CÂU CHUYỆN TÌNH BÁO 38
- Nhận đường liên kết
- X
- Ứng dụng khác
(ĐC sưu tầm trên NET)
TN25 là viết tắt của 2 từ “Thái Nguyên”, Thiếu tướng Nguyễn Quang Phòng cho biết. Tiếng là chuyên án do Vụ Bảo vệ chính trị xác lập nhưng chỉ đạo trực tiếp vẫn là đồng chí Trần Quốc Hoàn. Theo chỉ đạo của đồng chí Trần Quốc Hoàn, Ban chuyên án đã cử một trinh sát giỏi của ta lúc đó là Tạ Khắc Diu xâm nhập vùng tạm chiếm để điều tra làm rõ các quan hệ, đầu mối gián điệp Pháp đã cài cắm. Tạ Khắc Diu sinh năm 1920, quê ở Diễn Châu, Nghệ An. Ông nguyên là bí thư chi bộ đầu tiên của xã Diễn Bình, gia nhập lực lượng Công an từ những ngày đầu thành lập. Sau khi hóa trang xâm nhập vùng tạm chiếm, trinh sát Tạ Khắc Diu đã điều tra, xác minh thêm nhiều mối quan hệ liên quan đến 3 nữ điệp viên Chu Thị Lan, Chu Thị Hương, Lê Thị Tân, cũng như âm mưu, thủ đoạn của cơ quan Tình báo Pháp. Ban chuyên án đã cử nữ trinh sát Trần Thị Nhất trực tiếp sinh hoạt và giám sát 3 nữ gián điệp. Bằng tình cảm, trinh sát Trần Thị Nhất đã gần gũi, động viên và cảm hóa được 3 nữ điệp viên hợp tác, lập công chuộc tội.
Theo chỉ đạo của đồng chí Trần Quốc
Hoàn, để lấy lòng tin của cơ quan Tình báo Pháp và quan thầy Bô-ca, Ban
chuyên án thực hiện kế hoạch câu nhử. Biết phía địch đang “khát” thông
tin, ta cung cấp nhiều tài liệu giả cho nhóm gián điệp này gửi về cho
quan thầy. Tình báo Pháp cũng sử dụng nhiều biện pháp để thử thách độ
tin cậy với các điệp viên, nhưng Ban chuyên án đều chỉ đạo điệp viên
ngụy trang, tạo vỏ bọc và tình huống hợp lý. Sau khi thua đau sau Chiến
dịch biên giới, quân Pháp đang rất “đói” những phi vụ có thể ghi điểm
giành thế chủ động trên chiến trường. Ban chuyên án lại yêu cầu nhóm
gián điệp chỉ điểm giả mạo nhiều địa điểm đóng quân của đại đoàn chủ lực
và kho tàng của ta ở Thái Nguyên và Bắc Giang.
Từ tháng 3 đến tháng 5/1953, Pháp điều nhiều máy bay ném bom vô tội vạ vào các địa điểm được mật báo. Tất nhiên các địa điểm địch ném bom chủ yếu là các khu rừng, khe suối được ta ngụy trang dựng lên vài cái lán trại và công sự giả. Để địch không nghi ngờ, ta lại cho đăng những thông tin giả bị thiệt hại, cho người phao tin đồn về Việt Minh bị thiệt hại nặng.
Để tiếp tục lấy thêm vũ khí, phương tiện phục vụ cho kháng chiến và đánh địch, Ban chuyên án lại yêu cầu nhóm gián điệp “kêu ca” đề nghị gửi thêm lực lượng và cung cấp thêm điện đài để hoạt động. Ngày 27/7/1953, mật thám Pháp đã điều nhân viên truyền tin Lê Thị Ngôn ra vùng tự do để tăng cường cho toán gián điệp Chu Thị Lan. Tuy nhiên, ngay tối 27/7, vừa đặt chân đến vùng Ba Giăng để móc nối với nhóm Chu Thị Lan, Lê Thị Ngôn đã bị lực lượng Công an bắt giữ, sau đó khống chế toàn bộ đường thông tin liên lạc. Cơ quan Tình báo Pháp vẫn hoàn toàn tin tưởng nhóm gián điệp do Chu Thị Lan cầm đầu đang hoạt động có hiệu quả nên tiếp tục thả dù máy truyền tin, phương tiện hoạt động cho nhóm này và bị ta thu giữ toàn bộ. Cũng trong thời gian này, 3 nữ gián điệp cũng giúp lực lượng Công an phát hiện, bắt giữ tên Nguyễn Kiên (còn gọi là Hưng) là cơ sở gián điệp Pháp đang cài cắm ở vùng tự do.
Chuyên án này thành công ngoài mong
đợi - như Thiếu tướng Nguyễn Quang Phòng đúc kết. Qua chuyên án, ta đã
tìm hiểu được âm mưu, kế hoạch quân sự của chúng, góp phần quan trọng
phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954. Ngay cả sau thất bại ở Điện
Biên Phủ, tình báo Pháp vẫn không hay biết gì mà tin tưởng tuyệt đối và
quyết định tặng thưởng “Huân chương thập tự sắt” cho các nữ điệp viên.
Sau năm 1954, trước khi Pháp rút khỏi Hà Nội, chúng lại điều cả 4 tên
với 2 bộ vô tuyến điện đài, tiền bạc về Thủ đô, đồng thời bàn giao hàng
chục đầu mối gián điệp đã được cài cắm tại Hà Nội. Từ đó, lực lượng Công
an đã phát hiện và bóc gỡ nhiều tổ chức gián điệp tại Hà Nội, Thái
Nguyên, Hải Phòng và Quảng Ninh hoạt động chống phá ta trong thời kỳ
khôi phục kinh tế; thu giữ hàng chục tấn vũ khí, phương tiện mà GCMA cất
giấu tại các địa phương.
Một trong những thắng lợi của Chuyên án TN25 sau năm 1954 là ta phát hiện, bóc gỡ một tổ chức gián điệp hoạt động tại Quảng Ninh do tên Nguyễn Công Năm cầm đầu. Năm nguyên là công nhân Xí nghiệp gạch Giếng Đáy, được GCMA Pháp tuyển dụng, huấn luyện. Sau này, Năm câu kết, lôi kéo được Nguyễn Đăng Nhiên, Dương Công Chỉnh và Nguyễn Văn Điều. Nhóm gián điệp trực tiếp do quan ba Phòng Nhì Camille Gouvernec chỉ huy đã cài mìn, âm mưu làm nổ phá hoại nhà máy gạch. Tuy nhiên, âm mưu hoạt động của chúng đã bị ta phá ngay từ trong trứng nước.
Tháng 1/1958, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
trong tình hình cách mạng mới, Bộ trưởng Trần Quốc Hoàn (Thứ bộ Công an
được đổi thành Bộ Công an tháng 8-1953) chỉ đạo chủ động kết thúc
Chuyên án TN25. 6 năm với 2.190 ngày đấu trí căng thẳng giữa một bên là
Phòng Nhì - cơ quan Tình báo quốc phòng hải ngoại của Pháp (Deuxième
Bureau de l'État-major général, Deuxième Bureau) có lịch sử hoạt động từ
năm 1871 với một bên là lực lượng CAND non trẻ ra đời trong bão táp
Cách mạng Tháng 8/1945. Trong cuộc đối đầu này, phần thắng đã thuộc về
chúng ta. Chiến thuật “dùng người của địch, phương tiện của địch để đánh
lại địch” cùng những mưu mẹo trong “trò chơi nghiệp vụ” đã nâng tầm
thành nghệ thuật đánh địch, để lại nhiều bài học kinh nghiệm quý trong
công tác đấu tranh chống GĐBK Mỹ những năm sau này…
Vũ Mạnh Hà
Người ta vẫn gọi Anh hùng LLVTND Nguyễn Trọng Tháp là vị tướng miền biên ải vì ông có gần 40 năm gắn bó với Tây Bắc. Ông nguyên là Giám đốc Ty Công an Lai Châu, Cục trưởng Cục chống phản động, Trưởng đoàn chuyên gia Công an tại nước bạn Lào. Ông là một trong những vị tiền bối của đội quân 25 người thuộc Ty Công an Lai Châu ngày đầu thành lập (1-1952), nhưng những năm tháng hoạt động ở vùng đất hiểm cực Tây của Tổ quốc, cuộc đấu tranh với đội quân GĐBK vẫn để lại cho ông nhiều kỷ niệm. Đó thực sự là cuộc đấu trí, đấu dũng (lời của ông - PV) giữa một bên là đội quân được Mỹ đào tạo bài bản với các chiến sĩ Công an quả cảm...
Cuộc chiến đấu chống GĐBK trên địa bàn Tây Bắc nói chung, Lai Châu nói riêng thực sự bắt đầu từ tháng 5-1961, khi Bộ Công an quyết định xác lập Chuyên án PY27. Nhưng trước đó trên địa bàn tỉnh Lai Châu, hai toán GĐBK nhảy dù xuống khu vực Khoa Di Tổng (nơi tiếp giáp với 3 huyện Mường Chà, Tuần Giáo và Điện Biên hiện nay); do cảnh giác và có sự chuẩn bị, nên ngay khi dù vừa chạm đất, cả toán GĐBK đã bị các chiến sĩ Công an tóm gọn cùng hai kiện hàng, bao gồm vũ khí, điện đài, quân trang quân dụng và các nhu yếu phẩm.
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Tháp kể lại: "Sau khi đấu tranh khai thác nhóm đầu tiên, chúng tôi đã tương kế tựu kế cho người mặc quần áo biệt kích, đóng giả toán trưởng, nhử mồi để “câu” các toán GĐBK khác. Cái khó nhất khi vào vai một tên biệt kích là chúng tôi phải nhớ được các tiếng lóng, các biệt hiệu, mật khẩu, các phiên liên lạc, giờ lên máy, mật hiệu, cử chỉ và cách ăn nói của chúng. Sau hai tuần tập luyện, các cán bộ Công an của ta đã khắc phục được những khó khăn này".
Thời kỳ này hầu như ai cũng bị sốt rét, cán bộ nào cũng gầy yếu, xanh
xao, nhưng cứ cắt cơn sốt họ lại hăng say với nhiệm vụ. Lấy được khẩu
cung của bọn GĐBK là cả một quá trình gian nan và những lời khai đó mới
chỉ ở dạng “sống sượng” chưa dùng được ngay mà phải “luộc đi ninh lại”
nhiều lần. Phải qua tên nọ để kiểm tra tên kia; qua toàn toán để đối
khớp với toán viên. Ngay cả mật mã của chúng cũng khó phát hiện, có nhóm
thả xuống với mục đích xâm nhập, phá hoại; lại có nhóm chỉ để nghi
binh, tung hoả mù.
Qua đấu tranh của ta, được biết đối tượng mà địch tuyển vào biệt kích là những tên có họ hàng, hoặc bản thân từng làm tay sai cho Pháp, Nhật đã di cư vào Nam. Nên khi bắt được bọn này, đấu tranh để khai thác thông tin chính xác thật không đơn giản. Chúng hết sức ngoan cố, dùng nhiều thủ đoạn để đánh lừa Công an. Quần nhau với từng tên không phải chỉ để biết đơn thuần nghiệp vụ, các chiến sĩ Công an còn nắm được gia cảnh, khai thác tình cảm để dùng cả tình cảm khai thác nghiệp vụ.
Cán bộ lấy lời khai phải là người có trình độ, giỏi nghiệp vụ và nhiều lĩnh vực khác, tuỳ trình độ từng tên để đấu tranh, thuyết phục, có tên cả tuần vẫn câm như hến. Như Nông Văn Đ., lấy cháu “vua” Đèo Văn Long, đã hơn 50 tuổi, khi ấy các trinh sát của ta phải đi sâu vào tình cảm, đấu tranh ròng rã cả chục ngày hắn mới khai.
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Tháp trong hội thảo khoa học về Chuyên án PY27, đã tâm sự: Lúc đầu ông rất lo lắng, không cẩn trọng là thất bại công việc hệ trọng mà Đảng đã giao cho mình. Nhưng ông lại nghĩ: Tụi nó phi nghĩa mà làm được, tại sao mình chính nghĩa lại không làm được? Ông trực tiếp đóng giả các toán trưởng, tập dượt nhiều lần để anh em tham gia góp ý.
Khi đã lấy được những thông tin cần thiết, lực lượng Công an lại phải dùng mọi cách để đánh lừa sao cho chiếm được lòng tin của “Trung tâm” ở Sài Gòn, định kỳ gửi cho ta nhiều vũ khí, hàng hoá và những toán GĐBK khác.
Thời kỳ 1968 – 1970, sau những thất bại nặng nề ở miền Nam, đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn liên tiếp tung ra miền Bắc (trong đó có Lai Châu) các toán GĐBK, nhằm đẩy mạnh các hoạt động phá hoại và chỉ điểm cho máy bay bắn phá các mục tiêu kinh tế, các cơ quan đầu não của ta.
Lúc bấy giờ, “Trung tâm” GĐBK Sài Gòn rất “đói” tin tức phá hoại. Phía ta lập tức cho “Trung tâm” nhiều “tin vịt” là những “chiến tích” được thực hiện ở Lai Châu: Hôm nay kho tàng X ở tọa độ N bị đánh mìn nổ tung; hôm sau cầu Y ở tọa độ M bị phá sập, kéo theo hàng chục xe quân sự cùng lính cộng sản xuống sông! Ở Sài Gòn, “Trung tâm” rất hài lòng, gửi điện khen và hàng hoá “thưởng” cho nhóm “biệt kích” ở Lai Châu!
Sau vụ đầu tiên (1961) thành công, ta tương kế tựu kế liên tiếp giành thắng lợi nhiều chuyên án bắt GĐBK. Tất nhiên không phải vụ nào cũng dễ dàng thành công, có những vụ thì do thời tiết xấu máy bay không thả hàng được; có vụ do trục trặc kỹ thuật, “Trung tâm” điện ra đề nghị tự túc lương thực vài ngày! Có vụ máy bay lượn nhiều vòng trên khu vực có ám hiệu nhưng do ta sơ suất trong phát tín hiệu liên lạc, máy bay không dám thả biệt kích xuống, anh em lại phải về không sau nhiều ngày mật phục trong rừng.
Đánh GĐBK là phải huy động được sức mạnh của toàn dân. Ngay sau vụ đầu tiên, Công an Lai Châu đã lập, triển khai phương án phòng chống GĐBK đến từng xã, bản. Tất cả những bãi đất trống, bằng phẳng nghi biệt kích có thể nhảy dù, đều bố trí lực lượng dân quân mai phục. Tất cả ngựa thồ phải lập danh sách chủ ngựa, khi có lệnh đi thồ hàng máy bay địch thả xuống là phải lên đường ngay, mỗi dân quân phải có 3kg gạo ở bao tượng. Khi có hiệu lệnh, người dân hăng hái kéo nhau đi bắt biệt kích. Nhân dân xã Thanh Luông (Điện Biên) chỉ sau một đêm đã gói hơn 2.300 bánh chưng cho dân quân đi bắt biệt kích.
Tháng 11-1968, một toán GĐBK gồm 5 tên nhảy dù xuống khu vực Na Pheo
(Mường Chà). Một số người dân đi làm nương phát hiện có giấu vết của
biệt kích, không đợi lực lượng Công an, họ tay dao, tay cuốc truy theo
bờ suối, bắt được 2 tên có vũ khí. Khi lực lượng Công an có mặt, thấy
hai thằng mặc quần áo dân tộc Thái, các chiến sĩ ngờ ngợ mới hỏi thì dân
cho biết: “Cán bộ chẳng phổ biến phải khám, thu ngay điện đài và quần
áo để đề phòng chúng dùng thuốc độc ở ve áo tự tử là gì!”.
Trong 10 năm là hơn 3.600 ngày (từ 1961 đến năm 1971), là quãng thời gian lực lượng Công an Lai Châu phải đấu trí với cả một hệ thống tình báo gián điệp dày dạn của Mỹ - nguỵ, chứ không chỉ riêng những tên nhảy dù phá hoại. Trong những năm ấy, được sự chỉ đạo sát sao, kịp thời của Bộ Công an, nhất là cá nhân đồng chí Bộ trưởng Trần Quốc Hoàn, Công an Khu Tây Bắc cũng như sự giúp đỡ của đông đảo quần chúng nhân dân, Công an tỉnh Lai Châu đã phát hiện, tiêu diệt, bắt sống 19 toán với hơn 100 tên, thu giữ 200 tấn vũ khí, quân trang, quân dụng và hàng hoá.
Có những vụ như Chuyên án HL17 kéo dài 6 năm (từ 17-4-1962 đến 12-4-1968), đã thu được những thành công ngoài mong đợi. Ta nắm được nhiều thông tin quan trọng của địch về âm mưu hoạt động GĐBK đối với miền Bắc nói chung và Lai Châu nói riêng, để có đối sách kịp thời. Đồng thời tung nhiều tin giả cho “Trung tâm” chỉ huy, làm rối loạn nhận định của địch, thu hút toàn bộ GĐBK bằng đường không của chúng ở Điện Biên.
Trong những năm tháng ác liệt đó, tay súng của cán bộ, chiến sĩ Công an tỉnh Lai Châu cùng các lực lượng vũ trang khác đã không một phút lơi lỏng, ý chí tiến công luôn luôn được mài sắc. Trên con đường chiến đấu gian khổ và tự hào, lòng dân biên giới tiếp thêm sức mạnh, giúp lực lượng Công an trụ vững và chiến thắng…
2000 ngày ‘CHẢY MÁU NÃO’ của tình báo Việt Nam
Chuyên án TN25 kéo dài 6 năm (1953-1958). Ta sử dụng điệp viên của địch,
phương tiện liên lạc của địch để dẫn dụ chúng vào "trò chơi nghiệp vụ”,
từ đó điều khiển, đập tan âm mưu của cơ quan tình báo Pháp đưa điệp
viên thâm nhập vào vùng tự do và thủ đô kháng chiến, bóc gỡ nhiều đầu
mối gián điệp địch cài cắm. Đặc biệt từ TN25, lực lượng CAND đã thu được
nhiều kinh nghiệm trong đánh gián điệp biệt kích (GĐBK) Mỹ sau này…
Phản gián Hà Nội đối đầu với CIA (Mỹ) và tình báo phương Bắc
Cập nhật lúc: 06:16 24/10/2016 (GMT+7)
VOV.VN - Lực lượng phản gián của công an Hà Nội đã tham gia nhiều chuyên án cùng công an trung ương, đấu trí với tình báo của Mỹ và một cường quốc phương Bắc.
Trung Hiếu/VOV.VN
Chuyên án TN25 và cuộc đấu trí hơn 2.000 ngày
10:23 13/04/2014
Đêm đầu mùa hạ ở ATK tĩnh mịch, yên tĩnh. Trong một lán bí
mật ở khu rừng thuộc thôn Đồng Đon, xã Minh Thanh, huyện Sơn Dương
(Tuyên Quang), Thứ trưởng Thứ bộ Công an Trần Quốc Hoàn triệu tập cuộc
họp khẩn để nghe các trinh sát thuộc Vụ Bảo vệ chính trị báo cáo về vụ
bắt giữ 3 nữ gián điệp Chu Thị Lan, Chu Thị Hương và Lê Thị Tân trên địa
bàn huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên. Sau khi nghe ý kiến của các ban
nghiệp vụ, đồng chí Trần Quốc Hoàn chỉ đạo cần xây dựng ngay phương án
để đánh lại địch. Chuyên án mang bí số TN25 do Vụ Bảo vệ chính trị, Thứ bộ Công an chủ trì đã ra đời sau cuộc họp khẩn đêm hôm đó…
Bài 2: Nghệ thuật "trò chơi nghiệp vụ
Trong quá trình thực hiện bài viết này, chúng tôi đã tìm đến nhiều “đầu mối” và nhân chứng một thời tham gia Chuyên án TN25 cách đây hơn 60 năm nhưng rất tiếc là hầu hết các nhân chứng trực tiếp đều đã mất hoặc không còn nhớ được nhiều. Nhưng chắp nối lại những tư liệu và từ những câu chuyện kể trước đây của các trinh sát từng tham gia, đặc biệt là qua lời kể của Thiếu tướng Nguyễn Quang Phòng, nguyên Tổng cục phó Tổng cục An ninh nhân dân, nguyên Trưởng ban Nghiên cứu địch tình, Thứ bộ Công an thời điểm đó cùng tư liệu khai thác từ Bảo tàng CAND, chúng ta có thể hình dung được cuộc đấu trí căng thẳng kéo dài hơn 2.000 ngày của Chuyên án TN25.TN25 là viết tắt của 2 từ “Thái Nguyên”, Thiếu tướng Nguyễn Quang Phòng cho biết. Tiếng là chuyên án do Vụ Bảo vệ chính trị xác lập nhưng chỉ đạo trực tiếp vẫn là đồng chí Trần Quốc Hoàn. Theo chỉ đạo của đồng chí Trần Quốc Hoàn, Ban chuyên án đã cử một trinh sát giỏi của ta lúc đó là Tạ Khắc Diu xâm nhập vùng tạm chiếm để điều tra làm rõ các quan hệ, đầu mối gián điệp Pháp đã cài cắm. Tạ Khắc Diu sinh năm 1920, quê ở Diễn Châu, Nghệ An. Ông nguyên là bí thư chi bộ đầu tiên của xã Diễn Bình, gia nhập lực lượng Công an từ những ngày đầu thành lập. Sau khi hóa trang xâm nhập vùng tạm chiếm, trinh sát Tạ Khắc Diu đã điều tra, xác minh thêm nhiều mối quan hệ liên quan đến 3 nữ điệp viên Chu Thị Lan, Chu Thị Hương, Lê Thị Tân, cũng như âm mưu, thủ đoạn của cơ quan Tình báo Pháp. Ban chuyên án đã cử nữ trinh sát Trần Thị Nhất trực tiếp sinh hoạt và giám sát 3 nữ gián điệp. Bằng tình cảm, trinh sát Trần Thị Nhất đã gần gũi, động viên và cảm hóa được 3 nữ điệp viên hợp tác, lập công chuộc tội.
Máy phát động quay tay nhóm gián điệp TN25 sử dụng dưới sự khống chế của ta. (Ảnh: Bảo tàng CAND). |
Từ tháng 3 đến tháng 5/1953, Pháp điều nhiều máy bay ném bom vô tội vạ vào các địa điểm được mật báo. Tất nhiên các địa điểm địch ném bom chủ yếu là các khu rừng, khe suối được ta ngụy trang dựng lên vài cái lán trại và công sự giả. Để địch không nghi ngờ, ta lại cho đăng những thông tin giả bị thiệt hại, cho người phao tin đồn về Việt Minh bị thiệt hại nặng.
Để tiếp tục lấy thêm vũ khí, phương tiện phục vụ cho kháng chiến và đánh địch, Ban chuyên án lại yêu cầu nhóm gián điệp “kêu ca” đề nghị gửi thêm lực lượng và cung cấp thêm điện đài để hoạt động. Ngày 27/7/1953, mật thám Pháp đã điều nhân viên truyền tin Lê Thị Ngôn ra vùng tự do để tăng cường cho toán gián điệp Chu Thị Lan. Tuy nhiên, ngay tối 27/7, vừa đặt chân đến vùng Ba Giăng để móc nối với nhóm Chu Thị Lan, Lê Thị Ngôn đã bị lực lượng Công an bắt giữ, sau đó khống chế toàn bộ đường thông tin liên lạc. Cơ quan Tình báo Pháp vẫn hoàn toàn tin tưởng nhóm gián điệp do Chu Thị Lan cầm đầu đang hoạt động có hiệu quả nên tiếp tục thả dù máy truyền tin, phương tiện hoạt động cho nhóm này và bị ta thu giữ toàn bộ. Cũng trong thời gian này, 3 nữ gián điệp cũng giúp lực lượng Công an phát hiện, bắt giữ tên Nguyễn Kiên (còn gọi là Hưng) là cơ sở gián điệp Pháp đang cài cắm ở vùng tự do.
Từ Chuyên án TN25, lực lượng Công an khai quật kho vũ khí, điện đài gián điệp Pháp chôn giấu tại phố Đội Cấn, Hà Nội. (Ảnh: Bảo tàng CAND) |
Một trong những thắng lợi của Chuyên án TN25 sau năm 1954 là ta phát hiện, bóc gỡ một tổ chức gián điệp hoạt động tại Quảng Ninh do tên Nguyễn Công Năm cầm đầu. Năm nguyên là công nhân Xí nghiệp gạch Giếng Đáy, được GCMA Pháp tuyển dụng, huấn luyện. Sau này, Năm câu kết, lôi kéo được Nguyễn Đăng Nhiên, Dương Công Chỉnh và Nguyễn Văn Điều. Nhóm gián điệp trực tiếp do quan ba Phòng Nhì Camille Gouvernec chỉ huy đã cài mìn, âm mưu làm nổ phá hoại nhà máy gạch. Tuy nhiên, âm mưu hoạt động của chúng đã bị ta phá ngay từ trong trứng nước.
Thiếu tướng Nguyễn Quang Phòng, nguyên Tổng cục phó Tổng cục An ninh nhân dân. |
Tháng 1/1958, TAND TP Hà
Nội đã mở phiên tòa công khai xét xử vụ án gián điệp trong Chuyên án
TN25. Tòa đã tuyên phạt Nguyễn Công Năm và Nguyễn Văn Điều 10 năm tù,
Dương Công Chỉnh 3 năm tù… Riêng Chu Thị Lan và các thành viên trong
nhóm, do đã ăn năn hối cải, lập công chuộc tội nên Tòa án miễn truy cứu
trách nhiệm hình sự, giao cho chính quyền địa phương tạo công ăn việc
làm để họ ổn định cuộc sống, hòa nhập cộng đồng… |
Vũ Mạnh Hà
Đại tá an ninh Tạ Khắc Diu và chiến công chưa kể trong chuyên án TN25
16:37 15/12/2014Chuyên án TN25 - chiến công xuất sắc của lực lượng an ninh trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp là một ví dụ. Và cố Đại tá Tạ Khắc Diu, nguyên Đội trưởng Đội trinh sát xã hội hóa, Nha Công an Trung ương là một trong những trinh sát tham gia vào chiến công thầm lặng ấy…
Trong lịch sử hào
hùng của lực lượng CAND gần 70 năm qua, dù đất nước có chiến tranh hay
khi đã hòa bình thì trận tuyến đấu tranh bí mật vẫn không ngơi nghỉ và
ngày càng cam go, quyết liệt. Nhưng vì lý do đặc biệt nên cho đến nay
nhiều chiến công và sự đóng góp của những con người làm nên chiến công
đó vẫn không dễ kể hoặc chưa được phép công khai. Và dường như, ngoài
những dòng lịch sử ngắn gọn, thì những thứ còn lại cuối cùng của họ là
những kỷ vật về một thời khói lửa - những chiến sĩ Công an trên mặt trận
thầm lặng với những chiến công lặng thầm... |
Đợt gió mùa đông bắc đem theo cơn mưa
rào nhẹ chỉ đủ xua đi cái nóng và sự ồn ã của Hà thành cuối thu. Tôi tìm
đến nhà Thượng tá Tạ Khắc Cừu, nguyên là cán bộ Cục Trinh sát ngoại
tuyến, Tổng cục An ninh ở khu tập thể cũ kỹ nằm nép mình trong một ngõ
nhỏ ở phố Hạ Hồi. Thượng tá Tạ Khắc Cừu là con trai cố Đại tá Tạ Khắc
Diu, nguyên là Cục phó Cục Chấp pháp, Cục phó Cục Hồ sơ nghiệp vụ an
ninh, Đội trưởng Đội trinh sát xã hội hoá, Nha Công an Trung ương, tiền
thân của Cục trinh sát ngoại tuyến sau này. Lần dở những trang album
cùng tập di bút của Đại tá Tạ Khắc Diu, ông rưng rưng hồi tưởng về người
cha thân yêu…
Đại tá Tạ Khắc Diu sinh năm 1921, quê ở
xã Diễn Bình, huyện Diễn Châu (Nghệ An). Ông tham gia cách mạng từ rất
sớm, 16 tuổi ông đã tham gia hoạt động bí mật. Ông là một trong 7 đảng
viên đầu tiên của chi bộ Đảng xã Diễn Bình... Kháng chiến toàn quốc bùng
nổ, ông được Trung ương điều ra Việt Bắc công tác trong Nha Công an
Trung ương. Lửa thử vàng gian nan thử sức, ở môi trường công tác mới
cùng với bầu nhiệt huyết của tuổi trẻ, lại có năng khiếu công an nên ông
được Bộ trưởng Trần Quốc Hoàn phái sang làm trinh sát Vụ Bảo vệ chính
trị. Và chính trong môi trường này, ông đã có điều kiện để thể hiện năng
lực của mình trong hàng loạt các chuyên án, nổi bật là chuyên án TN25…
Theo Thiếu tướng Nguyễn Quang Phòng,
nguyên Tổng cục phó Tổng cục An ninh, Bộ trưởng Trần Quốc Hoàn là người
trực tiếp chỉ đạo chuyên án TN25, tham gia chuyên án là những trinh sát
lão luyện của Vụ Bảo vệ chính trị, Nha Công an Trung ương - những người
sau này đều trở thành cán bộ cốt cán, chủ chốt của các đơn vị nghiệp vụ
Tổng cục An ninh, như: Ngô Ngọc Du (Vụ trưởng), Tạ Khắc Diu, Đoàn Xuân
Thanh, Tống Văn Tiếp, Nguyễn Hoàn Thành, Nguyễn Quang Phòng, Nguyễn Cao
Phòng…
Cuối năm 1952, đầu năm 1953, nhằm tăng
cường do thám quân sự để điều tra tình hình về cơ quan đầu não, kháng
chiến, các đơn vị bộ đội chủ lực và ý đồ mở chiến dịch của ta, cơ quan
tình báo gián điệp biệt kích Pháp (GCMA) đã tuyển chọn 3 phụ nữ trẻ,
xinh đẹp, quê ở Tam Canh, huyện Bình Xuyên, Vĩnh Yên (nay là Vĩnh Phúc),
đó là: Chu Thị Lan, 25 tuổi; Chu Thị Hương, 22 tuổi; Lê Thị Tân, 18
tuổi. 3 đối tượng này được quan hai Brocard - Trưởng chi nhánh GCMA ở
Phúc Yên đưa đi đào tạo sau đó phái ra vùng Đại Từ, Thái Nguyên và Bắc
Giang hoạt động, thu thập tin tức. Nhưng do lực lượng Công an làm tốt
công tác nghiệp vụ nên 3 đối tượng này bị bắt chỉ sau hơn một tháng xâm
nhập địa bàn kháng chiến của ta.
Với tầm nhìn chiến lược, Bộ trưởng Trần
Quốc Hoàn chỉ đạo phải “tương kế tựu kế”, dùng địch đánh lại địch. 3
trinh sát Tạ Khắc Diu, Tống Văn Tiếp, Nguyễn Hoàn Thành được cử xuống
lấy lời khai 3 nữ gián điệp vừa bị ta bắt tại Đại Từ. Để nắm rõ đường đi
nước bước, âm mưu thủ đoạn của mạng lưới tình báo này, theo chỉ đạo của
đồng chí Trần Quốc Hoàn, Ban chuyên án đã cử Tạ Khắc Diu xâm nhập vùng
tạm chiếm để điều tra làm rõ các quan hệ, đầu mối gián điệp Pháp đã cài
cắm. Tạ Khắc Diu là một trinh sát giỏi của Vụ Bảo vệ chính trị, được
mệnh danh là “phù thủy” của các biện pháp nghiệp vụ. Ông đã hóa trang
thành một người buôn vải xâm nhập vùng tạm chiếm điều tra, xác minh thêm
nhiều mối quan hệ liên quan đến 3 nữ điệp viên Chu Thị Lan, Chu Thị
Hương, Lê Thị Tân cũng như âm mưu, thủ đoạn của cơ quan tình báo Pháp.
Trong chuyến xâm nhập đó, ít nhất 2 lần Tạ Khắc Diu rơi vào tình huống
ngàn cân treo sợi tóc.
Đại tá Tạ Khắc Diu. |
Buổi chiều hôm đó, ông đang ở trong nhà
một cơ sở ở xã Thiện Kế gần Tam Canh thì bất ngờ một nhóm việt gian do
tên Chu Văn Toán cầm đầu mò đến. Toán là một việt gian lợi hại, học
trường Tây được tình báo Pháp đào tạo nên hắn rất cáo già. Nhiều cơ sở
của ta từng bị tên này bóc gỡ, khủng bố. Sau khi kiểm tra giấy tờ, lục
tung gánh vải của Tạ Khắc Diu không phát hiện điều gì nghi vấn, tên Toán
đã bất ngờ dí súng vào đầu ông rồi lôi ông ra bờ ao để thẩm vấn. Nhưng
bản lĩnh người trinh sát an ninh được rèn giũa nên ông bình tĩnh trả lời
các câu hỏi của tên này một cách lôgíc, hợp lý. Không tìm được gì, hắn
bắt ông nộp 20 đồng “thuế” vải rồi hậm hực bỏ đi.
Sau đó một tuần ông lại đối mặt với một
tên khác còn cao tay hơn. Tuy không tìm được điều gì nghi vấn nhưng tên
Thơm - một đệ tử ruột của quan hai Brocard, Trưởng chi nhánh GCMA ở Phúc
Yên đã bắt ông về trụ sở ở gần khu vực Thanh Lãng. Dù chẳng có chứng cứ
gì nhưng hắn câu lưu ông một tuần ở trụ sở. Hắn tra khảo dã man rồi giở
đủ thủ đoạn, chiêu trò để truy ông nhưng một lần nữa ông lại dũng cảm,
mưu trí thoát hiểm...
Gần một tháng lăn lộn khắp các hang cùng
ngõ hẻm ở vùng tạm chiếm, Tạ Khắc Diu đơn thương độc mã đấu trí với cả
một hệ thống tình báo, ngụỵ quân, việt gian cùng lực lượng đồn trú của
đội quân viễn chinh Pháp ở vùng Bình Xuyên, Vĩnh Phúc. Trên cơ sở những
thông tin ông thu thập được, Ban chuyên án cử nữ trinh sát Trần Thị Nhất
tiếp cận đấu trí với 3 nữ điệp viên bị ta bắt giữ trước đó. Bằng những
thông tin chính xác có được từ vùng tạm chiếm về gia cảnh, bố mẹ, anh
chị em 3 đối tượng, bằng tình cảm, trinh sát Trần Thị Nhất đã cảm hóa
được 3 nữ điệp viên hợp tác, lập công chuộc tội. Sau đó, ban chuyên án
còn sử dụng biện pháp câu nhử, dụ, bắt giữ và khống chế thêm một điệp
viên khác là Lê Thị Ngôn…
Qua chuyên án TN25, ta đã tìm hiểu được
âm mưu, kế hoạch quân sự của chúng, góp phần quan trọng phục vụ chiến
dịch Điện Biên Phủ năm 1954. Ngay cả sau thất bại ở Điện Biên Phủ, tình
báo Pháp vẫn không hay biết gì mà tin tưởng tuyệt đối và quyết định tặng
thưởng “Huân chương thập tự sắt” cho 4 nữ điệp viên(!) Sau năm 1954,
trước khi Pháp rút khỏi Hà Nội, chúng lại điều cả 4 tên với 2 bộ vô
tuyến điện đài, tiền bạc về thủ đô đồng thời bàn giao hàng chục đầu mối
gián điệp đã được cài cắm tại Hà Nội. Từ đó, lực lượng Công an đã phát
hiện và bóc gỡ nhiều tổ chức gián điệp tại Hà Nội, Thái Nguyên, Hải
Phòng và Quảng Ninh hoạt động chống phá ta trong thời kỳ khôi phục kinh
tế; thu giữ hàng chục tấn vũ khí, phương tiện mà GCMA cất giấu tại các
địa phương.
Từ chuyên án TN25, lực lượng Công an khai
quật kho vũ khí, điện đài gián điệp Pháp chôn giấu tại Đội Cấn, Hà Nội.
Ảnh: bảo tàng CAND |
Chuyên án TN25 kéo dài đến đầu năm 1958,
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình cách mạng mới khi Mỹ hất cẳng
Pháp và đẩy mạnh các hoạt động xâm nhập, chống phá công cuộc khôi phục
kinh tế miền Bắc xã hội chủ nghĩa, Bộ trưởng Trần Quốc Hoàn chỉ đạo chủ
động kết thúc chuyên án TN25. Nhưng ngay thời kỳ chuyên án đang vào giai
đoạn quyết liệt nhất, ông Tạ Khắc Diu đã được bổ nhiệm giữ cương vị Đội
trưởng Đội trinh sát xã hội hoá, tiền thân của Cục Trinh sát ngoại
tuyến sau này. Ở cương vị mới, Tạ Khắc Diu lại cùng đồng đội lập nhiều
chiến công xuất sắc, bóc gỡ hàng chục tổ chức gián điệp cài cắm vùng tự
do, đặc biệt là đấu tranh làm thất bại hoạt động của GCMA Pháp hoạt động
quấy rối, phá hoại tuyến đường vận chuyển của ta lên chiến trường Điện
Biên Phủ.
Tháng 10/1954, ngay sau khi về tiếp quản
thủ đô, lãnh đạo Bộ Công an đã quyết định thành lập Ban Ngoại trinh
trực thuộc Ty Chính trị, Bộ Công an. Cùng với đồng chí đồng đội, Tạ Khắc
Diu lại bước vào cuộc chiến đấu mới không kém phần cam go, phức tạp.
Chỉ tính từ năm 1955 đến 1960 lực lượng an ninh đã xác lập 37 chuyên án
phản động ở hầu hết các tỉnh phía Bắc, trong đó đơn vị trinh sát ngoại
tuyến góp phần quan trọng vào sự thắng lợi của các chuyên án, điển hình
như chuyên án M11, H07, T15, GM15, GM65. Đặc biệt, chuyên án C30 đấu
tranh với tổ chức gián điệp cài lại ở miền Bắc (từ năm 1954 đến 1958) đã
bắt giữ hàng trăm đối tượng, góp phần củng cố hệ thống chính trị vững
mạnh, xoá bỏ tàn dư, cơ sở nhen nhóm phản động phản động và các cơ sở xã
hội địch có thể lợi dụng...
Tại nhà truyền thống Cục trinh sát ngoại
tuyến, Tổng cục An ninh, bức ảnh chân dung Đại tá Tạ Khắc Diu được đặt
trang trọng ở vị trí đầu tiên trong các thế hệ lãnh đạo của đơn vị anh
hùng này. Đại tá Tạ Khắc Diu qua đời tháng 9/1986 khi đất nước bắt đầu
bước vào công cuộc đổi mới. Ông đã dành cả quãng đời thanh xuân của mình
cống hiến cho cách mạng, cho lực lượng an ninh và ngoại tuyến - lực
lượng luôn “đi trước về sau”, với những con người thầm lặng và những
chiến công lặng thầm…
Đại
tá Tạ Khắc Diu sinh được 8 người con (một người mất sớm), 2 trai, 6
gái, trong đó có 3 người con gia nhập lực lượng CAND. Con gái đầu của
ông là Đại tá Tạ Thị Tâm, nguyên điều tra viên cao cấp Cục Cảnh sát điều
tra, Bộ Công an; Thượng tá Tạ Khắc Cừu, cán bộ Cục trinh sát ngoại
tuyến về nghỉ chế độ năm 2007, Thượng tá Tạ Khắc Hà, nguyên là cán bộ
Công an quận Ba Đình. Tiếp nối truyền thống của gia đình, hiện nay cháu
nội của ông là Tạ Khắc Hùng, 2 cháu ngoại: Hoàng Sơn Trung, Nguyễn Quang
Đại đang là những sỹ quan cảnh sát mẫn cán của các Cục nghiệp vụ Bộ
Công an và Công an TP Hà Nội… |
Cuộc đối đầu với Gián điệp biệt kích Pháp trước và trong Chiến dịch Điện Biên Phủ
13:58 31/03/2014
LTS: Cách đây 60 năm, dưới sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt
của Đảng và Bác Hồ, quân và dân ta đã chiến đấu kiên cường, không quản
hy sinh làm nên chiến thắng “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, đưa
cuộc kháng chiến chống Pháp đến thắng lợi hoàn toàn. Chiến thắng Điện
Biên Phủ là bản anh hùng ca về tinh thần, ý chí quyết chiến, quyết
thắng, bản lĩnh, trí tuệ con người Việt Nam trong công cuộc đấu tranh
chống giặc ngoại xâm. Để làm nên thắng lợi vĩ đại đó, đương nhiên có
phần đóng góp không nhỏ của lực lượng Công an nhân dân (CAND).
Bắt đầu từ số báo này, chúng tôi khởi đăng
loạt bài hướng tới kỷ niệm 60 năm Chiến thắng Điện Biên Phủ. Đó là hồi
ức về một thời khói lửa của các nhân chứng là cán bộ các cấp, là những
cựu chiến binh, Công an, TNXP và quần chúng nhân dân từng trực tiếp tham
gia hoặc “chia lửa” trong Chiến dịch Điện Biên Phủ; những thành tựu
trong phát triển kinh tế, xoá đói giảm nghèo, trong công tác giữ gìn an
ninh, trật tự; sự trưởng thành trong thử thách của lực lượng CAND trên
mảnh đất lịch sử từng thấm đẫm những giọt máu đào và mồ hôi của bao lớp
cha anh đi trước…
Ký ức một thời khói lửa của vị tướng an ninh
Chiều cuối tháng 3, Hà Nội se sắt trong ẩm ướt bởi mưa phùn. Chúng tôi tìm đến nhà Thiếu tướng Nguyễn Quang Phòng, nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục An ninh nhân dân, Bộ Công an. Căn nhà giản dị nằm sâu trong con ngõ nhỏ ở phố Phạm Ngọc Thạch. Năm nay dù đã bước sang tuổi 88 nhưng trông ông vẫn tráng kiện, giọng nói hào sảng, nụ cười thân thiện. Ông thu hút chúng tôi bởi sự cởi mở, kiến thức uyên thâm của mình. Chia sẻ với chúng tôi, Thiếu tướng Nguyễn Quang Phòng cho biết, mấy năm gần đây ông cũng đang tập trung nghiên cứu về những đóng góp của lực lượng CAND trong Chiến thắng Điện Biên Phủ, và một điều ông tâm đắc nhất chính là cuộc chiến đấu đập tan đội quân GĐBK Pháp lên đến hơn 15.000 tên trước, trong và sau chiến dịch Điện Biên Phủ. “Chính do việc chủ động tấn công, vô hiệu hoá “lưỡi dao găm đâm vào sau lưng Việt Minh” này đã góp phần đảm bảo hậu phương vững chắc, bảo vệ các lực lượng chủ lực, dân công, các tuyến giao thông trọng điểm, kho tàng, bến bãi… góp phần quan trọng vào chiến thắng” - Thiếu tướng Nguyễn Quang Phòng đúc kết.
Khi Trung ương Đảng và Bác Hồ quyết định mở chiến dịch
Điện Biên Phủ (mật danh là Trần Đình), Thiếu tướng Nguyễn Quang Phòng
khi đó đang là Trưởng phòng Nghiên cứu địch tình thuộc Bộ Công an (tiền
thân của lực lượng tình báo sau này). “Tôi nhớ hôm đó sau khi đi họp về,
Bộ trưởng Trần Quốc Hoàn tổ chức cuộc họp khẩn với lãnh đạo các đơn vị
chủ chốt và công an một số địa phương: đồng chí Khúc Huề, Cao Phong, Tạ
Khắc Din, Hoàng Bạch Mao, Trần Quyết (Giám đốc Công an Khu Tây Bắc),
Trần Triệu (Phó Giám đốc Công an Khu Tây Bắc), Bùi Dĩnh (Giám đốc Ty
Công an Tuyên Quang), Đào Đình Bảng (Giám đốc Ty Công an Yên Bái), Trần
Quốc Mạnh (Giám đốc Ty Công an Lai Châu), Hồng Cẩn (Giám đốc Ty Công an
Sơn La)… Nhiệm vụ của lực lượng Công an trong chiến dịch này là phối hợp
với bộ đội địa phương, dân quân du kích phát động phong trào “phòng
gian bảo mật”, chống GCMA, bảo vệ an toàn lực lượng chủ lực, dân công,
tuyến đường vận chuyển vũ khí, đạn dược cho chiến dịch”.
GCMA là gì?
“Từ trước đến nay rất tiếc là chúng ta chưa có tổng kết toàn diện nào về cuộc chiến chống GĐBK Pháp, tài liệu về công tác này cũng ít ỏi, sơ sài” - Thiếu tướng Nguyễn Quang Phòng chia sẻ. Tuy nhiên với cương vị là Trưởng phòng Nghiên cứu địch tình Bộ Công an lúc bấy giờ, ông đã cho chúng tôi tiếp cận nhiều nguồn tư liệu quý, đặc biệt căn cứ vào cuốn “Gián điệp biệt kích Pháp ở Đông Dương (1950-1956)” của tác giả Trần Vân do NXB CAND ấn hành năm 2009, chúng ta có thể bước đầu dựng lên “chân dung” và bộ mặt thật của đội quân nguy hiểm này.
Sau chiến dịch biên giới, quân viễn chinh Pháp thua đau và rơi vào thế bị động, thực dân Pháp phải tính đến cầu viện Mỹ. Đại tá Chester được CIA phái sang Đông Dương để giúp Pháp chống phong trào cộng sản ở Đông Dương và Trung Quốc bằng thủ đoạn lợi dụng người dân tộc thiểu số gây dựng những ổ du kích. Thibault de Saint-Phall dưới danh nghĩa phái đoàn kinh tế Mỹ đã tiếp kiến Cao uỷ Pignon và Quốc trưởng Bảo Đại nhằm cải tạo, nâng cấp Trường Biệt kích Vũng Tàu thành trường đào tạo du kích chống Cộng. Ngày 7/4/1951, Tướng De Lattre de Tassigni, Cao ủy kiêm Tổng Tư lệnh quân viễn chinh Pháp tại Đông Dương đã ký Quyết định số 174 thành lập Cơ quan tác chiến trực thuộc Cơ quan tình báo chiến lược Pháp (SDECE). Để giữ bí mật nhằm che đậy tính chất gián điệp của cơ quan tác chiến đặc biệt này, Pháp đã chọn tên bí mật là Binh đoàn Biệt kích Hỗn hợp nhảy dù (Groupement de Commandó Mixtes Aeroprtes, viết tắt là GCMA) do viên Trung tá Edmon Grall làm Tư lệnh. GCMA thuộc quyền chỉ huy trực tiếp của Tổng Tư lệnh quân viễn chinh, có nhiệm vụ chính là xâm nhập toàn bộ khu vực Việt Minh kiểm soát và gây nên thế thường xuyên bất ổn ở hậu phương đối thủ, đặc biệt là ở địa bàn sắc tộc ít người như Thổ, Thái, Nùng, Mông, Mường…
Trong suốt thời gian trước, trong và sau Chiến dịch Điện Biên Phủ, CGMA hoạt động mạnh ở nhiều địa phương trên cả nước, tập trung ở địa bàn 5 tỉnh: Lai Châu (hiện nay là 2 tỉnh Điện Biên và Lai Châu), Lào Cai, Sơn La, Nghĩa Lộ (nay thuộc Yên Bái) và Hà Giang, gây nhiều tội ác và tổn thất cho cách mạng. Được CGMA hà hơi tiếp sức qua việc tăng cường lực lượng (nhảy dù xuống các địa phương), trang bị vũ khí, quân trang, quân dụng và nhiều phương tiện vật chất khác, bọn phản động, phìa tạo địa phương đã nổi phỉ, âm mưu thành lập “xứ Mường tự trị”, “xứ Thái tự trị”, “xứ Mèo tự trị” nhằm phá hoại hậu phương kháng chiến, chặt đứt các tuyến đường vận chuyển của ta cho mặt trận Điện Biên Phủ.
Đến cuối năm 1953, chỉ riêng tại địa bàn Lào Cai, GCMA đã tập hợp 4 cụm GĐBK lớn với 5.500 tên do trùm phỉ Châu Quáng Lồ chỉ huy. Châu Quáng Lồ nguyên là một tướng cướp hung bạo cầm đầu sắc tộc Mông ở tổng Pha Long, huyện Mường Khương. Được sự trợ giúp của quan thầy Pháp và các thế lực phản động, đội quân GCMA của Châu Quáng Lồ đã đẩy mạnh hoạt động, liên tiếp tổ chức tiến công đánh chiếm, giết hại cán bộ ở Mường Khương, Si Ma Cai, Bắc Hà.
Trên địa bàn tỉnh Sơn La, tháng 8/1953, sau khi rút quân khỏi cứ điểm Nà Sản, thực dân Pháp tăng viện và kích động bọn tề, nguỵ, phản động ở Thuận Châu, Sốp Cộp, Sông Mã, Quỳnh Nhai gây bạo loạn. Lực lượng GCMA nhảy dù xuống huyện Thuận Châu để tiếp sức cho bọn phỉ do tên Bạc Cầm Thủy cầm đầu. Chúng đàn áp dân, bắt người dân theo phỉ tập trung hình thành các cụm phỉ lớn ở khu vực 2 xã Long Hẹ, Co Tòng (vùng tam giác Sơn La - Tuần Giáo - Điện Biên Phủ) để phá hoại hậu phương của ta. Cùng với những cuộc hành binh của Trung đoàn Sông Đà do Đại tá Berteil chỉ huy, quân Pháp thực hiện chiến dịch Ferdinand chiếm giữ 104 bản làng thuộc địa bàn tỉnh Sơn La, thu nạp thổ ty và lính ngụy cũ, bắt ép thanh niên trai tráng theo phỉ. Sau một thời gian ngắn, lực lượng GCMA và đám tề ngụy phản động đã dựng lên 3 khu biệt kích ở Thuận Châu, Co Tòng và Pa Lao với diện tích lên đến 1.000km2, trong đó có 15 cây số đường huyết mạch số 41 (nay là quốc lộ 6) - con đường vận chuyển chiến lược của ta từ Việt Bắc và khu 4 lên chiến trường Điện Biên Phủ. Theo các tài liệu, đến tháng 8-1953, số quân GCMA ở khu vực Sơn La đã lên đến hơn 3.500 tên.
Để đối phó với sự tấn công của ta, đỡ đòn cho Điện Biên Phủ và tái chiếm thị trấn Lai Châu, thực dân Pháp đã cho nhiều toán GCMA nhảy dù xuống các khu vực thuộc các địa bàn: Tuần Giáo, Mường Lay (Điện Biên), Quỳnh Hồ (Sìn Hồ - Quỳnh Nhai), Mường Tè, Phong Thổ (Lai Châu) để tập hợp số tàn binh bại trận và những tên tề, nguỵ, phỉ cũ có nhiều tội ác với nhân dân ở hình thành nên các cụm phỉ lớn. Với mưu đồ “phỉ hoá toàn dân”, đầu năm 1954, đội quân GCMA đồng loạt gây bạo loạn ở một số địa bàn thuộc phía Bắc tỉnh Lai Châu (Phong Thổ, Tam Đường, Sìn Hồ). Do lực lượng chủ lực đang dồn sức cho Chiến dịch Điện Biên Phủ nên các toán phỉ đã bạo loạn và chiếm gần hết các xã thuộc huyện Mường Tè. Chúng xây dựng hệ thống đồn bốt, công sự khống chế cả một vùng rộng hơn 8.000km2… gây nhiều tổn thất cho chính quyền và nhân dân các dân tộc Tây Bắc…
Bài 1: Binh đoàn biệt kích hỗn hợp GCMA ở Tây Bắc
Gián điệp biệt kích (GĐBK) Pháp là một binh chủng tác
chiến của Bộ Tổng tư lệnh quân viễn chinh ở Đông Dương, trực thuộc Cơ
quan tình báo chiến lược Pháp. Sau khi mất quyền chủ động trên chiến
trường, Pháp đã cho thành lập Binh đoàn Biệt kích Hỗn hợp nhảy dù (GCMA)
- thực chất là GĐBK (cao điểm lên đến 15.000 tên) hoạt động quấy rối,
phá hoại gây nhiều tổn thất ở vùng hậu phương ta, đặc biệt là vùng dân
tộc thiểu số. Thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng và Bác Hồ, được
sự giúp đỡ của nhân dân, lực lượng CAND phối hợp với Quân đội nhân dân
(QĐND) đã từng bước ngăn chặn, vô hiệu hóa, đập tan âm mưu và hoạt động
của đội quân này, góp phần quan trọng vào thắng lợi của Chiến dịch Điện
Biên Phủ...Ký ức một thời khói lửa của vị tướng an ninh
Chiều cuối tháng 3, Hà Nội se sắt trong ẩm ướt bởi mưa phùn. Chúng tôi tìm đến nhà Thiếu tướng Nguyễn Quang Phòng, nguyên Phó Tổng cục trưởng Tổng cục An ninh nhân dân, Bộ Công an. Căn nhà giản dị nằm sâu trong con ngõ nhỏ ở phố Phạm Ngọc Thạch. Năm nay dù đã bước sang tuổi 88 nhưng trông ông vẫn tráng kiện, giọng nói hào sảng, nụ cười thân thiện. Ông thu hút chúng tôi bởi sự cởi mở, kiến thức uyên thâm của mình. Chia sẻ với chúng tôi, Thiếu tướng Nguyễn Quang Phòng cho biết, mấy năm gần đây ông cũng đang tập trung nghiên cứu về những đóng góp của lực lượng CAND trong Chiến thắng Điện Biên Phủ, và một điều ông tâm đắc nhất chính là cuộc chiến đấu đập tan đội quân GĐBK Pháp lên đến hơn 15.000 tên trước, trong và sau chiến dịch Điện Biên Phủ. “Chính do việc chủ động tấn công, vô hiệu hoá “lưỡi dao găm đâm vào sau lưng Việt Minh” này đã góp phần đảm bảo hậu phương vững chắc, bảo vệ các lực lượng chủ lực, dân công, các tuyến giao thông trọng điểm, kho tàng, bến bãi… góp phần quan trọng vào chiến thắng” - Thiếu tướng Nguyễn Quang Phòng đúc kết.
Lực lượng Công an tham gia bảo vệ dân công phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ.
|
GCMA là gì?
“Từ trước đến nay rất tiếc là chúng ta chưa có tổng kết toàn diện nào về cuộc chiến chống GĐBK Pháp, tài liệu về công tác này cũng ít ỏi, sơ sài” - Thiếu tướng Nguyễn Quang Phòng chia sẻ. Tuy nhiên với cương vị là Trưởng phòng Nghiên cứu địch tình Bộ Công an lúc bấy giờ, ông đã cho chúng tôi tiếp cận nhiều nguồn tư liệu quý, đặc biệt căn cứ vào cuốn “Gián điệp biệt kích Pháp ở Đông Dương (1950-1956)” của tác giả Trần Vân do NXB CAND ấn hành năm 2009, chúng ta có thể bước đầu dựng lên “chân dung” và bộ mặt thật của đội quân nguy hiểm này.
Sau chiến dịch biên giới, quân viễn chinh Pháp thua đau và rơi vào thế bị động, thực dân Pháp phải tính đến cầu viện Mỹ. Đại tá Chester được CIA phái sang Đông Dương để giúp Pháp chống phong trào cộng sản ở Đông Dương và Trung Quốc bằng thủ đoạn lợi dụng người dân tộc thiểu số gây dựng những ổ du kích. Thibault de Saint-Phall dưới danh nghĩa phái đoàn kinh tế Mỹ đã tiếp kiến Cao uỷ Pignon và Quốc trưởng Bảo Đại nhằm cải tạo, nâng cấp Trường Biệt kích Vũng Tàu thành trường đào tạo du kích chống Cộng. Ngày 7/4/1951, Tướng De Lattre de Tassigni, Cao ủy kiêm Tổng Tư lệnh quân viễn chinh Pháp tại Đông Dương đã ký Quyết định số 174 thành lập Cơ quan tác chiến trực thuộc Cơ quan tình báo chiến lược Pháp (SDECE). Để giữ bí mật nhằm che đậy tính chất gián điệp của cơ quan tác chiến đặc biệt này, Pháp đã chọn tên bí mật là Binh đoàn Biệt kích Hỗn hợp nhảy dù (Groupement de Commandó Mixtes Aeroprtes, viết tắt là GCMA) do viên Trung tá Edmon Grall làm Tư lệnh. GCMA thuộc quyền chỉ huy trực tiếp của Tổng Tư lệnh quân viễn chinh, có nhiệm vụ chính là xâm nhập toàn bộ khu vực Việt Minh kiểm soát và gây nên thế thường xuyên bất ổn ở hậu phương đối thủ, đặc biệt là ở địa bàn sắc tộc ít người như Thổ, Thái, Nùng, Mông, Mường…
Trong suốt thời gian trước, trong và sau Chiến dịch Điện Biên Phủ, CGMA hoạt động mạnh ở nhiều địa phương trên cả nước, tập trung ở địa bàn 5 tỉnh: Lai Châu (hiện nay là 2 tỉnh Điện Biên và Lai Châu), Lào Cai, Sơn La, Nghĩa Lộ (nay thuộc Yên Bái) và Hà Giang, gây nhiều tội ác và tổn thất cho cách mạng. Được CGMA hà hơi tiếp sức qua việc tăng cường lực lượng (nhảy dù xuống các địa phương), trang bị vũ khí, quân trang, quân dụng và nhiều phương tiện vật chất khác, bọn phản động, phìa tạo địa phương đã nổi phỉ, âm mưu thành lập “xứ Mường tự trị”, “xứ Thái tự trị”, “xứ Mèo tự trị” nhằm phá hoại hậu phương kháng chiến, chặt đứt các tuyến đường vận chuyển của ta cho mặt trận Điện Biên Phủ.
Đến cuối năm 1953, chỉ riêng tại địa bàn Lào Cai, GCMA đã tập hợp 4 cụm GĐBK lớn với 5.500 tên do trùm phỉ Châu Quáng Lồ chỉ huy. Châu Quáng Lồ nguyên là một tướng cướp hung bạo cầm đầu sắc tộc Mông ở tổng Pha Long, huyện Mường Khương. Được sự trợ giúp của quan thầy Pháp và các thế lực phản động, đội quân GCMA của Châu Quáng Lồ đã đẩy mạnh hoạt động, liên tiếp tổ chức tiến công đánh chiếm, giết hại cán bộ ở Mường Khương, Si Ma Cai, Bắc Hà.
Trên địa bàn tỉnh Sơn La, tháng 8/1953, sau khi rút quân khỏi cứ điểm Nà Sản, thực dân Pháp tăng viện và kích động bọn tề, nguỵ, phản động ở Thuận Châu, Sốp Cộp, Sông Mã, Quỳnh Nhai gây bạo loạn. Lực lượng GCMA nhảy dù xuống huyện Thuận Châu để tiếp sức cho bọn phỉ do tên Bạc Cầm Thủy cầm đầu. Chúng đàn áp dân, bắt người dân theo phỉ tập trung hình thành các cụm phỉ lớn ở khu vực 2 xã Long Hẹ, Co Tòng (vùng tam giác Sơn La - Tuần Giáo - Điện Biên Phủ) để phá hoại hậu phương của ta. Cùng với những cuộc hành binh của Trung đoàn Sông Đà do Đại tá Berteil chỉ huy, quân Pháp thực hiện chiến dịch Ferdinand chiếm giữ 104 bản làng thuộc địa bàn tỉnh Sơn La, thu nạp thổ ty và lính ngụy cũ, bắt ép thanh niên trai tráng theo phỉ. Sau một thời gian ngắn, lực lượng GCMA và đám tề ngụy phản động đã dựng lên 3 khu biệt kích ở Thuận Châu, Co Tòng và Pa Lao với diện tích lên đến 1.000km2, trong đó có 15 cây số đường huyết mạch số 41 (nay là quốc lộ 6) - con đường vận chuyển chiến lược của ta từ Việt Bắc và khu 4 lên chiến trường Điện Biên Phủ. Theo các tài liệu, đến tháng 8-1953, số quân GCMA ở khu vực Sơn La đã lên đến hơn 3.500 tên.
Để đối phó với sự tấn công của ta, đỡ đòn cho Điện Biên Phủ và tái chiếm thị trấn Lai Châu, thực dân Pháp đã cho nhiều toán GCMA nhảy dù xuống các khu vực thuộc các địa bàn: Tuần Giáo, Mường Lay (Điện Biên), Quỳnh Hồ (Sìn Hồ - Quỳnh Nhai), Mường Tè, Phong Thổ (Lai Châu) để tập hợp số tàn binh bại trận và những tên tề, nguỵ, phỉ cũ có nhiều tội ác với nhân dân ở hình thành nên các cụm phỉ lớn. Với mưu đồ “phỉ hoá toàn dân”, đầu năm 1954, đội quân GCMA đồng loạt gây bạo loạn ở một số địa bàn thuộc phía Bắc tỉnh Lai Châu (Phong Thổ, Tam Đường, Sìn Hồ). Do lực lượng chủ lực đang dồn sức cho Chiến dịch Điện Biên Phủ nên các toán phỉ đã bạo loạn và chiếm gần hết các xã thuộc huyện Mường Tè. Chúng xây dựng hệ thống đồn bốt, công sự khống chế cả một vùng rộng hơn 8.000km2… gây nhiều tổn thất cho chính quyền và nhân dân các dân tộc Tây Bắc…
Mạnh Hà – Anh Hiếu – Phan Hoạt
Chiến công của tình báo, an ninh Hà Nội trong kháng chiến chống Pháp
Cập nhật lúc: 06:17 18/10/2016 (GMT+7)
VOV.VN - Lực lượng an ninh, điệp báo Công an Hà Nội đã tham gia bảo vệ chính quyền cách mạng năm 1946 và tích cực kháng chiến chống thực dân Pháp sau đó.
Trung Hiếu/VOV.VN
Hơn 3.600 ngày đấu trí với gián điệp, biệt kích
13:52 29/04/2016
Trong những năm kháng chiến chống Mỹ, địa bàn tỉnh Lai Châu
(cũ) là một trong những trọng điểm địch tung các toán gián điệp, biệt
kích (GĐBK) xâm nhập nhằm tạo dựng các tổ chức phỉ hoạt động vũ trang,
thu thập tin tức tình báo, phá hoại hậu phương lớn miền Bắc. Song cán
bộ, chiến sĩ Công an tỉnh Lai Châu luôn cảnh giác, mài sắc ý chí tiến
công, tiêu diệt và bắt gọn 19 toán GĐBK với trên 100 tên…
- Biệt kích 'Hạ Long' và 'truyền kỳ' 10 năm
- Đội biệt kích mang tên báo tuyết
- Dấu ấn lặng thầm sau những chiến công chống gián điệp biệt kích
- Cuộc đấu tranh chống gián điệp biệt kích ở miền Bắc
Người ta vẫn gọi Anh hùng LLVTND Nguyễn Trọng Tháp là vị tướng miền biên ải vì ông có gần 40 năm gắn bó với Tây Bắc. Ông nguyên là Giám đốc Ty Công an Lai Châu, Cục trưởng Cục chống phản động, Trưởng đoàn chuyên gia Công an tại nước bạn Lào. Ông là một trong những vị tiền bối của đội quân 25 người thuộc Ty Công an Lai Châu ngày đầu thành lập (1-1952), nhưng những năm tháng hoạt động ở vùng đất hiểm cực Tây của Tổ quốc, cuộc đấu tranh với đội quân GĐBK vẫn để lại cho ông nhiều kỷ niệm. Đó thực sự là cuộc đấu trí, đấu dũng (lời của ông - PV) giữa một bên là đội quân được Mỹ đào tạo bài bản với các chiến sĩ Công an quả cảm...
Cuộc chiến đấu chống GĐBK trên địa bàn Tây Bắc nói chung, Lai Châu nói riêng thực sự bắt đầu từ tháng 5-1961, khi Bộ Công an quyết định xác lập Chuyên án PY27. Nhưng trước đó trên địa bàn tỉnh Lai Châu, hai toán GĐBK nhảy dù xuống khu vực Khoa Di Tổng (nơi tiếp giáp với 3 huyện Mường Chà, Tuần Giáo và Điện Biên hiện nay); do cảnh giác và có sự chuẩn bị, nên ngay khi dù vừa chạm đất, cả toán GĐBK đã bị các chiến sĩ Công an tóm gọn cùng hai kiện hàng, bao gồm vũ khí, điện đài, quân trang quân dụng và các nhu yếu phẩm.
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Tháp kể lại: "Sau khi đấu tranh khai thác nhóm đầu tiên, chúng tôi đã tương kế tựu kế cho người mặc quần áo biệt kích, đóng giả toán trưởng, nhử mồi để “câu” các toán GĐBK khác. Cái khó nhất khi vào vai một tên biệt kích là chúng tôi phải nhớ được các tiếng lóng, các biệt hiệu, mật khẩu, các phiên liên lạc, giờ lên máy, mật hiệu, cử chỉ và cách ăn nói của chúng. Sau hai tuần tập luyện, các cán bộ Công an của ta đã khắc phục được những khó khăn này".
Thiếu tướng, Anh hùng LLVTND Nguyễn Trọng Tháp. |
Qua đấu tranh của ta, được biết đối tượng mà địch tuyển vào biệt kích là những tên có họ hàng, hoặc bản thân từng làm tay sai cho Pháp, Nhật đã di cư vào Nam. Nên khi bắt được bọn này, đấu tranh để khai thác thông tin chính xác thật không đơn giản. Chúng hết sức ngoan cố, dùng nhiều thủ đoạn để đánh lừa Công an. Quần nhau với từng tên không phải chỉ để biết đơn thuần nghiệp vụ, các chiến sĩ Công an còn nắm được gia cảnh, khai thác tình cảm để dùng cả tình cảm khai thác nghiệp vụ.
Cán bộ lấy lời khai phải là người có trình độ, giỏi nghiệp vụ và nhiều lĩnh vực khác, tuỳ trình độ từng tên để đấu tranh, thuyết phục, có tên cả tuần vẫn câm như hến. Như Nông Văn Đ., lấy cháu “vua” Đèo Văn Long, đã hơn 50 tuổi, khi ấy các trinh sát của ta phải đi sâu vào tình cảm, đấu tranh ròng rã cả chục ngày hắn mới khai.
Thiếu tướng Nguyễn Trọng Tháp trong hội thảo khoa học về Chuyên án PY27, đã tâm sự: Lúc đầu ông rất lo lắng, không cẩn trọng là thất bại công việc hệ trọng mà Đảng đã giao cho mình. Nhưng ông lại nghĩ: Tụi nó phi nghĩa mà làm được, tại sao mình chính nghĩa lại không làm được? Ông trực tiếp đóng giả các toán trưởng, tập dượt nhiều lần để anh em tham gia góp ý.
Khi đã lấy được những thông tin cần thiết, lực lượng Công an lại phải dùng mọi cách để đánh lừa sao cho chiếm được lòng tin của “Trung tâm” ở Sài Gòn, định kỳ gửi cho ta nhiều vũ khí, hàng hoá và những toán GĐBK khác.
Thời kỳ 1968 – 1970, sau những thất bại nặng nề ở miền Nam, đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn liên tiếp tung ra miền Bắc (trong đó có Lai Châu) các toán GĐBK, nhằm đẩy mạnh các hoạt động phá hoại và chỉ điểm cho máy bay bắn phá các mục tiêu kinh tế, các cơ quan đầu não của ta.
Lúc bấy giờ, “Trung tâm” GĐBK Sài Gòn rất “đói” tin tức phá hoại. Phía ta lập tức cho “Trung tâm” nhiều “tin vịt” là những “chiến tích” được thực hiện ở Lai Châu: Hôm nay kho tàng X ở tọa độ N bị đánh mìn nổ tung; hôm sau cầu Y ở tọa độ M bị phá sập, kéo theo hàng chục xe quân sự cùng lính cộng sản xuống sông! Ở Sài Gòn, “Trung tâm” rất hài lòng, gửi điện khen và hàng hoá “thưởng” cho nhóm “biệt kích” ở Lai Châu!
Sau vụ đầu tiên (1961) thành công, ta tương kế tựu kế liên tiếp giành thắng lợi nhiều chuyên án bắt GĐBK. Tất nhiên không phải vụ nào cũng dễ dàng thành công, có những vụ thì do thời tiết xấu máy bay không thả hàng được; có vụ do trục trặc kỹ thuật, “Trung tâm” điện ra đề nghị tự túc lương thực vài ngày! Có vụ máy bay lượn nhiều vòng trên khu vực có ám hiệu nhưng do ta sơ suất trong phát tín hiệu liên lạc, máy bay không dám thả biệt kích xuống, anh em lại phải về không sau nhiều ngày mật phục trong rừng.
Đánh GĐBK là phải huy động được sức mạnh của toàn dân. Ngay sau vụ đầu tiên, Công an Lai Châu đã lập, triển khai phương án phòng chống GĐBK đến từng xã, bản. Tất cả những bãi đất trống, bằng phẳng nghi biệt kích có thể nhảy dù, đều bố trí lực lượng dân quân mai phục. Tất cả ngựa thồ phải lập danh sách chủ ngựa, khi có lệnh đi thồ hàng máy bay địch thả xuống là phải lên đường ngay, mỗi dân quân phải có 3kg gạo ở bao tượng. Khi có hiệu lệnh, người dân hăng hái kéo nhau đi bắt biệt kích. Nhân dân xã Thanh Luông (Điện Biên) chỉ sau một đêm đã gói hơn 2.300 bánh chưng cho dân quân đi bắt biệt kích.
Lực lượng Công an và dân quân xã Na Ư (Điện Biên) truy tìm dấu vết một toán gián điệp, biệt kích. |
Trong 10 năm là hơn 3.600 ngày (từ 1961 đến năm 1971), là quãng thời gian lực lượng Công an Lai Châu phải đấu trí với cả một hệ thống tình báo gián điệp dày dạn của Mỹ - nguỵ, chứ không chỉ riêng những tên nhảy dù phá hoại. Trong những năm ấy, được sự chỉ đạo sát sao, kịp thời của Bộ Công an, nhất là cá nhân đồng chí Bộ trưởng Trần Quốc Hoàn, Công an Khu Tây Bắc cũng như sự giúp đỡ của đông đảo quần chúng nhân dân, Công an tỉnh Lai Châu đã phát hiện, tiêu diệt, bắt sống 19 toán với hơn 100 tên, thu giữ 200 tấn vũ khí, quân trang, quân dụng và hàng hoá.
Có những vụ như Chuyên án HL17 kéo dài 6 năm (từ 17-4-1962 đến 12-4-1968), đã thu được những thành công ngoài mong đợi. Ta nắm được nhiều thông tin quan trọng của địch về âm mưu hoạt động GĐBK đối với miền Bắc nói chung và Lai Châu nói riêng, để có đối sách kịp thời. Đồng thời tung nhiều tin giả cho “Trung tâm” chỉ huy, làm rối loạn nhận định của địch, thu hút toàn bộ GĐBK bằng đường không của chúng ở Điện Biên.
Trong những năm tháng ác liệt đó, tay súng của cán bộ, chiến sĩ Công an tỉnh Lai Châu cùng các lực lượng vũ trang khác đã không một phút lơi lỏng, ý chí tiến công luôn luôn được mài sắc. Trên con đường chiến đấu gian khổ và tự hào, lòng dân biên giới tiếp thêm sức mạnh, giúp lực lượng Công an trụ vững và chiến thắng…
Hoa Oanh Vũ
Biệt kích 'Hạ Long' và 'truyền kỳ' 10 năm
08:02 17/08/2015
Sáng sớm 9/4/1961, ông Ngột là người thôn La Khê, xã Tiền
An, Yên Hưng, Hồng Quảng (nay là Quảng Ninh) phát hiện một chiếc thuyền
lạ không có người lái dạt vào cống Đầm. Buổi chiều cùng ngày, bà Trời đi
hái lá phát hiện một người đàn ông mặc áo cỏ úa đang lúi húi trên đồi
nhà anh Đắc. Thấy bà Trời, người đàn ông này trốn vào bụi cây.
>> Bài 1: “BK” và chiến thuật dùng địch đánh địch
>> Bài 1: “BK” và chiến thuật dùng địch đánh địch
Ban đầu, bà Trời nghi người này rình mò ăn trộm gì đó trong vườn
nhà anh Đắc, nhưng để ý nhiều giờ thấy thái độ, hành động khác lạ nên
báo cho chính quyền địa phương. Ngay lập tức, thông tin được báo ngay
lên Công an huyện, Công an tỉnh. Hai ngày sau, anh Lẫm là con trai bà
Trời sang nhà anh Đắc chơi, bất ngờ thấy một người đàn ông đang nằm võng
ở trong buồng nhà, có dấu hiệu khác thường. Anh Lẫm nghi ngờ đó là
Chuyên, anh trai của Đắc trốn khỏi quê năm ngoái.
Tổng hợp các nguồn tin, lãnh đạo Ty Công an Hồng Quảng nhận định, có
khả năng Mỹ tung gián điệp biệt kích (GĐBK) ra miền Bắc bằng con thuyền
lạ vào địa bàn xã Tiền An. Ty Công an triển khai các mũi trinh sát xác
minh, mặt khác cử cán bộ lên báo cáo xin chỉ đạo cấp trên.
Được sự chỉ đạo của Bộ và sự phối kết hợp giữa Công an các tỉnh ven biển, Công an Hồng Quảng xác định chiếc thuyền lạ dạt vào cống Đầm được làm từ miền Nam. Một bộ phận trinh sát kiểm tra hồ sơ các đối tượng đã trốn vào Nam và giám sát các đối tượng, những cơ sở nghi có gián điệp xâm nhập ẩn náu. Từ đó, Công an Hồng Quảng thu hẹp diện đối tượng và tập trung hướng điều tra vào Phạm Chuyên, người làng La Khê, đã trốn đi Nam từ tháng 6/1959.
Thẩm tra lý lịch thấy rằng, Chuyên sinh năm 1928, bố mất trong cải cách ruộng đất, nay còn mẹ, vợ và hai em. Trước Cách mạng Tháng Tám, Chuyên đi lính cho Pháp, sau đó về quê tham gia cách mạng, từng hoạt động trong Thanh niên Cứu quốc, Ban Trinh sát đặc biệt, Ty Công an Hồng Quảng. Sau này, Chuyên về nhà dạy học và liên lạc được với cách mạng, tiếp tục thoát ly công tác.
Từ năm 1948 đến 1957, Chuyên qua nhiều công tác khác nhau như tuyên huấn tỉnh ủy, ban thi đua tỉnh, phóng viên Báo Việt Nam độc lập… Khi bố mất, Chuyên sinh bất mãn trở về quê, làm thơ ca có ý chống đối. Tòa án tỉnh gọi lên nhưng hôm sau Chuyên bỏ trốn. Trong khi đó, Phạm Đắc và Phạm Ốc là em trai của Chuyên thường lén lút vào rừng lúc chập choạng tối.
Đêm 6/6/1961, tổ trinh sát theo dõi phát hiện Đắc đi ra ngoài có mang
theo gói đồ, khi kiểm tra phát hiện một máy phát điện quay tay, một số
phụ tùng thu phát liên lạc của máy vô tuyến điện. Đắc khai, anh trai
Phạm Chuyên từ Nam ra, đang trốn trong rừng. Đắc, Chuyên, Ốc đã chôn
giấu máy liên lạc ở gốc si trên núi Đất. Ngay đêm đó, Công an Hồng Quảng
thu được một máy vô tuyến điện và một số tài liệu khác.
Vốn là người thông minh, ham học, đã tham gia nhiều vị trí trong chính quyền cách mạng trước khi thành điệp viên nên Chuyên có nhiều biện pháp đối phó với cơ quan an ninh. Trước tình hình đó, đồng chí Nguyễn Tài, Cục trưởng K61 đã trực tiếp về Hồng Quảng chỉ đạo quá trình xét hỏi, thuyết phục Chuyên tự nguyện cộng tác để lập công chuộc tội.
Giáp mặt đồng chí Nguyễn Tài, dần dần Chuyên đã bị thu phục và thành khẩn khai báo về quá trình huấn luyện, hành trình trở lại miền Bắc. Khi xâm nhập, Chuyên được đặt bí số là “Hạ Long” và trung tâm địch giao 3 nhiệm vụ, gồm: điều tra các mục tiêu quân sự, kinh tế ở khu vực Đông Bắc và Hải Phòng, chỉ điểm cho máy bay đánh phá; thu thập tin tức tình báo gửi về trung tâm; xây dựng cơ sở, căn cứ, tiếp nhận hàng hóa và lực lượng tăng cường từ trung tâm gửi ra.
Trước khi bị bắt, Chuyên đã xây dựng được 3 người để giúp việc là Đắc, Ốc và Đàm Quang Hiển, gửi thư thăm dò một số người để xây dựng cơ sở. Cho đến khi bị bắt, Chuyên đã thực hiện 8 phiên liên lạc bằng vô tuyến điện với trung tâm và viết một số bưu thiếp gửi vào Nam theo địa chỉ quy định. Căn cứ điều kiện thực tế và yêu cầu đấu tranh, ta quyết định lập án đấu tranh, đặt bí số là BK63, với chiến thuật dùng người của địch, phương tiện của địch để đánh lại trung tâm địch.
Phiên liên lạc đầu tiên của “Hạ Long” với đài P8M được thực hiện tại trại giam Ty Công an Hồng Quảng dưới sự giám sát chặt chẽ của các chuyên viên kỹ thuật. Qua phiên liên lạc này, địch tin tưởng và giao nhiệm vụ cho “Hạ Long”, đồng thời ta cung cấp tin giả đánh lại địch và đề nghị cung cấp hàng tiếp tế. Tin vào “Hạ Long”, ngày 16/1/1962, địch cho tàu biển chở hàng tiếp tế. Ban chuyên án phối hợp Công an vũ trang bắt tàu, thủy thủ đoàn và thu toàn bộ hàng hóa, đồng thời báo cho trung tâm địch không nhận được hàng do biển động.
Ngày 25/2/1962, trung tâm tiếp tế lần thứ hai tại hang Đầu Gỗ, đảo Ngôi Sao, gồm 23 kiện lương thực, thuốc men và 7 kiện thuốc nổ, súng đạn, máy vô tuyến điện. Sau hai lần tiếp tế bằng đường biển, trung tâm địch yêu cầu “Hạ Long” thị sát, xác định tọa độ khu rừng Đông Triều và Hoành Bồ để tiếp tế bằng đường không. Ban Chuyên án cho báo tọa độ, chủ động bố trí lực lượng đón bắt. Chuyến tiếp tế thứ ba với 5 kiện hàng và 1 toán biệt kích gồm 6 tên được tung ra.
Đến tháng 10/1963, chúng tung ra đợt tiếp tế thứ tư cho “Hạ Long”, sau đó tăng cường thêm hai toán có biệt danh là Eagle, Redrgne xuống địa bàn Hà Bắc và Hà Giang gồm 12 tên. Sau khi tăng cường 3 toán hoạt động sâu trong nội địa ta, trung tâm địch còn nhiều lần tiếp tế bằng đường không với khối lượng lớn phương tiện hoạt động, thuốc chữa bệnh theo yêu cầu của ban chuyên án.
Nhằm đi sâu tìm hiểu âm mưu địch cũng như phát hiện bằng hết số cơ sở cài cắm vùng Đông Bắc, Ban chuyên án cho “Hạ Long” yêu cầu thực hiện liên lạc bằng hộp thư và trực tiếp chuyển giao tài liệu qua đường thủy. Trung tâm địch tiếp tục mắc mưu ta, đã bộc lộ một số cơ sở cài cắm, đồng thời hai lần cử điệp viên đi trên tàu của nước thứ ba cập cảng Hải Phòng trực tiếp chuyển tài liệu cho Chuyên.
Cuối năm 1969, địch bộc lộ ý đồ rút các đối tượng về Sài Gòn để củng cố. Trước tình hình đó, cơ quan an ninh xét thấy những nhiệm vụ cơ bản của chuyên án đã đạt được nên quyết định kết thúc. Như vậy, với 10 năm đấu tranh Chuyên án BK63, ta đã điều khiển trung tâm địch thực hiện 5 lần tiếp tế, tăng cường 3 toán GĐBK, cung cấp cho địch hàng trăm tin giả phục vụ ý đồ đấu tranh của ta, đồng thời khai thác được nhiều tin tức quan trọng.
Thông qua “Hạ Long”, ta đã phát hiện được các đầu mối quan trọng của địch. Thắng lợi của chuyên án là kết quả sự chỉ đạo chặt chẽ, sự hợp đồng tác chiến giữa các lực lượng và kết quả công tác vận động quần chúng.
Được sự chỉ đạo của Bộ và sự phối kết hợp giữa Công an các tỉnh ven biển, Công an Hồng Quảng xác định chiếc thuyền lạ dạt vào cống Đầm được làm từ miền Nam. Một bộ phận trinh sát kiểm tra hồ sơ các đối tượng đã trốn vào Nam và giám sát các đối tượng, những cơ sở nghi có gián điệp xâm nhập ẩn náu. Từ đó, Công an Hồng Quảng thu hẹp diện đối tượng và tập trung hướng điều tra vào Phạm Chuyên, người làng La Khê, đã trốn đi Nam từ tháng 6/1959.
Thẩm tra lý lịch thấy rằng, Chuyên sinh năm 1928, bố mất trong cải cách ruộng đất, nay còn mẹ, vợ và hai em. Trước Cách mạng Tháng Tám, Chuyên đi lính cho Pháp, sau đó về quê tham gia cách mạng, từng hoạt động trong Thanh niên Cứu quốc, Ban Trinh sát đặc biệt, Ty Công an Hồng Quảng. Sau này, Chuyên về nhà dạy học và liên lạc được với cách mạng, tiếp tục thoát ly công tác.
Từ năm 1948 đến 1957, Chuyên qua nhiều công tác khác nhau như tuyên huấn tỉnh ủy, ban thi đua tỉnh, phóng viên Báo Việt Nam độc lập… Khi bố mất, Chuyên sinh bất mãn trở về quê, làm thơ ca có ý chống đối. Tòa án tỉnh gọi lên nhưng hôm sau Chuyên bỏ trốn. Trong khi đó, Phạm Đắc và Phạm Ốc là em trai của Chuyên thường lén lút vào rừng lúc chập choạng tối.
Một bản tin trong Chuyên án BK63 được GĐBK gửi về trung tâm địch, nội dung do cơ quan an ninh soạn thảo. |
Vốn là người thông minh, ham học, đã tham gia nhiều vị trí trong chính quyền cách mạng trước khi thành điệp viên nên Chuyên có nhiều biện pháp đối phó với cơ quan an ninh. Trước tình hình đó, đồng chí Nguyễn Tài, Cục trưởng K61 đã trực tiếp về Hồng Quảng chỉ đạo quá trình xét hỏi, thuyết phục Chuyên tự nguyện cộng tác để lập công chuộc tội.
Giáp mặt đồng chí Nguyễn Tài, dần dần Chuyên đã bị thu phục và thành khẩn khai báo về quá trình huấn luyện, hành trình trở lại miền Bắc. Khi xâm nhập, Chuyên được đặt bí số là “Hạ Long” và trung tâm địch giao 3 nhiệm vụ, gồm: điều tra các mục tiêu quân sự, kinh tế ở khu vực Đông Bắc và Hải Phòng, chỉ điểm cho máy bay đánh phá; thu thập tin tức tình báo gửi về trung tâm; xây dựng cơ sở, căn cứ, tiếp nhận hàng hóa và lực lượng tăng cường từ trung tâm gửi ra.
Trước khi bị bắt, Chuyên đã xây dựng được 3 người để giúp việc là Đắc, Ốc và Đàm Quang Hiển, gửi thư thăm dò một số người để xây dựng cơ sở. Cho đến khi bị bắt, Chuyên đã thực hiện 8 phiên liên lạc bằng vô tuyến điện với trung tâm và viết một số bưu thiếp gửi vào Nam theo địa chỉ quy định. Căn cứ điều kiện thực tế và yêu cầu đấu tranh, ta quyết định lập án đấu tranh, đặt bí số là BK63, với chiến thuật dùng người của địch, phương tiện của địch để đánh lại trung tâm địch.
Phiên liên lạc đầu tiên của “Hạ Long” với đài P8M được thực hiện tại trại giam Ty Công an Hồng Quảng dưới sự giám sát chặt chẽ của các chuyên viên kỹ thuật. Qua phiên liên lạc này, địch tin tưởng và giao nhiệm vụ cho “Hạ Long”, đồng thời ta cung cấp tin giả đánh lại địch và đề nghị cung cấp hàng tiếp tế. Tin vào “Hạ Long”, ngày 16/1/1962, địch cho tàu biển chở hàng tiếp tế. Ban chuyên án phối hợp Công an vũ trang bắt tàu, thủy thủ đoàn và thu toàn bộ hàng hóa, đồng thời báo cho trung tâm địch không nhận được hàng do biển động.
Ngày 25/2/1962, trung tâm tiếp tế lần thứ hai tại hang Đầu Gỗ, đảo Ngôi Sao, gồm 23 kiện lương thực, thuốc men và 7 kiện thuốc nổ, súng đạn, máy vô tuyến điện. Sau hai lần tiếp tế bằng đường biển, trung tâm địch yêu cầu “Hạ Long” thị sát, xác định tọa độ khu rừng Đông Triều và Hoành Bồ để tiếp tế bằng đường không. Ban Chuyên án cho báo tọa độ, chủ động bố trí lực lượng đón bắt. Chuyến tiếp tế thứ ba với 5 kiện hàng và 1 toán biệt kích gồm 6 tên được tung ra.
Đến tháng 10/1963, chúng tung ra đợt tiếp tế thứ tư cho “Hạ Long”, sau đó tăng cường thêm hai toán có biệt danh là Eagle, Redrgne xuống địa bàn Hà Bắc và Hà Giang gồm 12 tên. Sau khi tăng cường 3 toán hoạt động sâu trong nội địa ta, trung tâm địch còn nhiều lần tiếp tế bằng đường không với khối lượng lớn phương tiện hoạt động, thuốc chữa bệnh theo yêu cầu của ban chuyên án.
Nhằm đi sâu tìm hiểu âm mưu địch cũng như phát hiện bằng hết số cơ sở cài cắm vùng Đông Bắc, Ban chuyên án cho “Hạ Long” yêu cầu thực hiện liên lạc bằng hộp thư và trực tiếp chuyển giao tài liệu qua đường thủy. Trung tâm địch tiếp tục mắc mưu ta, đã bộc lộ một số cơ sở cài cắm, đồng thời hai lần cử điệp viên đi trên tàu của nước thứ ba cập cảng Hải Phòng trực tiếp chuyển tài liệu cho Chuyên.
Cuối năm 1969, địch bộc lộ ý đồ rút các đối tượng về Sài Gòn để củng cố. Trước tình hình đó, cơ quan an ninh xét thấy những nhiệm vụ cơ bản của chuyên án đã đạt được nên quyết định kết thúc. Như vậy, với 10 năm đấu tranh Chuyên án BK63, ta đã điều khiển trung tâm địch thực hiện 5 lần tiếp tế, tăng cường 3 toán GĐBK, cung cấp cho địch hàng trăm tin giả phục vụ ý đồ đấu tranh của ta, đồng thời khai thác được nhiều tin tức quan trọng.
Thông qua “Hạ Long”, ta đã phát hiện được các đầu mối quan trọng của địch. Thắng lợi của chuyên án là kết quả sự chỉ đạo chặt chẽ, sự hợp đồng tác chiến giữa các lực lượng và kết quả công tác vận động quần chúng.
Minh Đăng
Đội biệt kích mang tên báo tuyết
09:00 29/07/2015
Đội biệt kích Báo tuyết (trước đây có tên gọi là đội Sói tuyết) là đơn vị đặc nhiệm danh tiếng và rất tinh nhuệ của Cảnh sát Trung Quốc. Đội có nhiệm vụ chống khủng bố, chống bạo loạn, chống không tặc, bắt cóc con tin…Các thành viên của đội có khả năng hành quân, chiến đấu và sống sót trong những điều kiện thời tiết, địa hình, hỏa lực rất khắc nghiệt.
Sau khi được thành lập trong một buổi lễ bí mật vào tháng
10/2002, biệt đội Báo tuyết (SWCU) được luyện tập ẩn danh trong vòng gần
4 năm. Đội chỉ chính thức xuất hiện trong dịp diễu hành chung cùng đơn
vị cảnh sát đặc nhiệm thủ đô Bắc Kinh tại Học viện Cảnh sát Bắc Kinh
tháng 4/2006 để biểu dương sức mạnh lực lượng của Cảnh sát Trung Quốc
trong cuộc chiến chống khủng bố, bảo vệ các đoàn đại biểu và đảm bảo an
ninh cho Thế vận hội Olympic Bắc Kinh.
Tiếp đó, SWCU tham gia diễn tập chống khủng bố với Cảnh sát Nga trong khuôn khổ cuộc diễn tập có tên "Hợp tác 2007". Sau cuộc diễn tập trên, các đội viên SWCU được điều đến Afghanistan và Iraq để bảo vệ các phái bộ của Trung Quốc tại đây trước khi chính thức được đổi tên thành đội Báo tuyết (SLCU), cái tên bắt nguồn từ câu chuyện truyền kỳ về sự khôn ngoan và dũng cảm của các chú báo tuyết, những con vật có thể sống trong những điều kiện khắc nghiệt, thoát khỏi những người thợ săn lâu năm và bầy chó săn thiện chiến của họ.
Để trở thành đội viên của SLCU, các ứng viên đã phải phục vụ trong
lực lượng vũ trang Trung Quốc ít nhất 1 năm. Sau khi nộp hồ sơ và lọt
qua vòng kiểm tra, các ứng viên phải trải qua nhiều vòng xem xét, thẩm
tra về lý lịch, sức khỏe, tâm lý, trình độ, chỉ số thông minh. Chỉ một
tỷ lệ rất ít ứng viên trúng tuyển để trở thành học viên. Chủ yếu họ là
những người lính trẻ ở độ tuổi 20 - 22.
Tiếp đó, các học viên phải trải qua những khóa huấn luyện đặc biệt gian khổ, đẩy họ tới giới hạn. Họ được rèn luyện về thể lực, kỹ năng nhiều loại phương tiện (kể cả máy bay), kỹ năng chiến đấu, sinh tồn trong nhiều điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt, kỹ năng bắn súng và vũ khí, kiến thức pháp luật, nghiệp vụ, khả năng tác chiến nhóm, tinh thần đoàn kết, phục tùng mệnh lệnh cấp trên, không bỏ đồng đội lại chiến trường…
Trong đó, riêng về thể lực là các bài tập bơi lặn trong bể nước mặn, kéo xà 200 lần, đứng lên - ngồi xuống 200 lần, đẩy tạ 200 lần và mang vác quân trang hành quân chạy liên tục qua 10km đường rừng lầy lội và rậm rạp...
Sau những ngày tháng gian khổ huấn luyện, chỉ khoảng 20% học viên được đánh giá đạt và chính thức trở thành thành viên SLCU và được biên chế về các đơn vị. Kể cả khi đã trở thành đội viên, các thành viên SLCU cũng phải thường xuyên định kỳ tham gia huấn luyện và kiểm tra sức khỏe, các kỹ, chiến thuật mới để đảm bảo yêu cầu công tác. Tuổi đời trung bình hiện nay của đội SLCU chỉ là 22, khiến họ trở thành đội biệt kích trẻ tuổi nhất của lực lượng Cảnh sát Trung Quốc.
Đội biệt kích Báo tuyết gồm các phân đội có nhiệm vụ chuyên biệt: Phân đội chống khủng bố; Phân đội rà phá bom mìn và chống vũ khí hóa học; Phân đội lính bắn tỉa. Đội biệt kích này được trang bị những phương tiện và vũ khí hiện đại như trực thăng, ô tô chống đạn, súng tiểu liên bán tự động, xuồng cao tốc, lựu đạn, súng ngắn cực nhanh, áo giáp chống đạn, bộ đàm sóng ngắn, định vị vệ tinh, súng bắn tỉa có ống ngắm hồng ngoại, ống nhòm ban đêm… và nhiều loại trang bị đặc chủng khác do Trung Quốc tự sản xuất hoặc nhập khẩu từ Mỹ. Riêng số tiền mua vũ khí và thiết bị trang bị cá nhân cho mỗi đội viên SLCU ước tính trung bình lên đến 48.000 USD.
Lương dành cho thành viên SLCU cao gấp nhiều lần sỹ quan cảnh sát bình thường và họ cùng người thân được hưởng chế độ phúc lợi, ưu đãi thỏa đáng để các đội viên có thể yên tâm cống hiến cho công việc. Hằng năm, họ được giải quyết chế độ nghỉ phép dài hơn và được nghỉ mát, chăm sóc y tế, phục hồi sức khỏe miễn phí tại các cơ sở y tế uy tín của ngành. Trong thời gian công tác, nếu lập chiến công và công tác tốt, các đội viên sẽ có nhiều cơ hội thăng tiến và được khen thưởng xứng đáng.
Sau thời gian phục vụ trong SLCU, các đội viên được xem xét biên chế
về các đơn vị phù hợp để tiếp tục phục vụ trong lực lượng cảnh sát, được
ưu tiên thăng cấp, cử đi học tập nâng cao trình độ. Dù không được khen
thưởng công khai, không được xuất hiện trên các phương tiện truyền thông
đại chúng sau mỗi chiến công, không được chia sẻ với người thân về
những nhiệm vụ đang làm, đối mặt với hiểm nguy, nguy cơ chịu thương vong
cao nhưng việc được là đội viên của biệt đội đã trở thành một niềm mơ
ước và tự hào của rất nhiều chiến sỹ cảnh sát Trung Quốc hiện nay.
Nuôi quân ba năm dụng một giờ, trong những năm qua, Biệt đội Báo tuyết đã tham gia giữ gìn an ninh cho nhiều sự kiện lớn của Trung Quốc như Olympic 2008 và xử lý các tình huống an ninh phức tạp, đặc biệt nghiêm trọng như các vụ tấn công khủng bố xảy ra ở Bắc Kinh, Tân Cương… cùng nhiều vụ án, chuyên án, các chiến dịch đặc biệt khác tại các địa bàn khác nhau trên toàn quốc.
Trong tất cả các vụ việc tham gia, SLCU đều thể hiện bản lĩnh và năng lực, chịu đựng hy sinh, gian khổ, xử lý hiệu quả, chính xác và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, hạn chế thấp nhất thương vong xảy ra. Trong quá trình thực thi nhiệm vụ chưa có một trường hợp đội viên đặc nhiệm nào vi phạm kỷ luật nghiêm trọng hoặc thiếu tinh thần chiến đấu.
Biệt kích Báo tuyết được coi là một trong những biểu tượng mới của cảnh sát Trung Quốc trong thời hiện đại và hướng đến trở thành một trong những lực lượng cảnh sát đặc nhiệm tinh nhuệ hàng đầu thế giới.
Nguyễn Phạm
Tiếp đó, SWCU tham gia diễn tập chống khủng bố với Cảnh sát Nga trong khuôn khổ cuộc diễn tập có tên "Hợp tác 2007". Sau cuộc diễn tập trên, các đội viên SWCU được điều đến Afghanistan và Iraq để bảo vệ các phái bộ của Trung Quốc tại đây trước khi chính thức được đổi tên thành đội Báo tuyết (SLCU), cái tên bắt nguồn từ câu chuyện truyền kỳ về sự khôn ngoan và dũng cảm của các chú báo tuyết, những con vật có thể sống trong những điều kiện khắc nghiệt, thoát khỏi những người thợ săn lâu năm và bầy chó săn thiện chiến của họ.
Những bài tập luyện khắt khe. |
Tiếp đó, các học viên phải trải qua những khóa huấn luyện đặc biệt gian khổ, đẩy họ tới giới hạn. Họ được rèn luyện về thể lực, kỹ năng nhiều loại phương tiện (kể cả máy bay), kỹ năng chiến đấu, sinh tồn trong nhiều điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt, kỹ năng bắn súng và vũ khí, kiến thức pháp luật, nghiệp vụ, khả năng tác chiến nhóm, tinh thần đoàn kết, phục tùng mệnh lệnh cấp trên, không bỏ đồng đội lại chiến trường…
Trong đó, riêng về thể lực là các bài tập bơi lặn trong bể nước mặn, kéo xà 200 lần, đứng lên - ngồi xuống 200 lần, đẩy tạ 200 lần và mang vác quân trang hành quân chạy liên tục qua 10km đường rừng lầy lội và rậm rạp...
Sau những ngày tháng gian khổ huấn luyện, chỉ khoảng 20% học viên được đánh giá đạt và chính thức trở thành thành viên SLCU và được biên chế về các đơn vị. Kể cả khi đã trở thành đội viên, các thành viên SLCU cũng phải thường xuyên định kỳ tham gia huấn luyện và kiểm tra sức khỏe, các kỹ, chiến thuật mới để đảm bảo yêu cầu công tác. Tuổi đời trung bình hiện nay của đội SLCU chỉ là 22, khiến họ trở thành đội biệt kích trẻ tuổi nhất của lực lượng Cảnh sát Trung Quốc.
Đội biệt kích Báo tuyết gồm các phân đội có nhiệm vụ chuyên biệt: Phân đội chống khủng bố; Phân đội rà phá bom mìn và chống vũ khí hóa học; Phân đội lính bắn tỉa. Đội biệt kích này được trang bị những phương tiện và vũ khí hiện đại như trực thăng, ô tô chống đạn, súng tiểu liên bán tự động, xuồng cao tốc, lựu đạn, súng ngắn cực nhanh, áo giáp chống đạn, bộ đàm sóng ngắn, định vị vệ tinh, súng bắn tỉa có ống ngắm hồng ngoại, ống nhòm ban đêm… và nhiều loại trang bị đặc chủng khác do Trung Quốc tự sản xuất hoặc nhập khẩu từ Mỹ. Riêng số tiền mua vũ khí và thiết bị trang bị cá nhân cho mỗi đội viên SLCU ước tính trung bình lên đến 48.000 USD.
Lương dành cho thành viên SLCU cao gấp nhiều lần sỹ quan cảnh sát bình thường và họ cùng người thân được hưởng chế độ phúc lợi, ưu đãi thỏa đáng để các đội viên có thể yên tâm cống hiến cho công việc. Hằng năm, họ được giải quyết chế độ nghỉ phép dài hơn và được nghỉ mát, chăm sóc y tế, phục hồi sức khỏe miễn phí tại các cơ sở y tế uy tín của ngành. Trong thời gian công tác, nếu lập chiến công và công tác tốt, các đội viên sẽ có nhiều cơ hội thăng tiến và được khen thưởng xứng đáng.
Biệt đội tham gia chống bạo loạn, giải cứu con tin. |
Nuôi quân ba năm dụng một giờ, trong những năm qua, Biệt đội Báo tuyết đã tham gia giữ gìn an ninh cho nhiều sự kiện lớn của Trung Quốc như Olympic 2008 và xử lý các tình huống an ninh phức tạp, đặc biệt nghiêm trọng như các vụ tấn công khủng bố xảy ra ở Bắc Kinh, Tân Cương… cùng nhiều vụ án, chuyên án, các chiến dịch đặc biệt khác tại các địa bàn khác nhau trên toàn quốc.
Trong tất cả các vụ việc tham gia, SLCU đều thể hiện bản lĩnh và năng lực, chịu đựng hy sinh, gian khổ, xử lý hiệu quả, chính xác và hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, hạn chế thấp nhất thương vong xảy ra. Trong quá trình thực thi nhiệm vụ chưa có một trường hợp đội viên đặc nhiệm nào vi phạm kỷ luật nghiêm trọng hoặc thiếu tinh thần chiến đấu.
Biệt kích Báo tuyết được coi là một trong những biểu tượng mới của cảnh sát Trung Quốc trong thời hiện đại và hướng đến trở thành một trong những lực lượng cảnh sát đặc nhiệm tinh nhuệ hàng đầu thế giới.
Nguyễn Phạm
- Nhận đường liên kết
- X
- Ứng dụng khác
Nhận xét
Đăng nhận xét