thư của FBI nếu như không có người đàn bà nát rượu Barbara Walker, người vợ cũ của John Walker và là người đã đưa bàn tay và trái tim cho ông ta vào năm 1957. Chồng bà ta đã từng là một thuỷ binh và theo đạo Cơ Đốc, họ lần lượt sinh ra 4 con...

Bà ta bắt đầu nghi ngờ vào năm 1968 khi chồng bà ta còn đang phục vụ tại căn cứ tàu ngầm ở Norfolk, đồng thời là chủ một quán cà phê nhỏ. Quán cà phê bị phá sản. Nhưng điều làm Barbara ngạc nhiên là thu nhập của gia đình đột nhiên tăng vọt: họ chuyển đến sống trong một căn hộ dắt tiền, mua sắm được đồ gỗ nội thất thượng hạng, tậu được hai chiếc thuyền buồm, một trong số đó có giá hơn 5 ngàn đô la - thời đó là khoản tiền chẳng phải nhỏ.

Lo lắng, Barbara một lần vào buổi chiều đã lẻn vào bàn viết của chồng và phát hiện ra ở đó một chiếc máy ảnh nhỏ hiệu Minox và một hộp sắt trong đó có phim cuộn vào rulông, sơ đồ địa hình, các bức ảnh đường sá, cây cối, bụi cây với những mũi tên chỉ và mẩu giấy: “Thông tin này chúng tôi không cần, mà cần thông tin về rotor (ổ quay - một bộ phận của máy mã) M.L.”. Ngay lúc đó, Barbara nhìn thấy chồng đang đứng tựa cửa với gương mặt méo xệch.

- Anh là thằng phản bội! Thằng phản bội! - cô ta la toáng lên.

- Câm ngay! - anh ta hét lên.

Từ đó, Walker không phủ nhận nhưng cũng không thừa nhận nguồn gốc những khoản thu nhập thêm, thậm chí có lần anh ta còn đề cập thận trọng đến chủ để này bằng cách nói rằng đã ký hợp đồng cung cấp thông tin mật với “họ”.

Đôi khi, Barbara cũng đã đe doạ tố giác chồng nhưng anh văng tục trả lời: ai mà thèm quan tâm đến những lời cuồng loạn này của một con ma men cơ chứ?

Tuy nhiên cô ta cũng chẳng từ chối những đồng tiền không biết từ đâu rơi xuống ấy, gia đình cô ta chi tiêu chả phải ít: một chiếc máy bay nhỏ, nhà nổi, các mảnh đất để làm nhà. Ngoài ra, ông bố kia lại thích đưa các con đến các nhà hàng đắt tiền, mua cho chúng những vật xa xỉ và cho đến các nhà nghỉ xa hoa.

Những nghi ngờ cũng chả cản trở Barbara sống hạnh phúc với chồng cho đến tận năm 1976. Sau khi ly dị, bà ta mang theo hai đứa con nhỏ là Laura và Michael và về sống với bà mẹ già ở bang Maine. Khi say xỉn, bà ta đã nhiều lần bảo các con mình rằng, cha chúng là tên gián điệp, nhưng khi đó chúng còn không hiểu gì.

Theo bước cha

Ngày 17 tháng 11 năm 1984, Barbara cuối cùng đã có đủ dũng khí và khai báo với một nhân viên FBI về một số hoạt động gián điệp của chồng trong thời kỳ ông ta làm việc trong hải quân: hai lần bà ta đã đi cùng với ông ta ra ngoại ô Washington và đợi trong xe, còn ông ta đem theo chiếc ba lô đựng một số vật dụng, bên dưới là một cuộn phim và đi vào rừng. Sau đó, đi tiếp mấy dặm nữa, ông ta lại biến vào rừng và quay về với tiền giấu trong gói. Barbara khai rằng, chồng cũ của bà ta mấy năm trước đã định thuyết phục cô con gái Laura đưa cho ông ta các tài liệu mật của quân đội.


Arthur Walker
Nhân viên FBI không tin vào câu chuyện của một phụ nữ đang bị kích động do rượu: cả một gia đình làm gián điệp có vẻ như chuyện viễn tưởng, nhưng anh ta vẫn viết báo cáo về cuộc nói chuyện, nhưng có nêu nhận xét không cần điều tra gì cả. Báo cáo được chuyển tới sở FBI ở Boston, tại đó nó được một kẻ quan liêu nào đó đọc qua qua một cách thờ ơ rồi đưa vào tàng thư. Toàn bộ câu chuyện này đã khép lại như thế nếu như ngày 24 tháng 1 năm 1985, Laura Walker không gọi thẳng tới sở FBI Boston và nói cô ngạc nhiên vì sao mà cho đến nay cha cô vẫn được tự do.

Các nhân viên FBI, nắm dao đằng chuôi, đã ghé thăm Laura. Cô này kể rằng khi cô còn phục vụ trong Lục quân Mỹ, cha cô đã không chỉ một lần đề nghị cô bán tài liệu mật. Sự việc đã đi đến mức ông ta đòi cô ta phải phá thai để khỏi bị thải hồi khỏi Lục quân và được thăng chức, tiếp cận được các mật mã, cũng như các phương tiện thông tin khác. Tháng 2 năm 1982, ông ta đề nghị cô lại xin vào làm cho Lụy quân Mỹ và hứa sẽ trả 500 đô la một tháng, cùng những khoản tiền lớn trả cho từng lần nhận được của cô ta các tài liệu mật.

Để cho bức tranh thêm phần sinh động, Barbara và Laura còn thêm thắt là không loại trừ cả em trai của John là Arthur Walker, người đã bị thải hồi khỏi hải quân từ 12 năm trước, cũng như một người tên là Jerry Wentworth nào đó, cũng từng phục vụ trong hải quân, cũng tham gia hoạt động gián điệp.

Theo chỉ thị của FBI, Laura đã gọi điện cho bố và nêu những chỗ làm mà dường như cô ta đang được mời: trong lực lượng dự bị lục quân, tại hãng Kodak và CIA. Rồi nói các nhân viên dự tuyển vào CIA phải qua kiểm tra bằng máy phát hiện nói dối và điều đó làm cô lo lắng. Walker đã không liên hệ với con gái trong ba năm nên đã hành động thận trọng, nhưng ông ta cũng đã để “lộ” ở đâu đó (dĩ nhiên là cuộc gọi đã bị FBI ghi âm lại) khi nói cô sợ hãi máy phát hiện nói dối cũng là phải thôi và lưu ý cô là chỉ mới đây thôi bà mẹ tâm thần của cô trong một cuộc gặp ngắn của họ ở Norfolk đã doạ “tiết lộ một vài thông tin”.

John Walker

Được phép của toà và Bộ Tư pháp Mỹ, FBI bắt tay vào tích cực điều tra John Walker. Lập tức, phản gián Mỹ đã gặp may: một lần khi Barbara đến Norfolk gặp con gái, chính Walker đã gọi điện thoại cho bà ta và đòi gặp riêng.
- Tôi biết ông muốn nói gì với tôi rồi, nhưng ông đừng lo, tôi có đủ dũng khí để làm việc đó. - Barbara còn nhớ rõ chỉ thị của FBI là không được làm cho John lo lắng.


Michael Walker
Bà ta sợ gặp ông chồng cũ, nhưng ông ta dù sao cũng đã chèo kéo được bà ta đến gặp.

- Bà đã đập chết con gà đẻ trứng vàng rồi. Nếu như tôi không bị thải hồi khỏi hải quân vì những đe doạ của bà thì bây giờ chúng ta đã có cả triệu đô rồi không. Còn nếu mà bà nói ra điều gì thì bà sẽ làm hỏng sự nghiệp của thằng Michael đấy!

- Thế nào, cả Michael cũng dính vào chuyện này ư? - Barbara hoảng sợ.

- Không, không, - John trấn an bà ta.

Barbara đã diễn vai của mình thật tuyệt vời: bà ta không chỉ làm an lòng John mà còn nhận được những điều bổ sung xác nhận tội lỗi của ông ta. Đến lúc đó thì toàn bộ hồ sơ chính thức về John Walker đã được FBI nghiên cứu kỹ lưỡng.


Năm 1955, John Walker gia nhập Hải quân Mỹ
Sau khi tốt nghiệp phổ thông, vào năm 17 tuổi, anh ta gia nhập hải quân, ở đó anh thuỷ thủ binh nhì này đã leo lên đến cấp chuẩn uý. Trong nhiều năm, đã được tiếp cận với các loại mật mã và tài liệu mất trên các chiến hạm, tàu ngầm, cũng như ở bộ tham mưu Hạm đội Đại Tây Dương. John Walker khi ở trong quân ngũ được nhận xét là trung thực, thích được phục vụ trong hải quân và rất tự hào về điều đó. Trong lý lịch có nêu rõ tính trung thực, thẳng thắn, cởi mở, thích đùa, cầu thị (anh ta đã tham gia nhiều khoá học khác nhau), hành vi đúng mực và có trách nhiệm với công việc. Sau khi rời hải quân, anh ta đã tạo lập được uy tín của một thám tử tư xuất sắc, các khách hàng tin tưởng và hài lòng với công việc của anh ta.

Thực ra khi đào bới sâu hơn, người ta thấy hiện lên hình ảnh một con ác quỷ thực thụ muốn bắt tất cả phải phục vụ những mục đích hám lợi của mình. Thì ra từ thời còn học phổ thông, Walker đã thực hiện bốn vụ trộm lớn và đã gia nhập hải quân để tránh bị trừng phạt. Ông ta gọi vợ là “con chó cái”, gọi các con là “những tên tiểu vô lại”, họ hàng là “bọn say”. Khi công việc làm ăn của ông ta bị đổ bể thời đó, ông ta đã định bắt Barbara làm điếm, đã cố tình lôi kéo bà ta vào hoạt động gián điệp và thực tế đã biến bà ta thành kẻ đồng loã. Là một thám tử tư, ông ta đã không chỉ một lần vi phạm luật pháp, thậm chí còn tham gia vào bắt cóc người để đòi tiền chuộc.

Việc theo dõi ngoài đối với Walker không đem lại kết quả vì FBI đang chạm trán với một chuyên gia hoạt động bí mật dày kinh nghiệm.


Điệp viên thế kỷ XX: Gia đình gián điệp (2)

VietnamDefence - Sau 17 năm làm gián điệp cho KGB, John Walker cùng người thân kéo nhau ngồi tù.

Whitworth - RUS


Thất bại tình báo đau đớn nhất của Hải quân Mỹ
>> Điệp viên thế kỷ XX: Gia đình gián điệp (1)Trong lúc đó, vụ việc đã có một bước ngoặt mới. Các chuyên gia phân tích của FBI đã đi đến kết luận: Rus chính là Jerry Wentworth bí ẩn đó. Một lần nữa người ta đăng tin lên báo nhưng không được trả lời.

Thì ra mấy năm trước, Laura đã ở nhà Wentworth, nhưng đã quên mất địa chỉ, cô ta đã hai lần gọi điện cho ông ta... Người ta buộc Laura phải nhớ lại dù là gần chính xác tuyến đường mà cô ta đi đến nhà Wentworth và ngôi nhà của ông ta. Thậm chí, FBI còn phát hiện được cái gì đó giống với lời mô tả của cô ta, nhưng ở đó tuyệt nhiên chả có Wentworth nào cả. Người ta lục các danh mục điện thoại năm 1982 và tìm ra số máy mà Laura đã gọi, nhưng nó lại thuộc về một ông Jerry Whitworth nào đó. Liệu cô con gái của tên gián điệp có bị nhầm không đây? Laura đúng là đã nhầm.

FBI xác định được ngay nhân thân của Whitworth: sinh năm 1939, từ năm 1962 đến 1983: phục vụ trong hải quân, 10 năm cuối có liên quan đến mật mã và các loại thông tin liên lạc trên các tàu hải quân và trong lực lượng bảo vệ bờ biển. Hơn nữa, trong các nhiệm vụ của anh ta còn có nhiệm vụ cất giữ các mật mã, sổ mã và các tài liệu hướng dẫn sử dụng máy mã. Thì ra từ năm 1970 đến năm 1971, Walker từng là chỉ huy của Whitworth. Lúc này thì các chuyên gia phân tích tin chắc Whitworth chính là Rus.

Đổ bể

Đã sáu tuần FBI tiến hành nghe lén điện thoại của Walker và kinh ngạc trước kho từ ngữ tục tĩu dồi dào của hắn, nhưng không thu được một cái cớ nào.

Ngày 17 tháng 5, bà dì ông ta ở Pensylvania qua đời, nhưng ông ta lại gọi điện cho họ hàng báo là vào ngày chủ nhật - ngày an táng bà dì, ông ta mắc công chuyện nên không thể về vĩnh biệt người quá cố được. Điều này đã làm FBI cảnh giác vì thường thì chủ nhật Walker không làm việc, mà trên điện thoại thì ông ta cũng có hẹn hò gì với ai đâu. Công chuyện ở đây là gì? Các thám tử của FBI được tung vào cuộc.

Buổi sáng chủ nhật, Walker ra khỏi ngôi nhà hai tầng của mình ở Norfolk và ngồi vào chiếc xe Chevrolet với quần áo mặc kiểu đi xa. Khi đi vòng quanh thành phố, ông ta đã chăm chú quan sát trong gương các xe đi phía sau, hai lần dừng lại, bước xuống đường nhữa, quay đầu, đi đến xa lộ và nhằm hướng Washington.

Tổ theo dõi ngoài lập tức nhận ra thủ đoạn kiểm tra nghề nghiệp trong các hành động của Walker và cố giữ khoảng cách với ông ta và duy trì liên lạc bằng vô tuyến điện. Việc xe Walker đi về phía Washington còn làm người ta lo ngại hơn vì theo lời khai của Barbara thì từ năm 1976 trong mọi trường hợp, trung tâm tình báo nước ngoài ở Washington liên lạc với Walker thông qua các hộp thư mật. Các máy bay đặc chủng của FBI đã được huy động tham gia theo dõi, nhưng chúng thường để mất dấu Walker vì dọc đường đi có quá nhiều cây cối. Các nhân viên theo dõi ngoài sợ đi phía sau vì đường thì ngoằn ngoèo nên không thể bám sát theo Walker mà không có sợ bị lộ. Chẳng có gì ngạc nhiên khi tổ theo dõi ngoài của FBI đã mất dấu ông ta vào lúc 5 giờ chiều.

Màn đêm sập xuống, các nhân viên FBI tuyệt vọng. Nhưng họ lại thành công: gần 8 giờ, tổ theo dõi ngoài bất ngờ chộp được xe của Walker. Lúc 8 giờ 15, ông ta đưa xe vào bãi đỗ, chui khỏi xe và bắt đầu kiểm tra cái gì đó. Lúc 8 giờ 20, một chiếc ôtô màu xanh mang biển số ngoại giao của sứ quán Liên Xô xuất hiện trên đường. Chiếc xe này được FBI xác định ngay là của bí thư thứ ba sứ quán Aleksei Tkachenko, một nhân viên KGB. Tổ theo dõi ngoài sợ Tkachenko lo ngại nên đã tắt đèn pha tiếp tục theo dõi Walker. Lúc 8 giờ 30, ông ta ra khỏi xe, lại gần thùng rác ở bến đỗ, sau đó thì đi mất. Các nhân viên FBI chạy đến và nhận ra trong thùng rác một hộp nước bằng sắt tây rỗng, nhưng đối với người có nghề thì gần như chắc chắn nó là tín hiệu “tôi đã đến khu vực hành động, đã bỏ tài liệu vào hộp thư mật và sẽ lấy tài liệu từ hộp thư của anh...”.

Ngay lúc đó đã xảy ra một sự nhầm lẫn: nhân viên FBI đã đặt chiếc hộp về chỗ cũ để Tkachenko trông thấy nó và báo trước để tổ theo dõi đi ở tuyến hai sau đó phải thu lấy chiếc hộp làm vật chứng (trên đó chắc chắn sẽ lưu lại dấu tay), nhưng các nhân viên theo dõi ngoài này đã vội vã nhặt lấy hộp nước đem đi. Vào lúc 9 giờ 08, Tkachenko, sau khi không trông thấy hộp nước liền đoán ngay là phiên liên lạc đã hỏng nên đã rời khỏi khu vực một cách cực kỳ bình tĩnh. Trong khi đó, Walker đỗ lại, ra khỏi xe, đi lang thanh một lát trong rừng và đi vào thành phố, ở đó ông ta đi lang thang vơ vẩn trong trung tâm thương mại rõ ràng là để giết thời gian. Khi lục soát kỹ lưỡng địa điểm bên rừng, các nhân viên theo dõi ngoài đã tìm thấy một chiếc ba lô chứa một số đồ và bên dưới có cuộn phim.

Vào lúc 10 giờ 15, Walker lại xuất hiện ở khu vực có các hộp thư mật. Khi đi đến chỗ đã để ba lô, ông ta không phát hiện thấy gì, liền đi đến hộp thư mật khác. Chuyện gì thế này? Tkachenko đã lấy tài liệu nhưng tại sao lại không để lại gì? Trong quá trình làm với KGB chưa bao giờ xảy ra chuyện thế này. Chán chường, Walker đánh xe vào thành phố và ở lại trong một motel.

Bắt giữ

FBI đã nhận được chỉ thị bắt ông ta mà không cần bất kỳ lệnh nào(!) vì con chim này có thể bay thoát khỏi bẫy.
Lúc 3 giờ 30 sáng, một nhân viên FBI gọi vào số máy của Walker và giả vờ là người gác khách sạn, yêu cầu ông ta xuống dưới vì một chiếc xe thùng đã đâm vào ôtô của ông ta.

Walker uể oải ra khỏi phòng, quan sát cầu thang và quay trở lại. Mấy phút sau, khi ông ta lại đi ra thì hai nhân viên FBI với súng ngắn ổ quay lăm lăm trong tay đã xông lại ông ta trong hành lang. Walker rút khỏi túi khẩu súng ngắn ổ quay và nhằm bắn.

- FBI đây! Bỏ vũ khí xuống!

Walker hiểu ngay rằng, chống cực là vô ích, khẩu súng ổ quay rơi xuống sàn nghe khô khốc. Ông ta bị buộc quay mặt vào tường, còng tay, lột bộ tóc giả (ông ta dùng nó để che cái đầu hói), kính, thắt lưng, giày và tất.

Tại đại bản doanh FBI ở Washington, người ta vui vẻ ăn mừng thắng lợi và xoa tay chuẩn bị tóm nốt những thành viên của lưới gián điệp. Ngoài các tài liệu, trong ba lô, người ta còn tìm thấy một lá thư Walker viết cho các xếp của mình ở KGB. Ông ta báo tin là đã mang đến tài liệu của nguồn “C”, nhưng không được nhiều vì con tàu mà nguồn tin làm việc về trễ. Theo Walker, điều còn chưa rõ là hành vi của “D”, tay này không muốn tiếp tục cộng tác nữa, nhưng Walker đoan chắc là một khi hết tiền, “D” lại tự xin làm việc trở lại. Ông ta cũng báo tin “K” hiện chưa có khả năng, nhưng điều đó có thể sẽ xuất hiện.

FBI cũng đã biết rõ ai là ai: “C” là Michael, con trai John Walker; “D” - Whitworth; “K” - có thể là Arthur Walker.
Khi các nhân viên FBI nói với Whitworth là ông bạn Walker của ông ta đã bị bắt thì ông này chút nữa thì ngã lăn ra bất tỉnh, nhưng sau đó không thú nhận điều gì.

Arthur Walker phản ứng khá bình tĩnh trước tin FBI bắt giữ anh mình, nhưng hoàn toàn phủ nhận là mình biết về hoạt động gián điệp của John. Ông ta đồng ý kiểm tra bằng máy phát hiện nói dối và máy này đã cho thấy Arthur đã nói dối gần như với tất cả các câu hỏi.

Michael Walker bị tóm ngay trên tầu sân bay Nimitz đang thả neo ở Haifa. Anh ta không chối cãi và thú nhận đã chuyển cho cha các tài liệu mật từ năm 1983...

Một quyết định sáng suốt

Vậy thiên sử thi hiếm có trong lịch sử tình báo kéo dài trong 17 năm trường đã khởi đầu như thế nào?

Theo thú nhận của Walker, phục vụ trong hải quân rất buồn và nhiều lần đẩy anh ta vào cảnh chán nản. Vào đầu năm 1968, một thuỷ thủ nào đó nói đùa là bán bí mật cho Nga cũng kiếm được không phải là ít. Đặc biệt được giá là các mật mã, một thuỷ thủ khác cười nói.

John đã ghi nhớ câu chuyện đùa đó. Một lần, vào tháng 1, anh ta đi Washington, để xe lại bãi đỗ và đi taxi đến sứ quán Liên Xô - một quyết định sáng suốt của một gián điệp mới vào nghề, nếu không anh ta đã lọt vào mắt của FBI. Tại sứ quán, John yêu cầu gặp một người nào đó có liên quan đến “an ninh” - và người ta đã nhiệt tình đáp ứng ngay.

Tướng Boris Solomatin khác với nhiều tình báo viên khác, đã lên đến chức phó chỉ huy cơ quan tình báo không phải bằng cách liếm ghế của các nhà lãnh đạo Uỷ ban Trung ương và KGB. Là một cựu chiến binh, nhà thông thái về whisky và Cognac, con người có khí độ lãnh đạo mạnh mẽ..., Bob như các đồng nghiệp gọi ông ở chỗ thân tình luôn được coi là con sói với miếng cắn chết người trong tình báo, người đã đích thân tuyển mộ không ít điệp viên quý giá. Mà những sĩ quan chỉ đạo thực tế, có xét đoán độc lập với khả năng chỉ liếc mắt là hiểu ngay vấn đề như thế thì chủ tịch KGB Vladimir Kryuchkov lại không muốn giữ bên mình, do đó Solomatin thường bị lùa khỏi Trung ương lên tuyến đầu.

Chính Boris Solomatin, trưởng trung tâm KGB ở Washington là người đứng ra nói chuyện với Walker. Con sói già hành động rất cương quyết - ứng trước ngay 3 ngàn đô la và thoả thuận quy ước liên lạc. Để làm việc đó, người ta cần phải có đủ dũng cảm vì FBI đã không chỉ một lần cử bọn khiêu khích đến sứ quán.

- Ban đầu, tôi nghĩ đây là chuyện vớ vẩn, - chìm ngập trong đám khói thuốc, tướng Solomatin lúc này đã về hưu, nói, - nhưng khi anh ta đưa ra các bảng khoá của máy mã và giấy chứng minh thì tôi hiểu là mình đang có chuyện với một con cá sộp. Trước hết cần phải bảo đảm an toàn cho anh ta khỏi đám FBI đang theo dõi sứ quán.

Cuộc nói chuyện kéo dài gần 1 giờ, sau đó, Walker được mặc bành tô, đội mũ và dẫn ra sân nhỏ bên trong, đưa vào ghế sau xe ôtô, hai nhân viên tình báo Liên Xô cũng ngồi vào xe này rồi cho xe chạy khắp thành phố rồi thả Walker xuống xe ở địa điểm kín đáo.

Tuyển mộ nhân viên mật mã là nghệ thuật tột đỉnh trong tình báo. Chặn thu và đọc được các bức điện của đối phương có nghĩa là biết hết các bí mật chính trị và quân sự, biết toàn bộ hệ thống thông tin liên lạc của đối phương. Tuyển mộ đã là quan trọng nhưng còn quan trọng hơn đó là trò quan tước: trong quá trình làm việc nhiều năm của Walker mà 5 người đã được tặng thưởng danh hiệu Anh hùng Liên Xô, chưa kể cả núi huân chương chiến công. Nhân vật chủ chốt, người đã tuyển mộ anh ta thì như người ta thường nói chỉ nhận được “bát nước sáo”.

Người ta chi không tiếc tiền cho Walker, đã tiêu tốn hàng trăm ngàn đô la; anh ta cũng mang đến cho tình báo Liên Xô cả núi tài liệu và nếu như kể đến việc những tin tức về các loại mật mã và các máy mã của Mỹ luôn luôn có thể dùng để “khám phá” các loại mật mã khác của Mỹ thì nói một cách đơn giản là không thể đánh giá hết giá trị của thông tin mà Walker cung cấp.

Sau khi rời hải quân vào năm 1976, Walker chủ động tự tuyển mộ Whitworth và vì thế lập tức bị KGB cự nự. Thằng cha Whitworth là thằng nào vậy? Một điệp viên quý giá với khả năng tự lấy được thông tin hạng nhất luôn bị cấm đi tuyển người khác vì anh ta có thể bị “gậy ông, đập lưng ông”. Nhưng Whitworth đã tỏ ra xứng đáng và đã chuyển nhiều tài liệu “sạch” hơn chính người tuyển mộ mình, và cung cấp không chỉ các mật mã mà cả các tài liệu mật khác, mà cả những bản vẽ các kiểu máy mã mới nhất. Việc Whitworth về hưu năm 1983 đã là một đòn mạnh giáng vào Walker. Lúc này nguồn thu nhập thực tế còn lại chỉ là một mình con trai ông ta là Michael, nhưng điệp viên Walker vẫn truy tìm những đối tượng mới để tuyển mộ.

KGB đã liên lạc với Walker không chỉ bằng các hộp thư mật, mà còn tiến hành các cuộc gặp riêng để huấn luyện các kỹ năng kiểm tra, hướng dẫn các biện pháp an toàn, nhưng người ta làm điều đó không phải ở Mỹ mà ở Casablanca, sau đó là ở Viên nơi anh ta bay đến giành riêng cho mục đích này.

Chỉ có Chúa mới biết tại sao Walker không bị bại lộ từ trước đó vì trong từng ấy năm hoạt động, anh ta đã tạo ra rất nhiều kẽ hở và điều chủ yếu là tất cả các thành viên gia đình đều biết bí mật này - chính cái lưỡi hái này cuối cùng cũng đã bập xuống.

Nguời Mỹ vẫn chưa thèm nghĩ tới chuyện ân xá

Công lý Mỹ chỉ là thứ công lý công bằng và tự do nhất trên lời nói, trong thực tế thì chúng vô lý và bất công không thể tưởng tượng nổi.

Whitworth phủ nhận tội lỗi của mình, nhưng FBI bằng cách hứa chỉ xử John Walker tù chung thân và con trai Michael 25 năm tù, đã thuyết phục được John Walker đứng ra làm chứng chống lại ông ta. Walker đã làm điều này một cách cực kỳ sung sướng, nhất là khi ông ta biết được lá thư của Rus. Kết quả là, bị can Whitworth ngoan cố đã lãnh 365(!) năm tù giam (dài nhất trong lịch sử các vụ án gián điệp) và 410.000 đô la tiền phạt. Thực ra thì toà án cũng cho ông ta quyền được thả trước thời hạn, nhưng chỉ sau 60 năm, nghĩa là khi Whitwoth đã 107 tuổi.

Michael bị kết án 25 năm tù. không có quyền phóng thích trước thời hạn (sau khi điều tra, đã xác định được anh ta đã chuyển cho cha mình 1.500 tài liệu mật). Arthur Walker tại toà không thú nhận điều gì, việc buộc tội chỉ dựa trên những phỏng đoán của Barbara và Laura, tuy vậy vì ngoan cố, Arthur đã lãnh ba “án chung thân” cộng với 40 năm - để cảnh cáo tất cả những kẻ thích buôn bán bí mật. Mà đó là án với những bằng chứng vớ vẩn như thế!

Nhân vật chính, John Walker, không chối cãi tội lỗi của mình và bị xử tù chung thân.

Cuộc sống của các gián điệp của nước ngoài trong tù là rất nguy hiểm, vì bọn tội phạm ở Mỹ còn yêu nước hơn người Mỹ bình thường, chúng căm thù những kẻ phản bội là những gián điệp và cố tìm cách ngấm ngầm kết liễu họ.

Nhưng còn việc ân xá cho các gián điệp để đánh dấu sự kết thúc chiến tranh lạnh thì người Mỹ vẫn còn chưa thèm nghĩ tới...

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét