Thứ Bảy, 25 tháng 7, 2015
ĐỊA NGỤC TRẦN GIAN 31 (Đồ tể Pôn Pốt)
(ĐC sưu tầm trên NET)
Saloth Sar (19 tháng 5, 1925 – 15 tháng 4, 1998), được biết đến dưới cái tên Pol Pot (phiên âm là Pôn Pốt), là người lãnh đạo đảng cộng sản Khmer Đỏ và là thủ tướng Campuchia (tên chính thức Kampuchea Dân chủ dưới quyền ông) từ 1976 đến 1979, nhưng cầm quyền không chính thức từ giữa năm 1975. Trong thời gian cầm quyền Pol Pot đã tạo ra một chế độ cải cách nông nghiệp, nhằm tạo ra một xã hội cộng sản
lý tưởng nhưng đã đàn áp các nhà trí thức. Ngày nay chế độ của ông bị
hầu hết mọi người cho là nguyên nhân dẫn đến cái chết của khoảng 1,7
triệu người Campuchia (khoảng 26% dân số tại thời điểm đó). Ông là người Campuchia gốc Hoa.
Năm 1949, ông được theo học kỹ sư radio ở Paris. Trong thời gian học, ông đã trở thành một người cộng sản và gia nhập Đảng cộng sản Pháp. Năm 1953, ông trở về Campuchia.
Lúc ấy, cuộc kháng chiến do cộng sản lãnh đạo đang diễn ra chống lại sự cai trị của Pháp ở Đông Dương. Trung tâm cuộc kháng chiến ở tại Việt Nam, nhưng cũng có các chi nhánh ở Campuchia và Lào. Saloth Sar gia nhập Việt Minh, nhưng thấy rằng tổ chức này chỉ chú trọng tới Việt Nam chứ không phải Lào hay Campuchia. Năm 1954, Pháp rời Đông Dương, nhưng Việt Minh cũng rút về Bắc Việt Nam, và Vua Norodom Sihanouk kêu gọi tổ chức bầu cử. Sihanouk thoái vị và lập ra một đảng chính trị. Sihanouk hất cẳng những người cộng sản đối lập và chiếm toàn bộ số ghế chính phủ.
Saloth Sar chạy trốn cảnh sát mật của Sihanouk và đã sống trong cảnh trốn tránh bảy năm trời, chiêu mộ binh lính. Tới cuối thập kỷ 1960, Lon Nol là giám đốc tổ chức an ninh nội bộ của Sihanouk tiến hành các hành động chống lại những người cộng sản, lúc ấy được gọi là Đảng Cộng sản Campuchia. Saloth Sar bắt đầu một cuộc khởi nghĩa vũ trang chống lại chính phủ, được Cộng hoà nhân dân Trung Hoa giúp đỡ.
Trước năm 1970, Đảng Cộng sản Campuchia là một tổ chức rất ít được biết đến trong đời sống chính trị Campuchia. Tuy nhiên, năm 1970, vị tướng được phương Tây ủng hộ là Lon Nol lật đổ Sihanouk, bởi vì Sihanouk bị coi là người ủng hộ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Để phản kháng, Sihanouk quay sang ủng hộ phe của Saloth Sar. Cùng năm đó, Tổng thống Mỹ Richard Nixon ra lệnh tấn công quân sự vào Campuchia để tiêu diệt những nơi trú ẩn của Mặt trận Giải phóng gần biên giới Nam Việt Nam. Cùng với sự yêu mến của dân chúng dành cho Sihanouk và cuộc tấn công của Mỹ vào Campuchia, phe Saloth Sar được nhiều người ủng hộ và chỉ trong thời gian ngắn chính phủ Lon Nol chỉ còn kiểm soát được các thành phố.
Khi Hoa Kỳ rời Việt Nam năm 1973, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa rời Campuchia nhưng Khmer Đỏ tiếp tục chiến đấu với sự ủng hộ của họ. Không còn giữ được quyền kiểm soát đất nước nữa, chính phủ Lon Nol nhanh chóng sụp đổ. Ngày 17 tháng 4 năm 1975, Đảng cộng sản Campuchea chiếm Phnom Penh và Lon Nol bỏ chạy sang Mỹ. Chỉ chưa tới một tháng sau, ngày 12 tháng 5 năm 1975, các lực lượng hải quân Khmer Đỏ hoạt động trên vùng lãnh hải Campuchia đã bắt giữ chiếc tàu buôn S.S. Mayaguez của Mỹ, chiếc tàu Mỹ cuối cùng rời khỏi Việt Nam, gây ra Cuộc khủng hoảng Mayaguez. Saloth Sar đổi tên thành Pol Pot vào khoảng thời gian này, rõ ràng là không muốn lộ diện.
Norodom Sihanouk quay trở lại nắm quyền năm 1975, nhưng ông nhanh chóng nhận ra rằng ông đang bị các đồng minh cộng sản cấp tiến, những người không có nhiều quan tâm tới các kế hoạch khôi phục chế độ quân chủ của ông loại bỏ.
Ngoài việc tiêu diệt các nhà sư Phật giáo, chế độ Pol Pot còn bãi bỏ mọi tôn giáo và giản tán các nhóm thiểu số, cấm họ nói những ngôn ngữ của họ cũng như thực hiện các lễ nghi theo phong tục. Điều này có thể được giải thích qua học thuyết Mác-Lênin về tôn giáo. Ph Ăng-ghen đã nói:
Tiến sĩ Gregory H. Stanton, đã viết trong cuốn Những chiếc khăn quàng xanh và những ngôi sao vàng: Sự xếp hạng và biểu tượng hoá trong Cuộc diệt chủng ở Campuchia:
Lãnh đạo Khmer Đỏ khoe khoang trên đài rằng chỉ một hay hai triệu người trong số dân chúng toàn cuộc là cần thiết để xây dựng một xã hội điền địa cộng sản không tưởng. Đối với những người khác, thì theo câu châm ngôn, "sống cũng chẳng được gì; chết cũng chẳng mất gì."
Hàng trăm ngàn người mới đến đã bị xiềng xích, bị buộc phải đào mồ chôn chính mình. Sau đó các binh sĩ Khmer Đỏ đánh họ đến chết bằng những thanh sắt và những cái cuốc hay chôn sống họ. Một chỉ thị của Khmer Đỏ về việc giết chóc đã ra lệnh, "Không được làm phí đạn dược."
Khmer Đỏ cũng xếp hạng dân theo tôn giáo và dân tộc. Theo cuốn sách của Father Ponchaud Campuchia: Năm không:
Sở hữu trở thành công cộng, và giáo dục chỉ được tiến hành ở các trường làng. Chế độ Pol Pot đặc biệt tàn bạo đối với bất đồng chính trị và đối lập. Tra tấn diễn ra khắp mọi nơi. Một số ví dụ, tù nhân bị trói vào khung sắt của giường nằm và bị cắt cổ.
Hàng nghìn chính trị gia và quan chức bị buộc tội hợp tác với chính phủ cũ bị giết hại trong khi Phnom Penh biến thành một thành phố ma với rất nhiều người chết đói, bệnh tật hay bị hành quyết. Mìn là thứ Pol Pot coi là "người lính tuyệt vời" và được rải khắp mọi vùng nông thôn. Danh sách thương vong thời Pol Pot hiện vẫn còn gây tranh cãi. Các nguồn đáng tin cậy ở Tây và Đông cho rằng số người chết dưới thời Khmer Đỏ là 1,6 triệu. Một con số cụ thể, là ba triệu người chết trong giai đoạn 1975 và 1979 được chế độ Phnom Penh là PRK đưa ra. Ponchaud cho rằng 2,3 triệu người—dù con số này có hàng trăm ngàn người chết trước khi CPK nắm quyền;Dự án về Diệt chủng tại Campuchia của Đại học Yale[8] ước tính 1,7 triệu người; Ân xá quốc tế ước tính 1,4 triệu; và Uỷ ban quốc gia Hoa Kỳ, 1,2 triệu. Khieu Samphan và Pol Pot, đưa ra con số 1 triệu và 800.000 nhưng con số này bị cho là thấp hơn thực tế. CIA ước tính rằng có 50.000 đến 100.000 người bị hành quyết.
Năm 1976, Sihanouk bị quản thúc tại gia và Pol Pot lên làm Thủ tướng và người cầm đầu nhà nước chính thức là Khieu Samphan bạn học của Pol Pot.
Tới năm 1978, thảm hoạ nhân đạo ở Campuchia dưới chế độ Pol Pot đã hiển hiện. Những cố gắng của chế độ nhằm thanh trừng những yếu tố Việt Nam ra khỏi Campuchia ngày càng tăng dẫn tới các cuộc tấn công vào lãnh thổ Việt Nam. Cuối năm 1978, để trả đũa những mối đe doạ ở biên giới và tới người dân Việt Nam, Việt Nam tấn công Campuchia lật đổ chế độ Khmer Đỏ.
Quân đội Campuchia dễ dàng bị đánh bại và Pol Pot chạy tới vùng biên giới Thái Lan. Tháng 1 năm 1979, Việt Nam hỗ trợ lập ra một chính phủ mới với người đứng đầu là Heng Samrin, gồm những người Khmer Đỏ đã chạy sang Việt Nam để tránh các cuộc thanh trừng. Pol Pot vẫn giữ được một vùng nhỏ ở phía tây đất nước. Lúc ấy, Trung Quốc, trước kia từng ủng hộ Pol Pot, tấn công Việt Nam, gây ra một cuộc chiến tranh biên giới Việt-Trung ngắn.
Pol Pot tán thành một thứ tập hợp các triết lý cấp tiến, được gọi là Học thuyết "Anka", được sửa đổi theo chủ nghĩa quốc gia Khmer. Muốn xây dựng một chủ nghĩa ruộng đất nguyên thuỷ, Khmer Đỏ tán thành một xã hội ruộng đất hoàn toàn theo đó tất cả các phát minh kỹ thuật hiện đại đều bị cấm ngặt. Pol Pot là kẻ đối lập lại với thuyết chính thống Xô viết. Bởi vì ông là người chống Xô viết nên Cộng hoà nhân dân Trung Hoa coi ông là thích hợp để chống Việt Nam (và vì thế cũng là chống Liên Xô). Các nước phương tây cũng có quan điểm gần tương tự, ủng hộ ngoại giao cho Khmer Đỏ sau khi họ bị người Việt Nam lật đổ năm 1979.
Pol Pot chính thức từ chức năm 1985, nhưng trên thực tế vẫn là lãnh đạo Khmer Đỏ và là lực lượng chủ chốt bên trong liên minh chống Heng Samrin. Những đối thủ của Khmer Đỏ lên án họ thường hành động một cách phi nhân tính bên trong lãnh thổ do liên minh kiểm soát.
Năm 1989, Việt Nam rút quân khỏi Campuchia. Pol Pot từ chối hợp tác với tiến trình hoà bình, và vẫn tiếp tục chiến đấu với chính phủ liên hiệp mới. Khmer Đỏ tiếp tục chiến đấu tới tận năm 1996, khi quân đội của họ dần tan rã. Nhiều lãnh đạo Khmer Đỏ quan trọng bỏ đi.
Pol Pot ra lệnh hành quyết Son Sen, người trong nhiều năm là cánh tay phải và mười một thành viên trong gia đình mình ngày 10 tháng 6 năm 1997 vì họ muốn hoà giải với chính phủ (ba ngày sau tin tức về vụ này mới tới tai cộng đồng quốc tế). Sau đó Pol Pot chạy sang cứ điểm của hắn ở phía bắc, nhưng sau đó bị lãnh đạo quân sự Khmer Đỏ là Ta Mok bắt giữ, và kết án quản thúc tại gia suốt đời. Tháng 4 năm 1998, Ta Mok chạy vào rừng đem theo Pol Pot khi bị chính phủ mới tấn công. Vài ngày sau, ngày 15 tháng 4 năm 1998, Pol Pot chết, nguyên nhân theo thông báo là bệnh tim. Xác Pol Pot được thiêu tại vùng nông thôn Campuchia với khoảng vài chục thành viên Khmer Đỏ tham gia. Theo họ, khi xác bị đốt, tay phải Pol Pot đã nắm lại hình nắm đấm và giơ lên cao.
Pol Pot
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Saloth Sar | |
---|---|
Chức vụ
|
|
Nhiệm kỳ | 13 tháng 5 1976 – 7 tháng 1 1979 |
Tiền nhiệm | Long Boret |
Kế nhiệm | Heng Samrin |
Thông tin chung
|
|
Sinh | 19 tháng 5, 1925 Kampong Thom |
Mất | 15 tháng 4, 1998 (73 tuổi) |
Khởi đầu
Pol Pot (Saloth Sar) sinh tại Prek Sbauv lúc ấy là một phần của Đông Dương thuộc Pháp hiện nay là tỉnh Kompong Thom, Campuchia (từ 1928). Năm 1934 cha mẹ gửi ông tới Phnom Penh để học tại Wat Botum Vaddei, một Tu viện Phật giáo lớn và trở thành một nhà sư. Sau một năm ở đó, ông tới sống với vợ chồng người anh trai và bắt đầu theo học Trường Miche. Trong lần đầu tiên thi bằng sơ cấp tiểu học (Certificat d'Etudes Primaires Complémentaires) năm 1941, ông thi trượt và bị giữ lại trường. Tới tận năm 1943 ông mới đỗ. Ông cũng trượt ở kỳ thi vào trường Lycée Sisowath và vì thế phải theo học trường cấp thấp hơn tên là Collège Preah Sihanouk tại Kampong Cham năm 1943.Trong thời gian ở đó ông vẫn là một học trò tầm thường, nhưng thích chơi bóng đá và roneat (một thứ nhạc cụ tre). Năm 1947 ông vượt qua kỳ thi cuối cùng và được theo học Lycée Sisowath.Năm 1949, ông được theo học kỹ sư radio ở Paris. Trong thời gian học, ông đã trở thành một người cộng sản và gia nhập Đảng cộng sản Pháp. Năm 1953, ông trở về Campuchia.
Lúc ấy, cuộc kháng chiến do cộng sản lãnh đạo đang diễn ra chống lại sự cai trị của Pháp ở Đông Dương. Trung tâm cuộc kháng chiến ở tại Việt Nam, nhưng cũng có các chi nhánh ở Campuchia và Lào. Saloth Sar gia nhập Việt Minh, nhưng thấy rằng tổ chức này chỉ chú trọng tới Việt Nam chứ không phải Lào hay Campuchia. Năm 1954, Pháp rời Đông Dương, nhưng Việt Minh cũng rút về Bắc Việt Nam, và Vua Norodom Sihanouk kêu gọi tổ chức bầu cử. Sihanouk thoái vị và lập ra một đảng chính trị. Sihanouk hất cẳng những người cộng sản đối lập và chiếm toàn bộ số ghế chính phủ.
Saloth Sar chạy trốn cảnh sát mật của Sihanouk và đã sống trong cảnh trốn tránh bảy năm trời, chiêu mộ binh lính. Tới cuối thập kỷ 1960, Lon Nol là giám đốc tổ chức an ninh nội bộ của Sihanouk tiến hành các hành động chống lại những người cộng sản, lúc ấy được gọi là Đảng Cộng sản Campuchia. Saloth Sar bắt đầu một cuộc khởi nghĩa vũ trang chống lại chính phủ, được Cộng hoà nhân dân Trung Hoa giúp đỡ.
Trước năm 1970, Đảng Cộng sản Campuchia là một tổ chức rất ít được biết đến trong đời sống chính trị Campuchia. Tuy nhiên, năm 1970, vị tướng được phương Tây ủng hộ là Lon Nol lật đổ Sihanouk, bởi vì Sihanouk bị coi là người ủng hộ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Để phản kháng, Sihanouk quay sang ủng hộ phe của Saloth Sar. Cùng năm đó, Tổng thống Mỹ Richard Nixon ra lệnh tấn công quân sự vào Campuchia để tiêu diệt những nơi trú ẩn của Mặt trận Giải phóng gần biên giới Nam Việt Nam. Cùng với sự yêu mến của dân chúng dành cho Sihanouk và cuộc tấn công của Mỹ vào Campuchia, phe Saloth Sar được nhiều người ủng hộ và chỉ trong thời gian ngắn chính phủ Lon Nol chỉ còn kiểm soát được các thành phố.
Khi Hoa Kỳ rời Việt Nam năm 1973, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa rời Campuchia nhưng Khmer Đỏ tiếp tục chiến đấu với sự ủng hộ của họ. Không còn giữ được quyền kiểm soát đất nước nữa, chính phủ Lon Nol nhanh chóng sụp đổ. Ngày 17 tháng 4 năm 1975, Đảng cộng sản Campuchea chiếm Phnom Penh và Lon Nol bỏ chạy sang Mỹ. Chỉ chưa tới một tháng sau, ngày 12 tháng 5 năm 1975, các lực lượng hải quân Khmer Đỏ hoạt động trên vùng lãnh hải Campuchia đã bắt giữ chiếc tàu buôn S.S. Mayaguez của Mỹ, chiếc tàu Mỹ cuối cùng rời khỏi Việt Nam, gây ra Cuộc khủng hoảng Mayaguez. Saloth Sar đổi tên thành Pol Pot vào khoảng thời gian này, rõ ràng là không muốn lộ diện.
Norodom Sihanouk quay trở lại nắm quyền năm 1975, nhưng ông nhanh chóng nhận ra rằng ông đang bị các đồng minh cộng sản cấp tiến, những người không có nhiều quan tâm tới các kế hoạch khôi phục chế độ quân chủ của ông loại bỏ.
Campuchia dân chủ
Chế độ Pol Pot đã giết hại từ 1,5 tới 2,3 triệu người trong giai đoạn 1975-1979, trong tổng dân số gần 8 triệu. Mục tiêu của chế độ là các nhà sư Phật giáo, những trí thức có ảnh hưởng phương tây, những người có vẻ là trí thức (như những người đeo kính), những người tàn tật, các dân tộc thiểu số như Lào và Việt Nam.Ngoài việc tiêu diệt các nhà sư Phật giáo, chế độ Pol Pot còn bãi bỏ mọi tôn giáo và giản tán các nhóm thiểu số, cấm họ nói những ngôn ngữ của họ cũng như thực hiện các lễ nghi theo phong tục. Điều này có thể được giải thích qua học thuyết Mác-Lênin về tôn giáo. Ph Ăng-ghen đã nói:
- "Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo – vào đầu óc con người - của những lực lượng bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế".
Tiến sĩ Gregory H. Stanton, đã viết trong cuốn Những chiếc khăn quàng xanh và những ngôi sao vàng: Sự xếp hạng và biểu tượng hoá trong Cuộc diệt chủng ở Campuchia:
- "Những người lãnh đạo chính của chế độ Pol Pot đã đọc lý thuyết Marx của André Gunder Frank rằng các thành phố là những vật kí sinh vào nông thôn, rằng chỉ giá trị lao động là giá trị thật sự, rằng các thành phố chiếm đoạt giá trị thặng dư của những vùng nông thôn. Vì thế, ngay sau khi chiếm được quyền lực, Khmer Đỏ sơ tán toàn bộ các thành phố theo hình thức ép buộc, gồm cả những người không nên đi sơ tán như các bệnh nhân trong bệnh viện và những đứa trẻ mới sinh."
Lãnh đạo Khmer Đỏ khoe khoang trên đài rằng chỉ một hay hai triệu người trong số dân chúng toàn cuộc là cần thiết để xây dựng một xã hội điền địa cộng sản không tưởng. Đối với những người khác, thì theo câu châm ngôn, "sống cũng chẳng được gì; chết cũng chẳng mất gì."
Hàng trăm ngàn người mới đến đã bị xiềng xích, bị buộc phải đào mồ chôn chính mình. Sau đó các binh sĩ Khmer Đỏ đánh họ đến chết bằng những thanh sắt và những cái cuốc hay chôn sống họ. Một chỉ thị của Khmer Đỏ về việc giết chóc đã ra lệnh, "Không được làm phí đạn dược."
Khmer Đỏ cũng xếp hạng dân theo tôn giáo và dân tộc. Theo cuốn sách của Father Ponchaud Campuchia: Năm không:
- bắt đầu từ năm 1972 những chiến binh du kích đã tống toàn bộ dân chúng ở các làng mạc và thị trấn họ chiếm được vào sống trong rừng và thường đốt nhà của họ để họ không còn gì để quay về.
Sở hữu trở thành công cộng, và giáo dục chỉ được tiến hành ở các trường làng. Chế độ Pol Pot đặc biệt tàn bạo đối với bất đồng chính trị và đối lập. Tra tấn diễn ra khắp mọi nơi. Một số ví dụ, tù nhân bị trói vào khung sắt của giường nằm và bị cắt cổ.
Hàng nghìn chính trị gia và quan chức bị buộc tội hợp tác với chính phủ cũ bị giết hại trong khi Phnom Penh biến thành một thành phố ma với rất nhiều người chết đói, bệnh tật hay bị hành quyết. Mìn là thứ Pol Pot coi là "người lính tuyệt vời" và được rải khắp mọi vùng nông thôn. Danh sách thương vong thời Pol Pot hiện vẫn còn gây tranh cãi. Các nguồn đáng tin cậy ở Tây và Đông cho rằng số người chết dưới thời Khmer Đỏ là 1,6 triệu. Một con số cụ thể, là ba triệu người chết trong giai đoạn 1975 và 1979 được chế độ Phnom Penh là PRK đưa ra. Ponchaud cho rằng 2,3 triệu người—dù con số này có hàng trăm ngàn người chết trước khi CPK nắm quyền;Dự án về Diệt chủng tại Campuchia của Đại học Yale[8] ước tính 1,7 triệu người; Ân xá quốc tế ước tính 1,4 triệu; và Uỷ ban quốc gia Hoa Kỳ, 1,2 triệu. Khieu Samphan và Pol Pot, đưa ra con số 1 triệu và 800.000 nhưng con số này bị cho là thấp hơn thực tế. CIA ước tính rằng có 50.000 đến 100.000 người bị hành quyết.
Năm 1976, Sihanouk bị quản thúc tại gia và Pol Pot lên làm Thủ tướng và người cầm đầu nhà nước chính thức là Khieu Samphan bạn học của Pol Pot.
Tới năm 1978, thảm hoạ nhân đạo ở Campuchia dưới chế độ Pol Pot đã hiển hiện. Những cố gắng của chế độ nhằm thanh trừng những yếu tố Việt Nam ra khỏi Campuchia ngày càng tăng dẫn tới các cuộc tấn công vào lãnh thổ Việt Nam. Cuối năm 1978, để trả đũa những mối đe doạ ở biên giới và tới người dân Việt Nam, Việt Nam tấn công Campuchia lật đổ chế độ Khmer Đỏ.
Quân đội Campuchia dễ dàng bị đánh bại và Pol Pot chạy tới vùng biên giới Thái Lan. Tháng 1 năm 1979, Việt Nam hỗ trợ lập ra một chính phủ mới với người đứng đầu là Heng Samrin, gồm những người Khmer Đỏ đã chạy sang Việt Nam để tránh các cuộc thanh trừng. Pol Pot vẫn giữ được một vùng nhỏ ở phía tây đất nước. Lúc ấy, Trung Quốc, trước kia từng ủng hộ Pol Pot, tấn công Việt Nam, gây ra một cuộc chiến tranh biên giới Việt-Trung ngắn.
Pol Pot tán thành một thứ tập hợp các triết lý cấp tiến, được gọi là Học thuyết "Anka", được sửa đổi theo chủ nghĩa quốc gia Khmer. Muốn xây dựng một chủ nghĩa ruộng đất nguyên thuỷ, Khmer Đỏ tán thành một xã hội ruộng đất hoàn toàn theo đó tất cả các phát minh kỹ thuật hiện đại đều bị cấm ngặt. Pol Pot là kẻ đối lập lại với thuyết chính thống Xô viết. Bởi vì ông là người chống Xô viết nên Cộng hoà nhân dân Trung Hoa coi ông là thích hợp để chống Việt Nam (và vì thế cũng là chống Liên Xô). Các nước phương tây cũng có quan điểm gần tương tự, ủng hộ ngoại giao cho Khmer Đỏ sau khi họ bị người Việt Nam lật đổ năm 1979.
Hậu quả
Hoa Kỳ phản đối sự mở rộng ảnh hưởng của Việt Nam ở Đông Dương, và vào giữa thập kỷ 1980 đã giúp đỡ cho những nhóm kháng chiến chống lại chế độ Heng Samrin, cung cấp hỗ trợ 5 triệu USD cho Mặt trận nhân dân giải phóng quốc gia Khmer (KPNLF) của cựu thủ tướng Son Sann và nhóm ủng hộ Sihanouk ANS năm 1985. Dù vậy chế độ Khmer Đỏ của Pol Pot vẫn là nhóm thiện chiến và có khả năng nhất trong số ba nhóm quân sự, và ba nhóm này dù có khác biệt về tư tưởng vẫn thành lập nên Chính phủ Campuchea dân chủ liên hiệp (CGDK) từ ba năm trước. Trung Quốc tiếp tục cung cấp hỗ trợ quân sự lớn cho Khmer Đỏ, và những người chỉ trích chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ buộc tội rằng Hoa Kỳ đã viện trợ trực tiếp cho Khmer Đỏ vì sự công nhận CGDK của họPol Pot chính thức từ chức năm 1985, nhưng trên thực tế vẫn là lãnh đạo Khmer Đỏ và là lực lượng chủ chốt bên trong liên minh chống Heng Samrin. Những đối thủ của Khmer Đỏ lên án họ thường hành động một cách phi nhân tính bên trong lãnh thổ do liên minh kiểm soát.
Năm 1989, Việt Nam rút quân khỏi Campuchia. Pol Pot từ chối hợp tác với tiến trình hoà bình, và vẫn tiếp tục chiến đấu với chính phủ liên hiệp mới. Khmer Đỏ tiếp tục chiến đấu tới tận năm 1996, khi quân đội của họ dần tan rã. Nhiều lãnh đạo Khmer Đỏ quan trọng bỏ đi.
Pol Pot ra lệnh hành quyết Son Sen, người trong nhiều năm là cánh tay phải và mười một thành viên trong gia đình mình ngày 10 tháng 6 năm 1997 vì họ muốn hoà giải với chính phủ (ba ngày sau tin tức về vụ này mới tới tai cộng đồng quốc tế). Sau đó Pol Pot chạy sang cứ điểm của hắn ở phía bắc, nhưng sau đó bị lãnh đạo quân sự Khmer Đỏ là Ta Mok bắt giữ, và kết án quản thúc tại gia suốt đời. Tháng 4 năm 1998, Ta Mok chạy vào rừng đem theo Pol Pot khi bị chính phủ mới tấn công. Vài ngày sau, ngày 15 tháng 4 năm 1998, Pol Pot chết, nguyên nhân theo thông báo là bệnh tim. Xác Pol Pot được thiêu tại vùng nông thôn Campuchia với khoảng vài chục thành viên Khmer Đỏ tham gia. Theo họ, khi xác bị đốt, tay phải Pol Pot đã nắm lại hình nắm đấm và giơ lên cao.
Sở thích
Ngược với bề ngoài giản dị với bộ áo quần bà ba đen, Pol Pot rất sành điệu khi chọn xe hơi với các chiếc xe Limousine Mercedes Benz Stretch đời 1973 cực kỳ sang trọng và quý phái đương thời.[12]Xét xử tội ác diệt chủng
Pol Pot và các đồng sự được xem là đối tượng của Tòa án quốc tế về tội ác diệt chủng. Việc lập tòa án xét xử gặp nhiều khó khăn khách quan và chủ quan, một số thế lực từng ủng hộ Khmer Đỏ lấy làm tiếc về việc làm quá đáng của Pol Pot với người dân Khmer nhưng họ đều đã lớn tuổi và cái chết già sẽ là một sự dễ chịu cho các bên cũng như lịch sử.[cần dẫn nguồn]- Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 04:11 ngày 19 tháng 5 năm 2015.
Nỗi đau ngàn đời sau tội ác thảm sát Pôn Pốt
Tội ác “trời không dung, đất không tha” của bọn diệt chủng Pôn Pốt là nỗi đau, sự ám ảnh, cho đến ngày hôm nay khi cuộc sống đã yên bình nhưng nhiều người vẫn không giám quay trở về mảnh đất Ba Chúc, nơi ghi hằn tội ác ngàn đời của chúng.
Tháng 4/1978, quân Pôn Pốt tấn công vào tám tỉnh biên giới Tây Nam của
Việt Nam, trong đó, xã Ba Chúc (nay là thị trấn Ba Chúc, tỉnh An Giang)
là nơi ghi lại tội ác kinh hoàng của chúng.
Sau 12 ngày đêm chiếm đóng thị trấn Ba Chúc quân Pôn Pốt đã sát hại 3.157 người dân vô tội, hơn 100 dòng tộc bị giết không còn ai. Toàn bộ các công trình công cộng, nhà cửa, trường học, chùa... bị tàn phá, hư hỏng nặng nề.
Ông Nguyễn Văn Tiệm, người dân của Ba Chức cho biết: Khoảng 3 giờ chiều ngày 18/4/1978, bọn Pol Pot tràn vào giữa làng, bao vây chùa Phi Lai. Bất chấp chốn thiền môn, cuộc hành quyết kinh thiên động địa đã diễn ra tại ngôi chùa này. Cuộc bắn phá điên cuồng vào chùa Phi Lai, chỉ trong chớp mắt, đã cướp đi sinh mạng 80 người dân vô tội.
Đây được coi là ngày định mệnh của dân Ba Chức, tại cánh đồng cạnh cây cầu sắt Vĩnh Thông, bọn Pol Pot đã thực hiện cuộc hành quyết nhân dân ta vô cùng man rợ. Chúng áp tải nhân dân từ chùa Tam Bửu ra cầu sắt Vĩnh Thông, bắt bà con lột hết nữ trang, rồi đẩy từng tốp 20-30 người đến gò đất gần cây cầu để giết hại. Cuộc hành quyết vô cùng thảm khốc với 800 đồng bào bị giết chết.
Xé người trẻ con làm đôi đến khi chết
Bọn “ác thú” không còn tính người này còn chơi trò giết hại trẻ em theo kiểu tàn khốc nhất. Chúng tung trẻ em lên cao, rồi giơ lưỡi lê hứng. Thậm chí, chúng còn cầm tay chân xé các em nhỏ đứt làm đôi. Không còn hành động man rợ nào mà chúng không đem ra làm trò tiêu khiển.
Bà Nga kể lại: “Trẻ con thì chúng lấy báng súng đập đầu, rồi tung lên trời cho rớt xuống đá hoặc xé xác đứa trẻ làm hai…”.
Chính bà đã chứng kiến cảnh chúng hành hạ con mình như thế nào. Hai đứa con bị đập đầu, mắt bà đã mờ đi nhưng khi bọn chúng chuẩn bị tung đứa thứ ba lên trời, với bản năng của một người mẹ, bà vùng dậy che chở cho con thì bị bọn chúng đè đầu xuống nền đá và bắn một viên đạn xuyên qua cổ họng bà. Không thể có nỗi đau nào lớn hơn nỗi đau phải nhìn tận mắt những đứa con thân yêu của mình bị giết hại, bà trừng trừng nhìn chúng và bất tỉnh.
Nhưng khi tai nghe được tiếng kêu la, tiếng khóc của con – đứa con trai nhỏ nhất (4 tuổi) và là đứa con thứ tư, đứa cuối cùng đang bị sát hại, bà lại hồi tỉnh. “Bọn chúng tung nó lên trời cho rớt xuống đá để bể đầu mà chết. 3 lần bị tung lên trời nhưng thằng nhỏ không chết, nằm trên phiến đá, máu me chảy đầy mình mẩy, nó thấy tôi thì kêu lớn: Má ơi … má ơi… Nghe tiếng kêu của thằng nhỏ, bọn chúng quay lại rút súng bắt thẳng vào ngực nó và một đứa cầm cục đá đập vào đầu tôi rồi bỏ đi luôn”.
Không chỉ chứng kiến bọn chúng hành hạ, giết chết con mình, bà Tư còn đau xót trước cái chết tức tưởi của người cháu đỏ hỏn của mình. Khi bà Tư đang dỗ dành đứa cháu nhỏ bế trên tay thì một gã Pôn Pốt đi ngang giật phăng đứa nhỏ quăng mạnh lên cao. Đứa bé rơi xuống đất gãy cổ, chết tức khắc. Bà Tư điếng hồn nhìn xác đứa cháu, lòng đau như cắt nhưng không dám hé răng.
Người sống sót kỳ diệu thứ 2 trong cuộc hành quyết 800 người ở cầu sắt Vĩnh Thông là cô bé Nguyễn Thị Ngọc Sương, khi đó 11 tuổi. Bé Sương đã trở thành nhân chứng sống về tội ác diệt chủng kinh hoàng của bọn Pôn pốt.
Thấy cha bị chúng bắn ngã xuống, bé Sương chạy đến ôm xác cha. Bọn ‘ác thú’ lạnh lùng gí súng vào bé Sương và siết cò. Bé Sương không còn biết gì nữa. Sau 2 ngày 2 đêm bất tỉnh, nằm trên xác cha, khi cái nắng như thiêu bỏng rát cơ thể, thì bé Sương tỉnh dậy. Bàn chân cha gác lên ngực bé đã bốc mùi. Nhìn khắp cánh đồng, chỉ thấy những xác chết trương phình. Đàn quạ bâu đen bên những xác chết rỉa thịt.
Lấy sức nhấc chân cha, bé thấy nhói đau ở ngực. Máu thấm áo, đóng thành mảng cứng như bánh đa. Viên đạn trúng đầu, vỡ xương sọ khiến máu thấm bết tóc lại.
Chục ngày trôi qua, ngay cả cơ thể bé Sương cũng đã bốc mùi. Giòi bọ nhung nhúc ở những vết thương hở miệng, thi thoảng lại bò ra quần áo. Bé cảm nhận thấy những con bọ bò trên da mát lạnh.
Đến ngày thứ 11, không còn đủ sức lết ra mương uống nước nữa, bé Sương nằm thiếp đi, nhưng vẫn lờ mờ thấy đàn quạ chao lượn trên đầu. Rồi bé thiếp hẳn đi, thân thể nhẹ bẫng.
Hãm hiếp phụ nữ ngay cạnh xác người rồi giết chết
Phụ nữ, người già và trẻ con sức khỏe yếu, dễ khống chế hơn nên chúng giết sau. Sau mỗi lượt đạn, hết lớp người này đến lớp người khác ngã xuống, máu loang lổ khắp nền đất. Ai có ý định chạy trốn sẽ bị chúng “nã” liên tiếp nhiều phát súng vào người. Bí đường tháo chạy, mọi người rùng mình khiếp hãi ngồi chờ tới lượt... chết.
Phụ nữ có chút nhan sắc bị chúng cưỡng hiếp tại cánh đồng, cạnh các xác chết. Cưỡng hiếp xong, thì cũng giết luôn bằng cây gậy xiên qua người.
Ác man hơn. Sau khi cưỡng hiếp xong, chúng còn giở trò tiêu khiển man rợ: xẻo vú, xiên gậy vào người cho đến chết.
Hiện tại ở Ba Chúc có một khu nhà mồ, được Nhà nước ta công nhận là Di tích căm thù, khu Nhà mồ Ba Chúc là bản cáo trạng, là chứng tích tội ác “trời không dung, đất không tha” của bọn diệt chủng Pôn Pốt.
Lê Vy
Sau 12 ngày đêm chiếm đóng thị trấn Ba Chúc quân Pôn Pốt đã sát hại 3.157 người dân vô tội, hơn 100 dòng tộc bị giết không còn ai. Toàn bộ các công trình công cộng, nhà cửa, trường học, chùa... bị tàn phá, hư hỏng nặng nề.
Ông Nguyễn Văn Tiệm, người dân của Ba Chức cho biết: Khoảng 3 giờ chiều ngày 18/4/1978, bọn Pol Pot tràn vào giữa làng, bao vây chùa Phi Lai. Bất chấp chốn thiền môn, cuộc hành quyết kinh thiên động địa đã diễn ra tại ngôi chùa này. Cuộc bắn phá điên cuồng vào chùa Phi Lai, chỉ trong chớp mắt, đã cướp đi sinh mạng 80 người dân vô tội.
Đây được coi là ngày định mệnh của dân Ba Chức, tại cánh đồng cạnh cây cầu sắt Vĩnh Thông, bọn Pol Pot đã thực hiện cuộc hành quyết nhân dân ta vô cùng man rợ. Chúng áp tải nhân dân từ chùa Tam Bửu ra cầu sắt Vĩnh Thông, bắt bà con lột hết nữ trang, rồi đẩy từng tốp 20-30 người đến gò đất gần cây cầu để giết hại. Cuộc hành quyết vô cùng thảm khốc với 800 đồng bào bị giết chết.
Xé người trẻ con làm đôi đến khi chết
Bọn “ác thú” không còn tính người này còn chơi trò giết hại trẻ em theo kiểu tàn khốc nhất. Chúng tung trẻ em lên cao, rồi giơ lưỡi lê hứng. Thậm chí, chúng còn cầm tay chân xé các em nhỏ đứt làm đôi. Không còn hành động man rợ nào mà chúng không đem ra làm trò tiêu khiển.
Bà Nga kể lại: “Trẻ con thì chúng lấy báng súng đập đầu, rồi tung lên trời cho rớt xuống đá hoặc xé xác đứa trẻ làm hai…”.
Chính bà đã chứng kiến cảnh chúng hành hạ con mình như thế nào. Hai đứa con bị đập đầu, mắt bà đã mờ đi nhưng khi bọn chúng chuẩn bị tung đứa thứ ba lên trời, với bản năng của một người mẹ, bà vùng dậy che chở cho con thì bị bọn chúng đè đầu xuống nền đá và bắn một viên đạn xuyên qua cổ họng bà. Không thể có nỗi đau nào lớn hơn nỗi đau phải nhìn tận mắt những đứa con thân yêu của mình bị giết hại, bà trừng trừng nhìn chúng và bất tỉnh.
Nhưng khi tai nghe được tiếng kêu la, tiếng khóc của con – đứa con trai nhỏ nhất (4 tuổi) và là đứa con thứ tư, đứa cuối cùng đang bị sát hại, bà lại hồi tỉnh. “Bọn chúng tung nó lên trời cho rớt xuống đá để bể đầu mà chết. 3 lần bị tung lên trời nhưng thằng nhỏ không chết, nằm trên phiến đá, máu me chảy đầy mình mẩy, nó thấy tôi thì kêu lớn: Má ơi … má ơi… Nghe tiếng kêu của thằng nhỏ, bọn chúng quay lại rút súng bắt thẳng vào ngực nó và một đứa cầm cục đá đập vào đầu tôi rồi bỏ đi luôn”.
Không chỉ chứng kiến bọn chúng hành hạ, giết chết con mình, bà Tư còn đau xót trước cái chết tức tưởi của người cháu đỏ hỏn của mình. Khi bà Tư đang dỗ dành đứa cháu nhỏ bế trên tay thì một gã Pôn Pốt đi ngang giật phăng đứa nhỏ quăng mạnh lên cao. Đứa bé rơi xuống đất gãy cổ, chết tức khắc. Bà Tư điếng hồn nhìn xác đứa cháu, lòng đau như cắt nhưng không dám hé răng.
Người sống sót kỳ diệu thứ 2 trong cuộc hành quyết 800 người ở cầu sắt Vĩnh Thông là cô bé Nguyễn Thị Ngọc Sương, khi đó 11 tuổi. Bé Sương đã trở thành nhân chứng sống về tội ác diệt chủng kinh hoàng của bọn Pôn pốt.
Thấy cha bị chúng bắn ngã xuống, bé Sương chạy đến ôm xác cha. Bọn ‘ác thú’ lạnh lùng gí súng vào bé Sương và siết cò. Bé Sương không còn biết gì nữa. Sau 2 ngày 2 đêm bất tỉnh, nằm trên xác cha, khi cái nắng như thiêu bỏng rát cơ thể, thì bé Sương tỉnh dậy. Bàn chân cha gác lên ngực bé đã bốc mùi. Nhìn khắp cánh đồng, chỉ thấy những xác chết trương phình. Đàn quạ bâu đen bên những xác chết rỉa thịt.
Lấy sức nhấc chân cha, bé thấy nhói đau ở ngực. Máu thấm áo, đóng thành mảng cứng như bánh đa. Viên đạn trúng đầu, vỡ xương sọ khiến máu thấm bết tóc lại.
Chục ngày trôi qua, ngay cả cơ thể bé Sương cũng đã bốc mùi. Giòi bọ nhung nhúc ở những vết thương hở miệng, thi thoảng lại bò ra quần áo. Bé cảm nhận thấy những con bọ bò trên da mát lạnh.
Đến ngày thứ 11, không còn đủ sức lết ra mương uống nước nữa, bé Sương nằm thiếp đi, nhưng vẫn lờ mờ thấy đàn quạ chao lượn trên đầu. Rồi bé thiếp hẳn đi, thân thể nhẹ bẫng.
Hãm hiếp phụ nữ ngay cạnh xác người rồi giết chết
Phụ nữ, người già và trẻ con sức khỏe yếu, dễ khống chế hơn nên chúng giết sau. Sau mỗi lượt đạn, hết lớp người này đến lớp người khác ngã xuống, máu loang lổ khắp nền đất. Ai có ý định chạy trốn sẽ bị chúng “nã” liên tiếp nhiều phát súng vào người. Bí đường tháo chạy, mọi người rùng mình khiếp hãi ngồi chờ tới lượt... chết.
Phụ nữ có chút nhan sắc bị chúng cưỡng hiếp tại cánh đồng, cạnh các xác chết. Cưỡng hiếp xong, thì cũng giết luôn bằng cây gậy xiên qua người.
Ác man hơn. Sau khi cưỡng hiếp xong, chúng còn giở trò tiêu khiển man rợ: xẻo vú, xiên gậy vào người cho đến chết.
Hiện tại ở Ba Chúc có một khu nhà mồ, được Nhà nước ta công nhận là Di tích căm thù, khu Nhà mồ Ba Chúc là bản cáo trạng, là chứng tích tội ác “trời không dung, đất không tha” của bọn diệt chủng Pôn Pốt.
Lê Vy
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét