Thứ Hai, 23 tháng 10, 2017

CÂU CHUYỆN TÌNH BÁO 201

(ĐC sưu tầm trên NET)

Điệp viên thế kỷ XX: Bí mật bị lộ sáng

VietnamDefence - Hoạt động tình báo nguyên tử của Tổng cục Tình báo Bộ Tổng tham mưu quân đội Liên Xô.


Tổng thống Nga V. Putin trong một lần thăm đại bản doanh GRU
Những chiến công trên vũ đài này của Tổng cục Tình báo Bộ Tổng tham mưu GRU như mất hút trong cả đống những tin giật gân đến khó tin của tướng Sudoplatov về các vụ tuyển mộ của KGB đối với các nhà vật lý vĩ đại từ R. Oppenheimer (J. Robert Oppenheimer (1904-1967), nhà vật lý và nhà tư vấn của chính phủ Mỹ, người đã lãnh đạo Dự án Manhattan (Manhattan Project) chế tạo bom nguyên tử đầu tiên (1943-1945) tại Los Alamos, bang New Mexico - ND) cho đến N. Bor (Niels Henrik David Bohr (1885-1962), nhà vật lý Đan Mạch, giải thưởng Nobel vật lý năm 1922, một trong những người đặt nền móng cho vật lý hiện đại, từng tham gia Dự án Manhattan nói trên - ND), cũng như được đề cập trong rất nhiều tác phẩm của các cựu binh KGB về hoạt động gián điệp nguyên tử của Liên Xô, thậm chí đến cả những làn gió tàn nhẫn của công khai và truy tìm sự thật đổ ập xuống tình báo đối ngoại KGB, cũng không làm lung lay nổi pháo đài bí mật này. Còn có một nguyên nhân khác: Theo các nghi thức của Liên Xô, tình báo quân sự (GRU) luôn được xem như “em út” của KGB, còn dưới thời Stalin và cho tới tận những ngày cuối cùng đầy bi hài của chế độ, KGB đã thực hiện việc kiểm soát chặt chẽ đối với “người láng giềng xa” - đó là cái tên lóng của GRU để phân biệt vì Lubyanka trong quan hệ với Điện Kremlin có diễm phúc được gọi là “người láng giềng gần”.

Tuy nhiên, tình báo quân sự Liên Xô/Nga vẫn là một tổ chức hùng mạnh, không hề thua kém “người láng giềng gần” của mình. Chính GRU, chứ không phải NKVD, đã bảo toàn được bộ máy tình báo bất hợp pháp (mặc dù là có những tổn thất) trong những năm chiến tranh và duy trì liên lạc với “Dàn hợp xướng đỏ” lừng danh. Dưới đây, xin kể về hoạt động của trung tâm tình báo GRU ở Ottawa, một trung tâm đã làm được nhiều việc trong lĩnh vực tình báo nguyên tử. Điều bí mật này đã lôi ra ánh sáng sau vụ chạy trốn của nhân viên cơ yếu I. Guzenko vào tháng 9 năm 1945. Về bản chất, điều đó đã gây ra một vụ vỡ cơ sở có tiếng vang đầu tiên sau chiến tranh và làm cho nhiều chính trị gia phương Tây thấy được quy mô của hoạt động gián điệp của các đồng minh trung thành trong liên minh chống Hitler. Bài này được viết dựa trên các tư liệu phương Tây, trong đó có cả sự phân bua của chính Guzenko. Dường như chiếc lò huỷ tài liệu cũng đóng vai trò không nhỏ trong vụ chạy trốn của Guzenko vì trưởng trung tâm KGB ở Ottatwa đã từng vừa độc ác cười hô hố vừa hăm doạ anh nhân viên cơ yếu vốn đã sợ hãi sẵn.

Đúng là cái lò chết tiệt! Trong cuốn sách “Bể cá” của tên đào ngũ của GRU Rezun lên tiếng dưới bút danh khiêm tốn Suvorov thì để giáo dục, các nhân viên GRU được người ta chiếu cho xem phim có cảnh thiêu sống một tên phản quốc. Khốn khổ là cái bếp lò này thậm chí còn được đưa vào cuốn sách của A. Kabakov đáng kính.

Người ta có thể căm thù cả KGB, cả GRU, nhưng hoàn toàn không nhất thiết phải nghĩ rằng, các cơ quan này là một bầy những kẻ tâm thần đần độn, bị ám ảnh bởi viễn cảnh của chiếc lò bùng cháy, bởi vì nếu thế sẽ không thể hiểu được tại sao những con người ấy lại có thể tiến hành những điệp vụ thông minh đến mức mà chỉ cần nhắc đến chúng thì cả thế giới vẫn còn thấy bàng hoàng.

Mikhail Lyubimov

Tháng 6 năm 1943, đại tá GRU Zabotin, nhân viên cơ yếu Igor Guzenko và thiếu tá Romanov đặt chân đến Canada để nhận công tác mới. Một thời gian sau, những người còn lại: trung tá Motinov, thiếu tá Vasily Rogov, trung uý Pavel Angelov, đại uý Yuri Gorshkov và những người khác cũng kéo đến. Tất cả cán bộ nhân viên tình báo quân sự đều có vỏ bọc là các chức nghiệp chính thức như phiên dịch viên, thư ký, lái xe...

Tính đến lúc đó thì Canada đã đứng về phía đồng minh tham chiến được bốn năm. Nền công nghiệp nước này đã sản xuất ra máy bay, xe tăng, quân trang; các binh sĩ Canada đã tham gia các trận đánh trên các chiến trường hải ngoại. Theo “Chương trình viện trợ của Canada cho Liên Xô”, vũ khí, tàu chiến, thực phẩm được gửi tới Liên Xô. Thiếu tá Sokolov là thanh tra viên của Liên Xô tại các nhà máy Canada cung cấp hàng hoá cho Liên Xô và anh đã bắt tay xây dựng lưới điệp báo tại Canada từ khi Zabotin còn chưa tới đây.

Tuy nhiên, từ năm 1924, Moskva đã có những người cung cấp tin của mình ở Canada mà chủ yếu là các nhân vật có cảm tình với các tư tưởng cộng sản. Tích cực nhất trong số họ là: nghị sĩ Fred Rose (họ thật là Rosenberg, cha mẹ xuất thân từ nước Nga) và Sam Carr (thực ra là Schmul Cogan, quê ở Vinnitsa). Sam Carr đã được gửi sang Liên Xô vào năm 1929 để học tập kiến thức cơ bản về chủ nghĩa Mác-Lênin, về cách thức tổ chức các cuộc bãi công, hoạt động gián điệp và phá hoại.

Tất nhiên là bí thư toàn quốc Đảng Cộng sản Canada Sam Carr và nhà hoạt động Đảng, Uỷ viên Trung ương Đảng Fred Rose dã trở thành các điệp viên trong lưới điệp báo của đại tá Zabotin. Họ cũng tham gia tuyển mộ điệp viên từ những đảng viên thân Liên Xô nhất.

Sự xuất hiện của sứ quán Liên Xô tại Canada (và bộ máy tuỳ viên quân sự) cũng trùng với thời điểm bọn phát xít bắt đầu vấp phải thất bại trên chiến trường. Trận đánh Stalingrad đã làm dấy lên một làn sóng vu mừng ở Canada, thủ tướng Mackenzie King đã đích thân chúc mừng cán bộ nhân viên sứ quán Liên Xô nhân chiến thắng trên sông Volga, công chúa Alice và Toàn quyền Canada (đại diện của Nữ hoàng Anh) đã mở tiệc mừng đại sứ Liên Xô Zarubin.

Các buổi chiêu đãi còn được tổ chức cả ở sứ quán Liên Xô và được có mặt tại các buổi chiêu đãi ấy là một vinh dự lớn đối với người Canada, bởi vậy thậm chí đã có người có nguyện vọng phải xếp hàng chờ đợi. Trong số họ, Motinov và Zabotin lựa ra những người sẽ hữu dụng trong tương lai và tập trung điều tra tìm hiểu họ...

Tướng Motinov kể lại: “Thủ tướng Mackenzie King khi đó có một cơ quan cơ yếu của mình, chúng tôi cũng đã xâm nhập cả vào đó - chúng tôi đã thu hút được một nữ nhân viên mật mã nhất trí cộng tác. Có bức điện của thủ tướng Anh Churchill đã được cô ấy cho chúng tôi đọc trước, sau đó mới báo cáo cho thủ tướng Canada King. Có lần, Stalin đọc thư của thủ tướng King gửi cho Churchill còn trước cả vị thủ tướng Anh. Thực ra thì cũng như thường gặp với phụ nữ, đã xảy ra một trục trặc nhỏ - đó là khi được gặp Pavel Angelov để giao tài liệu, cô ấy đã say cậu ta như điếu đổ.

- Cô ta lúc nào cũng lao vào hôn hít, - Angelov phàn nàn.

- Thì sao nào, cậu hôn cũng được chứ sao....

- Tôi không thể làm thế.

- Nếu như cần cho công việc thì đến quỷ cái cậu cũng phải hôn. Với cương vị chỉ huy, tôi ra lệnh: Hôn!

Một thời gian sau, anh ta báo cáo: “Tôi hôn, nhưng khó chịu lắm”. Được cái là sau này khi bị điều tra cô ấy không hề nhắc đến tên cậu ấy lấy một lần...”.

Một thành công lớn của tình báo quân sự trong việc thu thập các bí mật nguyên tử là thu hút được các nhà bác học Canada nằm trong Hội đồng nghiên cứu quốc gia và Cục nghiên cứu Bộ Quốc phòng Canada. Họ là Danford Smith (bí danh là Bado), Nade Mazeral (Bugley) và Israel Galperin (Bacon).

Tháng 3 năm 1945, tình báo Liên Xô nhận được thông tin:
“Bado báo cáo: những công trình nghiên cứu quan trọng nhất đang được tiến hành trong lĩnh vực vật lý hạt nhân... Bado cho rằng, việc chính phủ mua nhà máy sản xuất Radium là có liên quan đến việc này; anh ta cũng chuyển giao báo cáo về hoạt động của Hội đồng nghiên cứu quốc gia...”.

Do đó, trung tâm tình báo Liên Xô được giao nhiệm vụ:
“... Hỏi thêm Bado xem anh ta có thể lấy được Uranium 235 và cảnh báo nguy hiểm cho anh ta. Hãy yêu cầu anh ta viết báo cáo chi tiết về nhà máy sản xuất Radium”.

Cũng vào khoảng thời gian này, Motinov đã chuẩn bị bức điện gửi về Moskva:
“...Nhà máy sản xuất Uranium đang ở trong giai đoạn xây dựng. Đội ngũ nhân viên kỹ thuật sẽ được chọn từ Đại học Tổng hợp McGill. Qua các cuộc thí nghiệm Uranium, đã xác định được là nó có thể dùng làm nhiên liệu cho bom. Người Mỹ đang triển khai hoạt động nghiên cứu quy mô lớn và đã đầu tư vào việc này 600 triệu đô la”.

Tuy vậy, không phải tất cả các nhà bác học tuyển mộ được đều hoạt động tích cực cho tình báo Xôviết. Israel Galperin (Bacon) đã tìm cách thoái thác nhiệm vụ và liên lạc viên đã báo cáo về việc này.

“...Tôi bắt đầu khó làm việc với ông ta, nhất là sau khi tôi yêu cầu ông ta kiếm Uranium 235. Ông ta nói điều đó là không thể... Bacon đã giải thích cho tôi lý thuyết năng lượng nguyên tử cái mà các anh chắc cũng đã thừa biết. Ông ta từ chối nộp báo cáo viết và ảnh. Ông ta có thái độ cực kỳ khó chịu đối với những yêu cầu của tôi...”.

Có lẽ Bacon - Galperin nghĩ rằng, ông ta sắp sửa phải trả giá....

Nhưng thành công có lẽ là lớn nhất của tình báo quân sự Liên Xô tại Canada là việc tuyển mộ được nhà bác học Anh có tên Allan Nite May (Alec), người mà nhân đây cũng nói thêm là đã từng học ở Cambridge cùng với điệp viên của Liên Xô Donald Maclean.

Từ trước khi Nite May tới Canada, Zabotin đã được lệnh của Moskva thiết lập liên lạc với nhà bác học được đặt bí danh là Alec này.

May là một nhà vật lý thực nghiệm nghiêm túc và kín đáo, có cảm tình với những người cộng sản và ủng hộ Liên Xô. Tháng 4 năm 1942, ông đã được huy động tham gia chương trình hạt nhân có mật danh Tube Alloys của Anh. Từ thời điểm đó, Moskva đã đặc biệt quan tâm đến ông này và đầu năm 1945, trung uý Pavel Angelov đã gặp gỡ Alec.

Khi đến Montréal, Angelov đã tìm thấy trong cuốn danh bạ điện thoại địa chỉ của Alec và đã đến thẳng nhà ông ta mà không gọi điện báo trước.

Một người có lối cư xử nhẹ nhàng, hói đầu và có ria rậm ra mở cửa cho người tình báo viên Xôviết.

- Xin gửi ông lời chào nồng nhiệt của Michael, - Angelov không vòng vo mà nói luôn mật khẩu. Tiến sĩ May biến sắc, ông ta có vẻ như một người vừa bị sập bẫy. Thận trọng đóng cửa lại, Alec vội vã thuyết phục Angelov rằng “mối liên hệ cũ với Moskva” đã đứt đoạn và ông ta lại còn đang bị phản gián theo dõi.

- Thật là trắng trợn, - Angelov sau này nhớ lại, - tôi nói với ông ta là tôi không tin. Thứ nhất là đã có nhiệm vụ Moskva giao cho ông ta. Còn thứ hai là nếu mà tiến sĩ từ chối thì ông ta sẽ có lý do để mà thực sự lo lắng.

Sau lời ám chỉ này, May rũ người và đành hạ giọng hỏi ông ta phải làm gì. Tình báo viên Liên Xô giải thích: Moskva cần báo cáo, mà là phải khẩn cấp, về các nghiên cứu bom nguyên tử ở Canada và Mỹ. Cuối cùng thì Alec cũng phải đồng ý. Ông ta chỉ yêu cầu lần sau gặp gỡ ở chỗ khác để khỏi lọt vào tay phản gián.

Khi ra về, Angelov đã trao cho Alec 200 đô la, một chiếc cặp nhỏ và hai chai whisky, riêng khoản cuối cùng này thì anh nói là quà tặng “của riêng tôi”. Người Liên Xô, dù là một tình báo viên và dù đang ở nước ngoài cũng không thể bỏ qua việc đút lót...

Trong thời kỳ đầu “làm việc” với Alec, đại tá Zabotin rất tập trung và lo nghĩ vì chuyện gì đó.

Trước hết là trong khi các thuộc cấp của Zabotin đang chạy đôn đáo khắp nơi để tìm những người nắm được thông tin về hoạt động nghiên cứu bom nguyên tử thì một nguồn tin quý giá như Alec lại làm việc “không tải” mãi cho đến khi Moskva tiện thể cho biết về ông ta.

Thứ hai, Moskva đã đề nghị liên lạc với Alec thông qua Sam Carr, điều này đã khiến viên đại tá tình báo Liên Xô này không hài lòng. Zabotin hiểu rõ rằng, Đảng Cộng sản Canada mà Sam Carr là bí thư tồn tại là nhờ tiền của ai, ông cũng hiểu rõ Carr làm việc cho ai và ông đủ cơ sở để cho rằng, ngay hôm nay, ông này nhất định sẽ báo cho NKVD biết. Nhưng bức điện từ Moskva liên quan đến May là rất nghiêm khắc:

“Ông ấy là đảng viên cộng sản Canada và có bí danh Alec. Tốt nhất là liên hệ với ông ta thông qua Sam Carr. Báo cáo ngay khi liên lạc được”.

Sau khi trao đổi bằng điện văn với Moskva, trong đó Zabotin xin phép dùng người khác để tuyển mộ May, giám đốc (tức chỉ huy tình báo quân sự) đã cho phép độc lập hành động.

Nhưng không chỉ có Sam Carr là tay chân của NKVD mà còn có nhiều nhân viên của sứ quán. Vả lại, đại diện cho NKVD là Vitaly Pavlov, bí thư thứ hai của sứ quán Liên Xô tại Canada, điều mà các bộ nhân viên sứ quán biết rất rõ.

Cũng có nhiều khi các điệp viên của NKVD chuyển sang làm cho tình báo quân sự. Vào năm 1945, Zabotin đã nhận được bức điện sau từ Moskva:
“Fred là giám đốc tập đoàn. Trước đó, từ năm 1924, làm việkc cho Những người láng giềng”.

“Những người láng giềng” nghĩa là các cơ quan tình báo của NKVD, “tập đoàn” là công ty, còn Fred là bí danh của Fred Rose. Điều đáng khen ở đây là “tính nhà nghề” tuyệt đỉnh của các nhà lãnh đạo NKVD thể hiện ở chỗ đặt phéng bí danh cho điệp viên trùng với tên thật của anh ta.

Cũng đã có những tình huống trái ngược khi mà điệp viên của tình báo quân sự chuyển sang lưới điệp báo của NKVD. Thường thì các mối quan tâm của các cơ quan tình báo song song có sự va chạm và khi đó Moskva đứng ra quyết định ai sẽ “làm chủ”.

Đồng thời, vụ việc cũng không chỉ hạn chế ở hai cơ quan tình báo này. Vào năm 1944, bí thư sứ quán Gusarov đến Canada. Ông ta thực tế là bí thư đảng bộ Đảng Cộng sản bolshevik VKP(b) của sứ quán và thậm chí có thể lên lớp cả ông đại sứ. Gusarov phớt lờ cả tình báo chính trị để chuyển cho ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Canada những chỉ thị của Trung ương Đảng VKP(b), những chỉ thị xác định lập trường chính trị của những người cộng sản Canada, hoặc để đánh những người đáng tin cậy vào các tổ chức thanh niên, công đoàn và các hiệp hội khác. Cùng với cục tình báo của Quốc tế Cộng sản, Gusarov đã chuẩn bị hồ sơ của những người ủng hộ phong trào cộng sản để tuyển mộ họ sau này.

Tình báo kinh tế ở Canada do tuỳ viên kinh tế Krotov phụ trách.

Tất cả các chỉ huy của các cơ quan tình báo đều có nhân viên mật mã riêng của mình và mật mã riêng. Ngoài ra, những người chỉ huy còn mật mã cá nhân của mình để gửi các thông báo mà kể cả các nhân viên cơ yếu của họ cũng không thể nào đọc được.

Các bức điện của Krotov được chuyển về Bộ Dân uỷ Ngoại thương, còn các bức điện của Gusarôv thì được chuyển về Ban chấp hành trung ương Đảng, Pavlov thì gửi báo cáo cho NKVD, còn Zabotin - về GPU.

Tất cả các bức điện này đều được mã hoá ở cùng một nơi - trên tầng 2 của toà nhà đại sứ quán.

Trước khi vào đó, phải ấn một nút chuông bí mật báo trước có người xuất hiện trước cánh cửa sắt tầng 2. Người trực ban sẽ quan sát người đến qua một cái lỗ đặc biệt và sau đó mới cho phép người khách vào cánh cửa sắt thứ 2 vững chắc hơn. Tiếp theo là một hành lang với rất nhiều cửa sắt khác dẫn vào các phòng với những cửa sổ được chắn lưới ở phía trong, bên ngoài là cánh bịt và một lần nữa lại là những cửa sắt. Trong các phòng người ta bật nhạc rất to để không ai có thể nghe trộm. Trong một buồng đặc biệt có một cái lò lớn có thể tiêu huỷ rất nhanh hàng đống tài liệu mật. Chiếc lò sưởi này do Pavlov chủ ý thiết kế cho trường hợp “cuốn gói “ khẩn cấp.

- Ngoài ra - Pavlov nhếch mép cười nói thêm, - cái lò như thế thừa sức thiêu cả người...

Rồi anh ta cười ha hả một cách độc ác. Có thể chính do liên tục nhắc đến việc thiêu xác mà nhân viên NKVD kia đã làm cho tay nhân viên cơ yếu Igor Guzenko chỉ cần đến gần chiếc máy kia thì đã phát run phát rét lên rồi. Nó ám ảnh anh ta cả vào ban đêm đến mức anh ta nhanh chóng có cảm giác thấy thân mình thực sự chìm trong lò lửa.

Anh ta chẳng biết than phiền về “anh hàng xóm” với ai, mà cũng là nguy hiểm nữa vì hắn ta có trong tay bằng chứng để bôi nhọ tất cả các cán bộ nhân viên. Bất kỳ câu nói hơi có giọng khích bác nào, một suy nghĩ dại dột hay câu chuyện tiếu lâm nào cũng có thể trở thành nguyên nhân để một người bị tống cổ về Moskva. Với “anh hàng xóm” thì việc trả tư thù là điều cực kỳ dễ dàng - chỉ cần viết vài dòng tố giác là đủ...

So với tất cả các điệp viên của Zabotin thì thông tin của tiến sĩ May là quý giá nhất. Dưới đây là một trong những bức điện mật mã gửi về Moskva:

Gửi Giám đốc            No. 241

Các tin tức do Alec cung cấp:

1. Các vụ thử bom nguyên tử đã được tiến hành ở New Mexico... Quả bom đã được ném xuống Nhật Bản được làm bằng Uran 235. Được biết mức sản lượng Uranium của nhà máy phân tách từ ở Clinton là 400 g/ngày... Người ta đang dự kiến in ấn các công trình nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực này, nhưng không đưa các chi tiết kỹ thuật. Người Mỹ đã xuất bản một cuốn sách về vấn đề này.
2. Alec đã cung cấp cho chúng ta một phiến với 162 mg Uran ở dạng oxit trên màng mỏng....

9.4.45. GRANT (bí danh của Zabotin).

Khi được May cho biết về nhà máy Uranium đang được xây dựng ở khu vực Chok River, Zabotin đã bắt quen với một người Canada sống gần nhà máy và đích thân đến chơi nhà ông ta. Trong khi đi dạo trên sông bằng xuồng máy, viên đại tá đã chăm chú quan sát nhà máy Uranium và báo cáo ngay về Moskva.

Moskva phản ứng một cách đầy quan tâm:

Gửi GRANT        No. 11438
Gửi ngay điện về để trình bày xem người quen của anh có quan hệ thế nào với nhà máy mà anh ta đang làm việc và quan hệ của hai người thế nào? Nếu có thể, hãy miêu tả chi tiết hơn về hình dáng bên ngoài của nhà máy.
Giám đốc 14.8.45
May đã phải đôi lần ghé đến nhà máy này. Ông còn khôn khéo xâm nhập được cả vào nhà máy ở Chicago cũng hoạt động trong khuôn khổ dự án sản xuất Uranium.


Moskva tiếp tục gây sức ép:

Gửi GRANT            No. 11931

Hãy áp dụng các biện pháp và tổ chức nhận các tài liệu văn bản về bom nguyên tử! Các quá trình kỹ thuật, bản vẽ, phép tính.

Giám đốc 22.8.45

Tuy nhiên, bản thân các quan chức ở Moskva lại vẫn không hề tỏ ra quá vui mừng. Dưới đây là bức điện của Zabotin, người đã rơi vào tình trạng băn khoăn vì Trung ương im lặng rất lâu:

Gửi Giám đốc        No. 275

Xin anh cho tôi biết tài liệu về Uranium mà Alec thu được (các báo cáo sản xuất...) đáp ứng yêu cầu của anh và các nhà khoa học của chúng ta ở mức độ nào. Chúng tôi cần biết điều đó để có thể đặt ra những nhiệm vụ tương tự cho các nguồn cung cấp tin khác. Anh đã nhận được toàn bộ thư từ của năm nay (cho đến hết tháng 7) chưa?

GRANT 31.8.45
Moskva đã kênh kiệu giữ im lặng, chỉ cho phép mình được quyền chỉ đạo và dạy dỗ, thậm chí còn ấn định đến cả những tiểu tiết. Điều đó thể hiện rõ qua những bức điện trao đổi khi Moskva biết rằng May phải rời khỏi Canada đi London.
Gửi GRANT            No. 10458

Lập và điện báo về quy ước liên lạc và mật khẩu để người của ta liên lạc với Alec ở London.

Giám đốc 28.7.45

Gửi Giám đốc        No. 244

...Quy ước liên lạc - Các ngày 7, 17 hoặc 27 tháng 10, trên phố trước Bảo tàng Anh. Thời gian: 11 giờ đêm. Dấu hiệu nhận biết - tờ báo kẹp dưới nách trái. Mật khẩu - lời chào nồng nhiệt của Michael... Chúng tôi đã trao cho Alec 500 đô la.

Giám đốc 31.7.45

Gửi GRANT            No. 11955
Trả lời bức điện No. 244.
Chúng tôi không đồng ý với quy ước liên lạc mà anh đã lập cho chúng tôi. Tôi báo cho anh biết quy ước của chúng tôi:
1. Địa điểm - trước toà nhà Bảo tàng Anh, trên phố Grate Russel, từ phía Tottenham Court Road...
2. Thời gian - như anh đã chọn, nhưng vào lúc 23 giờ là quá tối, nên tốt hơn là vào lúc 20 giờ nếu Alec chấp nhận được...
3. Dấu hiệu nhận biết - tờ báo Times kẹp dưới nách trái Alec, liên lạc viên cầm tạp chí Picture Post trong tay trái.
4. Mật khẩu - liên lạc viên: “Đường nào đến Strand là ngắn nhất?” Alec: “Chúng ta cùng đi, tôi cũng đi tới đó”.
Vào đầu câu chuyện, Alec nói: “Chuyển tới anh lời chào nồng nhiệt của Michael...”

Giám đốc 22.8.45

Phải như thế chứ không thể khác! Ottawa đề nghị câu “Chuyển tới lời chào nồng nhiệt đến Michael”, còn Moskva lại đưa ra phương án hoàn toàn khác, vô cùng hiệu quả và cực kỳ chắc chắn: “Chuyển tới lời chào nồng nhiệt từ Michael”. Ottawa để đơn giản thì muốn tờ báo được kẹp dưới nách, còn Moskva cảnh giác và nhìn xa trông rộng thì đòi kẹp tờ báo Times và v.v..

Tiến sĩ May đã chuyển cho Zabotin bản báo cáo khiến viên đại tá vô cùng thán phục. Ngắn gọn, cô đọng, chính xác và đồng thời lại rất đầy đủ - điều náy nói lên giá trị rất cao của một điệp viên như Alec.

Một phần của báo cáo gồm có 10 đoạn tin, mô tả cấu trúc của quả bom, các bộ phận, linh kiện của nó, cũng như các quy trình kỹ thuật chế tạo chúng. Không thể mã hoá phần này nên Zabotin quyết định gửi nó bằng bưu điện ngoại giao.

Phần thứ hai của báo cáo được mã hoá và gửi bằng điện đài có chứa thông tin về công tác tổ chức dự án phát triển bom nguyên tử ở Mỹ và Canada: cơ cấu dự án, danh sách những người tham gia, họ tên các quân nhân và nhà khoa học... Và cũng có cả tên tuổi của các bác học mà thông qua họ có thể liên hệ với những người tham gia dự án. Trong báo cáo còn nêu không chỉ những công trình và nhà máy tuyệt mật ở Oak Ridge, Chicago, Los Alamos, Hanford, mà còn mô tả chi tiết, chức năng và cơ cấu sản phẩm của chúng.

Báo cáo này, cũng như các mẫu Uranium 233 và 235 mà Angelov nhận từ tiến sĩ May đã làm cho các tình báo viên rất hào hứng. Tuy nhiên, gửi Uranium về Moskva bằng bưu điện ngoại giao thì không chắc chắn. Người ta quyết định để Motinov mang các mẫu về Moskva vì anh ta cũng vừa hay phải về Moskva nhận công tác mới.

Tướng Pyotr Semyonovich Motinov nhớ lại: “Chính Giám đốc đã đón tôi tại sân bay. Tôi cực kỳ cẩn thận lấy ra từ thắt lưng cái lọ quý giá chứa Uranium và đưa nó cho Giám đốc. Ông ấy vội đi ngay lại chiếc ôtô màu đen cũng đang đỗ trên sân bay và đưa chiếc lọ vào xe.

- Thế ai ở trong xe đó? - sau này tô hỏi Giám đốc.

- Đó là Berya, - Giám đốc thì thào.

Còn vì cái lọ Uranium ấy mà đến ngày hôm nay tôi vẫn phải mang thương tật đau đớn và phải thay máu mấy lần một năm...”.

Trích từ hồi ký của nhân viên cơ yếu Guzenko:

“Khi có những “chiến lợi phẩm” quý giá, Zabotin đã tổ chức một bữa nhậu vui vẻ và ông đã chúc rượu người Mỹ:

- Hôm qua thì họ là đồng minh của chúng ta, hôm nay - là láng giềng, ngày mai - là kẻ thù.

Tôi rùng mình bởi sự trắng trợn ấy, mặc dù đây không phải là lần đầu tiên tôi được nghe. Các đảng viên cứng rắn nhất tin tưởng là cần phải có chiến tranh thế giới thứ ba với thất bại chắc chắn của chủ nghĩa tư bản.

Tôi kể điều này cho vợ tôi, Anna và cô ấy đã phát cáu:

- Chả nhẽ những đau thương và kinh hoàng trong chiến tranh thế giới thứ II còn ít với các dân tộc hay sao!...”
Khi Zabotin nói ra lời chúc của mình thì ông vẫn không hề nghĩ rằng, chẳng bao lâu sau khi Guzenko chạy trốn ông sẽ phải lọt vào tầng hầm của Lubyanka...


Điệp viên thế kỷ XX: Đại tá tình báo kiêm doanh nhân triệu phú

VietnamDefence - Chuyện về siêu điệp viên đại tá tình báo Liên Xô Konon Molody - doanh nhân triệu phú Anh Gordon Lonsdale.

Lời tiên tri của bà thày tướng


Người con trai



Konon Trofimovich Molody (17.1.1922-9.9.1970), đại tá tình báo Liên Xô nổi tiếng ở phương Tây với cái tên  Gordon Arnold Lonsdale. Chỉ huy lưới tình báo Portlan (Portland Spy Ring)
Tiếng chuông cửa vang lên. Trước mặt tôi là một chàng trai khoẻ mạnh. Mặt cậu ta rất giống Molody thời còn trẻ, cao hơn một chút, vai rộng hơn và nặng cân hơn. Trong khi anh ta đọc bản thảo, tôi sẽ kể về tiểu sử anh ta. Trofim sinh ra ở Moskva ngày 19 tháng 4 năm 1958, 10 tháng sau cuộc gặp gỡ bí mật của cha mẹ cậu ta ở Karlovy Vary. Molody, người mà đối với tất cả những người khác là một doanh nhân thành đạt người Anh có tên là Gordon Lonsdale, năm nào cũng vậy cho đến trước khi bị bắt ở Luân Đôn, đều làm như đi nghỉ ở quần đảo Bahamas hoặc Canari nhưng trên thực tế ông có mặt ở Karlovy Vary, Zagreb, hoặc Budapest để nhanh chóng trao đổi tài liệu, gặp vợ tại một địa điểm an toàn trong ranh giới khối xã hội chủ nghĩa, kể cả ở Moskva.

Khi ông bị bại lộ, bị bắt vào năm 1961 và ngồi tù ở London thì Trofim mới được 3 tuổi. Còn khi ông mất không lâu sau khi được thả và được an táng tại nghĩa trang Donski, Trofim mới được 12 tuổi. Các bạn đồng nghiệp của người cha, có thể nói là không mấy quan tâm tới số phận cậu con trai của nhà tình báo bất hợp pháp Liên Xô đã quá cố. Họ quan tâm hơn tới những ghi chép, tài liệu và thư viện Anh đầy những sách cấm của ông. Bởi vậy, việc căn hộ trên phố Mosfilmovskaya của vợ chồng Molody vào năm 1975 đã bị trộm là một điều rất dễ hiểu. Ngoài một ít đồ cũ, một phần kho tư liệu của ông và sách nước ngoài đã biến mất... Còn Trofim lúc đó mới học hết lớp 10, sau đó vào học trường cao đẳng biên phòng Moskva mang tên Mossoviet và được điều tới biên giới Liên Xô-Nauy. Ban đầu, anh làm phó rồi làm trưởng đồn biên phòng trong 7 năm, quay về Moskva và được cử làm lớp phó một lớp học tại khoa tình báo quân sự ở trường cao đẳng KGB. Hai năm sau, vào năm 1989, anh ra quân vì trình trạng sức khoẻ với quân hàm thiếu tá.
... Trofim đọc xong tác phẩm ở dạng sơ thảo của tôi có tên “Số phận trong lòng bàn tay”.

- Thế nào? Cháu sẵn sàng nhận xét ngay bây giờ. Hầu như tất cả đều đúng sự thật, trừ một vài chi tiết nhỏ, đặc biệt là những chi tiết liên quan đến lai lịch giả mà theo đó bố cháu được cử đi đầu tiên là đến Mỹ để làm phó tổ trưởng điệp báo cho Rudonfer Aben, và sau dó là tổ trưởng hoạt động độc lập tại Anh. Còn chuyện đại loại như thời sinh viên bác hay theo tán tỉnh mấy con đàn bà tất nhiên là ông không kể cho cháu. Dĩ nhiên là cháu cũng không biết chuyện có một bà thày tướng đã tiên đoán số phận cho cha cháu. Đối với cháu, nó còn rất thú vị bởi vì chưa có quyển sách nào viết về điều này...

Cuộc gặp gỡ

Đúng, Konon đã kể cho tôi về điều này không lâu trước khi ông mất và đây cũng là lần đầu tiên lời kể của ông rất buồn bã, trong khi người bạn này của tôi vốn không thích phiền muộn, nhất là khi có mặt bạn bè.

... Lúc này trong phòng biên tập nhỏ của tờ báo Izvestya đang chiếu bộ phim chưa qua kiểm duyệt có tên “Mùa chết” giành cho một nhóm nhỏ phóng viên, bạn bè, người thân của Konon, kể cả đứa con trai nhỏ của ông. Ba người chúng tôi gồm Konon, phó tổng biên tập báo tin tức Grigori Maksimovich Osheverov và tôi. Ban đầu thì ngồi trong phòng làm việc của Grigori Maksimovich, còn sau đó - trong phòng làm việc của người bạn thân nhất của ông - giám đốc nhà hàng Baku trên phố Gorky khi đó còn chưa được khôi phục và cuối cùng là ở nhà Osheverov. “Tala, - từ nhà hàng ông ta gọi về nhà vào khoảng 3 giờ đêm, - em đừng có mắng mỏ anh. Bây giờ, anh sẽ đưa về nhà cho em gặp một người tuyệt vời mà trong mơ em cũng không thấy”.

Chúng tôi đã ngồi cho tới 6 giờ sáng.

- Konon, - Osheverov gọi hào hứng nói,- tôi cho Kolosov nghỉ 3 ngày, không phải đến toà soạn, còn anh thì sẽ kể cho tôi một số câu chuyện phi thường trong cuộc đời phi thường của anh. Anh cứ tạm kể 5 câu chuyện, được không?

- Nhất trí, - Molody cười duyên dáng. - Tôi chỉ sợ là anh không thành công với cuộc phỏng vấn này thôi.

- Tại sao?

- Với tôi không phải cái gì cũng dễ dàng. Kể cả bộ phim chủ yếu dựa trên hư cấu nghệ thuật thế mà cũng bị phanh lại...

- Phim ư? - cũng có thể. Nhưng phỏng vấn thì người ta không cản trở gì đâu. Nhân đây cũng nói cho anh biết là trong ngành của anh, tôi có rất nhiều bạn tốt.

Vậy mà người ta vẫn phanh lại. Mà là khá lâu.

Không, tôi đã giữ lại như một kỷ niệm về một người bạn bản morat của tuỳ bút này ở dạng mà nguyên bản như đã được gửi đi xét duyệt. Tôi nghĩ là chúng sẽ được xuất bản...

Chúng tôi từ nhà Osheverov trở về khi tàu điện ngầm đã bắt đầu chạy và những người dân Moskva đã bắt đầu đi làm. Phần dự báo thời tiết trong bản tin cuối ngày đã nói là có mưa nhưng bầu trời thì hoàn toàn trong vắt và rất nên thơ. “Anh có tin vào lời tiên đoán không?” - Tôi hỏi Konon. Ông cười: “Nếu là dự báo thời tiết thì không, nhưng nói chung thì có”. Và ngay lúc đó, với vẻ hài hước tôi kể cho ông nghe về một chuyện ở Aktyubinsk của tôi. Còn ông thì đột nhiên trở nên nghiêm túc: “Thế nào, tất cả có xảy ra như thế không?” - “Không hoàn toàn được như thế, nhưng dù sao thì...” “Tôi thì cũng đã tiếp xúc với một bà thày tướng ở London, -Konon thừa nhận. - Một câu chuyện hoá ra rất lý thú...”

Chúng tôi bì bạch đi đến tận toà nhà cao tầng là trụ sở khối SEV (Hội đồng tương trợ Kinh tế - ND). Chúng tôi kiếm được một chiếc ghế dài trong công viên và ngồi xuống...

Dưới đây, tôi sẽ kể lại từng lời câu chuyện của Konon như ông đã kể cho tôi nghe lúc đó và toàn bộ câu chuyện cuối cùng của chúng tôi.

Lời tiên đoán

Con tem tưởng nhớ Konon Trofimovich Molody in năm 1990
Anh biết đấy, giai đoạn thành công nhất và bi thảm nhất trong cuộc đời hai mặt của tôi đã diễn ra trên đất Anh. ở đó, tôi đã đạt được những thành công to lớn trong hoạt động tình báo bất hợp pháp và cũng ở đó sự thất bại đã chờ đón tôi trên cây cầu lịch sử Waterloo... Trong 12 năm, tôi đã là một doanh nhân rất thành đạt và một luật sư có tiếng. Ban đầu, tôi là giám đốc tiêu thụ mặt hàng “máy tự động bán” nhạc, sách vở, bút bi, rượu, nước, bánh xăng uých. Sau đó, là đồng sở hữu của một hãng như thế, rồi sau đó là hai và tiếp đó là chủ của một lúc 4 hãng bán các “máy tự động” đó. Tôi đã trở thành triệu phú, tôi có 8 ôtô vào loại xịn nhất, một biệt thự ở ngoại ô, một số phòng thuê dài hạn trong các khách sạn sang trọng ở thủ đô Anh và các tiện nghi khác của một doanh nhân giàu có. Nhưng trên thực tế, tôi chẳng có gì cả. Tôi bằng lòng với mức lương khiêm tốn của một đại tá tình báo Liên Xô. Tất cả mọi chi phí của tôi đều bị kiểm soát tài chính chặt chẽ. Không được chi thừa một xu, nhất là cho mục đích cá nhân, nhưng toàn bộ sinh hoạt phí của tổ điệp báo lại được tài trợ bằng lợi nhuận của tôi. Đúng là như thế. Người ta đã mời tôi dự các bữa tiệc, chiêu đãi kể cả của giới thượng lưu. Và trong một buổi chiêu đãi đó, khi tôi đang đứng giữa các doanh nhân thành đạt đã có một quý bà không còn trẻ những rất hấp dẫn mà người ta giới thiệu là bà thày tướng. Có thể là họ nói đùa cũng có thể là thật, có trời biết! Nói một cách ngắn gọn, dưới hình thức một chuyện đùa dễ thương, bà ta bắt đầu xem tay cho những quý ông đứng cạnh, cả bàn tay tôi cũng lọt vào mắt bà ta, mà tôi thì không tiện từ chối vì không muốn làm cho bạn bè nghi ngờ. Bà ta nhìn tôi khá nghiêm túc và nói: “Còng tay đang đợi ông, thưa ông. Mà chẳng lâu nữa đâu...”. Sau câu nói này, bà ta lại cười. Còn các bạn tôi thì vui vẻ phụ hoạ: “Đúng đấy. Có lẽ Gordon sẽ sập tiệm với những máy tự động chơi nhạc của mình...”. Khi đó các máy tự động chơi nhạc vẫn còn rất lạ lẫm. Còn sau đó, bà thày tướng lại một lần nữa đến gần tôi khi tôi đang đứng một mình trong góc phòng. “Lúc nãy, tôi không tiện nói trước mặt mọi người, - bà ta nói, - nhưng tôi rất không thích bàn tay của ông. Ông có nhiều bạn bè nhưng họ rất không đáng tin, nhất là ở cái đất nước nơi mà ông đã sinh ra và ông sẽ đến sau tất cả những phiền toái. Ông đừng có tin họ, nhất là các đồng nghiệp. Và ông hãy cố tránh các bác sĩ... Còn ở đây, tại Luân Đôn này, ông phải cực kỳ thận trọng, mặc dù con người ta không thể cãi được số mệnh”.

... Tôi tiến hành cuộc gặp cuối cùng của mình với hai điệp viên trên cây cầu Waterloo vào ban đêm. Đây là cuộc gặp khẩn cấp, bởi vì tôi đã cảm thấy đang có điều gì đó kỳ lạ đang diễn ra xung quanh, cảm giác tai hoạ đang đến gần cứ đeo đẳng lấy tôi. Mà các tình báo viên thì lại thường tin vào linh cảm. Các điệp viên này rất có giá trị nên tôi quyết định cảnh báo họ tạm thời ngừng liên lạc. Khi anh ta và cô ta xuất hiện, tôi bực tức la thầm. Anh ta mang theo một chiếc cặp chứa một số tài liệu mật. Mà theo quy ước thì phải đi hoàn toàn tay không khi đi liên lạc khẩn cấp. Nhưng đã muộn, chúng tôi bị các xe ôtô của phản gián Anh bật pha sáng rực vây kín từ hai phía. Một quan chức mặc đồ dân sự đến gần tôi. “Tôi đã tìm anh thật là lâu, con trai ạ”, - Ông ta nhẹ nhàng nói, tay đặt lên vai tôi. “Thế còng tay đâu?”- tôi bình tĩnh hỏi khi trong đầu thì nhớ lại câu nói của bà thày tướng dễ thương. Nhân viên phản giám kia hơi ngạc nhiên trước sự bình tĩnh của tôi: “Sẽ có còng. Nhưng anh có hiểu, anh bạn trẻ, là bây giờ tôi sẽ đưa anh đến Scotland Yard không?” Tôi thừa hiểu điều đó từ khi còn ở Moskva khi chúng tôi xem xét các phương án bại lộ của tôi. Nhưng tôi chỉ không hiểu một điều là tại sao họ lại kết án tôi 25 năm tù trong khi công tố viên chỉ đề nghị mức án 17 năm. Đúng là không thể đùa với công lý Anh quốc! Hơn nữa, đúng như bà thày tưóng đã tiên đoán, tôi ngồi tù “không lâu” - chỉ có ba năm. Và một lần nữa tôi lại nhớ đến bà khi tôi được trao đổi với tình báo viên Anh Greville Wynne...

- Thế còn lời cảnh báo thứ hai thì sao, liên quan đến các đồng nghiệp ấy... Có đúng thế không?

- Anh biết đấy, Lenka, đồng nghiệp không phải là bạn bè, họ là đồng nghiệp để mà người ta phải thận trọng. Chẳng hạn có một vài người nói rằng, tôi đã để mất hai điệp viên cực kỳ có giá trị vì sự cẩu thả và vi phạm các nguyên tắc hoạt động bí mật.

- Thế tựu chung thì tại sao anh bị lộ hả Konon?

- Đó là một câu chuyện buồn, mà đến nhớ lại tôi cũng không muốn. Nhưng tôi phải nói với anh thế này: tôi đã bị một trong các điệp viên của chúng ta chạy sang Mỹ phản bội... Sau đó, CIA cảnh báo cho các đồng nghiệp Anh của họ. Nhưng anh phải nhớ cho là chuyện này tôi chỉ nói cho anh để không làm ai phải đau đầu. Nhân đây cũng phải nói về bệnh đau đầu. Lúc nào, người ta cũng bảo tôi phải đi điều trị trong khi tôi hoàn toàn khoẻ mạnh. Mới đây, người ta đưa tôi đi khám sức khoẻ. Người ta chỉ định tôi phải tiêm một đợt. Người ta đã tiêm nát cả cái mông của tôi. Mà họ tiêm gì chứ, người ta khẳng định là tiêm thuốc trị co thắt mạch máu, còn đầu tôi thì đúng là bắt đầu đau liên tục...

- Nói chung, anh có hài lòng với số phận hay không?

- Bạn thân mến của tôi! Tôi đã không chơi đỏ đen vì tương lai cộng sản xán lạn mà vì chính bản thân tôi, công việc đối với tôi là thứ ma tuý mà thiếu nó tôi cảm thấy sự tồn tại hiện nay của mình thật vô nghĩa và nhạt nhẽo. Vả lại, anh cũng không nên chăm chú như thế làm gì. Do đó, các tình báo viên ít khi được chết một cách tự nhiên bởi vì tình báo viên tin cậy nhất đối với cấp trên là tình báo viên đã chết. Thôi bây giờ, ta tạm biệt và anh đừng quên báo cho tôi khi nào nhận được giấy phép xuất bản mấy ký sự của chúng ta nhé.

Tối muộn, một người bạn chung của chúng tôi - người bạn học cùng đại học Viktor Pyatnenkov, đã gọi điện cho tôi: “Konon đã mất ngày hôm nay rồi” - “Sao cơ?!” - “Anh ấy đi dạo trong rừng với vợ, cúi xuống, rồi hoặc là vì đột quỵ, hoặc là bị nhồ máu, bên cạnh thì không có bác sĩ...”

Trofim chăm chú nghe tôi kể. “Phải nói là rất thú vị, - anh ta nói một cách đăm chiêu.- Như thế là đã có biết bao nhiêu đính chính cho câu chuyện của Ben (đó là bí danh của người cha) mà tôi lấy được từ kho tư liệu của ông. Điều đầu tiên và chủ yếu là ở chỗ nó liên quan tới sự bại lộ của cha cháu. Người ta viết về điều đó mỗi người một phách. Sự thực là thế này. Vào năm 1961, có một nhân viên tình báo Ba Lan hoạt động ở Mỹ. Trong số các mối quan hệ điệp báo mà hắn tố giác cho tình báo Mỹ có sĩ quan Anh Harry Houghton làm việc tại phòng an ninh sứ quán Anh ở Varsava. Sau khi kết thúc chuyến công tác nước ngoài, Houghton đã về công tác tại một đơn vị hải quân ở Porland. Anh ta đã thu hút sự chú ý của các điệp viên của cha tôi là Morris và Leontina Cohen (Họ chính là vợ chồng Peter và Helen Kroger) và đã được tuyển bởi nhân tình của Houghton là Elizabeth Gee. Cô này cũng là người làm tại căn cứ quân sự hải quân và có quyền tiếp cận những tài liệu tuyệt mật về việc lắp đặt và khai thác các động cơ hạt nhân trên các tàu ngầm. Ben đã làm việc với Houghton và người đàn bà đồng loã của anh ta dưới vỏ bọc một người Mỹ và đã trả cho họ không ít tiền để đổi lấy những thông tin quý giá. Các tình báo viên Mỹ đã cung cấp thông tin định hướng về Houghton cho người Anh: Anh ta bị truy tìm và theo dõi. Chính bởi vậy mà phản gián Anh đã lần ra cha tôi và các liên lạc viên của ông. Nhân đây cũng phải nói là khi Harry Houghton và Elizabeth bị bắt cả hai đều đồng thanh khẳng định là họ là việc cho “người Mỹ” và họ thấy điều này chẳng phải là tội lớn...

Xin nói một vài điều về Morris và Leontina Cohen. Morris đã chiến đấu trong lữ doàn quốc tế mang tên Lincoln chống lại phe Franco ở Tây Ban Nha trong những năm 1937-1938. Đã lọt vào tầm mắt của tình báo quân sự Liên Xô và được tuyển vào năm 1938 vì động cơ tư tưởng. Anh làm quen với người vợ tương lai Leontina Tereza Petka - bố mẹ cô là người lưu vong đến từ Ba Lan - tại một cuộc mít tinh chống phát xít ở New York. Đầu năm 1941, họ cưới nhau. Morris đã nói với Leotina rằng anh là một điệp viên Liên Xô và cô đã đồng ý giúp anh trong công việc nguy hiểm này. Trong thời gian chiến tranh, Morris được gọi nhập ngũ và tham gia vào các trận đánh chống Đức quốc xã ở châu Âu. Cuối năm 1945, anh được giải ngũ, trở về Mỹ và tiếp tục cộng tác với tình báo Xôviết. Vào năm 1949, Moskva đã quyết định để vợ chồng Cohen liên lạc với tình báo viên bất hợp pháp Rudolf Abel... Tuy nhiên, sau một thời gian, do có nguy cơ bị bại lộ, họ đã được bí mật đưa về Liên Xô. Điều đó xảy ra năm 1950, và 4 năm sau, họ được cử sang Anh làm điệp viên-liên lạc viên và trợ thủ của Ben. Họ đến với cha tôi bằng hộ chiếu mang tên một đôi vợ chồng người New Zealand Peter và Helen Kroger. Với sự giúp đỡ của cha tôi, họ đã mua một căn nhà nhỏ cách căn cứ không quân Norhalt ở ngoại ô London 2 km và xây dựng một phòng điện đài để liên lạc với Moskva. Từ năm 1955 đến 1960, tổ tình báo bất hợp pháp dưới sự chỉ huy của bố tôi đã hoạt động tích cực, thu được ở Anh và chuyển về Trung ương một số lượng lớn tài liệu mật quan trọng, trong đó có các tài liệu về các động cơ hạt nhân và vũ khí tên lửa, được đánh giá rất cao. Đó là lời đáp đích đáng cho câu hỏi các tình báo viên bất hợp pháp làm gì ngoài việc sống bất hợp pháp ở nước ngoài. Ngoài nhiều triệu đô la mà Lonsdale - Ben kiếm được bằng kinh doanh công khai và chuyển về Trung ương, cha tôi đã chuyển những tài liệu tối mật về các loại vũ khí mới mà bằng ngoại tệ chuyển đổi tự do cũng khó lòng định giá được.

....Đầu tháng 1 năm 1961, cha tôi và các điệp viên Harry Houghton và Elizabeth Gee đã bị bắt lúc đang trao đổi tài liệu trên cầu Waterloo. Cũng trong ngày đó, cả vợ chồng Cohen cũng đã bị phản gian Anh bắt. Tại phiên toà diễn ra ngày 13 tháng 3 năm 1960 tại toà thượng thẩm Old Bailey (Tức Toà án Hình sự Trung ương (Central Criminal Court) của Anh ở trên phố Old Bailey, London - ND) và được thế giới biết đến với tên gọi “vụ án Portland”, cha tôi đã nhận hết tội về mình khi khẳng định vợ chồng Cohen không biết gì về hoạt động tình báo của ông. Tuy nhiên, toà án dựa trên những tài liệu của Mỹ về “hoạt động gián điệp” của cả hai tình báo viên đó và kết án Peter Kroger 25 năm tù, Helen Kroger - 20 năm tù. Cha tôi, như các bạn đã biết, đã được trao đổi với tình báo viên Anh Greville Wynne vào năm 1964, còn liên quan đến vợ chồng Cohen hay Kroger thì họ cũng được trao dổi với nhân viên tình báo Anh Gerald Brook bị bắt ở Liên Xô. Điều đó xảy ra vào tháng 8 năm 1969. Gia đình tôi vẫn giữ quan hệ tốt với họ tận cho đến khi họ qua đời. Harry Houghton và Elizabeth Gee bị kết án mỗi người 15 năm tù. Theo tôi được biết thì các phương án trao đổi họ đã không được đề xuất....

Cái chết bí ẩn

Konon Trofimovich Molody, một những siêu điệp viên thời chiến tranh lạnh
Còn một chi tiết thú vị nữa trong tiểu sử cha tôi. Khi ông còn ngồi tù, nhà xuất bản nổi tiếng của Anh Nevill Spearman Limited đã đề nghị “gián điệp Xôviết” này viết hồi ký trong khi ông đang có một “kỳ nghỉ để sáng tác dài”. Cha tôi trả lời là ông có thể viết hồi ký nhưng chỉ khi nào đã trở về tổ quốc. Khi điều này xảy ra vào ba năm sau, nhà xuất bản đã nhắc lại đề nghị của mình. Vấn đề hồi ký, như tôi được biết, được giải quyết ở tận cấp Bộ Chính trị. Và cha tôi đã nhận được sự chấp thuận với điều kiện toàn bộ nhuận bút sẽ được chi cho nhu cầu của tình báo Xôviết.

Và thế là cuốn sách “Hai mươi năm trong cơ quan tình báo Xôviết. Hồi ký của Gordon Lonsdale” đã ra đời sau khi đã bị các đồng chí của chúng ta ở khắp các nước kiểm duyệt, soi xét... Và mới đây, một phóng viên BBC, người đã làm một bộ phim về cha tôi, đã đến thăm nhà tôi. Khi thấy căn hộ khiêm tốn của tôi, ông ta ngạc nhiên thốt lên: “Chả lẽ, cha anh không để lại cho anh cái gì sao? Ông ấy được nhận hơn 120 ngàn đô la tiền viết hồi ký cơ mà”. Thời đó, đấy là số tiền rất lớn. “Không, sao lại không chứ, - tôi trả lời. - Cha tôi dể lại cho tôi một chiếc xe Volga cũ, còn số tiền nhuận bút thì ông hiến tặng cho các trường thiếu nhi”. Người phóng viên ngạc nhiên nhìn tôi và thốt ra một câu thán phục: “Tôi thật kính phục những người Nga này!” Cha tôi đã thực sự không nhận một xu. Toàn bộ số tiền đã được gửi vào những tài khoản nào đó mà tôi không biết, mặc dù nó có thể giúp mua được căn hộ tử tế cho gia đình tôi.

Nhân đây, tôi cũng xin nói về căn hộ. Khi cha tôi trở về Moskva, người ta cũng có tạo điều kiện nâng cao điều kiện sống cho chúng tôi. Vào năm 1964 - họ cấp cho một căn hộ ba buồng ở số 3 phố Frunzenskaya. Một thời gian sau, mẹ tôi cho sửa nhà và thuê công nhân bên ngoài. Và bỗng anh đội trưởng công nhân đến nói với mẹ tôi: “Thưa bà, chúng tôi vừa tìm thấy một gờ tường và một bức tường, trong đó có đầy những dây dợ cứ như một trạm điện thoại ấy”. Mẹ tôi tức tốc điện cho cha tôi - lúc đó ông đã bắt đầu làm, như người ta vẫn nói, tại Trung ương tình báo đối ngoại, - và rất hoảng sợ báo cho ông biết về những gì vừa tìm thấy khi sửa nhà. Bố tôi về, nhìn những thứ vừa tìm thấy, chậc lưỡi và gọi cho “các đồng chí có thảm quyền”. Cả một đội quân kéo đến, họ cũng xem xét và cũng tặc lưỡi. Sau đó, người cầm đầu nói: “Xin lỗi đồng chí Konon Trofimovich! Chúng tôi quên bẵng mất là căn hộ này một thời từng là một “tổ tu hú” và được giành cho người khác”. Sau dó họ tháo gỡ tất cả và rút đi. Còn cha tôi, theo tôi nhớ, đã nói: “Không, các ông - đồng chí này không tin tôi, họ không tin tôi...”.

Và cuối cùng là về cái chết của cha tôi. Người bạn của gia đình chúng tôi Viktor Pyatnenkov đã nêu địa điểm xảy ra thảm kịch hoàn toàn không đúng. Diều đó đã xảy ra không phải trong cánh rừng ngoại ô Moskva, mà là ở Medyn cách Moskva 200 km. Cha và mẹ tôi đi đến đó cùng các bạn mình là phi công thử nghiệm Viktor Romanenko và vợ ông ấy là Mila để đi hái nấm. Buổi tối, họ ngồi quanh đống lửa bông đùa. Bỗng cha tôi thấy khó ở, rồi nôn oẹ và bất tỉnh. Chú Volodya (ở đây là cách gọi thân thương của Victor Romanenko) đã đưa được cha tôi tới một bệnh viện nông thôn. Tại đó, bác sĩ trực đã xác nhận cha tôi bị đột quỵ và bị liệt nửa người bên phải. Ngày 9 tháng 10 năm 1970, cha tôi qua đời mà ông hề tỉnh lại. Điều đáng lưu ý là ngày 13 tháng 10, gần như tất cả các báo chí nước ngoài đều đưa tin về cái chết của tình báo viên bất hợp pháp Xôviết lỗi lạc, còn với báo chí trong nước ta thì mãi đến ngày 16 tháng 10 mới có cáo phó đăng trên tờ “Sao Đỏ”. Chắc là họ đã thoả thuận trước...”

Đúng là một cái chết đáng sợ...

Chúng tôi đã quyết định thử viết một cuốn sách trung thực về người cha, người bạn ấy. May là Trofim còn giữ được kho tư liệu lưu trữ của Konon, còn tôi vẫn giữ được đến nay những tư liệu chưa xuất bản nào đó. Và cả hai chúng tôi đều có những hồi niệm.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét