ĐỊA LINH NHÂN KIỆT 20 (Trần Thủ Độ)
(ĐC sưu tầm trên NET)
Hoàng hậu Trần Thị Dung được biết đến với tư cách hoàng hậu cuối cùng của nhà Lý, vợ vua Lý Huệ Tông, mẹ nữ hoàng duy nhất trong lịch sử Việt Nam Lý Chiêu Hoàng.
Sau khi vua Lý Huệ Tông mất, bà trở thành vợ thái sư nhà Trần - Trần Thủ Độ.
Việc bà Trần Thị Dung tái giá với thái sư Trần Thủ Độ không chỉ bị đánh giá là thất tiết mà còn được xem là một hành động phản bội nặng nề với triều Lý.
Trước hết, vì vua Lý Huệ Tông đã vô cùng thương yêu hoàng hậu, luôn cố gắng làm mọi điều tốt đẹp để bảo vệ bà.
Hơn nữa, Trần Thủ Độ lại chính là người đã hạ bệ vua Lý Huệ Tông và khiến cho quyền lực nhà Lý rơi vào tay nhà Trần.
Có người nói rằng, ngay từ khi Trần Thị Dung còn ở quê nhà, Trần Thủ Độ đã đem lòng yêu mến.
Để được gần gũi Trần Thị Dung, Trần Thủ Độ thường trốn học đến nhà nàng. Tuy nhiên, Trần Thị Dung khi đó không để ý đến Trần Thủ Độ vì gia đình phản đối.
Phải đến năm 1223, sau khi Trần Thủ Độ được phong làm điện tiền chỉ huy sức, ông mới có cơ hội tiếp cận với Trần Thị Dung, lúc này đã là hoàng hậu của vua Lý Huệ Tông.
Có giai thoại cho rằng, Trần Thủ Độ và Trần Thị Dung đã lén lút qua lại, vừa để thỏa mãn dục vọng vừa tính chuyện chuyển giao quyền lực từ nhà Lý sang nhà Trần.
Sau khi Trần Cảnh (Trần Thái Tông) lên ngôi, Trần Thị Dung chính thức thành vợ của Trần Thủ Độ và được phong là Linh từ quốc mẫu.
Tuy nhiên, đó chưa phải là tất cả chuyện tình ái của bà hoàng nổi tiếng Trần Thị Dung. Bà còn có một người tình nữa là Phùng Tá Chu.
Mối tình của Trần Thị Dung và Phùng Tá Chu không được sử ghi chép lại nhiều và cho đến nay vẫn còn nhiều sự kiện không rõ đúng sai.
Chỉ biết rằng, Phùng Tá Chu chính là mối tình đầu của Trần Thị Dung trước khi bà trở thành hoàng hậu của vua Lý Huệ Tông.
Theo một số sử liệu thì gia đình ông Trần Lý, bố của Trần Thị Dung, vào thời đó là bậc phú gia dịch quốc, hùng trưởng cả một vùng.
Tiểu thư Trần Thị Dung xinh đẹp được nhiều chàng trai có danh vọng theo đuổi.
Nhưng chỉ có duy chỉ Phùng Tá Chu, hơn Dung 2 tuổi, một chàng trai khỏe mạnh, có tư chất thông minh hơn người, văn võ toàn tài, là có thể sánh ngang với người đẹp.
Tá Chu cũng là bạn thân và là em kết nghĩa của Trần Tự Khánh, anh ruột của Trần Thị Dung.
Không những thế, Tá Chu lại được Trần Lý giao cho chỉ huy, rèn luyện đội gia binh họ Trần với mấy trăm tay cung kiếm.
Chính vì vẻ đẹp, sự khỏe mạnh và tư chất hơn người của Phùng Tá Chu mà Trần Thị Dung rất có cảm tình với chàng trai này.
Biết được tình cảm ấy, Tá Chu ngày càng dốc hết tâm sức với họ Trần.
Tuy nhiên, sự kiện hoàng tử Sảm (Lý Huệ Tông) chạy trốn đến thôn Lữ Gia - Hải Ấp rồi say đắm cô gái Trần Thị Dung đã thay đổi hoàn toàn dự tính của đôi trai tài gái sắc.
Mối tình của Trần Thị Dung với Phùng Tá Chu cũng bị cuốn vào trong vòng xoáy triều chính thay đổi giữa hai họ Lý - Trần.
Cuộc đời và chuyện tình của hoàng hậu Trần Thị Dung cho đến nay vẫn còn rất nhiều bí mật.
Dù có nhiều ý kiến trái chiều về cuộc đời cũng như hành động của bà nhưng không ai có thể phủ nhận công lao của bà với đất nước và dân tộc trong cuộc chống ngoại xâm Nguyên Mông.
Trần Thủ Độ
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Trần Thủ Độ (chữ Hán: 陳守度; 1194-1264), là thái sư đầu triều nhà Trần, người có công sáng lập và là người thực tế nắm quyền lãnh đạo đất nước những năm đầu triều Trần, khoảng gần 40 năm, từ 1226 đến 1264. Trần Thủ Độ sinh tại làng Lưu Xá, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình, Việt Nam.
Đánh giá về Trần Thủ Độ, có nhiều luồng dư luận trái chiều, ông là
người có công sáng lập nhà Trần, ý kiến khác lại cho rằng ông là người
đáng chê trách khi giết hại vua nhà Lý.
Năm 1224, ông được phong làm Điện tiền chỉ huy sứ. Vua Lý Huệ Tông và vợ, tức chị họ ông, là Trần Thị Dung có 2 con gái, người em tên là Phật Kim, được phong là công chúa Chiêu Thánh. Ông xin Huệ Tông bỏ ngôi lên làm thái thượng hoàng để nhường ngôi cho Phật Kim, tức là Lý Chiêu Hoàng, khi đó mới lên 7 tuổi.
Sau đó ông đưa con Trần Thừa là Trần Cảnh (sau này là Trần Thái Tông), mới 8 tuổi, vào hầu Lý Chiêu Hoàng, rồi dàn xếp để Trần Cảnh lấy Lý Chiêu Hoàng và nhường ngôi để chuyển ngai vàng sang họ Trần vào cuối năm 1225. Nhà Trần thay nhà Lý do Trần Thủ Độ. Thượng hoàng Huệ Tông đi tu, truất làm sư Huệ Quang.
Nhà Trần thành lập, ông được phong là Thống quốc thái sư, lo toan mọi việc cho triều đình nhà Trần.
Để củng cố quyền lực nhà Trần, ông đánh dẹp các sứ quân Nguyễn Nộn, Đoàn Thượng bên ngoài, sắp xếp quan lại trong triều. Năm 1232, nhân lúc tông thất nhà Lý về quê ngoại ở làng Hoa Lâm (nay là xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, Hà Nội) làm lễ cúng tổ tiên, ông đã làm bẫy sập chôn sống nhiều tôn thất nhà Lý, bắt những người sống sót đổi sang họ Nguyễn và một số họ khác để trừ tuyệt hậu họa.
Vợ Trần Thủ Độ là Linh Từ Quốc Mẫu Trần Thị Dung khi đi ngang qua cung cấm thì bị một người lính chạy cờ ngăn lại. Bà trở về nhà thuật lại và khóc: "...Mụ này là vợ ông mà bị bọn quan khinh nhờn như vậy!" Trần Thủ Độ tức giận sai bắt người lính chạy cờ về trị tội. Nhưng sau khi nghe người này trình bày nguyên do thì ông cười và nói: "Ngươi ở dưới cấp thấp mà biết giữ phép nước, ta còn trách gì nữa", sau đó ban thưởng cho người này.
Lại có người thấy ông có nhiều quyền uy trong triều, vào gặp Thái Tông tâu rằng: "Bệ hạ còn thơ ấu mà Thủ Độ quyền át cả vua, xã tắc rồi sẽ ra sao?". Thái Tông lập tức đưa người ấy đến dinh Thủ Độ, nói hết những lời người ấy nói cho Thủ Độ nghe. Thủ Độ trả lời: "Đúng như những lời hắn nói.". Rồi lấy tiền lụa thưởng cho người ấy.
Vua Thái Tông và hoàng hậu Chiêu Thánh (tức Lý Chiêu Hoàng) lấy nhau đã lâu chưa có con. Năm 1236, Trần Thủ Độ liền ép Thái Tông lấy chị dâu là công chúa Thuận Thiên - vợ Trần Liễu, chính là chị ruột của Chiêu Thánh vì Thuận Thiên đã có mang sẵn với Trần Liễu được 3 tháng. Việc đó khiến Trần Liễu thù hận cất quân nổi loạn và Trần Thái Tông toan bỏ đi tu. Nhưng trước sức ép cứng rắn của Trần Thủ Độ, Thái Tông quay trở lại ngôi vua, còn Trần Liễu sau khi thất bại cũng phải hàng phục và được phong làm An Sinh vương ở Kinh Môn (Hải Dương).
Tuy nhiên, người con của Trần Liễu mà Trần Thủ Độ sắp đặt để làm con Trần Cảnh là Trần Quốc Khang sinh ra năm 1236 cũng không được làm thái tử dù là con trưởng. Năm 1240, Thái Tông sinh được Trần Hoảng, lập làm thái tử và sau trở thành vua Trần Thánh Tông.
Sử chép: "Thái Tông lấy được thiên hạ đều là mưu sức của Thủ Độ cả, cho nên nhà nước phải nhờ cậy, quyền hơn cả vua.".
Bên làng Nại cũng thuộc xã Liên Hiệp là đền thờ Linh từ Quốc mẫu Trần Thị Dung còn được gọi là Bà Chúa Ngừ, tức chính thất của Trần Thủ Độ.
Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 17:10, ngày 10 tháng 7 năm 2014.
Sự nghiệp
Đưa nhà Trần lên ngôi
Từ đầu thế kỷ 13, do có công dẹp loạn Quách Bốc, dòng họ Trần, đứng đầu là Trần Tự Khánh (anh họ của Trần Thủ Độ), đã nắm quyền thao túng chính trường nhà Lý. Sau khi Trần Tự Khánh chết (1223), Trần Thủ Độ thực sự là người thay thế nắm quyền trong triều. Đối với nhà Lý, ông tỏ ra còn cứng rắn hơn Trần Tự Khánh.Năm 1224, ông được phong làm Điện tiền chỉ huy sứ. Vua Lý Huệ Tông và vợ, tức chị họ ông, là Trần Thị Dung có 2 con gái, người em tên là Phật Kim, được phong là công chúa Chiêu Thánh. Ông xin Huệ Tông bỏ ngôi lên làm thái thượng hoàng để nhường ngôi cho Phật Kim, tức là Lý Chiêu Hoàng, khi đó mới lên 7 tuổi.
Sau đó ông đưa con Trần Thừa là Trần Cảnh (sau này là Trần Thái Tông), mới 8 tuổi, vào hầu Lý Chiêu Hoàng, rồi dàn xếp để Trần Cảnh lấy Lý Chiêu Hoàng và nhường ngôi để chuyển ngai vàng sang họ Trần vào cuối năm 1225. Nhà Trần thay nhà Lý do Trần Thủ Độ. Thượng hoàng Huệ Tông đi tu, truất làm sư Huệ Quang.
Nhà Trần thành lập, ông được phong là Thống quốc thái sư, lo toan mọi việc cho triều đình nhà Trần.
Để củng cố quyền lực nhà Trần, ông đánh dẹp các sứ quân Nguyễn Nộn, Đoàn Thượng bên ngoài, sắp xếp quan lại trong triều. Năm 1232, nhân lúc tông thất nhà Lý về quê ngoại ở làng Hoa Lâm (nay là xã Mai Lâm, huyện Đông Anh, Hà Nội) làm lễ cúng tổ tiên, ông đã làm bẫy sập chôn sống nhiều tôn thất nhà Lý, bắt những người sống sót đổi sang họ Nguyễn và một số họ khác để trừ tuyệt hậu họa.
Thái sư nghiêm minh
Trần Thủ Độ làm quan rất nghiêm minh, khi Thiên Cực công chúa có xin riêng cho một người làm Câu Đương, ông nhận lời. Đến lúc xét, ông gọi người ấy lên mà bảo: "ngươi vì có Công chúa xin cho được làm Câu Đương nên không thể so với người khác được, phải chặt một ngón chân để phân biệt." Người ấy sợ quá xin mãi mới được tha. Từ ấy không ai dám đến nhà riêng xin xỏ nữa.Vợ Trần Thủ Độ là Linh Từ Quốc Mẫu Trần Thị Dung khi đi ngang qua cung cấm thì bị một người lính chạy cờ ngăn lại. Bà trở về nhà thuật lại và khóc: "...Mụ này là vợ ông mà bị bọn quan khinh nhờn như vậy!" Trần Thủ Độ tức giận sai bắt người lính chạy cờ về trị tội. Nhưng sau khi nghe người này trình bày nguyên do thì ông cười và nói: "Ngươi ở dưới cấp thấp mà biết giữ phép nước, ta còn trách gì nữa", sau đó ban thưởng cho người này.
Lại có người thấy ông có nhiều quyền uy trong triều, vào gặp Thái Tông tâu rằng: "Bệ hạ còn thơ ấu mà Thủ Độ quyền át cả vua, xã tắc rồi sẽ ra sao?". Thái Tông lập tức đưa người ấy đến dinh Thủ Độ, nói hết những lời người ấy nói cho Thủ Độ nghe. Thủ Độ trả lời: "Đúng như những lời hắn nói.". Rồi lấy tiền lụa thưởng cho người ấy.
Vì cơ nghiệp lâu dài của họ tộc
Để ngăn ngừa sự nhen nhóm nổi lên của các lực lượng chống đối, Trần Thủ Độ đặt ra quy định khoanh vùng các làng ở nông thôn, tạo ra sự ngăn cách từng làng. Các nhà nghiên cứu cho rằng đây chính là nguyên nhân khiến nhiều đời sau các làng mạc Việt Nam chỉ phát triển khép kín trong lũy tre làng, không giao lưu, mở mang được với bên ngoài.Vua Thái Tông và hoàng hậu Chiêu Thánh (tức Lý Chiêu Hoàng) lấy nhau đã lâu chưa có con. Năm 1236, Trần Thủ Độ liền ép Thái Tông lấy chị dâu là công chúa Thuận Thiên - vợ Trần Liễu, chính là chị ruột của Chiêu Thánh vì Thuận Thiên đã có mang sẵn với Trần Liễu được 3 tháng. Việc đó khiến Trần Liễu thù hận cất quân nổi loạn và Trần Thái Tông toan bỏ đi tu. Nhưng trước sức ép cứng rắn của Trần Thủ Độ, Thái Tông quay trở lại ngôi vua, còn Trần Liễu sau khi thất bại cũng phải hàng phục và được phong làm An Sinh vương ở Kinh Môn (Hải Dương).
Tuy nhiên, người con của Trần Liễu mà Trần Thủ Độ sắp đặt để làm con Trần Cảnh là Trần Quốc Khang sinh ra năm 1236 cũng không được làm thái tử dù là con trưởng. Năm 1240, Thái Tông sinh được Trần Hoảng, lập làm thái tử và sau trở thành vua Trần Thánh Tông.
Nhận xét
Trần Thủ Độ tuy không đỗ đạt khoa cử nhưng mưu lược hơn người, không chỉ là quyền thần nhà Lý mà là quyền thần của ngay nhà Trần. Đối với nhân dân Đại Việt nói chung, lúc đó và sau này, việc làm của ông đóng vai trò tích cực. Ông giúp nhà Trần bình phục được giặc giã trong nước, làm cho Đại Việt bấy giờ được cường thịnh trở lại sau hồi suy yếu cuối thời Lý, và đó chính là cơ sở để đủ sức lực và tinh thần chống cự được với Mông Cổ. Nhiều nhà nghiên cứu đã thống nhất rằng sự thay thế của nhà Trần đối với nhà Lý trong thời điểm đó - mà sự thay thế và xây dựng ban đầu không thể không nói tới Trần Thủ Độ - có vai trò quyết định sự tồn vong của Đại Việt trước nguy cơ ào tới của vó ngựa Mông mà Trung Hoa lớn mạnh ở phương Bắc cũng không trụ nổi.Sử chép: "Thái Tông lấy được thiên hạ đều là mưu sức của Thủ Độ cả, cho nên nhà nước phải nhờ cậy, quyền hơn cả vua.".
Câu nói nổi tiếng
“ | Đầu thần chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo! | ” |
—Nói với Vua Trần Thái Tông vào năm 1258, trong khi diễn ra Chiến tranh Nguyên Mông-Đại Việt lần 1
|
Đền thờ và lăng
Lăng Thái sư Trần Thủ Độ nằm ở thôn Ngừ (tên chữ là Phù Ngự) trước là xã Khuông Phù, sau đổi là xã Liên Hiệp, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Lăng nằm chếch về phía bắc Quốc lộ 39B. Kiến trúc lăng xưa bề thế, có nhiều tượng thú tạc bằng đá nhưng phần lớn đã bị tiêu hủy. Riêng pho tượng hổ tiêu biểu của ngành điêu khắc thời Trần đã chuyển về Bảo tàng Lịch sử Việt Nam ở Hà Nội nên lăng mộ không còn gì là nguyên thủy. Năm 2008, nhà nước mới công nhận giá trị lịch sử của ngôi lăng đến năm 2012 công việc xây cất vẫn đang xúc tiến.Bên làng Nại cũng thuộc xã Liên Hiệp là đền thờ Linh từ Quốc mẫu Trần Thị Dung còn được gọi là Bà Chúa Ngừ, tức chính thất của Trần Thủ Độ.
Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 17:10, ngày 10 tháng 7 năm 2014.
Thử lật lại “vụ án” Trần Thủ Độ giết hết tôn thất nhà Lý
Lăng Thái sư Trần Thủ Độ (Thái Bình) - Ảnh: T.L |
(TNTS) Nhà Lý và nhà Trần đều có công lớn đối với lịch sử dân tộc. Tuy nhiên mỗi lần đọc lại sử sách lại thấy “cộm” lên câu chuyện Trần Thủ Độ “giết hết” tôn thất nhà Lý. Hãy thử lật lại “vụ án” này.
Đúng là Đại Việt sử ký toàn thư có ghi:
“(Năm 1226)… Mùa thu, tháng 8, ngày mồng 10, Trần Thủ Độ giết Lý Huệ Tông ở chùa Chân Giáo.
Trước đó, Thượng hoàng nhà Lý có lần ra chơi chợ Đông, dân chúng tranh nhau chạy đến xem, có người thương khóc. Thủ Độ sợ lòng người nhớ vua cũ, sinh biến loạn, cho dời đến ở chùa Chân Giáo; bề ngoài giả vờ là để phụng sự, nhưng bên trong thực ra là để dễ bề giữ chặt.
Có lần Thủ Độ qua trước cửa chùa, thấy Huệ Tông ngồi xổm nhổ cỏ, Thủ Độ nói: “Nhổ cỏ thì phải nhổ cả rễ sâu”.
Huệ Tông đứng dậy, phủi tay nói: “Điều ngươi nói, ta hiểu rồi”.
Đến nơi, sai người bày biện hương hoa đến bảo (Huệ Tông): “Thượng phụ sai thần đến mời”.
Thượng hoàng nhà Lý nói: “Ta tụng kinh xong sẽ tự tử”.
Nói rồi vào buồng ngủ khấn rằng: “Thiên hạ nhà ta đã về tay ngươi, ngươi lại còn giết ta, ngày nay ta chết, đến khi khác con cháu ngươi cũng sẽ bị như thế”.
Bèn thắt cổ tự tử ở vườn sau chùa.
Thủ Độ ra lệnh cho các quan đến khóc, khoét tường thành phía nam làm cửa (người bấy giờ gọi là “cửa khoét”), đưa linh cữu ra phường Yên Hoa để thiêu, chứa xương vào tháp chùa Bảo Quang, tôn miếu hiệu là Huệ Tông…”.
Đoạn sử trên đây có nhiều điều cần bàn.
Thứ nhất, từ hai câu đối đáp giữa Trần Thủ Độ và Lý Huệ Tông, đến Lý Huệ Tông tự tử, để nói Trần Thủ Độ giết Lý Huệ Tông là không thỏa đáng.
Thứ hai, lời khấn của Lý Huệ Tông trong phòng ngủ nếu có thì chỉ có Lý Huệ Tông biết và chắc chắn không đem ra kể lại, thế thì tại sao có người biết mà ghi ? Hơn nữa, Trần Thái Tông là con rể của mình, con cháu họ Trần sau này cũng chính là con cháu của Lý Huệ Tông, sao ông nỡ có lời khấn như vậy được. Cả hai câu đối đáp ở trên cũng có khả năng là sự đồn đại, không thể có xuất xứ từ một tài liệu tin cậy. Cần biết, do bối cảnh Đại Việt sử ký toàn thư được biên soạn vào thời Lê sau khi nhà Minh tiêu hủy gần hết sách vở tài liệu của các đời trước, vua Lê Thánh Tông đã cho phép sử quan tập hợp tất cả truyền thuyết, dã sử và các câu chuyện kể trong dân gian vào sử sách, nên có khả năng những đoạn như thế này được lấy từ những câu chuyện hư cấu.
Đại Việt sử ký toàn thư ghi tiếp:
“(Năm1232)… Trần Thủ Độ giết hết tôn thất nhà Lý.
Khi ấy Thủ Độ chuyên chính lâu ngày, đã giết Huệ Tông, tôn thất nhà Lý đều bùi ngùi thất vọng.
Mùa đông năm ấy, nhân người họ Lý làm lễ tế các vua Lý ở Thái Đường, Hoa Lâm, Thủ Độ ngầm đào hố sâu, làm nhà lên trên, đợi khi mọi người uống rượu say, giật máy chôn sống hết”.
Tiếp theo đoạn này, Đại Việt sử ký toàn thư mở ngoặc: “Xét thời Trần Anh Tông còn có người họ Lý làm tướng, hơn nữa Phan Phu Tiên không ghi lại, việc này chưa chắc đã có thực, hãy tạm chép vào đây”.
Ngày nay một “nghi án” mà không có tài liệu, không có “nhân chứng vật chứng” thì không thể kết tội, không kết tội được thì phải tuyên bố đương sự vô tội. Sử sách cũng vậy thôi, đã ghi một điều thì phải có nguồn dẫn tin cậy. Vấn đề là lâu nay khi giáo dục truyền bá lịch sử người ta thường không lưu ý đến câu mở ngoặc này của Ngô Sỹ Liên. Khi nghiên cứu lịch sử, nhiều nhà nghiên cứu cũng không để ý đến bối cảnh có chỉ dụ của Lê Thánh Tông.
Để làm rõ hơn mối quan hệ kế thừa giữa nhà Trần và nhà Lý, có thể dẫn thêm một nguồn khác. Đó là An Nam chí lược của Lê Tắc. Dù Lê Tắc là người “có vấn đề”, nhưng An Nam chí lược chứa đựng những sử liệu hết sức quý giá, là cuốn sử cổ nhất của nước ta viết từ thời nhà Trần đến nay còn truyền bản.
Đề cập đến Lý Huệ Tông và Trần Thừa (cha Trần Thái Tông), An Nam chí lược viết:
“(Trần) Thừa có công đánh giặc, xin cho con kết hôn với công chúa Chiêu Thánh. Vương (Lý Huệ Tông) bằng lòng”. Đến đoạn nói về Lý Chiêu Hoàng, An Nam chí lược viết: “Lên ngôi được một năm, năm Canh Dần (1230) trao quốc chính cho chồng là Trần Nhật Cảnh”.
Và An Nam chí lược có một đoạn rất quan trọng: “Lúc nhà Lý truyền ngôi được ba đời, Vương Võ Xứng nhà Tống làm sách Đông Đô sử lược Giao Chỉ phụ lục có đoạn : (…) Nay họ Lý truyền ngôi tám đời 220 năm. Huệ Tông không con, truyền nước cho rể. Đến nay họ Lý vẫn được tế tự luôn luôn, kể sự may thì may biết bao nhiêu”.
Dẫn như vậy để thấy nhà Trần đã kế thừa ngôi nhà Lý một cách danh chính ngôn thuận, không có lý do để “nhổ cỏ tận gốc”. Trần Thủ Độ, Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông… đều là những anh hùng có công với nước, đặc biệt có có công trạng lẫy lừng trong cuộc kháng chiến chống đội quân xâm lược mạnh nhất hành tinh lúc bấy giờ là quân Nguyên - Mông. Không thể vì những đoạn sử thiếu căn cứ mà làm tổn hại đến uy danh của tiền nhân.
Đối với Trần Thủ Độ, ông một tay quán xuyến cơ nghiệp nhà Trần trong buổi đầu, dù quyền hành “nghiêng nước” nhưng ông quang minh lỗi lạc, chí công vô tư, dù cho hết lòng bảo vệ nhà Trần ông cũng không thể dùng thủ đoạn lừa dối để giết người bừa bãi như vậy được.
Vả lại, Trần Thái Tông là con rể của Lý Huệ Tông và Trần Thánh Tông chính là cháu ngoại của Lý Huệ Tông. Nhà Trần, kể từ Trần Thánh Tông có một nửa dòng máu của họ Lý. Cho nên nói “Họ Lý vẫn được tế tự luôn luôn” là có cơ sở.
“(Năm 1226)… Mùa thu, tháng 8, ngày mồng 10, Trần Thủ Độ giết Lý Huệ Tông ở chùa Chân Giáo.
Trước đó, Thượng hoàng nhà Lý có lần ra chơi chợ Đông, dân chúng tranh nhau chạy đến xem, có người thương khóc. Thủ Độ sợ lòng người nhớ vua cũ, sinh biến loạn, cho dời đến ở chùa Chân Giáo; bề ngoài giả vờ là để phụng sự, nhưng bên trong thực ra là để dễ bề giữ chặt.
Có lần Thủ Độ qua trước cửa chùa, thấy Huệ Tông ngồi xổm nhổ cỏ, Thủ Độ nói: “Nhổ cỏ thì phải nhổ cả rễ sâu”.
Huệ Tông đứng dậy, phủi tay nói: “Điều ngươi nói, ta hiểu rồi”.
Đến nơi, sai người bày biện hương hoa đến bảo (Huệ Tông): “Thượng phụ sai thần đến mời”.
Thượng hoàng nhà Lý nói: “Ta tụng kinh xong sẽ tự tử”.
Nói rồi vào buồng ngủ khấn rằng: “Thiên hạ nhà ta đã về tay ngươi, ngươi lại còn giết ta, ngày nay ta chết, đến khi khác con cháu ngươi cũng sẽ bị như thế”.
Bèn thắt cổ tự tử ở vườn sau chùa.
Thủ Độ ra lệnh cho các quan đến khóc, khoét tường thành phía nam làm cửa (người bấy giờ gọi là “cửa khoét”), đưa linh cữu ra phường Yên Hoa để thiêu, chứa xương vào tháp chùa Bảo Quang, tôn miếu hiệu là Huệ Tông…”.
Đoạn sử trên đây có nhiều điều cần bàn.
Thứ nhất, từ hai câu đối đáp giữa Trần Thủ Độ và Lý Huệ Tông, đến Lý Huệ Tông tự tử, để nói Trần Thủ Độ giết Lý Huệ Tông là không thỏa đáng.
Thứ hai, lời khấn của Lý Huệ Tông trong phòng ngủ nếu có thì chỉ có Lý Huệ Tông biết và chắc chắn không đem ra kể lại, thế thì tại sao có người biết mà ghi ? Hơn nữa, Trần Thái Tông là con rể của mình, con cháu họ Trần sau này cũng chính là con cháu của Lý Huệ Tông, sao ông nỡ có lời khấn như vậy được. Cả hai câu đối đáp ở trên cũng có khả năng là sự đồn đại, không thể có xuất xứ từ một tài liệu tin cậy. Cần biết, do bối cảnh Đại Việt sử ký toàn thư được biên soạn vào thời Lê sau khi nhà Minh tiêu hủy gần hết sách vở tài liệu của các đời trước, vua Lê Thánh Tông đã cho phép sử quan tập hợp tất cả truyền thuyết, dã sử và các câu chuyện kể trong dân gian vào sử sách, nên có khả năng những đoạn như thế này được lấy từ những câu chuyện hư cấu.
Hổ đá tại lăng Thái sư Trần Thủ Độ (Thái Bình) - Ảnh: T.L |
“(Năm1232)… Trần Thủ Độ giết hết tôn thất nhà Lý.
Khi ấy Thủ Độ chuyên chính lâu ngày, đã giết Huệ Tông, tôn thất nhà Lý đều bùi ngùi thất vọng.
Mùa đông năm ấy, nhân người họ Lý làm lễ tế các vua Lý ở Thái Đường, Hoa Lâm, Thủ Độ ngầm đào hố sâu, làm nhà lên trên, đợi khi mọi người uống rượu say, giật máy chôn sống hết”.
Tiếp theo đoạn này, Đại Việt sử ký toàn thư mở ngoặc: “Xét thời Trần Anh Tông còn có người họ Lý làm tướng, hơn nữa Phan Phu Tiên không ghi lại, việc này chưa chắc đã có thực, hãy tạm chép vào đây”.
Ngày nay một “nghi án” mà không có tài liệu, không có “nhân chứng vật chứng” thì không thể kết tội, không kết tội được thì phải tuyên bố đương sự vô tội. Sử sách cũng vậy thôi, đã ghi một điều thì phải có nguồn dẫn tin cậy. Vấn đề là lâu nay khi giáo dục truyền bá lịch sử người ta thường không lưu ý đến câu mở ngoặc này của Ngô Sỹ Liên. Khi nghiên cứu lịch sử, nhiều nhà nghiên cứu cũng không để ý đến bối cảnh có chỉ dụ của Lê Thánh Tông.
Để làm rõ hơn mối quan hệ kế thừa giữa nhà Trần và nhà Lý, có thể dẫn thêm một nguồn khác. Đó là An Nam chí lược của Lê Tắc. Dù Lê Tắc là người “có vấn đề”, nhưng An Nam chí lược chứa đựng những sử liệu hết sức quý giá, là cuốn sử cổ nhất của nước ta viết từ thời nhà Trần đến nay còn truyền bản.
Đề cập đến Lý Huệ Tông và Trần Thừa (cha Trần Thái Tông), An Nam chí lược viết:
“(Trần) Thừa có công đánh giặc, xin cho con kết hôn với công chúa Chiêu Thánh. Vương (Lý Huệ Tông) bằng lòng”. Đến đoạn nói về Lý Chiêu Hoàng, An Nam chí lược viết: “Lên ngôi được một năm, năm Canh Dần (1230) trao quốc chính cho chồng là Trần Nhật Cảnh”.
Và An Nam chí lược có một đoạn rất quan trọng: “Lúc nhà Lý truyền ngôi được ba đời, Vương Võ Xứng nhà Tống làm sách Đông Đô sử lược Giao Chỉ phụ lục có đoạn : (…) Nay họ Lý truyền ngôi tám đời 220 năm. Huệ Tông không con, truyền nước cho rể. Đến nay họ Lý vẫn được tế tự luôn luôn, kể sự may thì may biết bao nhiêu”.
Dẫn như vậy để thấy nhà Trần đã kế thừa ngôi nhà Lý một cách danh chính ngôn thuận, không có lý do để “nhổ cỏ tận gốc”. Trần Thủ Độ, Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông… đều là những anh hùng có công với nước, đặc biệt có có công trạng lẫy lừng trong cuộc kháng chiến chống đội quân xâm lược mạnh nhất hành tinh lúc bấy giờ là quân Nguyên - Mông. Không thể vì những đoạn sử thiếu căn cứ mà làm tổn hại đến uy danh của tiền nhân.
