Thứ Sáu, 14 tháng 9, 2018

KIẾP GIANG HỒ 211 (Ba Cụt)

(ĐC su6u tầm trên NET)
 
Trùm Giang Hồ Sài Gòn BA “ CỤT” Khét Tiếng Nam Kỳ 1975 - Đối Đầu Với Đội Quân NGÔ ĐÌNH DIỆM
 Nhiều bậc kỳ lão sinh sống ven bờ sông Hậu thuộc ba tỉnh An Giang, Đồng Tháp và Cần Thơ đến nay vẫn lưu giữ một phần ký ức ảm đạm về một nhân vật có danh là Ba Cụt - người tự xưng là Trung tướng, Tổng Tư lệnh ở miền Tây Nam Bộ thời điểm sau Cách mạng Tháng Tám 1945.

Ba “Cụt”: thời kỳ cận vệ của Năm Lửa (kỳ 1)

Tin số 2 của 4 tin về Ba Cụt
Nhiều bậc kỳ lão sinh sống ven bờ sông Hậu thuộc ba tỉnh An Giang, Đồng Tháp và Cần Thơ đến nay vẫn lưu giữ một phần ký ức ảm đạm về một nhân vật có hỗn danh là Ba Cụt – người tự xưng là Trung tướng, Tổng Tư lệnh quân đội ly khai ở miền Tây Nam Bộ thời điểm sau Cách mạng Tháng Tám 1945.
Tàn ác và cuồng vỹ, Ba Cụt gây nhiều oan nghiệt với nhân dân suốt hơn 11 năm. Ác giả ác báo, cuối cùng Ba Cụt chết không toàn thây dưới thời Ngô Đình Diệm.
Hỗn danh Ba Cụt
Ba Cụt sinh năm 1923, tại Băng Tăng, Ô Môn, Cần Thơ (nay là phường Thới Long, quận Ô Môn, TP Cần Thơ). Tên khai sinh là Lê Quang Vinh.
thumb_660_28_huynh1549
Huỳnh Thạnh Mậu – Một trong 3 người được Yoyo chọn làm thủ lĩnh “nghĩa quân nội ứng” cho quân đội Nhật.
Những cụ già cao niên hiện đang sinh sống tại phường Thới Long đều khẳng định, gia đình Ba Cụt rất nghèo chứ không phải khá giả như một số tài liệu ghi chép lại. Vì nghèo, cha mẹ không cho con đi học mà gởi đi ở đợ cho điền chủ Vàng (Hội đồng Vàng) ở cù lao Cát (ngày nay là phường Tân Lộc, quận Thốt Nốt, TP Cần Thơ). Khi ấy, Ba Cụt chỉ mới 12 tuổi. Cho đến lúc chết, Ba Cụt vẫn mù chữ.
Mùa khô, địa chủ Vàng cho Ba Cụt theo đám trẻ mục đồng cùng nghiệp ở đợ đi chăn trâu, mùa mưa đi chăn vịt.
Cha Ba Cụt là người mê truyện Tàu, thuộc làu bộ Thủy Hử. Khi trò chuyện với bất kỳ ai, ông đều đem điển tích trong Thủy Hử ra ví von. Mê nghĩa khí kiểu truyện Tàu nhưng ông lại thường dạy dỗ con trai bằng gậy gộc. Ba Cụt thuộc tạng người hiếu động, quậy phá nên ăn đòn roi của cha hàng ngày. Có lần, Ba Cụt ăn cắp vịt của Hội đồng Vàng. Ông Hội đồng Vàng cho người qua nhà cha Ba Cụt mắng và đòi kiện ra tòa. Người cha lôi cổ con trai ra đánh. Ba Cụt dùng dao thái chuối chặt đứt 1 ngón tay rồi bỏ nhà đi bụi.
Từ đó mới sinh ra hỗn danh Ba Cụt.
Sau này, khi trở thành đầu lĩnh đội quân ô hợp, Ba Cụt lại thường tự đề cao mình là “người yêu nước, muốn ly khai gia đình để kháng chiến chống Pháp”. Và “bởi vì cha không cho ông tham gia kháng chiến nên đã chặt ngón tay thề: “Nếu ngón tay nầy mọc lại, sẽ an phận về làm ruộng cho vui lòng cha!”
Sau khi từ cha, Ba Cụt đi thẳng đến nhà người cậu ruột là ông Huỳnh Kim Hoành ở Chắc Cà Đao (nay thuộc huyện Châu Thành, tỉnh An Giang). Lúc này Ba Cụt 16 tuổi.
“Ông giáo Hoành”, “võ sư Ba Kim”, Huỳnh Kim Hoành hay Huỳnh Kim Thành đều là bí danh của ông Huỳnh Văn Hoành. Ông cư ngụ ở Bằng Tăng, Ô Môn – quê ngoại của Ba Cụt.
Ông Hoành dạy chữ quốc ngữ tại một ngôi trường của chính phủ Thực dân ở Thốt Nốt. Không ai biết ông học võ từ khi nào. Bỗng dưng, ông bỏ dạy học về quê vợ ở Chắc Cà Đao tự xưng là võ sư Sáu Kim, mở lò chiêu sinh dạy võ.
Nhiều giai thoại kể rằng, võ sư Sáu Kim học võ bằng tâm linh. Chỉ cần 1 đêm bái sư trên núi Cấm là đã được hấp thụ hết mọi tinh hoa võ học.
Thật ra, ông Huỳnh Kim Hoành chưa từng là võ sư.
Năm 1939, ông Huỳnh Kim Hoành được Yoyo – Thủ lĩnh Hắc Long Đảng ở Việt Nam giao nhiệm vụ về Chắc Cà Đao tập họp thanh niên huấn luyện quân sự, chuẩn bị cho quân đội Nhật tiến chiếm Nam Việt Nam. Yoyo có tên Việt là Võ Du – một võ sư thượng đẳng Hiệp Khí Đạo.
Hắc Long Đảng và phong trào Cường Để
Trong hồ sơ tình báo từ năm 1931 đến năm 1932 của Kempeitei mang tiêu đề “Zai-Shi Chôsenjin oyobi zaihonpô Annanjin ni kansuru Nichi Futsu jôhô kôkan kankei ikken” (Được dịch là Hồ sơ trao đổi tin tình báo giữa Nhật và Pháp về người Triều Tiên ở Trung Hoa và người Việt Nam ở Nhật Bản) cho thấy Nhật đã nuôi dưỡng Cường Để như một lá bài chính trị cho cuộc xâm lược quân sự Đông Dương năm 1940.
thumb_660_28_1bao1549
Một báo cáo mật về sự hiện diện Hắc Long Đảng tại miền Nam gửi Nguyễn Khánh.
Cơ quan Tình báo Kempeitei của Nhật thông qua đảng Hắc Long mượn nhân vật Kỳ ngoại hầu Cường Để đang tá túc chính trị tại Tokyo để tuyên truyền đề cao chủ nghĩa “Đông Á của người Á Đông”, “Việt Nam độc lập trong khối thịnh vượng Đại Đông Á” để kích động dân Việt từ năm 1930.
Trước khi Nhật đảo chính Pháp, tại miền Nam đã có sẵn rất nhiều lực lượng quân sự, chính trị sẵn sàng tiếp rước quân Nhật. Nhật chọn miền Nam Việt Nam làm nơi “dọn cỗ chính trị” vì vùng đất này trù phú có thể làm nơi trú đóng quân để tiến chiếm toàn cõi Đông Dương, sau đó tiếp tục xâm lược về phía Tây Đông Dương. Đầu năm 1946, trong bản phúc trình có tiêu đề “Notes sur le Phat Giao Hoa Hao” gởi Jean Cédile – Ủy viên Cộng hòa Pháp tại Nam Việt Nam, ông Savani (thời điểm 1946 mang hàm Thiếu tá – Trưởng phòng tình báo quân đội Pháp khu vực miền Tây Nam Bộ) đã viết: “Mục đích của Nhật lúc đó là lợi dụng tín đồ Hòa Hảo để chống lại thế lực Pháp.
Từ thành quả của Hắc Long, một số địa phương ở miền Nam manh nha thành lập đảng Nghĩa Sỹ – mật danh mới của Hắc Long Đảng tại Việt Nam. “Nghĩa sỹ Đảng” tại Cần Thơ do một thông ngôn tiếng Nhật tên là Huỳnh Khai, con trai một địa chủ, hội đồng họ Huỳnh ở quận Châu Thành (Cần Thơ) làm lãnh tụ. Huỳnh Khai là “học sinh Đông Du”. Huỳnh Khai đã được tình báo Nhật đào tạo từ khi còn là du học sinh”.
Năm 1937, một số nhân sỹ như Huỳnh Khai, Huỳnh Thạnh Mậu, Huỳnh Kim Hoành được một nhân vật có tên Yoyo đưa về Sài Gòn bí mật tham gia học một lớp chính trị núp dưới danh nghĩa khuyến nông. Yoyo chính là thủ lĩnh Hắc Long tại Việt Nam. Sau đó, nhóm người này được huấn luyện “rèn luyện thể lực” do Kimura và Mochizuki – Sỹ quan quân báo Nhật kèm cặp. Thật ra là học đội ngũ chiến đấu.
Sau khóa huấn luyện, Huỳnh Khai, Huỳnh Thạnh Mậu và Huỳnh Kim Hoành được Yoyo yêu cầu trở về miền Tây Nam Bộ chuẩn bị cướp chính quyền từ tay Pháp.
Bộ ba họ Huỳnh mở lò dạy võ để quy tựu nhân sự. Đến đầu năm 1940, họ đã tuyển được 500 “nghĩa sĩ Hắc Long Đảng” chuẩn bị làm nội ứng cho quân đội Nhật, trong đó có Ba Cụt. Sau đó 500 người này được đưa về Sài Gòn huấn luyện quân sự tại Trường vẽ Gia Định (Nay là Trường Đại học mỹ Thuật TP Hồ Chí Minh). Chỉ huy 500 học viên này là Cai Tri, từng là cai đội trong hàng ngũ lính Pháp.
Tuy mù chữ nhưng máu đánh đấm trong người Ba Cụt đã được dịp phát huy tác dụng. Ba Cụt trở nên nổi bật trong số tân binh “nghĩa sỹ Hắc Long Đảng”.
Sau khi hoàn tất khóa huấn luyện, Huỳnh Khai đưa một số “nghĩa sĩ” về Châu Thành (Cần Thơ) phân tán vào lực lượng lao động bình dân đồng thời chiêu nạp thêm nhân sự cho “Hắc Long Đảng”.
Vỏ bọc ban đầu
Lấy lý do phòng chống trộm, cướp cho xóm làng, Ba Cụt và những “học trò” của Huỳnh Kim Hoành được đưa về làng Hòa Hảo lập đội “Bảo An”. Đội “Bảo An” thuộc quyền chỉ huy trực tiếp của Nguyễn Giác Ngộ. Huỳnh Thạnh Mậu và Huỳnh Kim Hoành đảm nhiệm vai trò cố vấn chính trị.
thumb_660_28_ba1549
Ba Cụt (trong ô tròn) thời kỳ cận vệ của Năm Lửa.
Nguyễn Giác Ngộ có tên khai sinh là Nguyễn Văn Ngượt, sinh năm 1897, ở Long Xuyên (An Giang). Xuất thân là một trung đội trưởng lính Partisan của quân Pháp nên đảm nhiệm vai trò chỉ huy chiến đấu đội “Bảo An”.
Sau khi ổn định lực lượng, Nguyễn Giác Ngộ kéo hết đội “Bảo An” về Thốt Nốt (Cần Thơ) chờ lệnh người Nhật.
Đầu năm 1940, Giáo chủ Phật giáo Hòa Hảo Huỳnh Phú Sổ tổ chức thuyết giảng đạo pháp tại sân vận động Thốt Nốt. Trần Văn Soái chỉ huy tổ “xung phong” có nhiệm vụ giữ gìn trật tự.
Trần Văn Soái có hỗn danh là Năm Lửa, sinh năm 1889 tại Mỹ Thuận, Cần Thơ (nay thuộc Vĩnh Long) xuất thân là dân anh chị ở bến phà Mỹ Thuận. Khi phong trào Hắc Long Đảng tràn về Cần Thơ, Năm Lửa lôi kéo dân anh chị gia nhập. Khi lập đội “Bảo An Hòa Hảo”, Năm Lửa được giao chỉ huy nhóm thuộc hạ gốc anh chị, gọi là tổ “xung phong”. Ba Cụt thuộc tổ này.
Trong một lần thuyết giảng tại Thốt Nốt (Ngày nay thuộc TP Cần Thơ) Giáo chủ Huỳnh Phú Sổ đã bảo Năm Lửa chọn Ba Cụt làm “cận vệ quân”
Từ đó, Năm Lửa rút Ba Cụt lên làm lính cận vệ cho mình. Ba Cụt gọi Năm Lửa bằng tía, xưng con. Vì vậy, có một số người lầm tưởng Ba Cụt là con nuôi của Năm Lửa.
Gọi là cận vệ cho oai chứ thật ra, Ba Cụt cũng chỉ là lính hầu, suốt ngày nấu nước, pha trà và chèo ghe cho Trần Văn Soái.
Thời điểm này, lính “Bảo An Hòa Hảo” chưa được trang bị súng, chỉ sử dụng giáo mác nhưng Ba Cụt đã có đến hai cây súng mousqueton kiểu Anh và một súng ngắn 7 ly. Ba Cụt mặc bộ bà ba đen, cột thắt lưng vải, lưng đeo chéo 2 cây mousqueton như hiệp khách đeo gươm. Khẩu súng ngắn cột dây bện bằng bẹ chuối khô treo lủng lẳng trước ngực.
Ngày 22-09-1940, Sư đoàn 5 thuộc quân đoàn 21 Nhật Hoàng đã tiến vào miền Bắc Việt Nam trước sự bất lực của quân Pháp. Trước uy thế của quân Nhật, lực lượng Bảo An của Nguyễn Giác Ngộ công khai hoạt động.
Một nhân chứng đã 97 tuổi, hiện cư ngụ ở Thốt Nốt, kể: “Hồi đó tôi đồng thời là lính của ông Năm Lửa nên biết rõ lai lịch 3 cây súng của Ba Cụt. Hồi đó, khoảng cuối năm 1942, đói quá, Ba Cụt lân la đến nhà ông Bảy Mía ở làng Nhơn Mỹ (Chợ Mới, An Giang) xin cơm. Khi đến nơi thì thấy 3 lính Tây đang  nằm ngủ ở đó. Ba Cụt xông vô đâm chết 3 lính Tây lấy được ba cây súng mousqueton đem về. Năm Lửa lúc ấy đã có 2 cây ruleu, thưởng cho Ba Cụt 1 cây. Đổi lại, ông Năm thu 1 cây mousqueton giao cho tôi. Trước đó, vũ khí của tôi là cây mác. Khi lực lượng Nghĩa sỹ Hòa Hảo bắt tay với Pháp, tôi bỏ ngũ về quê làm ruộng”.
Từ khi còn là lính cận vệ, Ba Cụt đã thể hiện tính hiếu sát. Gọi là bảo vệ trị an cho dân nhưng suốt ngày Ba Cụt chỉ biết đi từng nhà dân thu gom lúa gạo, gia súc. Ba Cụt giải thích, đó là “thu thuế” để nuôi quân. Gọi là “thu thuế” nhưng đội quân này xông thẳng vào nhà dân dùng vũ khí đe dọa chủ nhà rồi tự tiện hốt hết phân nửa số lúa gạo hoặc gia súc. Người nào chống đối, liền bị chặt đầu thả xác trôi sông. Lo sợ, người dân trong vùng phải chôn giấu lúa gạo dưới nền nhà.
Khi vào nhà nào không có bồ lúa, Ba Cụt trói chủ nhà vào cột rồi dùng cây đinh sắt 1 tấc đút vào lỗ tai. Cứ sau 1 câu: “Chôn giấu lúa ở đâu?”, Ba Cụt lại dùng bá súng goõ nhẹ vào đầu cây đinh một phát. Nếu chủ nhà chỉ nơi chôn giấu lúa thì được tha. Vô phúc cho những gia đình nghèo không có lúa, bị Ba Cụt gõ cây đinh dần sâu vào lỗ tai. Nạn nhân không chết ngay mà đau đớn vật vã, điên loạn đến mấy tháng sau mới chết.
(Còn tiếp)
Nông Huyền Sơn

Ba “Cụt”: làm vua một cõi (kỳ 2)

Tin số 1 của 4 tin về Ba Cụt
Thời thế hỗn mang trong thời kỳ Nhật – Pháp tranh giành quyền lực ở Việt Nam đã tạo điều kiện cho Ba Cụt (lê quang vinh) trở thành “sỹ quan” tự phong.
Vốn là người ít học, Ba Cụt đã biến đội quân của mình thành một nhóm thổ phỉ ẩn dưới danh nghĩa “quân đội Hòa Hảo”.
Rõ là thời thế tạo “anh hùng”
Rất gai mắt nhưng quân đội Pháp không dám đụng chạm đến những đội quân “Nghĩa sĩ”. Họ biết rõ những nhóm vũ trang này được người Nhật bảo hộ.
Ngày 9-3-1945, quân Nhật phát lệnh đảo chính Pháp. Ngày 10-3-1945, quân Nhật do Phó Tư lệnh Sa To chỉ huy kết hợp với Huỳnh Khai chiếm Cần Thơ. Nhiều tài liệu lịch sử ghi nhận: “Lúc đó, “Nghĩa sĩ đảng” do thông ngôn tiếng Nhật là Huỳnh Khai, con của một địa chủ hội đồng ở quận Châu Thành (Cần Thơ) cầm đầu tuyên truyền “Người da vàng của người da vàng”. Huỳnh Khai tự nhận là “chí sĩ chống Tây”. Huỳnh Khai cùng các thuộc hạ chiếm lĩnh các nhà buôn và văn phòng của Tây để lại”.
   thumb_660_28_ng1550
Nguyễn Giác Ngộ.
Đảo chính Pháp thành công, Nhật không đưa Cường Để làm vua như kỳ vọng của rất nhiều nhóm “nghĩa sĩ” mà lại thành lập chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim. Tại Cần Thơ, viên Chánh biện Pháp De Montaigut được thay thế bởi tỉnh trưởng Lưu Văn Tào – một đốc phủ sứ của Pháp nhưng ngầm ủng hộ Nhật. Lực lượng “nghĩa sĩ” ở Cần Thơ, Long Xuyên bị gạt ra ngoài.
Bất mãn, những nhóm “nghĩa sĩ” đã từng ủng hộ Nhật tự tách ra khỏi vòng kiềm tỏa của Hắc Long Đảng để thành lập một tổ chức quân sự ly khai mới có tên gọi là “Nghĩa quân cách mạng vệ quốc Liên đội Nguyễn Trung Trực” gọi tắt là “Chi đội Nguyễn Trung Trực”. Mục đích của lực lượng quân sự ly khai này là thành lập một quốc gia riêng, lấy miền Tây Nam Bộ làm lãnh thổ.
Võ sư Kim chán ngán binh đao, trở về làm thầy giáo tiểu học.
Nguyễn Giác Ngộ tự phong là Chi đội trưởng kéo hết nhóm “nghĩa sĩ bị quân Nhật bỏ rơi” về núi Dài (An Giang) lập căn cứ tuyển mộ tân binh.
Ông Hồ Văn Ch. (81 tuổi, cư ngụ ở Thốt Nốt, Cần Thơ) đã từng là tân binh của “Nghĩa quân cách mạng vệ quốc Liên đội Nguyễn Trung Trực” trong giai đoạn này. Ông kể: “Tôi thấy đội quân này không có chủ trương nhất quán. Khi kêu gọi gia nhập, họ bảo với chúng tôi là tập quân sự để đánh Pháp. Tôi cũng nô nức vào núi Dài tòng quân. Nhưng khi bắt đầu học quân sự thì tôi thấy sỹ quan Pháp hướng dẫn. Tôi hỏi thì họ bảo, thời thế đã thay đổi, bây giờ Pháp trang bị võ khí để nghĩa quân chuẩn bị giúp Pháp trở lại Việt Nam. Thế là tôi bỏ trốn về nhà làm ruộng”.
thumb_660_28_binh1550
Binh lính của Ba Cụt.
Chỉ một thời gian ngắn, lực lượng ly khai tuyển mộ được hơn 10.000 tân binh. Thế là hầu hết những người đã từng tham gia nhóm Huỳnh Khai đều được “đôn” lên thành sỹ quan chỉ huy đám lính mới.
Từ một chú lính hầu, Ba Cụt được giao chỉ huy một phân đội quân khoảng 200 người. Khi ấy, Ba Cụt chỉ mới 22 tuổi.
Sau khi nhận ra lực lượng “Nghĩa quân cách mạng vệ quốc Liên đội Nguyễn Trung Trực” là đội quân thiếu tôn chỉ, mục đích, rất nhiều tân binh đào ngũ trở về quê cày cuốc. Từ con số 10.000 quân, chỉ sau 1 tuần lễ chỉ còn hơn 500 quân. Có những phân đội chỉ còn duy nhất phân đội trưởng. Chỉ mỗi phân đội của Ba Cụt còn gần như nguyên vẹn quân số. Để giữ được quân số đó, Ba Cụt đã phải dùng dao rựa khất nhượng thị uy vài người bỏ trốn.
Nhờ thiếu hụt quân số, Ba Cụt lại được “đôn” lên thành Phó chi đội. Ba Cụt được giao chỉ huy một đại đội gồm các thành phần đầu gấu trong xã hội. Vùng trách nhiệm của Ba Cụt trải dài từ Ô Môn (Cần Thơ) đến Long Xuyên, sang Tri Tôn (bây giờ là tỉnh An Giang). Khu vực Tà Đét, núi Bà Đội Om nằm trong vùng trách nhiệm của Ba Cụt.
Ngày 9-5-1945, Phát xít Đức đầu hàng quân đồng minh, quân Nhật ở Việt Nam bắt đầu co cụm lại. Ngày 15-8-1945, Nhật chính thức đầu hàng, Pháp tái chiếm Nam Bộ. Nguyễn Giác Ngộ lập tức bắt tay với quân Pháp để giải giáp quân Nhật ở khu vực Tây Nam Bộ.
Nhờ biết xuôi theo chiều gió, ngày 18-12-1946 lực lượng “Nghĩa quân cách mạng vệ quốc Liên đội Nguyễn Trung Trực” được quân Pháp sát nhập vào lực lượng quân phụ lực (Forces supplétives) của họ. Lực lượng này được giữ lại số vũ khí tước được từ tay quân Nhật và được quân Pháp cấp thêm 1 lượng vũ khí mới.
Đề phòng lực lượng này phản trắc, quân Pháp chia “liên đội” thành 4 chi đội, bố trí đóng quân ở 4 khu vực khác nhau. Chi đội 1 do Năm Lửa chỉ huy, hoạt động tại vùng Cần Thơ. Chi đội 2 do Lê Minh Điểu (tức xã Nhiễu) chỉ huy, hoạt động tại vùng Long Xuyên. Chi đội 3 do Lê Phát Khuynh chỉ huy, hoạt động vùng Châu Đốc. Phân đội 4 do Phan Hà chỉ huy, hoạt động ở vùng Rạch Giá. Nhiệm vụ của 4 chi đội này là giúp Pháp tiêu diệt Việt Minh và ủng hộ cái gọi là chính phủ Nam Kỳ tự trị thuộc Pháp.
Làm “vua” một cõi
Sau khi nhận được vũ khí của Pháp, Năm Lửa bắt đầu bất phục tùng Nguyễn Giác Ngộ. Để tỏ rõ sự bất phục tùng, Năm Lửa giao Ba Cụt dẫn quân đi phục kích những toán quân Pháp đi lẻ tẻ, thậm chí đánh luôn quân của Nguyễn Giác Ngộ.
Khi đó, nhằm tập trung trí lực đối phó với lực lượng cách mạng của ta, quân Pháp cần thâu tóm những toán quân không có tôn chỉ hoạt động như Năm Lửa. Đại tá Cluzet – Tư lệnh Phân khu Tây Nam Bộ của Pháp phải nhờ Savani (lúc này đã mang hàm Trung tá tình báo) tìm gặp Năm Lửa để tìm nguyên nhân “phản bội”. Sau khi biết Năm Lửa không muốn thuộc quyền Nguyễn Giác Ngộ, ngày 18-5-1947, Đại tá Cluzet chấp nhận ký kết một hiệp định. Theo đó, quân của Năm Lửa là một chi đội trực thuộc lực lượng quân sự Phân khu Tây Nam Bộ của Pháp chứ không thuộc quyền Nguyễn Giác Ngộ. Dù chỉ là “rượu cũ trong bình mới” nhưng Năm Lửa lại đồng ý.
thumb_660_29_nam1550
Năm Lửa.
Thấy Năm Lửa được Pháp ưu ái nhờ chiêu ly khai, Ba Cụt cũng thực hiện kế sách đó.
Mượn cớ Năm Lửa đầu hàng Pháp, Ba Cụt rút 2/3 quân số chạy về Bằng Tăng (Ô Môn, Cần Thơ) đóng doanh trại rồi tuyên bố ly khai. Ba Cụt đặt tên mới cho lực lượng quân sự của mình là “nghĩa quân Cách mạng” và tự phong hàm đại tá, chỉ huy trưởng. Không ai biết lực lượng “nghĩa quân” của Ba Cụt hoạt động với mục đích gì, phục vụ cho ai, bởi ông ta chống lại tất cả mọi lực lượng quân sự khác, từ quân đội của Nguyễn Giác Ngộ, Năm Lửa cho đến Pháp, kể cả Việt Minh…
Ba Cụt cứ thế cát cứ một cõi theo kiểu thổ phỉ và trở thành nỗi khiếp hãi của nhân dân địa phương.
Để có thêm quân số, Ba Cụt cho thuộc hạ đi lùng sục bắt thanh niên ghi tên gia nhập.
Nhớ lại giai đoạn đó, những bậc kỳ lão vẫn còn hãi hùng. Một nhân chứng cư ngụ gần ngôi mộ gió của Ba Cụt ở Thới Long, cho biết: “Nửa đêm lính Ba Cụt gõ cửa bảo, chúng tôi là Việt Minh, hãy cho chúng tôi cơm ăn. Chủ nhà mở cửa là chúng đè ra chặt đầu về tội giúp đỡ Việt Minh. Nếu chủ nhà không mở cửa, sáng hôm sau chúng quay trở lại khen ngợi là người ủng hộ Ba Cụt. Khen xong, chúng lôi về đồn, nhét súng vào tay bắt tập quân sự. Ai trì hoãn không đi, chúng trói giật cánh khuỷu. Khi gom được 5 – 6 người chống lệnh, chúng xỏ cây tre vào các khuỷu tay thành chùm người rồi thả xuống sông Hậu. Các nạn nhân không chìm ngay mà vùng vẫy đến đuối sức rồi chết”.
Ngoài ra, Ba Cụt còn buộc người dân trong vùng phải đóng “nguyệt liễm” hàng tháng, tương đương 20 giạ lúa.
Đặc biệt, Ba Cụt tỏ ra rất căm ghét lực lượng cách mạng của ta. Có lời truyền lại khi thuộc hạ bắt được một chiến sỹ cách mạng, Ba Cụt đã dùng dao bầu mổ bụng người ấy.
Hung hăng với dân lành nhưng mỗi khi nghe tin quân Pháp càn quét, trong tích tắc, bản doanh của Ba Cụt vắng hoe. Chính Ba Cụt đã làm tín đồ Phật giáo Hòa Hảo vạ lây tai tiếng về tính cuồng sát. Hầu hết những tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo thật tâm tu đạo đều xem Ba Cụt chỉ là người mượn danh giáo phái để mưu lợi cá nhân.
Sau nhiều động thái chuẩn bị, tháng 7-1949, Pháp đưa Bảo Đại (vị vua đã thoái vị trao ấn kiếm cho chính quyền Cách mạng) từ sòng bài Macau về nước đặt ngồi vào ghế “Quốc trưởng” để lập một ván cờ chính trị mới có tên gọi là “Quốc gia Việt Nam” hòng tiếp tục thống trị Việt Nam. Pháp lập luận rằng “Quốc gia Việt Nam” là chính thể độc lập nhưng người Pháp vẫn giữ quyền kiểm soát tài chính, thương mại, chính sách đối ngoại, kể cả quân sự.
Từ chính sách đó, Pháp cần tuyển mộ nhiều binh lính người Việt để trấn áp người Việt. Trong nhiều thao tác mua chuộc, người Pháp đã lôi kéo được toàn bộ lực lượng vũ trang tự xưng là “quân đội Hòa Hảo”.
Lúc này, Nguyễn Giác Ngộ cát cứ ở Chợ Mới (nay thuộc An Giang), Năm Lửa cát cứ tại Cái Vồn (nay thuộc Vĩnh Long); Hai Ngoán tức Lâm Thành Nguyên cát cứ ở Cái Dầu (nay thuộc An Giang). Ba Cụt tách khỏi Năm Lửa, biến thành lực lượng phỉ cát cứ một cõi riêng tại quê nhà ở Bằng Tăng, Ô Môn.
Để mua chuộc lực lượng “quân đội Hòa Hảo”, Đại tá Cluzet – Tư lệnh miền Tây đã ký một loạt các “hiệp định liên quân Pháp – Hòa Hảo” vào ngày 18-5-1947. Theo đó, Pháp trao hàm Thiếu tướng cho Nguyễn Giác Ngộ và Trần Văn Soái (Năm Lửa), trao hàm Đại tá cho Lâm Thành Nguyên.
Mặc dù đã ly khai, thấy “ông tía” Năm Lửa đeo lon Thiếu tướng, Ba Cụt tự phong mình là Thiếu tá rồi sai lính đi lùng kiếm một bộ sắc phục sỹ quan Pháp có lon Thiếu tá mặc vào. Đám lính lùng sục hàng tuần vẫn không tìm đâu ra bộ sắc phục cho “ông Ba”.
Cuối cùng, một thuộc hạ của Ba Cụt nảy sáng kiến, thưa rằng: “Thiếu tá Ba không còn là lính của cụ Năm Lửa thì hà tất phải mặc sắc phục đúng y chang lính Pháp. Thiếu tá Ba là người của nhà trời thì phải có đồ trận riêng”. Vị “quân sư quạt mo” này trình cho Ba Cụt một bộ đồ mới may.  Đó là bộ áo bà ba màu dà (y phục của tín đồ Phật giáo Hòa Hảo) nhưng trên vai lại có đính cầu vai hàm Thiếu tá Pháp. Ba Cụt mặc vào trông rất buồn cười.
Cho rằng vị “quân sư” chơi xỏ mình, Ba Cụt sai lính lôi ra đánh 20 gậy. Tuy giận vị “quân sư” nhưng Ba Cụt nảy ra ý mới: Không lùng tìm sắc phục sỹ quan Pháp mà đặt may nhái kiểu. Đó là một bộ lễ phục cấp tướng của quân đội Pháp nhưng mang hàm Thiếu tá. Khoác bên ngoài là chiếc áo pardessuers dài đến nửa ống quyển chân.
(Còn nữa)
Nông Huyền Sơn

Ba “Cụt”: tự phong hàm Thiếu tướng (kỳ 3)

Tin số 3 của 4 tin về Ba Cụt
Sau khi đeo hàm Thiếu tá vài ngày, Ba Cụt (tức Lê Quang Vinh) nhận thấy đã tự phong thì đeo thế nào chẳng được? Thế là Ba Cụt tự phong luôn hàm Đại tá. Lại thấy Việt Minh sử dụng cờ sao vàng nền đỏ, Ba Cụt cho lính may lá cờ một ngôi sao đỏ trên nền vàng, hàm ý đối nghịch với Việt Minh.
May xong, lại nghĩ “cờ của Ba Cụt phải có nhiều sao hơn cờ Việt Minh”, Ba Cụt cho may lại lá cờ có ba ngôi sao màu đỏ trên nền vàng.
Lá mặt lá trái
Trong buổi lễ “thượng cờ”, Ba Cụt đi trước hàng quân dùng cây ba toong chỉ thẳng vào mặt từng người: “Mày là trung tá. Mày là thiếu tá. Mày, mày, mày và mày theo tao đã lâu, đáng lẽ được mang hàm thiếu tá nhưng bộ dạng, hình dong xấu quá, mang hàm đại úy thôi. Còn thằng này mới gia nhập nghĩa sĩ mấy ngày nhưng dáng cao ráo, đẹp trai, ăn nói dõng dạc, tao cho mang hàm thiếu tá”.
thumb_660_28_binh1551
Binh lính của Ba Cụt.
Ba Cụt phong hàm cho thuộc cấp kiểu đó nên xảy ra tình trạng bi hài trong đội ngũ. Có người mang hàm thiếu tá nhưng lại là chiến sỹ thuộc quyền chỉ huy của một trung úy. Lính và sỹ quan cứ cãi nhau ỏm tỏi về quyền chỉ huy. Thuộc cấp báo cáo cho Ba Cụt tình hình rối ren.
Ba Cụt phán lệnh: “Thằng nào lon lớn thì chỉ huy. Thằng nào lon nhỏ thì làm lính”. Hôm sau, một “thiếu tá” lại chạy vào “Tổng hành dinh” báo cáo: “Vẫn bất ổn! Thằng thiếu tá mới tòng quân chưa từng bắn phát súng nào, giờ chỉ huy Tiểu đội toàn trung úy có kinh nghiệm xông pha trận suốt mấy năm. Vừa nghe súng Tây nổ, thằng thiếu tá bất tỉnh, tè dầm trong quần. Cả Tiểu đội không còn người chỉ huy”.
Ba Cụt lập ngay 1 “phiên tòa quân sự” xét xử tội trạng “viên thiếu tá tè dầm”. Ba Cụt ngồi ghế “chánh án”. Người “đại diện công tố” vừa đọc xong tội trạng, Ba Cụt phán luôn: “Cách chức, lột lon, đánh 50 hèo, tống giam 3 tháng rồi đưa xuống làm binh nhì”.
Xử phạt roi thì thuộc hạ thi hành dễ dàng nhưng không thể phạt giam bởi không có nhà giam. Nhận được báo cáo, Ba Cụt trả lời gọn: “Không có buồng giam thì… bắn”.
“Đội thi hành án” không nỡ bắn chết người lãng xẹt như vậy nên đem “phạm nhân” ra cánh đồng vắng, tháo dây trói rồi bảo: “Anh phải chạy thật nhanh. Sau khi tôi đếm từ 1 đến 10 sẽ bắt đầu bắn. Chạy chậm, anh sẽ chết”.
“Viên sỹ quan tè dầm” thoát chết. Có lẽ những người thi hành án chỉ bắn hù dọa để đuổi “phạm nhân”. Sau trận hụt chết, viên “thiếu tá” về nhà sống an phận với ruộng vườn. Hiện nay con cháu ông vẫn còn sinh sống ở Thốt Nốt.
Nhận xét về Ba Cụt, trong một bài nghiên cứu lịch sử Đông Dương, nhà báo Pháp đăng trên tờ Điện Tín Paris năm 1960, viết: “Ba Cụt là người tàn ác lạ thường và không có ý thức nhiệm vụ cộng đồng”.
Đến tháng 8 – 1950, Thống tướng De Lattre de Tassigny chấp chưởng quyền hành quân sự và dân sự tại Đông Dương với chức vụ Cao ủy kiêm Tổng tư lệnh quân đội viễn chinh Pháp tại Đông Dương, đã đề chỉ thị Thiếu tướng Chanson Tổng Tư lệnh Pháp ở miền Nam phải nhanh chóng xúc tiến việc lập quân đội cho chính quyền Bảo Đại để “dùng người Việt đánh người Việt”. Chanson lập tức yêu cầu Đại tá Cluzet Tư lệnh miền Tây chuyển giao những lực lượng tự xưng “quân đội Hòa Hảo” cho chính quyền Bảo Đại. Nguyễn Giác Ngộ, Lâm Thành Nguyên, Trần Văn Soái lần lượt làm lễ tuyên thệ quy thuận chính quyền Bảo Đại.
Đại tá Cluzet lại nhờ Trung tá mật thám Savani tiếp xúc với Ba Cụt để “chiêu dụ”. Qua Savani, Chanson hứa sẽ cho Ba Cụt chính thức đeo lon Thiếu tá.
Đang là đại tá thổ phỉ vô tổ chức bỗng chốc được “hóa thân” thành thiếu tá chính thức thuộc “Quân đội Quốc gia Việt Nam – Nam Kỳ tự trị”, Ba Cụt hồ hởi chấp nhận ngay.
thumb_660_29_nam1551
Năm Lửa (ngồi giữa).
Ngày 20-8-1950, Ba Cụt được Đại tá Cluzet thực hiện nghi lễ đeo lon “thiếu tá phụ lực quân của quân đội viễn chinh Pháp”. Các thuộc hạ của Ba Cụt cũng được nhận cấp bậc và lương theo biên chế Phụ lực Quân. Cũng trong buổi lễ này, Đại tá Cluzet đã trang bị vũ khí đầy đủ cho đội quân của Ba Cụt. Đồng thời giao khoán nhiệm vụ cho Ba Cụt chịu trách nhiệm đánh phá lực lượng quân sự của Việt Minh trong phạm vi từ Ô Môn dọc theo sông Hậu đến Long Xuyên. Kết thúc lễ trao hàm, Ba Cụt cho thuộc hạ đi “càn” để bắt heo của dân về ăn mừng. Trong tiệc rượu mừng, đám “quân sư” của Ba Cụt lao nhao phản đối: “Pháp xem thường nên chỉ cho ông Ba đeo hàm thiếu tá. Ông Ba chỉ huy 3.000 quân. Trong khi đó, ông Năm (tức Năm Lửa) chỉ huy có 2.000 quân mà được đeo hàm thiếu tướng”.
Hôm sau, vừa tỉnh rượu, Ba Cụt lệnh cho thuộc hạ phục kích 1 cái đồn của quân Pháp đóng ở Cả Mít (Đồng Tháp) ven bờ Bắc sông Hậu. Để đánh cái đồn chỉ có nửa tiểu đội lính Pháp này, Ba Cụt lùa hơn 1.000 quân bao vây suốt nửa ngày. Nghe tin viện quân của Pháp kéo tới, lính Ba Cụt nhày ào xuống sông bơi về bờ nam sông Hậu.
Dù vậy, Ba Cụt vẫn mở tiệc “khao mừng chiến thắng”. Tại bữa tiệc này, Ba Cụt tuyên bố: “Từ nay, quân ta không còn trực thuộc lực lượng quân sự Nghĩa quân Cách mạng nữa. Chúng ta là đội quân duy nhất của Đảng Dân chủ Xã hội”.
Cũng cần phải nói thêm rằng, lúc đầu, Giáo chủ Hòa Hảo Huỳnh Phú Sổ thành lập Đảng Dân chủ Xã hội để liên kết với Việt Minh đánh Pháp. Đánh hơi được điều đó, mật thám Pháp đã cài cắm người chui vào nội bộ Đảng Dân chủ Xã hội. Vì vậy, ngay sau khi thành lập, viên mật thám này (tạm gọi tên là L – Tác giả) đã chuyển mục tiêu “liên kết với Việt Minh đánh Pháp” thành “liên kết với Pháp, đánh Việt Minh”.
Chính viên mật thám này đã cố vấn cho Ba Cụt đưa đội quân này vào Đảng Dân chủ Xã hội để được gọi là “đội quân chính danh”. Sau này khi Ngô Đình Diệm được Mỹ bế ẵm đặt vào ghế Thủ tướng của Bảo Đại, ông L này đã tác động Ba Cụt chống Diệm dẫn đến việc Ba Cụt bị Diệm xử chém. Khi Ba Cụt chết, nhận thấy thế lực của Mỹ có ảnh hưởng mạnh với chính trường miền Nam, viên mật thám Pháp này đã trở giáo với Pháp, cộng tác với CIA chống phá chính quyền cách mạng cho đến ngày mãn kiếp người.
“Thằng con hoang của Hòa Hảo”
Trở lại với chuyện Ba Cụt (Lê Quang Vinh). Sau khi đánh đồn Cả Mít, Ba Cụt rút quân về Thới Long ăn nhậu. Nghe tin Ba Cụt phản phé, Đại tá Cluzet tức giận điều 1 tiểu đoàn khinh binh từ Cần Thơ đánh thốc vào bản doanh của Ba Cụt.
thumb_660_29_noi1551
Nơi Ba Cụt chiếm đóng làm trụ sở Ban Chỉ huy.
Đang ăn nhậu, Ba Cụt trở tay không kịp, đã cùng vài lính cận vệ bơi ào qua cù lao Tân Lộc lẩn trốn. Binh sỹ của Ba Cụt như rắn không đầu, xách súng chạy tản mát. Trong những ngày ở cù lao Tân Lộc, Ba Cụt lấy ngôi đình Tân Lộc Đông làm nơi tá túc. Ban ngày, Ba Cụt cùng thuộc hạ chui rúc trong đình, ban đêm chui rúc trong vườn cây của dân.
Dù chui rúc như vậy nhưng Ba Cụt vẫn không bỏ được thói hống hách với dân. Nghe tin nhà ông Ba B. làm heo cúng giỗ cha, Ba Cụt xách súng đến đòi truy thu thuế “nguyệt liễm” nguyên năm, tương đương giá trị con heo đã mổ thịt đang treo trên vách nhà. Gia đình ông Ba B. quỳ sụp xuống van xin Ba Cụt chừa nửa con heo để cúng cha. Ba Cụt đồng ý.
Ba Cụt còn đang dùng rựa xả nửa con heo thì nghe ngoài đầu xóm có người la lớn: “Lính Tây đi càn, bà con ơi!”. Ông Ba B. ngoảnh lại thì Ba Cụt và nguyên con heo đã biến mất.
Lính Pháp kéo đến. Người dân căm ghét Ba Cụt đã kể lại sự việc vừa xảy ra. Lính Pháp chạy vào vườn lùng sục thì thấy con heo còn nằm dưới mương nước còn Ba Cụt đã mất tăm.
Sau này, Ba Cụt chữa thẹn với thuộc hạ rằng, hôm đó nhờ có phép “độn thổ” nên không rơi vào tay quân Pháp.
Sau khi trốn chui trốn lủi hàng tháng trời, Ba Cụt nhờ “quân sư” L liên lạc với Đại tá Cluzet xin “quy thuận”. Ông ta đưa ra yêu sách là phải thăng hàm Trung tá. Lúc này, trên khắp chiến trường Việt Nam, quân và dân cách mạng đã liên tục áp chế quân Pháp. Nhằm giảm áp lực chiến sự, Pháp đành nhượng bộ Ba Cụt.
Thế nhưng, cứ sau khi đạt được yêu sách, Ba Cụt lại giở quẻ.
Tính đến thời điểm năm 1953, Ba Cụt đã 5 lần “quy thuận” quân Pháp. Sau mỗi lần “quy thuận”, Ba Cụt lại đòi hỏi thăng cấp.
Lần cuối cùng, ngày 1-12-1953, Pháp chấp nhận trao hàm Đại tá cho Ba Cụt.
Vẫn chưa thỏa mãn, 6 tuần sau Ba Cụt lại tuyên bố “đánh Pháp”, kéo quân về Châu Đốc (vùng giáp giới Campuchia) lập căn cứ cho đến ngày Pháp bại trận Điện Biên Phủ.
Với kiểu tráo trở ấy, Đại tá Cluzet đã tặng cho Ba Cụt biệt danh “L’enfant terrible des Hoa Hao”, tức “thằng con hoang của Hòa Hảo”.
Lại nói, ngày 1-12-1953, Pháp chấp nhận trao hàm Đại tá cho Ba Cụt. Thì tháng 6-1954, Ba Cụt lại đòi Pháp trao hàm Thiếu tướng. Trước sự đòi hỏi quá đáng của Ba Cụt, Đại tá Cluzet không thương thuyết nữa mà xua quân triệt tiêu. Lần này, Cluzet sử dụng cả xe thiết giáp, tàu chiến, máy bay trợ chiến cho 1 trung đoàn bộ binh tấn công.
Được trinh sát báo tin, Ba Cụt hoảng vía kéo hết binh sỹ chạy thục mạng về khu vực biên giới ở Châu Đốc đóng quân cho đến khi Pháp bại trận Điện Biên Phủ.
Bại trận Điện Biên Phủ, Pháp rút quân khỏi Đông Dương. Lợi dụng cơ hội này, Ba Cụt làm lễ tự phong hàm Thiếu tướng cho chính mình.
Ngày 7-7-1954, Mỹ bế Ngô Đình Diệm đặt vào ghế Thủ tướng của chính quyền ngụy tạo Bảo Đại nhằm gạt bỏ quyền lực chính trị của Pháp. Trong thời điểm nhá nhem đó, Ba Cụt thỏa sức tác oai tác quái ở vùng biên giới Châu Đốc. Gã cho thuộc hạ thu thuế hải quan cả trên bộ lẫn dưới sông ở vùng giáp ranh biên giới giữa Việt Nam và Campuchia.
Bị quân sư L xúi giục, Ba Cụt tuyên bố ly khai với Ngô Đình Diệm. Pháp không còn tồn tại để thờ, một lần nữa, Ba Cụt tự biến mình và thuộc hạ thành đội quân thổ phỉ vô tổ chức.
Để loại hẳn ảnh hưởng của Pháp đối với Bảo Đại, Mỹ đã cố vấn cho Ngô Đình Diệm cải danh toàn bộ lực lượng Quân đội Quốc gia (thuộc Pháp) thành Quân đội Việt Nam Cộng Hòa.
Để thực hiện tiến trình đó, Diệm ra tuyên cáo tất cả các lực lượng quân sự giáo phái ở miền Nam như Bình Xuyên, Cao Đài, Hòa Hảo, Thiên Chúa Giáo phải quy thuận Diệm.
Sau khi lôi kéo được Trình Minh Thế (quân đội Cao Đài Ly khai), Ngô Đình Diệm giải giáp lực lượng quân sự Cao Đài và truy bắt Giáo chủ Phạm Công Tắc.
Tháng 5-1955, Ngô Đình Diệm giao cho Đại tá Dương Văn Đức, có hỗn danh là Đức “khùng” thành lập “Khu Chiến miền Tây” để thực hiện tiến trình giải giáp các lực lượng quân sự tự xưng thuộc Hòa Hảo. Sau khi hoàn tất việc thành lập bộ tham mưu “Khu Chiến miền Tây”, ngày 23-5-1955, Dương Văn Đức bắt đầu khởi động chiến dịch quân sự mang mã danh “Đinh Tiên Hoàng”, đánh thốc vào bản doanh của Nguyễn Giác Ngộ, Năm Lửa và Lâm Thành Nguyên.
Nghe tin, Nguyễn Giác Ngộ vội gửi thư cho Diệm xin được “đồng hóa” vào quân đội dưới trướng Diệm. Ngày 1-6-1955, Nguyễn Giác Ngộ chính thức ăn lương của chính phủ Diệm.
Dương Văn Đức xua quân càn vào Cái Dầu, lực lượng của Lâm Thành Nguyên chạy dài. Ngay sau đó, Lâm Thành Nguyên cũng xin được đầu quân dưới trướng Diệm.
Chỉ còn mỗi Năm Lửa và Ba Cụt vẫn còn tồn tại.

Ba “Cụt”: bị hành quyết bằng cách chặt đầu (kỳ cuối)

Tin số 4 của 4 tin về Ba Cụt
Vào ngày 5-1-1956, Dương Văn Minh phát lệnh một cuộc tấn công đại quy mô có mật danh là “Thoại Ngọc Hầu” nhằm vào lực lượng của Ba Cụt. Chiến dịch này có cả xe bọc thép, tàu chiến, pháo binh và máy bay yểm trợ. Đặc biệt là có sự hiện diện của nhiều loại vũ khí, khí tài tối tân mang thương hiệu Mỹ.
Chiến dịch Thoại Ngọc Hầu

Nhận được hung tin, “Trung tướng” Ba Cụt (tức Lê Quang Vinh) phát lệnh cho binh lính tản ra “tử thủ” 4 cứ điểm Giồng Riềng, Hà Tiên (Kiên Giang), Ba Thê và Châu Đốc (An Giang). Số quân còn lại khoảng 400 tay súng, Ba Cụt giao quyền chỉ huy cho Ba Bụng (được Ba Cụt phong hàm Đại tá, Phó tổng tư lệnh) hạ trại bao quanh khu vực núi Cấm.
Dù đang “nước sôi lửa bỏng”, thay vì ém quân thật kỹ, hàng ngày các tay súng của Ba Cụt vẫn ngang nhiên đột nhập vào nhà dân cướp bóc, hãm hiếp. Thậm chí, một vài nhóm phỉ còn nhận được lệnh bắt cóc công chức của Ngô Đình Diệm để tạo tiếng vang.
Với vũ khí và khí tài hiện đại nhất lúc bấy giờ, cuộc tấn công chớp nhoáng của tướng Dương Văn Minh đã quét sạch các nhóm phỉ Ba Cụt ở những nơi trên. Một số bị tiêu diệt, một số quăng súng chạy giữ mạng. Tuy chiến dịch thành công nhưng không ai tìm thấy thi thể của “Trung tướng” Ba Cụt đâu cả.
Tuy “thắng lợi” nhưng chiến dịch Thoại Ngọc Hầu không được phép kết thúc bởi Ba Cụt còn sống và quân phỉ của Ba Cụt vẫn cướp nơi này, bắt cóc người chỗ kia.
Ba Cụt thoắt ẩn thoắt hiện khiến Ngô Đình Diệm sốt ruột như ngồi trên đống lửa. Các bộ phận thám báo và mật thám được trưng dụng tối đa, rải đều khắp vùng Tứ Giác Long Xuyên để lần dò dấu vết của Ba Cụt.
Mỗi khi nhận được tin báo nơi ẩn nấp của Ba Cụt, các bộ phận bảo an ở Long Xuyên, Châu Đốc như sôi lên. Hàng chục xe quân xa các loại hú còi ập đến, bao vây, lùng sục. Thế nhưng, hầu hết các cuộc lùng sục đó đều bắt nhầm một ai đó.
Sau khi kết thúc chiến dịch, ông Bùi Quyền là Thiếu úy chỉ huy Trung đội Tiền Thám của Tiểu đoàn 1 Nhảy Dù (Sau này là Đại tá Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 3, Nhảy Dù) đã từng trả lời phỏng vấn một tờ báo tại Sài Gòn rằng, có ít nhất 3 lần ông nhận được lệnh nhảy dù xuống địa điểm được cho là nơi Ba Cụt ẩn náu. Thế nhưng tất cả những lần nhảy dù “úp chụp” đó, ông chỉ bắt được người cải trang thành Ba Cụt.
Giữa lúc Dương Văn Minh lâm vào cảnh “tiến thoái lưỡng nan” thì ông Nguyễn Ngọc Thơ – Đại sứ của Bảo Đại tại Nhật Bản – vừa về nước. Ông Thơ đi thẳng vào dinh thự của Diệm xin hiến kế bắt Ba Cụt.
Ngay hôm sau, ông Nguyễn Ngọc Thơ được cấp 1 sự vụ lệnh đặc biệt và được một đoàn quân xa đưa thẳng về Long Xuyên – nơi Bộ Tham mưu lưu động của chiến dịch Thoại Ngọc Hầu đang trú đóng.
Ông Nguyễn Ngọc Thơ sinh ngày 26-5-1908 ở làng Mỹ Phước, Long Xuyên, An Giang. Năm 1930, ông Thơ thi đậu Tri huyện và được cắt cử làm việc ở Phủ Toàn quyền Pháp tại Nam Kỳ. Năm 1946 – các nhóm quân sự tự xưng Hòa Hảo của Ba Cụt làm mưa làm gió ở Ô Môn thì ông Thơ được Chính quyền thuộc Pháp bổ làm quận trưởng tại đây. Khi Ba Cụt tự phong “tướng”, kéo về tứ giác Long Xuyên thì ông Thơ làm Tỉnh trưởng Long Xuyên.
Trong suốt thời gian làm tỉnh trưởng Long Xuyên, ông Thơ chịu nhiều đắng cay do quân của Ba Cụt quấy nhiễu.
Ông Nguyễn Ngọc Thơ là bạn đồng liêu với ông giáo Hoành, tức võ sư Sáu Kim – Huỳnh Kim Hoành – Người đưa Ba Cụt từ kiếp ở đợ bước vào lực lượng “nội ứng nghĩa binh” của quân đội Nhật. Vì vậy, ông Thơ hiểu biết rất rõ về Ba Cụt.
Kế điệu hổ ly sơn
Ngay khi về đến Long Xuyên, ông Thơ mang theo rất nhiều quà bánh và rượu Tây đi thẳng lên Chắc Cà Đao ghé thăm xưởng cửa gỗ của võ sư Sáu Kim. Lúc đó, Ba Cụt và người vợ thứ ba tên là Cao Thị Ng đang ẩn náu tại nhà Sáu Kim.
Chỉ biết ông Thơ đang là Đại sứ tại Nhật Bản nên người vợ thứ ba của Ba Cụt không đề phòng, bước ra chào hỏi. Được Đại sứ ghé thăm, Sáu Kim vui mừng mở tiệc khoản đãi. Sau vài ly rượu, ông Thơ nói bóng gió với bà Ng rằng: “Ông Diệm không muốn đánh nhau với Thiếu tướng đâu. Ông Diệm đánh giá Thiếu tướng là người tài, muốn trọng dụng. Giá như Thiếu tướng chịu quy thuận, chắc chắn ông Diệm sẽ trao lon Trung tướng cho Thiếu tướng”. Ông Thơ cố ý nhấn mạnh những từ “Thiếu tướng, Trung tướng”. Bà Ng hứa sẽ truyền đạt lại ý của ông Thơ “khi gặp anh Ba”.
thumb_660_28_ba1552
Ba Cụt tại phiên tòa quân sự đặc biệt của chính quyền Ngô Đình Diệm.
Lúc đó, Ba Cụt chỉ cách ông Thơ non 3 mét, bên kia vách gỗ ngôi nhà nên nghe được trọn vẹn câu chuyện.
Kết thúc cuộc nhậu “mớm ý”, ông Thơ trở về Long Xuyên tìm gặp người thuộc hạ cũ. Đó là Đại úy Hiển – Trưởng phòng mật thám Bảo an Long Xuyên. Ông Thơ sử dụng quyền đặc cách của ông Diệm yêu cầu Đại úy Hiển tuyển lựa 15 người giỏi võ trong số những lính Bảo an của Long Xuyên thành lập 2 đội đặc nhiệm có mật danh là Đội Bảo an Trần Quốc Tuấn. Ngay trong đêm, Đại úy Hiển giao cho Trung sĩ Lợi chỉ huy 1 đội đặc nhiệm mặc thường phục bí mật bao quanh khu vực xưởng cưa gỗ của võ sư Kim suốt 24/24 giờ để theo dõi động tĩnh Ba Cụt. Một đội đặc nhiệm có vũ trang được cử đến đồn Bảo an Chắc Cà Đao thay thế đơn vị đóng tại đó.
Dù không hay biết 2 đơn vị đặc nhiệm đang giăng lưới, nhưng Ba Cụt vẫn giữ được bí mật hành tung của mình. Xưởng cưa gỗ của võ sư Kim vừa giáp mặt tiền với con đường tỉnh lộ vừa giáp mặt hậu với dòng sông Hậu Giang. Mỗi khi Ba Cụt muốn rời nơi ẩn náu, bà vợ thứ ba của ông ta dùng xuồng chèo sang sông. Ba Cụt chỉ cần ngậm ống thở, lặn xuống nước rồi bám bụng xuồng.
Sau một tuần mai phục vẫn không bắt được đối thủ, ngày 25-3-1956, ông Thơ lại tìm đến xưởng cưa của võ sư Kim. Lần này ông Thơ nêu rõ thông điệp với bà Ng: “Nếu chú Ba muốn hợp tác với ông Diệm thì tôi sẽ làm trung gian”. Bà Ng trả lời ngay: “Ông Ba đồng ý nhưng phải có điều kiện. Muốn biết điều kiện gì thì mời ông Đại sứ đến cù lao Tảo nằm giữa sông Tiền, đoạn chảy qua Hồng Ngự (nay là Thường Phước, thị xã Hồng Ngự, Đồng Tháp) để hội đàm”. Bà Ng ấn định thời gian là lúc 20 giờ, ngày 26-03-1956.
thumb_660_28_ba1552-2
Ba Cụt bị giải ra pháp trường.
Ông Thơ khấp khởi mừng thầm vì nghĩ rằng, Ba Cụt sẽ lọt vào ổ mai phục. Ông ta báo cho Đại úy Hiển biết thông tin hấp dẫn này.
Tuy nhiên, khi ông Thơ đến nơi đúng hẹn, Ba Cụt vẫn chưa xuất đầu lộ diện mà sai một cận vệ đến. Người cận vệ này yêu cầu ông Thơ viết 1 bản cam kết rằng, sẽ cố vấn để Ngô Đình Diệm chấp nhận trả lương và đeo lon quân đội chính quy cho toàn bộ thuộc hạ của Ba Cụt. Ông Thơ thất vọng nhưng vẫn phải viết tờ cam kết.
Người cận vệ của Ba Cụt cho biết, đêm 4-4-1956, ông Thơ trở lại vị trí này sẽ gặp được Ba Cụt.
Đội đặc nhiệm bám theo người cận vệ của Ba Cụt nhưng… mất dấu!
Đến ngày 4-4-1956, Ba Cụt vẫn chưa xuất hiện mà nhờ người cận vệ đưa cho ông Thơ “bản điều kiện” gồm 16 điểm. Trong đó có vài điểm khiến Ngô Đình Diệm khi đọc xong đã ném bể chiếc gạt tàn thuốc lá như một cách hạ cơn giận. Trong đó có một số điểm như: Công nhận Ba Cụt Lê Quang Vinh là Trung tướng chính ngạch và công nhận cấp bậc sĩ quan và hạ sĩ quan cho tất cả các thuộc hạ của ông ta; Chu cấp toàn bộ cho các gia đình của thuộc hạ Ba Cụt; Chấp nhận cho “Trung tướng” Ba Cụt thành lập 2 sư đoàn. Ông Diệm phải trang bị vũ khí, tư trang cho 2 sư đoàn này; Giao miền Tây Nam bộ cho “Trung tướng” Ba Cụt quản lý và các đơn vị quân sự của ông Diệm không được tự ý xâm nhập khu vực quản lý của “Trung tướng” Ba Cụt…
Chấp nhận “bản điều kiện” như vậy, tức là chấp nhận Ba Cụt có lãnh thổ riêng. Tuy nhiên, dù tức giận trước sự đòi hỏi vô lý của Ba Cụt, Ngô Đình Diệm vẫn lệnh cho ông Thơ mềm mỏng dụ Ba Cụt vào rọ.
Ngày 6-4-1956, ông Thơ đề nghị Ba Cụt gặp mình tại cù lao Tảo để thương thuyết những điểm trong “bản điều kiện”. Tưởng Ngô Đình Diệm đã chấp nhận 1 phần “bản điều kiện”, Ba Cụt đi gặp Nguyễn Ngọc Thơ.
Ba Cụt hoàn toàn không hay biết Bộ tham mưu lưu động của chiến dịch Thoại Ngọc Hầu đang bắt đầu chuyển động kể từ khi mình đồng ý gặp ông Thơ để thương thuyết. Tướng Dương Văn Minh khi ấy đã điều động 1 trung đoàn bí mật bủa vây phía bắc cù lao Tảo, 1 trung đoàn bí mật phục kích khắp các điểm trọng yếu xung quanh cù lao Tảo.
Ba Cụt vừa đến điểm hẹn lúc 19 giờ thì cận vệ phát hiện có nhiều bóng đen ôm súng nằm trong vườn chuối. Ngay lập tức, Ba Cụt nhảy ào xuống sông lặn mất tăm.
Sau này, một tờ báo của quân đội Việt Nam Cộng Hòa tường thuật vụ vây bắt hụt Ba Cụt như sau: “… Ba Cụt cùng cận vệ nhảy xuống sông trốn thoát vùng phong tỏa của quân đội. Từ vùng Thường Phước (cù lao Tảo – Tác giả), Ba Cụt rút xuống Đồng Tháp và trú ẩn tại vùng rạch Ba Răng. Ngày 11.4.1956, vào lúc tối lâu, Ba Cụt và trợ lý Dương Thế Xương, cận vệ V, cận vệ Tốc và một số cận vệ khác rời Đồng Tháp để về khu vực Long Xuyên với mục đích trốn thoát vùng phong tỏa.
Nội bọn dùng một xuồng và một ghe khởi hành từ ngọn rạch Ba Răng và tiến về phía nam dọc theo sông Hậu Giang đến Chợ Mới vào lúc 24 giờ và số cận vệ nghỉ đêm tại nơi đây.
Sáng ngày 12-4-1956, Ba Cụt cùng Thế Xương qua sông, đến Chắc Cà Đao để gặp người cậu ruột tên là Hoành (võ sư Kim – tác giả) và một số người khác.
Đến 6 giờ 00 sáng 13-4-1956, Ba Cụt và toán cận vệ vừa băng qua sông ngang vàm Chắc Cà Đao, vừa cập bến thì bị tiểu đội tình báo Bảo An bắt được”.
thumb_660_28_ngoi1552
Ngôi mộ gió của Ba Cụt ở Thới Long, Cần Thơ.
Ông V. – Người cận vệ được bài báo nhắc tên, vừa qua đời năm 2013. Khi ông V. còn sống, đã kể chi tiết như sau: “Khi chúng tôi đang lẩn trốn ở Chợ Mới, ông Thơ nhờ ông Huỳnh Kim Hoành nhắn tin là: Quân đội ông Diệm không hay biết gì về cuộc thương thuyết nên họ đi ruồng. Ông Thơ đề nghị ông Ba về nhà ông Huỳnh Kim Hoành tiếp tục cuộc thương thuyết. Ông Thơ bảo đảm rằng, tiểu đội Bảo an ở đồn Chắc Cà Đao sẽ bảo vệ ông Ba. Cả tin, ông Ba và 7 cận vệ, trong đó có tôi qua sông đến nhà ông Huỳnh Văn Hoành. Tôi và các cận vệ khác mang tiểu liên mặc bà ba đen. Ông Ba cũng mặc bà ba đen nhưng mang súng lục. Khi chúng tôi đang lên bờ thì lính tình báo trang bị vũ khí phục kích hai bên lộ nhảy ra hô đưa tay lên. Tụi tôi đứng sững người vì bất ngờ. Không ai kịp phản ứng gì thì đã bị trói gô”. (Vì con cháu ông V. còn sinh sống nên chúng tôi không tiện nêu tên và chân dung của ông V.).
7 cận vệ mang súng bị bắt cùng với Ba Cụt là Nguyễn Văn Hộ, Nguyễn Văn Phú, Nguyễn Văn Thơ, Nguyễn Văn Tóc, Phan Văn Hoành, Trần Tấn Hanh và ông V.
Để dẫn giải Ba Cụt về Cần Thơ, Nguyễn Ngọc Thơ phải xin 10 xe quân xa chở đầy lính hộ tống.
Ngày 31-5-1956, chiến dịch Thoại Ngọc Hầu kết thúc trong tai tiếng. Người dân miền Tây không ưa lính phỉ Ba Cụt nhưng cũng không chấp nhận cách lừa phỉnh của Ngô Đình Diệm.
Ngày 4-7-1956, Diệm cho mở 1 phiên tòa Quân sự tuyên án tử hình Ba Cụt và tịch thu toàn bộ tài sản.
Lúc 5 giờ 45 phút sáng ngày 13-7-1956, Ba Cụt bị hành quyết bằng cách chặt đầu. Người được giao nhiệm vụ xử tử Ba Cụt là Thiếu úy Nguyễn Văn Nhung. Thay vì chôn tử thi Ba Cụt như bao nhiêu tử tội khác, Ngô Đình Nhu bí mật sai Nhung xả tử thi Ba Cụt thành nhiều mảnh nhỏ rồi vất rải rác khắp sông Hậu. Thời điểm này, Ba Cụt chỉ mới 32 tuổi.
Dù gây nhiều oan nghiệt nhưng sau khi chết thảm, người dân vẫn vị tha xây cho Ba Cụt Lê Quang Vinh một ngôi mộ gió ở Thới Long, Ô Môn, Cần Thơ.

Chuyện Năm Lửa và Ba Cụt

TTDiem
Trong việc thống nhất lực lượng quốc gia để tiến tới thành lập Việt Nam Cộng Hòa ở miền Nam, các lực lượng quân sự của các giáo phái và đảng phái là một trở ngại lớn. Việc thống nhất các lực lượng này vẫn còn là những vấn đề tranh luận, trong đó vụ án Ba Cụt là vấn đề được tranh luận nhiều nhất. Nhân kỷ niệm 50 năm ban hành Hiến Pháp VNCH, chúng tôi xin trình bày lại một số sự kiện lịch sử để độc giả có thể thấy rõ vấn đề hơn.
Như chúng tôi đã nói trong số ra ngày 13.10.2006, trong thời gian quân đội Pháp còn chiếm đóng ở Đông Dương, ở trong Nam, Pháp dùng lực lượng của các giáo phái và Bình Xuyên như là Phụ Lực Quân (Suppletif Forces) để giữ lãnh thổ, và dùng các viên chức thân Pháp để cai trị. Tại miền Bắc, Pháp dùng Đại Việt và Việt Nam Quốc Dân Đảng để bình định nông thôn. Khi tình hình lộn xộn, các lực lượng này đã trở thành những “sứ quân”, hùng cứ tại những phương khác nhau. Các lực lượng này thường xử dụng luật rừng và chẳng coi luật pháp quốc gia ra gì.
Theo quan điểm của Ngoại Trướng Hoa Kỳ Foster Dulles, “Cao Đài và Hòa Hảo có thể được xử dụng, nhưng không xài Bình Xuyên.” (Cao Dai and Hoa Hao could be used but not Binh Xuyen). Nhưng việc thương lượng với hai giáo phái Cao Đài và Hòa Hảo để thống nhất lực lương quốc gia không phải là chuyện dễ, vì những đòi hỏi mà họ đưa ra không phù hợp với luật pháp và khả năng tài chánh của quốc gia (xem những đòi hỏi của Ba Cụt ở sau). Trong Phật Giáo Hòa Hảo, chỉ có hai lực lượng chịu về hợp tác với chính phủ quốc gia là lực lượng của Tướng Nguyễn Giác Ngộ và của Đại Tá Nguyễn Văn Huê, còn các lực lượng của Trần Văn Soái (Năm Lửa), Ba Cụt và Lâm Thành Nguyên, đã đi theo Bình Xuyên chống lại chính phủ vì có sự khuyến khích và hổ trợ của Pháp. Vậy chỉ còn một cách là đánh dẹp.
TRANH CHẤP GIỮA HAI TƯớNG HỌ DƯƠNG
Ngày 23.5.1955, chính phủ quyết định cho thành lập Khu Chiến Miền Tây bao gồm ba Phân Khu Vĩnh Long, Cần Thơ và Sóc Trăng. Đại Tá Dương Văn Đức, Chỉ Huy Trưởng Phân Khu Sóc Trăng được chỉ định làm Chỉ Huy Trưởng Khu Chiến này. Nhiệm vụ Khu Chiến này là bình định miền Tây.
Mặc dầu đã có những nỗ lực của Đại Tá Dương Văn Đức và Khu Chiến Miền Tây, loạn quân Hòa Hảo vẫn chưa bị đánh bại hoàn toàn, lý do có lẽ không phải vì Tướng Đức thiếu khả năng mà vì vùng được giao phó bình định quá lớn với địa thế hiểm trở, trong khi đó phương tiện được cung cấp rất giới hạn.
Quân của Ba Cụt bị săn đuổi đã rút về vùng biên giới Việt – Miên để củng cố rồi quay trở lại quấy phá các đồn bóp và thôn xóm, đồng thời phục kích quân chính phủ ở các trục lộ giao thông, gây tình trạng bất an. Trong khi đó, quân của Tướng Trần Văn Soái rút về vùng Đồng Tháp Mười lập cơ sở mới với sự giúp đỡ của Pháp qua ngả biên giới Việt – Miên. Tình báo của chính phủ còn phát hiện cả máy bay Pháp thả tiếp liệu và võ khí cho quân của Tướng Trần Văn Soái. Ngoài ra, hai đơn vị Cao Đài ly khai vẫn đang lẫn trốn, một hoạt động động ở vùng Giồng thuộc Đồng Tháp Mười và một tại Châu Đốc.
DMinhNDD
Dương Văn Minh trong Chiến Dịch Nguyễn Huệ
Để sớm bình định miền Tây và ổn định tình hình chính trị, theo lời khuyền cáo của Giáo sư Westly R. Fishel, ông Diệm đã mời ông Nguyễn Ngọc Thơ góp phần vào việc thanh toàn các phần tử phiến loạn Hòa Hảo còn lại.
Mặc dầu ông Nguyễn Ngọc Thơ có quen biết với ông Phan Văn Hoành, cậu của Ba Cụt, trong thời gian ông làm Tỉnh Trưởng các tỉnh Cần Thơ, Long Xuyên và Mỹ Tho, Ba Cụt đã mưu sát ông đến 6 lần vì cho rằng ông theo Pháp, nhưng ông đã thoát được. Đối lại, ông Thơ cũng đã cho mở các cuộc hành quân để truy kích Ba Cụt nhiều lần, nhưng không bắt được. Do đó, khi nghe ông Ngô Đình Nhu hỏi ý kiến về việc dẹp loạn Trần Văn Soái và Ba Cụt ở miền Tây, ông xin lãnh trách nhiệm ngay. Đây là một cơ hội tốt giúp ông thanh toán một kẻ thù luôn theo đuổi ông. Ông đề nghị cử Tướng Dương Văn Minh làm chỉ huy trưởng chiến dịch, còn ông phụ trách việc thương lượng với các phe ly khai, vì ông đã từng quen biết hay đối đầu với họ khi làm tỉnh trưởng một số tỉnh trong vùng. Ông Diệm đồng ý.
DVduc
Tướng Dương Văn Đức
Ngày 29.12.1955, ông Diệm đã ra lệnh chấm dứt chiến dịch Đinh Tiên Hoàng do Đại Tá Dương Văn Đức chỉ huy và thăng Đại Tá Đức lên Thiếu Tướng. Tướng Đức vẫn tỏ vẽ bất bình về chuyện chấm dứt công tác một cách đột ngột này và khi được biết ông Nguyễn Ngọc Thơ là người đã đề nghị Tướng Dương Văn Minh thay mình, Tướng Đức rất giận ông Thơ. Do đó, sau khi chiến dịch này chấm dứt, ngày 10.6.1956, ông Diệm phải cử Tướng Đức đi làm Đại Sứ tại Nam Hàn.
Rất hận về chuyện ông Nguyễn Ngọc Thơ đưa Tướng Dương Văn Minh xuống cướp chỗ của mình, khi tham gia cuộc chỉnh lý của Tướng Nguyễn Khánh ngày 30.1.1964 lật đổ Tướng Dương Văn Minh, công việc đầu tiên của Tướng Đức là đi tìm ông Nguyễn Ngọc Thơ, lúc đó đang là Thủ Tướng Chính Phủ, kéo ra và đánh mấy cái bớp tai trước mặt mọi người!
Mặc dầu Tướng Dương Văn Minh đang bị điều tra về việc biển thủ một thùng phuy vàng lấy được của Bảy Viễn, ngày 1.1.1956, ông Diệm đã cử Tướng Dương Văn Minh làm Chỉ Huy Trưởng Chiến Dịch Nguyễn Huệ bình định miền Tây, nhằm thực hiện ba mục tiêu sau đây: Phong tỏa biên giới Việt – Miên từ Hà Tiên đến sông Vàm Cỏ, không cho loạn quân chạy sang; cắt đứt sự liên lạc của loạn quân giữa Khu Chiến Miền Tây và và Khu Chiến Đồng Tháp Mười; và thanh toán các lực lượng giáo phái ly khai, đặc biệt là lực lượng của Trần Văn Soái và Ba Cụt.
Sau đây là phần tòm lược tiến trình và kết quả của Chiến Dịch Nguyễn Huệ:
THANH TOÁN LỰC LƯỢNG NĂM LỬA
Với sự giúp đỡ của cả Pháp lẫn Việt Cộng, Tướng Trần Văn Soát, tức Năm Lửa, đã lập được những căn cứ vũng chắc trong vùng Đồng Tháp Mười. Lúc đó Tướng Soái có khoảng 3.800 quân được chia ra thành 7 trung đoàn có tên như sau: Thiên Hộ, Lê Lợi, Nguyễn Trải, Thường Kiệt, Quang Trung, Quốc Tuấn và Huỳnh Đức. Tuy gọi trung đoàn nhưng mỗi đơn vị này chỉ có khoảng trên dưới 400 quân, có trung đoàn như Quốc Tuấn chỉ có 65 quân. Ngoài 7 trung đoàn này, còn có một số tiểu đoàn độc lập.
Quân chính phủ được chia làm 3 cách tiến vào Đồng Tháp Mười. Ngày 9.1.1956, đoàn quân của Khu Chiến Đồng Tháp và Sư Đoàn 15 khinh chiến tảo thanh vùng Gò Bắc Chiên, trong khi đó, hai Trung Đoàn 43 và 44 theo sông Vàm Cỏ Tây tiến vào Bình Châu. Cánh quân thứ ba của Tướng Nguyễn Giác Ngộ và Trung Đoàn 42 từ Sađéc lên, bố trí chận đường của địch. Quân của Tướng Soái chỉ bỏ chạy.NamLua
Theo chiến thuật “vừa đánh vừa đàm” đã trù, sau khi dồn quân Tướng Soái vào ngỏ cụt, một đại diện của chính phủ đã tiếp xúc với Đại Tá Phan Hà, Đổng Lý Văn Phòng của Tướng Soái, tại đồn Cây Tre, làng Tân Phú, tỉnh Đồng Tháp. Đại Tá Hà bày tỏ ước muốn được trở về. Cuộc tiếp xúc thứ hai với bà Lê Thị Gấm, vợ của Tướng Soái, đã xẩy ra ngày 24.1.1956. Bà Gấm hứa sẽ thuyết phục Tướng Soái về quy thuận. Ngày 11.2.1956, ông Nguyễn Ngọc Thơ, đại sứ lưu động của Thủ Tướng Ngô Đình Diệm, đã tiếp xúc với Tướng Soái. Tướng Soái đưa ra một số điều kiện. Sau khi thảo luận, chính phủ đã đồng ý như sau:
– Tướng Soái đặt toàn bộ lưu lượng võ trang của ông dưới quyền của chính phủ.
– Các tài sản đã tịch thu thuộc quyền chính phủ. Các tài sản chưa tịch thu, Tướng Soái có quyền xử dụng.
– Binh sĩ Hòa Hảo được quyền tự do lựa chọn hoặc gia nhập quân đội chính phủ hoặc trỡ về với gia đình và làm ăn.
Ngày 17.2.1956, Tướng Soái đã mang quân ra quy thuận. Ngày 2.3.1956 Tướng Soái đã đưa ra lời tuyên bố nói rõ lý do lực lượng của ông về quy thuận với kết luận như sau:
“Tôi tha thiết kêu gọi anh em Phật Giáo Hòa Hảo hãy đoàn kết lại, noi theo lời tuyên bố của Đức thân sinh của Đức Thầy, đúng sau lưng Ngô Tổng Thống để cương quyết thanh trừng bọn phản đạo và tiêu diệt bọn Thực – Cộng, để xây đắp tự do dân chủ và độc lập phú cường cho đất nước.”
Cuộc hành quân thanh toán lực lượng Trần Văn Soái từ 9.1.1956 đến 17.1956 đã đem lại sự thiệt hại về nhân mạng như sau: Quân của Tướng Soái có 268 người bị giết và 3750 về quy thuật, còn quân chính phủ mất 31 người và bị thương 98 người.
Lễ tiếp thu lực lượng Trần Văn Soái được tổ chức long trọng tại Cái Vồn ngày 7.3.1956. Sự trở về của lực lượng này đã làm cho thình hình miền Tây lắng dịu. Buổi lễ này cũng đã chấm dứt cuộc đời hoạt động chính trị và quân sự của Tướng Trần Văn Soái. Sau buổi lễ, ông và gia đình đã lên Sài Gòn sống đời bình thường như những người dân khác. Sau đó ông đi Pháp và đã chết ở Pháp.
THANH TOÁN LOẠN QUÂN BA CỤT
Sau Chiến Dịch Đinh Tiên Hoàng 2, Ba Cụt còn khoảng 2.000 quân, rút về hoạt động ở các khu Giồng Riêng (Rạch Giá), Ba Thê, Hà Tiên và Châu Đốc. Số quân còn lại của 4 trung đoàn chủ lực như sau: Bắc Tiến khoảng 200 quân, Nguyễn Huệ khoảng 200 quân, Lê Quang trên 300 quân và Lê Lợi khoảng 100 quân. Trong 4 trung đoàn này, Trung Đoàn Lê Quang do Nguyễn Thời Rê chỉ huy được coi là thiện chiến nhất và được trang bị đầy đủ nhất. Ba Cụt là Tổng Thư Lệnh và Ba Bụng, tức Phan Công Cẩn, là Phó Tổng Tư Lệnh.
Chiến dịch thanh toán lực lượng Ba Cụt được chia thành nhiều giai đoạn. Kể từ ngày 5.1.1956, Sư Đoàn 11 khinh chiến mở cuộc hành quân vào vùng Giồng Riêng để truy lùng hai trung đoàn Lê Quang và Nguyễn Huệ. Tuy nhiên, vì cuộc hành quân được tổ chức quá gấp rút, không nghiên cứu kỷ càng, thiếu phương tiện vận chuyển, nên quân Ba Cụt chạy thoát gần hết. Nhưng ngày 8.1.1956 quân Ba Cụt đột nhập xóm Thầy Quân ở Cà Mau, bắt Thiếu Úy Bùi Quang Thừa và một số viên chức hành chánh đem ra mổ bụng. Ngày 10.1.1956, Tiểu Đoàn 1 thuộc Trung Đoàn 36 do Đại Úy Trần Hữu Hạnh chỉ huy mở cuộc hành quân truy lùng địch bị lọt vào ổ phục kích bị thiệt hại rất nặng.
Ngày 13.1.1956, Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 4 đã cho mở cuộc hành quân tiến vào Rạch Cần Thảo vì được tin quân Ba Cụt đang thu thuế lúa của dân. Tiểu Đoàn 2 Trung Đoàn 12 đã tiêu diệt toàn bộ đại đội bảo vệ việc thu lúa.
1.- Thương thuyết với Ba Cụt: Ông Nguyễn Ngọc Thơ quen biết với cậu ruột của Ba Cụt là ông Huỳnh Kim Hoành, thường gọi là ông giáo Hoành, ở Bằng Tăng. Ông Hoành là người đã dạy cho Ba Cụt học hết chương trình tiểu học, nên Ba Cụt rất kính trọng ông giáo Hoành. Ông Thơ về Bằng Tăng tìm gặp ông giáo Hoành và nhờ ông giáo Hoành giúp để có thể nói chuyện với Ba Cụt, nhưng Ba Cụt nhất định không thương thuyết. Tại sao lúc này Ba Cụt chịu thương thuyết? Có giả thiết cho rằng Ba Cụt chịu thương thuyết vì đang bị quân đội quốc gia dồn vào đường cùng. Nhưng một giả thiết khác cho rằng Ba Cụt đã chấp nhận thương thuyết như một kế hoãn binh. Lợi dụng cuộc ngưng bắn tạm thời diễn ra lúc có thương thuyết, Ba Cụt cho chỉnh đốn lại hàng ngũ và tái phối trí lực lượng để tiếp tục đương đầu với quân chính phủ. Các diễn biến sau đây cho thấy giả thuyết này đúng.
Theo Ba Cụt khai trước tòa thì cuộc hội kiến sơ bộ diễn ra ngày 26.3.1946 tại làng Thường Phước, quận Hồng Ngự. Đây là một làng nằm sát biên giới Việt – Miên. Nói đúng và rõ hơn, ông Nguyễn Ngọc Thơ đã gặp Ba Cụt ở Cồn Tảo nằm trên sông Mêkông cách quận Tân Châu lối 15 cây số về hướng Bắc. Trong cuộc hội kiến này, ông Nguyễn Ngọc Thơ hỏi Ba Cụt có chịu đưa lực lượng của ông về sát nhập vào Quân Đội Quốc Gia và đặt dưới quyền chỉ huy của Bộ Tổng Tham Mưu hay không. Ba Cụt trả lời rằng trên nguyên tắc ông đồng ý, nhưng chính phủ phải cam kết thi hành những điều kiện ông sẽ đưa ra.BaCut
Ba Cụt khai trước Tòa rằng cuộc hội kiến thứ hai đã diễn ra ngày 6.4.1956. Thật ra, cuộc hội kiến này được dự trù sẽ diễn ra vào ngày 4.4.1956, nhưng khi ông Thơ đến Cồn Tảo thì Ba Cụt không chịu hội kiến mà đưa cho ông Nguyễn Ngọc Thơ một “bản điều kiện” do Ba Cụt ký tên và đề ngày 2.4.1956. “Bản điều kiện” này gồm 16 điểm, đại lược như sau:
1.- Chính phủ thừa nhận Đảng Việt Nam Dân Chủ Xã Hội (gọi tắt là Đảng Dân Xã) là một chánh đảng hợp pháp, được phép hoạt động trên toàn thể lãnh thổ Việt Nam. Phóng thích tất cả các chính trị phạm do Đảng Dân Xã nhìn nhận và bảo đảm an ninh cho toàn thể cán bộ chính trị của Đảng Dân Xã.
2.- Không nhìn nhận hiệp định Genève, tẩy ban kiểm soát đình chiến ra khỏi nước.
3.- Với số vũ khí hiện có của lực lượng Đảng Dân Xã, chính phủ bổ sung thêm để thành lập hai sư đoàn, một sư đoàn Bắc Tiến và một sư đoàn Bảo An lo giữ an ninh trật tự ở miền Tây. Hai sư đoàn này do Trung Tướng Lê Quang Vinh (tức Ba Cụt) chỉ huy. Trung Tướng Vinh chịu hệ thống trực thuộc của Bộ Quốc Phòng. Tướng Lê Quang Vinh có quyền đặt bản doanh tại Long Xuyên, Sài Gõn và một bản doanh lưu động.
4.- Công nhận Trung Tước Lê Quang Vinh là sĩ quan quân đội quốc gia, và công nhận cấp bậc sĩ quan và hạ sĩ quan của binh sĩ Đảng Dân Xã. Trợ cấp cho gia đình các tử sĩ và thương binh chống Thực – Cộng do Tướng Lê Quang Vinh chỉ huy.
5.- Tái võ trang cho một số đơn vị Bảo An Hòa Hảo để giữ an ninh trật tự vùng thánh địa.
Dĩ nhiên, chính phủ không bao giờ chấp nhận những điều kiện như thế, nhất là khi lực lượng Ba Cụt đang đến ngày tàn. Chấp nhận những điều kiện đó thì chẳng khác gì công nhận một quốc gia trong một quốc gia. “Bản điều kiện” của Ba Cụt cho thấy Ba Cụt không thật sự muốn thương thuyết mà chỉ coi thương thuyết như một kế hoãn binh. Quả thật, trong thới gian hưu chiến từ 26 tháng 3 đến mồng 6 tháng 4, Ba Cụt đã củng cố lại hàng ngũ và tái phối trí để tiếp tục cuộc chiến.
Riêng về điều kiện buộc chính phủ phải công nhận Ba Cụt là Trung Tướng của Quân Đội Quốc Gia, cần nhắc lại những diễn biến sau đây: Ngày 20.8.1950 Ba Cụt đã về hợp tác với Pháp lần thứ tư và được gắn lon Thiếu Tá, nhưng sau đó ông lại ra đi. Tháng 11 năm 1953, ông về hợp tác lần thứ năm và đến này 1.12.1953, ông được Pháp gắn lon Đại Tá. Sau đó ông lại ra đi. Ông đã về rồi đi tất cả 6 lần. Nay từ Đại Tá ông đòi lên Trung Tướng!
Ngày 6.4.1956, ông Nguyễn Ngọc Thơ thông báo cho Ba Cụt biết “Bản điều kiện” của ông không được chính phủ chấp nhận.
2.- Đuổi bắt Ba Cụt: Sau khi cuộc thương thuyết thất bại, ngày 8.4.1956 Bộ Tư Lệnh Chiến Dịch Nguyễn Huệ cho hai trung đoàn mở cuộc hành quân truy lùng Ba Cụt và quân của Ba Cụt, một trung đoàn bố trí trong khu Châu Phú Bắc để chận đường quân Ba Cụt chạy qua biên giới, còn Trung Đoàn 41 phát xuất từ quận Hồng Ngự mở cuộc tấn công vào Thường Phước, nơi có Bộ Tư Lệnh của quân Ba Cụt. Cuộc hành quân này chỉ đụng độ lẻ tẻ. Ba Cụt đã vượt được vòng vây, chạy về đến Chắc Cà Đao cách Long Xuyên khoảng 7 cây số thì bị bắt vào ngày 13.4.1956. Bộ Tư Lệnh Chiến Dịch Nguyễn Huệ đã từờng trình về vụ bắt Ba Cụt như sau:
“… Cuộc thương thuyết thất bại, Ba Cụt len lỏi cùng một số sĩ quan cận vệ và tùy tùng trốn thoát vùng phong tỏa của quân ta. Từ vùng Thường Phước, Ba Cụt rút xuống Đồng Tháp và trú ẩn với lực lượng quân sự nghĩa quân cách mạng tại vùng rạch Ba Răng, Ngày 11.4.1956, vào lúc tối lâu, Ba Cụt và Thế Xương (Dương Thế Xương – Đổng Lý Văn Phòng Dân Xã Đảng), Thiếu Úy Vinh (Bí Thư của Ba Cụt), Thiếu Úy Tốc (Sĩ quan cận vệ) và một số nhân viên cận vệ rời Đồng Tháp để về khu vực Long Xuyên với mục đích trốn thoát vùng phong tỏa.
“Nội bọn dùng một xuồng và một ghe khởi hành từ ngọn rạch Ba Răng và tiến về phía Nam dọc theo sông Hậu Giang đến đồn Hòa Hảo (7 cây số Tây Bắc Chợ Mới) vào lúc 24 giờ và số cận vệ được để nghỉ đêm tại nơi đây.
“Sáng ngày 12.4.1956, Ba Cụt cùng Thế Xương qua sông, ngừng tại Xẻo Bưng (ấp Mỹ Thuận) để gặp người cậu ruột tên là Hoành và một số người khác bàn luận việc mua vũ khí và đạn dược.
“Chiều hôm đó, vào khoảng 18 giờ, toán cận vệ còn lại rời khỏi cồn Hòa Hảo để theo Ba Cụt. Khi toàn này rời khỏi cồn Hòa Hảo độ 2 cây số và đang qua sông thì bị nhân viên biệt động đội Phòng Nhì trông thấy, xả súng bắn theo. Được báo động, quân đội quốc gia đóng ở Chợ Mới liền tổ chức ruồng bố để tìm bắt loạn quân.
“Bị động, Ba Cụt cùng đoàn tùy tùng rút xuống phía Nam vào lúc 21 giờ 00, riêng Thế Xương được lệnh Ba Cụt tiến lên Đồng Tháp.
“Xuồng và ghe chở Ba Cụt cặp theo hữu ngạn sông Hậu Giang và đúng nửa đêm thì cả bọn rẻ vào Đồng Xúc (Mỹ Hòa).
“Nghỉ lại nơi đây, coi rằng đã ra khỏi cuộc ruồng bố của quân đội chính phủ, không ngờ đến 6 giờ 00 sáng 13.4.1956, Ba Cụt và toán cận vệ bị quân đội quốc gia truy kích, nên vừa băng qua sông ngang vàm Chắc Cà Đao (trên bản đồ gọi là Chắc Cần Đào), vừa cập bến thì bị tiểu đội tình báo Bảo An bắt được.
“Biết trước không thể chống cự được, Ba Cụt ra lệnh đầu hàng.
Thật ra, việc bố trí để bắt Ba Cụt phức tạp hơn nhiều. Những người liên hệ cho biết, sau khi Tướng Trần Văn Soái chịu quy thuận nhưng Ba Cụt vẫn từ chối, ông Ngô Đình Nhu đã bàn với Tướng Dương Dương Văn Minh soạn thảo một kế hoạch rất tỷ mỷ để bắt Ba Cụt. Các nhân viên tình báo có nhiệm vụ theo dõi sự di chuyển của Ba Cụt cho biết Ba Cụt thường hay lui tới vùng Chắc Cà Đao cách Long Xuyên khoảng 7 cây số và thỉnh thoảng dừng chân tại đồn này. Đồn Bảo An Chắc Cà Đao do các binh sĩ Bảo An giữ và Trung Sĩ I Giầu làm trưởng đồn, nhưng các binh sĩ này là tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo, rất cảm phục Ba Cụt, nên Ba Cụt thường ghé vào nghỉ ở đó.BaCutLeQuangVinh-02
Đại Úy Hiển phụ trách về an ninh của Bảo An được ông Ngô Đình Nhu trao cho thành lập và thực hiện kế hoạch phục kích bắt Ba Cụt. Đại Úy Hiển đã tuyển chọn 15 binh sĩ Bảo An tinh duệ và giao cho Trung Sĩ Lợi, một người rất giỏi về võ thuật huấn luyện. Sau khi huấn luyện xong, một đội đặc nhiệm đã được thành lập lấy tên là Đội Bảo An Trần Quốc Tuấn. Bên ngoài, đội này được giao nhiệm vụ theo dõi các hoạt động của Việt Cộng ở vùng Chắc Cà Đao, nhưng mục đích chính là theo dõi và bắt Ba Cụt. Cả đội này đã mặc thường phục đến bố trí vùng quanh đồn Bảo An Chắc Cà Đao.
Ngày 8.4.1956, sau khi hai trung đoàn mở cuộc hành quân lục soát vùng Châu Phú Bắc và Thường Phước không bắt được Ba Cụt, Bộ Tư Lệnh Chiến Dịch Nguyễn Huệ tin rằng Ba Cụt có thể trở về vùng Chắc Cà Đao lẩn trốn nên đã bí mật ra lệnh cho Đội Bảo An Trần Quốc Tuấn của Đại Úy Hiển đến chiếm đóng đồn Bảo An Chắc Cà Đao, kết hợp với lực lượng của Trung Sĩ Giầu thành Liên Đội Bảo An Trần Quốc Tuấn do Đại Úy Hiển chỉ huy. Đại Úy Hiển đã cho liên đội bố trí quanh đồn Chắc Cà Đao để chờ bắt Ba Cụt.
Đêm 13.4.1956, Ba Cụt và toán cận vệ đâm xuồng qua sông về phía Long Xuyên, ngang vàm Chắc Cà Đao, cập bến gần đồn Đồn Bảo An Chắc Cà Đao, lên bộ, băng qua một thửa ruộng nhỏ rồi lên lộ chính và tiến về đồn Bảo An Chắc Cà Đao với sự tin tưởng rằng sẽ được các binh sĩ Bảo An trong đồn đón tiếp như những lần trước. Tất cả có 8 người đều mặc đồ đen, 5 người mang súng trường hay tiểu liên, Ba Cụt mang súng lục, còn hai người không mang súng. Khi họ đang từ từ tiến về phía đồn thì các binh sĩ phục kích hai bên lộ nhảy ra hô đưa tay lên và bắt trói lại, toán cận vệ của Ba Cụt không trở tay kịp.
Người đè Ba Cụt xuống và trói chặt là Trung Sĩ Lợi nhưng trong thông báo nói là Trung Sĩ I Giầu để che dấu hoạt động đặc biệt của Đội Bảo An Trần Quốc Tuấn. Trung Sĩ Giầu vẫn còn trung thành với Ba Cụt, nên khi ra tòa Trung Sĩ Giầu có khai rằng Ba Cụt nói về để thương thuyết.
Năm cận vệ mang súng bị bắt cùng với Ba Cụt là Nguyễn Văn Hộ, Nguyễn Văn Phú, Nguyễn Văn Thơ, Nguyễn Văn Tóc và Võ Văn Vĩnh. Hai người còn lại không mang vũ khí là Phan Văn Hoành và Trần Tấn Hanh. Hai người này phụ trách chèo đò. Ngoài ra, các binh sĩ Bảo An còn tịch thu được hơn một triệu đồng.
Ngày 29.5.1956, trong một buổi lễ trao lệnh kỳ và huy chương, Đại Biểu Chính Phủ tại Nam Việt đã trao tặng Liên Đội Bảo An Trần Quốc Tuấn một triệu đồng vì có công bắt được Tướng Ba Cụt. (Đoàn Thêm, 1945 – 1964, Việc từng ngày, Xuân Thu, Hoa Kỳ, tr. 197). Số tiền này được chia cho các toàn viên của Liên Đội. Riêng Đại Úy Hiển được thưởng 1 triệu đồng, Trung Sĩ Lợi 200.000 đồng và được đặc cách thăng Thiếu Úy. Tuy nhiên, khoảng một năm sau khi Ba Cụt bị xử tử, Thiếu Úy Lợi đang nằm ngủ trưa ở đồn Bảo An Thốt Nốt, Long Xuyên, thì bị một kẻ lạ mặt bắn bằng súng Colt 12 ly, đạn xuyên qua đầu và chết ngay tại chỗ. Cơ quan an ninh nghi rằng một tay chân bộ hạ của Ba Cụt đã hạ sát Thiếu Úy Lợi để báo thù cho Ba Cụt.
Ngay sau khi Ba Cụt và đồng bọn bị bắt, hơn 10 xe nhà binh đã đến giải họ về Long Xuyên. Ít lâu sau, họ bị giải về Cần Thơ để lập hồ sơ truy tố ra Tòa Đại Hình.
3.- Vấn đề tranh luận: Trong cuốn “Việt Nam Niên Biểu Nhân Vật Chí” , Chánh Đạo, tức Vũ Ngự Chiêu, đã viết: “Có tin cho rằng Ba Cụt đã bị Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ dụ hàng với cấp bậc Thiếu Tướng, rồi sau đó bắt sống trên đường tới phó hội.” (tr. 197).
Việt Cộng cũng viết như Vũ Ngự Chiêu: “Ngô Đình Diệm đã nhiều lần phái quân đội đến tiểu trừ nhưng vẫn không thanh toán được. Sau Ngô Đình Diệm âm mưu “thương thuyết”, chấp nhận cho Ba Cụt về cộng tác với chính quyền (do Nguyễn Ngọc Thơ làm trung gian), nhưng vào phút cuối, Ngô Đình Diệm trở mặt, bắt cóc ông rồi đưa ra tòa xử tử hình với tội “phản loạn”.” (Tự Diễn Nhân Vật Lịch Sử Việt Nam, Văn Hóa, Hà Nội 1997, tr. 1190).
Chuyện Ba Cụt trở về để thương thuyết đã được ba Luật sư của Ba Cụt là Lê Ngọc Chấn, Vương Quang Nhường và Đinh Xuân Các đưa ra thanh luận trước Tòa Án Quân Sự Cần Thơ trong một phiên xử kéo dài trong hai ngày 3 và 4.7.1956, dựa trên lời kể lại của Trung Sĩ I Giầu rằng khi bị bắt, Ba Cụt có nói ông về Long Xuyên để thương thuyết. Tuy nhiên, Kể từ ngày Ba Cụt không chịu tiếp tục thương thuyết và đưa ra các điều kiện bắt chính phủ phải thi hành là ngày 4.4.1956, đến ngày bị bắt là ngày 13.4.1956, tính ra là 10 ngày. Không có bằng chứng nào cho thấy trong thời gian đó có một cuộc thương thuyết giữa Ba Cụt và đại diện chính phủ đã được dự trù sẽ diễn ra tại Long Xuyên. Vậy nếu Ba Cụt về Long Xuyên để thương tuyết thì thương thuyết với ai? Nhiều người tin rằng sở dĩ Ba Cụt nói với Trung Sĩ Giàu như trên là để chạy tội sau khi đã bị bắt mà thôi.
Trong phiên tòa, Đại Tá Mai Hữu Xuân ngồi ghế Ủy Viên Chính Phủ còn dẫn chứng thêm rằng khi các điều kiện Ba Cụt đưa ra không được chính phủ chấp nhận, Ba Cụt đã viết cho vợ là Trần Thị Hoa tự Phấn một lá thư đề ngày 6.4.1956, trong đó có đoạn như sau: “Anh nói cho mình rõ, anh và Diệm ăn thua nhau lớn rồi, quyết một mât một còn, lần này anh không nhịn…” Ba Cụt cũng đã viết thư báo tin cho Phó Tổng Tư Lệnh của ông ta là Ba Bụng, tức Phan Công Cẩn, biết cuộc hội kiến đã thất bại để ông này tiếp tục cuộc chiến. Hai tài liệu này đã bị Quân Đội Quốc Gia bắt được khi hành quân. Như vậy, làm gì còn có chuyện thương thuyết nữa?
Sau khi chính phủ Ngô Đình Diệm bị lật đổ, ông Nguyễn Ngọc Thơ cũng đã xác nhận không hề có chuyện lừa Ba Cụt về thương thuyết rồi bắt. Trong một cuộc họp báo vào tháng 12 năm 1963 tại Hội Trường Diên Hồng, khi một ký giả hỏi rằng có phải Ba Cụt bị gạt về họp tại Chắc Cà Đao rồi bị bắt, có phải không, Thủ Tướng Nguyễn Ngọc Thơ đã trả lời: “Vì sự đòi hỏi của Ba Cụt quá đáng, như chính phủ phải nhìn nhận anh là Trung Tướng Quân Đội Quốc Gia anh mới trở về hợp tác nên cuộc thương thuyết với Ba Cụt bất thành. Sau đó, Ba Cụt bị bắt trong khuôn khổ một cuộc hành quân ở miền Tây.”
Sau khi Ba Cụt bị bắt, ngày 24.4,1956, Ba Bụng, tức Phan Công Cẩn, Phó Tổng Tư Lệnh của Ba Cụt và một số quân sĩ khác bị bắn chết tại Châu Đốc. Sau đó, Nguyễn Van Ca, Chính Trị Bộ Chủ Nhiệm của quân Ba Cụt bị bắt tại kinh Thần Nông và Dương Thế Xương, Đổng Lý Văn Phòng của Ba Cụt bị bắt tại Mỹ Thuận, quân của Ba Cụt tan rả. Ngày 31.5.1956, Chiến Dịch Nguyễn Huệ chấm dứt. Qua Chiến Dịch Nguyễn Huệ, có 918 quân của Ba Cụt, trong đó có 11 sỹ quan, đã quy thuận.
4.- Xét xử và hành quyết Ba Cụt: Vì việc truy tố và xét xử Ba Cụt và đồng bọn sẽ diễn ra tại Tòa Đại Hình Cần Thơ, nên ông Nguyễn Văn Sĩ, Bộ Trưởng Tư Pháp, đã cử ông Huỳnh Hiệp Thành ngồi ghế Chánh Án, và ông Lâm Lễ Trinh, Biện Lý Tòa Sơ Thẩm Sài Gòn, ngồi ghế Công Tố Viện. Các hội thẩm do Tòa Đại Hình Cần Thơ chỉ định.
Ngoài hai tội chính là “phản loạn” và “dùng vũ lực chống lại Quân Đội Quốc Gia”, Ba Cụt và đồng bọn còn bị dân chúng tố cáo về vô số hành vi phạm pháp khác như ức hiếp và giết hại thân nhân của họ, thu thuế bất hợp pháp, v.v. nên Bộ Tư Pháp phải chỉ thị hai ông Chánh Án (kiêm Biện Lý và Dự Thẩm) Tòa Hòa Giải Rộng Quyền Long Xuyên và Châu Đốc nhận đơn khiếu nại của dân chúng, lấy khẩu cung các nhân chứng rồi gởi hồ sơ về cho ông Biện Lý Lâm Lễ Trinh để lập thủ tục truy tố và đưa ra Tòa Đại Hình xét xử.
Chỉ với hai tội “phản loạn” và “dùng vũ lực chống lại Quân Đội Quốc Gia”, Ba Cụt cũng đã có thể bị tuyên án tử hình rồi. Đây là hai tội khó có thể biện minh được. Ngoài ra, Ngày 10.6.1955, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm đã ban hành Dụ số 43 đặt Tướng Trần Văn Soái (tức Năm Lửa) và Tướng Lê Quang Vinh (tức Ba Cụt) ra ngoài vòng pháp luật. Riêng Tướng Trần Văn Soái đã quy thuận nên đã được ân xá. Tướng Ba Cụt lại thuộc loại “sớm đầu tối đánh”. Trong thời gian từ 1946 đến 1953 Ba Cụt đã quy thuận 6 lần nhưng sau đó lại ra đi. “Bản điều kiên” Ba Cụt đã đưa ra khi thương thuyết là một hành động thách thức chính phủ. Vì thế, nhiều người tiên đoán Ba Cụt khó thoát khỏi án tử hình.
Tòa Đại Hình xử sơ thẩm vụ Ba Cụt và đồng bọn được mở tại Cần Thơ ngày 11.6.1956. Gia đình Ba Cụt đã thuê hai luật sư danh tiếng để biện hộ cho Ba Cụt là Luật Sư Vương Quang Nhường, Thủ Lãnh Luật Sư Đoàn Sài Gòn, và Luật sư Lê Ngọc Chấn, lãnh tụ Việt Nam Quốc Dân Đảng. Nhưng hồ sơ quá nặng, việc tận tình biện hộ của hai luật sư tài giỏi cũng không cứu vãn được gì. Tòa đã tuyên án tử hình. Ba Cụt kháng cáo.
Lúc đó, tại miền Nam Việt Nam chỉ có hai tòa thượng thẩm là Tòa Thượng Thẩm Sài Gòn và Tòa Thượng Thẩm Huế, nhưng chính phủ muốn việc tái thẩm diễn ra tại Cần Thơ để dân chúng miền Tây có thẻ dễ theo dõi, nên ngày 14.6.1956, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm đã ban hành Dụ số 33 cho phép thành lập TòaThượng Thẩm Đại Hình đặc biệt tại Cần Thơ để tái thẩm. Bộ Trưởng Tư Pháp đã cử ông Lê Văn Thụ làm Chánh Án và ông Lê Văn Tuấn ngồi ghế Công Tố Viện.
Ngày 26.6.1956 Tọa Thượng Thẩm Đại Hình tại Cần Thơ đã họp để tái thẩm vụ này. Phiên Tòa kéo dài trong hai ngày. Ngày 29.6.1956 Tòa tuyên bố y án của Tòa Sơ Thẩm Đại Hình ngày 11.6.1956.
Vì hai tội “mưu phản” và “dùng võ khí chống lại Quân Đội Quốc Gia” thuộc thẩm quyền Tòa Án Quân Sự nên ngày 4.7.1956, Tòa Án Quân Sự lại được lập tại Cần Thơ do ông Vũ Tiến Tuân ngồi Chánh Án và Thiếu Tướng Mai Hữu Xuân ngồi ghế Ủy Viên Chính Phủ để tiếp tục xét xử. Tòa cũng tuyên án tử hình Ba Cụt, tước đoạt binh quyền và tịch thu tài sản.
Như vậy, Tướng Lê Quang Vinh, tức Ba Cụt, đã được xét xử đến ba lần, một lần ở Tòa Sơ Thẩm Đại Hình, một lần ở Tòa Thượng Thẩm Đại Hình và một lần ở Tòa Án Quân Sự. Sau khi đơn xin ân xá của Ba Cụt bị bác, Ba Cụt đã bị hành quyết tại nghĩa trang ở đường Hòa Bình, Cần Thơ, vào lúc 5 giờ 45 phút sáng ngày 13.7.1956, bằng cách chém đầu. Lúc đó Ba Cụt chỉ mới 32 tuổi. Trước khi bị hành quyết, Ba Cụt có khuyên dặn vợ nuôi dạy các con cho nên người và xin được mai táng tại Núi Sam, Châu Đốc.

Ma'y chém
Ma'y chém

Tuy nhiên, trong cuốn “Les Guerres du Viet Nam” , Tướng Trần Văn Đôn có ghi lại như sau: “Một trong những người đã hạ sát ông Diệm, ông Nhu là Đại Úy Nguyễn Văn Nhung, được thăng cấp Thiếu Tá sau đó. Nhung đã được chú ý về các thành tích đặc biệt của anh ta. Mỗi ngày Nhung chặt vài ba cái đầu Việt Minh xách về. Do đó, Dương Văn Minh đã lấy Nhung về làm cận vệ, bởi vì ông ta lo sợ bị ám sát, cần một tay dữ dằn để hộ vệ.
“Trong chiến dịch Dương Văn Minh tấn công Hòa Hảo, Tướng Hòa Hỏa Lê Quang Vinh tự Ba Cụt bị bắt và bị xử tử hình. Sau khi bị chém đầu, thi hài ông được chôn tại chỗ (tại nghĩa trang ở đường Hòa Bình). Nhưng sau đó, Dương Văn Minh hạ lệnh cho Nguyễn Văn Nhung đến đào mã, móc xác lên và băm thành nhiều khúc, làm như thế để phòng ngừa người của Ba Cụt đến lấy xác đem về chôn cất trong chiến khu của họ…
“Nhung đúng là loại người thích hợp để thi hành các loại công tác ghê tởm đó. Có người nói rằng mỗi khi Nhung giết người, đôi mắt hắn đỏ như máu. Có người còn nói rằng hắn thích ăn gan nạn nhân vừa bị hắn giết chết…” (tr. 171)
Trong cuốn “Việt Nam Nhân Chứng” , Tướng Trần Văn Đôn đã viết thêm:
“Xưa kia Đại Úy Nhung ở trong đơn vị Commando Pháp là đơn vị chuyên đi khủng bố giết người. Lúc Ba Cụt, tướng Hòa Hảo Lê Quang Vinh bị án tử hình xử chém ở Cần Thơ, Đại Úy Nhung lấy xác Ba Cụt chặt từng khúc, thả cùng mọi nơi để không toàn thây cho khỏi ai tìm xác xây mộ thờ cúng. Ông Minh nói lại cho tôi biết như vậy.” (tr. 238).
Trong cuốn hồi ký “Đôi Dòng Ghi Nhớ” , Đại Tá Phạm Bá Hoa có viết:
“Đại Úy Nhung, ít ra hai lần (trước thời gian có biến cố chính trị này) khoe với tôi rằng, mỗi lần anh ấy giết một người thì anh khắc lên báng súng một vạch, anh vạch khắc theo chiều thẳng đứng ở báng súng bên trái. Căn cứ vào lời nói và dấu tích trên báng súng của Đại Úy Nhung, tôi cho rằng Đại Úy Nhung là một sĩ quan đã từng giết người nếu không nói là thông thạo thì cũng quen tay.” (tr. 141).
Sau khi chế độ Ngô Đình Diệm bị lật đổ, ngày 14.7.1964, Việt Nam Dân Chủ Xã Hội Đảng đã đưa kiến nghị xin Tướng Nguyễn Khánh hủy bỏ bán án của Ba Cụt và phục chức cho ông. Tướng Nguyễn Khánh đã ra lệnh cho tòa án làm việc này. Tuy nhiên, phải coi việc hủy án và phục chức đó chỉ là một hành vi chính trị (acte politique) chứ không phải là một hành vi pháp lý (acte juridique). Chiếu theo các bộ hình luật và quân luật đang có hiệu lực lúc đó, việc kết tội Ba Cụt không có gì sai luật hay oan uổng.
Lữ Giang

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét