Claude Choules qua đời trong một nhà dưỡng lão ở thành
phố Perth. Những năm cuối đời, người cựu chiến binh này bị mất hẳn thị
lực và thính lực, nhưng ông vẫn minh mẫn và từ chối không dùng thuốc.
Chứng nhân cuối cùng của một bi kịch lớn
Hai năm trước khi chết, do con cái nài nỉ, ông đã dự
một khóa viết văn sau đó ghi lại các hồi ức của mình rồi xuất bản thành
cuốn sách có tên Người cuối cùng trong những người cuối. Vậy
nên, ở tuổi 108 khi đó, ông có thể là tác giả xuất bản sách nhiều tuổi
nhất thế giới. Ông cũng là người cao tuổi nhất Australia, cao tuổi thứ 7
trên thế giới, là người cao tuổi thứ 3 trong các cựu binh được xác định
còn sống, lính thủy cuối cùng của Đại chiến Thế giới I và là chiến
binh cuối cùng tham gia cả hai Thế chiến. Ông cũng trở thành người già
nhất còn sống sinh ra ở Vương quốc Anh sau khi người giữ kỷ lục này là
Stanley Lucas qua đời vào ngày 21-6-2010.
Trong cuốn Người cuối cùng trong những người cuối,
ông kể rằng ông gia nhập lực lượng hải quân Anh khi mới 14 tuổi 1
tháng. Để lọt vào quân đội, ông đã phải khai thêm đôi tuổi. Yêu mến tính
tình hài hước vui nhộn của Choules, các đồng đội đặt cho cậu biệt danh
"Chuckles" – Thằng cười.
Đại chiến thế giới lần thứ nhất, ông tham gia trên một chiến hạm.
Bản chất của cuộc chiến tranh này được nữ nhà văn Mỹ Barbara Tachman mô tả đầy màu sắc trong tác phẩm nổi tiếng Những khẩu đại bác tháng Tám:
"Các cuộc tiến công giống như một cuộc loạn đả khi mà hàng trăm, hàng
nghìn người chết chỉ để chiếm chục mét lãnh thổ của địch quân, chuyển từ
con hào này sang con hào khác cũng đầy bùn lầy nhão nhoét, xúc phạm đến
lương tri và phẩm giá con người". Chiến tranh cuối cùng cũng kết thúc,
hậu quả để lại của nó là sự thất vọng. "Thế hệ chúng ta không còn lại
những ngôn từ vĩ đại" - Nhà văn Anh David Lawrence nói với những người
cùng thời. Còn nhà thơ Bỉ Emile Verhaeren thì nói với nỗi đau về "con
người mà tôi đã từng...".
Claude Choules may mắn không phải dầm mình trong các lô
cốt ngập nước ở Ypern (Bỉ), không phải trải qua địa ngục của cối xay
thịt Verdun (Pháp), không phải lao lên trong những đợt tấn công vô vọng
ở Passchendaele (Bỉ). Con đường chiến tranh của ông khiêm tốn hơn.
Thoạt tiên, năm 1915, ở tuổi 15, ông phục vụ trên con tàu huấn luyện HMS
Circe tại căn cứ ở Plymouth. Năm 1917, khi mới 16 tuổi, ông chuyển qua
tàu chiến đấu HMS Revenge. Đây là tàu mang cờ hiệu của Hải đoàn tác
chiến thứ nhất hạm đội Anh đóng ở Scapa Flow, khu vực quần đảo Orkney
Islands, ngoài khơi Scotland.
Trên con tàu HMS Revenge, Claude Choules được chứng
kiến Hải quân Đức đầu hàng ở Firth of Forth, bên bờ đông Scotland,
vào ngày 21-11-1918. Việc đầu hàng diễn ra 10 ngày sau khi các bên đình
chiến. “Không còn dấu hiệu chiến đấu nào từ phía người Đức khi họ đi ra
từ sương mù vào lúc khoảng 10 giờ sáng” – Ông viết như vậy về sự kiện
này trong cuốn hồi ký. Ông cũng nhớ lại rằng lá cờ Đức đã bị kéo mạnh
xuống đúng vào lúc hoàng hôn. “Cái ngày trọng yếu nhất của biên niên sử
hải chiến đã kết thúc như thế - ông viết - Cả một hạm đội đã đầu hàng mà
không bắn một phát súng”.
Sinh nhật lần thứ 108 của Claude Choules. |
Và ông cũng có mặt tại Scapa Flow gần Orkney Islands
ngày 21-6-1919, khi người Đức đánh đắm tất cả các chiến hạm của họ thuộc
Hạm đội biển lớn, hạm đội tác chiến chủ yếu trong Thế chiến I của họ,
để chúng không lọt vào tay người Anh.
Ông không phải là anh hùng của cuộc Đại chiến gần 100
năm trước, nhưng ông là người cuối cùng đã chiến đấu trong nó sống cho
đến thời đại chúng ta và điều đó ở một mức độ nhất định sẽ lưu danh ông
vào sử sách. Ông không phải là người đầu tiên và người giỏi nhất, nhưng
ông là người cuối cùng. Với sự ra đi của ông, một dấu chấm nhất định
được đặt vào lịch sử của Thế chiến thứ nhất. Trong việc này có một nỗi
buồn nào đó không tránh khỏi. Giờ không còn ai có thể kể trực tiếp cho
chúng ta bi kịch lớn lao đó của loài người nữa. Và chúng ta, hậu duệ
của họ chỉ có thể mang đi tiếp những gì họ đã kể...
Người ghét chiến tranh
Năm 1926, Claude Choules cùng 11 lính thủy kỳ cựu khác
của Hải quân Anh sang làm công tác hướng dẫn ở Xưởng tàu chiến
Flinders, gần Melbourne, Australia.
Choules và thế hệ của ông đã hy sinh cho
nền tự do của chúng ta và chúng ta sẽ không bao giờ quên", Thủ tướng
Australia Julia Gillard
|
Trong Chiến tranh Thế giới lần thứ hai, ông là sĩ quan
chuyên về thủy lôi ở cảng Fremantle (bang Western Australia), sau đó phụ
trách việc tiêu thổ ở bờ Tây đảo Australia.
Nhiệm vụ của ông là phá hủy các cảng và kho xăng dầu ở
Fremantle trong trường hợp quân Nhật đánh chiếm. Choules cũng chịu trách
nhiệm xử lý các loại thủy lôi của Đức dạt vào bờ trong thời gian chiến
tranh tại vùng Esperance, West Australia.
Sau chiến tranh, Choules tiếp tục ở lại Hải quân Hoàng
gia Australia một thời gian rồi chuyển qua lực lượng cảnh sát biển. Đến
năm 1956 thì ông về hưu ở tuổi 55, sau 41 năm phục vụ. Sau đó ông làm
nghề đánh bắt tôm. Ông mua một con tàu và trong vòng 10 năm tiếp theo
đánh bắt hải sản dọc bờ biển Western Australia.
Nói về việc trở thành người Australia, Choules khẳng
định khi ông trả lời phỏng vấn đài phát thanh Australia năm 2009: “Tôi
từng chẳng là gì, nhưng tôi đã trở thành một ai đó ở nơi đây”. Ông cũng
nói: “Tôi đã có một khởi đầu nghèo khó nhưng kết thúc mỹ mãn”.
Choules tránh xa các cuộc kỷ niệm ngày chiến tranh kết
thúc, từ chối mọi lời mời đi diễu hành trong đoàn danh dự, vì ông phản
đối mọi sự ca ngợi chiến tranh, mặc dù nó đã làm ông nổi tiếng toàn thế
giới với tư cách là một trong những người cuối cùng còn sống. Trong cuốn
sách của mình ông viết rằng ông luôn ghét chiến tranh, nhưng coi việc
tham gia vào nó như một phương thức kiếm sống.
Người đàn ông tốt của gia đình
Claude Choules sinh ra ở Pershore, Worcestershire, Anh,
ngày 3-3-1901, sáu tuần sau khi Nữ hoàng Victoria qua đời, và là một
trong 7 người con của gia đình vợ chồng Harry và Madeline. Cuộc đời ông
không suôn sẻ. Mới 5 tuổi, người ta nói với ông rằng mẹ ông đã chết,
nhưng sự thật đau lòng hơn: bà bỏ nhà ra đi theo nghiệp diễn viên. Các
con ông nói rằng điều này đã gây tổn thương cho ông suốt đời. Có phải vì
thế không mà ông rất yêu thương gia đình của mình? Ông Adrian, con trai
của Choules nói: “Bố tôi chăm lo rất tốt cho gia đình và những người
trong gia đình đáp lại bằng việc chăm sóc ông rất chu đáo. Ông biết là
chỉ có thể nhận khi đã cho và ông là một hình mẫu đẹp về chuyện đó. Ông
ấy là một người đàn ông tuyệt vời của gia đình”.
"Gia đình là thứ quan trọng nhất trong cuộc đời bố tôi”
–con gái của ông, bà Anne Pow, cho biết trong một cuộc trả lời phỏng
vấn năm 2010. Bà Daphne Choules-Edinger, 84 tuổi, một con gái khác của
ông, thì nói: "Tất cả chúng tôi đều yêu thương ông. Thật buồn khi
nghĩ rằng không còn ông ở đây nữa. Nhưng mọi chuyện đã được sắp đặt như
vậy".
Claude Choules và vợ ông là bà Ethel gặp nhau trong
ngày đầu tiên trong hải trình 6 tuần đưa họ từ Anh sang Australia trên
một con tàu khách. “Tôi nghĩ đó là tình yêu từ cái nhìn đầu tiên, ít
nhất là từ phía tôi.” – ông viết trong cuốn hồi ký. Mười tháng sau, ngày
3-12-1926, họ cưới và sau đó đến sống ở bang Western Australia. Họ sống
với nhau 76 năm, cho đến khi bà mất năm 2003 ở tuổi 98. Họ có với nhau 3
con, 11 cháu, 22 chắt và 3 chút. Bà Anne Pow kể rằng cho đến những ngày
cuối bên nhau, bố và mẹ người hơn, người kém trăm tuổi của bà vẫn thích
ngồi cạnh nhau, tay nắm tay.
Ngay cả khi đã hơn 100 tuổi, ông vẫn khoẻ mạnh và có
cuộc sống tích cực. Ông vẫn khiêu vũ cho đến vài năm trước đây. Ông bơi
thường xuyên ở các bãi biển nước ấm và chỉ dừng khi tuổi đã quá 100. Ông
thích bắt đầu một ngày bằng một bát cháo yến mạch đặc và thỉnh thoảng
tự thưởng cho mình những thức mà ông ưa thích như nước xoài và sô cô la.
Ông tiết lộ bí quyết sống lâu của mình là “tiếp tục thở”. Đôi khi ông
ghi công sự sống lâu của mình cho dầu gan cá. Nhưng các con của ông nói
rằng trong thâm tâm, ông tin tình yêu của gia đình dành cho ông đã giúp
ông sống lâu đến vậy.
Ông đã từng xuất hiện trong các loạt phim, tài liệu của Hãng BBC như The Last Tommy (2005) và Harry Patch – The Last Tommy (2009).
Sau cái chết của Claude
Choules, ở tuổi 110, bà Florence Green, người Anh, trở thành cựu binh
cuối cùng của Thế chiến I còn sống. Tuy nhiên khác với Claude Choules,
bà không trực tiếp chiến đấu mà làm cô nuôi trong một đơn vị nữ của
Không quân Anh
|
Báo giấy
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét