Thứ Hai, 1 tháng 6, 2015
ĐỊA LINH NHÂN KIỆT 76
Nguyễn Trung Trực
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Thân thế và sự nghiệp
Là dân chài
Sinh ra dưới thời Minh Mạng, thuở nhỏ ông có tên là Chơn. Từ năm Kỷ Mùi (1859) đổi là Lịch (Nguyễn Văn Lịch, nên còn được gọi là Năm Lịch), và cũng từ tên Chơn ấy cộng với tính tình ngay thật, nên ông được thầy dạy học đặt thêm tên hiệu là Trung Trực.Nguyên quán gốc Nguyễn Trung Trực ở xóm Lưới, thôn Vĩnh Hội, tổng Trung An, huyện Phù Cát, trấn Bình Định (ngày nay là thôn Vĩnh Hội, xã Cát Hải, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định). Ông nội là Nguyễn Văn Đạo, cha là Nguyễn Văn Phụng (hoặc Nguyễn Cao Thăng), mẹ là bà Lê Kim Hồng.
Sau khi hải quân Pháp nhiều lần bắn phá duyên hải Trung Bộ, gia đình ông phải phiêu bạt vào Nam, định cư ở xóm Nghề (một xóm trước đây chuyên nghề chài lưới), làng Bình Nhựt, tổng Cửu Cư Hạ, huyện Cửu An, Phủ Tân An (nay thuộc xã Thạnh Đức, huyện Bến Lức, tỉnh Long An) và sinh sống bằng nghề chài lưới vùng hạ lưu sông Vàm Cỏ. Không rõ năm nào, lại dời lần nữa xuống làng Tân Thuận, tổng An Xuyên.(nay là xã Tân Tiến, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau).
Ông là con trưởng trong một gia đình có 8 người con. Lúc nhỏ, ông rất hiếu động, thích học võ nên khi lớn lên ông là người có thể lực khỏe mạnh, giỏi võ nghệ và là người có nhiều can đảm, mưu lược.
Làm Quản cơ
Tháng 2 năm 1859 Pháp nổ súng tấn công thành Gia Định. Vốn xuất thân là dân chài, nằm trong hệ thống lính đồn điền của kinh lược Nguyễn Tri Phương, nên ông sốt sắng theo và còn chiêu mộ được một số nông dân vào lính để gìn giữ Đại đồn Chí Hòa, dưới quyền chỉ huy của Trương Định.Nhờ chiến công đốt tàu L’Espérance ngày 10 tháng 12 năm 1861, ông được triều đình phong chức Quyền sung Quản đạo nên còn được gọi là Quản Chơn hay Quản Lịch. Trong sự nghiệp kháng thực dân Pháp của ông, có hai chiến công nổi bật, đã được danh sĩ Huỳnh Mẫn Đạt khen ngợi bằng hai câu thơ sau:
- Hỏa hồng Nhật Tảo oanh thiên đia
- Kiếm bạt Kiên Giang khấp quỷ thần.
- Sông Nhật Tảo lửa hồng rực cháy, tiếng vang trời đất,
Đồn Kiên Giang lưỡi kiếm tuốt ra, quỷ thần sợ khóc.
Hỏa hồng Nhật Tảo
- Bài chính: Trận Nhật Tảo
Vào khoảng sáng ngày 10 tháng 12 năm 1861, Nguyễn Trung Trực cùng Phó quản binh Huỳnh Khắc Nhượng, Tán quân Nguyễn Học, Võ Văn Quang và hương thôn Hồ Quang Chiêu...tổ chức cuộc phục kích đốt cháy tàu chiến này.
Trận này quân của Nguyễn Trung Trực đã diệt 17 lính và 20 cộng sự người Việt, chỉ có 8 người trốn thoát (2 lính Pháp và 6 lính Tagal, tức lính đánh thuê Philippines, cũng còn gọi là lính Ma Ní).
Lúc đó, viên sĩ quan chỉ huy tàu là trung úy hải quân Parfait không có mặt, nên sau khi hay tin dữ, Parfait đã dẫn quân tiếp viện đến đốt cháy nhiều nhà cửa trong làng Nhật Tảo để trả thù.
Theo sau chiến thắng vừa kể, nhiều cuộc tấn công quân Pháp trên sông, trên bộ đã liên tiếp diễn ra...
Kiếm bạt Kiên Giang
- Bài chính: Trận đồn Kiên Giang
Ở Kiên Giang, sau khi nắm được tình hình của đối phương và tập trung xong lực lượng (trong số đó có cả hương chức, nhân dân Việt - Hoa - Khmer); vào 4 giờ sáng ngày 16 tháng 6 năm 1868, Nguyễn Trung Trực bất ngờ dẫn quân từ Tà Niên (nay là xã Vĩnh Hòa Hiệp, huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang) đánh úp đồn Kiên Giang (nay là khu vực UBND tỉnh Kiên Giang), do Trung úy Sauterne chỉ huy.
Kết thúc trận, nghĩa quân chiếm được đồn, tiêu diệt được 5 viên sĩ quan Pháp, 67 lính, thu trên 100 khẩu súng cùng nhiều đạn dược và làm chủ tình hình được 5 ngày liền.
Đây là lần đầu tiên, lực lượng nghĩa quân đánh đối phương ngay tại trung tâm đầu não của tỉnh. Nhận tin Chủ tỉnh Rạch Giá cùng vài sĩ quan khác bị giết ngay tại trận, George Diirrwell gọi đây là một sự kiện bi thảm (un événement tragique).
Hai ngày sau (ngày 18 tháng 6 năm 1868), Thiếu tá hải quân A. Léonard Ausart, Đại úy Dismuratin, Trung úy hải quân Richard, Trung úy Taradel, Trần Bá Lộc, Tổng Đốc Phương nhận lệnh Bộ chỉ huy Pháp ở Mỹ Tho mang binh từ Vĩnh Long sang tiếp cứu. Ngày 21 tháng 6 năm 1868, Pháp phản công, ông phải lui quân về Hòn Chông (Kiên Lương, Kiên Giang) rồi ra đảo Phú Quốc, lập chiến khu tại Cửa Cạn nhằm kình chống đối phương lâu dài.
Ra Phú Quốc và bị bắt
- Bài chính: Trận Cửa Cạn
Nhà sử học Phạm Văn Sơn thuật chuyện:
- Hương chức và dân trên đảo bị đội Tấn dọa phải theo và phụ lực với hắn để bao vây bọn ông Trực. Sau hai trận ghê gớm, bọn ông Trực phải trốn vào trong núi. Đội Tấn rượt theo, nghĩa quân bị kẹt trong một khe núi nhỏ hẹp. Cùng đường, bọn ông Trực phải ra hàng...
- Nguyễn Trung Trực chịu nộp mạng, chỉ vì thiếu lương thực và vì mạng sống của bao nghĩa quân đang bị bao vây hàng tháng trời ròng rã tại Phú Quốc
Nhưng theo lời khai ít ỏi của Nguyễn Trung Trực khi ông bị giam cầm ở Khám Lớn Sài Gòn với Đại úy Piquet, thanh tra bổn quốc sự vụ, thì sự việc như thế này, trích biên bản hỏi cung:
- ...Tôi cho biết rõ rằng tôi đã tự ý quy thuận lãnh binh Tấn. Vì hắn đến đảo, hắn bảo viết thơ yêu cầu tôi quy hàng, vì chúng tôi bị bao vây trong núi không có gì để sống, tôi bảo một người dân trói tôi và dẫn tôi đến Tấn. Nếu tôi muốn tiếp tục chiến đấu, hắn không bắt tôi được dễ dàng như thế...
Thọ tử
Bắt được Nguyễn Trung Trực, Pháp đưa ông lên giam ở Khám Lớn Sài Gòn để lấy khẩu cung. Theo Việt sử tân biên, mặc dù Lãnh binh Tấn đã hết sức can thiệp để Pháp tha mạng cho ông Trực, nhưng Thống đốc Nam Kỳ G. Ohier không chịu. Vì cho rằng không thể tha được "một người đã không coi luật quốc tế ra gì, đã hạ một cái đồn của chúng ta và giết chết 30 người Pháp!" Và rồi ngày 27 tháng 10 năm 1868, nhà cầm quyền Pháp đã đưa ông Trực về lại Rạch Giá và sai một người khmer trên Tưa (người dân thường gọi ông là Bòn Tưa) đưa ông ra hành hình tại chợ Rạch Giá, hưởng dương khoảng 30 tuổi.Người ta kể rằng:
- Vào buổi sáng ngày 27 tháng 10 năm 1868, nhân dân Tà Niên nơi nổi tiếng về nghề dệt chiếu, và nhiều nơi khác đổ xô ra chợ Rạch Giá, vì Pháp đem Nguyễn Trung Trực ra hành quyết. Ông Trực yêu cầu Pháp mở trói, không bịt mắt để ông nhìn đồng bào và quê hương trước phút "ra đi". Bô lão làng Tà Niên đến vĩnh biệt ông, đã trải xuống đất một chiếc chiếu hoa có chữ "thọ"(chữ Hán) màu đỏ tươi thật đẹp cho ông bước đứng giữa. Ông hiên ngang, dõng dạc trước pháp trường, nhìn bầu trời, nhìn đất nước và từ giã đồng bào…
- Thư kiếm tùng nhưng tự thiếu niên,
- Yêu gian đàm khí hữu long tuyền,
- Anh hùng nhược ngộ vô dung địa.
- Bảo hận thâm cừu bất đái thiên.
- Theo việc binh nhưng thuở trẻ trai,
- Phong trần hăng hái tuốt gươm mài.
- Anh hùng gặp phải hồi không đất,
- Thù hận chang chang chẳng đội trời.
Câu nói lưu danh
Khi ông bị người Pháp giải về Sài Gòn, viên thống soái Nam Kỳ lúc bấy giờ vừa dụ hàng vừa hăm dọa, Nguyễn Trung Trực đã trả lời rằng:“ | Thưa Pháp soái, chúng tôi chắc rằng chừng nào ngài cho trừ hết cỏ trên mặt đất, thì mới may ra trừ tiệt được những người ái quốc của xứ sở này. | ” |
“ | Số phận tôi đã đầy đủ, tôi đã không thành công trong việc cứu nguy nước tôi, tôi chỉ xin một điều là người ta kết liễu đời tôi càng sớm càng tốt. | ” |
“ | Bao giờ Tây nhổ hết cỏ nước Nam mới hết người Nam đánh Tây | ” |
Khen ngợi
- "Nguyễn Văn Lịch tính thâm trầm, nghiêm nghị và can đảm…". (truyện Hồ Huân Nghiệp trong Kỳ Xuyên văn sao)
- Trong khi Đại úy hải quân Piquet, thanh tra bổn quốc sự vụ chất vấn ông Trực, ông Trực tỏ ra rất cương quyết và rất đàng hoàng chính đáng. Các câu trả lời của ông đã cho thấy một cách chính xác phẩm chất của con người đó, người đã đóng một vai trò đáng kể.
- Nguyễn Trung Trực là "người rất tự trọng, có tư cách đáng quý và đầy nghị lực", là " người có gương mặt thông minh và dễ có thiện cảm" là " một người chỉ huy trẻ tuổi, rất can đảm, chống nhau với ta ngót mười năm trời.
- Trong suốt thời kỳ bị giam cầm, ông Trực không có lúc nào tỏ ra yếu đuối cả, một cách thẳng thắng và đàng hoàng, ông công nhận các chiến công của ông và cũng nhận là đã khinh thường sức mạnh của Pháp. Ngoài ra, ông chỉ yêu cầu ban cho ông một ân huệ, ấy là được xử tử ông ngay tức khắc.
- Anh hùng cường cảnh phương danh thọ
- Tu sát đê đầu vị tử nhân.
- Anh hùng cứng cổ danh thơm mãi
- Lũ sống khom lưng chết thẹn dần
- Ký bi ngư nhân
- Hùng tại quốc sĩ
- Hỏa Nhựt Tảo thuyền
- Ðồ Kiên Giang lũy
- Ðịch khái đồng cừu
- Thân tiên tự thỉ
- Hiệu khí cổ kim
- Thử nhân nam tư
- Xích huyết hoàng sa
- Ô hô dĩ hi
- Huyết thực thiên thu
- Chương nhữ trung nghĩa.
- Thái Bạch dịch:
- 'Giỏi thay người chài
- Mạnh thay quốc sĩ
- Đốt thuyền Nhật Tảo,
- Phá lũy Kiên Giang.
- Thù nước chưa xong
- Thân sao đã mất
- Hiệu khí xưa nay
- Người nam tử ấy
- Máu đỏ, cát vàng
- Hỡi ơi thôi vậy
- Ngàn năm hương khói,
- Trung nghĩa còn đây.
Tưởng nhớ
Và khi người Pháp không còn cai trị Việt Nam, vào năm 1970, nhân dân địa phương đã lập tượng Nguyễn Trung Trực bằng đồng, màu đen đặt trước "chợ nhà lồng" Rạch Giá (cũ). Hiện nay, tượng thờ này được sơn lại màu nâu đỏ, và đã được di dời vào trong khuôn viên khu đền thờ của ông tại thành phố Rạch Giá. Năm 2000, người ta đã cho làm một tượng mới bằng cũng bằng đồng lớn hơn, màu xám, để thay thế, và khu "chợ nhà lồng" mà sau này nó còn có tên là "Khu thương mại", cũng đã di dời nơi khác để nơi đó trở thành công viên.
Nhiều tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long... nhân dân đã lập đền thờ ông và hằng năm đều có tổ chức lễ tưởng niệm trọng thể. (Đình Nguyễn Trung Trực tại Rạch Giá tổ chức lễ giỗ vào các ngày từ 27 đến 29 tháng 8 âm lịch. Đình và mộ nơi này đã được công nhận là di tích Lịch–Văn hóa cấp quốc gia vào ngày 06 tháng 12 năm 1989).
Tại huyện Tân Trụ, tỉnh Long An, nơi diễn ra trận "Hỏa hồng Nhựt Tảo oanh thiên địa" của Nguyễn Trung Trực đốt cháy tàu L’Esperance của Pháp (ngay cạnh Vàm sông Nhựt Tảo), chính quyền và nhân dân đã xây dựng và khánh thành Đền Tưởng niệm Nguyễn Trung Trực trên khu đất rộng 6 ha ngày 14/10/2010.
Gia quyến
Cha mẹ
Tương truyền, Nguyễn Trung Trực rất có hiếu với mẹ. Là con trưởng, hàng ngày ông phải đi đánh bắt cá để có tiền phụ giúp gia đình. Theo sách Hỏi đáp cuộc khởi nghĩa Nguyễn Trung Trực, lúc ông đến ở Tà Niên, chuẩn bị tấn công đồn Kiên Giang, ông đã đưa mẹ đến ẩn náu ở nhà ông Dương Công Thuyên ở chợ Rạch Giá. Đến khi rút Hòn Chông, ông cũng đưa mẹ đi theo. Chỉ đến khi vượt biển ra đảo Phú Quốc, ông mới đành phải để mẹ ở lại.Không bắt được ông, thực dân Pháp đã sai người bắt mẹ ông, rồi tìm mọi cách để bà viết thư khuyên con ra hàng, nhưng bà không nghe. Về sau, biết tin con ra hàng, bà tức giận thổ huyết mà chết. Nhưng có người lại nói rằng mẹ ông không bị quân Pháp bắt. Đây là chuyện bịa để buộc ông vì chữ hiếu mà ra hàng. Lúc Pháp tấn công Hòn Chông, thì bà đã đi lánh nạn ở đâu không rõ. Nhưng sau đó bà về ẩn náu ở Tân Thuận (nay là xã Tân Tiến, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau) rồi mất ở đó.
Cũng theo sách này, cha Nguyễn Trung Trực mất sớm, bỏ lại 8 người con khiến mẹ ông phải sớm hôm tảo tần vất vả. Nhưng theo câu chuyện còn lưu lại trong họ tộc cha ông Trực không mất sớm. Bởi sau khi Nguyễn Trung Trực bị bắt ở Phú Quốc, ông vẫn còn sống để đưa gia đình mình và gia đình của các nghĩa quân xuống ghe về ẩn náu ở Cà Mau. Khi chồng đi, bà Tô Kim Hồng (sách Hỏi đáp cuộc khởi nghĩa Nguyễn Trung Trực ghi là Lê Kim Hồng, tức mẹ ông Trực), vẫn còn ở lại Hòn Chông, trong sự quản thúc của chính quyền thực dân và bà đã mất ở đó. Mãi sau này hài cốt của bà mới được cải táng về nằm bên cạnh chồng ở Cà Mau. Hiện nay, hậu duệ của dòng họ Nguyễn Trung Trực đông đúc cả ngàn người, sống rải rác ở khắp nơi, nhưng tập trung đông nhất là ở hai xã Tân Đức và Tân Tiến, huyện Đầm Dơi.
Vợ con
Cũng theo lời kể thì ông có người vợ tên Điều (tục gọi là bà Đỏ. Có nguồn cho rằng bà Điều và bà Đỏ là hai chị em ruột chứ không phải một người), người làng Minh Lương (nay thuộc huyện Châu Thành, Kiên Giang). Bà Điều là người đã từng theo sát ông trong suốt thời gian chống Pháp ở Kiên Giang. Có lần bà đi do thám đồn Săn Đá ở Rạch Giá, bị đối phương bắt được, nhưng Nguyễn Trung Trực đến giải cứu kịp. Sau, bà bị bắt lần nữa, bị nhốt trong khám lớn Rạch Giá, mãi đến khi ông Trực đánh chiếm đồn bót trên (1868) mới giải thoát cho bà. Chưa rõ hai người có con hay không, bà đã hy sinh ở đâu và lúc nào.Khi ở đảo Phú Quốc, ông có thêm một vợ tên là Lê Kim Định (tục gọi bà Quan Lớn Tướng), sinh được một trai nhưng chết non. Hiện còn mộ và đền thờ của bà ở Cửa Cạn (Phú Quốc)... Theo lời kể, thì khi nghĩa quân bị vây khổn vào năm 1968, bà Định đã dùng ghe theo dòng sông Cửa Cạn để ra biển về đất liền. Nhưng chẳng may gặp đoạn sông bị cát lấp, ghe của bà bị mắc lại, không đi được. Kiệt sức, bà sinh non trong một đêm mưa bão, và rồi bị băng huyết mà chết. Hài nhi sinh non cũng chết theo. Có người tìm gặp cả hai thi hài, đem giấu vào một bọng cây. Đến khi yên ổn, người dân mới đem hài cốt hai mẹ con bà chôn cất tử tế tại bãi Ông Lang. Mộ bà được gọi là mộ Bà Lớn.
Trong biên bản hỏi cung khi ông Trực bị giam ở Khám Lớn Sài Gòn, có câu:...Số phận tôi đã đầy đủ, tôi đã không thành công trong việc cứu nguy nước tôi, tôi chỉ xin một điều là người ta kết liễu đời tôi càng sớm càng tốt và mong rằng người ta cho những đứa con của tôi lên Sài Gòn. Nếu căn cứ vào câu này, thì ông Trực có ít nhất hai ba đứa con, nhưng cuộc đời của họ sau này ra sao, không thấy tài liệu nào nói đến.
Ảnh
Xem thêm
- Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 16:28 ngày 24 tháng 4 năm 2015.
Tranh cãi về ngôi mộ trong đền Nguyễn Trung Trực
02/04/2014 09:00Hơn 27 năm sau khi hài cốt được cho là của anh hùng Nguyễn Trung Trực được đưa vào đền lập mộ, vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau từ phía các nhà nghiên cứu, lãnh đạo địa phương và đặc biệt là gia đình của vị anh hùng dân tộc này.
Qua chỉ dẫn của nhà văn Sơn Nam, năm 1986, Sở Văn hóa tỉnh Kiên Giang cho khai quật một ngôi mộ được cho là của vị anh hùng Nguyễn Trung Trực trong khuôn viên Tòa Bố cũ (nay là UBND tỉnh Kiên Giang) và đưa bộ hài cốt về chôn ở đền thờ Nguyễn Trung Trực ở thị xã Rạch Giá.
|
Trong đơn kiến nghị gửi Báo Thanh Niên, ông Nguyễn Khương Ninh viết: “Với điều kiện khoa học kỹ thuật hiện đại, các cơ quan hữu trách, các nhà khoa học cần phải tiến hành giám định chiếc hộp sọ trong đền thờ cụ Nguyễn hiện nay và bộ hài cốt được cho là của cụ Nguyễn Trung Trực đang đặt tại ngôi mộ trong khuôn viên đền. Nếu kết quả giám định xác định thực sự xương sọ, bộ hài cốt là của cụ Nguyễn Trung Trực thì là điều đáng mừng, rất tốt. Ngược lại, nếu không phải thì phải đưa hộp sọ ra khỏi đền thờ và bộ hài cốt ra khỏi ngôi mộ”.
Không chỉ ông Nguyễn Khương Ninh mà nhiều cán bộ đương chức lẫn về hưu của tỉnh Kiên Giang bày tỏ tha thiết cần xem xét, giám định lại hài cốt được cho là của Nguyễn Trung Trực. Ông Nguyễn Văn Cầu, nguyên Chủ tịch UBND tỉnh Kiên Giang, người chỉ đạo việc tìm kiếm, bốc dỡ hài cốt nói với phóng viên Thanh Niên: “Sau này tôi nghe có ý kiến nói hài cốt này không đúng, tôi đã đề nghị cho đi kiểm tra bộ xương cốt đó. Nhưng đến nay có làm hay không thì tôi không nghe báo”. Bức xúc hơn, ông Diệp Hoàng Du, Phó trưởng ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Kiên Giang, bày tỏ: “Theo truyền thống dân tộc, việc “thờ lộn” là không thể chấp nhận được. Nếu biết sai thì phải sửa sai. Từ trước đến giờ các vị thần thánh, anh hùng chỉ có hình thôi người ta vẫn tôn thờ, không hình người dân vẫn tôn thờ. Nguyễn Trung Trực là nhân vật lịch sử có thật, thì không thể để điều gì tồn tại sự giả dối được”. Ông Ngô Văn Huệ, Phó giám đốc Sở VH-TT-DL Kiên Giang đưa ý kiến: “Lịch sử thì phải là sự thật, chứ không thể nói méo mó được. Nếu cần thiết lật lại (vụ hài cốt - PV) thì phải có chứng minh khoa học đàng hoàng…”.
Một trong những người phản ứng mạnh mẽ việc vội vàng xác định ngôi mộ và hài cốt của Nguyễn Trung Trực là ông Nguyễn Tấn Thanh (nguyên Chủ tịch UBND tỉnh Kiên Giang, nay đã mất) và con trai là Nguyễn Tiến Dũng (lúc đó là cán bộ Công an tỉnh Kiên Giang). Sau 30.4.1975, ông Thanh được cấp nhà trong khuôn viên Dinh tham biện cũ của Pháp và ngôi mộ được khai quật nằm sát cạnh nhà của ông. Ông Thanh đã có văn bản gửi lãnh đạo tỉnh, trong đó nêu rõ ông cố của ông là đội trưởng nghĩa quân của Nguyễn Trung Trực. Ông Thanh kiến nghị phải giám định hài cốt và thẩm định lại những chi tiết còn nghi vấn. Thập niên 1980, khi khoa học giám định ở VN chưa phát triển, ông Thanh đã từng đề nghị đưa bộ hài cốt đi Đức giám định cho chính xác.
Biên bản giám định
Tháng 4.1986, khi tổ chức khai quật ngôi mộ dưới gốc một cây đa trong khuôn viên trụ sở UBND tỉnh Kiên Giang, đại diện Bảo tàng Kiên Giang đã mời ông Lê Trung Khá, cán bộ khảo cổ chuyên ngành nhân chủng học tại TP.HCM, tham gia giám định hài cốt. Tuy nhiên, những đánh giá của ông Khá lại cho nhiều tình tiết mâu thuẫn với lịch sử cuộc đời anh hùng Nguyễn Trung Trực. Từ độ tuổi đến trạng thái bộ xương tìm thấy đều phát sinh nghi vấn. Trong biên bản khai quật của Bảo tàng Kiên Giang, ông Khá đánh giá: “Xương tộc Việt, đàn ông. Người cao khoảng 1,60 m, người này khoảng 50 tuổi, bộ xương này đã chôn trên 100 năm…”.
Trong khi đó, nhiều tài liệu lịch sử ghi anh hùng Nguyễn Trung Trực bị Pháp xử chém đầu vào năm 1868, khi ông 30 tuổi. Theo lời ông Nguyễn Khương Ninh, để làm sáng tỏ sự việc, ông đã đến TP.HCM tìm gặp ông Lê Trung Khá. Ông Khá khẳng định hai biên bản của Bảo tàng Kiên Giang lập không ghi đúng nội dung giám định. Chính tay ông Khá đã viết hai biên bản giám định, một bản do ông giữ, còn một bản giao cho ông Dương Văn Truyện (lúc đó là Giám đốc Bảo tàng Kiên Giang). Ông Khá xác định nội dung giám định là: 7 đốt xương cổ và xương hàm của hài cốt còn nguyên, chứng tỏ người chết không bị chém đầu, xương sọ dày chứng tỏ giàu có ăn uống quá đầy đủ, còn nhiều chiếc răng bị mòn vẹt dính chất vôi, chứng tỏ người chết cao niên và có ăn trầu. Ông Khá xác định bộ hài cốt này không phải là hài cốt Nguyễn Trung Trực. Điều này có phần trùng khớp với lời kể của ông Nguyễn Văn Cầu. Theo ông Cầu thì sau lời chỉ dẫn của nhà văn Sơn Nam dẫn tới tìm ra bộ hài cốt, ông đã chỉ đạo cho bốc cốt lên để cải táng. Trong quá trình bốc cốt, ông trực tiếp có mặt tại hiện trường và thấy hài cốt “còn nguyên xương ống chân, xương hàm, sọ đầu…”.
Ông Nguyễn Khương Ninh cung cấp thêm tài liệu khai quật trong thời gian đó, theo ông là “có nhiều khuất tất” với 2 biên bản khai quật, nội dung có điểm khác nhau. Biên bản thứ nhất phần nội dung của ông Lê Trung Khá ghi tuổi của xương khai quật được là 50 tuổi. Thế nhưng biên bản thứ hai, tuổi được sửa còn 40 tuổi. Ông Ninh nói: “Rất đau đớn khi nhận một người lạ làm tổ tiên mình. Một vị anh hùng được dân tộc tôn thờ”, vì theo ông, đó là “sự xúc phạm ghê gớm không chỉ đối với người đã khuất, với gia tộc mà còn với cả người dân cả nước nói chung và người dân Nam bộ nói riêng”.
Quanh nội dung giám định của ông Lê Trung Khá, một nguyên lãnh đạo UBND tỉnh Kiên Giang cho biết thời điểm đó chưa có khái niệm giám định bộ hài cốt tìm được. Bản thân ông cũng “không mấy tin” ông Lê Trung Khá vì ông Khá chỉ đánh giá bằng mắt thường, không thể nói là tuyệt đối chính xác. “Chưa có tài liệu nào khẳng định đầu và thân thể Nguyễn Trung Trực không được chôn cùng một nơi”, vị này nói. Lúc đó, theo vị này thì căn cứ được cho là có giá trị nhất dẫn đến việc tìm kiếm hài cốt là từ chỉ dẫn của nhà văn Sơn Nam.
Nhà văn Sơn Nam đã nhầm ?
Tuy nhiên, ngay cả chỉ dẫn của nhà văn Sơn Nam cũng gặp phải nhiều ý kiến hoài nghi. Về thông tin vị trí ngôi mộ được cho là của Nguyễn Trung Trực, ngày 15.10.1986 nhà văn Sơn Nam đã viết tờ cam kết như sau: “Năm 1943 - 1944 tôi có làm thư ký ở Tòa Bố Rạch Giá. Vì tò mò tôi có tìm hiểu về Nguyễn Trung Trực, nhất là nơi chôn hài cốt. Tên Phó Tham biện bấy giờ là Roger Lucas, có nhà riêng ở khuôn viên Tòa Bố, nói nhiều lần với tôi rằng xác của Nguyễn Trung Trực chôn ở sát bên Tòa Bố, tức là chỗ mà tôi đã chỉ rõ để khai quật. Tòa Bố thời pháp, từ năm 1880 về sau xây không chính xác đúng nền Tòa Bố cũ. Vì vậy Tòa Bố sau có vách đá kiểu đồn lính, lại sát kề bên mộ. Giặc giữ xác Nguyễn Trung Trực sát đồn, sợ nghĩa quân lén đào xới đem chôn nơi khác rồi khởi nghĩa lần nhì. Hoặc nghĩa quân cho rằng người bị giặc chém là Nguyễn Trung Trực giả. Chúng chém công khai để xác nhận sự thật…”.
Đây không phải lần đầu tiên nhà văn Sơn Nam xác định Pháp chôn thi hài Nguyễn Trung Trực trong Tòa Bố. Năm 1968, Tập san Sử Địa của Đại học Sư phạm Sài Gòn ra số đặc biệt kỷ niệm 100 năm ngày mất của Nguyễn Trung Trực. Trong tạp chí này nhà văn Sơn Nam đã viết: “Điều rắc rối nhất là nơi chôn thi hài ông Nguyễn Trung Trực. Thuở ấy, để tránh chuyện cướp thi hài, chắc bọn Pháp chẳng dám đem chôn ở ngoại ô. Chúng đem chôn trong vùng gần đồn để dễ kiểm soát. Cấm không cho ai lại gần. Hồi năm 1944, một dạo chúng tôi làm thư ký Tòa Bố Rạch Giá tình cờ được nghe tên chủ tỉnh Maxime Vialar nói với người thơ ký phụ trách việc cơ mật: “Mộ Nguyễn Trung Trực ở sát gốc cây đa đàng kia. Đừng cho lính mã tà dẫn tội (phạm nhân - PV) tới làm cỏ gần đó”. Cây đa này ở sau Tòa Bố, trên khoảng đất trống giữa Tòa Bố và Dinh chủ tỉnh”.
So sánh các đoạn trích trên chúng ta thấy có mấy sự khác nhau giữa những gì Sơn Nam viết năm 1968 và 1986 như sau: về nguồn tin, hoàn cảnh tiếp cận thông tin ngôi mộ, trong tờ cam kết nhà văn Sơn Nam viết Phó Tham biện Roger Lucas, …, nói nhiều lần với tôi. Nhưng trong bài báo ông lại viết là tình cờ được nghe tên chủ tỉnh Maxime Vialar nói với người thơ ký phụ trách việc cơ mật. Về vị trí ngôi mộ, khi thì ông cho là ở sát bên Tòa Bố, khi thì cho là ở sát gốc cây đa đàng kia. Cây đa này ở sau Tòa Bố, trên khoảng đất trống giữa Tòa Bố và Dinh chủ tỉnh. Khi lại cho là nơi mấy cây đa trong vòng rào Tòa Bố.
Một nguyên lãnh đạo khác của UBND Kiên Giang nhớ lại: “Lúc đầu là xác định “có thể” là hài cốt của Nguyễn Trung Trực. Nguyện vọng của tôi cũng như của Đảng bộ lúc đó là tìm được hài cốt về thờ cúng, chứ không có ý gì khác1.Còn nếu sau này có bộ xương cốt nào khác được xác định chính xác là của Nguyễn Trung Trực, hoặc có nhận định gì khác thuyết phục thì sẵn sàng thay đổi. Ở đây không có gì cố chấp cả”.
Thế nhưng, đến nay, 28 năm, sau nhiều phản ứng liên tục của con cháu vị anh hùng Nguyễn Trung Trực, có giới nghiên cứu, các nhà lãnh đạo lão thành lẫn đương nhiệm, vụ việc thực hư hài cốt cụ Nguyễn Trung Trực vẫn chưa được sáng tỏ. Trong khi, có thông tin đang lập dự án nâng cấp ngôi mộ này với số tiền đầu tư không nhỏ khiến nhiều người thêm bức xúc.
Anh hùng Nguyễn Trung Trực nổi tiếng với hai chiến công
oanh liệt đốt tàu Espérance trên sông Nhật Tảo và đánh chiếm đồn Rạch
Giá. Theo tài liệu lịch sử, Nguyễn Trung Trực bị Pháp bắt và chém đầu
tại chợ Rạch Giá. Truyền thuyết cho rằng Pháp đã bêu đầu ông tại chợ để
thị uy nhưng đang đêm có người bí mật cướp mất. Không tài liệu nào xác
định thi thể Nguyễn Trung Trực được chôn ở đâu. Chỉ có một số giả thiết
là được chôn nơi kín đáo, bí mật vì Pháp sợ người dân khai quật hài cốt
cụ, làm biểu tượng tiếp tục khởi nghĩa. Cũng có thông tin cho rằng Pháp
chôn hài cốt của Nguyễn Trung Trực trong dinh Tham biện, cho đóng cọc và
xiềng xích xung quanh. Nhiều đêm Nguyễn Trung Trực hiển linh rung xiềng
xích vang động làm giặc kinh hoàng. Và thêm giả thiết thi hài Nguyễn
Trung Trực được chôn trong khuôn viên Tòa Bố (Dinh tỉnh trưởng) thời
đó... |
Anh Kiệt - Tiến Trình
Chi tiết xúc động khi Nguyễn Trung Trực ra pháp trường
(Kiến Thức) - Nguyễn Trung Trực hiên ngang dõng dạc trước pháp trường, nhìn bầu trời, nhìn đất nước và giã từ đồng bào.
Khoảng cuối tháng 9/1868, Nguyễn Trung Trực bị địch bắt.
Sau khi ông bị hành hình, dân chúng khâm phục và cảm thương vô cùng đã
bí mật thờ ông như một vị anh hùng trong đền thờ Nam Hải đại vương, là
ngôi đền thờ Nguyễn Trung Trực tại TP Rạch Giá hiện nay.
Giỏi thay người chài...
Người
đời truyền rằng, vào buổi sáng 27/10/1868, nhân dân Tà Niên, nơi nổi
tiếng về nghề dệt chiếu và nhiều nơi khác đổ xô ra chợ Rạch Giá vì thực
dân Pháp đem Nguyễn Trung Trực ra hành quyết ở đây. Nguyễn
Trung Trực yêu cầu thực dân Pháp mở trói, không bịt mắt để nhìn đồng bào
và quê hương trước phút ra đi. Bô lão làng Tà Niên đến vĩnh biệt ông,
đã trải xuống đất một chiếc chiếu hoa có chữ thọ (chữ Hán) màu đỏ tươi
thật đẹp cho ông bước đứng giữa. Nguyễn Trung Trực hiên ngang dõng dạc
trước pháp trường, nhìn bầu trời, nhìn đất nước và giã từ đồng bào.
Trước
khi bị hành quyết, Nguyễn Trung Trực đã ngâm một bài thơ: "Thư kiếm tùng
nhưng tự thiếu niên - Yêu gian đàm khí hữu long tuyền - Anh hùng nhược
ngộ vô dung địa - Bảo hận thâm cừu bất đái thiên".
Thi sĩ
Đông Hồ dịch: "Theo việc binh nhưng thuở trẻ trai - Phong trần hăng hái
tuốt gươm mài - Anh hùng gặp phải hồi không đất - Thù hận chang chang
chẳng đội trời".
Được
tin Nguyễn Trung Trực thọ tử, vua Tự Đức sai hoàng giáp Lê Khắc Cẩn làm
lễ truy điệu, đọc bài điếu với chính bút ngự rằng: “Giỏi thay người
chài - Mạnh thay quốc sĩ - Đốt thuyền Nhật Tảo - Phá luỹ Kiên Giang -
Thù nước chưa xong- Thân sao đã mất - Hiệu khí xưa nay - Người nam tử ấy
- Máu đỏ cát vàng - Hỡi ôi thôi vậy - Ngàn năm hương khói - Trung nghĩa
còn đây".
Vua Tự
Đức đã sắc phong ông làm Thượng Đẳng Linh Thần, thờ tại làng Vĩnh Thanh
Vân, Rạch Giá, nơi ông đã hiên ngang thà chịu chết chứ không chịu đầu
hàng thực dân Pháp. Đã rất nhiều năm qua, dân làng Vĩnh Thanh Vân, nhất
là những ngư dân luôn tôn kính và tự hào về Nguyễn Trung Trực,
một người xuất thân từ giới dân chài, áo vải vậy mà đã trở thành một vị
anh hùng đúng với nghĩa: "Sống làm tướng và chết làm thần và anh khí
như hồng, nghĩa là khí tiết của người anh hùng rực rỡ như cầu vồng bẩy
sắc".
Khắp nơi lập đền thờ
Danh sĩ
Huỳnh Mẫn Đạt (1807 - 1882) vị quan nhà Nguyễn trong bài điếu Nguyễn
Trung Trực, bằng tuyệt bút của mình đã thể hiện khá đầy đủ nhân cách và
hai chiến công của Nguyễn Trung Trực bằng hai câu thơ: “Hoả hồng Nhựt
Tảo oanh thiên địa- Kiếm bạt Kiên Giang khấp quỷ thần”. Thái Bạch dịch:
“Lửa bừng Nhật Tảo rêm trời đất - Kiếm tuốt Kiên Giang rợn quỷ thần”.
Sau khi
ông bị hành hình, dân chúng khâm phục và cảm thương vô cùng đã bí mật
thờ ông như một vị anh hùng trong đền thờ Nam Hải đại vương, là ngôi đền
thờ Nguyễn Trung Trực tại TP Rạch Giá hiện nay.
Vào năm
1970, nhân dân địa phương đã lập tượng Nguyễn Trung Trực bằng đồng màu
đen đặt trước Chợ nhà lồng Rạch Giá cũ. Hiện nay, tượng thờ này được sơn
lại màu nâu đỏ và đã được di dời vào trong khuôn viên khu đền thờ của
ông tại TP Rạch Giá.
Nhiều
tỉnh thuộc đồng bằng sông Cửu Long, nhân dân đã lập đền thờ Nguyễn Trung
Trực và hằng năm đều tổ chức lễ tưởng niệm trọng thể. Đình Nguyễn Trung
Trực tại Rạch Giá tổ chức lễ giỗ vào các ngày từ 27 - 28/8 âm lịch.
Đình và mộ nơi này đã được công nhận là di tích Lịch sử văn hóa cấp quốc
gia vào ngày 6/12/1989 (về hài cốt và mộ phần của Nguyễn Trung Trực,
còn nhiều ý kiến khác nhau).
Tại
huyện Tân Trụ, tỉnh Long An, nơi diễn ra trận “Hoả hồng Nhựt Tảo oanh
thiên địa” của Nguyễn Trung Trực, chính quyền và nhân dân đã xây dựng và
khánh thành Đền tưởng niệm Nguyễn Trung Trực ngày 14/10/2010.
Hiện
nay, hậu duệ của dòng họ Nguyễn Trung Trực đông đúc cả ngàn người sống
rải rác khắp nơi, nhưng đông đúc nhất là ở hai xã Tân Đức và Tân Tiến
huyện Đầm Dơi.
TS Nguyễn Thành Hữu
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét