Tượng Nguyễn Trung Trực tại sân đền thờ chính ở TP Rạch Giá.
Nguyễn Trung Trực (
chữ Hán: 阮忠直;
1839–
1868) là thủ lĩnh phong trào khởi nghĩa chống
Pháp vào nửa cuối
thế kỷ 19 ở
Nam Bộ,
Việt Nam.
Thân thế và sự nghiệp
Là dân chài
Sinh ra dưới thời
Minh Mạng, thuở nhỏ ông có tên là
Chơn. Từ năm
Kỷ Mùi (
1859) đổi là
Lịch (
Nguyễn Văn Lịch, nên còn được gọi là
Năm Lịch), và cũng từ tên
Chơn ấy cộng với tính tình ngay thật, nên ông được thầy dạy học đặt thêm tên hiệu là
Trung Trực.
Nguyên quán gốc Nguyễn Trung Trực ở xóm Lưới, thôn Vĩnh Hội, tổng
Trung An, huyện Phù Cát, trấn Bình Định (ngày nay là thôn Vĩnh Hội, xã
Cát Hải, huyện Phù Cát). Ông nội là Nguyễn Văn Đạo, cha là Nguyễn Văn
Phụng (hoặc Nguyễn Cao Thăng), mẹ là bà Lê Kim Hồng.
Sau khi hải quân Pháp nhiều lần bắn phá duyên hải Trung Bộ, gia đình
ông phải phiêu bạt vào Nam, định cư ở xóm Nghề (một xóm trước đây chuyên
nghề chài lưới), làng Bình Nhựt, tổng Cửu Cư Hạ, huyện Cửu An, Phủ Tân
An (nay thuộc xã Thạnh Đức, huyện
Bến Lức, tỉnh
Long An)
và sinh sống bằng nghề chài lưới vùng hạ lưu sông Vàm Cỏ. Không rõ năm
nào, lại dời lần nữa xuống làng Tân Thuận, tổng An Xuyên.(nay là xã Tân
Tiến, huyện
Đầm Dơi, tỉnh
Cà Mau).
Ông là con trưởng trong một gia đình có 8 người con. Lúc nhỏ, ông rất
hiếu động, thích học võ nên khi lớn lên ông là người có thể lực khỏe
mạnh, giỏi võ nghệ và là người có nhiều can đảm, mưu lược.
Làm Quản cơ
Tháng 2 năm
1859 Pháp nổ súng tấn công thành
Gia Định. Vốn xuất thân là dân chài, nằm trong hệ thống lính đồn điền của kinh lược
Nguyễn Tri Phương, nên ông sốt sắng theo và còn chiêu mộ được một số nông dân vào lính để gìn giữ
Đại đồn Chí Hòa, dưới quyền chỉ huy của
Trương Định.
Nhờ chiến công đốt tàu
L’Espérance ngày
10 tháng 12 năm
1861, ông được triều đình phong chức
Quyền sung Quản đạo nên còn được gọi là
Quản Chơn hay
Quản Lịch. Trong sự nghiệp kháng
thực dân Pháp của ông, có hai chiến công nổi bật, đã được danh sĩ
Huỳnh Mẫn Đạt khen ngợi bằng hai câu thơ sau:
- Hỏa hồng Nhật Tảo oanh thiên đia
- Kiếm bạt Kiên Giang khấp quỷ thần.
Thái Bạch dịch:
- Sông Nhật Tảo lửa hồng rực cháy, tiếng vang trời đất,
Đồn Kiên Giang lưỡi kiếm tuốt ra, quỷ thần sợ khóc.
Hỏa hồng Nhật Tảo
Sau khi
Đại đồn Chí Hòa thất thủ ngày
25 tháng 2 năm
1861, Nguyễn Trung Trực về Tân An. Đến ngày
12 tháng 4 năm
1861,
thành Định Tường
thất thủ, quân Pháp kiểm soát vùng Mỹ Tho, thường cho những tàu chiến
vừa chạy tuần tra vừa làm đồn nổi di động. Một trong số đó là chiếc tiểu
hạm
Espérance (
Hy Vọng), án ngữ nơi vàm Nhựt Tảo (nay thuộc xã An Nhựt Tân, huyện
Tân Trụ, tỉnh
Long An).
Vào khoảng sáng ngày
10 tháng 12 năm
1861, Nguyễn Trung Trực cùng Phó quản binh Huỳnh Khắc Nhượng, Tán quân Nguyễn Học, Võ Văn Quang và hương thôn Hồ Quang Chiêu...tổ chức cuộc phục kích đốt cháy tàu chiến này.
Trận này quân của Nguyễn Trung Trực đã diệt 17 lính và 20 cộng sự
người Việt, chỉ có 8 người trốn thoát (2 lính Pháp và 6 lính Tagal, tức
lính đánh thuê Philippines, cũng còn gọi là lính Ma Ní).
Lúc đó, viên sĩ quan chỉ huy tàu là trung úy hải quân Parfait không
có mặt, nên sau khi hay tin dữ, Parfait đã dẫn quân tiếp viện đến đốt
cháy nhiều nhà cửa trong làng
Nhật Tảo để trả thù.
Theo sau chiến thắng vừa kể, nhiều cuộc tấn công quân Pháp trên sông, trên bộ đã liên tiếp diễn ra...
Kiếm bạt Kiên Giang
Tượng đài Nguyễn Trung Trực tại công viên trung tâm thành phố Rạch Giá
Sau lần đốt được tàu L’Espérance của Pháp, Nguyễn Trung Trực cùng nghĩa quân tiếp tục chiến đấu qua lại trên các địa bàn
Gia Định,
Biên Hòa. Khi
Hòa ước Nhâm Tuất 1862 được ký, ba tỉnh miền Đông lọt vào tay
thực dân Pháp, Nguyễn Trung Trực nhận chức Lãnh binh, đưa quân về hoạt động ở ba tỉnh miền Tây. Đầu năm 1867, ông được triều đình phong chức
Hà Tiên thành thủ úy[8] để trấn giữ đất
Hà Tiên, nhưng ông chưa kịp đến nơi thì tòa thành này đã bị quân Pháp chiếm mất vào ngày
24 tháng 6 năm
1867. Không theo lệnh triều đình rút quân ra
Bình Thuận, Nguyễn Trung Trực đem quân về lập mật khu ở Sân chim (tả ngạn sông Cái Lớn, huyện
An Biên, tỉnh Kiên Giang). Từ nơi này, ông lại dẫn quân đến Hòn Chông (nay thuộc xã Bình An, huyện
Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang, lập thêm căn cứ kháng Pháp.
Ở Kiên Giang, sau khi nắm được tình hình của đối phương và tập trung
xong lực lượng (trong số đó có cả hương chức, nhân dân Việt -
Hoa -
Khmer); vào 4 giờ sáng ngày
16 tháng 6 năm
1868,
Nguyễn Trung Trực bất ngờ dẫn quân từ Tà Niên (nay là xã Vĩnh Hòa Hiệp,
huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang) đánh úp đồn Kiên Giang (nay là khu
vực UBND tỉnh Kiên Giang), do Trung úy Sauterne chỉ huy.
Kết thúc trận, nghĩa quân chiếm được đồn, tiêu diệt được 5 viên sĩ
quan Pháp, 67 lính, thu trên 100 khẩu súng cùng nhiều đạn dược và làm
chủ tình hình được 5 ngày liền.
Đây là lần đầu tiên, lực lượng nghĩa quân đánh đối phương ngay tại
trung tâm đầu não của tỉnh. Nhận tin Chủ tỉnh Rạch Giá cùng vài sĩ quan
khác bị giết ngay tại trận, George Diirrwell gọi đây là
một sự kiện bi thảm (un événement tragique).
Hai ngày sau (ngày
18 tháng 6 năm 1868), Thiếu tá hải quân A. Léonard Ausart, Đại úy Dismuratin, Trung úy hải quân Richard, Trung úy Taradel,
Trần Bá Lộc,
Tổng Đốc Phương nhận lệnh Bộ chỉ huy Pháp ở
Mỹ Tho mang binh từ
Vĩnh Long sang tiếp cứu. Ngày
21 tháng 6 năm 1868, Pháp phản công, ông phải lui quân về Hòn Chông (
Kiên Lương, Kiên Giang) rồi ra đảo Phú Quốc, lập chiến khu tại Cửa Cạn nhằm kình chống đối phương lâu dài.
Ra Phú Quốc và bị bắt
- Bài chính: Trận Cửa Cạn
Tháng 9 năm
1868, chiếc tàu Groeland chở
Lãnh Binh Tấn
(tức Huỳnh Văn Tấn, còn được gọi Huỳnh Công Tấn, trước có quen biết ông
Trực vì cùng theo Trương Định kháng Pháp. Sau này, Tấn trở thành cộng
sự cho Pháp), cùng 150 lính ở Gò Công đến đảo Phú Quốc để bao vây và
truy đuổi ông Trực.
Nhà sử học
Phạm Văn Sơn thuật chuyện:
- Hương chức và dân trên đảo bị đội Tấn dọa phải theo và phụ lực
với hắn để bao vây bọn ông Trực. Sau hai trận ghê gớm, bọn ông Trực phải
trốn vào trong núi. Đội Tấn rượt theo, nghĩa quân bị kẹt trong một khe
núi nhỏ hẹp. Cùng đường, bọn ông Trực phải ra hàng...
Giám đốc Sở nội vụ Paulin Vial viết:
- Nguyễn Trung Trực chịu nộp mạng, chỉ vì thiếu lương thực và vì
mạng sống của bao nghĩa quân đang bị bao vây hàng tháng trời ròng rã tại
Phú Quốc
Nhưng có người lại cho rằng để bảo toàn lực lượng nghĩa quân, nhân dân trên đảo và lòng hiếu với mẹ (
Pháp đã bắt mẹ của ông để uy hiếp), Nguyễn Trung Trực tự ra nộp mình cho người Pháp và đã bị đưa về giam ở Sài Gòn.
Nhưng theo lời khai ít ỏi của Nguyễn Trung Trực khi ông bị giam cầm ở
Khám Lớn Sài Gòn với Đại úy Piquet, thanh tra bổn quốc sự vụ, thì sự việc như thế này, trích biên bản hỏi cung:
- ...Tôi cho biết rõ rằng tôi đã tự ý quy thuận lãnh binh Tấn. Vì
hắn đến đảo, hắn bảo viết thơ yêu cầu tôi quy hàng, vì chúng tôi bị bao
vây trong núi không có gì để sống, tôi bảo một người dân trói tôi và dẫn
tôi đến Tấn. Nếu tôi muốn tiếp tục chiến đấu, hắn không bắt tôi được dễ
dàng như thế...
Rất tiếc bản cáo của lãnh binh Tấn gửi cho thống đốc Nam kỳ về "việc
bắt Nguyễn Trung trực và Tống binh Cân" đã bị thất lạc từ ngày
23 tháng 5 năm 1950, vì thế sự việc chưa được tường tận.
Thọ tử
Bắt được Nguyễn Trung Trực, Pháp đưa ông lên giam ở
Khám Lớn Sài Gòn để lấy khẩu cung. Theo
Việt sử tân biên, mặc dù Lãnh binh Tấn đã hết sức can thiệp để Pháp tha mạng cho ông Trực, nhưng
Thống đốc Nam Kỳ
G. Ohier không chịu. Vì cho rằng không thể tha được "một người đã không
coi luật quốc tế ra gì, đã hạ một cái đồn của chúng ta và giết chết 30
người Pháp!" Và rồi ngày
27 tháng 10
năm 1868, nhà cầm quyền Pháp đã đưa ông Trực về lại Rạch Giá và sai một
người khmer trên Tưa (người dân thường gọi ông là Bòn Tưa) đưa ông ra
hành hình tại chợ
Rạch Giá, hưởng dương khoảng 30 tuổi.
Người ta kể rằng:
- Vào buổi sáng ngày 27 tháng 10 năm 1868, nhân dân Tà Niên
nơi nổi tiếng về nghề dệt chiếu, và nhiều nơi khác đổ xô ra chợ Rạch
Giá, vì Pháp đem Nguyễn Trung Trực ra hành quyết. Ông Trực yêu cầu Pháp
mở trói, không bịt mắt để ông nhìn đồng bào và quê hương trước phút "ra
đi". Bô lão làng Tà Niên đến vĩnh biệt ông, đã trải xuống đất một chiếc
chiếu hoa có chữ "thọ"(chữ Hán)
màu đỏ tươi thật đẹp cho ông bước đứng giữa. Ông hiên ngang, dõng dạc
trước pháp trường, nhìn bầu trời, nhìn đất nước và từ giã đồng bào…
Tương truyền, trước khi bị hành quyết Nguyễn Trung Trực đã ngâm một bài thơ:
- Thư kiếm tùng nhưng tự thiếu niên,
- Yêu gian đàm khí hữu long tuyền,
- Anh hùng nhược ngộ vô dung địa.
- Bảo hận thâm cừu bất đái thiên.
Thi sĩ
Đông Hồ dịch:
- Theo việc binh nhưng thuở trẻ trai,
- Phong trần hăng hái tuốt gươm mài.
- Anh hùng gặp phải hồi không đất,
- Thù hận chang chang chẳng đội trời.
Đền thờ Nguyễn Trung Trực ở Phú Quốc.
Câu nói lưu danh
Khi ông bị người Pháp giải về
Sài Gòn, viên thống soái Nam Kỳ lúc bấy giờ vừa dụ hàng vừa hăm dọa, Nguyễn Trung Trực đã trả lời rằng:
“ |
Thưa Pháp
soái, chúng tôi chắc rằng chừng nào ngài cho trừ hết cỏ trên mặt đất,
thì mới may ra trừ tiệt được những người ái quốc của xứ sở này. |
” |
Khi bị giam ở
Khám Lớn Sài Gòn, ông cũng đã bình tĩnh nói với người hỏi cung là Đại úy Piquet:
“ |
Số phận tôi
đã đầy đủ, tôi đã không thành công trong việc cứu nguy nước tôi, tôi
chỉ xin một điều là người ta kết liễu đời tôi càng sớm càng tốt. |
” |
Và trước khi hy sinh, ông còn khẳng khái nhắc lại:
“ |
Bao giờ Tây nhổ hết cỏ nước Nam mới hết người Nam đánh Tây |
” |
Khen ngợi
Mộ Nguyễn Trung Trực trong khuôn viên đền thờ chính tại Rạch Giá
Danh sĩ
Nguyễn Thông viết:
- "Nguyễn Văn Lịch tính thâm trầm, nghiêm nghị và can đảm…". (truyện Hồ Huân Nghiệp trong Kỳ Xuyên văn sao)
Paulin Vial kể:
- Trong khi Đại úy hải quân Piquet, thanh tra bổn quốc sự vụ chất
vấn ông Trực, ông Trực tỏ ra rất cương quyết và rất đàng hoàng chính
đáng. Các câu trả lời của ông đã cho thấy một cách chính xác phẩm chất
của con người đó, người đã đóng một vai trò đáng kể.
Ở đoạn văn khác, Paulin Vial khen ngợi:
- Nguyễn Trung Trực là "người rất tự trọng, có tư cách đáng quí và
đầy nghị lực", là " người có gương mặt thông minh và dễ có thiện cảm" là
" một người chỉ huy trẻ tuổi, rất can đảm, chống nhau với ta ngót mười
năm trời.
Alfred Schreiner cho biết:
- Trong suốt thời kỳ bị giam cầm, ông Trực không có lúc nào tỏ ra
yếu đuối cả, một cách thẳng thắng và đàng hoàng, ông công nhận các chiến
công của ông và cũng nhận là đã khinh thường sức mạnh của Pháp. Ngoài
ra, ông chỉ yêu cầu ban cho ông một ân huệ, ấy là được xử tử ông ngay
tức khắc.
Trong một bài thơ điếu, Huỳnh Mẫn Đạt có câu:
- Anh hùng cường cảnh phương danh thọ
- Tu sát đê đầu vị tử nhân.
Dịch nghĩa:
- Anh hùng cứng cổ danh thơm mãi
- Lũ sống khom lưng chết thẹn dần
Tương truyền, được tin ông thọ tử, vua
Tự Ðức sai hoàng giáp Lê Khắc Cẩn làm lễ truy điệu, đọc bài điếu với chính bút ngự rằng:
- Ký bi ngư nhân
- Hùng tại quốc sĩ
- Hỏa Nhựt Tảo thuyền
- Ðồ Kiên Giang lũy
- Ðịch khái đồng cừu
- Thân tiên tự thỉ
- Hiệu khí cổ kim
- Thử nhân nam tư
- Xích huyết hoàng sa
- Ô hô dĩ hi
- Huyết thực thiên thu
- Chương nhữ trung nghĩa.
|
- Thái Bạch dịch:
- 'Giỏi thay người chài
- Mạnh thay quốc sĩ
- Đốt thuyền Nhật Tảo,
- Phá lũy Kiên Giang.
- Thù nước chưa xong
- Thân sao đã mất
- Hiệu khí xưa nay
- Người nam tử ấy
- Máu đỏ, cát vàng
- Hỡi ơi thôi vậy
- Ngàn năm hương khói,
- Trung nghĩa còn đây.
|
Và cúng chính nhà vua này đã sắc phong ông làm
Thượng Ðẳng Linh Thần,
thờ tại làng Vĩnh Thanh Vân, Rạch Giá nơi ông đã hiên ngang thà chịu
chết chớ không chịu đầu hàng Pháp. Đã rất nhiều năm qua, dân làng Vĩnh
Thanh Vân, nhất là những ngư dân, luôn tôn kính và tự hào về Nguyễn
Trung Trực, một người xuất thân từ giới dân chài áo vải, vậy mà đã trở
thành một vị anh hùng, đúng với ý nghĩa: "Sống làm Tướng và chết làm
Thần!" và "anh khí như hồng", nghĩa là khí tiết của người anh hùng rực
rỡ như cầu vồng bảy sắc.
Tưởng nhớ
Tượng Nguyễn Trung Trực tại Phú Quốc, nơi ông bị Pháp bắt
Sau khi ông bị hành hình, dân chúng cảm thương vô cùng nên đã bí mật
thờ ông như một vị anh hùng trong đền thờ Nam Hải đại vương (cá Ông hay
cá Voi), chính là ngôi đền thờ Nguyễn Trung Trực tại thành phố Rạch Giá
hiện nay.
Và khi người Pháp không còn cai trị Việt Nam, vào năm 1970, nhân dân
địa phương đã lập tượng Nguyễn Trung Trực bằng đồng, màu đen đặt trước
"chợ nhà lồng" Rạch Giá (cũ). Hiện nay, tượng thờ này được sơn lại màu
nâu đỏ, và đã được di dời vào trong khuôn viên khu đền thờ của ông tại
thành phố Rạch Giá. Năm 2000, người ta đã cho làm một tượng mới bằng
cũng bằng đồng lớn hơn, màu xám, để thay thế, và khu "chợ nhà lồng" mà
sau này nó còn có tên là "Khu thương mại", cũng đã di dời nơi khác để
nơi đó trở thành công viên.
Nhiều tỉnh thuộc đồng bằng
sông Cửu Long... nhân dân đã lập đền thờ ông và hằng năm đều có tổ chức lễ tưởng niệm trọng thể. (Đình Nguyễn Trung Trực tại
Rạch Giá
tổ chức lễ giỗ vào các ngày từ 27 đến 29 tháng 8 âm lịch. Đình và mộ
nơi này đã được công nhận là di tích Lịch–Văn hóa cấp quốc gia vào ngày
06 tháng 12 năm 1989).
Tại huyện Tân Trụ, tỉnh Long An, nơi diễn ra trận "Hỏa hồng Nhựt Tảo
oanh thiên địa" của Nguyễn Trung Trực đốt cháy tàu L’Esperance của Pháp
(ngay cạnh Vàm sông Nhựt Tảo), chính quyền và nhân dân đã xây dựng và
khánh thành Đền Tưởng niệm Nguyễn Trung Trực trên khu đất rộng 6 ha ngày
14/10/2010.
Gia quyến
Cha mẹ
Tương truyền, Nguyễn Trung Trực rất có hiếu với mẹ. Là con trưởng,
hàng ngày ông phải đi đánh bắt cá để có tiền phụ giúp gia đình. Theo
sách
Hỏi đáp cuộc khởi nghĩa Nguyễn Trung Trực, lúc ông đến ở Tà
Niên, chuẩn bị tấn công đồn Kiên Giang, ông đã đưa mẹ đến ẩn náu ở nhà
ông Dương Công Thuyên ở chợ Rạch Giá. Đến khi rút Hòn Chông, ông cũng
đưa mẹ đi theo. Chỉ đến khi vượt biển ra đảo Phú Quốc, ông mới đành phải
để mẹ ở lại.
Không bắt được ông, thực dân Pháp đã sai người bắt mẹ ông,
rồi tìm mọi cách để bà viết thư khuyên con ra hàng, nhưng bà không
nghe. Về sau, biết tin con ra hàng, bà tức giận thổ huyết mà chết. Nhưng
có người lại nói rằng mẹ ông không bị quân Pháp bắt. Đây là chuyện bịa
để buộc ông vì chữ hiếu mà ra hàng. Lúc Pháp tấn công Hòn Chông, thì bà
đã đi lánh nạn ở đâu không rõ. Nhưng sau đó bà về ẩn náu ở Tân Thuận
(nay là xã Tân Tiến, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau) rồi mất ở đó.
Cũng theo sách này, cha Nguyễn Trung Trực mất sớm, bỏ lại 8 người con khiến mẹ ông phải sớm hôm tảo tần vất vả. Nhưng theo câu chuyện còn lưu lại trong họ tộc
cha ông Trực không mất sớm. Bởi sau khi Nguyễn Trung Trực bị bắt ở Phú
Quốc, ông vẫn còn sống để đưa gia đình mình và gia đình của các nghĩa
quân xuống ghe về ẩn náu ở Cà Mau. Khi chồng đi, bà Tô Kim Hồng (sách
Hỏi đáp cuộc khởi nghĩa Nguyễn Trung Trực
ghi là Lê Kim Hồng, tức mẹ ông Trực), vẫn còn ở lại Hòn Chông, trong sự
quản thúc của chính quyền thực dân và bà đã mất ở đó. Mãi sau này hài
cốt của bà mới được cải táng về nằm bên cạnh chồng ở Cà Mau. Hiện nay,
hậu duệ của dòng họ Nguyễn Trung Trực đông đúc cả ngàn người, sống rải
rác ở khắp nơi, nhưng tập trung đông nhất là ở hai xã Tân Đức và Tân
Tiến, huyện Đầm Dơi.
Vợ con
Cũng theo lời kể thì ông có người vợ tên Điều (tục gọi là bà Đỏ. Có
nguồn cho rằng bà Điều và bà Đỏ là hai chị em ruột chứ không phải một
người), người làng Minh Lương (nay thuộc huyện Châu Thành, Kiên Giang).
Bà Điều là người đã từng theo sát ông trong suốt thời gian chống Pháp ở
Kiên Giang. Có lần bà đi do thám đồn Săn Đá ở Rạch Giá, bị đối phương
bắt được, nhưng Nguyễn Trung Trực đến giải cứu kịp. Sau, bà bị bắt lần
nữa, bị nhốt trong khám lớn Rạch Giá, mãi đến khi ông Trực đánh chiếm
đồn bót trên (1868) mới giải thoát cho bà. Chưa rõ hai người có con hay
không, bà đã hy sinh ở đâu và lúc nào.
Khi ở đảo Phú Quốc, ông có thêm một vợ tên là Lê Kim Định (tục gọi bà
Quan Lớn Tướng), sinh được một trai nhưng chết non. Hiện còn mộ và đền thờ của bà ở Cửa Cạn (Phú Quốc)...
Theo lời kể, thì khi nghĩa quân bị vây khổn vào năm 1968, bà Định đã
dùng ghe theo dòng sông Cửa Cạn để ra biển về đất liền. Nhưng chẳng may
gặp đoạn sông bị cát lấp, ghe của bà bị mắc lại, không đi được. Kiệt
sức, bà sinh non trong một đêm mưa bão, và rồi bị băng huyết mà chết.
Hài nhi sinh non cũng chết theo. Có người tìm gặp cả hai thi hài, đem
giấu vào một bọng cây. Đến khi yên ổn, người dân mới đem hài cốt hai mẹ
con bà chôn cất tử tế tại bãi Ông Lang. Mộ bà được gọi là mộ Bà Lớn.
Trong biên bản hỏi cung khi ông Trực bị giam ở
Khám Lớn Sài Gòn, có câu:...
Số
phận tôi đã đầy đủ, tôi đã không thành công trong việc cứu nguy nước
tôi, tôi chỉ xin một điều là người ta kết liễu đời tôi càng sớm càng tốt
và mong rằng người ta cho những đứa con của tôi lên Sài Gòn.
Nếu căn cứ vào câu này, thì ông Trực có ít nhất hai ba đứa con, nhưng
cuộc đời của họ sau này ra sao, không thấy tài liệu nào nói đến.
Ảnh
-
Một khẩu đại bác loại nhỏ, thô sơ của nghĩa quân Nguyễn Trung Trực.
-
Mảnh ván tàu Espérance, được trưng bày tại đền thờ chính.
-
Nơi Nguyễn Trung Trực thọ án, nay là Bưu điện thành phố Rạch Giá.
-
Chiếu Tà Niên do dân làm ra, để tỏ lòng tôn kính ông Nguyễn.
Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 14:20, ngày 12 tháng 9 năm 2014.
Thi hài dưới mộ Anh hùng Nguyễn Trung Trực là ai?
Bất chấp phản đối của hậu duệ anh hùng dân tộc
Nguyễn Trung Trực và cán bộ hưu trí, gần 30 năm tỉnh Kiên Giang vẫn cho
rằng thi hài trong mộ chính là hài cốt của cụ Nguyễn.
Ly kỳ việc tìm hài cốt cụ Nguyễn
Ngày 27/10/1868 (tức 12/9 âm lịch), cụ Nguyễn Trung Trực bị quân Pháp
bắt và chém đầu tại chợ Rạch Giá. Về thi thể của cụ được nhiều người cho
rằng Pháp đã bêu đầu ông giữa chợ để thị uy nhưng đến đêm có người cướp
mất. Cho đến nay, không có tài liệu nào xác định thi thể cụ Nguyễn được
chôn ở đâu.
Theo giả thiết, thi thể cụ được chôn nơi kín đáo, bí
mật vì sợ người dân khai quật hài cốt của cụ để làm biểu tượng tiếp tục
khởi nghĩa chống Pháp. Có ý kiến rằng Pháp chôn hài cốt của cụ Nguyễn
trong dinh Tham biện, cho đóng cọc và xiềng xích chung quanh.
Lại
có nhận định, cụ Nguyễn được chôn trong khuôn viên tòa bố (dinh tỉnh
trưởng) thời đó có ngôi mộ bao bọc dây xích chung quanh. Tuy nhiên, có
người xác định đây là mộ của một viên trung úy hải quân Pháp, dây xích
vòng quanh là dây trang trí và trong đó có cả một mũi neo bằng sắt.
 |
Khu mộ Nguyễn Trung Trực tại TP.Rạch Giá, Kiên Giang. |
Khoảng năm 1970-1971, tỉnh trưởng Kiên Giang ngụy quyền Sài
Gòn Nguyễn Văn Tài đã cho đúc tượng đồng cụ Nguyễn dựng trước Nhà lồng
chợ Rạch Giá. Ông đã từng treo giải thưởng, ai tìm thấy hài cốt của cụ
để an táng sẽ được thưởng 1 triệu đồng và 1 vé du lịch Singapore nhưng
không có kết quả.
Trải qua nhiều cuộc tìm kiếm, đến năm 1986, qua
sự khai quật của nhà văn Sơn Nam, Sở Văn hóa tỉnh Kiên Giang cho khai
quật ngôi mộ được cho là của cụ Nguyễn Trung Trực trong khuôn viên tòa
bố cũ và đưa bộ hài cốt về chôn ở đền thờ cụ Nguyễn ở thị xã Rạch Giá.
Từ đó đến nay, những ngày lễ, giỗ, hàng ngàn người đến cúng bái tỏ lòng
tri ân đối với Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực.
Bị chặt đầu nhưng còn nguyên xương đốt cổ
Tháng 4/1986, theo sự chỉ dẫn của nhà văn Sơn Nam, Bảo tàng Kiên Giang
tổ chức khai quật ngôi mộ dưới gốc một cây đa trong khuôn viên trụ sở
UBND tỉnh Kiên Giang được cho là nơi chôn xác cụ Nguyễn.
Bảo tàng
Kiên Giang đã mời ông Lê Trung Khá, cán bộ khảo cổ chuyên ngành động vật
học và nhân chủng học tại TP.HCM tham gia giám định hài cốt. Nội dung
chính biên bản khai quật của bảo tàng ghi nhận xét của ông Lê Trung Khá
(không có chữ ký của ông Khá và ghi sai họ thành Nguyễn Trung Khá):
“Xương tộc Việt, đàn ông. Người cao khoảng 1,60m, người này khoảng 50
tuổi, bộ xương này đã chôn trên 100 năm. 7 đốt xương cổ và xương hàm của
hài cốt còn nguyên. Người này ăn trầu, có vẻ nghèo vì mộ bằng đất, ván
hàng gỗ tạp và không có vật lễ mang theo”.
Thật hết sức bất ngờ,
Anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực bị Pháp xử chém đầu khi ông mới 30
tuổi nhưng xương cổ, xương hàm còn nguyên (?!).
Lúc bấy giờ, ông Nguyễn Khương Ninh, hậu duệ đời thứ năm của cụ Nguyễn
và một số cán bộ lão thành lẫn cán bộ đương nhiệm ở Kiên Giang đã phản
biện cho rằng đó không phải là hài cốt của cụ. Một trong những người
phản ứng mạnh mẽ việc vội vã xác định ngôi mộ và hài cốt của cụ Nguyễn
là ông Nguyễn Tấn Thanh (nguyên Chủ tịch UBND tỉnh Kiên Giang, nay đã
mất) và con trai là Nguyễn Tiến Dũng (lúc đó là cán bộ Công an tỉnh Kiên
Giang).
Sau 30/4/1975, ông Thanh được cấp nhà trong khuôn viên
dinh tham biện cũ của Pháp và ngôi mộ được khai quật nằm sát cạnh ngôi
nhà của ông đã có văn bản gửi lãnh đạo tỉnh, không chỉ với tư cách một
lãnh đạo địa phương mà còn với tình cảm của người ngưỡng mộ cụ Nguyễn
Trung Trực.
Trong văn bản, ông Thanh viết: “Khi rõ lại (xem lại)
ngôi mộ kế nhà tôi, tôi phản đối vì ngôi mộ này trước khai quật tôi có
đến xem, là ngôi mộ hòm rương cây danh mộc tốt, có đầu, mình tay chân
đủ, chôn cất đàng hoàng. Hỏi bà con lão thành người ta nói là một người
tay sai làm nhà cho Tây có công, khi chết nó có chính sách chôn cất đàng
hoàng”.
Ông Ninh đã cất công truy tìm tài liệu, phát hiện đến hai biên bản giám
định hết sức sơ sài và có nhiều khuất tất. Biên bản thứ nhất phân nội
dung của ông Lê Trung Khá ghi tuổi của xương khai quật được là 50 tuổi.
Thế nhưng biên bản thứ hai, tuổi được sửa còn 40. Biên bản được sửa là
bản sao bằng giấy than màu xanh của bản chính.
Theo lời ông Nguyễn Khương Ninh, ông đã đến
TP.HCM tìm gặp ông Lê Trung Khá. Ông Khá khẳng định, hai biên bản của
Bảo tàng Kiên Giang lập không ghi đúng nội dung giám định của ông. Chính
tay ông Khá đã viết hai biên bản giám định, một bản do ông giữ, còn một
bản giao cho ông Dương Văn Truyện (lúc đó là Giám đốc Bảo tàng Kiên
Giang).
Ông Khá xác định nội dung giám định là: “7 đốt xương cổ và
xương hàm của hài cốt còn nguyên, chứng tỏ người chết không bị chém
đầu, còn nhiều chiếc răng bị mòn vẹt dính chất vôi, chứng tỏ người chết
cao niên và có ăn trầu”. Ông Khá xác định bộ hài cốt này không phải của
cụ Nguyễn Trung Trực. Còn biên bản giám định hài cốt do ông giữ đã được
đưa vào lưu trữ tại TP.HCM.
Ngoài ông Thanh, ông Ninh kịch liệt
phản đối việc nhận thi hài người khác cho rằng của cụ Nguyễn, các nhân
sĩ tên tuổi như giáo sư bác sĩ Trần Cửu Kiến cũng lên tiếng góp ý. Ngay
thực tế khách quan của bộ hài cốt là bằng chứng hiển nhiên không có đặc
thù của thân thế cụ Nguyễn bị chết chém năm 30 tuổi nhưng xương của hài
cốt đã 50 tuổi, xương cổ còn nguyên. Ngôi mộ bằng đá, chạm khắc hoa văn,
có bia chữ Hán.
Lẽ nào người Pháp lại ưu ái quý trọng cụ Nguyễn
đến mức xây mộ đá khắc bia nằm ngay trong dinh tỉnh trưởng? Chính Thống
Đốc Nam Kỳ đã bác bỏ đề nghị của Huỳnh Công Tấn xin tha cho cụ Nguyễn vì
lý do “người này đã giết quá nhiều binh lính và sĩ quan Pháp”.
Chủ
tỉnh Kiên Giang là Arnoux (có người ghi là Reneoul), biết đọc chữ Hán,
khi đi dự lễ kỳ yên ở đình Vĩnh Thanh Vân nhìn thấy bài vị cụ Nguyễn thờ
trong đình đã hầm hầm bỏ về làm hương chức hội tế Rạch Giá sợ xanh mặt.
Bên cạnh đó, thi hài vị Anh hùng dân tộc nhưng được khẳng định bằng
biên bản chung chung, phản khoa học. Đáng tiếc, tỉnh Kiên Giang vẫn
không xem xét trả lời trước công luận, liệu có xứng đáng với sự hy sinh
của bậc tiền nhân?
Theo Đào Văn/Báo Công An TP HCM
Mai Xuân Thưởng
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Mai Xuân Thưởng (
chữ Hán: 梅春賞;
1860 –
1887), lúc nhỏ tên là
Mai Văn Siêu, là sĩ phu và là lãnh tụ phong trào kháng
Pháp cuối
thế kỷ 19 ở
Bình Định (
Việt Nam).
Thân thế & sự nghiệp
Mai Xuân Thưởng là người thôn Phú Lạc, xã Bình Thành, huyện Tuy Viễn (nay là huyện
Tây Sơn, tỉnh
Bình Định). Cha ông là Mai Xuân Tín, từng làm Bố chính tỉnh
Cao Bằng; mẹ là bà Huỳnh Thị Nguyệt, con một nhà quyền quý trong làng .
Thuở nhỏ ông thông minh, ham học. Năm lên 6 tuổi, cha mất sớm, ông lớn lên dưới sự nuôi dạy của mẹ và của
tú tài Lê Duy Cung, nên giỏi cả văn lẫn võ. Năm
1878, Mai Xuân Thưởng thi đỗ
tú tài.
Đầu
tháng 5 năm
Ất Dậu (
tháng 7 năm
1885), nổ ra cuộc phản công của phe chủ chiến ở
Kinh thành Huế, khi ấy ở
Bình Định đang diễn ra kỳ
thi Hương. Đến khi nghe tin
Tôn Thất Thuyết phò vua
Hàm Nghi chạy ra
Quảng Trị, xuống dụ
Cần vương, mấy nghìn sĩ tử liền bỏ thi, trở về quê tụ nghĩa. Ở lại thi tiếp, chỉ còn 8 người và tất cả đều trúng tuyển
cử nhân,
trong số đó có Mai Xuân Thưởng. Thi đỗ xong, Mai Xuân Thưởng trở về quê
Phú Lạc chiêu mộ nghĩa sĩ, lập căn cứ ở Hòn Sưng (nay thuộc thôn Phú
Lạc, xã Bình Thành, huyện
Tây Sơn).
Khi ấy, nguyên Tổng đốc
Đào Doãn Địch sau khi về
Bình Định truyền hịch
Cần Vương, cũng đã chiêu mộ được khoảng 600 nghĩa quân rồi đóng quân ở thôn Tùng Giản (nay thuộc xã Phước Hòa, huyện
Tuy Phước). Kể từ đó (cho đến năm
1887),
phong trào Cần Vương ở
Bình Định diễn ra rất sôi nổi, và lan nhanh ra đến
Quảng Ngãi,
Phú Yên...lôi kéo hàng ngàn người thuộc mọi tầng lớp tham gia.
Giữa
tháng 7 năm
1885, chủ tướng Đoàn Doãn Địch tổ chức đánh chiếm thành tỉnh
Bình Định. Trừng trị viên quan thân
thực dân Pháp là Tổng đốc
Lê Thận xong, quân của ông còn kéo nhau đi đánh phá các làng theo đạo
Thiên Chúa giáo. Từ
Quy Nhơn,
quân Pháp kéo lên đàn áp. Đoàn Doãn Địch dàn quân kháng cự lại. Hai bên
giao tranh dữ dội ở Trường Úc và Phong Niên. Trước hỏa lực mạnh, lực
lượng của Đoàn Doãn Địch bị đánh tan, buộc vị thủ lĩnh này phải chạy về
đại bản doanh của Mai Xuân Thưởng, lúc này đang đặt tại Lộc Đổng (Đồng
Hươu) ở thôn Phú Phong (huyện
Bình Khê, tỉnh
Bình Định).
Tháng 9 năm đó (
1885),
Đào Doãn Địch lâm bệnh mất, Trước đây, khi Mai Xuân Thưởng ứng nghĩa, được
Đoàn Doãn Địch
phong làm Tán tương quân vụ; nay trước khi mất, ông cử Mai Xuân Thưởng
lên làm Nguyên soái thay mình. Sau khi làm lễ tế cờ tại Lộc Đổng, Mai
Xuân Thưởng cho xuất quân và giao chiến với đối phương nhiều trận tại
Cẩm Vân, Thủ Thiện, Hòn Kho (Tiên Thuận)...Hồi này, theo giúp sức Mai
Xuân Thưởng, có các ông:
Tăng Bạt Hổ,
Nguyễn Bá Huân,
Nguyễn Trọng Trì,
Bùi Điền,
Đặng Đề,
Nguyễn Hóa,
Lê Thượng Nghĩa,
Hồ Tá Quốc,
Võ Đạt... cùng hàng ngàn sĩ phu và nhân dân các tỉnh
Phú Yên,
Khánh Hòa,
Bình Thuận...
Nhận thấy lực lượng của Mai Xuân Thưởng ngày càng lớn mạnh, và đã gây nhiều thiệt hại cho mình. Soái phủ
Sài Gòn liền điều Thiếu tá De Lorme đem pháo thuyền án ngữ biển
Quy Nhơn. Đồng thời sai
Trần Bá Lộc mang quân từ
Khánh Hòa đánh ra,
Nguyễn Thân từ
Quảng Ngãi đánh vào. Nhờ pháo binh yểm trợ, hai cánh quân này nhanh chóng gặp nhau tại
Bình Định, rồi cùng tiến lên Phú Phong mặc sức tàn phá.
Tháng 3 năm
1887,
sau trận ác chiến ở Bàu Sấu (An Nhơn), Mai Xuân Thưởng bị thương nặng,
phải cho rút tàn quân vào Linh Ðỗng (núi Phú Phong) ẩn náu, tính kế
kháng chiến lâu dài.
Theo vài tài liệu cũ, thì vào
tháng 4 năm
Đinh Hợi (
1887),
Trần Bá Lộc kéo quân đến tàn sát dân chúng ở quê ông và còn bắt tra tấn mẹ ông. Đau lòng, ông ra nạp mình để cứu mẹ và dân lành vào ngày
23 tháng 4 năm
1887. Triều đình
Đồng Khánh hay tin, bèn ban lệnh lột áo mão
cử nhân và hành quyết ông. Nhưng theo bài viết gần đây của TS. Đinh Bá Hòa, đăng trên
báo Bình Định, thì Mai Xuân Thưởng bị bắt chứ không phải ra hàng. Ông viết:
- Gần đây, nhiều tư liệu liên quan đến cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân hai tỉnh Bình Định và Phú Yên được công bố; trong đó, có cả những tư liệu được khai thác từ kho lưu trữ của Pháp... Theo báo cáo gửi Thống đốc Nam Kỳ ngày 10 tháng 5 năm 1887, đã cho chúng ta biết khá tường tận về trường hợp bị bắt của Mai Xuân Thưởng như sau:
- Lúc ấy, Mai Xuân Thưởng có năm mươi người đi theo ông, trong đó
có toàn bộ gia đình của ông: mẹ, vợ và những người phụ tá, kể cả em của
ông. Ngày 4 tháng 4, cả nhóm bị vây hãm trong một làng Chàm (có thể là Vân Canh), nhưng sau đó chạy thoát. Ngày 21 tháng 4 gia đình Mai Xuân Thưởng bị bắt, nhưng ngay đêm hôm sau ông Thưởng lại giải thoát được. Nhưng, đêm 31 tháng 4 rạng ngày 1 tháng 5,
một trong những thủ hạ của Mai Xuân Thưởng bị bắt làm tù binh, đã chịu
hàng và chỉ chỗ ở những người đang chạy trốn. Trần Bá Lộc và Bùi Giảng đã bắt được Mai Xuân Thưởng ngày 4 tháng 5 khi ông đang trốn trong một cái hang núi Hòn Nhên ở làng Thang Ót, ở gần chỗ giáp giới Phú Yên và ngọn nguồn sông Côn. Ngày hôm sau, gia đình ông bị bắt.
- Sau ông, những thủ lãnh cuối cùng hầu như cũng bị bắt hết: Nguyễn Ngọc Loan bị bắt 14 tháng 5; Lê Khanh 20 tháng 5...".
Trong
Luận án Tiến sĩ sử học của Phan Văn Cảnh cũng cho rằng, vào ngày
21 tháng 4 năm
1887,
Trần Bá Lộc đã cho quân bao vây căn cứ Hầm Hô, Linh Đổng và cuối cùng,
đã chiếm được căn cứ, bắt được một số nghĩa quân, trong đó có mẹ Mai
Xuân Thưởng. Tuy nhiên, đêm
30 tháng 4 năm
1887, Mai Xuân Thưởng đã cử một đội quân cảm tử đột nhập doanh trại
Trần Bá Lộc,
giải vây cho những người bị bắt, trong đó, có bà mẹ Mai Xuân Thưởng.
Sau khi giải vây, Mai Xuân Thưởng cùng đoàn thuộc hạ gồm 50 người vượt
núi vào
Phú Yên, tiếp tục kháng chiến, nhưng khi đến đèo Phủ Quý (ranh giới giữa
Bình Định và
Phú Yên) thì bị phục binh
Trần Bá Lộc đón bắt hết. Sau đó, đối phương cho đem tất cả nhóm về
Phú Phong, tổ chức ăn mừng chiến thắng và phao tin Mai Xuân Thưởng ra hàng để hạ uy tín của ông...
Tuẫn quốc
Trần Bá Lộc dụ hàng, Mai Xuân Thưởng khẳng khái nói:
Chỉ có đoạn đầu tướng quân, chứ không có hàng đầu tướng quân. Biết không thể khuất phục được, đối phương đã đưa ông cùng các thuộc hạ ra xử trảm tại Gò Chàm (phía đông thành
Bình Định cũ). Thi hài ông sau đó được đưa về táng tại Cây Muồng (nơi cha ông đã yên nghỉ), thuộc thôn Phú Lạc.
Và theo báo cáo do Tirant thiết lập ngày
11 tháng 6 năm
1887 gửi Thống đốc
Nam Kỳ (tư liệu số Aix11.929), thì:
- Có ba đợt hành quyết: ngày 1 tháng 6 có 5 người, trong đó có Lê Khanh; ngày 7 tháng 6 có 12 người, trong đó có Mai Xuân Thưởng và Bùi Điền; ngày 12 tháng 6 có 9 người và ngày 13 tháng 6 có 1 người. Tổng cộng có 27 người bị hành quyết, trong đó có một vài người là thủ lĩnh lớn nhất của phong trào Bình Định-Phú Yên.
Căn cứ vào đây thì Mai Xuân Thưởng bị xử chém vào đợt thứ hai, ngày
7 tháng 6 năm
1887, chứ không phải ngày
6 tháng 6 như tài liệu lâu nay đã ghi..
Năm
1961, nhà thơ
Quách Tấn và nhiều người dân đã đứng ra vận động xây dựng lăng mộ nhà Mai Xuân Thưởng và các lãnh tụ
Cần Vương khác của quê hương
Bình Định. Ngày
22 tháng 1 năm đó (
1961), nhân dân ở
Tây Sơn
đã làm lễ đưa hài cốt ông từ Phú Lạc về lăng mộ trên một quả đồi cao
thuộc thôn Hòa Sơn, xã Bình Tường. Đây cũng chính là căn cứ mà lúc sinh
thời, ông dựng cờ khởi nghĩa chống Pháp .
Thơ Mai Xuân Thưởng
Thơ làm trong lúc chiến đấu:
- Chết nào có sợ, chết như chơi,
- Chết bởi vì dân, chết bởi thời.
- Chết hiếu chi nài xương thịt nát,
- Chết trung bao quản cổ đầu rơi.
- Chết nhân tiếng để vang nghìn thủa,
- Chết nghĩa danh thơm vọng mấy đời.
- Thà chịu chết vinh hơn sống nhục
- Chết nào có sợ, chết như chơi.
|
Thơ làm trước lúc bị hành hình:
- Không tính làm chi việc mất còn,
- Nợ trai lo trả ấy là khôn.
- Gió đưa hồn nghĩa gươm ba thước,
- Ðá tạc lòng trung quí mấy hòn.
- Tái ngắt mặt gian xương tợ giá,
- Ðỏ loè bia sách máu là son.
- Rồi đây thoi ngọc đưa xuân tới,
- Một nhánh mai già nảy rậm non.
|
Giai thoại
Năm
1885 tại trường thi Bình Định, sĩ tử vừa thi xong trường ba, thì nghe tin
Kinh thành Huế
thất thủ, nên phần đông đều bỏ về. Vào trường tư chỉ còn tám người, mà
Mai Xuân Thưởng là một. Khi ban áo mão, quan Chánh chủ khảo tặng tám ông
tân khoa một bài thơ
luật Đường như sau:
- Sơn Hà phong cảnh dị tiền niên
- Hoành giám du khan thử địa huyền
- Hận mãn xương môn trần ám ngoại
- Lệ linh văn viện bút đình biên
- Lịch truyền giáo dục ân như hải
- Bát giải thinh danh thẩm thị tiên
- Nhất dự y quan nan tự ủy,
- Cương thường khán tử cổ anh hiền.
|
- Tạm dịch:
- Non sông rày đã khác xưa
- Gương nêu tài tuấn còn nêu chốn nầy
- Hận tràn, cung khuyết bụi bay
- Tay cam dừng bút, lệ đầy viện văn
- Bao triều tắm gội biển ân
- Phẩm tiên tám giải thêm phần thanh cao
- Cân đai trót đã dự vào
- Cương thường noi dấu anh hào soi chung.
|
Tương truyền rằng trước khi khảo lại các quyển thi, quan chánh chủ
khảo nằm mộng thấy một bà lão cầm tặng một nhánh mai trắng chỉ trổ một
bông nhụy vàng cánh trắng, mùi hương nhẹ nhàng. Viên quan vừa đưa tay
nâng thì hoa rụng vào nghiên son, và bà lão biến mất. Quan giật mình
tỉnh dậy, bâng khuâng không hiểu điềm chi. Khi xét thấy trong tám ông
cử nhân
có một ông họ Mai, và xem lại quyển văn thì thấy văn chương có khí
phách, thì đoán rằng điềm ứng vào Mai Xuân Thưởng, nên ban áo mão xong,
quan mời riêng Xuân Thưởng vào dặn:
- Lúc này nước nhà mất, một phần lớn do nơi đám sĩ phu. Cho nên làm việc gì cũng phải hết sức thận trọng.
Mai Xuân Thưởng lĩnh ý lui ra, trở về nhà khởi binh chống Pháp.
Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 14:13, ngày 14 tháng 3 năm 2014.
Mai Xuân Thưởng qua nguồn văn học dân gian/ Huỳnh Văn Tới |
Văn nghệ Nghĩa Bình.- 1985.- Số 7 (1.578)
Nhắc đến Nghĩa Bình, người ta dễ nhớ ngay đến chiếc nôi của phong trào
nông dân Tây Sơn, quê hương của người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ. Đây
cũng là nơi bùng dậy ngọn cờ ứng nghĩa của nghĩa quân Cần Vương cuối thế
kỷ XIX, từng làm giặc Pháp cùng triều đình Huế thất kinh. Trong đó, Mai
Xuân Thưởng là một trong những tấm gương bất khuất, tiêu biểu cho tinh
thần yêu nước chống Pháp của nhân dân ta. Xét ra, phong trào Mai
Xuân Thưởng kéo dài không lâu lắm, và cũng chưa tạo được những chiến
công vang dội, song công lao ấy vẫn được lịch sử ghi nhận, chính bởi sự
nghiệp ngắn ngủi của ông đã góp phần lớn lao trong việc làm cho thực dân
Pháp, dù thắng trận, vẫn phải khiếp phục tinh thần bất khuất của một
dân tộc anh hùng. Tiếc là, những gì về Mai Xuân Thưởng còn lại trong kho
tư liệu của ta ít ỏi quá, mặc dù trong ký ức của nhân dân, hình ảnh của
ông vẫn được ấp ủ, giữ gìn. Trong khi chờ đợi những công trình nghiên
cứu hoàn chỉnh, qua các truyện kể dân gian, chúng ta có thể tìm hiểu
hình ảnh vị Nguyên soái họ Mai trong lòng dân Nghĩa Bình từ bao đời nay.
Thật may mắn, qua các đợt sưu tầm, chúng tôi còn ghi giữ được vài mươi
mẩu truyện về Mai Xuân Thưởng và phong trào Cần Vương. Có truyện kể về
Mai Xuân Thưởng, có truyện kể về các tướng lĩnh của ông, có truyện nhắc
lại các di tích, có truyện thuật lại các trận đánh, nhiều truyện là sự
thật lịch sử, cũng có nhiều truyện xây dựng bằng sự hư cấu của trí tưởng
tượng... Có thể liên kết các mẩu chuyện với nhau thành một chùm giai
thoại phản ánh suốt một quá trình lịch sử từ trước khi ứng nghĩa cho đến
sau khi tàn cục của phong trào Cần Vương. Dẫn ra đây, cố nhiên, sẽ có
người không thoả đáng vì những sự kiện không đúng theo lịch sử, song dù
sao, vẫn phải xem nhân dân là nhà viết sử vĩ đại - viết sử bằng tấm lòng
giàu thương yêu và trí tưởng tượng phong phú. Cho nên những yếu tố
hoang đường, những chi tiết phi lịch sử do trí tưởng tượng dựng nên,
không bị thời gian lọc bỏ, vẫn được soi qua "tấm gương lòng" của nhân
dân, đây là cách nhìn, cách đánh giá của nhân dân đối với vị Nguyên soái
mà họ cho là anh hùng. Trong tâm trí của người Nghĩa Bình, Mai Xuân
Thưởng vẫn sống như ông đã sống. Người ta còn nhớ rất rõ vóc dáng, cách
đi đứng nói năng của ông. Không phải kỳ dị thần thánh như các nhân vật
của truyện cổ tích xa xưa, "ông (1) là một người bình thường, một chàng
trai tướng mạo khôi ngô, tướng hùm, vai gấu, mắt tinh anh, vẻ quả quyết"
(truyện Điềm ứng họ Mai). Ra trận "ông thường mặc áo đen, đầu quấn khăn
điều, cưỡi ngựa hồng" (truyện Ngựa hồng cứu chủ). Cũng có thể sự thật
không đúng như thế. Nhưng điều ấy không quan trọng. Đáng nói là, hình
ảnh Mai Xuân Thưởng đang sống trong mọi người, là một chàng trai trẻ,
một nho sĩ bình dân gần gụi, mến thương đối với người dân lao động. Ở
đây, lại bắt gặp một môtíp quen thuộc trong truyện cổ tích, nhân dân
thường mô tả nhân vật của mình theo dáng dấp mà mình mến yêu.
Nhưng cái lớn lao đáng được yêu mến ở chàng nho sĩ bình dân không phải
là dáng vẻ, mà là tấm lòng, là nhiệt tình yêu nước chứa trong cái dáng
vẻ ấy. Tương truyền rằng, ngay sau khi nhận áo mũ cử nhân, Mai Xuân
Thưởng liền nhận được tin kinh thành Huế thất thủ, vua Hàm Nghi xuất
bôn, xuống Hịch Cần Vương. Lòng Cử Mai bồi hồi xúc động, dấy lên nhiệt
tình yêu nước đã ấp ủ từ lâu. Ông ứng khẩu bài thơ đầy tâm huyết: Cửa trường tiếng dạ miệng còn hơi Cờ nghĩa treo lên đã ngất trời Đạo trọng vua tôi mình dám quản Oán hờn người Pháp có đâu vơi
Bài thơ hiện rất nhiều người thuộc. Họ thuộc cả tâm can của Cử Mai lúc
ấy. Ông nôn nao nghĩ đến ngọn cờ nghĩa sẽ phải dấy lên. Lòng ông cháy
rực nỗi căm hờn giặc Pháp: "Oán hờn người Pháp có đâu vơi". Ông có nhắc
đến đạo vua tôi, nhưng ấy là cái đạo trung nghĩa đối với vị vua kháng
chiến, chứ không phải tên bù nhìn Đồng Khánh thực dân Pháp vừa mới dựng
lên. Chung qui, ba hình ảnh, ba ý nghĩ cùng là một lòng yêu nước nhiệt
tình. Có yêu nước mới căm thù giặc, mong muốn xả thân vì vua, phất cờ
cứu nước. Nhiệt tình yêu nước đã dẫn Mai Xuân Thưởng vào cuộc chiến
đấu với vị trí chỉ huy. Thật sự ông là một vị chỉ huy mưu trí, dũng
cảm, xứng đáng với lòng tin của nghĩa quân. Truyện "Chiến thắng Đồng Vụ"
kể rằng, một lần giặc Pháp từ Quy Nhơn kéo lên Phú Phong quyết tiêu
diệt nghĩa quân. Được tin giặc đến, nghĩa quân hăng hái đòi đánh. Đánh
là đúng. Nhưng cần phải có cách đánh để ít mà thắng được nhiều, lại
tránh những hy sinh uổng phí. Nghĩa quân chờ đợi mưu lược của vị chỉ
huy. "Ông Mai nhìn tướng sĩ mỉm cười đầy tin tưởng rồi phát binh mai
phục các nơi hiểm yếu trên đường vào Đồng Vụ. Lệnh ban ra, ai nấy đều
răm rắp tuân theo. Ông lại cử một nghĩa quân tiến ra đình Phú Phong đầu
thú để dụ giặc..." Trận ấy, giặc bị lừa vào bẫy, bị đánh tan bởi một lực
lượng nhỏ hơn rất nhiều lần, để rồi sau đó nghĩ đến Đồng Vụ mà hãi
hùng. Thực chất mưu lược của Mai Xuân Thưởng là thuật dùng binh: nắm
vững địa lợi nhân hòa, hiểu rõ địch, tin tưởng nghĩa quân, biết dựa vào
dân để tạo sức mạnh. Những thắng lợi như vậy còn diễn ra nhiều lần như ở
Cẩm Văn, Trường Úc, Thủ Thiện,...mà mỗi lần kể lại, nhân dân không ngớt
ca ngợi mưu lược của vị Nguyên soái trẻ tuổi. Đến Nguyễn Thân, tên quỷ
quyệt nổi danh, cũng phải thành thực thừa nhận: "Mai là người mưu lược,
giỏi dùng kỳ binh, biết tổ chức chiến đấu, lại được lòng dân, dẫu súng
to binh đông cũng khó có thể thắng được". Những thắng lợi vẻ vang của
nghĩa quân đã tô điểm trong lòng dân hình ảnh Mai Xuân Thưởng đẹp đẽ,
hào hùng. Trong thất bại, cũng đẹp đẽ, hào hùng không kém. Thất bại
đáng rơi nước mắt là trận Bàu Sấu trong đó hình ảnh người anh hùng mãi
mãi sáng ngời. Theo lời kể của cụ Phạm Diễn (An Nhơn), trận Bàu Sấu diễn
ra suốt ba ngày đêm trong tinh thần quyết chiến của nghĩa quân. Đến khi
chiến luỹ vỡ, giặc tràn vào như thác lũ. Nghĩa quân ta rã. Lúc ấy "giặc
ba bề phủ vây, hò hét quyết bắt sống. Chỉ có mặt tây là vắng bóng giặc,
nhưng đã có Bàu Sấu rộng mênh mông ngăn đường rút lui. Mai Nguyên soái
người đã bị mấy vết thương, mồ hôi đẫm mình ngựa, máu xối đỏ chiến hào,
vậy mà tay gươm vẫn loang loáng vung hăng hái..."(truyện Bàu Sấu). Ý ông
quyết chiến đấu đến hơi thở cuối cùng. Quả là hình ảnh đẹp đẽ đầy dũng
khí. Vậy ra, cái đẹp mà nhân dân yêu mến ở đây không phải tính ở kết quả
trận đánh, chính là khí phách hiên ngang, ý chí bất tử của ông. Đến đây
đã hiểu rõ quan điểm của nhân dân. Xét người không phải chỉ ở chiến
công. Thất bại mà giữ được khí tiết, thể hiện tinh thần bất khuất của
nhân dân vẫn được xem là anh hùng, được sống mãi với muôn đời sau. Đây
là lý do giúp ta hiểu vì sao phong trào Mai Xuân Thưởng thất bại nhiều
hơn thành công, và cuối cùng bị dìm trong máu, vậy mà vẫn sống bất diệt
trong lòng dân Nghĩa Bình tròn thế kỷ nay. Có lẽ, nhân dân muốn thể
hiện ông là một chủ tướng nặng tình nghĩa hơn là một Nguyên soái giàu
chiến công cho nên, con người chiến đấu Mai Xuân Thưởng tuy không mờ
nhạt nhưng ít được kể đến. Rõ nhất, sinh động nhất vẫn là hình ảnh
Mai Xuân Thưởng trong mối quan hệ với mọi người. Ở đây nổi bật một con
người trọn lòng với dân với nước; một tấm lòng nhân ái, bao dung, trung
hiếu, tiêu biểu cho phẩm chất, đạo đức của dân tộc. Có thể kể đến
tấm lòng của Mai Nguyên soái đối với tướng sĩ, nghĩa quân. Ông là một
chủ soái được trọn quyền chỉ huy. Nhưng cái để gắn liền ông với nghĩa
quân không phải là quyền lực mà là tấm lòng. Ông thông hiểu, tin tưởng,
yêu thương nghĩa quân như đối với chính mình. Từng cùng ăn uống, tập
luyện, sinh hoạt với nghĩa quân như anh em. Đứng trước ba quân bàn quốc
sự, ông hay "mỉm cười nhìn nghĩa quân đầy vẻ tin tưởng". Xây dựng chiến
luỹ Bàu Sấu trong tình thế đầy khó khăn; "ông hay mặc áo đen, cưỡi ngựa
hồng, qua lại trên mặt luỹ nói lời vui vẻ để khích lệ nghĩa quân...Nghĩa
quân thấy ông là tinh thần thêm hăng hái, làm việc không biết mệt mỏi
(truyện Ngựa hồng cứu chủ). Có truyện kể rằng, quản trấn Trần Ngã và
tham vấn Võ Phòng Mậu cùng được Mai Nguyên soái tin yêu, giao cho việc
trấn thủ Thứ Hương Sơn. Hai người hiềm khích nhau. Tham Mậu ra lệnh chôn
sống quản Ngã (Nhã ?). Được tin Mai Nguyên soái tức tốc phi ngựa đến.
Nhưng đã muộn. Ông chỉ kịp sai người đào lên cái xác đã lạnh cứng. Lòng
thương bạn có thể thấy được trên khuôn mặt ràn rụa nước mắt. Cũng vì
thương mà ông căm giận người bạn phản bạn. "Ông Mai tay nắm chặt đốc
gươm, nhìn tham Mậu, giận dữ: -Ông đã phụ lòng ta nỡ đặt cờ và .?.. lên
trên sinh mạng nghĩa quân, lại nhẫn tâm giết hại bạn mình, tội thật đáng
chết". Nhưng Mai Nguyên soái đã không rút gươm ra, giọng trở nên trầm
tĩnh: - Nhưng lẽ nào ta lại giết thêm một người nữa trong khi cuộc chiến
đang cần tướng giỏi biết thương nước thương dân. Ông phải hiểu bụng ta.
Hãy vì nghĩa quân mà lo việc chiến đấu". Ông Mậu, ông Trì cúi đầu im
lặng, cảm động trước tấm lòng bao dung của Mai Nguyên soái (truyện Đức
bao dung). Mai Xuân Thưởng đã xử sự sáng suốt, thương tiếc người bạn
đáng lẽ phải được sống, tha chết cho kẻ đáng tội chết. Nhân dân gọi đó
là đức bao dung. Rõ hơn, còn thấy ở đó một tấm lòng biết vì nghĩa lớn.
Chính vì vậy mà tướng sĩ và ngay cả kẻ đáng tội đều cảm kích, đáp lại
bằng sự chiến đấu quên mình dưới ngọn cờ nghĩa của ông. Có một điều
tưởng hoang đường nhưng rất ý nghĩa, Mai Xuân Thưởng thân dù đã mất song
hồn nặng tình nghĩa vẫn sống tha thiết. Truyện (Lễ cầu tiên) kể rằng,
có lần hồn tiên nhập vào cơ (2) cứ đòi gặp cụ Nghè Trì lúc đó đang buồn
vẩn vơ tạo Vân Sơn. Tiên nói đúng ý thơ cụ Nghè định làm. Hai bên cùng
đàm đạo, xướng họa bằng thơ hàng buổi trời. Tình ý trong thơ cao siêu,
ít ai hiểu thấu. Cụ Nghè có câu "Nghìn năm sơn nhạn nương theo bóng".
Hồn tiên phê câu ấy có ý buồn, chán đời, bèn đối: "Một gánh quân thân
gởi lại chàng". Đến đấy, Nghè Trì hiểu ý bưng mặt khóc lớn: "Mai Nguyên
soái ! Mai tướng công ! Cố nhân ơi, xin ghi nhớ tấm lòng của cố nhân".
Từ đấy, cụ Nghè Nguyễn Trọng Trì dẹp hẳn nỗi buồn chán, thất vọng, dốc
hết sức mình dạy dỗ học trò những điều ích dân, lợi nước. Cái vỏ của
câu chuyện kể là sự mê tín, phi hiện thực, nhưng từ đó đã sáng tỏ một
điều rất thực, ấy là lòng tin của nhân dân đối với tấm lòng của Mai
Nguyên soái. Ông đã mất mà vẫn như còn, vẫn đậm tình tri kỷ, nặng lòng
nước non, và vẫn đốt nóng nhiệt tình yêu nước đang dần nguội lạnh trong
lòng người sau lần thất bại. Tấm lòng của Mai Xuân Thưởng đối với mẹ
cũng thật cảm động. Đó là lòng hiếu của một nho sĩ tuân phục lễ cương
thường, lòng kính yêu mẹ chí tình của một đứa con biết trọng đạo lý. Cha
mất sớm, Mai Xuân Thưởng chỉ còn có mẹ già. Đối với ông nghĩa vụ thiêng
liêng lúc ấy là việc phụng dưỡng mẹ. Nhưng nghĩa vụ của nước thiêng
liêng hơn, và cũng là cách phụng dưỡng mẹ xứng đáng hơn, đã dẫn ông vào
con đường chiến đấu. Ông xả thân chiến đấu vì nghĩa lớn, một phần cũng
vì mẹ, bởi Thái mẫu lúc nào cũng mong muốn ông "phải sống cho nên
người". Trong trái tim bận rộn việc nước, luôn có chỗ cao quý dành cho
hình bóng mẹ già kính yêu. Xong những buổi tập quân, Mai Nguyên soái
không quên ghé lại thăm mẹ, kính cẩn vâng lời mẹ dặn dò. Tương truyền,
khi thất trận Bàu Sấu, phải dấu mình ở mật khu Linh Đổng, ông Mai không
ngớt nhớ thương mẹ. Biết tin Trần Bá Lộc ráo riết lùng bắt thân quyến
nghĩa quân còn trong mật khu để tra khảo, lòng ông Mai đã quyết hy sinh
nhưng vẫn trăm chiều lo lắng cho mẹ già (lúc ấy đang được nuôi dấu trong
dân). Tâm tình ấy được gói trọn trong câu ca gởi bạn: Chim kêu dưới suối Đá bân Em còn chút mẹ cậy chàng viếng thăm. Các nhân sĩ còn lánh trong dân hiểu ý, vận động giúp đỡ nuôi dấu Thái mẫu chu tất hơn. Có người gởi lại câu đáp: Chim kêu dưới suối tình tang Cũng vì chút nghĩa đá vàng xin vâng Câu ca mang ý tình sâu, thiết tha như lời nhắn nhủ, yêu đương. Nó đã che mắt giặc, làm lay động những trái tim đồng điệu.
Về chữ hiếu của Mai Xuân Thưởng, nhân dân vẫn còn nhắc đến nhiều. Mọi
người thương mến, cảm thông nỗi đau đớn, vật vã của ông khi hay tin mẹ
già bị tra tấn, nhưng hành động nộp mình cứu mẹ đã khiến người ta tiếc
rẻ. Có sự phê phán trong dòng nước mắt vừa tiếc thương vừa kính phục.
Kính phục một nghĩa cử cao đẹp vì mẹ quên thân, nhưng không khỏi tiếc
thương vận mệnh của cuộc chiến đấu dễ dàng đặt dưới chữ hiếu, nặng tư
tưởng phong kiến. Cho nên nhiều người đã không muốn tin chuyện Mai
Nguyên soái tự nộp mình cho giặc. Có chuyện kể khác đi, ông Mai không
nộp mình bao giờ. Ông bí mật đưa được mẹ vào mật khu, rồi cùng bị bắt
trong chuyến vượt đèo Phú Quý, định vào Phú Yên gây dựng lực lượng. Đối
với nhân dân, dẫu Mai Xuân Thưởng có nộp mình thì đấy vẫn không phải là
hành động đầu hàng. Một người tự hào nhắc hoài câu nói khảng khái của
ông thét vào mặt quân thù khi chúng ngọt ngào dụ dỗ: "Im đi. Ở đây chỉ
có đoạn đầu tướng quân không có hàng đầu tướng quân". Hình ảnh ông hiên
ngang chịu chém đầu, mãi mãi đọng trong lòng tôn kính của nhân dân: "Ông
mặc áo the thâm, đầu quấn khăn điều, đi đầu trong đoàn nghĩa sĩ sắp
phải chịu hành hình. Bước lên giàn chém, ông bình thản đưa mắt nhìn
xuống dân chúng như thể tạ từ, rồi hướng về phía Bắc lạy hai lạy, hướng
về quê nhà lạy bốn lạy. Bọn đao phủ thấy vậy không dám thúc hối. Ông còn
rút trong người buông xuống một mảnh áo lụa đã viết sẵn bài thơ tuyệt
mạng: Chết nào chịu chết, chết như chơi Chết bởi vì dân, chết bởi đời Chết hiếu chi nài xương thịt nát Chết trung bao quản cổ đầu rơi Chết nhân tiếng đề bia nghìn thuở Chết nghĩa danh thơm rạng mấy đời Thà chịu chết trong hơn sống đục Chết nào chịu chết, chết như chơi. (truyện Mai Xuân Thưởng thọ hình).
Chính trong giây phút sắp chết, Mai Xuân Thưởng đã sống sinh động, đẹp
đẽ hơn cả. Từ vẻ mặt bình thản, toát lên khí phách hào hùng. Lòng trung,
hiếu, nhân, nghĩa sáng ngời trong những cái cúi lạy tạ từ cuộc đời để
đi vào bất tử. Đặc biệt, bài thơ tuyệt mạng được xem như lời phát ngôn
cho tư tưởng bất khuất của nhân dân. Cho nên, nó được nhân dân ấp ủ, lưu
truyền, giặc Pháp không tài nào ngăn được. Những câu truyện kể quả
là tư liệu quý giá để tìm hiểu về nhân vật lịch sử Mai Xuân Thưởng.
Trong đó còn có thể thấy được bóng dáng của triều đình Nguyễn trong thái
độ thù địch, thủ đoạn thâm độc của Thực dân Pháp, rõ ràng nhất là bộ
mặt nham hiểm, tội ác tày trời của bọn chó săn trứ danh như Nguyễn Thân,
Trần Bá Lộc (truyện Lời hứa của Trần Bá Lộc). Một điều vô cùng quý
báu là lịch sử khó có thể ghi nhận đầy đủ ấy là lòng dân, ý dân gởi gắm
trong lời kể, Mai Xuân Thưởng là nhân vật lịch sử có thật, nhưng con
người ấy được lòng kính yêu, trí tưởng tượng phóng phú, kỳ diệu của nhân
dân xây dựng thành hình tượng đẹp đẽ hơn sự thật. Cho nên, dễ dàng chấp
nhận những yêu tố hoang đường, phi lịch sử do trí tưởng tượng dựng nên.
Đôi khi còn xem đó là thái độ chân thật nhất của nhân dân đối với nhân
vật họ yêu mến. Sự thật, không thể có bà tiên nào cầm cành mai duy nhất
một bông trao tay quan chủ khảo báo điềm ứng họ Mai (truyện Điềm ứng họ
Mai), nhưng hình ảnh bông mai vàng thắm thiết, thanh khiết được nói đến
chính là lòng tin của nhân dân hướng về Mai Xuân Thưởng, tin vào sự
nghiệp đánh Tây của ông. Cũng vậy, ngựa hồng của Mai Nguyên soái trong
tình thế hiểm nghèo bỗng cất tiếng hí vang, dậm vó cất mình bay qua Bàn
Sấu mênh mông đưa chủ thoát vây, chính là sức mạnh hỗ trợ của nhân dân
bằng trí tưởng tượng kỳ diệu, cũng như trong truyện cổ tích, tiên bụt
thường xuất hiện kịp thời giúp đỡ người hiền. Nói chung, nhân dân
xuất hiện trong các truyện kể không nhiều, nhưng luôn là chỗ dựa, là tư
tưởng để soi sáng hình ảnh nhân vật chính. Ủng hộ cuộc khởi nghĩa, "nhân
dân gánh lúa nộp kho, đi đen đường" (truyện Chiến thắng Đồng Vụ). Tham
gia chiến đấu, nhân dân địa phương chặt tre đan bồ, kết hàng rào, cùng
nghĩa quân quyết tử giữ đồn (truyện sự tích Gò Súng bắn)...Tham Mậu ra
đầu thú bị cọp tàu cau vật chết, ấy cũng là sự trừng trị nhân dân dành
cho kẻ phản bội (truyện Đức bao dung). Đáng chú ý, khi cuộc ứng nghĩa đã
bị dìm trong máu, chủ tướng đã chịu đầu rơi, tư tưởng chiến đấu của
nhân dân vẫn nguyên vẹn, sáng ngời. Tương truyền sau khi thất trận Bàu
Sấu, Mai được thoát vây, theo đường tắt vào mật khu Linh Đổng. Khi ngang
qua Đồng Vụ, tay ông Mai vẫn còn cầm một đoạn tre ngô thay cho thanh
gươm đã gãy. Vị chủ soái thương cảm nghĩ đến nghĩa quân chết trận, luỵ
nhỏ ròng ròng. Ông ngửa mặt lên trời khấn rằng: "Nếu trời chưa dứt cơ
nghiệp đánh Tây của Mai này thì xin đoạn tre tươi xanh. Bằng như mọi
việc đến đây là dứt thì nó cứ héo tàn". Nói xong ông Mai cắm ngọn tre
xuống đất rồi phi ngựa đi (truyện Sự tích rừng tre ngô). Tre vẫn còn
đó, mọc thành rừng dày đặc, vươn ngọn cao vút, xanh thắm một vùng như
lòng dân nguyên vẹn, vậy mà chủ tướng đã vội nộp mình. Lúc ấy, nhân dân
chưa có lý luận để nhận ra chỗ hạn chế trong tư tưởng của Mai Xuân
Thưởng. Nhưng rõ ràng có sự phê phán. Phê phán bằng tấm lòng thành và
niềm tin bất diệt. Mai Xuân Thưởng đã mất, nhưng niềm tin vẫn còn. Tư
tưởng đánh Tây cứu nước của nhân dân, như rừng tre ngô vẫn còn đó. Điều
ấy còn có thể nhận thấy trong câu ca lưu truyền: Ngó vô Linh Đổng mây mờ Nhớ Mai Nguyên soái dựng cờ đánh Tây Hầm Hô cử nước còn đây Khí thiêng đất nước nơi này vẫn thiêng
Một trăm năm qua, thời gian đủ để xóa mờ bao nhiêu thứ, trong đó có sự
khủng bố thù hằn của triều Nguyễn, sức huỷ diệt của chiến tranh, vậy mà
hình ảnh Mai Xuân Thưởng vẫn sống trong lòng nhân dân nguyên vẹn. Quả
lòng dân là trang sử vô giá, vĩnh viễn ghi giữ được cái đẹp mà họ mến
yêu. Khai thác, tìm hiểu, đánh giá truyện kể dân gian về Mai Xuân Thưởng
là việc làm cần nhiều công sức và thời gian. Còn phải chờ đợi những
công trình sưu tầm nghiên cứu qui mô hơn. Nhưng sẽ thật đáng tiếc nếu
như chúng ta bỏ qua, hoặc xem thường những truyện kể dân gian về Mai
Xuân Thưởng, cái mà nhân dân Nghĩa Bình đã ấp ủ, giữ gìn hàng thế kỷ
nay. --------------- Chú thích: (1) Mai Xuân Thưởng trẻ tuổi nhưng nhân dân vẫn gọi bằng ông để tôn kính. (2) Cơ: Mảnh gỗ đáy hòm tiện hình trái tim dùng trong trò cầu tiên. |
Nhận xét
Đăng nhận xét