SỰ NGU XUẨN CỦA CUỘC SỐNG 37
-Xét
được sống còn trong no đủ là mưu cầu cơ bản và ước nguyện chính đáng
của mọi cuộc đời, thì sẽ phân biệt được chiến tranh phi nghĩa và chiến
tranh chính nghĩa, sự phòng vệ chính đáng cũng như sự bắt buộc hạ sát
lực lượng đối kháng. Và khi phải hành động xả thân vì lẽ phải, con người
trở nên vô cùng cao quí.
-Nhưng xét trên bình diện đánh giá sự sống là thứ quí giá nhất trên đời, thì giết chóc lẫn nhau, dù là giết chóc bắt buộc, là hành động điên rồ tột bậc của con người và chiến tranh, dù là chiến tranh chính nghĩa, vẫn là sự ngu xuẩn vô hạn, dù là sự ngu xuẩn tự giác, nhân danh bảo vệ sự sống!
-Đứng lên trên tất cả mà phán xét, thì:
trí tuệ siêu việt của con người thậm ngu ngốc!
-Chân lý là đây:
Chiến tranh là mệnh lệnh tối thượng của tự nhiên mù quáng đối với trí tuệ sáng suốt của loài người: hãy giết chóc lẫn nhau!
-Như vậy, muốn không còn chiến tranh nữa, con người hoặc không còn lòng tham và tính tư hữu hoặc trở lại suy nghĩ tăm tối như hươu, nai.
-Nhưng hết chiến tranh rồi, xã hội loài người có hết bạo tàn?
-----------------------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)
Hình ảnh chiến binh Sparta đầy dũng mãnh trên chiến trường. Hình minh họa
-Nhưng xét trên bình diện đánh giá sự sống là thứ quí giá nhất trên đời, thì giết chóc lẫn nhau, dù là giết chóc bắt buộc, là hành động điên rồ tột bậc của con người và chiến tranh, dù là chiến tranh chính nghĩa, vẫn là sự ngu xuẩn vô hạn, dù là sự ngu xuẩn tự giác, nhân danh bảo vệ sự sống!
-Đứng lên trên tất cả mà phán xét, thì:
trí tuệ siêu việt của con người thậm ngu ngốc!
-Chân lý là đây:
Chiến tranh là mệnh lệnh tối thượng của tự nhiên mù quáng đối với trí tuệ sáng suốt của loài người: hãy giết chóc lẫn nhau!
-Như vậy, muốn không còn chiến tranh nữa, con người hoặc không còn lòng tham và tính tư hữu hoặc trở lại suy nghĩ tăm tối như hươu, nai.
-Nhưng hết chiến tranh rồi, xã hội loài người có hết bạo tàn?
-----------------------------------------------------------------
(ĐC sưu tầm trên NET)
Korean War - China Infantry Assault
Korean War - Pyongyang Urban Combat 19 October 1950
Kamikaze strike against US task force
Trận chiến cổ đại thay đổi cách nói tiếng Anh ngày nay
Mỹ Huyền |
Chiến thắng của William Kẻ chinh phục trong trận Hastings vào ngày 14/10/1066 đánh dấu sự sụp đổ của Anglo – Saxons và làm thay đổi mãi mãi cách chúng ta nói tiếng Anh ngày nay.
Năm 1066, trong khi Vua Edward Sám hối của nước Anh nằm hấp
hối trên giường bệnh, yêu sách từ khắp châu Âu thi nhau đổ về đòi lập
người kế vị vì nhà vua không có con.
Cuộc chiến vương quyền
Người ta cho rằng từ nhiều năm trước, Edward đã hứa trao ngai vàng cho người em họ là William, Công tước xứ Normandy. Nhưng có vẻ, nhà vua đã thay đổi di chúc và lựa chọn em rể Harold Godwinson, Bá tước xứ Wessex, làm người kế vị, trước khi trút hơi thở cuối cùng ngày 5/1/1066.
Hôm sau, Godwinson lên ngôi tại Tu viện Westminster, tức vua Harold II, tiếp nối các đời vua Anglo – Saxons đã cai trị nước Anh suốt sáu thế kỷ, kể từ khi đế chế La Mã sụp đổ.
Việc đăng quang này dẫn đến một cuộc tranh đoạt ngôi vị khốc liệt. Cháu trai của Edward cũng tuyên bố lên ngôi, nhưng khi đó mới chỉ là một cậu thiếu niên.
Vua Harald Hadrada của Na Uy nhòm ngó nước Anh từ lâu nên đã liên minh với người anh lưu vong của Harold là Tostig, mở cuộc xâm lược vào tháng 9 năm đó.
Quân đội của Harold ngăn chặn được quân xâm lăng và bao vây chúng trong trận Stamford Bridge ngày 25/9/1066, trận chiến đẫm máu đã lấy mạng cả vua Na Uy và ông anh trai nổi loạn của Harold.
Vua Harold chỉ có vài ngày để tận hưởng chiến thắng trước khi nghe tin nước Anh lại bị tấn công bởi một "ứng cử viên" cho ngai vàng khác.
Nhận thấy bờ biển miền Nam nước Anh không được bảo vệ, William dẫn dắt khoảng 7000 bộ binh, kỵ binh người Norman và lính đánh thuê Pháp vượt eo biển Anh, đổ bộ vào Pevensey ngày 28/9.
Trước tình hình này, Harold II lãnh đạo lực lượng về phía Nam Luân Đôn, dừng lại nghỉ ngơi và chờ đợi quân tiếp viện, trước khi tiếp tục hành quân 250 dặm để nghênh đón kẻ thù.
Ngày 14/10, hai đạo quân đụng độ tại vị trí cách làng Hastings 7 dặm về phía Tây Bắc. Cuộc chiến diễn ra vô cùng khốc liệt kéo dài cả ngày trời.
Harold triển khai lực lượng phòng thủ dọc theo sườn núi và ra lệnh cho binh sĩ đứng sát kề nhau tạo thành một "bức tường khiên". Biện pháp này ngăn chặn thành công những đợt tấn công dồn dập của kỵ binh và các trận mưa tên của đội cung thủ thiện chiến người Norman.
Sau đó, quân xâm lược giả vờ rút chạy khiến đội hình của Harold bị phá vỡ. Cơ hội đến, người Norman dễ dàng xâm nhập và tiêu diệt quân đội Anglo – Saxons.
Đêm xuống, hàng ngàn thi thể nằm rải khắp chiến trường, trong đó có cả Vua Harold II với một mũi tên đâm vào mắt.
Sáu thế kỷ người Anglo – Saxons cai trị nước Anh chấm dứt tại đây. William hành quân dọc theo bờ biển nước Anh và tiến vào Luân Đôn mà không gặp bất kỳ sự phản kháng nào.
William Kẻ chinh phục đăng quang trở thành vị vua người Norman đầu tiên của nước Anh ở Tu viện Westminster vào Lễ Giáng sinh, hoàn tất cuộc chinh phạt và cũng kết thúc một năm đầy biến động.
Tiếng Anh và lịch sử thế giới mãi mãi thay đổi
Trước cuộc chinh phạt của người Norman, Anh là một quốc đảo khép kín và có mối liên hệ chặt chẽ với vùng Scandinavia hơn phần còn lại của châu Âu.
Kể từ khi người Norman giành quyền kiểm soát eo biển, chế độ quân chủ ở Anh có mối quan hệ khăng khít hơn với lục địa già, tạo dựng được vị thế vững chắc để phô trương sức mạnh của họ với phần còn lại của châu Âu.
Trong cuốn sách "Khoảng khắc chiến trận: Những cuộc đụng độ thay đổi thế giới", hai tác giả James Lacey và Williamson Murray đã viết:
"Nếu không có sự đảm bảo từ lục địa, có thể chắc chắn rằng quân đội Anh không bao giờ có cơ hội can thiệp ở Pháp hay nơi nào khác, ít nhất cho đến khi bắt đầu kỷ nguyên hiện đại".
Cuộc chinh phạt của William là cuộc xâm lược nước Anh thành công cuối cùng. Hàng thế kỷ sau đó, Anh dần lớn mạnh và tiến hành bành trướng, cuối cùng dẫn đến sự hình thành chế độ thực dân trên khắp thế giới.
Bên cạnh địa chính trị, chiến thắng của người Norman trong trận Hastings khởi đầu sự biến đổi văn hóa Anh, với những tác động mạnh mẽ từ luật pháp đến tôn giáo, kiến trúc và ngôn ngữ.
Sau khi William I lên ngôi, người Norman bắt đầu xây dựng những pháo đài lớn, chưa từng có ở Anh trước đó, để bảo vệ vùng đất mới của họ và cản lại những cuộc nổi dậy chống đối của người Anglo – Saxons.
Nắm quyền mới chỉ vài tháng, vị vua mới đã bắt đầu cho xây dựng Tháp Luân Đôn và phiên bản đầu tiên của lâu đài Windsor.
Bằng chế độ lao dịch với người Anh, quý tộc Norman xây dựng những pháo đài khổng lồ với hàng rào và hào nước vây quanh, lấn áp hoàn toàn những thái ấp của người Anglo – Saxons. Đến năm 1087, có hơn 80 lâu đài nằm rải rác trên các đồng quê nước Anh.
Giành được quyền kiểm soát nhà thờ, người Norman cũng đẩy mạnh kiến tạo những tu viện, nhà thờ vào thánh đường cao vút, trong đó có Canterbury, Winchester và Durham.
Ngoài ra, đến tận ngày nay, ảnh hưởng của trận chiến Hastings vẫn còn được nhận thấy qua lời nó của hàng trăm triệu người nói tiếng Anh trên thế giới.
Sau cuộc chinh phạt, tiếng Pháp trở thành ngôn ngữ của nhà nước và giao thương. Khẩu hiểu của chế độ quân chủ Anh trên huy hiệu hoàng gia vẫn còn một cụm từ tiếng Pháp "Dieu et mon droit", nghĩa là "Chúa và quyền của tôi".
William Kẻ chinh phục không biết nói tiếng Anh và chưa bao giờ thành thạo nó trong suốt 21 năm trị vị, một phần vì ông coi đó là ngôn ngữ của dân thường.
Cách nói tiếng Anh của người Anglo – Saxons khá giống tiếng Đức. Người Norman pha trộn tiếng Anh kiểu cũ với tiếng Pháp để tạo thành tiếng Anh hiện đại. Họ cũng thêm một số từ mới vào tiếng Anh mà vẫn được sử dụng ngày này.
Những cái tên kiểu Pháp như Henry hay Richard cũng được đưa vào Anh. Đến thế kỷ 13, William – một cái tên cổ điển ở Pháp gồm các yếu tố Đức ("wil" nghĩa là mong muốn, "helm" nghĩa là bảo vệ) trở thành tên đàn ông phổ biến nhất ở Anh.
Cuộc chiến vương quyền
Người ta cho rằng từ nhiều năm trước, Edward đã hứa trao ngai vàng cho người em họ là William, Công tước xứ Normandy. Nhưng có vẻ, nhà vua đã thay đổi di chúc và lựa chọn em rể Harold Godwinson, Bá tước xứ Wessex, làm người kế vị, trước khi trút hơi thở cuối cùng ngày 5/1/1066.
Hôm sau, Godwinson lên ngôi tại Tu viện Westminster, tức vua Harold II, tiếp nối các đời vua Anglo – Saxons đã cai trị nước Anh suốt sáu thế kỷ, kể từ khi đế chế La Mã sụp đổ.
Việc đăng quang này dẫn đến một cuộc tranh đoạt ngôi vị khốc liệt. Cháu trai của Edward cũng tuyên bố lên ngôi, nhưng khi đó mới chỉ là một cậu thiếu niên.
Vua Harald Hadrada của Na Uy nhòm ngó nước Anh từ lâu nên đã liên minh với người anh lưu vong của Harold là Tostig, mở cuộc xâm lược vào tháng 9 năm đó.
Quân đội của Harold ngăn chặn được quân xâm lăng và bao vây chúng trong trận Stamford Bridge ngày 25/9/1066, trận chiến đẫm máu đã lấy mạng cả vua Na Uy và ông anh trai nổi loạn của Harold.
Vua Harold chỉ có vài ngày để tận hưởng chiến thắng trước khi nghe tin nước Anh lại bị tấn công bởi một "ứng cử viên" cho ngai vàng khác.
Nhận thấy bờ biển miền Nam nước Anh không được bảo vệ, William dẫn dắt khoảng 7000 bộ binh, kỵ binh người Norman và lính đánh thuê Pháp vượt eo biển Anh, đổ bộ vào Pevensey ngày 28/9.
Trước tình hình này, Harold II lãnh đạo lực lượng về phía Nam Luân Đôn, dừng lại nghỉ ngơi và chờ đợi quân tiếp viện, trước khi tiếp tục hành quân 250 dặm để nghênh đón kẻ thù.
Ngày 14/10, hai đạo quân đụng độ tại vị trí cách làng Hastings 7 dặm về phía Tây Bắc. Cuộc chiến diễn ra vô cùng khốc liệt kéo dài cả ngày trời.
Harold triển khai lực lượng phòng thủ dọc theo sườn núi và ra lệnh cho binh sĩ đứng sát kề nhau tạo thành một "bức tường khiên". Biện pháp này ngăn chặn thành công những đợt tấn công dồn dập của kỵ binh và các trận mưa tên của đội cung thủ thiện chiến người Norman.
Sau đó, quân xâm lược giả vờ rút chạy khiến đội hình của Harold bị phá vỡ. Cơ hội đến, người Norman dễ dàng xâm nhập và tiêu diệt quân đội Anglo – Saxons.
Đêm xuống, hàng ngàn thi thể nằm rải khắp chiến trường, trong đó có cả Vua Harold II với một mũi tên đâm vào mắt.
Sáu thế kỷ người Anglo – Saxons cai trị nước Anh chấm dứt tại đây. William hành quân dọc theo bờ biển nước Anh và tiến vào Luân Đôn mà không gặp bất kỳ sự phản kháng nào.
William Kẻ chinh phục đăng quang trở thành vị vua người Norman đầu tiên của nước Anh ở Tu viện Westminster vào Lễ Giáng sinh, hoàn tất cuộc chinh phạt và cũng kết thúc một năm đầy biến động.
Tiếng Anh và lịch sử thế giới mãi mãi thay đổi
Trước cuộc chinh phạt của người Norman, Anh là một quốc đảo khép kín và có mối liên hệ chặt chẽ với vùng Scandinavia hơn phần còn lại của châu Âu.
Kể từ khi người Norman giành quyền kiểm soát eo biển, chế độ quân chủ ở Anh có mối quan hệ khăng khít hơn với lục địa già, tạo dựng được vị thế vững chắc để phô trương sức mạnh của họ với phần còn lại của châu Âu.
Trong cuốn sách "Khoảng khắc chiến trận: Những cuộc đụng độ thay đổi thế giới", hai tác giả James Lacey và Williamson Murray đã viết:
"Nếu không có sự đảm bảo từ lục địa, có thể chắc chắn rằng quân đội Anh không bao giờ có cơ hội can thiệp ở Pháp hay nơi nào khác, ít nhất cho đến khi bắt đầu kỷ nguyên hiện đại".
Cuộc chinh phạt của William là cuộc xâm lược nước Anh thành công cuối cùng. Hàng thế kỷ sau đó, Anh dần lớn mạnh và tiến hành bành trướng, cuối cùng dẫn đến sự hình thành chế độ thực dân trên khắp thế giới.
Bên cạnh địa chính trị, chiến thắng của người Norman trong trận Hastings khởi đầu sự biến đổi văn hóa Anh, với những tác động mạnh mẽ từ luật pháp đến tôn giáo, kiến trúc và ngôn ngữ.
Sau khi William I lên ngôi, người Norman bắt đầu xây dựng những pháo đài lớn, chưa từng có ở Anh trước đó, để bảo vệ vùng đất mới của họ và cản lại những cuộc nổi dậy chống đối của người Anglo – Saxons.
Nắm quyền mới chỉ vài tháng, vị vua mới đã bắt đầu cho xây dựng Tháp Luân Đôn và phiên bản đầu tiên của lâu đài Windsor.
Bằng chế độ lao dịch với người Anh, quý tộc Norman xây dựng những pháo đài khổng lồ với hàng rào và hào nước vây quanh, lấn áp hoàn toàn những thái ấp của người Anglo – Saxons. Đến năm 1087, có hơn 80 lâu đài nằm rải rác trên các đồng quê nước Anh.
Giành được quyền kiểm soát nhà thờ, người Norman cũng đẩy mạnh kiến tạo những tu viện, nhà thờ vào thánh đường cao vút, trong đó có Canterbury, Winchester và Durham.
Ngoài ra, đến tận ngày nay, ảnh hưởng của trận chiến Hastings vẫn còn được nhận thấy qua lời nó của hàng trăm triệu người nói tiếng Anh trên thế giới.
Sau cuộc chinh phạt, tiếng Pháp trở thành ngôn ngữ của nhà nước và giao thương. Khẩu hiểu của chế độ quân chủ Anh trên huy hiệu hoàng gia vẫn còn một cụm từ tiếng Pháp "Dieu et mon droit", nghĩa là "Chúa và quyền của tôi".
William Kẻ chinh phục không biết nói tiếng Anh và chưa bao giờ thành thạo nó trong suốt 21 năm trị vị, một phần vì ông coi đó là ngôn ngữ của dân thường.
Cách nói tiếng Anh của người Anglo – Saxons khá giống tiếng Đức. Người Norman pha trộn tiếng Anh kiểu cũ với tiếng Pháp để tạo thành tiếng Anh hiện đại. Họ cũng thêm một số từ mới vào tiếng Anh mà vẫn được sử dụng ngày này.
Những cái tên kiểu Pháp như Henry hay Richard cũng được đưa vào Anh. Đến thế kỷ 13, William – một cái tên cổ điển ở Pháp gồm các yếu tố Đức ("wil" nghĩa là mong muốn, "helm" nghĩa là bảo vệ) trở thành tên đàn ông phổ biến nhất ở Anh.
theo Trí Thức Trẻ
Salamis - Trận hải chiến lớn bậc nhất lịch sử thế giới cổ đại!
Gabe |
Nói đến hải chiến mà không nhắc tới Salamis thì quá thiếu sót. Đây không chỉ là 1 trận đánh với quy mô cực lớn mà nó còn có 1 vai trò vô cùng quan trọng trong lịch sử thế giới.
Salamis
là 1 trong những trận hải chiến lớn nhất thế giới tính cho đến nay, quy
mô của nó làm cho cả quân sự hiện đại phải kính nể. Đó là trận chiến
giữa các thành bang Hy Lạp và đế quốc Ba Tư hùng mạnh vào năm 480 TCN.
Với quyết tâm dùng vũ lực để đàn áp các chư hầu cứng đầu như Athens, đế quốc Ba Tư chuẩn bị đến hơn 1200 tàu chiến, tuy bị mất 1/3 số đó do gặp bão biển nhưng họ vẫn còn đến hơn 800 tàu trước khi cuộc chiến khởi tranh. Trong khi đó, bên phía đối diện, Hy Lạp chỉ có 370 tàu, chưa bằng 1 nửa so với Ba Tư.
Cụ thể năm 491 TCN, Darius đại đế cử sứ giả đến các thành bang Hy Lạp đòi tiến cống "đất và nước" với hàm ý quy thuận Ba Tư. Hầu như tất cả điều khiếp sợ trước sức mạnh quân sự mà chấp nhận gật đầu, chỉ ngoại trừ Athens và Sparta, ở đây các sứ giả lần lượt bị xử tử và đạp xuống giếng, đồng nghĩa với việc sẽ có 1 cuộc chiến lớn.
Năm sau, Darius gửi 1 đội quân tới thăm dò nhưng bị những người con của Athens tiêu diệt tại trận Marathon lịch sử. Từ đó, ông ta cho xây dựng 1 đội quân khổng lồ từ con người tới khí tài, vật chất để quyết tâm khuất phục toàn Hy Lạp.
Sau nhiều biến cố, con trai của Darius là Xerxes đã dẫn đội quân khổng lồ của Ba Tư đi chinh phục kẻ thù. Nhận ra sự nguy hiểm đó, bên phía Athens cũng ráo riết củng cố lực lượng, chuẩn bị cho trận chiến kinh hoàng sắp tới với Ba Tư.
Diễn biến chính
Trước sức ép đáng sợ từ đế quốc Ba Tư, các thành bang đã phải kết hợp lại tạo thành liên minh Hy Lạp để cùng nhau chống lại kẻ thù.
Sau 2 trận thua đáng tiếc tại Thermoplylae và Artemisium, lãnh đạo của Athens là Themistocles đã thả 1 vài nô lệ đến chỗ quân Ba Tư để cung cấp thông tin sai lệch. Trúng kế của chính trị gia Hy Lạp, quân Ba Tư quyết tiến đến dứt điểm đối thủ trong trận đánh cuối tại Salamis mà không hề hay biết đây là nơi mà Hy Lạp đã chuẩn bị vô cùng kỹ lưỡng.
Không tự nhiên mà quân Hy Lạp chọn Salamis làm chiến địa cho trận đánh cuối cùng, địa hình có phần chật hẹp kết hợp với không gian được chuẩn bị kỹ lưỡng sẽ triệt tiêu đi ưu thế về số lượng của đoàn thuyền chiến Ba Tư. Theo như Themistocles là: "trận đánh trong khoảng chật hẹp như vậy sẽ tạo lợi thế cho chúng ta".
Khi trận chiến vừa bắt đầu, quân Ba Tư tiếp cận đối thủ tại eo biển Salamis, chính không gian chật hẹp nơi đây đã phá vỡ tính kỷ luật của hạm đội dù cho trước đó họ đã chuẩn bị kỹ. Ở bên kia chiến tuyến, quân Hy Lạp không vội vàng tấn công ngay mà quay ngược thuyền, giả vờ bỏ chạy để lôi kéo quân địch.
Đến thời gian thích hợp, 1 chiếc tàu bên phía Đồng Minh lao như tên bắn vào chiến thuyền lớn nhất của Ba Tư, rồi lần lượt toàn bộ Hy Lạp theo sau tấn công vào đội hình đang rối loạn của quân địch.
Thông thường, các tàu chiến thời này có mũi nhọn ở phía trước nên khi đâm trực diện, sẽ tăng cao khả năng đánh chìm tàu đối phương, trong trường hợp không đạt mục đích, quân lính 2 bên sẽ nhảy sang thuyền của nhau để đánh tay đôi.
Trong khi Ba Tư có ưu thế về thuyền chiến nên chỉ trang bị vũ khí nhẹ thì quân Hy Lạp được chuẩn bị đầy đủ vũ trang cho cuộc chiến. Cũng chính điều này giúp họ đẩy lùi được đợt tấn công đầu tiên của kẻ địch,
Trong eo biển chật hẹp, những xác thuyền của đợt tấn công đầu tiên lại biến thành chướng ngại vật, cản trở đường tiến công của các hạm đội phía sau. Không những thế, Ariabignes, đô đốc nhận trách nhiệm 1 cánh quân và cũng là em trai của Xerxes đã bị giết khiến cho quân Ba Tư ngày càng trở nên rối loạn vì thiếu người lãnh đạo.
Các chiến thuyền của Ba Tư ngoài những chiếc bị tiêu diệt, cái thì mắc cạn, cái thì bỏ chạy khiến cho sĩ khí ban đầu sụt giảm nặng nề. Dường như đế quốc Ba Tư không gượng dậy nổi sau cú đánh phủ đầu quá nặng của Hy Lạp, hạm đội bắt đầu rút lui về phía Phalerum nhưng tiếp tục bị đánh tơi bời bởi quân phục kích khi đang cố gắng rời khỏi eo biển.
Thất bại thê thảm tại Salamis, quân Ba Tư chỉ còn hơn 300 chiến thuyền, nghĩa là họ đã mất hơn 1 nửa tổng số thuyền khi mới bắt đầu trận chiến, tổn thất quá nặng nề cho đế quốc mạnh nhất thế giới lúc bấy giờ.
Ý nghĩa
Với danh tiếng là trận hải chiến có ý nghĩa bậc nhất lịch sử cổ đại, Salamis chính là bước ngoặt trong mối quan hệ giữa Hy Lạp và Ba Tư. Sau trận này, toàn bộ Hy Lạp trở nên an toàn hơn trước sự uy hiếp của kẻ thù. Ngược lại, thất bại đó đã giáng 1 đòn nặng nề vào tinh thần cũng như vật chất của quân đội Ba Tư.
Tại các trận chiến lớn khác, quân Hy Lạp cũng tự tin hơn khi rời bỏ thế phòng thủ như tại trận Plataea hay Mycale về sau.
Giới sử gia cổ đại cũng như bây giờ cho rằng, trận Salamis đã làm đảo lộn sự phát triển của thế giới Hy Lạp cổ lẫn văn minh phương Tây; cũng như nó làm giảm nghiêm trọng sức mạnh to lớn của đế quốc Ba Tư, khiến họ từ bỏ ý định chinh phục Hy Lạp.
Với quyết tâm dùng vũ lực để đàn áp các chư hầu cứng đầu như Athens, đế quốc Ba Tư chuẩn bị đến hơn 1200 tàu chiến, tuy bị mất 1/3 số đó do gặp bão biển nhưng họ vẫn còn đến hơn 800 tàu trước khi cuộc chiến khởi tranh. Trong khi đó, bên phía đối diện, Hy Lạp chỉ có 370 tàu, chưa bằng 1 nửa so với Ba Tư.
Cụ thể năm 491 TCN, Darius đại đế cử sứ giả đến các thành bang Hy Lạp đòi tiến cống "đất và nước" với hàm ý quy thuận Ba Tư. Hầu như tất cả điều khiếp sợ trước sức mạnh quân sự mà chấp nhận gật đầu, chỉ ngoại trừ Athens và Sparta, ở đây các sứ giả lần lượt bị xử tử và đạp xuống giếng, đồng nghĩa với việc sẽ có 1 cuộc chiến lớn.
Năm sau, Darius gửi 1 đội quân tới thăm dò nhưng bị những người con của Athens tiêu diệt tại trận Marathon lịch sử. Từ đó, ông ta cho xây dựng 1 đội quân khổng lồ từ con người tới khí tài, vật chất để quyết tâm khuất phục toàn Hy Lạp.
Sau nhiều biến cố, con trai của Darius là Xerxes đã dẫn đội quân khổng lồ của Ba Tư đi chinh phục kẻ thù. Nhận ra sự nguy hiểm đó, bên phía Athens cũng ráo riết củng cố lực lượng, chuẩn bị cho trận chiến kinh hoàng sắp tới với Ba Tư.
Diễn biến chính
Trước sức ép đáng sợ từ đế quốc Ba Tư, các thành bang đã phải kết hợp lại tạo thành liên minh Hy Lạp để cùng nhau chống lại kẻ thù.
Sau 2 trận thua đáng tiếc tại Thermoplylae và Artemisium, lãnh đạo của Athens là Themistocles đã thả 1 vài nô lệ đến chỗ quân Ba Tư để cung cấp thông tin sai lệch. Trúng kế của chính trị gia Hy Lạp, quân Ba Tư quyết tiến đến dứt điểm đối thủ trong trận đánh cuối tại Salamis mà không hề hay biết đây là nơi mà Hy Lạp đã chuẩn bị vô cùng kỹ lưỡng.
Không tự nhiên mà quân Hy Lạp chọn Salamis làm chiến địa cho trận đánh cuối cùng, địa hình có phần chật hẹp kết hợp với không gian được chuẩn bị kỹ lưỡng sẽ triệt tiêu đi ưu thế về số lượng của đoàn thuyền chiến Ba Tư. Theo như Themistocles là: "trận đánh trong khoảng chật hẹp như vậy sẽ tạo lợi thế cho chúng ta".
Khi trận chiến vừa bắt đầu, quân Ba Tư tiếp cận đối thủ tại eo biển Salamis, chính không gian chật hẹp nơi đây đã phá vỡ tính kỷ luật của hạm đội dù cho trước đó họ đã chuẩn bị kỹ. Ở bên kia chiến tuyến, quân Hy Lạp không vội vàng tấn công ngay mà quay ngược thuyền, giả vờ bỏ chạy để lôi kéo quân địch.
Đến thời gian thích hợp, 1 chiếc tàu bên phía Đồng Minh lao như tên bắn vào chiến thuyền lớn nhất của Ba Tư, rồi lần lượt toàn bộ Hy Lạp theo sau tấn công vào đội hình đang rối loạn của quân địch.
Thông thường, các tàu chiến thời này có mũi nhọn ở phía trước nên khi đâm trực diện, sẽ tăng cao khả năng đánh chìm tàu đối phương, trong trường hợp không đạt mục đích, quân lính 2 bên sẽ nhảy sang thuyền của nhau để đánh tay đôi.
Trong khi Ba Tư có ưu thế về thuyền chiến nên chỉ trang bị vũ khí nhẹ thì quân Hy Lạp được chuẩn bị đầy đủ vũ trang cho cuộc chiến. Cũng chính điều này giúp họ đẩy lùi được đợt tấn công đầu tiên của kẻ địch,
Trong eo biển chật hẹp, những xác thuyền của đợt tấn công đầu tiên lại biến thành chướng ngại vật, cản trở đường tiến công của các hạm đội phía sau. Không những thế, Ariabignes, đô đốc nhận trách nhiệm 1 cánh quân và cũng là em trai của Xerxes đã bị giết khiến cho quân Ba Tư ngày càng trở nên rối loạn vì thiếu người lãnh đạo.
Các chiến thuyền của Ba Tư ngoài những chiếc bị tiêu diệt, cái thì mắc cạn, cái thì bỏ chạy khiến cho sĩ khí ban đầu sụt giảm nặng nề. Dường như đế quốc Ba Tư không gượng dậy nổi sau cú đánh phủ đầu quá nặng của Hy Lạp, hạm đội bắt đầu rút lui về phía Phalerum nhưng tiếp tục bị đánh tơi bời bởi quân phục kích khi đang cố gắng rời khỏi eo biển.
Thất bại thê thảm tại Salamis, quân Ba Tư chỉ còn hơn 300 chiến thuyền, nghĩa là họ đã mất hơn 1 nửa tổng số thuyền khi mới bắt đầu trận chiến, tổn thất quá nặng nề cho đế quốc mạnh nhất thế giới lúc bấy giờ.
Ý nghĩa
Với danh tiếng là trận hải chiến có ý nghĩa bậc nhất lịch sử cổ đại, Salamis chính là bước ngoặt trong mối quan hệ giữa Hy Lạp và Ba Tư. Sau trận này, toàn bộ Hy Lạp trở nên an toàn hơn trước sự uy hiếp của kẻ thù. Ngược lại, thất bại đó đã giáng 1 đòn nặng nề vào tinh thần cũng như vật chất của quân đội Ba Tư.
Tại các trận chiến lớn khác, quân Hy Lạp cũng tự tin hơn khi rời bỏ thế phòng thủ như tại trận Plataea hay Mycale về sau.
Giới sử gia cổ đại cũng như bây giờ cho rằng, trận Salamis đã làm đảo lộn sự phát triển của thế giới Hy Lạp cổ lẫn văn minh phương Tây; cũng như nó làm giảm nghiêm trọng sức mạnh to lớn của đế quốc Ba Tư, khiến họ từ bỏ ý định chinh phục Hy Lạp.
theo Trí Thức Trẻ
Cổng Lửa: Trận đánh làm nên danh tiếng của người Sparta!
Gabe |
Trận Cổng Lửa (tiếng anh là Thermopylae) là 1 trong những trận đánh nổi tiếng nhất lịch sử thế giới giữa 2 xứ Sparta của Leonidas I và đế quốc Ba Tư!
Nguyên nhân cuộc chiến
Có lẽ
ít người biết được, trận đánh Thermopylae nổi tiếng này thực ra có nguồn
gốc từ 1 trận đánh không kém phần oai hùng khác, đó chính là Marathon!
Lần xâm lược Hy Lạp này của Ba Tư thực ra là để cứu vãn lại thể diện
cho đế chế này khi bị quân Athens đánh tan tác tại trận Marathon 10 năm
về trước!
Để thực hiện cuộc chiến mang tính xâm lược
(cũng có cả tính chất trả thù) này, Xerxes, kẻ thống trị đế chế Ba Tư đã
tập hợp 1 đội quân khổng lồ để tiến đánh Hy Lạp. Theo các sử học gia
thời bấy giờ, với dã tâm to lón, Xerxes đã triệu tập hầu hết quân đội mà
hắn có, con số này lên tới 1 triệu người!
Kể
cả đối với thời hiện đại, đội quân lên tới 1 triệu người cũng không hề
đơn giản chứ không nói là cách đây hơn 2500 năm! Nhưng đối với các nhà
nghiên cứu bây giờ, họ đưa ra nhiều con số khác nhau, chỉ khoảng 300.000
quân cũng như không tin vào đội quân lớn như vậy.
Những chiến binh Sparta
Sự
thật thế nào thì chưa thể chứng minh, bởi Xerxes hoàn toàn có thể điều
động được số lượng như vậy bởi dân số Ba Tư thời bấy giờ có tới 50 triệu
người, chiếm 44% toàn thế giới!
Vào tháng 9 năm 480 TCN, nhận thấy dã tâm xâm lược của Xerxes, 1 vị tướng người Athens là Themistocles đã đề nghị lập 1 phòng tuyến trên cạn và trên biển chặn đánh quân Ba Tư lại Thermopylae (có nghĩa là Cổng Lửa) và Artemisium.
Diễn biến
Sau
khi thất bại tại trận Marathon trước người Athen, Darius I, "vua của
các vị vua" của đế chế Ba Tư buộc phải rút quân về châu Á, đương nhiên,
ông dự tính tập hợp 1 đội quân mới để chinh phục hoàn toàn Hy Lạp.
Nhưng
không may, do người dân nổi dậy ở Ai Cập nên Darius đành tạm gác ý định
này lại mà chuyển hướng đi dập tắt phản loạn. Trên đường hành quân,
Darius bất ngờ qua đời và truyền lại ngôi vị "vua của các vị vua" cho
con trai mình là Xerxes!
Với
sự thiện chiến có phần bạo ngược của mình, Xerxes dễ dàng dập tắt phản
loạn tại Ai Cập và tiếp tục chuẩn bị cho cuộc chiến thứ hai với Hy Lạp.
Hắn thực hiện chế độ cưỡng bức tòng quân và chuẩn bị kỹ lưỡng cho những
con đường sẽ tấn công!
Và khi mọi thứ đã xong, quân Ba Tư như đã định hành quân đến Hy Lạp với tinh thần cao ngất cùng số lượng quân lính không tưởng!
Lúc
này, người lãnh đạo của Sparta đang tham gia lễ hội Carneia. Theo phong
tục thì trong thời điểm đó, không ai được phép xuất quân, cũng vì điều
này mà người Sparta không thể tham chiến trận Marathon lịch sử.
Đã
vậy, đây cũng là thời điểm diễn ra đại hội Olympic, mà theo phong tục
của Hy Lạp, tất cả các quốc gia không được phép đánh nhau, dù có đang
giao chiến cũng phải dừng lại, nếu không sẽ phạm luật thánh.
Cuộc
chiến xảy ra đúng vào thời điểm không thích hợp khiên cho hầu hết các
chính trị gia đều ngăn cản đức vua Leonidas mang theo đại quân đi tham
chiến cũng như không có được sự giúp đỡ của các thành bang khác do luật
thánh.
Dẫu biết vậy, Leonidas vẫn quyết mang theo 300
tinh binh giỏi nhất với cái mác cận vệ để lách luật, mục đích sau cùng
là có thể cầm chân quân Ba Tư tại Cổng Lửa. Trên đường, họ có thêm 1000
quân Phocea tiếp viện cùng với thu nhận những người lính Hy Lạp khác
cùng chí hướng trên đường hành quân!
Theo các nhà nghiên
cứu, xuất phát với chỉ 301 người, kể cả vua Leonidas nhưng khi tới nơi,
đội quân này đã tăng lên khoảng 7000 người. Dù vậy, nó quá nhỏ bé nếu
đem so sánh với quân Ba Tư của Xerxes! Chính Leonidas cũng biết mình sẽ
bỏ mạng trong trận chiến này vì không đủ lực lượng để đối phó nhưng ông
vẫn quyết tâm lao vào cuộc chiến vì lòng yêu nước của mình!
Theo
truyền thuyết, trước trận Thermopylae, Xerxes có gửi sứ giả đến để
chiêu hàng người Sparta, hứa cho họ sống trên chính quê hương với danh
hiệu "Những người bạn của Ba Tư", tất cả những gì cần là sự đầu hàng vô
điều kiện!
Đương nhiên vua
của người Sparta từ chối! Sứ giả của Ba Tư đe dọa, nếu chống lại họ
người Sparta sẽ phải đối mặt với: "Những mũi tên của chúng tao sẽ che
khuất ánh mặt trời!". Đáp lại điều này, 1 vị tướng của Leonidas hiên
ngang tuyên bố: " Vậy chúng tôi sẽ chiến đấu trong bóng tối!".
Câu nói đó cũng phần nào thể hiện được ý chí sắt đá của những chiến binh Sparta. Họ tiến đến chiến trường với ý chí quyết tử.
Khi
trận chiến bắt đầu, địa hình hiểm trở của Cổng Lửa Thermopylae đã biến
nơi đây thành con đường độc đạo nếu quân Ba Tư muốn tiến vào Hy Lạp. Có
được "địa lợi", quân Sparta đã xóa nhòa chênh lệch về số lượng, họ chặn
đứng những cuộc tấn công vũ bão của Xerxes trong suốt 2 ngày.
Và có lẽ sẽ còn lâu hơn nếu như Leonidas và những chiễn binh dũng cảm không bị phản bội bởi Ephialtes
khi hắn chỉ điểm 1 con đường khác vòng qua phía sau quân Hy Lạp. Bị
đánh úp, dù chiến đấu dũng mãnh cách mấy, những người con Sparta cũng
không thể thay đổi được kết quả.
Thực
sự, có những đội quân Sparta đã phải chiến đấu dưới bóng tối của những
mũi tên Ba Tư, nhưng điều đó không làm mờ đi được tấm gương dũng cảm và
lòng yêu nước vô bờ của họ! Đó cũng là cảm hứng cho nhiều tác phẩm thơ
ca, điện ảnh mà điển hình là 300, bộ phim ngợi ca Leonidas và những
chiến binh của ông.
Tham khảo nhiều nguồn
theo Trí Thức Trẻ
Leuctra - Trận đại chiến phá hủy danh tiếng của người Sparta!
Gabe |
Trận Leuctra (đọc là Lớt) là 1 trong những trận đánh lớn và có nhiều ý nghĩa nhất trong lịch sử thế giới. Nó cũng đánh dấu sự thất bại của những người con ưu tú của Sparta.
Đội quân Sparta hùng mạnh
Với Sparta, họ được biết đến như những chiến binh dũng mãnh nhất và cũng nguy hiểm nhất thời bấy giờ. Được tôi luyện từ bé, những người đàn ông Sparta luôn có được thân thể cường tráng và khả năng chiến đấu vô song.
Không những vậy, khi có chiến tranh thì dù gái hay trai, già hay trẻ, người Sparta đều có thể xông pha chiến trường mà không chút ngần ngại. Chính tinh thần chiến đấu luôn rực lửa cộng với những rèn luyện hà khắc đã biến quân đội Sparta trở thành nỗi ác mộng trên khắp Hy Lạp cổ đại.
Ngày bấy giờ, những đứa bé trai mới chỉ 7 tuổi đã bị đưa đến những trường quân sự để học cách sống và chiến đấu như những chiến binh. Ở đó, tất cả những gì chúng biết tới và được dạy là chiến đấu, chiến đấu và chiến đấu! Sống trong kỷ luật thép, tối ngủ giường cứng lót sậy, chỉ có độc 1 bộ quần áo mặc cả năm.
Trong trường, chúng được học những kỹ năng giết địch, những chiến thuật nổi tiếng nhất của Sparta (trong đó, chắc chắn phải có đội hình Phalanx nổi tiếng) và chấm hết! Không âm nhạc, không hội họa hay nghệ thuật, tất cả là để xây dựng nên 1 chiến binh hoàn hảo.
Trận chiến Leuctra
Trận Leuctra (trong tiếng Việt đọc là Lớt) là trận đại chiến giữa 2 đội quân nổi tiếng là Thebes và Sparta. Khi đó, người Sparta đánh đâu thắng đó, họ lần lượt tiêu diệt các thành bang lân cận để đi đến thống nhất Hy Lạp, tất cả đều thuận lợi cho đến khi những chiến binh bất bại này đụng độ quân của Thebes!
Với đội hình Phalanx của mình, quân đội Sparta làm mưa làm gió khắp nơi. Đó là đội hình quân sự số đông, hình chữ nhật, thường được trang bị giáo, kích lớn cho bộ binh nặng! Nhìn từ xa nó sẽ như 1 con nhím khổng lồ với những chiếc giáo dài chĩa ra xung quanh, sẵn sàng đâm thủng, nghiến nát những kẻ thù phía trước.
Hơn thế nữa, quân Sparta được đánh giá cao hơn nhiều bởi kinh nghiệm chiến đấu, vượt trội về tương quan lực lượng khi có hơn 10.000 quân bộ và 1.000 kỵ binh, con số này ở quân Thebes lần lượt là 6.000 và 1.000. Quá khác biệt đói với 1 trận đánh thời cổ đại.
Đặc biệt, việc đích thân vua Cleombrotus I đích thân dẫn quân ra trận càng tăng thêm sĩ khí cho những chiến binh hùng mạnh của Sparta!
Khi nhập cuộc, vua Cleombrotus I bố trí kỵ binh ở phía trước, bộ binh dàn đội hình Phalanx ở phía sau với 12 hàng ngang. Toàn bộ sẽ được trang bị giáo dory, dài từ 2-4m, với mong muốn nghiền nát quân Thebes trong thời gian ngắn nhất có thể.
Kém hơn về quân số cũng như bị đánh giá thấp trong kinh nghiệm chiến đấu cũng như sĩ khí ba quân (bởi đây là thời điểm quân Sparta vừa tiêu diệt Athen, thành bang mạnh nhất nhì Hy Lạp bấy giờ) nhưng tướng quân của Thebes là Epaminondas vẫn bình tĩnh, không dao động để đưa ra chiến thuật đối phó.
Cách làm của ông là bố trí cánh trái dày đặc với đội hình phalanx lên tới 50 hàng, còn cánh phải thì chỉ để 8 hàng mà thôi khiến cho đội hình tạo thành 1 tuyến nghiêng từ trái sang phải với mong muốn kiềm chế địch ở cánh phải, còn cánh trái tập trung tiêu diệt quân chủ lực của định rồi đánh nốt sang bên còn lại.
Và để thực hiện ý đồ này, Epaminondas đã tập trung những tinh binh thiện chiến nhất gồm 300 người tại cánh phải. Có nhiều người nói, những chiến binh này chính là vũ khí bí mật làm nên thành công lịch sử của Thebes.
Bởi theo ghi chép từ những văn kiện lịch sử trước đây, 300 người bọn họ thực ra là 150 cặp đôi đồng tính, được tuyển chọn từ những thanh niên trai tráng, trẻ tuổi trong nước. Ngoài sự dẻo dai, bền bi và những kỹ năng chiến đấu siêu việt ra, họ còn có 1 sợi dây liên kết vô cùng đặc biệt.
Những thanh niên này sẵn sàng chết vì nửa kia cũng như không ngại giết địch như 1 món quà tặng ý nghĩa. Với sức mạnh đó 300 chiến binh thần thánh này có đủ năng lực chống chọi với đội quân Sparta hùng mạnh
Đó là sự thực hay không vẫn chưa thể khẳng định chắc chắn nhưng có 1 sự thật không thể phủ nhận rằng chính những con người thuộc cánh phải này mới là chìa khóa then chốt dẫn đến chiến thắng của Thebes!
Khi cuộc chiến mới bắt đầu, vua Cleombrotus nhận thấy sự mỏng manh bất ngờ của cánh phải nên liền tung bộ binh nặng vào công phá nơi đây. Do chênh lệch về quân số, cánh phải của Thebes dần bị đẩy lùi nhưng vẫn giữ được đội hình để kiềm hãn quân Sparta.
Còn về phía cánh trái, với quân số đội hình vượt trội hơn hẳn, những cánh quân của Epaminondas đã giành thế áp đảo khi đụng độ quân Sparta ở đây, họ đã giáng cho kẻ định những cú đấm đanh thép, cuối cùng, kế hoạch đánh dạt sườn dần dần thể hiện được hiệu quả của mình nhờ vào đội hình Phalanx lệch cánh!
Cuối trận đánh, quân Sparta thua thảm, vua Cleombrotus cũng bỏ mạng trong khi số còn lại bắt buộc phải rút lui trong sự kinh hãi bởi những điều không tưởng vừa xảy ra! Cũng từ đó, đế chế Sparta hùng mạnh cũng dần lụi tàn, Thebes áp đặt sự thống trị của mình lên toàn lãnh thổ Hy Lạp cổ đại!
Với chiến thắng này, lịch sử thế giới không chỉ ghi danh quân đội Thebes mà còn cả tướng quân tài ba Epaminondas. Ông là người đầu tiên sử dụng chiến thuật phân phối binh lực không đồng đều, tập trung lực lượng chính tại những chiến tuyến nhất định để tạo ra đòn công chủ lực giải quyết trận đánh.
Với Sparta, họ được biết đến như những chiến binh dũng mãnh nhất và cũng nguy hiểm nhất thời bấy giờ. Được tôi luyện từ bé, những người đàn ông Sparta luôn có được thân thể cường tráng và khả năng chiến đấu vô song.
Không những vậy, khi có chiến tranh thì dù gái hay trai, già hay trẻ, người Sparta đều có thể xông pha chiến trường mà không chút ngần ngại. Chính tinh thần chiến đấu luôn rực lửa cộng với những rèn luyện hà khắc đã biến quân đội Sparta trở thành nỗi ác mộng trên khắp Hy Lạp cổ đại.
Ngày bấy giờ, những đứa bé trai mới chỉ 7 tuổi đã bị đưa đến những trường quân sự để học cách sống và chiến đấu như những chiến binh. Ở đó, tất cả những gì chúng biết tới và được dạy là chiến đấu, chiến đấu và chiến đấu! Sống trong kỷ luật thép, tối ngủ giường cứng lót sậy, chỉ có độc 1 bộ quần áo mặc cả năm.
Trong trường, chúng được học những kỹ năng giết địch, những chiến thuật nổi tiếng nhất của Sparta (trong đó, chắc chắn phải có đội hình Phalanx nổi tiếng) và chấm hết! Không âm nhạc, không hội họa hay nghệ thuật, tất cả là để xây dựng nên 1 chiến binh hoàn hảo.
Trận chiến Leuctra
Trận Leuctra (trong tiếng Việt đọc là Lớt) là trận đại chiến giữa 2 đội quân nổi tiếng là Thebes và Sparta. Khi đó, người Sparta đánh đâu thắng đó, họ lần lượt tiêu diệt các thành bang lân cận để đi đến thống nhất Hy Lạp, tất cả đều thuận lợi cho đến khi những chiến binh bất bại này đụng độ quân của Thebes!
Với đội hình Phalanx của mình, quân đội Sparta làm mưa làm gió khắp nơi. Đó là đội hình quân sự số đông, hình chữ nhật, thường được trang bị giáo, kích lớn cho bộ binh nặng! Nhìn từ xa nó sẽ như 1 con nhím khổng lồ với những chiếc giáo dài chĩa ra xung quanh, sẵn sàng đâm thủng, nghiến nát những kẻ thù phía trước.
Hơn thế nữa, quân Sparta được đánh giá cao hơn nhiều bởi kinh nghiệm chiến đấu, vượt trội về tương quan lực lượng khi có hơn 10.000 quân bộ và 1.000 kỵ binh, con số này ở quân Thebes lần lượt là 6.000 và 1.000. Quá khác biệt đói với 1 trận đánh thời cổ đại.
Đặc biệt, việc đích thân vua Cleombrotus I đích thân dẫn quân ra trận càng tăng thêm sĩ khí cho những chiến binh hùng mạnh của Sparta!
Khi nhập cuộc, vua Cleombrotus I bố trí kỵ binh ở phía trước, bộ binh dàn đội hình Phalanx ở phía sau với 12 hàng ngang. Toàn bộ sẽ được trang bị giáo dory, dài từ 2-4m, với mong muốn nghiền nát quân Thebes trong thời gian ngắn nhất có thể.
Kém hơn về quân số cũng như bị đánh giá thấp trong kinh nghiệm chiến đấu cũng như sĩ khí ba quân (bởi đây là thời điểm quân Sparta vừa tiêu diệt Athen, thành bang mạnh nhất nhì Hy Lạp bấy giờ) nhưng tướng quân của Thebes là Epaminondas vẫn bình tĩnh, không dao động để đưa ra chiến thuật đối phó.
Cách làm của ông là bố trí cánh trái dày đặc với đội hình phalanx lên tới 50 hàng, còn cánh phải thì chỉ để 8 hàng mà thôi khiến cho đội hình tạo thành 1 tuyến nghiêng từ trái sang phải với mong muốn kiềm chế địch ở cánh phải, còn cánh trái tập trung tiêu diệt quân chủ lực của định rồi đánh nốt sang bên còn lại.
Và để thực hiện ý đồ này, Epaminondas đã tập trung những tinh binh thiện chiến nhất gồm 300 người tại cánh phải. Có nhiều người nói, những chiến binh này chính là vũ khí bí mật làm nên thành công lịch sử của Thebes.
Bởi theo ghi chép từ những văn kiện lịch sử trước đây, 300 người bọn họ thực ra là 150 cặp đôi đồng tính, được tuyển chọn từ những thanh niên trai tráng, trẻ tuổi trong nước. Ngoài sự dẻo dai, bền bi và những kỹ năng chiến đấu siêu việt ra, họ còn có 1 sợi dây liên kết vô cùng đặc biệt.
Những thanh niên này sẵn sàng chết vì nửa kia cũng như không ngại giết địch như 1 món quà tặng ý nghĩa. Với sức mạnh đó 300 chiến binh thần thánh này có đủ năng lực chống chọi với đội quân Sparta hùng mạnh
Đó là sự thực hay không vẫn chưa thể khẳng định chắc chắn nhưng có 1 sự thật không thể phủ nhận rằng chính những con người thuộc cánh phải này mới là chìa khóa then chốt dẫn đến chiến thắng của Thebes!
Khi cuộc chiến mới bắt đầu, vua Cleombrotus nhận thấy sự mỏng manh bất ngờ của cánh phải nên liền tung bộ binh nặng vào công phá nơi đây. Do chênh lệch về quân số, cánh phải của Thebes dần bị đẩy lùi nhưng vẫn giữ được đội hình để kiềm hãn quân Sparta.
Còn về phía cánh trái, với quân số đội hình vượt trội hơn hẳn, những cánh quân của Epaminondas đã giành thế áp đảo khi đụng độ quân Sparta ở đây, họ đã giáng cho kẻ định những cú đấm đanh thép, cuối cùng, kế hoạch đánh dạt sườn dần dần thể hiện được hiệu quả của mình nhờ vào đội hình Phalanx lệch cánh!
Cuối trận đánh, quân Sparta thua thảm, vua Cleombrotus cũng bỏ mạng trong khi số còn lại bắt buộc phải rút lui trong sự kinh hãi bởi những điều không tưởng vừa xảy ra! Cũng từ đó, đế chế Sparta hùng mạnh cũng dần lụi tàn, Thebes áp đặt sự thống trị của mình lên toàn lãnh thổ Hy Lạp cổ đại!
Với chiến thắng này, lịch sử thế giới không chỉ ghi danh quân đội Thebes mà còn cả tướng quân tài ba Epaminondas. Ông là người đầu tiên sử dụng chiến thuật phân phối binh lực không đồng đều, tập trung lực lượng chính tại những chiến tuyến nhất định để tạo ra đòn công chủ lực giải quyết trận đánh.
Tham khảo nhiều nguồn!
theo Trí Thức Trẻ
"Thế giới ngầm" tàn bạo của tộc chiến binh Sparta
Trang Ly |
Chiến binh tộc Sparta là một trong những đội quân hùng mạnh nhất thế giới cổ đại. Để có được danh xưng đó, nhiều người đã phải đổ máu, thậm chí trả bằng cả tính mạng mình.
Sparta là một trong những thành
bang nổi tiếng nhất của Hy Lạp nổi lên vào khoảng năm 650 TCN. Dân tộc
chiến binh Sparta nổi tiếng với sức mạnh quân sự to lớn. Họ được xem là
một trong những đội quân ưu tú, hùng mạnh nhất thế giới cổ đại.
Xã hội Sparta được xây dựng trên nền
tảng của những luật lệ nghiêm khắc và ý thức trách nhiệm cao. Con người
sống ở thời kỳ này đều phải trải qua quá trình rèn luyện, phấn đấu không
mệt mỏi để trở thành công dân ưu tú.
Vì thế, phần lớn cuộc sống của người
Sparta liên quan đến việc huấn luyện quân sự và tham gia các trận chiến.
Mỗi nam giới Sparta chào đời được định sẵn trở thành chiến binh trọn
đời.
Để trở thành chiến binh thiện chiến,
dũng mãnh, họ phải trải qua quá trình huấn luyện vô cùng khắc khổ ngay
từ khi mới sinh. Nếu không làm được, họ sẽ bị đào thải, bị giết chết một
cách không thương tiếc.
Con đường khắc nghiệt để trở thành chiến binh Sparta thực thụ
Người Sparta phải tuân theo một chế độ
chọn lọc và luyện tập khủng khiếp hơn mọi dân tộc nào khác trên thế
giới. Bất kỳ công dân nam Sparta nào cũng đều là binh nghiệp từ khi mới
sinh cho tới 60 tuổi.
Dưới đây là con đường khắc nghiệt để trở thành chiến binh Sparta thực thụ:
Khi mới chào đời
Mọi bé trai khi mới chào đời đều được
coi là chiến binh tương lai. Sau khi sinh, đứa trẻ được chính tay mẹ
mình thả vào bồn rượu vang để xem có đủ khoẻ tự bơi hay… chết chìm.
Tiếp theo, người cha sẽ bế con trai mình
(nếu còn sống) đến Hội đồng bô lão để “nhập ngũ”. Tại đây, các thành
viên thuộc Hội đồng bô lão sẽ kiểm tra sức khỏe của những đứa trẻ và
quyết định xem những sinh linh bé nhỏ ấy có phù hợp với sứ mệnh tương
lai hay không.
Nếu những em bé khi được sinh ra bị bệnh
tật, ốm yếu (không đạt yêu cầu), sẽ bị ném vào trong hang sâu ở chân
núi Taygetus một cách không thương tiếc. Một đứa bé như vậy, theo quan
điểm của người Sparta là không được phép sống.
Số phận của những đứa trẻ bị đánh giá là
không phù hợp với nhiệm vụ chiến binh trong tương lai (như quá nhỏ bé
hay dị dạng) cũng bi thảm không kém.
Rất có thể, chúng sẽ bị bỏ rơi trên sườn
đồi gần đó cho đến chết hoặc may mắn hơn, sẽ được một người đi ngang
qua cứu sống, đem về nhà nuôi.
Đến năm 7 tuổi
Sau quá trình lựa chọn đầy cay nghiệt
của Hội đồng bô lão và 6 năm được cha mẹ nuôi dưỡng, khi được 7 tuổi,
những bé trai dân tộc chiến binh Sparta sẽ bị tách khỏi vòng tay che
chở, bao bọc của cha mẹ.
Chúng bắt đầu tham gia chế độ huấn luyện
quốc gia để rèn các kỹ năng cần thiết trở thành chiến binh thiện chiến
và công dân có đạo đức.
Đây sẽ là nơi những đứa trẻ chiến đấu và
sinh hoạt theo kỷ luật sắt: Ngủ trên giường cứng lót sậy; chỉ được phát
một bộ quần áo mặc suốt cả năm; không được học hỏi hay thực hành bất kỳ
một bộ môn văn hoá nghệ thuật nào.
Với hệ thống giáo dục Agoge, các bé trai Sparta được dạy về tầm quan trọng của đất nước Sparta đối với Liên minh Hy Lạp.
Các "chú lính nhỏ" phải ở tập thể, bị ăn
đói trong khi được khuyến khích đi ăn cắp thức ăn. Mọi thứ đều có hình
phạt, kể cả việc đáp lại những câu hỏi một cách dài dòng và kém hài
hước.
Năm 12 tuổi
Khi tuổi càng lớn dần theo năm tháng cũng là lúc các "chiến binh nhí" phải chịu đựng những thử thách và hình phạt nặng dần lên.
Vào năm 12 tuổi, các bé trai Sparta sẽ
bị thu tất cả quần áo, chỉ để lại một chiếc áo choàng màu đỏ, và buộc
phải ngủ bên ngoài, cũng như không được cung cấp thức ăn.
Chúng phải tự tay tạo một chiếc "giường"
bằng lau sậy. Phải ăn cắp đồ ăn của người khác, thậm chí, phải ăn cả
thịt thối để sinh tồn.
Tuy nhiên, nếu như bị phát hiện khi ăn cắp đồ ăn thì các em sẽ phải chịu phạt là những trận đòn roi khủng khiếp.
Năm 18 tuổi
Nếu còn sống sót sau 6 năm sống trong khắc khổ như vậy, các chàng trai Sparta chính thức gia nhập vào hàng ngũ chiến binh.
Lúc này là thời điểm họ được đưa cho 1
con dao và ra bên ngoài xã hội để thể hiện bản lĩnh sinh tồn thực thụ.
Trong vòng 2 năm, họ phải săn bắn, sinh sống và giết càng nhiều nô lệ
càng tốt.
Tất cả quá trình này đều được các chiến
binh Sparta thực thụ kiểm soát. Nếu vi phạm bất cứ điều luật nào, họ sẽ
đào thải ngay tức khắc.
Năm 20 tuổi
Đây là giai đoạn các chiến binh Sparta
học các chiến đấu cùng nhau. Họ sẽ được gia nhập nhóm gồm 15 người để
cùng "kề vai sát cánh" trong các nhiệm vụ mà các chiến binh kỳ cựu giao
cho.
Các chiến binh trưởng thành sẽ phải trải
qua cuộc thi về sức chịu đựng trước ngôi đền Artemis Orthia. Tại đây,
họ sẽ bị đánh tới mức chỉ còn đường chết.
Nếu nhiệm vụ thất bại, chiến
binh Sparta thường chọn việc tự sát để không phải sống trong nỗi tủi
nhục vì bị người đời dè bỉu. Hình minh họa
Hành động tàn bạo này mang ý nghĩa rèn luyện cho các chiến binh tinh thần dũng cảm, không sợ chết của họ trước quân thù.
Theo quan niệm của người Sparta, hành động đầu hàng quân địch được coi là biểu hiện tệ hại nhất của sự hèn nhát.
Thông thường, những kẻ đầu hàng sẽ tự
nguyện chặt bỏ hai cánh tay của mình trong sự xấu hổ. Tuy nhiên, họ
thường chọn việc tự sát để không phải sống trong nỗi tủi nhục vì bị
người đời dè bỉu.
*Tham khảo nhiều nguồn
theo Trí Thức Trẻ
Nhận xét
Đăng nhận xét