Đối với Trần Thủ Độ, ông một tay quán xuyến cơ nghiệp nhà Trần trong buổi đầu, dù quyền hành “nghiêng nước” nhưng ông quang minh lỗi lạc, chí công vô tư, dù cho hết lòng bảo vệ nhà Trần ông cũng không thể dùng thủ đoạn lừa dối để giết người bừa bãi như vậy được.
Vả lại, Trần Thái Tông là con rể của Lý Huệ Tông và Trần Thánh Tông chính là cháu ngoại của Lý Huệ Tông. Nhà Trần, kể từ Trần Thánh Tông có một nửa dòng máu của họ Lý. Cho nên nói “Họ Lý vẫn được tế tự luôn luôn” là có cơ sở.
Hoàng Hải Vân
Trần Thủ Độ và khoảng trống phía sau cuộc đời ông
Sách "Đại Việt sử ký toàn thư" chép: "Giáp Tý năm thứ 7 (1264),
mùa xuân, tháng giêng, Thái sư Trần Thủ Độ qua đời (71 tuổi), truy tặng
Thượng phụ Thái sư Trung vũ Đại vương. Thủ Độ tuy không có học vấn nhưng
tài lược hơn người, làm quan triều Lý được mọi người suy tôn. Thái Tôn
lấy được thiên hạ đều là mưu sức của Thủ Độ cả, cho nên nhà nước phải
nhờ cậy, quyền hơn cả vua".
Nhà bia - lăng mộ thái sư Trần Thủ Độ, làng Ngừ, xã Liên Hiệp, Hưng Hà, Thái Bình. Ảnh: Quang Thọ
|
Thông
qua các tài liệu chính sử và văn bia, thần phả, thần tích, chúng ta
được biết, Trần Thủ Độ là người có bản lĩnh chính trị và cá tính khác
thường. Ông xử lý việc gì cũng thẳng thắn, quả quyết theo ý chí của
mình, ít khi để cho tình cảm sai khiến. Ông là người luôn đặt lợi ích
của dòng họ Đông A lên trên.
Có
thể nói ông là nhân vật trụ cột, là người thực hiện thành công ý tưởng
đoạt ngôi vua triều Lý về tay triều Trần mà Trần Tự Khánh trước đây
thường ấp ủ nhưng không thực hiện được vì ông mất sớm (1223). Trần Thủ
Độ là một đại công thần, là người sáng lập và trực tiếp lãnh đạo công
cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước những năm đầu thời kỳ nhà Trần. Trong
suốt 40 năm (1226-1264), cuộc đời và sự nghiệp của ông gắn liền với
nghiệp đế của họ Trần, với quá trình khôi phục và phát triển kinh tế xã
hội Việt Nam từ đống tro tàn của triều Lý vào thế kỷ XIII.
Chiến
công oanh liệt đánh bại quân xâm lược Mông Cổ lần thứ nhất (1258) và
câu nói bất hủ, khảng khái, thể hiện ý chí của người anh hùng: "Đầu thần
chưa rơi, xin bệ hạ đừng lo" của ông, đã để lại trong dân tộc Việt Nam
một hình tượng Trần Thủ Độ anh hùng, bất khuất, tài năng, quả cảm. Đánh
giá về ông xưa nay vẫn có nhiều cách nhìn nhận khác nhau; nhưng không
thể phủ nhận được công lao to lớn của ông với Vương triều Trần và nhà
nước Đại Việt.
Trần
Thủ Độ sinh năm Giáp Dần (1194), ở Lưu Gia, Tinh Cương, hương Đa Cương
(nay là làng Lưu Xá, xã Canh Tân, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình).
Theo
nguồn tư liệu điền dã của cụ Dương Quảng Châu, thì thân sinh của Trần
Thủ Độ là Trần Hoằng Nghị. Đáng tiếc các tư liệu điền dã đó chưa đủ cơ
sở để chứng minh một cách khoa học, chính xác về thân phụ của Trần Thủ
Độ. Chính sử đều ghi ông mồ côi cha mẹ từ bé và ở với bác là Trần Lý chứ
không ghi rõ bố mẹ ông là ai.
Thực tế khảo sát điền dã ở làng Mẹo (Thái Phương, Hưng Hà), chúng ta đã thấy rõ
đền đình ở đây thờ lục vị thần hoàng (những vị thần hoàng này không có
ai là họ Trần như một số người lầm tưởng); và cũng không thờ vị nào tên
là Trần Hoằng Nghị được tôn là thần hoàng hay phúc thần của làng. Nhân
vật được thờ ở làng Xuân La và Phương La là "Trang Nghị Đại Vương". Đây
là nhân vật mà một số nhà nghiên cứu cho rằng đó là Trần Hoằng Nghị,
nhưng theo thần phả, thần tích ở đình làng Xuân La thì Trang Nghị Đại
Vương là một Thiên thần (con thần sấm) được vua Đường Trung Quốc và Cao
Biền phong cho chứ không phải là một nhân thần.
Thực
tế, nếu một người có công với dân với nước như Trần Hoằng Nghị: Khai
hoang, lập ấp, dạy dân làm nghề, mở chợ, buôn bán và lại là thân sinh
của Trần Thủ Độ (?) thì chắc hẳn triều đình phong kiến ngày xưa chí ít
cũng phải phong cho ông làm một chức gì đó hoặc tôn ông làm thần hoàng
và thờ ở đình làng. Ngay cả Trần Thủ Độ cũng không được thờ ở làng ứng
Mão xa xưa thì quả là điều vô lý vì nó trái với đạo lý uống nước nhớ
nguồn của người Việt Nam.
Từ đó có thể nói rằng, đền Nhà Ông và Trần Hoằng Nghị không liên quan
đến Trần Thủ Độ. Ông sinh ra ở Lưu Xá chứ không phải ở làng Mẹo như một
số người lầm tưởng.
"Đại
Việt sử ký toàn thư" từng ghi nhận thời Trần có hai người được vua cho
lập sinh từ thờ khi vẫn còn sống là Trần Thủ Độ và Trần Quốc Tuấn. Vậy
chẳng lẽ bố Trần Thủ Độ lại không được thờ phụng hoặc được truy phong,
chí ít cũng là thần hoàng của một làng (?). Trong khi đó ở Hưng Hà hiện
có năm làng thờ Trần Thủ Độ nhưng không phải là ở làng Mẹo mà là ở tổng
Tống Xuyên xưa (nay gồm các xã Thái Hưng, Liên Hiệp thuộc Hưng Hà, Thái
Bình).
Điều
đó rõ ràng không phải nhà Trần quên Trần Hoằng Nghị mà thực ra không có
nhân vật này. Thực tế chỉ có vị Thiên thần Trang Nghị Đại Vương được
thờ ở xã Thái Phương mà thôi. Vì thế, không thể nói khi chưa đủ chứng cứ
để khẳng định có nhân vật Trần Hoằng Nghị và càng không thể nói ông là
thân sinh của Trần Thủ Độ được. Giáo sư Vũ Khiêu trong tổng kết cuộc hội
thảo về Trần Hoằng Nghị tại Hà Nội năm 2007, khi đánh giá về việc ai là
thân sinh của Trần Thủ Độ, đã nói: "Đây là vấn đề tồn nghi cần phải tìm
hiểu các tư liệu ở các địa phương trong nước và ngoài nước. Tiến hành
hội thảo nhiều lần mới đi đến kết luận chính xác được".
Thực
tế bố mẹ Trần Thủ Độ là ai, đến nay qua bảy, tám trăm năm vẫn chưa ai
giải đáp được (kể cả Lê Văn Hưu - sử gia thời Trần; Phan Phu Tiên và Ngô
Sĩ Liên - thời Lê).
Chính
sử khẳng định Trần Lý ở Lưu Gia trang và chính sử cũng cho biết Trần Lý
nuôi Trần Thủ Độ từ nhỏ. Từ đó có thể nói Trần Thủ Độ sinh ra ở đất Lưu
Xá (Hưng Hà, Thái Bình). Cuộc đời Trần Thủ Độ là cuộc đời của một con
người tài ba, thao lược cả về chính trị, quân sự và kinh tế... Có thể
nói sau khi Trần Tự Khánh chết (1223), Trần Thủ Độ là người kế tục một
cách xuất sắc sự nghiệp toan tính giành ngôi từ vương triều nhà Lý về
tay nhà Trần. Đỉnh cao của toan tính này là "màn kịch" nhường ngôi vua
của Lý Chiêu Hoàng cho chồng là Trần Cảnh vào cuối thời Lý (1225); mở
đầu cho giai đoạn nắm quyền cai trị nước Đại Việt của Vương triều Trần.
Khi còn sống, Trần Thủ Độ là người nắm thực quyền và là linh hồn của
Vương triều Trần. Sử chép: "Thủ Độ tuy làm Tể tướng, nhưng mọi việc
không việc gì là không để ý tới". Thực tế khi Trần Cảnh bị ép lấy chị
dâu (vợ Trần Liễu), bỏ lên Yên Tử nhưng cuối cùng cũng phải quay về kinh
thành trước sự cứng rắn và khôn khéo của Trần Thủ Độ: "Vua ở đâu thì
kinh thành ở đó". Với tư tưởng có dựng được nước mạnh mới giữ được nước
bền, Trần Thủ Độ tiến hành từng bước đổi mới đất nước Đại Việt.
Trần
Thủ Độ là người không chỉ có mưu lược trong việc dựng nước và giữ nước
mà ông còn là một người có đầu óc tổ chức, phát triển kinh tế đất nước.
Các tư liệu lịch sử về việc đổi mới kinh tế thời Trần (khi Trần Thủ Độ
còn sống) không có nhiều, nhưng qua các tài liệu hiện còn lưu giữ, ta có
thể thấy rằng khi thực sự nắm quyền điều hành đất nước, Trần Thủ Độ và
Vương triều Trần đã nhận thấy sự yếu kém về kinh tế của nhà nước Đại
Việt dưới thời Lý Huệ Tông. Vì thế ông đã tiến hành cho phép chuyển công
hữu thành tư hữu.
Cụ
thể, "Đại Việt sử ký toàn thư" ghi: "Tháng Sáu bán ruộng công, mỗi diện
5 quan tiền (diện tương đương với mẫu bây giờ), cho phép nhân dân mua
làm ruộng tư".
Sau
khi đã nắm thực quyền trong tay, Thủ Độ đã tấu với vua không chỉ bán
ruộng cho những người nông dân không tấc đất cắm dùi mà ông còn củng cố
đê điều, đắp đê ngăn nước mặn, đào sông khai thông đường thuỷ, bộ. "Đại
Việt sử ký toàn thư" viết: "Tháng 3, sai các lộ đắp đê giữ nước sông,
gọi là đê Đỉnh Nhĩ (Quai Bạc), đắp suốt từ đầu nguồn đến bờ biển để giữ
nước lụt khỏi tràn ngập. Đặt chức Hà đê Chánh phó sứ để trông coi. Chỗ
đắp thì đo xem đắp mất bao nhiêu ruộng đất của dân, theo giá trả lại
tiền. Đắp đê Đỉnh Nhĩ bắt đầu từ đấy"(1). Qua các tài liệu lịch sử triều
đại thì các công trình thuỷ lợi dẫn nước, tiêu nước sản xuất nông
nghiệp ở thời nhà Trần phát triển rất cao.
Trần
Thủ Độ huy động không chỉ sức dân mà còn lệnh cho binh lính phải tham
gia làm thuỷ lợi. "Đại Việt sử ký toàn thư" ghi: "Tân Mão năm thứ 7
(1231), (Tống Thiên Định năm thứ 4), mùa xuân, tháng giêng, sai Nội Minh
Tự là Nguyễn Bang Cốc (hoạn quan) trông coi các binh hữu đường phủ, đào
vét các kênh trầm và hào từ phủ Thanh Hoá đến cõi Nam Diễn Châu"(2).
Được sự tấu trình của Trần Độ, Trần Cảnh xuống chiếu cho cả nước Đại
Việt dùng tiền "tinh bạch", mỗi tiền là 60 đồng (tiền nộp cho nhà nước
là tiền thượng cung thì mỗi tiền là 70 đồng).
"Năm
Bính Thìn (1236), mùa xuân, tháng giêng, định lệ cấp lương bổng cho các
quan văn võ trong triều và các quan ở cung điện, lăng miếu, chia tiền
thuế ban cấp theo thứ bậc" (Sđd). Không những thế, Trần Thủ Độ còn bỏ
tiền đánh thuế bằng hiện vật, thu thuế bằng tiền mặt. Một sự đổi mới
chính sách thuế theo sở hữu ruộng đất cũng là một việc làm hơn hẳn các
triều đại trước. Nó thể hiện tư duy phát triển kinh tế rất cao của Trần
Thủ Độ: "Nhân dân có ruộng đất thì nộp tiền thóc, người không có ruộng
đất thì miễn cả... (riêng tô vẫn thu bằng thóc)" (Sđd).
"Tháng
Chín, xuống chiếu cho các ty xét án được lấy tiền bình bạc" hoặc "duyệt
sổ đinh" để thu thuế và cũng là để điều động xây dựng kinh tế, thành
lập ra 61 phường ở kinh thành để quản lý việc giao thương. Rõ ràng, dưới
sự quản lý và chỉ đạo của Trần Thủ Độ, kinh tế Đại Việt đã phát triển
mạnh mẽ, việc buôn bán giao lưu bằng đường bộ, đường sông rất thuận lợi,
không những thế ông còn chú trọng mở các thương cảng ven sông, biển để
đẩy mạnh việc giao lưu buôn bán hàng hoá trong nước và ngoài nước.
Không
chỉ chú trọng phát triển kinh tế mà ông còn chủ trương phát triển Nho
học. Trần Thủ Độ tâu vua cho xây Quốc Tử Giám, đẩy mạnh việc thi cử để
tuyển chọn hiền tài cho đất nước: "Tháng 2 (1232), thi thái học sinh. Đỗ
đệ nhất giáp là Trương Hanh, Lưu Diễm, đệ nhị giáp là Đặng Diễn, Trịnh
Phẫu, đệ tam giáp là Trần Chu Phổ"(1).
"Đinh
Mùi năm thứ 16 (1247), mùa xuân, tháng 2, mở khoa thi chọn học trò. Cho
Nguyễn Hiền đỗ trạng nguyên, Lê Văn Hưu đỗ bảng nhãn, Đặng Ma La đỗ
thám hoa, lấy đỗ thái học sinh 48 người"(2). Chính nhờ sự chú ý và coi
trọng (hiền tài là nguyên khí quốc gia) nên thời nhà Trần đã xuất hiện
rất nhiều hiền tài phục vụ cho công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Đặc
biệt là trong ba cuộc chiến tranh chống Nguyên Mông, các nhân sĩ, tướng
lĩnh Đại Việt, tuổi trẻ tài cao đã góp phần làm vẻ vang cho lịch sử dân
tộc như: Nguyễn Hiền, Đặng Ma La, Trương Hán Siêu, Phạm Ngũ Lão, Trần
Nhật Duật, Trần Quang Khải v.v...
Trần Thủ Độ còn hoạch định: "Chép công việc của quốc triều làm Bộ Quốc triều thường lễ, 10 quyển" (Sđd).
Ông
đề ra khung bậc, thể thức của luật hình. Tạo đường cho Bộ Quốc triều
hình luật ra đời để tiện việc nắm tình hình đất nước, quản lý chặt chẽ
hơn. Trần Thủ Độ chia nước thành 12 lộ, mỗi lộ đặt chức chánh phủ xứ.
Trần Thủ Độ còn duyệt định hộ khẩu trong cả nước, đặt các chức quan đại
tư xã cùng các chức xã chính, xã quan. Không chỉ là người đề ra các tư
tưởng pháp trị, mà ông còn để lại cho đời sau tấm gương về tính thẳng
thắn, nghiêm túc trong việc thi hành luật. Đối với ông, luật pháp không
phân biệt giàu nghèo, sang hèn, bất cứ ai, dù là đối tượng nào, ở vị trí
nào đi chăng nữa, nếu vi phạm lụât pháp đều bị xử lý theo đúng quốc
luật đã ban hành. Nặng hay nhẹ tuỳ thuộc vào hành vi vi phạm luật của
người đó.
"Đại
Việt sử ký toàn thư" chép: "Thủ Độ tuy không có học vấn nhưng tài lược
hơn người, làm quan triều Lý được mọi người suy tôn. Thái Tôn lấy được
thiên hạ đều là mưu sức của Trần Thủ Độ cả, cho nên nhà nước phải nhờ
cậy"... (tr.478).
Tài
năng nhìn người của ông được thể hiện ở việc "khi vua Trần Thái tông
muốn cho người anh của Thủ Độ là An Quốc làm tướng, Thủ Độ nói: "An Quốc
là anh thần, nếu là người hiền thì thần xin nghỉ việc, nếu cho là thần
hiền hơn An Quốc thì không nên cử An Quốc"... vua bèn thôi"(1). Phải
chăng, Trần Thủ Độ đã sớm nhìn ra tính cách hai mặt của anh trai mình?
Sự thật sau này An Quốc đã cùng với vợ (tương truyền là một công chúa
nhà Lý) nổi loạn chống lại nhà Trần ở Quắc Hương, Vụ Bản, Nam
Định. Cuộc nổi loạn đã bị chính Trần Thủ Độ dẹp tan. Phải khẳng định
rằng ông là người có bản lĩnh chính trị và cá tính đặc biệt trong lịch
sử Việt Nam. Ông làm việc gì cũng dứt khoát, xử lý quyết đoán theo ý chí của mình, ít để cho người khác sai khiến.
Ông
luôn là người đi tiên phong trong cuộc đấu tranh giành ngôi vua từ tay
nhà Lý chuyển sang nhà Trần cũng như các cuộc chiến đấu chống lại các
phe phái như Đoàn Thượng, Nguyễn Nộn hoặc trong kháng chiến chống Nguyên
Mông. Đối với ông hoặc là chết cả họ hoặc là được cả thiên hạ! Bất cứ
việc gì có lợi cho dòng tộc nhà Trần thì ông đều quyết làm bằng được.
Ông là người đa mưu túc trí, khi đánh dẹp các thế lực chống đối, ông
thấy thắng thì đánh, thấy cần hòa hoãn để đợi thời cơ thì tiến hành đàm
phán. Thậm chí gả cả em gái vua cho Nguyễn Nộn hoặc phong vương cho
Nguyễn Nộn và Đoàn Thượng (Đông Hải Đại Vương). Không những thế, ông còn
bày mưu chia rẽ, gây mâu thuẫn để Nguyễn Nộn tiến đánh và giết Đoàn
Thượng, nhằm mượn tay người để giảm bớt lực lượng chống đối mình.
Khi
giặc Nguyên xâm lược Đại việt lần thứ nhất, ông là linh hồn của cuộc
kháng chiến với câu nói bất hủ "Đầu tôi chưa rơi xuống đất thì bệ hạ
không cần lo ngại gì cả"(1). Ông là người ngồi trong màn trướng mà định
việc thiên hạ; chỉ đạo các tướng Lê Tần, Trần Khánh Dư, Trần Phó Duyệt
và kể cả Trần Hưng Đạo (lúc đó còn trẻ) ra trận. Ngay chính cả vua Trần
Thái Tông, thái tử Trần Hoảng... cũng đều vác gươm đánh giặc. Trần Thủ
Độ là nhà chính trị, kinh tế, quân sự toàn tài.
Ông
một lòng trung thành với triều đình nhà Trần. Đối với ông, Vương triều
Trần là tất cả. Ngay cả việc ép vợ Trần Liễu gả cho Trần Cảnh ông cũng
dám làm. Không phải ông không nghĩ tới việc Trần Liễu có hay không có
động thái phản ứng; mà điều ông quan tâm nhất là tương lai của ngai vàng
triều đình do ông tốn bao công sức xây dựng lên, liệu có người nối dõi
hay không. Ông quả là một công thần hiếm có của Vương triều Trần - Đại
Việt và là một người anh hùng của dân tộc Việt Nam ở thế kỷ thứ XIII.
Sử
chép: "Giáp Tý năm thứ 7 (1264), Tống cảnh định năm thứ 5, Nguyên chí
nguyên năm thứ 1, mùa xuân, tháng giêng, Thái sư Trần Thủ Độ chết (tuổi
71), truy tặng Thượng phụ Thái sư Trung Vũ Đại Vương".
Đặng Hùng
Hội viên Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam
Chuyện tình đế vương: Tình sử hoàng hậu Trần Thị Dung
Thứ bảy, 02/11/2013 21:20
Là hoàng hậu của nhà Lý nhưng lại tái giá với thái sư Trần Thủ Độ, cuộc đời bà có nhiều thị phi.Hoàng hậu Trần Thị Dung được biết đến với tư cách hoàng hậu cuối cùng của nhà Lý, vợ vua Lý Huệ Tông, mẹ nữ hoàng duy nhất trong lịch sử Việt Nam Lý Chiêu Hoàng.
Sau khi vua Lý Huệ Tông mất, bà trở thành vợ thái sư nhà Trần - Trần Thủ Độ.
Việc bà Trần Thị Dung tái giá với thái sư Trần Thủ Độ không chỉ bị đánh giá là thất tiết mà còn được xem là một hành động phản bội nặng nề với triều Lý.
Trước hết, vì vua Lý Huệ Tông đã vô cùng thương yêu hoàng hậu, luôn cố gắng làm mọi điều tốt đẹp để bảo vệ bà.
Hơn nữa, Trần Thủ Độ lại chính là người đã hạ bệ vua Lý Huệ Tông và khiến cho quyền lực nhà Lý rơi vào tay nhà Trần.
Ảnh minh họa
Cuộc tình giữa hoàng hậu Trần Thị Dung với thái sư Trần Thủ Độ được lưu truyền và ghi chép với nhiều giai thoại khác nhau.Có người nói rằng, ngay từ khi Trần Thị Dung còn ở quê nhà, Trần Thủ Độ đã đem lòng yêu mến.
Để được gần gũi Trần Thị Dung, Trần Thủ Độ thường trốn học đến nhà nàng. Tuy nhiên, Trần Thị Dung khi đó không để ý đến Trần Thủ Độ vì gia đình phản đối.
Phải đến năm 1223, sau khi Trần Thủ Độ được phong làm điện tiền chỉ huy sức, ông mới có cơ hội tiếp cận với Trần Thị Dung, lúc này đã là hoàng hậu của vua Lý Huệ Tông.
Có giai thoại cho rằng, Trần Thủ Độ và Trần Thị Dung đã lén lút qua lại, vừa để thỏa mãn dục vọng vừa tính chuyện chuyển giao quyền lực từ nhà Lý sang nhà Trần.
Sau khi Trần Cảnh (Trần Thái Tông) lên ngôi, Trần Thị Dung chính thức thành vợ của Trần Thủ Độ và được phong là Linh từ quốc mẫu.
Tuy nhiên, đó chưa phải là tất cả chuyện tình ái của bà hoàng nổi tiếng Trần Thị Dung. Bà còn có một người tình nữa là Phùng Tá Chu.
Mối tình của Trần Thị Dung và Phùng Tá Chu không được sử ghi chép lại nhiều và cho đến nay vẫn còn nhiều sự kiện không rõ đúng sai.
Chỉ biết rằng, Phùng Tá Chu chính là mối tình đầu của Trần Thị Dung trước khi bà trở thành hoàng hậu của vua Lý Huệ Tông.
Theo một số sử liệu thì gia đình ông Trần Lý, bố của Trần Thị Dung, vào thời đó là bậc phú gia dịch quốc, hùng trưởng cả một vùng.
Tiểu thư Trần Thị Dung xinh đẹp được nhiều chàng trai có danh vọng theo đuổi.
Nhưng chỉ có duy chỉ Phùng Tá Chu, hơn Dung 2 tuổi, một chàng trai khỏe mạnh, có tư chất thông minh hơn người, văn võ toàn tài, là có thể sánh ngang với người đẹp.
Tá Chu cũng là bạn thân và là em kết nghĩa của Trần Tự Khánh, anh ruột của Trần Thị Dung.
Không những thế, Tá Chu lại được Trần Lý giao cho chỉ huy, rèn luyện đội gia binh họ Trần với mấy trăm tay cung kiếm.
Chính vì vẻ đẹp, sự khỏe mạnh và tư chất hơn người của Phùng Tá Chu mà Trần Thị Dung rất có cảm tình với chàng trai này.
Biết được tình cảm ấy, Tá Chu ngày càng dốc hết tâm sức với họ Trần.
Tuy nhiên, sự kiện hoàng tử Sảm (Lý Huệ Tông) chạy trốn đến thôn Lữ Gia - Hải Ấp rồi say đắm cô gái Trần Thị Dung đã thay đổi hoàn toàn dự tính của đôi trai tài gái sắc.
Mối tình của Trần Thị Dung với Phùng Tá Chu cũng bị cuốn vào trong vòng xoáy triều chính thay đổi giữa hai họ Lý - Trần.
Cuộc đời và chuyện tình của hoàng hậu Trần Thị Dung cho đến nay vẫn còn rất nhiều bí mật.
Dù có nhiều ý kiến trái chiều về cuộc đời cũng như hành động của bà nhưng không ai có thể phủ nhận công lao của bà với đất nước và dân tộc trong cuộc chống ngoại xâm Nguyên Mông.
Đền thờ Thái sư Trần Thủ Độ
Từ thị trấn Neo, huyện lỵ Yên Dũng xuôi theo Tỉnh lộ 284 về phía Bắc Giang chừng 1,5km rồi rẽ phải qua cây cầu nhỏ bắc qua kênh Nham Sơn chừng 100m ta sẽ gặp một ngôi đền có dáng vẻ cổ kính nằm ở trung tâm thôn Minh Phượng, đó là đền thờ thái sư Trần Thủ Độ.
Từ thị trấn Neo, huyện lỵ Yên Dũng xuôi theo Tỉnh lộ 284 về phía Bắc Giang chừng 1,5km rồi rẽ phải qua cây cầu nhỏ bắc qua kênh Nham Sơn chừng 100m ta sẽ gặp một ngôi đền có dáng vẻ cổ kính nằm ở trung tâm thôn Minh Phượng, đó là đền thờ thái sư Trần Thủ Độ.
Di
tích có tên chữ là "Thanh Nhân Từ" (đền Thanh Nhàn). Tương truyền rằng
đền được khởi dựng từ thời Trần, trải qua các triều đại phong kiến sau
này, nhiều lần di tích được trùng tu tôn tạo cho nên dấu tích ngôi đền
có sự pha tạp phong cách kiến trúc của các triều đại ấy. Thời kỳ kháng
chiến chống thực dân Pháp, đây là khu rừng thanh vắng, nơi bộ đội và du
kích địa phương trú quân, tập kết vũ khí, đạn dược - Đồng thời là cơ sở
tiếp nhận cứu chữa thương binh từ vùng Bắc Ninh chuyển tới - Chính vì
thế mà giặc Pháp đã nhiều lần bắn phá khu vực này và di tích đền Thanh
Nhàn cũng bị bom đạn phá hoại. Năm 1997, nhân dân thôn Minh Phượng
(thuộc xã Nham Sơn, huyện Yên Dũng) đã phục hồi tôn tạo trên nền đất cũ.
Công
trình kiến trúc và cảnh quan mới được khôi phục nhưng trong di tích vẫn
bảo tồn được một số cổ vật quý như: Lò thiêu hương bằng gang được đúc
năm 1465, cây hương đá, bia đá, cột đá khắc câu đối... Qua những di vật
trên ta phần nào hiểu thêm về lịch sử của di tích này.
Tuy
có tên gọi là: Đền thờ Thái sư Trần Thủ Độ, nhưng thực tế di tích phụng
thờ cả Thái sư và vợ ông là Linh từ Quốc mẫu Trần Thị Dung. Thần tích
đền Thanh Nhàn kể rằng: Thời bấy giờ vùng Nham Biền còn rậm rạp, nơi đây
là thang mộc ấp của Linh từ quốc mẫu Trần Thị Dung, đồng thời là hậu cứ
quan trọng của nhà Trần nên nhân chuyến đi kinh lý miền Đông Bắc, Trần
Thủ Độ đã dừng chân ở Hương Cảo (khu vực thôn Minh Phượng ngày nay).
Nhân dân trong vùng biết Thái sư đến bèn mang lễ vật tạ và tâu rằng:
Trong khe núi có một con rắn khổng lồ thường xuống làng xung quanh bắt
người ăn thịt, rất mong được Thái sư ra tay trừ loài ác thú (nơi đó nay
vẫn gọi là Khe Rắn).
Nghe
xong Thái sư vỗ về nhân dân rồi lập kế nhử rắn ra khỏi hang mà giết
chết, mang lại sự bình an cho nhân dân quanh vùng. Sau đó ông lại dạy
dân chế tạo ra cạm bẫy để trừ bắt các loài thú phá hoại mùa màng. Tưởng
nhớ công lao của Thái sư, sau khi ông qua đời nhân dân trong vùng đã lập
đền tại nơi ông hạ trại nghỉ ngơi và lấy tên là: Thanh Nhàn từ.
Lại
nói khi Thái sư đi kiểm tra quân sĩ trên sông Như Nguyệt, người đứng
trên gò đất cao tại bến đò Cáu (Đông Hương) nhân dân Kẻ Cáu dâng lễ vật
và kể về nỗi niềm khổ cực túng thiếu vì mất mùa, lũ lụt, hạn hán. Thái
sư xem xét địa thế núi sông rồi hướng dẫn nhân dân đắp đê quai vạc để
ngăn lũ, lại khơi mương lấy nước khi nắng hạn. Dân trong vùng thoát khỏi
thiên tai, đời sống no đủ đã lập miếu, đình tôn thờ vợ chồng Thái sư
làm thành hoàng.
Như
vậy, không riêng đền Thanh Nhàn và cả đình, miếu Kẻ Cáu (Đông Hương)
cũng thờ phụng ông như một vị phúc thần - vị thần có công trừ rắn độc,
thú dữ, lại giúp dân đắp đê ngăn lũ lụt đem lại cuộc sống ấm no, thanh
bình cho cả một vùng rộng lớn.
Hàng
năm vào ngày mồng 8 tháng Tư và mồng 1 tháng Mười một âm lịch dân làng
làm lễ đền Thanh Nhàn. Tế lễ xong thì thụ lộc, hôm sau mở cửa đình rồi
tổ chức hội. Hội xưa có hát chầu văn, đấu vật, cờ người và không thể
thiếu hai trò chơi truyền thống là: Múa bông đánh bệt tượng trưng cho
người nhử rắn ra mà trừ diệt; Bơi chải tượng trưng cho tướng sĩ luyện
tập thuỷ chiến trên sông Như Nguyệt.
Đền
Thanh Nhàn là công trình tín ngưỡng văn hoá, nơi tưởng niệm danh nhân
lịch sử của dân tộc là Thái sư Trần Thủ Độ và Linh Từ quốc mẫu Trần Thị
Dung. Ở phần nội tự vẫn còn lưu giữ 3 đôi câu đối cổ khắc trên đá phản
ánh ngợi ca công lao đức độ của Thái sư với dân tộc nói chung quê hương
Minh Phượng nói riêng:
- Thúc phụ Đông A triều, vạn lý sơn hà đáp khí
Thái sư Nam Việt quốc, thiên thu thảo mộc tri danh
(Xứng bậc cha chú vương triều Trần, vạn dặm núi sông dậy khí)
Làm Thái sư nước Việt, nghìn thu cây cỏ lưu danh)
- Đức trạch nguy nga sơn hữu sắc
Anh uy hạo đãng thuỷ vô ba
(Ân đức sáng trong ngời sông núi
Uy danh cao rộng cảm nước non)
- Cảm ứng linh thông hồn mạc trắc
Tảo trừ bảo hộ diệu vô cùng
(Cảm ứng linh thông hồn bất diệt
Giúp dân trừ ác để đức sáng ngàn thu).
Nhận xét
Đăng nhận xét