Isaac Newton tiên đoán thế giới sẽ biến mất vào năm 2060
Isaac Newton là một trong những thiên
tài lớn nhất thế giới. Ngoài những phát minh khoa học vĩ đại, ông còn
khiến nhiều người ám ảnh về tiên đoán ngày tận thế với thời điểm tận thế
rất cụ thể.
Isaac Newton tiên đoán ngày tận thế
Các nhà nghiên cứu tiếng Do Thái ước tính Newton có hơn 1 triệu từ
liên quan đến việc nghiên cứu Kinh Thánh của ông. Nhưng có lẽ những
tuyên bố đáng chú ý nhất là trên một mảnh giấy biên trong một bức thư mà
ông đã viết vào năm 1704. Trong mảnh giấy này ông đã tiên đoán rằng thế
giới sẽ biến mất vào năm 2060.
Vào những ngày cuối đời, Isaac Newton - nhà khoa học vĩ đại nhất nước
Anh, đã để lại những ký hiệu kỳ lạ trong tập bản thảo dày 4.500 trang
được cho là một quyển sách tiên tri. Không phải ai cũng biết rằng Kinh
Thánh cũng là niềm đam mê lớn của Newton và ông dành khoảng thời gian ít
ỏi còn lại của cuộc đời cho việc giải mã lời tiên tri trong đó nhằm tìm
ra ngày tận thế.
Trên thực tế, ông được cho là đã tiên đoán đúng sự kiện người Do Thái
trở về mảnh đất Israel và tính ra ngày hành hình Chúa Jesu là 3/4 năm
33 SCN.
Isaac Newton tiên đoán thế giới sẽ biến mất vào năm 2060
Newton đã đưa ra kết luận này sau khi ông nghiên cứu chuyên sâu sách của Daniel, đặc biệt trong chương 12 câu 7:
“Tôi nghe thấy một người trên mặt sông mặc đồ vãi lanh. Khi người đó,
con người bất tử, đưa tay phải lên, tiến về thiên đường, và thề rằng đó
chỉ là một kỳ, nhiều kỳ, và nửa kỳ; và ngay khi sức mạnh của dân thánh
bị tiêu tan, tất cả những sự kiện này sẽ hoàn tất.
Chính cụm từ “một kỳ, nhiều kỳ, và nửa kỳ” đã khiến Newton phải chú
ý. Ông đã diễn giải cụm này là ba và một nửa hay là 1260 ngày (cũng được
tham khảo trong Daniel 7:25, Khải Huyền 11;3, 13:6 và 13:5). Nhưng ông
đã thực hiện một điều chỉnh nhỏ, ông đã diễn giải ngày để có nghĩa là
năm – 1260 năm – đánh dấu sự đếm ngược tới kết thúc của thế giới và sự
trở lại của chúa.
Tất nhiên, Newton cũng cần một ngày bắt đầu đếm ngược này. Cho rằng,
Newton sử dụng các thiết lập của Thánh chế La Mã trong năm 800 sau Công
Nguyên bởi Charlemagne. Điều này báo hiệu sự kết hợp của tính ưu việt
tôn giáo của Đức Giáo Hoàng với ưu thế chính trị của Charlemagne.
Do đó, năm 2060 đã được tính toán đơn giản bằng cách thêm 1.260 năm vào năm 800 sau Công Nguyên.
Lời tiên tri về ngày tận thế đã được phổ biến trong phong trào Tin
Lành xuyên suốt Ngày của Newton. Các tín đồ tôn giáo, những người vừa
được tách khỏi các Hộ Đồng Công Giáo La Mã, bị bức hại nghiêm trọng từ
Hội Đồng Công Giáo. Các nhà đứng đầu Tin Lành chẳng hạn như Martin
Luther và John Calvin giáo hoàng tự xưng vua như những người phản
nghịch. 144.000 người đắc cử đã được bảo hộ bởi Chúa được coi là những
người Tin Lành. Các bội giáo lớn liên quan đến những người còn trong
Giáo Hội Công Giáo La Mã.
Newton tin rằng năm 800 sau Công Nguyên đã đánh dấu ngày bắt đầu sớm
nhất để đếm ngược, nhưng nói thêm rằng có thể sẽ bắt đầu muộn hơn.
“Nó không bắt đầu trước năm 800 thời điểm mà uy quyền của Đức Thánh
Cha bắt đầu”, Newton nói. Sau đó ông nói thêm: “Tận thế có lẽ sẽ kết
thúc muộn hơn, nhưng tôi thấy không có lý do gì cho việc này xảy ra sớm
hơn.”
Newton cho biết: “Không phải để khẳng định đâu là thời điểm cuối
cùng, nhưng để đặt dấu chấm hết cho những phỏng đoán thiếu suy nghĩ của
những con người huyền ảo, những người đã thường xuyên dự đoán ngày tận
thế và bởi vì những hành động như vậy mang những lời tiên tri thiêng
liêng thành mất hiệu nghiệm như những dự đoán sai lệch của họ.
Trong Tân Ước, chúa Giê-su nói rằng chúng ta sẽ không biết chính xác
ngày hoặc giờ trở về của ông (Mathew 24:36). Nhưng thực tế, chúa Giê-su
thừa nhận rằng ngay cả chính Ngài cũng không biết ngày cụ thể thể thêm
rằng chỉ có Đấng Chúa Trời mới biết chính xác thời gian. Nhưng sẽ có một
số chỉ báo, báo hiệu sự trở lại của chúa Giê-su là gần kề. Một trong
những dấu hiệu đó là sự phục hồi của quốc gia Israel. Khoahocthuvi.net
Những điều về Isaac Newton ít được biết đến
Hầu hết chúng ta biết đến Newton qua
những đóng góp vĩ đại của ông cho khoa học.Tuy nhiên có một phần trong
cuộc đời của Newton ít được nhắc đến, đó chính là phần liên quan đến
tính cách và mối liên hệ của nó đến các phát kiến của ông.
Những điều ít biết về Isaac Newton
Hầu hết chúng ta biết đến Newton qua những đóng góp vĩ đại của ông
cho khoa học như 3 định luật Newton về chuyển động, định luật vạn vật
hấp dẫn, cũng như các khám phá của ông về quang học, thiên văn học, và
toán học. Nhờ các định luật của ông mà người ta đã có thể tính toán được
khoảng cách, tốc độ, và trọng lượng thực tế; cũng như nhờ đó ông đã đặt
nền móng cho các phát minh hiện đại từ động cơ hơi nước đến tên lửa vũ
trụ. Tuy nhiên có một phần trong cuộc đời của Newton ít được nhắc
đến, đó chính là phần liên quan đến tính cách và mối liên hệ của nó đến
các phát kiến của ông.
Bức họa NIsaac Newton của William Blake
Tiểu sử của ông gắng liền với một căng bệnh tâm thần có têncảm tính lưỡng cực.
Các nhà văn lãng mạn thường xem bệnh này là "bệnh của thiên tài", một
vài người khác thì xem đó như một yếu tố cho sự sáng tạo. Có ý kiến cho
rằng căn bệnh này khiến một người bình thường trở thành một người cầu
toàn và đam mê mãnh liệt vào một điều gì đó làm tăng năng suất làm việc,
niềm tin vào tài năng của bản thân và nhu cầu tự khẳng định. Nhưng dù
thế nào thì căn bệnh này cũng hủy hoại cuộc đời của người bệnh và gây ra
những đau khổ cho những ai liên hệ với người đó. Những dấu hiệu của căn bệnh này sớm biểu hiện khi Newton còn là
một cậu bé. Ông là một đứa trẻ cô độc, không tham gia chơi cùng những
trẻ cùng trang lứa, thay vào đó ông dành thời gian một mình để làm những
mô hình nhà cửa, máy móc, xe ngựa. Ông là một người rất dễ bị căng
thẳng, tự mãn, và có tâm lý thống trị. Ông thường hướng những cơn giận
dữ về phía gia đình và bạn bè của mình. Có một lần ông còn dọa đốt mẹ và
cha dượng cùng với cả căn nhà. Ông cũng có những lúc ăn năn hối lỗi. Khi đó ông đã liệt kê ra một danh sách dài các tội lỗi của mình, "tấn
công nhiều người", "đấm em gái", "cáu kỉnh với mẹ"…Bản tính nóng nảy đã
khiến ông không được lòng rất nhiều người. Đồng liêu và người hầu của
ông đã rất vui mừng khi biết ông rời nhà đi Cambridge. Tại Cambridge, ông chỉ kết bạn với duy nhất một người. Sổ tay
của Newton trong những năm học đại học chỉ toàn về sự sợ hãi, lo lắng,
buồn bã và những ý định tự sát. Sau khi được chỉ định làm nghiên cứu sinh tại Cambridge, ông
lại tiếp tục có những giai đoạn thất thường và thường quên ăn. Hậu quả
của những sự kiện đó thường khiến ông chán nản phiền muộn và trở nên
nóng giận khi có ai đó chỉ trích cách nghiên cứu của ông. Hậu quả là ông
rút lui khỏi cộng đồng khoa học và chấm dứt nghiên cứu của mình. Dù thành công và được công nhận, Newton luôn sợ các bình phẩm
của đồng nghiệp đối với các nghiên cứu của mình. Ông đã giữ bí mật các
nghiên cứu của mình cho đến khi Leibniz tuyên bố phát hiện ra trước. Và
nếu không được một người bạn- Edmund Halley, một nhà thiên văn, thuyết
phục, ông đã không xuất bản nghiên cứu quan trọng nhất của mình "the
Principia" (Các nguyên lý). Newton luôn tránh né mọi người. Và nếu phải tiếp xúc với họ,
ông hầu như chẳng nói gì. Mối liên hệ của ông với các nhà khoa học khác
thường theo kiểu độc đoán. Ông không nói gì với những ai bất đồng ý kiến
với mình. Và nếu phải tranh cải một vấn đề gì thì đối với Newton, bạn
thù đều như nhau. Trong cuộc đời của mình, có hai người mà Newton yêu quý nhất.
Một là cháu gái của ông, Catherine Barton, một cô gái thông minh và sinh
đẹp, người sau này trở thành quản gia của ông tại London. Vào tháng
4/1696 khi Newton chuyển đến London để làm quản lý cho cục in tiền, cô
đã chuyển đến sống với ông. Người còn lại là Fatio de Duillier, một nhà
toán học người Thụy Sĩ. Chính vì tình cảm mãnh liệt giữa Newton và
Fatio, cùng với sự thật là cả hai đều không kết hôn, nên những người
viết tiểu sử về Newton nghi ngờ rằng đó là một mối quan hệ đồng tính,
tuy nhiên không ai có bằng chứng về điều đó. Có một lý do khác mà người ta cho rằng đó là nguyên do cho sự
độc thân của ông. Đó là về mẹ ông. Cha của Newton chết khi ông vừa mới
sinh. Mẹ ông, Hannah Ayscough tái hôn khi ông lên 3 và ông bị bỏ cho bà
nuôi dưỡng. Ông ghét cha dượng và luôn có vấn đề với mẹ mình. Sau này
ông tuyệt vọng tìm kiếm sự chấp thuận của mẹ để tiếp tục đi học, bà đã
không chấp nhận và muốn ông ở nhà để quản lý gia sản. Để rồi bà sớm nhận
ra ông không có tài năng hay hứng thú gì với khối tài sản khổng lồ của
bà. Newton còn là một người có ác cảm với danh tiếng. Trong tất cả
các bài được xuất bản của mình, ông đã yêu cầu để khuyết danh. Có một
câu chuyện là: Vào năm 1696, Leibniz và một nhà toán học người Thụy
Sĩ-Johann Bernoulli đưa ra một bài toán và thách thức các nhà toán học
châu Âu giải bài toán đó. Có rất nhiều nhà toán học nổi tiếng đã không
thể nào tìm ra được lời giải cho bài toán này. Vào thời điểm này, Newton
đang rất bận rộn với công việc tại cục in tiền. Nhưng sau một ngày mệt
mỏi tại chỗ làm, ông đã chỉ tốn bốn tiếng để giải bài toán và đăng ẩn
danh đáp án vào sáng hôm sau. Khi thấy lời giải cho bài toán, Bernoulli
đã nói ông nhận ra con ‘sư tử qua móng vuốt của nó’. Vào những thời điểm chán nản, Newton đã rơi vào trạng thái
hoang tưởng và thường nói chuyện một mình. Ông bị ám ảnh bởi tôn giáo và
thường đắm mình vào các nghiên cứu về thuật giả kim. Ông đã dành 25 năm
bí mật nghiên cứu thuật giả kim, tìm kiếm đan dược thần bí, và viết
hàng nghìn trang nghiên cứu về chủ đề này. Giống như những người bị cảm tính lưỡng cực khác, Newton dần
hình thành trong ông sự "hoang tưởng vĩ đại". Trong các ghi chép của
mình về tôn giáo và thuật giả kim, ông viết rằng mình được Chúa chọn để
mang sự thật của Người đến với thế gian. Khoahocthuvi.net
Lý thuyết của Einstein chứng minh ma có thật?
Albert Einstein, một trong những nhà
khoa học lớn nhất mọi thời đại đã cung cấp nền tảng khoa học cho sự tồn
tại thực sự của ma quỷ. Vậy, sự thật là thế nào?
Sự
tồn tại của ma quỷ là mối quan tâm của rất nhiều người. Chúng ta dễ
dàng bắt gặp hình tượng ma quỷ trong vô số câu chuyện đời thường, trong
Kinh Thánh, sách, báo, phim ảnh… Tuy nhiên, lời giải thật sự về hiện
tượng ma quỷ hay các linh hồn, cuộc sống sau khi chết, sự báo ứng vẫn
khiến các nhà nghiên cứu phải đau đầu.
Phần lớn những người tin vào sự tồn tại của ma quỷ cho rằng, mỗi cá
thể đều có hai phần linh hồn và thể xác. Khi chết, phần hồn sẽ tách rời
ra ngoài và lưu lạc ở cõi chết. Những linh hồn này có thể tự do đi lại
giữa hai thế giới và có khả năng tác động đến tâm trí người đang sống.
Albert Einstein, một trong những nhà khoa học lớn nhất mọi thời đại
đã cung cấp nền tảng khoa học cho sự tồn tại thực sự của ma quỷ. Ông
chứng minh rằng, mọi năng lượng trong vũ trụ là không đổi và nó cũng
không tự nhiên sinh ra hay mất đi…
Vậy thì điều gì xảy ra khi con người chết đi? Nếu năng lượng của
chúng ta không bị mất đi thì phải được chuyển hóa thành dạng năng lượng
khác. Loại năng lượng mới đó là gì? Liệu chúng ta có thể gọi đó là ma
hay không?
Albert Einstein còn cho rằng, năng lượng không thể được tạo ra hay bị
phá hủy, nó chỉ có thể chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác. Khi chúng
ta còn sống, chúng ta có năng lượng điện trong cơ thể. Điều gì xảy ra
với nguồn năng lượng giúp tim chúng ta đập và phổi hô hấp sau khi con
người chết đi?
Tuy nhiên, câu trả lời cho suy luận của Einstein lại bị các nhà khoa
học bác bỏ bằng một luận điểm rất hợp lý. Sau khi một người chết đi,
năng lượng từ cơ thể người đó tỏa ra môi trường. Năng lượng cơ thể sau
khi con người chết đi được giải phóng dưới dạng nhiệt, và được chuyển
sang những động vật ăn xác người.
Ví dụ, những động vật hoang dã ăn xác người nếu người chết không được
chôn cất, hay những côn trùng, vi khuẩn ăn xác sau khi tử thi được
chôn, và những thực vật hấp thu chúng ta. Nếu con người được hỏa táng,
năng lượng trong cơ thể được giải phóng dưới dạng nhiệt và ánh sáng.
Khi con người ăn thực vật và động vật, chúng ta hấp thu năng lượng
của chúng và chuyển sang năng lượng để cơ thể con người sử dụng. Thức ăn
được chuyển hóa sau khi cơ thể con người tiêu hóa, và các phản ứng hóa
hóa giúp giải phóng năng lượng mà động vật cần để sống, di chuyển và
sinh sản… Năng lượng đó không tồn tại dưới dạng sống, năng lượng ma hay
điện từ, mà tồn tại dưới dạng năng lượng nhiệt và hóa học.
Nhiều người săn ma nói rằng họ có thể phát hiện ra điện trường mà ma
quỷ tạo ra. Thực tế là những quá trình chuyển hóa của con người và những
sinh vật khác cũng tạo ra những dòng điện yếu, nhưng những dòng điện
này mất đi sau khi sinh vật chết. Vì khi nguồn năng lượng bị mất thì
dòng điện cũng ngừng – giống như bóng đèn ngưng sáng sau khi chúng ta
ngắt công tắc điện để tắt nguồn điện cung cấp.
Hầu hết năng lượng mà người chết để lại được tái nhập vào môi trường
sau nhiều năm dưới dạng thức ăn; phần còn lại bị tiêu tan đi ngay sau
khi chúng ta chết, và đây không phải là dạng mà chúng ta có thể phát
hiện ra sau nhiều năm nhờ các thiết bị săn ma phổ biến hiện nay, như máy
phát hiện điện trường (EMF).
Những người săn ma viện dẫn lý thuyết của Einstein thực ra chỉ chứng
tỏ họ hiểu biết chưa sâu sắc về khoa học cơ bản. Ma quỷ có thể thực sự
tồn tại, nhưng bản thân Einstein hay lý thuyết của ông không khẳng định
ma quỷ là có thật. Khoahocthuvi.net
Nguồn: MASK, Đất Việt
Những điều ít biết về "thiên thần trong bóng tối" Leo Szilard
Leo Szilard là một nhà vật lý học vĩ
đại người Mỹ gốc Hungary. Tuy nhiên, những đóng góp của ông cho khoa học
lại ít được người đời biết tới. Có thể nói, Leo Szilard là "thiên thần
trong bóng tối".
Leo
Szilard (1898-1964) được biết đến là người đề xuất phản ứng hạt nhân
dây chuyền năm 1933, đăng ký phát minh ý tưởng về lò phản ứng hạt nhân
với Enrico Fermi và cuối năm 1939 viết một bức thư mà Albert Einstein kí
tên đã dẫn tới dự án Manhattan chế tạo quả bom nguyên tử đầu tiên, tuy
nhiên sau này ông trở thành người tích cực vận động không sử dụng vũ khí
hạt nhân.
Ông cũng là người đầu tiên trình bày ý tưởng về kính hiển vi điện tử,
máy gia tốc tuyến tính và cyclotron. Szilard không tự mình xây dựng tất
cả các thiết bị trên, và cũng không công bố ý tưởng của mình trên các
tạp chí khoa học, cho nên công trạng đối với những phát minh này thường
rơi vào tay người khác.
Do đó, Szilard chưa từng nhận được giải Nobel, nhưng người khác nhận được giải dựa trên hai phát minh của ông.
Được biết, trong thời gian ở đại học, Szilard tham dự các khóa học
của Albert Einstein. Chính Einstein là người hết mực ca ngợi luận án
tiến sĩ của Szilard. Vào cuối những năm 1920, họ cùng nhau làm việc để
phát triển tủ lạnh không có các thành phần chuyển động và cùng chia sẻ
một số bằng sáng chế về lĩnh vực này.
Những tủ lạnh gia đình sử dụng công nghệ này thường được gọi là tủ
lạnh Einstein-Szilard hoặc tủ lạnh Einstein. Chắc nhiều người sẽ thấy
ngạc nhiên về việc Einstein có bằng sáng chế về tủ lạnh. Tuy nhiên,
những tủ lạnh này không bao giờ thành công về mặt thương mại. Trong suốt
cuộc đời của hai người, Einstein và Szilard là những người bạn tốt của
nhau.
Sau khi hiện tượng phân rã hạt nhân được phát hiện năm 1938, Szilard
là một trong những người đầu tiên nhận thức ra chế tạo vũ khí hạt nhân
bây giờ đã là điều khả thi, và rằng phe Đồng minh cần phải chế tạo vũ
khí nguyên tử trước khi phe Phát xít làm được.
Lúc này, Thế chiến II vừa bắt đầu. Để bày tỏ sự bức thiết của việc
sớm chế tạo vũ khí hạt nhân, ông quyết định viết một lá thư cho tổng
thống Franklin D Roosevelt. Nhưng Szilard biết mình không phải là người
đủ nổi tiếng để lá thư được xem xét cẩn trọng. Ông không muốn lá thư bị
thất lạc hoặc bị bỏ qua. Vì vậy, ông đã đề nghị Einstein cùng ký vào lá
thư để gia tăng tầm quan trọng.
Lá thư này sau đó được chuyển tới tổng thống Roosevelt. Đây là nguyên
nhân trực tiếp dẫn tới sự ra đời của dự án Manhattan và bom nguyên tử.
Nhưng thật không may, lá thư này sau đó được đông đảo dư luận coi là "lá thư của Einstein", mặc dù Szilard là người viết, còn Einstein chỉ là người ký. Trong bức ảnh ở trên, lá thư này được gọi là "lá thư Roosevelt". Thực ra, phải gọi nó là "lá thư Szilard-Einstein" mới đúng.
Leo Szilard được mệnh danh là "thiên thần trong bóng tối"
Szilard và Enrico Fermi, người phát minh ra lò hạt nhân, cùng triển
khai dự án Manhattan. Fermi là một nhà vật lý người Ý, đã đạt giải Nobel
vật lý năm 1938. Một trong những nhiệm vụ đầu tiên của họ trong dự án
Manhattan là xây dựng minh chứng thực nghiệm cho phản ứng hạt nhân dây
chuyền bền vững tại Chicago vào năm 1942. Đây chính là lò phản ứng hạt
nhân đầu tiên của thế giới.
Szilard và Niels Bohr, nhà vật lý học người Đan Mạch, cùng tham gia
dự án Manhattan, mường tượng rằng bom hạt nhân sẽ là một phương tiện gìn
giữ hòa bình thế giới, ngay cả trước khi một qủa bom hạt nhân thực sự
được chế tạo.
Khi hai quốc gia đều có bom hạt nhân thì không nước nào có thể xâm
lược được nước kia. Đây là khả năng chỉ bom hạt nhân mới có, và là giải
pháp tốt nhất để ngăn ngừa chiến tranh.
Điều này giải thích vì sao Szilard, Bohr và nhiều nhà khoa học khác
muốn chia sẻ công nghệ bom hạt nhân cho những nước khác, đặc biệt
là Liên Xô. Nhiều nhà khoa học làm việc trong dự án bom
hạt nhân cũng tin rằng đây là vũ khí siêu việt, tạo ra thế thống trị
độc tài nếu chỉ có một quốc gia sở hữu nó.
Nếu công nghệ này không được chia sẻ, Szilard và Bohr tiên đoán chiến
tranh lạnh và chạy đua vũ trang hạt nhân sẽ xảy ra như hệ quả tất yếu.
Lịch sử chứng minh họ đã đúng.
Szilard muốn bom hạt nhân chỉ được sử dụng với mục đích răn đe, ngăn
chặn. Nhưng khi biết quân đội muốn đánh bom Nhật Bản, ông đã tranh cãi
nảy lửa với tướng Leslie Groves, là sếp của Julius Robert Oppenheimer,
chủ nhiệm dự án Manhattan. Oppenheimer lúc đó là giáo sư vật lý đại học
California Bekerley.
Albert Einstein và Leo Szilard (phải) thảo luận về lá thư gửi Tổng thống Mỹ Roosevelt. Ảnh: OSTI
Khi Szilard nổi giận và quát mắng Groves, ông này loại Szilard ra
khỏi dự án Manhattan và muốn bỏ tù Szilard. Ông thoát khỏi án tù vì được
nhiều nhà khoa học đang làm việc trong dự án Manhattan ủng hộ.
Szilard viết một bức thư nữa cho tổng thống Roosevelt, giải thích
không nên đánh bom Nhật Bản. Nhưng tổng thống đã chết vài ngày trước khi
bức thư tới nơi. Sau đó Szilard cố gắng liên lạc với tổng thống Truman,
nhưng thư của ông không bao giờ tới được Truman, hoặc đã tới nhưng bị
bỏ qua. Szilard nhìn biết được thảm cảnh do A-Bom tại Hiroshima và Nagasaki qua truyền thông. Ngày hôm sau, Szilard tuyên bố :“ Việc
sử dụng bom nguyên tử chống Nhật là một lỗi lầm lơn nhất trong lịch sử.
Tôi đã làm tất cả những gì tôi có thể để ngăn cản, nhưng tôi đã thất
bại“.
Sau khi hai quả bom được ném xuống Nhật Bản, Szilard rời bỏ ngành vật
lý hạt nhân và bắt đầu làm việc trong lĩnh vực sinh học phân tử.
Về sau, ông được chẩn đoán là bị ung thư bàng quang và các bác sĩ dự
đoán ông khó qua khỏi. Sử dụng kiến thức về nguyên tố phóng xạ và sinh
học, Szilard đã phát minh ra phương pháp chiếu xạ tế bào ung thư bằng
bức xạ tia gamma từ đồng vị Cobalt 60.
Các bác sĩ cảnh báo ông sẽ chết vì nhiễm xạ, nhưng ngược lại, ông đã
qua khỏi. Szilard tự chữa cho mình khỏi ung thư và bình phục hoàn toàn.
Phương pháp trị liệu bằng phóng xạ này từ đó được sử dụng trong y học để
chữa một số bệnh ung thư.
Mặc dù tên tuổi của Szilard ít được công chúng biết tới, nhưng nhiều
người trong giới lịch sử khoa học và vật lý hạt nhân biết rõ về ông.
Có một miệng núi lửa trên Mặt Trăng mang tên ông, nhưng đó là miệng
núi lửa ở phía xa của mặt trăng, con người không bao giờ nhìn thấy được
từ Trái Đất. Ông cũng được vinh danh trong danh sách những nhà phát minh
của Mỹ năm 1996.
Trong số các đồng nghiệp của Szilard, nhiều người đã đạt giải Nobel
hoặc xứng đáng đạt giải Nobel. Nhiều người trong số họ đánh giá rằng ông
là người lỗi lạc, có tư duy độc lập và sáng tạo xuất chúng. Eugene
Wigner (giải Nobel năm 1963) đã viết rằng, nếu chỉ cần đến các ý tưởng
thì Szilard đã một mình thực hiện toàn bộ dự án Manhattan.
Szilard là nhân vật trung tâm của quả bom nguyên tử đầu tiên. Ông
chính là cha đẻ của bom nguyên tử, và luôn nhìn nhận rằng bom nguyên tử
là vũ khí để gìn giữ hòa bình chứ không phải là vũ khí để hủy diệt. Bom
nguyên tử mang lại cân bằng cho thế giới, là phương tiện để ngăn ngừa
mọi cuộc chiến tranh, như ông mơ từ những ngày đầu thế giới chưa có bom
nguyên tử. Khoahocthuvi. net
Theo VnExpress, Wikipedia, Thanh niên
Cuộc sống dị thường của "bác học điên" Nikola Tesla
"Bác học điên" Nikola Tesla là một nhà
phát minh, nhà vật lý, kỹ sư cơ khí và kỹ sư điện người Serbia. Ông đã
có những ý tưởng khó tin về khoa học như: điều khiển thời tiết, khai
thác năng lượng vũ trụ, điện không dây...
Nikola
Tesla là một nhà phát minh, nhà vật lý, kỹ sư cơ khí và kỹ sư điện tử
được biết đến với nhiều đóng góp mang tính cách mạng trong các lĩnh vực
điện và từ trường trong cuối thế kỷ 19 đầu thế kỉ 20. Vì tính cách lập
dị và những tuyên bố kỳ lạ và khó tin về sự phát triển của khoa học kỹ
thuật, Tesla bị cô lập và bị coi là một nhà bác học điên lúc cuối đời.
Bài viết này sẽ đề cập đến Tesla và những gì khác biệt giúp ông trở thành một nhà khoa học vĩ đại. Nikola Tesla - nhà khoa học đơn thuần
Hầu hết mọi người nhìn nhận Nikola Tesla như một nhà khoa học đơn
thuần, luôn cống hiến hết mình cho khoa học và để lại những di sản đáng
quý.
Ở thời kì đó khi đồng tiền là thứ được đặt lên hàng đầu, hầu hết các
nhà khoa học và kỹ sư đều chú trọng vào vấn đề thương mại của các chương
trình khoa học cũng như các phát minh. Đối với Tesla thì khác, ông luôn
đi trên con đường riêng của mình. Chính vì lý do này mà cuộc đời khoa
học của ông có nhiều thăng hoa nhưng cũng lắm gian khổ, bần hàn. Theo
một số tư liệu thì thậm chí có một số lần ông còn bị lợi dụng bởi những
người đồng nghiệp.
Tesla không giống như Edison, ông không tích cực vận động, quảng bá
hình ảnh mạnh mẽ tới công chúng hay vận dụng báo chí để có được lợi thế.
Ông chỉ đơn thuần đi sâu vào công việc của mình, đấu tranh để vận động
trong công việc nghiên cứu lâu dài. Tesla đã đưa ra được nhiều ý tưởng,
công trình mang tầm vĩ mô và tiềm năng cho tương lai. Ví dụ như khi ông
đăng kí phát minh cuộn dây Tesla sử dụng để truyền và nhận các tín hiệu
vô tuyến mạnh khi được điều chỉnh cho cộng hưởng ở cùng tần số hay vào
khoảng những năm 1900 ông đã viết một bài dài 60 trang cho tạp chí Thế
kỷ với tiêu đề "Vấn đề tăng cường nguồn năng lượng của loài người". Sự
sáng tạo của ông không đủ thực dụng như những đồng nghiệp cùng thời
nhưng lại có sức ảnh hưởng lớn tới các vấn đề trong tương lai.
"Bác học điên" Nikola Tesla
Lối sống đặc biệt và những điều kì lạ của Nikola Tesla
Nikola Tesla là một nhà khoa học bị đánh giá là khá “điên” đối với
nhiều người. Ông mắc một hội chứng đó là chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế
(OCD - một loại rối loạn tâm lý có tính chất mãn tính, dấu hiệu phổ
biến của bệnh đó là ý nghĩ ám ảnh, lo lắng không có lý do chính đáng và
phải thực hiện các hành vi có tính chất ép buộc để giảm bớt căng thẳng,
đây là một dạng trong nhóm bệnh liên quan trực tiếp đến Stress).
Cuộc đời ông có nhiều dấu hiệu đặc biệt liên quan đến con số 3. Người
ta nói rằng Tesla thường đi vòng quanh 3 lần trước khi vào 1 tòa nhà,
và ông luôn yêu cầu 18 (1 con số chia hết cho 3) chiếc khăn ăn để đánh
bóng đồ bạc và cốc nước mỗi tối. Ông sống 1 mình những năm cuối đời
trong căn hộ 3327 (cũng 1 con số chia hết cho 3) trên tầng 33 của khách
sạn New York. Cuối cùng thì ông mất 3 ngày trước sinh nhật lần thứ 87
của mình.
Có những tin đồn rằng Tesla đã từng làm việc suốt 84 giờ không ngủ.
Và những giấc ngủ của ông cũng luôn chập chờn, đứt quãng. Thậm chí còn
có một số người cho rằng ông nảy sinh ra phát minh trong giấc ngủ của
mình. Ngoài sự khác thường trong giấc ngủ thì bình thường ông có lối
sống khá lành mạnh và chú trọng đến bề ngoài. Tesla tin rằng, điều mà
những nhà chuyên môn về chăm sóc sức khỏe ngày nay đều đồng tình, rằng
một thân thể khỏe mạnh sẽ tạo nên một trí óc sáng suốt. Vì thế, ông
thường đi bộ 8 đến 10 cây số mỗi ngày. Mỗi buổi tối trước khi đi ngủ,
ông thường massage các ngón chân vì tin rằng điều đó sẽ kích thích các
tế bào não bộ. Tuy nhiên Tesla lại chọn cho mình một cuộc sống độc thân.
Cuối đời, Tesla đã trả lời phỏng vấn rằng lý do khiến ông không cưới vợ
chính là vì khoa học. Ngoài ra Tesla rất yêu thích động vật mà đặc biệt
là loài chim bồ câu.
5 phát minh viễn tưởng của "bác học điên" Tesla 1. Khai thác tia vũ trụ
Tesla từng nghĩ đến ý tưởng khai thác nguồn năng lượng miễn phí đến
từ những hạt nguyên tử, các loài tia đầy rẫy trong vũ trụ. Đây là ý
tưởng bị coi là khoa học giả tưởng với hầu hết các nhà nghiên cứu vì nó
không thực tế.
Nhưng Tesla lại tin rằng có thể thiết kế một chiếc máy khả thi để
khai thác nguồn năng lượng này và chấm dứt vẫn đề khan hiếm từ Trái Đất.
Các hạt vũ trụ siêu nhỏ này liên tục rơi xuống mặt đất với tốc độ
nhanh hơn ánh sáng và ông nghĩ có thể "bắt" được chúng để chuyển đổi
thành năng lượng sử dụng được. Rất tiếc, phát minh của ông chưa từng
được sản xuất. 2. Điện cảm ứng
Ông bắt tay xây dựng tháp Wardenclyffe ở New York nhưng sau đó bị rút
nguồn tài trợ của JP Morgan vì họ phát hiện ý đồ thật sự của ông chứ
không phải xây dựng tháp viễn thông. Đây là bước cuối cùng trong hệ
thống điện không dây của Tesla và được kết hợp với phát minh máy thu
năng lượng vũ trụ. Nếu thành công, thế giới sẽ được sử dụng điện miễn
phí và không giới hạn chỉ bằng một cái ăng-ten.
Phát minh của Tesla bị chính phủ phản đối kịch liệt vì nó không thu
được lợi nhuận. Tuy nhiên, mói đây các nhà khoa học đã thắp sáng được
bóng đèn bằng điện không dây ở khoảng cách 7 mét. 3. Đốt lạnh
Phát minh này hy vọng sẽ thay thế được xà phòng và nước trong sinh
hoạt. Tesla muốn thay thế điện với nước vì điện là kẻ thù lớn nhất của
vi trùng.
Sự đốt lạnh nghĩa là đốt cháy nhưng không gây bỏng, người ta sẽ đứng
trên một tấm kim loại và được phủ trong nguồn điện luân phiên đến 2,5
triệu volt giống như một ngọn lửa trùm lên cơ thể.
Phương pháp này hiệu quả vì da người có tính dẫn điện. Nó còn có tác
dụng chữa bệnh vì nguồn điện mạnh có thể sinh ra lượng lớn khí ozon khử
trùng có lợi cho sức khỏe.
Vấn đề chi phí và an toàn cho người sử dụng đã biến ý tưởng "đốt lạnh" thành mơ hồ. 4. Teslascope
Nỗ lực lớn nhất mà Nikola Tesla luôn cố gắng là tạo ra thiết bị giao tiếp với người ngoài hành tinh.
Ông tuyên bố có thể giao tiếp với những nền văn minh xa xôi bằng Teslascope nhưng chưa có ai xác minh những gì ông nói.
Sử dụng chiếc kính Teslascope của mình, ông hy vọng chứng minh sự tồn tại của sự sống trên sao Hỏa. 5. Máy phát tia chết chóc
Đây là phát minh nguy hiểm của Tesla trong nỗ lực chống lại chiến
tranh. Death Ray - Tia chết chóc làm việc như một máy gia tốc hạt có khả
năng bắn một chùm tia năng lượng cao tới khoảng cách 250 dặm để làm tan
chảy mọi động cơ và máy bay chiến đấu.
Tesla đã đề xuất ý tưởng cho JP Morgan để xin tài trợ và khẳng định
với dòng năng lượng 80 triệu volt, chùm tia có thể xuyên thủng bất cứ
vật liệu gì.
Lập luận của ông khá thuyết phục nhưng chính phủ Anh và Mỹ đều từ
chối. Nước Nga đã ủng hộ Tesla và cho chạy thử nghiệm phát minh này.
Nhiều nhà lý thuyết âm mưu cho rằng chính hoạt động chế tạo này đã gây
ra vụ nỏ Tunguska (30/7/1908). Khoahocthuvi.net
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét