Thứ Sáu, 10 tháng 7, 2015

ÁC QUỈ 3

(ĐC sưu tầm trên NET)


“Rượu cũ bình cổ”: Những thay đổi trong Hệ Tư tưởng Nhà nước Trung Quốc

Theo Time Asia Online, chỉ một năm kể từ khi đảm nhận cương vị Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc vào tháng 11/2012, ông Tập Cận Bình (Xi Jin Ping) đã nổi lên như một nhà lãnh đạo có quyền lực mạnh mẽ nhất trong số các nhà lãnh đạo của Trung Quốc trong nhiều thập kỷ qua. Các chiến dịch chống tham nhũng và chiến dịch mặt trận quần chúng của ông Tập Cận Bình đã làm rung chuyển tệ quan liêu, củng cố thêm quyền lực của nhà lãnh đạo này, đồng thời loại bỏ những người ủng hộ ông “Vua An ninh” một thời Chu Vĩnh Khang (Zhou Yong Kang). Tại Hội nghị Trung ương 3 Đảng Cộng sản Trung Quốc khóa XVIII vào mùa Thu năm 2013, ông Tập Cận Bình đã khẳng định sự kiểm soát trực tiếp đối với các lĩnh vực cải cách kinh tế và an ninh nội địa, với việc công bố thành lập hai ủy ban cấp quốc gia mới do đích thân nhà lãnh đạo này nắm giữ vai trò đứng đầu.
           Hiện nay, Tập Cận Bình cũng tạo được dấu ấn riêng của mình trong lĩnh vực tuyên truyền và hệ tư tưởng nhà nước, bằng việc mượn ngôn ngữ và những chủ đề đã được những người tiền nhiệm từng sử dụng, đồng thời thúc đẩy một xu hướng tiến tới việc thay thế học thuyết xã hội chủ nghĩa bằng sự khoa trương mang tinh thần chủ nghĩa dân tộc, theo đó điều hòa tư tưởng của Mao Trạch Đông (Mao Ze Dong) với Đặng Tiểu Bình (Deng Xiao Ping), Tưởng Giới Thạch (Chiang Kai-shek) và Khổng Tử (Kong Zi).
           Về mặt nội dung, ông Tập Cận Bình đã tìm cách trung hòa các cuộc đấu tranh giữa hai phe tả – hữu bằng việc tuyên bố rằng các di sản lịch sử trước cuộc cải cách của Mao Trạch Đông và sau cuộc cải cách của Đặng Tiểu Bình đều có ý nghĩa quan trọng ngang nhau.
           Về mặt hình thức, nhà lãnh đạo này đã sử dụng cách tiếp cận theo chủ nghĩa dân túy của cố Chủ tịch Mao Trạch Đông. Những tuần gần đây, phương tiện truyền thông nhà nước Trung Quốc đã đăng tải thông tin và hình ảnh Chủ tịch Tập Cận Bình – chứ không phải là các nhà lãnh đạo cấp cao khác của Đảng Cộng sản Trung Quốc – ăn bánh bao trong một nhà hàng bình dân ở Bắc Kinh như bao người dân thường khác. Bên cạnh đó ông Tập Cận Bình còn gửi lời chúc mừng Năm mới tới toàn thể đất nước cũng như những lời chúc tốt đẹp đến các sinh viên và những người vừa tốt nghiệp. Tất cả đều nhận được sự hưởng ứng nhiệt liệt của người dân.
           Những nỗ lực của Chủ tịch Tập Cận Bình trong lĩnh vực tư tưởng vẫn ngày càng được tập trung sâu sắc hơn. Nhà lãnh đạo này đang sử dụng “tấm áo choàng” văn hóa truyền thống Trung Quốc để tạo ra một hình ảnh mới về sự cai trị độc Đảng và xóa bỏ bớt một số sự miêu tả chính thức về chủ nghĩa xã hội để cho phù hợp với thực tế kinh tế và sự nhiệt tình của chủ nghĩa dân tộc trong những năm gần đây. Tất nhiên, điều này là sự tiếp nối những nỗ lực vốn có từ cuối thế kỷ 20. Kể từ thời Đặng Tiểu Bình, chính quyền Trung ương Trung Quốc đã thường xuyên cố gắng diễn giải lại di sản xã hội chủ nghĩa của Đảng Cộng sản Trung Quốc cho phù hợp với những cuộc cải cách dựa trên thị trường, vốn đã làm thay đổi đáng kể nền kinh tế và xã hội của Trung Quốc. Kể từ những năm đầu của thế kỷ 21, văn hóa truyền thống Trung Quốc đã trở thành một công cụ quan trọng trong nỗ lực của Bắc Kinh nhằm thể hiện quyền lực mềm trên trường quốc tế.
            Tuy nhiên, những bước đi của Tập Cận Bình còn là một phần trong một “vở kịch” mới, được dàn dựng và phối hợp sẵn để làm mới lại những nền tảng mang tính học thuyết về tính hợp pháp của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Đây là một “vở kịch” liên quan trực tiếp đến thông cáo chung của Hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 2011 về lĩnh vực văn hóa. Họ đang dần thay đổi những sự miêu tả chính thức về lịch sử Trung Quốc trong các viện bảo tàng, các cuốn sách giáo khoa và trên các phương tiện truyền thông nhà nước.
            Chủ nghĩa xã hội tiếp tục phai nhạt
            Ông Tập Cận Bình đã thiết lập giọng điệu tư tưởng mới từ rất sớm. Sau tiến trình chuyển tiếp ban lãnh đạo Trung Quốc năm 2012, hành động chính thức đầu tiên của nhà lãnh đạo này là dẫn đầu các Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị trong một chuyến thăm tới Bảo tàng lịch sử quốc gia vừa mới được mở cửa trở lại. Trọng tâm chuyến thăm của họ là khu triển lãm “Con đường dẫn tới sự Phục hưng”, trong đó phục dựng lại di sản của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong hơn 150 năm qua.
            Câu chuyện lịch sử mới này đặt Đảng Cộng sản Trung Quốc vào trong một câu chuyện lớn về sự phục hưng chủ nghĩa dân tộc, chứ không phải là một trong những cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Năm 1949 không còn là một mốc thời gian trọng đại nữa. Thay vào đó, Đảng Cộng sản Trung Quốc trở thành một phần trong bộ áo giáp của các nhà cải cách của quãng thời gian trước đó là cuối thế kỷ 19. Tất cả đều có một mục tiêu chung, đó là phục hưng đất nước Trung Quốc. Tưởng Giới Thạch và những người Quốc Dân đảng được mô tả thiên về hình ảnh những người bạn chiến đấu lầm đường lạc lối, chứ không phải là những kẻ áp bức bạo ngược. Một cách tiếp cận như vậy rõ ràng cũng khá hữu ích khi các nhà lãnh đạo Trung Quốc Đại lục tiếp tục “ve vãn” chính quyền Mã Anh Cửu (Ma Ying Jiu) tại Đài Loan, gần đây đã tổ chức các cuộc gặp trực tiếp đầu tiên giữa các quan chức chính phủ phụ trách các mối quan hệ hai bờ eo biển. Tương tự như vậy, các nhà cải cách trong triều đình nhà Thanh trước đây được miêu tả là những nhà kỹ trị đáng kính nỗ lực công nghiệp hóa đất nước Trung Quốc, chứ không phải là những tàn dư của một chế độ phong kiến đang ngăn cản làn sóng hiện đại hóa.
            Nhất quán với câu chuyện này, sự miêu tả chung về lịch sử của Đảng Cộng sản Trung Quốc đang bị bào mòn đi rất nhiều nguồn gốc chủ nghĩa xã hội của họ. Khái niệm về đấu tranh giai cấp gần như biến mất hoàn toàn; các nỗ lực của Đảng Cộng sản Trung Quốc ở những năm 1930 trong việc tổ chức cuộc cách mạng nông dân, đã bị hạ thấp đáng kể. Tất nhiên, điều này rất dễ hiểu. Hiện nay, những điều đáng sợ nhất đối với sự liên kết giữa quyền lực chính trị và sức mạnh kinh tế đã tạo nên “bộ máy cai trị” đầy thế lực của Trung Quốc trong những thập kỷ gần đây, chính là công tác tuyên truyền về hoạt động nổi dậy của người nông dân và công nhân.
           Nhiều bảo tàng khác, ví dụ như bảo tàng về Hội nghị Lần thứ nhất của Đảng Cộng sản Trung Quốc tại Thượng Hải, cũng được làm hài hòa bằng những hình ảnh và sự phân chia giai đoạn lịch sử tương tự. Các tài liệu tuyên truyền mới với những chủ đề giống hệt nhau đã bắt đầu “mọc lên như nấm” trong khắp các bộ máy công quyền. Một ví dụ nữa là việc cho ra mắt cuốn sách “500 năm chủ nghĩa xã hội,” hiện đang được các quan chức Ban Tuyên truyền Trung ương và Ban Tổ chức Trung ương phân phát cho các cán bộ cấp dưới để nghiên cứu kết hợp với các Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 và những bài phát biểu gần đây của Chủ tịch Tập Cận Bình. Cuốn sách này, một tài liệu cũng được sửa đổi thành một cuốn sách giáo khoa dành cho những lớp giáo dục chính trị tại các trường đại học, là phiên bản cập nhật của cuốn “400 năm chủ nghĩa xã hội,” phát hành lần đầu tiên vào đầu những năm 1980. Tác giả của cả hai cuốn sách này là ông Vu Ấu Quân (Yu You Jun), cựu Tỉnh trưởng Sơn Tây và cũng từng là “ngôi sao đang lên” trong bộ máy quan liêu của Trung Quốc. Bị Đảng Cộng sản Trung Quốc giáng chức và bị thử thách 2 năm sau khi vỡ lở vụ bế bối nô lệ lao động “lò gạch” ở Sơn Tây năm 2007, ông Vu Ấu Quân đã có thêm thời gian khôi phục lại công việc trước đây của mình. Phiên bản mới của cuốn sách có vẻ như đã đánh dấu một sự “tái xuất” chính trị của ông Vu Ấu Quân. Xuất bản năm 2011, cuốn sách này đã được chuyển thể thành một bộ phim tài liệu gồm 50 phần – lần đầu tiên được phát sóng trên truyền hình nhà nước Trung Quốc vào năm 2013, và hiện nay cũng được phát lại đều đặn.
            Như tại các cuộc trưng bày ở bảo tàng, bộ phim tài liệu này tiếp tục quá trình viết lại lịch sử về nguồn gốc của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Theo câu chuyện trong bộ phim này, về căn bản thì năm 1949 không phải là một cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, Mao Trạch Đông cũng không phải là một nhà lãnh đạo theo đường lối xã hội chủ nghĩa. Thay vào đó, cả cuộc cách mạng năm 1949 và đầu những năm 1950 đều là những ví dụ thành công về nền dân chủ mới của Mao Trạch Đông. Lenin và Chính sách kinh tế mới cũng được xử lý như vậy. Theo câu chuyện này, các nhà tư bản vốn không phải là mục tiêu của cuộc cách mạng. Thật vậy, các cuộc cải cách những năm 1950 được Đảng Cộng sản Trung Quốc thông qua nhằm bảo vệ ngành công nghiệp và thương mại trong nước, ví dụ như việc kiên quyết giữ lại nhà hàng Toàn Tụ Đức nổi tiếng trên toàn quốc sau khi chủ sở hữu nhà hàng này tìm cách đóng cửa nó.
            Ngược lại, bộ phim tài liệu này mô tả tổng thể chủ nghĩa xã hội giống như một phần của một cuộc tìm kiếm không tưởng đối với một thế giới tốt đẹp hơn, chứ không giống như một triết lý chính trị thực tiễn. Bộ phim liên hệ rõ ràng chủ nghĩa xã hội của thế kỷ 20 với một loạt chính sách kinh tế thất bại cụ thể đã được Liên Xô “theo đuổi” thực hiện, và các chính sách sai lầm được thực hiện ở Trung Quốc từ cuối những năm 1950 đến những năm 1970 (nhưng chỉ bàn luận một cách ngắn gọn). Ấn bản cuốn sách phát hành những năm 1980 của ông Vu Ấu Quân chỉ chỉ trích việc Liên Xô quá chú trọng tới công nghiệp nặng và tập thể hóa nông nghiệp. Ấn bản cuốn sách trong thế kỷ 21 thì chỉ trích sâu hơn, bằng việc lên án các khái niệm xã hội chủ nghĩa cốt lõi như đấu tranh giai cấp, chủ nghĩa bình quân và các ưu đãi phi thị trường. Tài liệu này đã “thổi bùng” sự chỉ trích nói trên bằng một cuộc tấn công vào các cải cách từ thời Liên Xô đối với chế độ cầm quyền độc Đảng, từ “bài phát biểu bí mật” của Khrushchev về Stalin, cho đến những nỗ lực của Gorbachev trong việc theo đuổi cải cách chính trị, thay vì cải cách kinh tế.
            Do vậy, đường lối tuyên truyền nhà nước mới tiến dần đến việc chia tách Trung Quốc ra khỏi bất kỳ nội dung triết học thực tế còn lại nào trong chủ nghĩa xã hội Mácxít (vì đi ngược với chủ nghĩa Lênin hay sự cai trị độc Đảng theo chủ nghĩa Mao Trạch Đông). Điều này đặt ra câu hỏi là, điều mà Đảng Cộng sản Trung Quốc tìm cách chỉ ra như nguồn gốc tư tư tưởng của tính hợp pháp của đảng này, chính xác là gì.
            . . . và sự lồng ghép ” văn hóa truyền thống Trung Quốc
            Rõ ràng, nhà lãnh đạo Tập Cận Bình đã đưa ra một câu trả lời. Tháng 11/2013, theo kế hoạch được chuẩn bị một cách kỹ lưỡng, Tập Cận Bình đã thực hiện chuyến viếng thăm Khúc Phụ, quê hương của Khổng Tử. Tại đây, Tập Cận Bình đã tới thị sát Viện Nghiên cứu Khổng Tử Trung Quốc, ca ngợi các tác phẩm kinh điển cùng những ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo trong quá trình “Trung Quốc hóa chủ nghĩa Mác”, đồng thời tuyên bố: “Từ ngày được thành lập, Đảng Cộng sản Trung Quốc luôn là một ngọn cờ đầu trung thành và khởi xướng những yếu tố tuyệt vời về văn hóa truyền thống Trung Quốc”.
           Tất nhiên, điều này không đúng sự thật. Từ khi được thành lập trong phong trào nổ ra ngày 4/5 (thường gọi là phong trào Ngũ Tứ) – một phản ứng chống lại văn hóa truyền thống – cho tới cuộc Cách mạng văn hóa – thời kỳ của những nỗ lực nhằm tẩy xóa quá khứ của Trung Quốc, Đảng Cộng sản Trung Quốc luôn có một mối quan hệ mâu thuẫn sâu sắc với lịch sử. Trải qua nhiều thập kỷ, đảng này đã tìm cách đặt tính hợp pháp của họ trong tiến trình hiện đại hóa – cho dù là cải cách chủ nghĩa xã hội Mácxít hay cải cách kinh tế – chứ không phải trong truyền thống.
           Tuy nhiên, đây chính là tính chất chính thống mới của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Tuyên bố trên của Tập Cận Bình xuất phát trực tiếp từ nội dung thông cáo chung năm 2011 về lĩnh vực văn hóa, trong đó khẳng định rằng bản thân Đảng Cộng sản Trung Quốc có nguồn gốc từ truyền thống, và nó cũng đưa ra những chỉ thị có tác động sâu rộng để mở rộng và phát triển văn hóa truyền thống Trung Quốc trên mọi lĩnh vực – các phương tiện truyền thông và Internet, trong các môn học của ngành giáo dục và trong giao lưu văn hóa với Hong Kong, Đài Loan. Bản thông cáo chung năm 2011 rõ ràng đang được kết hợp một cách chặt chẽ vào trong những chỉ thị của Trung ương đối với các quan chức cấp tỉnh, nhằm cải thiện công tác quản lý. Bên cạnh đó, nó đã tạo nên một thành phần chủ chốt trong chiến dịch “những giá trị cốt lõi” mới mà nhà chức trách của đảng Cộng sản Trung Quốc đã công bố vào ngày 23/12/2013. Ngoài ra, nội dung này còn trở thành trọng tâm trong các buổi nghiên cứu chung gần đây của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Đương nhiên, hướng đi mới nêu trên cũng được xây dựng dựa trên sự quan tâm trở lại của đông đảo người dân đối với văn hóa truyền thống, trong bối cảnh nhận thức rằng xã hội Trung Quốc đã dần mất đi những “nơi neo đậu vững chắc” giữa những thay đổi nhanh chóng về mặt kinh tế và xã hội.
           Nội dung trên các phương tiện truyền thông nhà nước đã bắt đầu được lồng ghép với nội dung tuyên truyền được phát động vào năm 2011. Trước đó, trong năm 2010, các chương trình truyền hình hẹn hò, ví dụ như chương trình “Nếu như bạn là người duy nhất,” đã làm “dậy sóng” các phương tiện truyền thông đại chúng, đồng thời làm dấy lên những lo ngại rằng các chương trình này “góp phần” làm giảm các giá trị đạo đức. Từ đó, thời lượng lên sóng của những chương trình như vậy đã bị giảm bớt. Các chương trình truyền hình mới đề cao văn hóa truyền thống đã được bổ sung, chẳng hạn như chương trình “Cuộc thi Nghe, Viết chữ Hán”. Được trình chiếu vào năm 2013, chương trình này đòi hỏi thí sinh sử dụng bút và giấy để tái hiện lại những ký tự sau khi được nghe mô tả. Từ đó, chương trình này đã khơi dậy mối quan tâm mới của các thế hệ trẻ đối với việc đưa các ký tự vào những thiết bị điện tử. Kể từ đầu năm 2014, các chương trình thời sự buổi tối trên Đài Truyền hình Trung ương Trung Quốc (CCTV) đã mở rộng đáng kể việc phát sóng, đưa tin về những trường hợp, ví dụ liên quan các giá trị đạo đức truyền thống, với những khẩu hiệu mới, như “truyền thống gia đình tốt tạo nên một công dân tốt”.
           Khía cạnh giáo dục là một ví dụ khác. Vào mùa Thu năm 2013, chính quyền Bắc Kinh đã tuyên bố rằng họ sẽ tăng cường chú trọng tới tiếng Trung Quốc thay vì đề cao tầm quan trọng của tiếng Anh trong kỳ thi đầu vào Đại học. Chính quyền các địa phương khác hiện cũng đang nghiên cứu để tiến tới giảm tải việc học tiếng Anh đối với đối tượng học sinh trung học.
            Những tác động
            “Sự xoay trục” của Trung Quốc đối với quá khứ của riêng họ đã đặt ra hàng loạt vấn đề. Một vài vấn đề trong số đó khá hữu ích. Nhiều cơ quan được thành lập trong giai đoạn cải cách cuối thế kỷ 20 đã nêu bật việc học tập từ nước ngoài. Vậy những cơ quan này sẽ hoạt động ra sao dưới đường lối chính sách mới?
           Những sự thay đổi trong tư tưởng nhà nước có thể tạo không gian mới cho các nhà cải cách của Trung Quốc. Họ là những người đã tìm đến các giá trị truyền thống Nho giáo và Phật giáo như một cách để được tĩnh tâm và có thể tự mình giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc. Ngay cả đường lối mới của Đảng Cộng sản Trung Quốc về chủ nghĩa xã hội cũng mở ra một số khả năng khoa trương mới. Ví dụ như, sự lên án các nhà cải cách dân chủ xã hội châu Âu cuối thế kỷ 19 đã biến mất nhờ những sự phân tích trung lập hơn nhiều, tạo ra khả năng là những người này có thể được đưa vào trong số những ví dụ về cải cách thành công dần dần trong tương lai.
           Mặc dù vậy, rõ ràng là chính quyền hiện nay của Trung Quốc đang có ý định sử dụng những thay đổi về ý thức hệ của họ để củng cố hệ thống chính trị cầm quyền độc đảng. Trong chuyến thăm Khúc Phụ, ông Tập Cận Bình đã bác bỏ khái niệm về các quyền con người nói chung, đồng thời khẳng định rằng sự phân biệt giữa tốt và xấu cơ bản bắt nguồn từ “văn hóa truyền thống” của các quốc gia khác nhau. Nhà lãnh đạo Tập Cận Bình cũng lặp đi lặp lại lời bình luận của mình đối với Thủ tướng Hy Lạp: “‘Dân chủ’ của các Ngài là nền dân chủ của Hy Lạp và Rome cổ đại – đó là truyền thống của các Ngài. Chúng tôi cũng có nền dân chủ của riêng mình”.
           Dòng tư tưởng này cũng có thể làm suy giảm những nỗ lực thúc đẩy công cuộc hiện đại hóa, như cải cách luật pháp. Phù hợp với những lợi ích quốc gia cuối thế kỷ 20 trong việc tham vấn các mô hình nước ngoài, một thế hệ các học giả và các tổ chức phi chính phủ đã thúc đẩy cải cách quản lý ở Trung Quốc bằng việc tổ chức nhiều chuyến tham quan học tập và hỗ trợ thiết lập những cuộc thảo luận giữa các thẩm phán nước ngoài, các quan chức và các đối tác Trung Quốc của họ. Tuy nhiên, nếu những nhà lãnh đạo các cấp địa phương của Đảng Cộng sản Trung Quốc thực hiện những chỉ thị của Chủ tịch Tập Cận Bình để rút ra được định hướng chỉ đạo tư tưởng từ lịch sử riêng và giá trị danh nghĩa của các truyền thống của Trung Quốc – như những bình luận về những nguồn gốc tư tưởng đã được nêu ra – thì liệu có hay không việc Viện Khoa học Xã hội Trung Quốc và Quỹ Ford càng cần phải suy nghĩ kỹ về việc tham vấn các chuyên gia về những thực tiễn quản lý đời nhà Đường, trước khi đưa ra cho Trung Quốc đề xuất về những cải cách luật hành chính ngày nay?
           Khi giới chức Đảng Cộng sản Trung Quốc tiếp tục thay đổi theo hướng trở về quá khứ, trở về văn hóa và chủ nghĩa dân tộc, như một cơ sở rõ ràng hơn thể hiện sự cai trị của họ, thì sẽ xuất hiện nguy cơ là những điều này có thể làm gia tăng những căng thẳng ở bên trong Trung Quốc. Những khái niệm được ông Tập Cận Bình sử dụng trong chuyến thăm Khúc Phụ, chẳng hạn như của “con cháu Viêm Hoàng”, đã có một lịch sử đầy tranh cãi ở Trung Quốc. Cũng không rõ những tác động của đường lối chính sách mới đối với các nhóm tôn giáo chung sẽ là gì, để không dễ dàng nằm trong định nghĩa về “văn hóa truyền thống của Trung Quốc”.
            Ở Trung Quốc, lịch sử không bao giờ lụi tàn, ngay cả trong quá khứ. Thay vào đó, lịch sử đang quay trở lại.


SỰ THẬT VỀ QUAN HỆ VIỆT NAM & TRUNG QUỐC

TRONG 30 NĂM QUA
Nhà Xuất Bản Sự Thật
18 tháng 7, 2009
1  2  3  4   5
 
PHẦN THỨ NHẤT
VIỆT NAM TRONG CHIẾN LƯỢC CỦA TRUNG QUỐC
 Những hành động thù địch công khai của những người lãnh đạo Trung Quốc đối với Việt Nam, mà đỉnh cao là cuộc chiến tranh xâm lược của họ ngày 17 tháng 2 năm 1979, đã làm cho dư luận thế giới ngạc nhiên trước sự thay đổi đột ngột về chính sách của Trung Quốc đối với Việt Nam.
Sự thay đổi đó không phải là điều bất ngờ, mà là sự phát triển lô-gích  của chiến lược bành trướng đại dân tộc và bá quyền nước lớn của những người lãnh đạo Trung Quốc trong 30 năm qua.
Trên thế giới chưa có những người lãnh đạo một nước nào về mặt chiến lược đã lật ngược chính sách liên minh, đổi bạn thành thù, đổi thù thành bạn nhanh chóng và toàn diện như những người lãnh đạo Trung Quốc.
Từ chỗ coi Liên Xô là đồng minh lớn nhất, họ đi đến chỗ coi Liên Xô là kẻ thù nguy hiểm nhất.
Từ chỗ coi đế quốc Mỹ là kẻ thù nguy hiểm nhất mà bản chất không bao giờ thay đổi, họ đi đến chỗ coi đế quốc Mỹ là đồng minh tin cậy, câu kết với đế quốc Mỹ và trắng trợn tuyên bố Trung Quốc là NATO (1) ở phương đông.
Từ chỗ coi phong trào giải phóng dân tộc ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ la tinh là “bão táp cách mạng” trực tiếp đánh vào chủ nghĩa đế quốc và cho rằng rốt cuộc sự nghiệp cách mạng của toàn bộ giai cấp vô sản quốc tế sẽ tuỳ thuộc vào cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân ở khu vực này , họ đi đến chỗ cùng với đế quốc chống lại và phá hoại phong trào giải phóng dân tộc, ủng hộ những lực lượng phản động, như tên độc tài Pinôchê ở Chilê, các tổ chức FNLA và UNITA do Cục tình báo trung ương Mỹ (CIA) giật dây ở Angôla, vua Palêvi ở Iran, nuôi dưỡng bè lũ diệt chủng PônPốt-Iêngxary v..v…Họ ngang nhiên xuyên tạc nguyên nhân và tính chất của các cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới hiện nay, coi các cuộc đấu tranh này là sản phẩm của sự tranh giành bá quyền giữa các nước lớn, chứ không phải là sự nghiệp cách mạng của nhân dân các nước.
Cùng với sự lật ngược chính sách liên minh của họ trên thế giới là những cuộc thanh trừng tàn bạo và đẫm máu ở trong nước, đàn áp những người chống đối, làm đảo lộn nhiều lần vai trò của những người trong giới cầm quyền. Có người hôm nay được coi là nhà lãnh đạo cách mạng chân chính, ngày mai trở thành kẻ thù, kẻ phản bội của cách mạng Trung Quốc; có người trong vòng mấy năm lần lượt bị đổ và được phục hồi đến hai ba lần.
Chiến lược của những người lãnh đạo Trung Quốc có những thay đổi rất lớn. Nhưng có một điều không thay đổi: đó là mục tiêu chiến lược muốn nhanh chóng đưa Trung Quốc trở thành một cường quốc bậc nhất thế giới và thực hiện mưu đồ bành trướng đại dân tộc và bá quyền nước lớn của họ đối với các nước khác.
Tại Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 1956, Chủ tich Mao Trạch Đông đã nói:
Chúng ta phải trở thành quốc gia hàng đầu về phát triển văn hoá, khoa học kỹ thuật và công nghiệp…Không thể chấp nhận rằng sau một vài chục năm, chúng ta vẫn chưa trở thành cường quốc số một trên thế giới
Sau đó, tháng 9  năm 1959, tại Hội nghị của Quân uỷ trung ương, chủ tịch Mao Trạch Đông lại nói:
Chúng ta phải chinh phục trái đất. Đó là mục tiêu của chúng ta
Ngay từ khi thành lập nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa tháng 10 năm 1949, những người cầm quyền ở Bắc Kinh đã bắt tay đẩy mạnh việc thực hiện mục tiêu chiến lược của họ. Mặc dầu nền kinh tế của Trung Quốc còn lạc hậu, từ cuối những năm 1950 họ đã ra sức xây dựng lực lượng hạt nhân chiến lược và hiện nay đang đẩy mạnh việc thực hiện “hiện đại hoá” về quân sự, về sản xuất và tích trữ vũ khí hạt nhân. Trong lĩnh vực kinh tế, điều giống nhau giữa “đại nhảy vọt” năm 1958 và “bốn hiện đại hoá” mới nêu ra vài ba năm nay là cả hai kế hoạch đó đều nhằm mục tiêu chiến lược bành trướng và bá quyền của những người lãnh đạo Trung Quốc.
(1) Tức khối xâm lược Bắc Đại Tây Dương (B.T.)
(2) Cần nhắc lại rằng tại hội nghị đại biểu các Đảng Cộng Sản và Công Nhân tháng 11 năm 1960. Đoàn đại biểu Đảng Cộng Sản Trung Quốc đã đồng ý với nhận định sự phát triển của xã hội loài người.
I- VIỆT NAM TRONG CHIẾN LƯỢC TOÀN CẦU CỦA TRUNG QUỐC
Trong chiến lược toàn cầu của những người lãnh đạo Trung Quốc, nếu họ coi Liên Xô và Mỹ là những đối tượng chủ yếu cần phải chiến thắng, thì họ coi Việt Nam là một đối tượng quan trọng cần khuất phục và thôn tính để dễ bề đạt được lợi ích chiến lược của họ.
Bước vào những năm 1950, khi bắt đầu công cuộc xây dựng lại hòng đưa nước Trung Hoa nhanh chóng trở thành cường quốc trên thế giới, những người lãnh đạo Trung Quốc phải đối phó với cuộc chiến tranh của Mỹ xâm lược Triều Tiên ở phía bắc và mối nguy cơ đe doạ an ninh của Trung Quốc ở  phía nam do cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp ở Việt Nam gây ra. Đồng thời đế quốc Mỹ, tên đế quốc đầu sỏ và tên sen đầm quốc tế, thi hành một chính sách thù địch đối với Trung Quốc và đang ra sức tiến hành kế hoạch bao vây, cô lập Trung Quốc.
Cuộc kháng chiến thắng lợi của nhân dân Việt Nam, nhân dân Lào và nhân dân Campuchia chống thực dân Pháp đã đưa đến  Hội nghị Giơnevơ năm 1954 về Đông Dương. Pháp lo sợ thắng lợi hoàn toàn của nhân dân Việt Nam sẽ dẫn đến sự sụp đổ của hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc Pháp. Trung Quốc là nước cung cấp nhiều vũ khí nhất cho Việt Nam vào cuối cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp. Những người lãnh đạo Trung Quốc đã lợi dụng tình hình đó để đứng ra làm người thương lượng chủ yếu đối với đế quốc Pháp, câu kết với chúng và cùng nhau thoả hiệp về một giải pháp có lợi cho Trung Quốc và Pháp, không có lợi cho nhân dân Việt Nam, nhân dân Lào và nhân dân Campuchia. Họ đã hy sinh lợi ích của nhân dân ba nước ở Đông Dương để bảo đảm an ninh cho Trung Quốc ở phía nam, để thực hiện mưu đồ nắm Việt Nam và Đông Dương, đồng thời để có vai trò là một nước lớn trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế, trước hết là ở châu Á. Trong Hội nghị Giơnevơ năm 1954 mà phần đầu dành cho vấn đề Triều Tiên, nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa lần đầu tiên xuất hiện ngang hàng với bốn cường quốc uỷ viên thường trực của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc. Đó là một cơ hội tốt cho những người lãnh đạo Trung Quốc mở rộng ảnh hưởng của mình ở khu vực châu Á và châu Phi. Đồng thời, họ tìm cách bắt tay với đế quốc Mỹ qua các cuộc thương lượng trực tiếp bắt đầu  Giơnevơ, về sau chuyển sang Vacsava.
Từ sau khi Hiệp định Giơnevơ năm 1954 được ký kết, đế quốc Mỹ ngày càng can thiệp sâu vào Việt Nam, nhằm biến miền Nam Việt Nam thành một thuộc địa kiểu mới và một căn cứ quân sự của Mỹ ở Đông Nam châu Á. Những người cầm quyền ở Bắc Kinh muốn duy trì lâu dài tình trạng Việt Nam bị chia cắt. Nhưng nhân dân Việt Nam đã anh dũng đứng lên chống Mỹ cứu nước và ngày càng giành được nhiều thắng lợi.
Cuối những năm 1960, đế quốc Mỹ bị sa lầy trong chiến tranh xâm lược chống Việt Nam, một cuộc chiến tranh đã làm trầm trọng thêm cuộc khủng hoảng về kinh tế, chính trị và xã hội của nước Mỹ, đồng thời làm suy yếu thêm vị trí của đế quốc Mỹ trên thế giới. Tình hình đó đã tạo điều kiện thuận lợi cho các nước xã hội chủ nghĩa và phong trào cách mạng trên thế giới phát triển mạnh mẽ và tạo cho các nước Tây Âu, Nhật Bản có cơ hội ngoi lên thành những lực lượng cạnh tranh mạnh mẽ với Mỹ. Trước tình thế ngày càng tuyệt vọng, tổng thống Nichxơn đã đề ra kế hoạch “Việt Nam hoá” chiến tranh và theo kinh nghiệm của đế quốc Pháp năm 1954, dùng Trung Quốc hòng giải quyết vấn đề Việt Nam với những điều kiện có lợi cho đế quốc Mỹ: rút quân Mỹ ra khỏi Việt Nam mà vẫn giữ được chế độ bù nhìn Nguyễn Văn Thiệu ở miền nam Việt Nam. Đồng thời, chính quyền Nichxơn chơi con bài Trung Quốc để gây sức ép đối với Liên Xô, chống phong trào cách mạng thế giới.
Lợi dụng sự suy yếu của đế quốc Mỹ và chiều hướng chính sách của chính quyền Nichxơn, những người lãnh đạo Trung Quốc tăng cường chống Liên Xô và thoả hiệp với Mỹ, giúp Mỹ giải quyết vấn đề Việt Nam để cố tạo nên thế ba nước lớn trên thế giới theo công thức của Kitxinhgơ về “thế giới nhiều cực”, trong đó một trong ba cực lớn là Trung Quốc, xoá bỏ “thế hai cực” Mỹ và Liên Xô đã hình thành sau chiến tranh thế giới thứ hai, đồng thời dùng vấn đề Việt Nam để đổi lấy việc Mỹ rút khỏi Đài Loan. Do đó, họ lật ngược chính sách liên minh, bắt đầu từ việc coi Liên Xô là kẻ thù chủ yếu, gây ra xung đột biên giới với Liên Xô tháng 3 năm 1969, đến việc phản bội Việt Nam lần thứ hai, buôn bán với Mỹ để ngăn cản thắng lợi hoàn toàn của nhân dân Việt Nam. Trong năm 1971, họ lần lượt tiến hành chính sách “ngoại giao bóng bàn”, đón tiếp Kitxinhgơ ở Bắc Kinh. Tiếp đó là việc khôi phục địa vị của Trung Quốc ở Liên hợp quốc và nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa trở thành một trong năm uỷ viên thường trực  của Hội đồng bảo an. Đỉnh cao là việc Trung Quốc tiếp tổng thống Mỹ Nichxơn và hai bên ra Thông cáo Thượng Hải tháng 2 năm 1972. Đối với những người cầm quyền Bắc Kinh, sự câu kết với đế quốc Mỹ là một bước có ý nghĩa quyết định đối với việc triển khai chiến lược toàn cầu của họ.
Cũng như sau Hiệp định Giơnevơ 1954 về Đông Dương, những người lãnh đạo Trung Quốc sau Hiệp định Pari tháng 1 năm 1973 về Việt Nam, muốn duy trì nguyên trạng ở miền nam Việt Nam. “Cách mạng Trung Quốc và Đảng cộng sản Trung Quốc” của chủ tịch Mao Trạch Đông viết năm 1939 do hiệu sách Tân Hoa thư điếm (Dực Nam) tái bản tháng 6 năm 1949. Trong đó có đoạn viết:
Sau khi dùng chiến tranh đánh bại Trung Quốc, các nước đế quốc đã cướp đi nhiều nước phụ thuộc và một bộ phận của lãnh thổ Trung Quốc: Nhật chiếm Triều Tiên, Đài Loan, Lưu Cầu, quần đảo Bành Hồ và Lữ Thuận. Anh chiếm Miến Điện, Butan, Nêpan và Hương Cảng. Pháp chiếm An Nam…
Đường vẽ chấm là “biên giới” của Trung Quốc theo quan điểm bành trướng, những vùng đánh số là những lãnh thổ mà nhà cầm quyền Bắc Kinh cho là đã bị nước ngoài “chiếm mất” bao gồm: một phần lớn đất vùng Viễn Đông và Trung Á của Liên Xô (số 1, 17, 18), Át Xam (số 6), Xích Kim (số 4), Butan (số 5), Miến Điện (số 7), Nêpan (số 3), Thái Lan (số 10), Việt Nam (số 11), Lào, Campuchia…
Vì vậy thắng lợi của nhân dân Việt Nam năm 1975 đánh sụp hoàn toàn chính quyền tay sai của Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà không chỉ là một thất bại lớn của đế quốc Mỹ mà còn là một thất bại lớn của những người cầm quyền Bắc Kinh trong việc thực hiện chiến lược toàn cầu và mưu đố bành trướng, bá quyền của họ. Từ đó, họ công khai thi hành chính sách thù địch chống Việt Nam, kể cả bằng biện pháp quân sự.
Như vậy, trong 30 năm qua, Việt Nam là một trong những nhân tố quan trọng nhất trong chiến lược toàn cầu của Trung Quốc. Vì Việt Nam có vị trí rất quan trọng trong chiến lược của Pháp giữa những năm 1950 cũng như trong chiến lược của Mỹ đầu những năm 1970, những người lãnh đạo Trung Quốc đã dùng “con bài” Việt Nam để câu kết với bọn đế quốc, phục vụ cho ý đồ chiến lược bành trướng đại dân tộc và bá quyền nước lớn của họ. Đồng thời họ mưu toan một mình nắm cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của nhân dân Việt Nam, một vấn đề trung tâm của đời sống chính trị quốc tế lúc bấy giờ để giương cao chiêu bài “chống chủ nghĩa đế quốc” hòng nắm quyền “lãnh đạo cách mạng thế giới”, dìm ảnh hưởng của Liên Xô.
II- VIỆT NAM TRONG CHÍNH SÁCH ĐÔNG NAM Á CỦA TRUNG QUỐC.
Đông Nam châu Á là hướng bành trướng cổ truyền trong lịch sử Trung Quốc, là khu vực mà từ lâu những người lãnh đạo nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa ước mơ thôn tính.
Trong năm 1936, chủ tịch Mao Trạch Đông kể chuyện với nhà báo Mỹ Etga Xnâu ở Diên An về thời trẻ của mình, đã bộc lộ ý nghĩ sau khi đọc một cuốn sách nhỏ nói đến việc Nhật chiếm Triều Tiên và Đài Loan, việc mất “chủ quyền”  Trung Hoa ở Đông Dương, Miến Điện và nhiều nơi khác:
Đọc xong, tôi lấy làm thất vọng đối với tương lai đất nước tôi và tôi bắt đầu nhận thức rằng bổn phận của mọi người là phải đóng góp cứu nước”. (Ét-ga Xnâu: Ngôi sao đỏ trên đất Trung Hoa, Nhà xuất bản Pen-guyn, Lân đơn, 1972, tr. 159)
Tài liệu của Đảng cộng sản Trung Quốc do chủ tịch Mao Trạch Đông viết mang tên Cách mạng Trung Quốc và Đảng cộng sản Trung Quốc, xuất bản năm 1939 có viết:
Các nước đế quốc sau khi đánh bại Trung Quốc, đã chiếm các nước phụ thuộc của Trung Quốc: Nhật chiếm Triều Tiên, Đài Loan, Lưu Cầu, quần đảo Bành Hồ và Lữ Thuận. Anh chiếm Miến Điện, Butan, Hương Cảng, Pháp chiếm An Nam…”
Cuốn sách Sơ lược lịch sử Trung Quốc hiện đại xuất bản năm 1954 ở Bắc Kinh có bản đồ vẻ lãnh thổ Trung Quốc bao gồm cả nhiều nước chung quanh, kể cả ở Đông Nam châu Á và vùng biển Đông.
Ý đồ bành trướng của những người lãnh đạo Trung Quốc đặc biệt lộ rõ ở câu nói của chủ tịch Mao Trạch Đông trong cuộc hội đàm với đại biểu Đảng Lao động Việt Nam ở Vũ Hán năm 1963:
Tôi sẽ làm chủ tịch của 500 triệu bần nông đưa quân xuống Đông Nam châu Á
Cũng trong dịp này, chủ tịch Mao Trạch Đông so sánh nước Thái Lan với tỉnh Tứ Xuyên của Trung Quốc, về diện tích thì tương đương nhưng về số dân thì tỉnh Tứ Xuyên đông gấp đôi, và nói rằng Trung Quốc cần đưa người xuống Thái Lan để ở; đối với nước Lào đất rộng người thưa, chủ tịch Mao Trạch Đông cũng cho rằng Trung Quốc cần đưa người xuống Lào để ở.

Chủ tịch Mao Trạch Đông còn khẳng định trong cuộc họp của Bộ Chính trị ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc, tháng 8 năm 1965:
Chúng ta phải giành cho được Đông Nam châu Á, bao gồm cả miền nam Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện, Malayxia và Singapo…Một vùng như Đông Nam châu Á rất giàu, ở đấy có nhiều khoáng sản…xứng đáng với sự tốn kém cần thiết để chiếm lấy…Sau khi giành được Đông Nam châu Á, chúng ta có thể tăng cường được sức mạnh của chúng ta ở vùng này, lúc đó chúng ta sẽ có sức mạnh đương đầu với khối Liên Xô-Đông Âu, gió Đông sẽ thổi bạt gió Tây…”.
So với các khu vực khác trên thế giới, Đông Nam châu Á là khu vực mà Trung  Quốc có nhiều điều kiện thuận lợi nhất, có nhiều phương tiện và khả năng nhất (hơn 20 triệu Hoa kiều, các chính đảng lệ thuộc vào Đảng cộng sản Trung Quốc, Đông Nam châu Á có đường đất liền với Trung Quốc…) để thực hiện chính sách bành trướng và bá quyền nước lớn của mình. Cho nên trong 30 năm qua, những người lãnh đạo nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa đã dùng nhiều thủ đoạn để thực hiện chính sách bành trướng ở khu vực này, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện chiến lược toàn cầu phản cách mạng của họ.
Họ xây dựng lực lượng hạt nhân chiến lược, phát triển lực lượng kinh tế, ỷ thế nước lớn, đe doạ bằng quân sự và hứa hẹn viện trợ về kinh tế để mua chuộc, lôi kéo hoặc gây sức ép với các nước ở khu vực này, hòng làm cho các nước đó phải đi vào quỹ đạo của họ. Họ xâm phạm lãnh thổ các nước và gây ra xung đột biên giới, dùng lực lượng tay sai hoặc trực tiếp đem quân xâm lược, hòng làm suy yếu để dễ bề khuất phục, thôn tính nước này, nước khác trong khu vực. Họ không từ bất kỳ một hành động tàn bạo nào, như họ đã dùng tập đoàn Pônpốt- Iêngxary thực hiện chính sách diệt chủng ở Campuchia. Họ dùng nhiều công cụ ở các nước Đông Nam châu Á: lực lượng Hoa kiều làm “đạo quân thứ năm”, các tổ chức gọi là “cộng sản” theo mệnh lệnh của Bắc Kinh, các dân tộc thiểu số ở cấc nước thuộc khu vực này có ít nhiều nguồn gốc dân tộc ở Trung Quốc để phục vụ cho chính sách bành trướng và bá quyền của họ.
Về việc sử dụng lực lượng Hoa kiều, ý đồ của Bắc Kinh đã được thể hiện rõ nhất trong ý kiến của bộ trưởng Bộ Ngoại giao Trần Nghị:
Singapore có trên 90% là người Trung Quốc, trong số dân hơn 1 triệu người thì hơn 90 vạn là người Trung Quốc. Cho nên Singapore hoàn toàn trở thành một quốc gia do người Trung Quốc ở đó tổ chức”. 
Những người lãnh đạo Trung Quốc lợi dụng mâu thuẫn giữa các dân tộc ở Đông Nam châu Á, chia rẽ các nước thuộc tổ chức ASEAN  với ba nước trên bán đảo Đông Dương, chia rẽ các nước với nhau như đã chia rẽ Malayxia với Inđônêxia, Miến Điện với Thái Lan…Đặc biệt họ lợi dụng tình hình ở Đông Nam châu Á là một trong những khu vực sục sôi cách mạng trên thế giới, phong trào độc lập dân tộc ngày càng phát triển và chủ nghĩa thực dân đế quốc ngày càng suy yếu để thực hiện ý đồ bành trướng của họ. Khi thực dân Pháp thất bại ở Việt Nam năm 1954, họ muốn duy trì ở miền Nam Việt Nam, Lào và Campuchia sự có mặt của Pháp là một tên đế quốc đã suy yếu để ngăn cản Mỹ, tên đế quốc đầu sỏ thâm nhập vào Đông Dương và hạn chế thắng lợi hoàn toàn của cách mạng ba nước ở Đông Dương. Khi Mỹ suy yếu và thất bại ở vùng này, họ muốn duy trì sự có mặt của Mỹ để cùng với Mỹ thống trị các nước trong khu vực. Làm như vậy, họ hy vọng dựa vào chủ nghĩa đế quốc ngăn chặn sự phát triển của cách mạng để từng bước lấp cái gọi là lỗ hổng ở Đông Nam châu Á, tiến đến gạt dần các đồng minh đế quốc để độc chiếm khu vực này. Họ tung ra luận điệu lừa bịp là ngăn chặn ảnh hưởng của Liên Xô để che dấu âm mưu đen tối của họ.
(3) Trong cuộc nói chuyện với chuyện với các đại biểu người Hoa ỏ Việt Nam đến chào mừng đoàn đại biểu Đảng và Chính phủ Trung Quốc do Thủ tướng Chu Ân Lai dẫn đầu thăm Việt Nam, tháng 5 năm 1960.
(4) Tức hội các người Đông Nam Á, thành lập năm 1967. (B.T.)
Việt Nam có một vị trí chiến lược ở Đông Nam châu Á. Trong lịch sử, bọn bành trướng phong kiến Trung Quốc đã nhiều lần xâm lược hòng thôn tính  Việt Nam, dùng Việt Nam làm bàn đạp để xâm lược các nước khác ở Đông Nam châu Á. Khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, trong các đảng cộng sản ở khu vực này chỉ có Đảng cộng sản Việt Nam giành được chính quyền và thành lập Nhà nước công nông đầu tiên trong khu vực. Cách mạng Việt Nam có ảnh hưởng to lớn do đánh thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Những người lãnh đạo Trung Quốc âm mưu nắm Việt Nam để nắm toàn bộ bán đảo Đông Dương, mở đường đi xuống Đông Nam châu Á. Trong cuộc gặp giữa đại biểu bốn đảng cộng sản Việt Nam, Trung Quốc, Inđônêxia và Lào tại Quảng Đông tháng 9 năm 1963, thủ tướng Chu Ân Lai nói:
Nước chúng tôi thì lớn nhưng không có đường ra, cho nên rất mong Đảng Lao động Việt Nam mở cho một con đường mới xuống Đông Nam châu Á”.
Để làm suy yếu và nắm lấy Việt Nam, họ ra sức phá sự đoàn kết giữa ba nước ở bán đảo Đông Dương, chia rẽ ba nước với nhau, đặc biệt là chia rẽ Lào và Campuchia với Việt Nam. Đồng thời họ cố lôi kéo các nước khác ở Đông Nam châu Á đối lập với Việt Nam, vu khống, bôi xấu, hòng cô lập Việt Nam với các nước trên thế giới.
Những người cầm quyền Bắc Kinh rêu rao cái gọi là “chủ quyền” của họ đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đầu năm 1974, với sự đồng tình của Mỹ, họ đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa, bộ phận lãnh thổ của Việt Nam để từng bước kiểm soát biển Đông, khống chế Việt Nam và toàn bộ Đông Nam châu Á, đồng thời khai thác tài nguyên phong phú ở vùng biển Đông.
Những người lãnh đạo Trung Quốc hy vọng tập hợp lực lượng ở Đông Nam Châu Á để tiến đến tập hợp lực lượng trên thế giới hòng thực hiện chiến lược toàn cầu của họ. Những năm 1960 họ ra sức tập hợp lực lượng ở các khu vực Á, Phi, Mỹ latinh để nắm quyền “lãnh đạo cách mạng thế giới” và chống Liên Xô. Để đạt mục tiêu đó, từ năm 1963 họ ráo riết vận động họp 11 đảng cộng sản, trong đó có 8 đảng ở Đông Nam châu Á hòng lập ra một thứ “Quốc tế cộng sản” mới do họ khống chế, xây dựng cái gọi là “trục Bắc Kinh- Giacacta-Phnông Pênh-Bình Nhưỡng-Hà Nội”, thông qua Inđônêxia vận động triệu tập “Hội nghị các lực lượng mới trỗi dậy” (CONEFO) để thành lập một tổ chức quốc tế đối lập với Liên hợp quốc; đồng thời vận động tổ chức Hội nghị Á-Phi lần thứ hai (dự định họp ở Angiê năm 1965). Nhưng những người lãnh đạo Trung Quốc đã không thành công trong các kế hoạch đen tối này. Đó là vì họ đi ngược lại lợi ích của cách mạng thế giới là tăng cường hệ thống xã hội chủ nghĩa và phong trào độc lập dân tộc, dân chủ, vì họ vấp phải đường lối độc lập tự chủ trước sau như một của Việt Nam.

◎◎◎
 
Trong 30 năm qua, những người lãnh đạo Trung Quốc coi Việt Nam là một trong những nhân tố quan trọng hàng đầu đối với chiến lược của họ, luôn luôn tìm cách nắm Việt Nam. Muốn như vậy, nước Việt Nam phải là một nước không mạnh, bị chia cắt, không độc lập và lệ thuộc Trung Quốc. Trái lại, một nước Việt Nam độc lập, thống nhất và giàu mạnh, có đường lối độc lập tự chủ và đường lối quốc tế đúng đắn là một cản trở lớn cho chiến lược toàn cầu của những người lãnh đạo Trung Quốc, trước hết là cho chính sách bành trướng của họ ở Đông Nam châu Á. Đó là nguyên nhân vì sao trước đây họ vừa giúp, vừa kiềm chế cách mạng Việt Nam, mỗi khi Việt Nam đánh thắng đế quốc thì họ lại buôn bán, thoả hiệp với đế quốc trên lưng nhân dân Việt Nam; vì sao từ chỗ giấu mặt chống Việt Nam họ đã chuyển sang công khai thù địch với Việt Nam và đi tới trắng trợn tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam.
Chính sách của những người lãnh đạo Trung Quốc muốn thôn tính Việt Nam nằm trong chính sách chung của họ đối với các nước Đông Nam châu Á cũng như đối với các nước láng giềng khác. Họ đã muốn chiếm đất đai của Ấn Độ và thực tế đã chiếm một bộ phận đất đai của Ấn Độ trong cuộc chiến tranh năm 1962; họ không muốn có một nước Ấn Độ mạnh mà họ cho rằng có thể tranh giành với họ “vai trò lãnh đạo” các nước Á-Phi. Họ vẫn mưu toan chiếm Mông Cổ, mặc dù họ đã công nhận nước Cộng hoà nhân dân Mông Cổ là một quốc gia độc lập. Họ muốn chiếm một phần đất đai của Liên Xô, rất không muốn có bên cạnh Trung Quốc một nước Liên Xô hùng mạnh, nên họ tìm mọi cách hạ uy thế của Liên Xô, đẩy các nước đế quốc gây chiến tranh với Liên Xô, đẩy các nước Á-Phi Mỹ la tinh chống Liên Xô. Họ tập trung mọi cố gắng để dấy lên một cuộc “thập tự chinh quốc tế” của các lực lượng đế quốc và phản động chống Liên Xô dưới chiêu bài “chống bá quyền” theo công thức của chủ tịch Mao Trạch Đông “Ngồi trên núi xem hổ đánh nhau”. Như nhiều nhà chính trị và báo chí Tây Âu nhận định, Trung Quốc quyết tâm “đánh Liên Xô đến người Tây Âu cuối cùng” cũng như Trung Quốc trước đây đã quyết tâm “đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng”.
Chiến lược quốc tế ngày nay của những người lãnh đạo Trung Quốc, mặc dù núp dưới chiêu bài nào, đã phơi trần tính chất cực kỳ phản cách mạng của nó và những người lãnh đạo Trung Quốc đã hiện nguyên hình là những người theo chủ nghĩa sô vanh nước lớn, những người dân tộc chủ nghĩa tư sản.
Chính sách ngày nay của những người lãnh đạo Trung Quốc đối với Việt Nam, mặc dù được nguỵ trang khéo léo như thế nào, vẫn chỉ là chính sách của những hoàng đế “thiên triều” trong mấy nghìn năm qua, nhằm thôn tính Việt Nam, biến Việt Nam thành một chư hầu của Trung Quốc.

(xem tiếp bài kế)
1  2  3  4   5

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét