THỰC TẠI VÀ HOANG ĐƯỜNG
--Toàn tập--
tác giả: Trần Hạnh Thu
-------------------------------------------------------------------------
MỐI TÌNH GỬI LẠI
Ta
Nhớ thuở xưa
Trong một lần cuồng nhiệt, đam mê
Bừng bừng đại ngộ
Thế là vùng dậy ra đi
Tìm ngọn Tu Di
Nơi ẩn dấu cội nguồn Huyền Thoại!
...
Ta
Đã như ngọn đèn sắp tắt
Về đây trên ngọn hải đăng
Cao vòi vọi giữa muôn trùng câu hỏi
Trong cuộc hành quân bất khuất, trường kỳ
Tìm một chân thức giữa hai bờ nhận thức!...
Ôi, con đường quá xa
Kiếm tìm
Viên Ngọc Bích
Là điểm Không Gian
Và một niềm tin Tự Nhiên Tồn Tại
Dựng xây Triết học Duy Tồn
Hiến dâng người si mê ở lại!...
Ta,
Về đây,
Gối mỏi, chân chồn
Đã như ngọn đèn leo lét
Vẫn tỏa ra nỗi niềm da diết
Trên vòi vọi hải đăng
Bền gan soi rọi xung quanh
Vào bao la mịt mờ Vũ Trụ
Chờ đợi con thuyền lạc trong mưa gió
Lần mò tiếp bước bơi đi
Và...
Tới được bến bờ chân lý
Bắc xong nhịp cầu nức lòng thế kỷ
Sán lạn nguồn cơn
Sáng tỏ tâm can
Cùng vòng tay nối vòng nhân ái
Cùng hát vang bài ca trùng phùng Vĩ Đại!
Mãn nguyện muôn hồn
Thỏa nỗi ước mơ cháy bỏng cuối cùng,
của ngàn đời mơ ước!
Trần Hạnh Thu
ĐẠI CHÚNG XIN ĐĂNG LẠI TT & HĐ (CÓ BỔ XUNG, HIỆU CHỈNH HOẶC LOẠI BỎ ĐÔI CHỖ THẤY THẬT CẦN THIẾT).
-"Thực Tại và Hoang Đường" là bộ bản thảo được hoạch định thành 5 phần , gồm (khoảng) 20 tập, mỗi tập trung bình là 150
trang khổ giấy A4.
-Thể loại: không xác định được, hay cũng có thể nói là "hằm bà lằng" đủ
thứ. Vừa là những đoạn văn sao chép của người khác, vừa là những ý
tưởng bất chợt trộn lẫn thành một thứ "hằm bà lằng", người thích thì sẽ
thấy hấp dẫn, người không thích thì chỉ thấy tào lao.
-Bút
pháp: hồn nhiên (được "đám học chính qui" gọi là "tự nhiên chủ
nghĩa"), "vui đâu, chầu đấy", lúc xuề xòa dễ dãi, lúc lên giọng "triết
học" không khác "ông cụ non", lý trí và hoang tưởng đan xen làm tiền
đề "tung hứng" lẫn nhau mà hợp thành một khối chữ nghĩa "không giống
ai", không biết gọi là gì, đành bắt chước cách xử lý" của Lão Tử xưa
kia gọi "đạo", tạm gọi là "Thực Tại và Hoang Đường" vậy! Nói gọn, cố
hướng tới:
"Pháp vô định pháp, vạn pháp qui tông" (hiểu theo nghĩa: mèo nào cũng
được, miễn là bắt được chuột!!!)
-Bút lực: Ngây ngô tầm thường, thô mộc dân dã, hơi bị...ê a, lủng củng, có vẻ điên điên!
-Nội dung khái quát:
+Là lời kể (lại) lan man, loạn xạ những câu chuyện "vật vã" về lịch sử
loài người đã qua. Trong đó gồm cả những câu chuyện thuộc quá trình phát
triển nhận thức về tự nhiên-xã hội của loài người (trên cả hai lĩnh vực
triết học và khoa học tự nhiên). Thông qua đó, người viết đã đưa ra
không ít nhận xét, đánh giá về nguyên nhân cũng như bản chất của những
sự kiện đã từng xảy ra, theo một nhãn quan riêng, mới lạ mà cũng không mới lạ (ít nhiều có đúng có sai,
hẳn rồi, nhưng không lạ!).
+Bên cạnh đó, thêm vài câu chuyện được "tạo dựng" hoàn toàn
theo phỏng đoán và tưởng tượng thuần túy của tác giả, mà tác giả (cũng
tạm) gọi là những giả tưởng "hại điện".
+Điều đặc biệt đáng chú ý và cũng là tâm huyết một đời của tác
giả là qua bộ bản thảo, cố phác ra và cố "thực chứng" không cần chứng thực một học thuyết
triết học mới, trên cơ sở đúc rút tinh hoa từ triết học phương Đông cổ
đại kết hợp với một đột phá mang tính "bạt mạng" về nhận thức tự nhiên
của chính tác giả. Thú vị nhất là ở chỗ (trong phần 5), dựa vào quan
niệm theo triết học đó và chỉ bằng kiến thức toán-lý phổ thông (trình độ
của tác giả cũng chỉ đến đó!), tác giả đã chứng minh được rằng dứt
khoát thuyết tương đối hẹp của Anhxtanh là sai lầm (mà không có nhà
(hay biệt thự!?) nào có thể phản bác được!!!), cả trong nhận thức về
không gian và thời gian lẫn trong nhận thức về khối lượng và năng lượng,
hơn nữa, các biểu thức toán học của học thuyết ấy mà vật lý học đang
dùng chỉ còn là gần đúng và sẽ bị loại trừ trong tương lai không xa. Và nếu tác giả ít nhiều có
lý (nghĩa là chỉ mới có khả năng hơi tưng tửng chứ chưa bị điên hẳn!), thì quan
niệm về tự nhiên của loài người sẽ phải thay đổi một cách căn bản!
-Biết rằng
xuất bản theo đường "chính thống" là vô vọng và cũng vì
tính thời sự "nóng hổi" (có lẽ -lộng ngôn một chút cho sướng đời-, đối
với cả xã
hội loài người đương đại chứ không riêng gì xã hội Việt Nam hiện nay)
của nội dung bản thảo và cũng mong có người nhận chân được giá trị của
nó, tác giả sẽ sớm "chia nhỏ" và đăng tải lại "Thực Tại và Hoang Đường"
lên ĐẠI CHÚNG với lời đề tặng:
"Kính tặng tâm hồn quyết thắng
Kính tặng Loài Người bi tráng
Kính tặng Trái Đất đáng thương
Kính tặng Mặt Trời sáng láng
Kính tặng Vũ Trụ phi thường
Kính tặng Chúng Việt xứng đáng!",
dưới tiêu đề tóm tắt: "TT&HĐ".
***
Nói thêm: -Bộ bản thảo này chưa hề xuất hiện ở đâu, dưới bất cứ hình thức
nào. Nó là một Ghi
Chép táo bạo, mạnh dạn sáng tạo trên nền tảng kế thừa, là của Đại Chúng,
do Đại Chúng, vì Đại Chúng và đồng thời cũng nhờ Đại Chúng đọc, thẩm
định những chân lý mà nó hàm chứa, cũng như, cả mức độ nhảm nhí của nó!...
-Người là con vật biết tìm niềm khoái lạc
Con vật là người chấp nhận nỗi khổ đau!
Người ơi đừng tưởng mình cao
Chỉ là con vật có đầu "suy" thôi!
Khôn ngoan, ai cũng rằng: "Tôi"
Mà sao nhân loại ngàn đời còn mê?
Biết là sống gửi chết về
Vẫn tham tàn bạo, gầm ghè diệt nhau?
Con vật ác đến thế đâu!?...
-"Thực Tại và Hoang Đường" cũng sẽ góp phần trả lời "sơ phác" câu hỏi này!
Trần Hạnh Thu
(Robert
Anson Heinlein ( 7/7/1907 – 8/5/1988 ) là nhà văn khoa học viễn tưởng
Mỹ, thường được coi là "nhà văn gạo cội trong lĩnh vực khoa học viễn
tưởng", ông là một trong những tác giả nổi tiếng nhất, có ảnh hưởng
nhất, và cũng gây nhiều tranh cãi nhất trong thể loại này đã từng nói : “Có thật nhiều thứ để tìm hiểu, nhưng cũng thật ít thứ đã được tìm hiểu thấu đáo”)
--------------------------------------------------------------------------------------------
"Lời quê chắp nhặt dông dài
Mua vui cũng được một vài trống canh"
Nguyễn Du
LỜI PHÂN TRẦN
Độc giả thân mến, xin thưa ngay rằng tác
giả đích thực của bộ sách không phải là tôi. Tôi chỉ có công sắp xếp lại cho hợp
lý từ “đống” ghi chép như núi của một người bạn, sửa lại lỗi chính tả chằng
chịt trong đó, đặt lại các dấu ngắt câu cho “dễ thở” hơn, sưu tầm (hoặc "ăn cắp", nếu muốn gọi như vậy) các nội dung trên mạng, gom thành một đống và đem đi “lùng sục” nhà
xuất bản.
Bạn tôi, cái anh chàng viết câu chuyện này
là một người có lối suy nghĩ hết sức quái lạ. Điều này rồi độc giả sẽ nhận ra
thôi. Ở đây, tôi chỉ xin nói rằng lối suy nghĩ quái lạ ấy bộc lộ ngay từ khi bạn
tôi còn ở tuổi niên thiếu.
Tôi và bạn tôi quen nhau từ thời sơ sử của
mỗi đời người - thời phổ thông trung học. Hồi đó, bạn tôi là một đứa học khá và
tốt bụng, hay giúp đỡ bạn bè, nhất là luôn tạo điều kiện cho tôi “quay cóp” hết
sức hiệu quả trong những lần làm bài kiểm tra. Dù vậy, trong đám bạn của tôi hồi
ấy, tôi hay nổi cáu với nó nhất chỉ vì nó là một đứa hay đưa ra những câu đố “dở
hơi” và nhất là hay cãi, đúng sai gì cũng cãi, đỏ mặt tía tai cãi lấy được, cãi chày cãi cối đến
gàn rở. Không riêng gì tôi, bạn bè ai cũng ngao ngán mỗi khi phải tranh luận với
nó. Còn nhớ có một lần bạn tôi đố cả bọn: “Một nhân với một là mấy?”. Cả bọn phì
cười! Một câu đố chả ra làm sao cả. Có một đứa nói tọet: “Mày man mẹ nó rồi, bằng một chứ mấy!”. Bạn tôi cũng
cười: “Không đúng! Một nhân với một phải là một bình phương”. Biết tỏng là sắp
“đụng” phải “Thầy Cãi”, chúng tôi đánh trống lảng sang chuyện khác.
Thời gian trôi đi!
“Chúng tôi lớn lên mỗi người
một ngả
Kẻ sớm khuya chài lưới bên
sông
Kẻ nắng mưa cày cuốc ngoài đồng
Tôi cầm súng xa nhà đi kháng
chiến”
(Trích trong
“Nhớ con sông quê hương” của Tế Hanh)
Cuối
kỳ phổ thông, chưa kịp thi tốt nghiệp,
tôi và một số bạn cùng lớp trúng tuyển nghĩa vụ quân sự, lên đường "đền
nợ nước".
Chàng “Thầy Cãi” nằm trong đám lọt sổ, ở lại. Ngày đưa tiễn, mấy đứa bạn
gái thì sụt sịt, đám bạn trai thì cười nói động viên. Chúng tôi, những
kẻ ra trận trong
cái khí thế hừng hực chung của cả dân tộc thời ấy, cảm thấy mình mạnh mẽ
hẳn lên,
rạo rực, dù rằng đâu đó cũng có thoảng một nỗi buồn rất nhẹ, rất sâu.
Khi đã yên vị trên xe, tôi thò đầu ra ngoài
ô cửa thì bắt gặp ánh mắt của “Thầy Cãi”. Ánh mắt rất sáng, lặng thinh, bất biến.
Tôi hét về phía nó:
- Chúng mình đi nhá! Một xanh cỏ, hai đỏ
ngực! (Câu nói rất hay của tuổi trẻ thời Chống Mỹ cứu nước)
“Thầy Cãi” như giật mình, bước vội đến giơ
tay, vừa cười vừa nói to:
- Nói thế không đúng! Không được xanh cỏ,
không cần đỏ ngực. Phải chiến thắng mà trở về! Chúng mày phải quay về để cãi với
tao đấy! Còn một câu đố nữa …
- Lại hai nhân với hai là mấy chứ gì? - Đám
bạn ngồi cạnh tôi hô hố .
Cả bọn cười ồ ! ..
Xe rùng mình,
Máy nổ,
Chúng tôi đi!
Chúng tôi tham chiến những trận đầu tiên đúng
vào thời kỳ khốc liệt gọi là “Mùa hè đỏ lửa” tại một trong những chiến trường ác liệt
nhất: Quảng Trị. Chết nhiều! Lớp tôi khi nhập ngũ gần chục người, khi về còn chưa tới
một nửa. Thật đau thương!
Ôi
chiến tranh! … Nhưng thôi, đó không phải
là câu chuyện của riêng tôi và bạn tôi cũng đã kể rất nhiều trong quyển
sách này
rồi. Tôi chỉ xin nói thêm rằng những người bạn đã ngã xuống của tôi, dù
có thể
vô danh, không được phong tặng một danh hiệu anh hùng dũng sĩ nào thì
đối với tôi,
họ vẫn là những anh hùng đích thực, vì tôi đã chứng kiến sự dũng cảm của
họ, sự dung dị của họ khi “đền nợ nước” và vì họ đã là những đứa con
trung hiếu của
một dân tộc anh hùng. Đến tận hôm nay, trước cảnh tham nhũng tràn lan,
đạo đức xã hội suy đồi, tôi thấy như mình có lỗi với họ, với "...những
nhân văn nhân tài ra trận/ Dâng hiến máu xương, gửi lại ước mơ"...
Tôi,
may mắn hơn, đã đến được ngày Chiến
Thắng. Đó là ngày cảm động nhất, tự hào nhất và tưng bừng nhất của đại
đa số nhân dân Việt Nam mà
dễ gì một đất nước khác có được: thực sự thoát khỏi ách đô hộ của ngoại
bang ngót một thế kỷ; đánh
tan được hai thế lực xâm lược hùng mạnh bậc nhất thế giới (chưa kể đám
ngụy quyền và chư hầu); chấm
dứt được cuộc chiến tranh tàn phá dai dẳng và thuộc loại tàn khốc nhất
thế giới từ xưa đến nay; bảo toàn
được lãnh thổ và thống nhất được non sông, trở thành một đất nước độc
lập tự
do. Đó là ngày vui lớn của Dân Tộc, thỏa mãn ước nguyền của đồng bào cả
nước, nhất là đối với các linh hồn nghĩa sĩ đã tiết liệt ngã xuống trong
cuộc đấu tranh chống quân Pháp xâm lược lần thứ nhất. Một ngày vui lớn
kỳ lạ, vui trong nước mắt, "vui sao nước mắt lại trào". Phải chăng trong
những cuộc vui quá lớn đều ẩn chứa nỗi buồn mênh mang? Có lẽ nếu không
nhận thức sâu sắc về chiến tranh đầu rơi máu chảy, Lão Tử, một đại hiền
triết người Trung Hoa, khó mà nói được câu thâm thúy này: "Giết hại
nhiều người thì nên lấy lòng bi ai mà khóc, chiến thắng thì nên lấy tang
lễ mà xử"?!
Nhưng niềm vui lớn ấy rồi cũng mau chóng
qua đi, nhường chỗ cho nỗi ưu tư, trăn trở trước những khó khăn quá đỗi của cuộc
sống đời thường. Dành độc lập tự do làm gì khi vẫn mãi đói khổ? Mơ ước và hứa hẹn, quyết tâm và nỗ lực nhưng mức sống thì vẫn
xơ xác, đói có lẽ ít thôi nhưng khổ quá! Nhiều người cho là tại cuộc chiến
tranh vừa qua. Có lẽ là như thế! Nhưng có một biển Đông mênh mông mà thiếu muối;
có hai cánh đồng bao la thẳng cánh cò bay mà thiếu gạo. Và sự thiếu ấy kéo dài
quá lâu (hơn mười năm chứ không ít!) thì tôi không hiểu nổi!
Đó là một thời kỳ (của những năm 1980!) đầy rẫy những khó khăn
và lạ lùng. Tôi thấy vậy thôi chứ thú thực, tôi như một kẻ ngoài cuộc. Sau chiến
tranh, tôi xuất ngũ, tiếp tục học và về làm tại một công ty vận tải biển của thành
phố Hồ Chí Minh, trở thành thủy thủ tàu viễn dương. Ai mà không biết thời ấy được
đi tàu viễn dương là “hốt bạc”, nền kinh tế bao cấp với vật tư nguyên liệu là độc
quyền quản lý của Nhà nước cùng với nạn ngăn sông cấm chợ đã làm cho “chợ đỏ”
khan hiếm đủ thứ còn “chợ đen” lại có đủ thứ nhưng quá đắt. Chính vì thế mà
trong cái nghèo đói bao la cũng xuất hiện không hiếm phè phỡn. Và cũng vì thế mà
bất cứ thứ gì tôi tha lôi từ ngoài về được, kể cả đồ phế thải, đồ xài lại
(second-hand), từ cái máy khâu lỗi thời đến cục xà phòng, nói của đáng tội, đều
trở thành vàng ròng. Tôi sống không được như vua chúa nhưng sung túc, mua nhà
mua đất và tích lũy …
***
Có đến gần chục đứa bạn hồi học phổ thông
của tôi ở Thành phố Hồ Chí Minh. Chúng tôi thường tạo dịp gặp nhau để hàn huyên
vui vẻ.
Một lần (cách đây mười bảy mười tám năm!),
tôi tổ chức nấu nướng tại nhà mời đám bạn ấy đến. Hôm đó mọi người đến đủ cả. Điều
bất ngờ nhất là sự xuất hiện của “Thầy Cãi”. Thế là sau hai mươi năm bặt tin,
chúng tôi lại gặp nhau, tay bắt mặt mừng. Thật là vui!
Tôi hỏi “Thầy Cãi”:
- Lâu nay ông ở đâu, làm gì mà bây giờ mới
hiện ra thế hả?
“Thầy Cãi” chưa kịp mở miệng thì đứa bạn
bên cạnh đã xen vào:
- Tao thấy nó ở dọc đường, lôi về đây đấy!
Nó vào Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 1979 lận. Thế mà trốn biệt anh em, tệ quá!
- Đâu có đâu! – “Thầy Cãi” cười, gãi gãi đầu.
- Thôi vào bàn đi các bạn ơi! Cây nhà lá
vườn, cứ tự nhiên như ở nhà nhé! – Tôi hô hào.
Chúng tôi vừa ăn uống vừa chuyện trò rôm
rả, khui bia lốp bốp.
Tôi cầm ly bia cụng với “Thầy Cãi”:
- Bạn đang công tác ở đâu vậy?
“Thầy Cãi” nhấp một ngụm bia, nhìn tôi tủm
tỉm:
- Làm nhà báo!
- Tôi nhớ trước đây có đứa nào nói bạn tốt
nghiệp phổ thông xong bạn đựơc sang Đông Âu học gì đó về kỹ thuật mà?
- Ừ! Nhưng bây giờ thì làm nhà báo, nghĩa
là ở nhà báo vợ, là thất nghiệp ấy mà!
- Ông đừng có đùa! – Tôi ngạc nhiên.
- Thật đấy! Tao nói dối để làm gì? – “Thầy
Cãi” trầm xuống.
Lúc này tôi mới nhìn kỹ: bạn tôi mặc chiếc
áo công nhân đã bạc màu, sờn cổ, khuôn mặt gầy gò, có lẽ vì uống bia mà xanh mét.
Tôi chợt nhận ra, bạn tôi giờ đây ít nóng hẳn, chỉ ngồi cười theo câu chuyện của
bạn bè và hút thuốc liên tục, không còn giống ngày xưa, sôi nổi và hiếu thắng, ở
đâu có tranh luận là xông vào, ngay lập tức trở thành trung tâm …
Đột nhiên, một đứa bạn ngồi ở cuối bàn nói
vang vang:
- Thầy Cãi! Bây giờ mày phải giải thích
cho chúng tao nghe một và một bình phương
khác nhau ở chỗ nào?
Tiếng cười rộ lên. Một đứa bạn thêm vào:
- Nó mà không trả lời được, phạt nó ba ly
một lúc!
Bàn tiệc đồng thanh:
-Phải đấy!
“Thầy Cãi” ngồi cười, mặt có vẻ rạng rỡ:
- Chuyện ngày xưa ấy mà! Hồi đó chúng mày
đặt tên tao là “Thầy Cãi” nên tao luôn cố thể hiện sao cho xứng đáng với tên gọi
ấy, thế thôi chứ có gì đâu!
…
Tiệc tàn, bạn bè tôi lần lượt ra về. Tiếng
xe máy nổ dòn giã.
“Thầy Cãi” về sau cùng. Nó dắt xe đạp ra,
chào tôi rồi bước đi thoăn thoắt. Nhìn theo chiếc xe đạp cũ xì, trần truồng và đã
tuột xích, lòng tôi bỗng nặng trĩu. Tôi vội chạy theo:
- Này, bạn cho tớ xin địa chỉ nhà, lúc nào
rỗi tớ đến chơi hoặc có gì còn biết chỗ mà hú hé nhau chứ!
“Thầy Cãi” có vẻ ngần ngừ nhưng rồi cũng
viết địa chỉ vào mảnh giấy nhỏ, đưa tôi:
- Nhà trong hẻm ngoằn ngòeo, khó tìm lắm
… Mình về nhé! Chào! …
- Chào! …
Tôi nghĩ mãi, không hiểu nổi một người đã
từng có một thời trẻ linh họat như thế, được ưu ái học hành đến nơi đến chốn như
thế lại lâm vào tình trạng như thế được. Tôi vội điện thọai cho đứa bạn đã dẫn
“Thầy Cãi” đến dự tiệc. Nó cũng chẳng biết gì hơn:
- Tao cũng mới gặp nó ở ngoài đường như đã
nói thôi, đã kịp hỏi han gì đâu? Khó hiểu nó lắm mày ơi! Hình như nó bị tâm thần
thì phải!
…
***
Lấn
cấn, gần một tháng sau tôi mới đi tới
nhà “Thầy Cãi”. Hẻm sâu và ngoằn ngoèo thật, số nhà nhảy lung tung. Phải
quặt
quẹo ba bốn lần, hỏi ba người ở đó tôi mới tìm ra. Đó là một căn nhà
nhỏ, mái tôn
thấp tè và cửa sát đường hẻm. Mãi sau tôi mới biết đựơc bạn tôi ở nhà
của cô em vợ theo chồng về Cần Thơ sinh sống, xem như trông coi hộ.
Cửa mở toang, tôi nhìn vào thấy “Thầy Cãi”
đang hí hoáy viết gì đó. Nó ngước lên, thấy tôi, có vẻ như giật mình, luống cuống
dọn vội đống giấy tờ rồi bước ra:
- Không ngờ mày mò ra được chỗ tao, giỏi đấy!
Hôm đó chúng tôi ngồi nói chuyện với nhau
tương đối lâu. Và tôi đã hiểu được nguyên nhân đưa đẩy bạn tôi đến chỗ phải nghỉ
việc. Đó cũng là một câu chuyện lạ lùng chỉ có thể xảy ra ở thời bao cấp, ở cái
thời mà nhiều “đồng chí” giám đốc xí nghiệp đánh giặc rất giỏi nhưng chưa kịp học
đến lớp ba, thậm chí là mất tích đâu đó ở hậu phương thời chiến tranh bỗng xuất
hiện chễm chệ ở cái thời mà có nơi người ta nói tọet ra rằng: trong một xí nghiệp, phòng kỹ thuật không
có thì kỳ mà có thì thừa …
- ...Cái số tao nó thế mày ạ. Vô duyên trên
con đường danh lợi! Cũng chẳng cần phải trách đời làm gì! Chỉ buồn một chút là
tao đã chẳng làm được chút xíu ích lợi gì cho đất nước khi đất nước của “thời
khói lửa” đã chắt chiu xương máu cho tao ăn học - ”Thầy Cãi” kết lại như vậy.
- Hay mày đi làm lại đi! Bạn bè chúng mình
ở các cơ quan Nhà nước thiếu gì. Nhờ chúng nó giúp cho một chỗ mà ổn định cuộc
sống chứ cứ thế này, tớ e, mệt lắm.
- Mày đừng quan tâm tới vấn đề này nữa!
Tao chán rồi! Ngày xưa, khi tao xin nghỉ, ai cũng cản. Có người bĩu môi: “Ngữ ấy,
bỏ biên chế nhà nước, có bốc cứt mà ăn!”. Tao cứ bỏ về ngang. Bây giờ mặt mũi nào
mà “sáng vác ô đi, tối vác về” nữa? Vả lại, đất nước đổi mới rồi, cơ chế thoáng
đãng rồi. Thời buổi bây giờ chỉ sợ không có năng lực thôi, chứ có thì ở đâu mà
không sống được? Tao, “Thầy Cãi”, muốn cãi một phen cuối cùng! Và nói một mình
mày nghe thôi: chỉ vì tao không muốn làm thuê mà muốn làm chủ, nên thất nghiệp, kể cũng đáng đời...
“Thầy Cãi” cười hà hà .
- Làm chủ thì phải có vốn! Mày có vốn chưa?
– Tôi hỏi độp.
- Chưa! – “Thầy Cãi” xìu xuống liền - ...Chắc
rồi cũng phải tìm cách xoay sở dần dần. Nói cho ngay, khi mới nghỉ việc, tao cũng
gom được ít tiền làm vốn từ việc bán cái xe máy đời “chiến tranh” và vòng vàng
nhẫn cưới của vợ. Nhưng mới xông ra mở tiệm đúng ba tháng là đứt, về nhà nằm tổng
kết lại sự ngớ ngẩn của mình cho đến nay.
- Tiệm gì vậy?
- Tiệm làm cửa sắt … Có lẽ cũng phải đi làm
công vài ba năm nữa để tích lũy vốn.
“Thầy Cãi” rít một hơi thuốc dài, thả khói
một vùng, xong ngồi nhìn ra cửa sổ, vô định. Tôi thấy thương hại nó quá!
- Hay là thế này: tớ với bạn hùn hạp làm ăn,
tớ bỏ vốn, bạn bỏ công, lời lãi chia đôi, được không?
“Thầy Cãi” quay ngoắt lại nhìn tôi chăm
chăm rồi chậm rãi:
- Mày nói đùa? Góp vốn thì phải quản lý!
Mày đi liên miên thế làm sao mà quản lý?! Thắng thua làm sao biết mà chia với
chác? Tin bạn là mất bò và mất cả bạn luôn đấy nhé!
- Không, tớ tin bạn tuyệt đối luôn! Tiền
gửi ngân hàng, lãi không bù được mức độ mất giá; đem sắm vàng thì chẳng đẻ thêm
được, chỉ có quẳng vào làm ăn mới sinh sôi nảy nở thôi. Tớ biết bạn tốt, tớ tin
bạn! Bạn chỉ cần nói cho tớ biết cần khoảng bao nhiêu tiền “chiến đấu” được để
tớ lo.
- Nếu được như thế, tao là người phải cảm
ơn mày. Nhưng cho tao một tuần suy nghĩ để trả lời dứt khoát được hay không. Nếu
được, xin nói trước là phải tin tao tuyệt đối đấy nhé!
- Ừ thì mày cứ nghĩ đi! Nhưng ba ngày thôi!
Gì mà đến những một tuần, lâu thế?!
***
Đúng một tuần sau thì “Thầy Cãi” điện thoại
cho tôi thông báo số vốn cần có và đã tìm được mặt bằng mở tiệm. Không ngờ vốn ít
đến thế, chỉ là hai lượng vàng! …
Tiệm sắt hoạt động được hơn một năm tôi mới
ghé thăm, cũng vì bạn tôi hối thúc quá: “Hùn hạp gì mà thờ ơ còn quá thằng cưỡi ngựa xem hoa!”
Tiệm sắt kể cũng rộng nhưng chỉ có ba người
đang làm tất bật. Một là bạn tôi, có lẽ là thợ chính, hai người kia, mặt non choẹt,
chắc chắn không học việc thì cũng chỉ là thợ phụ. Tiệm chẳng có gì ngoài vài ba
cái máy nhỏ xíu, một hai bộ cửa đang làm và vài cây sắt loe ngoe.
Có lần tôi hỏi:
- Làm gần hai năm rồi, được không?
- Mới gầy dựng, chưa có khách quen nên chưa
được bao nhiêu. Tao chưa tính sổ nhưng có lẽ cũng được khoảng hai triệu.
- Quá hay rồi! – Tôi động viên, dù biết “Thày
Cãi” nói dối, sợ tôi buồn.
Cuối năm ấy, tôi nhắn “Thầy Cãi” đến nhà
chơi. Sau vài ba ly bia, tôi vào thẳng vấn đề:
- Tớ không hùn hạp nữa đâu. Tiền hùn hạp,
tớ nói thật đối với tớ không đáng bao nhiêu. Tớ tặng bạn luôn. Chúc bạn thành công!
Khoan, cho tớ nói hết đã! Tớ quyết định như vậy không phải vì bất cứ điều gì
nghi kỵ hay khuất tất đâu. Vậy, chúng mình thỏa thuận thế nhé!
Ở tình thế ấy, nếu là người khác, sẽ
thanh minh, phân trần, hứa hẹn đủ kiểu, nhưng bạn tôi, “Thầy Cãi”, đã buông những
lời chắc nịch:
- Tao hiểu! Từ lâu tao đã hiểu không ai bỏ
tiền ra làm ăn mà hời hợt như vậy. Mày muốn thế, được thôi! Mày là một người bạn
tốt hiếm có ở đời. Suốt đời tao không bao giờ quên ơn mày. Cái ơn này, chắc chắn
tao không bao giờ trả được. Nhưng tao hứa, nếu ăn nên làm ra, tao sẽ giúp cho
những phận đời cơ nhỡ khác. Riêng số tiền mày đưa tao và một triệu tiền chia lãi,
tao sẽ trả mày nhưng từ từ vì mày biết đấy, mới làm ăn, từng đó vốn là hết sức
cần thiết.
Rồi tôi và “Thầy Cãi” chén tạc chén thù,
uống hết cơ man nào là bia, say bí tỷ.
***
Sau này dù rất ít khi gặp nhau, nhưng tôi
biết: “Thầy Cãi” làm ăn ngày càng khấm khá, mua được cả nhà cửa, đất đai, thành
lập công ty hẳn hoi. Bạn tôi giỏi thật! Tôi cũng có đôi chút tự hào!
Thấm thoắt từ độ ấy, thế mà đã mười lăm năm
trôi qua. Thế hệ chúng tôi tóc đã bạc, mắt đã lão, đã bắt đầu bước vào cuộc an
bài, tuân theo luật sinh tử. Và tôi nghĩ “Thầy Cãi” cũng như tôi, an nhàn và thỏa
mãn ở quãng đời cuối cùng này.
Nhưng đúng là mấy ai thuộc được chữ “ngờ”!
Đùng một cái, cách đây bốn năm, “Thầy Cãi”
ghé nhà tôi. Trông bạn tôi có vẻ rất mệt mỏi, da nhợt đi, má chảy xệ, mắt mờ đục.
Khi đã an vị, bạn tôi ậm ừ, nói như đứt hơi:
- Tao … gặp khó quá! Nghĩ nát rồi … mới đến
mày. Không biết mày … mày … có giúp tao được … lần … nữa không?
- Có chuyện gì thế hả? Làm ăn bị gì hả? –
Tôi sốt ruột thực sự.
- Nếu … mày … có khả năng … cho … cho …
tao mượn … hay vay cũng được … Ngặt quá ! …
Bạn tôi đã muốn mượn một số tiền khá lớn,
dù là trong khả năng của tôi, nhưng đối với đôi vợ chồng công chức bình thường thì lại là cả
một gia tài không đến nỗi nhỏ.
- Có thể được!... Nhưng bao giờ bạn trả lại
tớ?
- Cho tao … sáu … sáu tháng!
- Thôi được rồi! Hai ngày nữa bạn đến đây!
Một lần nữa, tôi lại nổi lòng trắc ẩn với
“Thầy Cãi”. Không biết vì sao nữa! Hay vì lời nhắn nhủ xưa kia của nó, đã trở
thành linh ứng trong tôi và không thể phai mờ: “Đừng xanh cỏ, không cần đỏ ngực,
phải chiến thắng mà trở về!”
***
Một năm sau. chờ mãi cũng chẳng thấy “Thầy
Cãi” đến trả tiền. Điện thoại di động nhiều lần không được (toàn tít tít) tôi đã
bắt đầu nghi hoặc và nổi giận. Vợ tôi vốn rất quí “Thầy Cãi” cũng bắt đầu nổi điên,
quay qua vặc tôi. Đúng là “ lòng người sâu thẳm ai đo cho tường!”.
Lúc
rảnh rỗi là tôi chở vợ tôi đi tìm “ông
bạn quí hóa”. Suốt mấy tháng liền như thế để rốt cục vợ chồng tôi cũng
rút ra được
một kết luận ngao ngán: “Thầy Cãi” khi về già đã trở thành “Thầy Chạy”.
Tất cả
mọi địa chỉ được cho là có hơi hám của gia đình “Thầy Cãi” đều là người
khác ở và tất cả họ đều không biết tung tích "Thầy Cãi". Tôi ngậm ngùi
xin lỗi vợ vì lòng tốt của mình.
Sự việc tưởng sẽ phôi pha, nào ngờ, đùng
một cái nữa! Một buổi chiều đi làm về, con tôi (đã là một chàng trai) ra mở cổng
và thông báo với tôi:
- Ba ơi, chú Cãi có đến gửi cho Ba một cái
thùng gì trong nhà đó!
- Cãi nào? Ba có quen ai là Cãi đâu? Hay
là Thầy Cãi?
- Không phải! Chú Thầy Cãi con biết mà...
Chú này cao hơn, trẻ hơn nhiều!
Tôi xăm xăm xộc vào nhà, đến cái thùng cát
tông để ở góc nhà, quên luôn cả tính thời sự đang nóng hổi của nạn khủng bố đang hoàn hoành trên thế giới (!), xé
băng keo dán ra. Trong toàn giấy là giấy, tờ nào tờ nấy viết chi chít, chắc không
dưới ba chục ký. Có một cái phong bì để trên cùng, ngoài ghi: “Thầy Cãi thân
gửi Trần Hạnh Thu”.
Tôi vội bước đến xa-lông, ngồi xuống, xé
phong bì, lấy tờ giấy đôi học trò trong đó ra. Và đây là nội dung bức thư mà “Thầy
Cãi” đã viết:
Tp.HCM, ngày … tháng … năm 2010
THU thân mến.
Tao
đã biến khỏi TP.HCM lâu rồi! Mày đừng tìm kiếm làm gì cho mất công!
Tao
rất buồn vì không trả đúng hạn số tiền mày cho tao mượn. Và cho tới sau này, chắc
cũng chẳng trả nổi nữa đâu! Cho tao ngàn lần xin lỗi vợ chồng mày nhé!
Xin
nói thật lòng: mày là đứa bạn mà tao trọng vọng nhất, quí mến nhất, tin tưởng
nhất! Vì vậy, tao khẩn khoản nhờ mày giúp cho tao một lần nữa, lần cuối cùng.
Số
là tao đã ngộ ra một cái gì đó trong cõi trần gian này và tao đã cố gắng viết mấy
năm nay, định cho ra một tác phẩm của đời mình. Giờ thì đã xong, chỉ còn phải
chỉnh sửa một vài chỗ lầm lẫn, đánh máy cho sạch sẽ, đem in. Nhưng (số nó thế!)
tao đã không còn kịp về thời gian, không đủ khả năng về … chắc mày cũng biết là
gì rồi! …
Tao
gửi gắm tất cả cho mày. Mày hãy hạ cố đọc nó! Nếu một mai này có một cuốn sách
có tựa đề “Thực Tại và Hoang Đường” nằm trên quầy của hiệu sách nào đó, thì tao
biết rằng mày đã giúp tao lần cuối cùng.
Giúp
nhé, hỡi người bạn tốt nhất trên đời, cho tao được mãn nguyện, dù có thể tao tội
lỗi, dù tao với mày, có thể, chỉ gặp lại được nhau ở bên kia chân trời thế giới.
TB:
Nếu xuất bản đựơc thì tên tác giả phải là mày, quyết không thể khác được đâu đấy!
Bởi vì tao với mày, tuy hai trong Thực Tại nhưng là một trong Hoang Đường, đồng
thời cũng ngược lại: là hai trong Hoang Đường nhưng là một trong Thực Tại
Bạn
của mày
Thầy Cãi
Khi đọc xong bức thư của “Thầy Cãi”, tôi
đã văng tục, chửi nó là đồ điên, đồ khùng, quay sang thằng con trai đang trố
mắt nhìn; ra lệnh:
- Con mang cái thùng này quăng ra ngoài
cho ba, để đây chỉ tổ dơ nhà!
Nói xong, tôi hậm hực lên lầu.
Trong cuộc đời có những hiện tượng về hành
vi con người xảy ra mà ta không thể lý giải được. Nhiều người cho đó là sự bộc lộ phản ứng của vô thức,
hoặc là tác động về tâm linh. Tôi không biết là mình có tin không nữa. Có lẽ tôi
ngờ ngợ. Như lúc này đây, khi giơ tay định mở cửa phòng, tôi mới thấy rằng mình
vẫn còn cầm lá thư của “Thầy Cãi”. Lòng mới dịu xuống lại trào dâng nỗi buồn bã
khó tả. Có một điều gì đó chộn rộn, ray rứt trong tôi. Như một cái máy, tôi hấp
tấp quay xuống lầu.
- Cái thùng của chú “Thầy Cãi” đâu rồi? –
Tôi hỏi con trai và khi nghe nó nói đã mang ra để ngoài cổng, tôi cuống quít –
Con mang nó vào đi, nhanh lên!
Thằng con tôi hình như thích mệnh lệnh này
hơn mệnh lệnh ban nãy, chạy vụt đi vác ngay cái thùng vào.
- Để đâu ba?
- Con mang vào phòng của ba, để đâu cũng được
- Thấy nó hơi có vẻ thất vọng, tôi nói thêm – Mai mốt có thích thì vào đó mà đọc.
Rồi đây có thể con sẽ phải giúp ba sắp xếp lại để in thành sách nữa đấy!
***
Chiều hôm sau tôi bắt đầu đọc câu chuyện
của “Thầy Cãi”. Vài tờ đầu toàn là những kể lể vớ vẩn không đâu vào đâu. Vài tờ
sau là những suy tư cố bắt chước kiểu “triết gia” nhưng có lẽ vì không đủ “lực”
nên thành ra hời hợt, ngây ngô và sáo mòn. “Lại một gã nông dân nữa muốn đứng vào
hàng ngũ những bậc hiền triết!”, tôi nghĩ vậy, uể oải ngáp rồi bụng bảo dạ: “Lấy
mấy tờ giữa thùng ra coi xem sao”. Để đánh giá sơ bộ một cuốn sách, người ta cũng
vẫn thường làm thế, đọc vài trang đầu rồi lật ra đọc lướt vài trang giữa, trang
cuối cùng và mục lục.
Tôi đã hành động đúng (ngẫu nhiên hay có
sự mách bảo của vô thức?!). Đọc mấy tờ ở trong “ruột”, tôi không tin vào mắt mình
nữa. “Thầy Cãi” đúng là một con người có lối suy nghĩ thực sự quái gở. Tôi không
hiểu gì cả nhưng đã lờ mờ nhận ra cái “tâm huyết” của “Thầy Cãi”. Một “tâm huyết”
có lẽ đã bắt nguồn từ rất lâu rồi, từ thuở mà câu đố “Một nhân với một bằng mấy?”
bật ra từ não nó. Không, gì thì gì cũng phải giúp “Thầy Cãi” lần cuối cùng!
Ngay lúc đó tôi đã hạ quyết tâm như vậy. Thế là tôi đã vâng theo định mệnh?
Và ngày qua ngày, tôi đã ngấu nghiến toàn
bộ cái thùng giấy ấy, không sót một tờ, rồi nghiền ngẫm, rồi sắp đặt lại cho có
lớp lang, đặt lại đề mục …
***
Khi quí độc giả đọc đến dòng này thì có
nghĩa rằng câu chuyện kể về bạn tôi đã kết thúc và chuẩn bị bước vào câu chuyện
rất dài của bạn tôi, kể về … một cái gì đó (!).
Câu chuyện của bạn tôi, bình thường thôi,
sẽ có người khen kẻ chê, người cười kẻ khóc. Được như thế đã là quí hóa rồi! Miễn
đừng nguyền rủa bạn tôi là kẻ đặt điều và nói dóc!
Đúng sai thế nào, xin quí độc giả hãy đọc
và tự đánh giá! Cầu mong sao mọi người, khi đọc xong “Thực Tại và Hoang Đường”
sẽ thấy thế giới này đẹp hơn, lung linh huyền diệu hơn, đáng yêu hơn - cái thế giới mà chúng
ta đều dự phần trong đó, dù ngắn ngủi!
Xin
“bật mí” thêm rằng trong câu chuyện dài
dằng dặc của bạn tôi, “Thầy Cãi” tùy lúc, còn có thể núp dưới những danh
xưng:
“Chúng Ta”, “Nhà Thông Thái”, “Tôi”, “Hoang Tưởng”, “Hiện Thực”, và
“tếu” hơn là
có những lúc hai ba danh xưng đó hiện ra cùng tranh luận
sôi nổi hoặc vặc nhau chí chóe. Đến tôi, kẻ hiểu bạn tôi nhất, cũng thấy
thật là kỳ dị. Nhưng thôi, quí độc giả không nên bận bịu đến chuyện nhỏ
đó làm gì mà
hãy chú tâm đến nội dung lớn ẩn chứa trong tập sách. Hơn nữa, vì tôi đã
cố gắng hết mức có thể nhằm "bảo vệ" sự trình bày cũng như câu chữ ở
dạng "nguyên thủy", nên quí độc giả cũng sẽ cảm nhận được quá trình thật
của một bộ não suy tư nhận thức từ ngây ngô (với không ít những phát
biểu ngớ ngẩn) đến già dặn (với không ít những nhận định "kinh khủng")
của một con người (hình như) có vấn đề về mặt...tâm thần!
***
Ấy chết! Rất xin lỗi độc giả vì tôi đã
quên một điều cực kỳ quan trọng, đó là tỏ lời cảm ơn đến Nhà xuất bản, đã hạ
cố, tận tình giúp đỡ, tạo mọi điều kiện cho tôi phát hành được tập sách của bạn
tôi ra xã hội. Vậy, cũng xin mạn phép nói thêm vài lời.
Thú thực là trước khi đến NXB này, tôi đã
đi tìm nhiều chỗ, từ “ông” xuất bản, “ông” in ấn, “ông” phát hành và cả “ông”
kinh doanh sách để nhờ vả nhưng rồi đều “công cốc”. Nói chung là chỉ nhận được
một sự thờ ơ: “ông” thì tế nhị giới thiệu cho một ông khác, “ông” khác nghĩ tôi
(thực ra là bạn tôi) chẳng có tên tuổi gì mà viết ra một đống sách ngồn ngộn
như thế thì có thể là tâm thần nên lờ tịt luôn, chẳng có một lời từ chối xã
giao, “ông” thì khi nghe nói tập sách nặng về suy tư triết lý đã lắc đầu nguầy
nguậy vì sợ dính líu đến chính trị. Còn “ông” này mới lạ, đến tận nhà tôi đọc
qua loa bản thảo rồi phán: “Nếu anh muốn xuất bản qua công ty tôi thì, phải để
công ty tôi biên tập, thậm chí nếu thấy cần thiết thì sẽ sửa đổi, có khi phải
sửa đổi đến 90% mới ổn, mới có thể bán được!”. “Thế còn bản quyền?” - tôi hoang
mang hỏi. Ông ta trả lời ngọt xớt: “Thì anh với công ty cùng hưởng!”. Thật đúng
là kinh “thế” thị trường!...
Nhưng nghĩ kỹ, có lẽ nên thông cảm hơn là
trách móc, vì xét cho cùng, những “ông” ấy phải chịu áp lực từ nhiều phía.
Để chứng thực điều kể trên là có cơ sở,
tôi xin đăng bức thư tôi viết gửi giám đốc một Công ty sách nọ để nhờ và chỉ vì
muốn giúp bạn tôi toại nguyện, nhưng đã bị… ghẻ lạnh. Qua đó, tôi xin gián tiếp
tỏ lời cám ơn đến Nhà xuất bản đã tạo cho bạn tôi cơ hội “khoe” được câu chuyện
hoang đường của mình ra thiên hạ.
(Xin phân trần rằng, vì tập sách này
nhuốm đẫm màu phi thực tế nên bức thư có thể là “thực” ở đây nhưng là “hư” ở
chỗ khác, mong quý độc giả lưu ý!)
***
Kính gửi anh Li
Mấy bữa trước tôi có liên hệ với anh qua
điện thoại để nhờ anh giúp đỡ xuất bản một tập sách. Anh nói hãy thông tin qua
email cho anh. Vậy, tôi gửi anh thư này để trình bày.
Thú thực là rất khó nói mạch lạc về nội
dung tập sách vì đó là một câu chuyện lớn và lan man, trải dài ra trên hơn bốn
ngàn trang sách. Có thể tạm tóm tắt thế này: có một kẻ do bị thôi thúc bởi cái
khát vọng tìm hiểu cho được căn nguyên Vũ Trụ nên đã thực hiện một cuộc hành
trình vô tiền khoáng hậu, đi khắp “chân trời, góc bể” trong lịch sử và trong
hoang tưởng. Qua cuộc hành trình ấy, kẻ đó kể lại một câu chuyện thuộc hàng
tràng giang đại hải nhất từ xưa đến nay về nhiều lĩnh vực, với nhiều sự kiện
lớn lao của lịch sử xã hội loài người cũng như về lịch sử của quá trình nhận
thức của họ (mà tất nhiên, phần lớn là nhờ góp nhặt được từ đủ loại sách báo!).
Lồng vào câu chuyện đó là rất nhiều những phỏng đoán, suy đoán, phê phán, phản
biện, nhận định mới về tự nhiên - xã hội, theo một quan niệm riêng, nhiều khi thật kỳ lạ của
kẻ kể chuyện. Trong đó cũng có nhiều những phát kiến bất ngờ
mà nếu có lý (cũng có thể là hoàn toàn vô lý vì cho đến lúc này tập sách vẫn
chưa được công bố nên chưa ai biết để thông qua kiểm chứng số đông), thì chắc
chắn sẽ làm xôn xao đương thời, thậm chí, xoay chiều nhận thức đương thời.
Tuy nhiên, mục đích cốt lõi nhất, sâu xa
nhất của tập sách là muốn giới thiệu với thế giới một phác thảo học thuyết triết học mới,
ẩn chứa tiềm tàng trong những trang sách mà tôi cho là giản dị và đúng đắn nhất
từ xưa đến nay. Phác thảo học thuyết này là sự kế thừa có phê phán và sáng tạo từ những
tư tưởng triết học Đông - Tây thời cổ đại và nhất là từ một triết thuyết của
phương Đông, đã xuất hiện cách nay trên dưới 2500 năm mà do trình độ nhận thức
còn hạn chế của hậu thế, cũng như do lối hành văn “kiệm chữ” của thời kỳ đầu sử
dụng văn tự, nó đã không được hiểu đúng ý tác giả, thậm chí là bị hiểu lầm, bị
xem nhẹ và cả bị quên lãng.
Rất có thể toàn bộ tập sách chỉ là một sự
hoang tưởng khổng lồ, không hơn không kém. Nhưng như tôi được biết thì bạn tôi,
kẻ kể và viết lại câu chuyện này đã phải “tốn” không dưới 30 năm suy tư nghiền
ngẫm và không dưới 8 năm miệt mài ghi chép, nên bản thân tôi, tôi vẫn đặt cược
toàn bộ niềm tin vào nó, dù thực ra tôi chưa hiểu được nhiều điều trong đó.
Thông qua sự giới thiệu của nhà báo A,
được biết anh là người có năng lực, am tường và có những mối quan hệ tốt trong
lĩnh vực đăng ký bản quyền, quảng cáo, xuất bản, in ấn, phát hành nên tôi mạnh
dạn liên hệ với anh nhờ giúp đỡ hoặc trực tiếp hợp tác trên tinh thần đôi bên
cùng có lợi.
Vì bạn tôi, tôi biết, không phải là người
viết văn chuyên nghiệp, cũng chẳng có tên tuổi gì trong xã hội nên việc kinh
doanh sao cho có lãi đối với tập sách này quả là phiêu lưu. Hiểu điều đó, tôi
sẵn sàng hợp tác với điều kiện chịu mọi phí tổn ban đầu. Tôi cho rằng, nếu
quảng cáo tốt và gặp may thì tình hình kinh doanh chắc không đến nỗi tệ lắm
đâu!
Rất mong anh Li xem xét và tận tình giúp
đỡ!
Kính chào trân trọng
Ngày..., tháng..., năm...
(Khi
viết những dòng trên, tôi đã chắc mẩm sẽ xuất bản được "Thực Tại và
Hoang Đường". Nhưng không!...Chỉ còn cách lập blog để đăng lên mạng
Internet với danh xưng Đại Chúng. Và hôm nay tôi bắt đầu "cuộc hành
trình"! Dù sao thì cũng an lòng nhé, Thầy Cãi!!!
Nhân đây, tôi cũng xin cảm ơn Tuấn! Nhờ Tuấn mà có "Thực tại và Hoang đường". Nhờ "Thực tại và Hoang đường" mà bản chất có thể của Tự Nhiên Tồn Tại được nêu ra!)
-Có lần Anhstanh nói: “Theo Newton, khi vật chất biến mất thì không gian lẫn thời gian vẫn còn. Nhưng theo chúng ta, khi vật chất biến mất thì không gian và thời gian lập tức cũng biến mất
theo". Lúc đầu, do ngưỡng mộ, chúng ta cho Anhxtanh đúng. Nhưng sau,
suy nghĩ lại, chúng ta cho rằng Newton nói đúng hơn và Anhxtanh đã sai!
Vũ Trụ, như cách chúng ta gọi là Tự Nhiên Tồn Tại, là một thự thể không
tự nhiên sinh ra cũng không tự nhiên mất đi. Nó là một tồn tại vốn dĩ
thế! Tồn tại vốn dĩ thế là Tự Nhiên Tồn Tại, tuyệt đối không có Hư Vô.
Tự Nhiên Tồn Tại là không gian. Thế giới này chỉ là không gian, ngòai ra
không là gì khác, không có gì khác. Không gian là vô hạn hay hữu hạn?
Nếu đi về hướng vô cùng lớn thì khó mà xác định được. Nếu đi về hướng vô
cùng nhỏ, vì giới hạn của vô cùng nhỏ là 0 nên không
gian phải có giới hạn! Mặt khác, không thể hình dung một lượng thể tích
bất kỳ lại được hợp thành từ dù là vô hạn những lượng thể tích vô hạn
nhỏ. Nếu đã có giới hạn ở vô cùng nhỏ thì cũng phải có giới hạn ở vô
cùng lớn. Như vậy, không gian phải có giới hạn, không thể vô tận được!
NTT
-"DỨT KHOÁT PHẢI CÓ HẠT KHÔNG GIAN - THỨ TUYỆT ĐỐI NHỎ NHẤT VŨ TRỤ (là một thực thể vừa hạt vừa giả hạt, là cơ bản của mọi cơ bản cấu thành nên vật chất) ĐỂ LÀM
NÊN CÁI "CÓ" TẤT CẢ, TỨC LÀ "TỒN TẠI". VÌ NẾU KHÔNG CÓ CHÚNG THÌ SẼ LÀ
HƯ VÔ, TỨC LÀ TUYỆT ĐỐI KHÔNG CÓ GÌ, KỂ CẢ KHÔNG GIAN. TỪ TUYỆT ĐỐI KHÔNG CÓ GÌ MÀ CÓ ĐƯỢC
TẤT CẢ LÀ VƯỢT GIỚI HẠN TUYỆT CÙNG CỦA SỰ PHI LÝ!"
NTT
-----------------------------------------------
LỜI TỰ TÌNH
Tôi còn nhớ khi tôi độ sáu tuổi, mẹ đưa tôi
đi cắt amidan. Thời đó trước khi cắt amidan là phải chụp thuốc mê. Tôi đã khóc
và hoảng sợ. Mẹ tôi đứng cạnh vỗ về: “Không sao đâu con! Một chút xíu thôi mà!”.
Rất nhanh, tôi buồn ngủ ghê gớm và thấy mình lạc vào bầu trời đêm tĩnh lặng, mênh
mông. Tôi cảm thấy dễ chịu, cơ thể nhẹ hẫng và bay ngày càng nhanh về một ngôi
sao rất xa, sáng lấp lánh, sáng nhất trong số các sao trong bầu trời đêm ấy. Tôi
cứ thế bay, bay mãi nhưng ngôi sao thì cứ vẫn ở rất xa, xa vời …
Hình ảnh ấy khắc rất sâu vào tâm khảm tôi.
Sâu đến nỗi từ đó đến mãi tận bây giờ, cứ mỗi lần nhìn lên bầu trời đêm sao, nhất
là vào mùa thu, là tôi lại cảm thấy lâng lâng một nỗi nhớ nhung da diết về một
cái gì đó rất quen thuộc nhưng cũng rất mơ hồ, ở tít tắp đâu đó tận chân trời Vũ
Trụ.
Một lần khác, cuối năm lớp bảy phổ thông,
đang kỳ ôn thi chuyển cấp, lên lớp tám thì tôi lăn ra ốm một trận kịch liệt, liệt giường liệt
chiếu. Người sốt hầm hập, đầu quay cuồng. Có một điều rất lạ là cứ mỗi lần chợp
mắt là y như rằng tôi thấy mình đang ở trên một con thuyền chòng chành, bập bềnh
giữa biển mênh mông không bờ không bến. Trên là mặt trời chói lóa ánh nắng, sáng
lắm! Dưới là hàng hàng lớp sóng dạt dào, đâu đâu cũng sóng, sóng lấp lánh muôn màu. Bốn bề không
một hơi gió. Ấy vậy mà chẳng thấy nóng chút nào, lại có vẻ như còn mát mẻ nữa.
Lạ hơn nữa là ở tình trạng ấy, tôi không hề cảm thấy cô đơn mà trái lại, thấy
thích thú, thoải mái vô cùng. Mỗi lần tỉnh lại, tôi cứ như bị hụt hẫng, tiêng
tiếc.
Sau lần thập tử nhất sinh ấy, trí nhớ của
tôi suy giảm đến không ngờ. Trước tôi học đâu nhớ đó. Thậm chí có những môn tôi
thuộc làu cả sách giáo khoa, nhớ đến từng trang, từng dòng, từng chữ. Thế mà
khi khỏi ốm, tôi quên hầu hết những gì vừa học ôn thi. Cái gì cũng chỉ còn mang
máng. Tôi phải chật vật học thuộc lại từ đầu những gì đã thuộc, vậy mà khi thi cũng
suýt nữa thì trượt, điểm vừa đủ đạt yêu cầu. Bạn bè tôi đã rất ngạc nhiên. Nhưng
tôi chẳng thổ lộ với ai về điều ấy. Sau này tôi mới biết mình đã lâm vào tình trạng giảm sút ghê gớm khả năng nhớ ngắn hạn.
Từ đó tôi học sa sút hẳn. Trí nhớ tôi đã
chẳng bao giờ còn phục hồi lại được nữa. Đọc một quyển sách khoa học, có thể tôi
hiểu rất cặn kẽ. Nhưng khi đọc xong vài ngày thì chỉ còn nhớ mang máng, chung
chung chứ không thể nhớ cụ thể và chi tiết như trước. Chẳng hạn một câu danh ngôn
hơi dài một chút thì chỉ sau vài ngày, một tuần không nhắc đến là tôi quên, chỉ
còn nhớ đại ý mà thôi.
Có một chuyện như thế này: thời còn sinh
viên, một lần thi “vấn đáp” môn Nhiệt học, tôi rút phải một đề thi có hai câu hỏi,
trong đó một câu yêu cầu viết một công thức liên quan đến nguyên lý thứ hai nhiệt
động học. Tôi chỉ trả lời được câu hỏi kia (câu hỏi phụ). Thầy giáo coi thi, một
người nổi tiếng nghiêm khắc với câu nói “Tôi chỉ có thể cho các anh điểm hai, điểm
ba thôi (thang năm điểm, điểm hai là kém, điểm ba là đạt yêu cầu, điểm năm là giỏi!), nếu tôi
cho ai điểm bốn thì coi như người đó bằng tôi. Trên đời này, chỉ có Thượng đế được
năm điểm!”, đã nói với tôi rằng:
- Anh nghĩ sao khi tổ quốc của anh chiến đấu
một mất một còn với quân xâm lược, thì anh ngồi đây trả lời được câu hỏi chỉ đáng
điểm một?
Thầy giáo ấy nói đúng vì không thể hiểu được!
Tôi còn nhớ lúc đó tôi đã cúi gằm mặt xuống, không phải vì xấu hổ mà vì cố ghìm
nén những giọt nước mắt uất ức đang muốn trào ra. Nhưng rồi lòng tự trọng từ đâu
đến cứ trào dâng đến ngộp thở, tôi bật ngẩng đầu lên nhìn thẳng vào mắt người
thấy giáo mà tôi rất kính trọng vì tài năng nhưng đã hỏi một câu quá “lớn chuyện”;
nói mạch lạc:
- Thưa giáo sư! Tôi không thuộc, nhưng tôi
rất hiểu. Nếu có thời gian, tôi sẽ thiết lập được biểu thức ấy!
Thầy giáo nhìn tôi, đo lường rồi cười mỉm:
- Nếu anh muốn thế, tôi sẽ cho anh hai mươi
phút để có cơ hội nâng điểm thi hôm nay của anh từ điểm một lên điểm ba. Anh hãy
ra cái bàn kia!
Như vậy, tôi đã được ưu tiên thi lại ngay
lập tức với một bài thi viết mà đề bài là chứng minh công thức.
Tôi khẩn trương vẽ mô tả hiện tượng, đặt
các kí hiệu, lập mối quan hệ giữa các đại lượng, suy luận và biến đổi chúng. Và
chân lý đã hiện ra thấp thóang. Tôi liếc nhìn đồng hồ đeo tay: hết hai mươi phút.
Chỉ còn vài thao tác mang tính kỹ thuật nữa là tôi sẽ đến đích. Muốn thế tôi phải
có thêm mười phút. Nhưng điều đó không quan trọng và cũng chẳng cần thiết nữa.
Tôi đã nhớ lại được biểu thức. Tôi vội chấm ba chấm to tướng (chấm lửng) rồi
ngay sau đó tôi viết biểu thức cần chứng minh theo những ký hiệu mà tôi vừa đặt
trong một niềm vui khôn tả. Tôi cảm thấy mình đã làm được một điều phi thường!
Tôi dừng bút và ngẩng lên, vừa lúc thầy
giáo kiểm tra xong một sinh viên và quay sang nhìn tôi:
- Thế nào? … Mời anh lên!
Tôi bước đến, ngồi xuống và trịnh trọng đưa
cho thầy giáo tờ chứng minh của mình. Sau vài phút soi xét, thầy giáo quay sang
chăm chăm nhìn tôi, mặt nghiêm trọng. Tôi đang khấp khởi vui, bỗng phát hoảng:
“Trời ơi trời, chuyện gì vậy?!”.
Nhưng không!
- Anh đã hiểu rất sâu vấn đề, tại sao lại
không nhớ công thức? – Và thầy giáo bỗng cười – Anh đã làm tôi ngạc nhiên đấy!
Tôi
như sắp chết đuối vớ được cọc, đâm ra phởn chí:
- Thưa giáo sư, tôi trộm nghĩ, không ai có
thể nhớ hết được các biểu thức của nhiệt học!
- Kể cả tôi nữa à? Không sao, anh nói đúng!
Hôm nay anh làm tôi vui vì anh đã tự cứu mình bằng một chứng minh: hiểu mà không
nhớ có thể còn cứu vãn được, nhớ mà không hiểu mới là điều tồi tệ! Anh đã thoát
được điểm một, tôi không muốn cho anh điểm hai, điểm năm là của Thượng đế, chỉ
còn điểm ba và điểm bốn, anh chọn điểm nào?
Tôi lí nhí:
- Xin cảm ơn giáo sư! Nếu ngài cho phép,
tôi xin chọn điểm ba!
- Tôi cho anh bằng tôi, điểm bốn!
***
Có
thể hai sự kiện (cắt amidan và bị ốm) đã
làm cho tôi có những thể hiện để bạn bè đặt cho những cái tên ngộ nghĩnh
như “Cha Cố”, “Chàng Ngố” … Và một cái tên “chết” đến tận ngày nay:
“Thầy Cãi” …
Không biết có phải vậy không, nhưng tôi cảm
nhận được một điều chắc chắn rằng tôi là một kẻ hết sức tò mò tọc mạch; điều gì
cũng muốn biết đến tận cội rễ của nó. Chính vì thế mà hồi nhỏ tôi rất ham hố
tranh luận, hăng say tranh luận và sau này trở thành một con mọt sách. Tuổi trẻ,
tôi đọc bất cứ một quyển sách nào có trong tay, bất cứ một tờ giấy có chữ nào,
kể cả giấy gói xôi. Nhưng đọc say mê nhất là những quyển sách khoa học - triết
học, những quyển sách nói về những hiện tượng bí ẩn của Tự Nhiên.
Khi xưa, ngày bác tôi còn sống, có một lần
tôi rụt rè hỏi:
- Trong xã hội Xã hội chủ nghĩa đã có công
bằng và ấm no hạnh phúc rồi thì còn cần gì lên Chủ nghĩa cộng sản nữa hả bác?
- Chế độ Xã hội chủ nghĩa đành rằng là công
bằng và ấm no hạnh phúc nhưng chưa toàn vẹn, con ạ. Cần phải phấn đấu lên nữa!
Chế độ Cộng sản chủ nghĩa tốt đẹp hơn.
- Thế trên Chủ nghĩa cộng sản là gì hả bác?
Bác tôi chững người, nhìn tôi một lúc mới
trả lời:
- Cháu ạ, bác cũng chưa biết được. Có thể
vẫn là chế độ Cộng sản chủ nghĩa thôi, nhưng được phân biệt theo thứ bậc. Chẳng
hạn Chế độ Cộng sản chủ nghĩa I, Chế độ Cộng sản chủ nghĩa II, vân vân …
Bác
tôi mách mẹ tôi (tôi nghe lóm được):
- Này thím, thằng nhỏ con thím lạ lắm đấy!
Cỡ tuổi nó mà hỏi những câu rất sâu sắc. Đến tôi còn lúng túng…
Lần khác, thấy quyển có tựa đề “Chống Đuy
rinh”, tôi hỏi mượn. Bác tôi cười bảo:
- Con nói cho bác nghe, con muốn tìm hiểu
gì trong đó?
- Dạ, con chỉ thấy thích thích thôi!
Câu hỏi đó của bác tôi, vô tình đọng
trong tôi rất lâu, về sau trở thành nỗi thắc mắc của chính tôi.
Tôi thích gì? Tôi tìm gì trong cuốn sách
mà hồi đó tôi đọc chẳng hiểu gì cả ấy? Tôi đã không thể trả lời được trong một thời
gian dài.
Nhưng rồi khi đã lớn khôn hơn, suy nghĩ đã
“có đầu có đũa” hơn, tôi dần dần tìm được câu trả lời. Câu trả lời chìm rất sâu
trong tiềm thức, có nguồn gốc từ rất xa trong ký ức. Hóa ra là tôi chưa bao giờ
quên mà trái lại, ngày càng thương nhớ cái đêm có cảm giác rất thân thuộc xưa
kia, cái đêm mà trong đó, tôi đã bay về một vì sao lấp lánh nhất trong một cơn
mê, tôi đã “thấy” mình bay, bay mãi, ngày một nhanh, đột ngột nổ ra thành muôn
ngàn sao rồi ngôi sao thành mặt trời chói chang ánh sáng, muôn ngàn sao thành đại
dương sóng lấp lánh, và tôi thành con thuyền bập bềnh giữa mênh mông trong một
cơn mê khác. Chính vô thức đã thúc giục tôi đi tìm về những quang cảnh kỳ diệu ấy
trong thực tại.
Năm tháng qua đi, câu trả lời ngày càng
hiện rõ hơn và ở tuổi thanh xuân của tôi, đã trở nên đích thực, đó là:
Sự thèm khát vô hạn được hiểu nguồn gốc Vũ Trụ! Và sự thèm khát
ấy có thể đã xuất hiện từ hai ba kiếp trước!
Cứ mỗi lần nghe bài hát “Lá diêu bông”, tôi
lại thầm cười mình. Chàng trai trong bài hát có thể cuồng si như tôi, nhưng không
thể viển vông hơn tôi được. Có thể nhặt bất cứ cái lá “lạ hoắc” nào và gọi bừa
là lá diêu bông cũng được (tuy sau này người ta biết lá diêu bông là có thực!) nhưng không bao giờ tìm được trong thực tại một vùng
lấp lánh do chính mình nổ tung ra.
Ấy vậy mà tôi vẫn đi tìm!
Tìm cần mẫn như một kẻ nô lệ!
Nô lệ một cách tự giác!
Tôi đã biến hầu hết đời mình thành một cuộc
trường chinh ngồi đọc sách và tưởng tượng. Đọc rồi tưởng, tưởng rồi đọc, đọc
triền miên, tưởng mãnh liệt. Đầu lúc nào cũng lưu lạc đâu đó trong miền hư thực,
đầy sương khói. Lúc hí hửng à lên sung sướng, lúc tiu ngỉu thở dài buồn bã, khi
thì tràn trề hy vọng, khi thì chán nản bi quan. Tất cả cứ đan xen, nối tiếp
nhau, hòa quyện nhau dài dặc, triền miên.
Và tôi đã hiểu rằng … tôi chẳng hiểu gì!
Loài người đã có vô kể những bức tranh mô
tả Vũ Trụ được các triết gia vẽ nên. Chẳng có bức tranh nào giống bức tranh nào!
Mỗi người vẽ một kiểu theo ý mình. Thế hệ sau bình phẩm và thêm bớt vào những bức
tranh của thế hệ trước; thậm chí khước từ tất cả để vẽ lại bức tranh mới. Tôi
thấy bức tranh nào cũng đẹp và có lý. Đọc tranh ông này thấy đúng và hiểu rằng ông
kia sai. Đọc tranh ông kia cũng thấy đúng và nhận ra cái sai ông này. Cứ thế chẳng
biết ai đúng ai sai. Hay là tất cả đều đúng và như thế phải có rất nhiều Vũ Trụ?
Nếu tất cả đều sai thì sao nhân loại phát triển được tới ngày hôm nay? Có thể nào
mỗi bức tranh đều vừa đúng vừa sai? Rất có thể như thế! Nếu như thế thì chọn những
nét đúng của mỗi bức tranh để ghép lại thành một bức tranh tổng thể, chính xác
về Vũ Trụ được không? Giả sử làm được điều đó đi nữa thì có “thấy” được nguồn gốc
Vũ Trụ không? Hay Vũ Trụ không có nguồn gốc?
Và tôi lại hiểu rằng … tôi hoang mang tột
độ!
Hoang mang tột độ nhưng tôi vẫn đi tìm! Vũ Trụ nếu không có nguồn gốc thì tôi làm sao tìm được nguồn gốc? Nhưng chắc chắn
Vũ Trụ phải có căn nguyên! Ít ra tôi vẫn có thể tìm ra căn nguyên để hiểu được
Vũ Trụ này!
Và tôi lại đi tìm!
Tôi đi tìm miệt mài năm tháng, đến kiệt cùng
trí lực, vẫn “bóng chim tăm cá”!
Một tối nọ, tôi ngồi một mình uống rượu
giải sầu, mơ màng ngắm bầu trời sao và tự vấn rằng: trước khi từ giã cõi đời này,
tôi có thể hiểu được cái bao la ấy không? Một ý nảy ra làm tôi buồn cười: nếu là
một đứa trẻ thơ, tôi đâu có khổ sở như thế này. Đứa trẻ thơ chỉ cần một câu
chuyện thần thọai hay cổ tích là đã hiểu tường tận Vũ Trụ này rồi. Đối với các
bậc hiền triết, các nhà bác học thì xét về mặt kiến thức tôi cũng chỉ như đứa
trẻ thơ. Tại sao tôi cứ phải lao tâm khổ trí cố hiểu Vũ Trụ này theo cách nghĩ
của họ? Một tia chớp chợt lóe nhì nhằng trong đầu, và cái ý nghĩ đáng cười cợt ấy
bỗng trở nên nghiêm túc.
Ừ nhỉ, tại sao không?! Tại sao tôi không
có quyền nhìn ngắm thế giới này bằng ánh mắt tuổi thơ, dù rằng tôi đã già? Biết
đâu chừng khi người lớn nhìn theo cách trẻ con, họ sẽ tìm thấy được cái gì đó bấy
lâu nay kiếm tìm và sẽ hiểu được cái gì đó đã thấy? Tôi còn nhớ một bức tranh và
xin mạn phép vẽ lại như thế này:
Đó chính là tuyệt tác của Antoine De
Saint Exupéry, khi ông mới sáu tuổi. Người
lớn luôn thấy nó là một cái mũ. Đối với người lớn, thì như Exupéry nói: “Những
gì ta nhìn thấy chỉ là lớp vỏ bề ngòai. Cái quan trọng nhất luôn vô hình …”. Nhưng
mắt trẻ thơ lại nhìn ra tức khắc cái vô hình ấy. Nếu hỏi Hoàng Tử Bé bức tranh đã
vẽ gì, chú sẽ trả lời ngay rằng đó là một con trăn nuốt một con voi trong bụng!
Hoàng Tử Bé đã từng nói với Exupéry như
thế này: “Con người ở chỗ chú, họ trồng năm ngàn bông hoa hồng trong cùng một
khu vườn … Và họ không tìm thấy thứ mà họ đi kiếm … Vậy mà thứ họ đi kiếm có thể
tìm thấy được chỉ trong một bông hoa hay một ít nước …”.
Nhắc đến Hoàng Tử Bé, tôi lại nhớ về cơn
mê xưa. Đúng rồi! Tôi cũng đã từng có một ngôi sao, đã từng nhìn thấy điều kì
diệu. Tôi đã từng có cách nhìn và cách cảm của tuổi thơ. Tôi nhớ hình như thời
thơ ấu, tôi thấy cái thế giới này sinh động và dễ hiểu hơn nhiều. Và tôi đã mất
cách nhìn cách cảm ấy khi lớn lên, khi cố làm cho bộ não khôn hơn, già đi?
Phải tìm lại tâm hồn tuổi thơ!
***
Nhưng làm sao mà tìm lại được tâm hồn tuổi
thơ khi con người ta đã khô cằn theo năm tháng cuộc đời? Tôi đã đọc ngốn ngấu
truyện thiếu nhi, xem những chương trình dành cho thiếu nhi trên ti vi, thậm chí
nghêu ngao những bài hát thiếu nhi. Tất cả là vô ích!
Tôi lại thử mường tượng về tuổi thơ của
chính tôi ngày xưa, cố hình dung lại những gì mà hồi đó tôi đã làm, đã nói và đã
hành động. Vô ích nốt!
Đã vô ích, lại còn buồn thêm! Sao mà tiếc
một thời hồn nhiên ấy thế! Tha hồ mơ màng, tha hồ vui đùa, tha hồ trêu chọc.
Quan hệ bạn bè thẳng tuột, trong sáng và vô tư lự. Ước gì lại được về sống với
tuổi hoa niên, với “nhất quỉ nhì ma, thứ ba học trò”. Ước gì tôi lại là “Thầy Cãi”
để ra những câu đố “trên trời dưới biển”, tạo cớ cãi với bạn bè cho sướng miệng.
Nghĩ lại mà thấy vui! Đến tận bây giờ chắc đám bạn học của tôi vẫn cứ nghĩ câu
tôi đố “Một nhân với một bằng mấy?” là một câu đố mẹo. Nhưng nào phải mẹo mọ gì đâu!
Chỉ là một cái bẫy tầm thường kiểu con nít …
Không? Không hẳn thế! Hình như là tôi chưa
nhớ hết kỉ niệm. Câu đố đó, dù tầm thường, nhưng không thể ngẫu nhiên xuất hiện
trong đầu tôi được? Vậy thì do đâu mà câu đố đó xuất hiện? Tôi vội cầm bút viết
to cái câu đố tầm thường ra giấy:
1 x 1 = ?
và chăm chú ngắm nó. Nhức cả mắt mà chẳng
thấy gì! Nếu đó là cái mũ thì theo thông lệ, tôi sẽ thấy ngay con trăn và con
voi. Đằng này nó lại quá rõ ràng!
Tôi
vẫn cố giương mắt ra nhìn, đồng thời tập trung cao độ để nhớ cho ra hồi đó tôi đã
thấy điều gì ẩn giấu sau cái vẻ tường minh và đơn điệu đến như vậy. Tôi đã nhìn
rất lâu, nhìn mãi, nhìn mãi, nhìn đến lúc mệt nhoài, tưởng chừng như không thể
hi vọng được nữa thì đột nhiên tôi thấy hiện lên trong đó một bầu trời sao. À!
Ra thế! Mấy mươi năm trước, tuổi thơ tôi đã thấy như vậy. Nếu là Hoàng Tử Bé, cũng
sẽ thấy tương tự như vậy. Còn chúng ta, khi đã là những người lớn hôm nay với đủ
những bận bịu, toan tính đời thường sẽ luôn luôn chỉ thấy:
1 x 1 = 1
mà
thôi!
Phải nói rằng tôi đã tìm lại được cách nhìn
thơ ngây của mình!
***
Tôi đã vui mừng
quá sớm vì điều đó!
Sau đó ít hôm, em tôi tới nhà chơi.
Trong
lúc vui chuyện tôi lôi câu đố muôn thuở ra thử nó:
- Mày tính dùm tao xem, một nhân với một
là mấy?
- Anh lại gài độ chứ gì?
- Không đâu! Tao hỏi thật đấy!
- Bằng một chứ mấy!
- Sao lại không là một bình phương?
- Thì một bình phương không là một à? Con
nít còn biết …
- Ừ! … - Tôi cười – Con nít còn
biết nhiều hơn thế …
- Anh nói con nít biết nhiều hơn là sao?
-
Chúng ta, anh em mình đều biết rằng số
một là số vô cùng quan trọng, quan trọng nhất trong tất cả các con số.
Có số1 thì sẽ có số 1, số 3 và có tất cả. Không có
nó, lâu đài toán học lập tức sụp đổ tan tành. Vậy số 1 là gì trong thực
tại Vũ Trụ? Chúng ta hầu như không thấy được
số 1 trong thực tại vì hình như không để ý đến chúng và đồng thời số 1
cũng có vẻ như vô nghĩa. Chúng ta không thể thấy ý nghĩa số 1 trừu tượng
trong thực tại nhưng con nít lại thấy. Không ai dỗ dành
con nít bằng số một cả mà phải bằng cái bánh, cái kẹo … Bởi vì có một tỷ
số một
đi nữa, nó cũng không nhìn thấy: Số một, khi không có nội dung bên trong
sẽ không
thể hiện hữu trong thực tại. Từ đó ta thấy rằng phép toán:
1 x 1 = 12 = 1
là hoàn toàn lạ lùng. Muốn cho phép toán
đó có nghĩa thì số một phải có nội tại, nghĩa là, ta phải cho nó mang một ý nghĩa
vật lý nào đó; ta phải gán cho số một một nhãn mác nào đó. Chẳng hạn ta gọi một
là một ngôi sao, lúc đó phép toán sẽ được thực hiện:
ngôi sao x ngôi sao = (ngôi sao)2 ≠ ngôi sao
Suy rộng ra, ở trường hợp to tát nhất, thì:
1n
= Vũ Trụ ≠ 1
Nhưng đối với tao, Vũ trụ là duy nhất nên có thể qui ước là bằng 1, vậy thì:
1n = 1
khi n = bất kỳ
Nghĩa là nếu có bài toán:
Thì kết quả sẽ bằng 1, khi n là bất cứ số tự nhiên nào, kể cả số tự
nhiên lớn nhất tuyệt đối của Vũ Trụ. Vũ Trụ là 1 và 1 lũy thừa bao nhiêu
cũng là Vũ Trụ (Nếu 0 là biểu thị 'không có gì" tuyệt đối thì n phải
khác 0, vì khi n bằng 0 sẽ không viết được vế trái hoặc Vũ Trụ là 1! Ở
đây, qui ước toán học đã bộc lộ sự bất cập!!!)...
Đến
đây buộc phải nói rằng, phải có qui ước số 1 vừa biểu thị sự lớn
nhất tuyệt đối vừa biểu thị sự nhỏ nhất tuyệt đối. Vậy theo tao, muốn
hiểu Vũ Trụ này, trước tiên phải khẳng định: Vũ Trụ qua nhận thức của
con người là một thế giới qui ước và số 1 là "number one"!
Em tôi há hốc mồm ra ngồi nghe. Chắc chắn
nó chưa bao giờ được nghe những điều quái lạ như vậy. Cái quan trọng nhất lại là
cái không nhìn thấy được trong thực tại. Nhưng tôi biết nếu điều tôi vừa nói có
đúng đi nữa thì nó cũng không bao giờ tin. Bởi đầu nó đã bị "gông xiềng" mất rồi!
Dù sao thì nó đã không phản bác tôi được câu nào, chỉ vớt vát:
- Trong đó phải có một ngụy biện nào đó mà
thú thực là em chưa phát hiện ra.
Tôi nhìn thằng em khoái chí ra mặt.
Tôi không ngờ nó lại nhìn thấy tôi ở khía
cạnh khác. Hôm sau nó điện thoại cho vợ tôi. Vợ tôi kể lại:
- Nó nói với tôi là ông có vấn đề. Mắt ông
dạo này trông có vẻ dại dại làm sao ấy. Nó nghi ông mắc chứng hoang tưởng và nói
tôi khuyên ông đến bác sĩ khám xem sao, kẻo để lâu bệnh biến chuyển nặng thêm
thì nguy.
Tôi cười phá lên, cười sặc sụa.
- Tôi cũng thấy ông như thế đấy! Còn cười
gì nữa! … Mai ông đi khám đi cho tôi nhờ! - Vợ tôi lườm nguýt.
Tôi
giật mình: không chừng có lẽ đúng. Có
thể tôi đã bị hoang tưởng chứ không phải là tôi đã tìm lại được cách
nhìn tuổi
thơ như tôi nghĩ. Nhưng nếu tôi bị bệnh hoang tưởng thì sao trước mặt
thằng em,
tôi lại có thể luận giải khúc chiết đến thế được? Hay sự hoang tưởng có
nhiều dạng
mà dạng của tôi là dạng không có nguồn gốc bệnh lý? Từ đó, tôi phát hiện
ra một chân lý hơn cả...chân lý, rằng: toán học được sinh ra từ thực
tiễn cuộc sống, nhưng được nuôi dưỡng bằng tư duy trừu tượng của con
người, thứ mà Thiên Nhiên ban tặng cho loài người dùng vào việc chủ động
thích nghi để sống còn. Tư duy trừu tượng là tấm huy chương hai mặt,
một mặt thực dụng và một mặt hoang tưởng. Khi "xài'' mặt thực dụng thỏa
mãn rồi thì con người tiếp tục "xài lố" sang mặt hoang tưởng, nghĩa là
con người tưởng tượng ra những điều không có trong thực tại khách quan
(nhưng vẫn hợp logic!). Toán học ngày nay chính là kết quả của sự hun
đúc nên, hòa trộn nên từ hai mặt của tấm huy chương ấy!
Tôi bình tâm nghĩ lại: Một người lớn
hoang tưởng thì cũng tương đương với tâm hồn trẻ thơ, có gì khác nhau đâu? Được
rồi! Tôi mãn nguyện!
***
Tôi
có nghe người ta nói ngọn núi có tên Tu Di là nguồn cội của mọi tri
thức. Thế thì Tu Di ở đâu? Tôi không biết. Có người nói nó ở Tây Tạng
nhưng tôi không tin. Có thể rằng nó bắt nguồn từ những người mang đức
tin mù quáng bên...Ấn Độ. Nghe mô tả, đó là nơi rất linh thiêng, chỗ trú
ngụ của Đấng Thiêng liêng. Phải chăng nó ở trong ảo vọng?
Nếu
thế, cần phải làm một chuyến hành trình trong hoang tưởng, may ra tìm
được ngọn núi Tu Di, ngọn núi của ngàn đời mơ ước để...thực chứng chân
lý.
Tôi đã chuẩn bị xong hành trang, đã chọn được
một điểm xuất phát, đã xác định được phương hướng cuộc hành trình và đã mường tượng
được một con đường dành riêng cho những kẻ như tôi - những gã nhà quê ít học nhưng quá tò mò nên cũng dám phiêu lưu. Sau này tôi
sẽ phải đặt tên cho con đường ấy. Còn bây giờ, hỡi anh em bằng hữu, ai thích quan
chiêm một cái gì đó trong hoang đường thì hãy theo tôi! Đi thôi anh em! Chúng ta lên đường!
"Tráng sĩ đi đầu không mọc tóc
Gương Kinh Kha in dội trong lòng"
VẦN GIEO CUỐI CÙNG
Xin Tạo Hóa cho tôi khùng nhiều nhé
Để thấy hiển nhiên toàn những chuyện ngù ngờ
Để đủ gan lỳ cãi triết-khoa chí chóe
Bỏ đường đông quen, tưng tửng bước đường khờ
Xin Tạo Hóa cho tôi thành bé tí
Để dò la trò bất định vi mô
Để gặp Foton hỏi về Cơ lượng tử
Sóng giao hòa hay hạt giăng tơ
Xin Tạo Hóa cho tôi điên rồ nhé
Để nhìn ra nét quyến rũ Ten-xơ
Để chắt lọc từ Phương trình của Chúa
Vần gieo cuối cùng, kết đẹp một bài thơ...
Trần Hạnh Thu
Nhận xét
Đăng nhận xét