CÂU CHUYỆN NGHỆ THUẬT (Hiện đại-Hậu hiện đại)
(ĐC sưu tầm trên NET)
Chủ nghĩa hiện thực là trào lưu nghệ thuật lấy hiện thực xã hội
và những vấn đề có thực của con người làm đối tượng sáng tác. Chủ nghĩa
hiện thực hướng tới cung cấp cho công chúng nghệ thuật những bức tranh
chân thực, sống động, quen thuộc về cuộc sống, về môi trường xã hội xung
quanh.
Trong văn học, những tác phẩm có tính hiện thực và giá trị hiện thực tồn tại rất lâu trước khi chủ nghĩa này xuất hiện. Thế nhưng chủ nghĩa hiện thực, với tư cách một trào lưu, một phương pháp, chỉ xuất hiện vào thế kỉ 19 ở các quốc gia Pháp, Ý, Anh, Nga, sau đó ảnh hưởng tới các nước khác. Từ "réalisme" xuất hiện lần đầu tiên ở Pháp vào năm 1826 trên tạp chí Mercure de France, do nhà phê bình Champfleury sử dụng. Với hội họa, Pháp cũng chính là nơi ra đời của hội họa hiện thực. Trong suốt thế kỷ 18 và 19, Pháp là trung tâm về nhiều mặt: xã hội, chính trị, văn hóa... Dù nhiều xu hướng hội họa liên tiếp ra đời, chủ đề chính vẫn là tôn giáo, lịch sử, thần thoại với lối vẽ kinh điển. Gustave Courbet đã xuất hiện và tổ chức cuộc triển lãm mang tên Chủ nghĩa hiện thực của Gustave Courbet 1819 - 1877 vào năm 1855 tại Paris. Ông chính là người đại diện cho hội họa hiện thực. Nghệ thuật của Courbet đã hưởng đến các họa sĩ lớp sau và họ đã đi những bước đầu tiên để lập nên nền tảng cho hội họa hiện đại sau này.
Chủ nghĩa hiện đại là khái niệm rộng, chỉ trào lưu văn học nghệ thuật ở các quốc gia phương Tây và Nam Mỹ, xuất hiện vào cuối thế kỷ 19. Chủ nghĩa hiện đại chủ trương cắt đứt với các truyền thuyết lãng mạn của văn thơ trước đó, đưa ra những quan điểm và phương pháp sáng tác mới như chủ nghĩa ấn tượng, chủ nghĩa lập thể, chủ nghĩa biểu hiện, chủ nghĩa siêu thực, chủ nghĩa Dada, chủ nghĩa vị lai... Khái niệm chủ nghĩa hiện đại còn chỉ các trào lưu Làn sóng mới, Tiểu thuyết mới, kịch phi lý xuất hiện sau Đệ nhị thế chiến.
Chủ nghĩa hiện đại phê phán chủ nghĩa hiện thực. Theo những nghệ sĩ chủ nghĩa hiện đại, chủ nghĩa hiện thực chỉ là sự mô phỏng, bị lệ thuộc vào thực tại. Với họ, nghệ thuật phải mổ xẻ cuộc sống và bay ra khỏi cuộc sống. Tiếp theo chủ nghĩa hiện đại là xu hướng hậu hiện đại, xuất hiện khoảng 1960 tại châu Âu và Mỹ.
Chủ nghĩa hiện thực
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Trong văn học, những tác phẩm có tính hiện thực và giá trị hiện thực tồn tại rất lâu trước khi chủ nghĩa này xuất hiện. Thế nhưng chủ nghĩa hiện thực, với tư cách một trào lưu, một phương pháp, chỉ xuất hiện vào thế kỉ 19 ở các quốc gia Pháp, Ý, Anh, Nga, sau đó ảnh hưởng tới các nước khác. Từ "réalisme" xuất hiện lần đầu tiên ở Pháp vào năm 1826 trên tạp chí Mercure de France, do nhà phê bình Champfleury sử dụng. Với hội họa, Pháp cũng chính là nơi ra đời của hội họa hiện thực. Trong suốt thế kỷ 18 và 19, Pháp là trung tâm về nhiều mặt: xã hội, chính trị, văn hóa... Dù nhiều xu hướng hội họa liên tiếp ra đời, chủ đề chính vẫn là tôn giáo, lịch sử, thần thoại với lối vẽ kinh điển. Gustave Courbet đã xuất hiện và tổ chức cuộc triển lãm mang tên Chủ nghĩa hiện thực của Gustave Courbet 1819 - 1877 vào năm 1855 tại Paris. Ông chính là người đại diện cho hội họa hiện thực. Nghệ thuật của Courbet đã hưởng đến các họa sĩ lớp sau và họ đã đi những bước đầu tiên để lập nên nền tảng cho hội họa hiện đại sau này.
Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 10:09, ngày 4 tháng 11 năm 2013.
Chủ nghĩa hiện đại
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Chủ nghĩa hiện đại phê phán chủ nghĩa hiện thực. Theo những nghệ sĩ chủ nghĩa hiện đại, chủ nghĩa hiện thực chỉ là sự mô phỏng, bị lệ thuộc vào thực tại. Với họ, nghệ thuật phải mổ xẻ cuộc sống và bay ra khỏi cuộc sống. Tiếp theo chủ nghĩa hiện đại là xu hướng hậu hiện đại, xuất hiện khoảng 1960 tại châu Âu và Mỹ.
Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 10:09, ngày 4 tháng 11 năm 2013.
Chủ nghĩa hậu hiện đại
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Chủ nghĩa hậu hiện đại là một xu hướng trong nền văn hóa đương đại được đặc trưng bởi sự chối bỏ sự thật khách quan và siêu tự sự.
Chủ nghĩa hậu hiện đại nhấn mạnh vai trò của ngôn ngữ, những quan hệ
quyền lực, động cơ thúc đẩy; đặc biệt nó tấn công việc sử dụng những sự
phân loại rõ ràng như nam với nữ, bình thường với đồng tính, trắng với
đen, đế quốc với thực dân. Chủ nghĩa hậu hiện đại đã ảnh hưởng tới nhiều
lĩnh vực văn hóa, bao gồm cả phê bình văn học, xã hội học, ngôn ngữ học, kiến trúc, nghệ thuật thị giác, và âm nhạc.
Tư tưởng hậu hiện đại là sự giải thoát có chủ ý từ những cách tiếp cận của chủ nghĩa hiện đại đã thống trị trước đó. Thuật ngữ "hậu hiện đại" bắt nguồn từ sự phê phán tư tưởng khoa học về tính khách quan và tiến bộ gắn liền với sự khai sáng của chủ nghĩa hiện đại.
Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 14:20, ngày 4 tháng 11 năm 2013.
Tư tưởng hậu hiện đại là sự giải thoát có chủ ý từ những cách tiếp cận của chủ nghĩa hiện đại đã thống trị trước đó. Thuật ngữ "hậu hiện đại" bắt nguồn từ sự phê phán tư tưởng khoa học về tính khách quan và tiến bộ gắn liền với sự khai sáng của chủ nghĩa hiện đại.
Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 14:20, ngày 4 tháng 11 năm 2013.
Chủ nghĩa hậu hiện đại là gì?
Thời Hiện Đại, cái từ có âm hưởng chừng như sẽ tồn tại mãi mãi, đã
nhanh chóng trở thành một điều thuộc về quá khứ. Kỹ nghệ hoá đã nhanh
chóng nhường bước cho Hậu-kỹ nghệ hoá, lao động trong nhà máy đã chuyển
về tư gia và văn phòng; trong lãnh vực nghệ thuật,
truyền thống của Cái Mới đang dẫn đến sự kết hợp của nhiều truyền
thống. Ngay cả những người tự cho mình là những nghệ sĩ và kiến trúc sư hiện đại cũng đang nhìn ngoái ra sau hay hai bên cạnh để quyết định xem những phong cách và giá trị nào họ sẽ tiếp tục.
Thời hậu hiện đại
là thời đại của sự lựa chọn không ngừng. Đó là một thời đại không có sự
chính thống nào có thể được tiếp nhận mà không có sự tự ý thức và châm
biếm (irony), bởi vì tất cả mọi truyền thống dường như đều có những giá
trị nhất định. Điều này phần nào là hệ quả của cái gọi là sự bùng nổ
thông tin, sự tiếp cận của những kiến thức được hệ thống hoá, hệ thống
truyền thông và điều khiển học toàn cầu. Đó là một thời đại không phải
chỉ thuộc về những người giàu có, những kẻ chỉ biết thu thập, những kẻ
du hành chiết trung qua thời gian với thật nhiều khả năng lựa chọn,
nhưng hầu như thuộc về mọi cư dân ở thành thị. Chủ nghĩa đa nguyên, cái
“chủ nghĩa” của thời đại chúng ta, vừa là một vấn đề lớn vừa là một cơ
hội lớn: nơi mỗi người đàn ông trở thành một công dân thế giới và mỗi
người đàn bà là một cá nhân được giải phóng; nơi sự lẫn lộn và lo âu trở
thành tâm thế chủ đạo và sự bắt chước trở thành một hình thức
phổ thông của nền văn hoá đại chúng. Đây là cái giá mà chúng ta phải
trả cho thời hậu hiện đại, nó cũng nặng nề như tính chất đơn điệu, giáo
điều và nghèo nàn của thời hiện đại.
Nhưng, mặc dù có nhiều nỗ lực ở Iran và nhiều nơi khác trên thế giới,
người ta không thể trở lại với nền văn hoá và hình thức kỹ nghệ trước
đây, nhằm áp đặt một tôn giáo duy bản luận hay ngay cả một thứ chính
thống giáo hiện đại được. Một khi hệ thống truyền thông toàn cầu và hình
thức sản xuất điều khiển học đã xuất hiện, chúng sẽ sáng tạo nên nhu
cầu của chúng và ngay cả chiến tranh nguyên tử cũng không thể đảo ngược
được.
Thách đố đối với những Hamlet hậu hiện đại, đương đầu bởi một sự giàu
có đến choáng ngợp, là lựa chọn và kết hợp những truyền thống tinh
tuyển, là chiết trung (động từ “chiết trung”, “to eclet” xuất phát từ
danh từ “chủ nghĩa chiết trung”, eclecticism) những khía cạnh của quá
khứ và hiện đại, những khía cạnh có vẻ thích hợp nhất đối với công việc
chúng ta đang làm. Những sự sáng tạo như là hệ quả của việc làm này, nếu
thành công, sẽ là một sự tổng hợp đặc sắc của truyền thống; còn không
thì cũng giống như thêm một món vào bữa ăn. Giữa sự kết hợp đầy tính
phát minh và sự nhai lại lộn xộn, những nhà hậu hiện đại
ra khơi, thường bị lạc hướng và thất bại, nhưng thỉnh thoảng họ cũng
nhận ra sự hứa hẹn lớn lao của một nền văn hoá đa nguyên với rất nhiều
tự do. Chủ nghĩa hậu hiện đại
trên căn bản là một thứ hỗn hợp mang tính chiết trung của bất cứ truyền
thống nào với những gì vừa mới qua: nó vừa là sự kế tục vừa là sự siêu
việt hoá của chủ nghĩa hiện đại.
Những tác phẩm xuất sắc nhất của nó có đặc điểm là mang tính lưỡng mã
(double-coded) và tính châm biếm (irony), tạo thành một đặc điểm của sự
lựa chọn rộng rãi, xung đột và bất liên tục của truyền thống, bởi vì
tính đa tạp này tô đậm rất rõ nét chủ nghĩa đa nguyên của chúng ta.
Phong cách lai ghép của chủ nghĩa hậu hiện đại
đối lập với chủ nghĩa thiểu tố (minimalism) của ý thức hệ hậu kỳ hiện
đại chủ nghĩa (Late-modernism) và phục hồi những gì vốn dựa trên một thị
hiếu hay một tín điều độc đoán.
Ít nhất đây là những gì làm tôi xem chủ nghĩa hậu hiện đại là một trào
lưu văn hoá và là một thời kỳ lịch sử. Nhưng, như bạn đọc sẽ khám phá,
từ và khái niệm [hậu hiện đại chủ nghĩa] thay đổi trong suốt năm mươi
qua và chỉ sáng tỏ dần trong khoảng mười năm vừa qua mà thôi. Chủ nghĩa
hậu hiện đại được xem là tiến bộ trong một số lãnh vực, bị kết án là phản động và hoài cổ trong một số lãnh vực khác; nó được ủng hộ vì tính chất hiện thực
trong kỹ thuật và xã hội, nhưng nó lại bị kết tội là có tính chất thoát
ly. Thậm chí, thỉnh thoảng chủ nghĩa hậu hiện đại bị lên án vì tính
chất hoang tưởng của nó nhưng những người bảo vệ nó lại xem chính sự
thất bại ấy là một ưu điểm. [...]
Rõ ràng Leslie Fiedler là nhà văn đầu tiên đã sử dụng tiếp đầu ngữ
‘hậu’ (post) một cách tích cực vào năm 1965 khi ông lặp đi lặp lại như
một thứ bùa chú và gắn nó với nhiều khuynh hướng cấp tiến
đương thời như: “hậu nhân văn, hậu nam tính, hậu da trắng, hậu anh
hùng… hậu Do Thái”. Những điểm xuất phát vô chính phủ và sáng tạo từ
thuyết chính thống cũng như những sự tấn công vào tính đặc tuyển, tính
kinh viện và những sự đàn áp mang tính thanh giáo của chủ nghĩa hiện đại
đã dẫn đến cuộc phiêu lưu hào hứng đầu tiên của văn hoá hậu hiện đại
như Andreas Huyssen đã chỉ ra vào năm 1984, mặc dù Fiedler và những
người khác vào thập niên 60 đã không bao giờ đưa ra lập luận này và cũng
không bao giờ ý niệm hoá truyền thống. Điều này phải chờ đến thập niên
70 và những bài viết của Ihab Hassan, trong thời kỳ các phong trào cấp
tiến mà Fiedler cổ vũ, oái oăm thay, đã trở thành lỗi thời, phản động,
hoặc chết hẳn.
Vào giữa thập niên 1970, Ihab Hassan tự xem mình như là phát ngôn viên
của chủ nghĩa hậu hiện đại (một thuật ngữ thường bị lược bỏ trong phê bình văn học). Ông gắn liền danh hiệu này với những tư tưởng
thử nghiệm trong nghệ thuật và tính chất siêu kỹ thuật trong kiến trúc –
như của William Burroughs và Buckminster Fuller, “Tính chất vô chính
phủ, Cạn kiệt / Im lặng… Giải-sáng tạo / Giải cơ cấu / Phản đề… Liên văn bản…”,
nói tóm những khuynh hướng mà tôi, cùng với nhiều người khác sau này
xem như là đặc trưng của thời hậu kỳ hiện đại (Late-Modern). Trong văn chương và rồi trong triết học,
vì những bài viết của Jean-Francois Lyotard và khuynh hướng lược bỏ
giải cơ cấu với thời Hậu hiện đại, thuật ngữ hậu hiện đại thường bị buộc
chặt vào với những gì Hassan gọi là ‘tính bất liên tục, tính bất định
và tính nội tại’. Cái tựa đề kỳ lạ trong cuốn sách ERRING, A Postmodern
A/Theology của Mark C. Taylor là đặc trưng của thể loại này vốn xuất
phát từ Derrida và giải cơ cấu. Trong giới triết gia cũng có khuynh
hướng xem tất cả các nhà tư tưởng hậu thực chứng như là những nhà hậu
hiện đại bất kể họ có hay không có điều gì chung ngoài sự bài bác chủ
nghĩa thực chứng logic hiện đại. Như vậy có hai ý nghĩa khá khác nhau
đối với thuật ngữ [hậu hiện đại] và có một sự lẫn lộn phổ quát không
được xác định đối với công chúng. Chính điều này và những tiền đề của
một vài cuộc hội thảo
gần đây về vấn đề liên hệ đã dẫn đến đề tài [bài viết này]: “Chủ nghĩa
hậu hiện đại là gì?” Nó là câu hỏi và cũng là câu trả lời mà tôi muốn
đưa ra và người ta phải nhìn thấy sự phát triển và vận động liên tục của
câu trả lời ấy bao hàm ý nghĩa là không có câu trả lời xác định nào có
thể khả hữu, ít nhất là cho đến khi nó ngừng vận động.
Trong thời niên thiếu của nó, vào thập niên 1960, văn hoá hậu hiện đại
mang tính duy lý và phê phán, một vị trí thiểu số được thiết lập, chẳng
hạn, bởi các nghệ sĩ nhạc Pop và các lý thuyết
gia chống lại quan điểm giảm trừ nghệ thuật hiện đại, chống lại chủ
nghĩa duy mỹ đang thống trị các thiết chế như Viện Bảo tàng Nghệ Thuật
Hiện đại. Trong kiến trúc, Team Ten, Jane Jacobs, Robert Venturi và nhóm
Advocacy Planners đã tấn công nền kiến trúc hiện đại chính thống vì
tính chất đặc tuyển, sự phá huỷ đô thị, tính chất quan liêu và ngôn ngữ
giản dị hoá của nó. Khoảng thập niên 1970, khi những truyền thống này
lớn mạnh và thay đổi và chủ nghĩa hậu hiện đại trở thành một thuật ngữ
chỉ một loạt các khuynh hướng, phong trào trở thành bảo thủ, duy lý và
kinh viện hơn. Nhiều thủ lãnh của thập niên 1960 như Andy Warhol đánh
mất chức năng phê phán và bị đồng hoá vào thị trường nghệ thuật
hay các hoạt động thương mại. Trong thập niên 1980, tình hình lại thay
đổi. Chủ nghĩa hậu hiện đại cuối cùng đã được giới chuyên môn, giới kinh
viện và xã hội nói chung chấp nhận. Nó đã trở thành một phần của những
thành tựu [văn hoá] như là bố mẹ của nó, chủ nghĩa hiện đại, và người
anh kề cận của nó, chủ nghĩa hiện đại hậu kỳ, và trong phê bình văn học, nó cũng nổi lên trong ý nghĩa tương tự như là trong kiến trúc và các truyền thống nghệ thuật.
John Barth (1980) và Umberto Eco
(1983), cùng với nhiều tác giả khác, định nghĩa chủ nghĩa hậu hiện đại
như một cách viết trong đó người ta có thể dùng các hình thức truyền
thống một cách châm biếm (irony) hay hoán vị (displaced) để diễn tả các
chủ đề bất diệt. Nó ghi nhận tính chất vững chắc của chủ nghĩa hiện đại –
sự thay đổi trong thế giới quan do Nietzsch, Einstein, Freud, v.v… mang
lại – nhưng, như John Barth đã nói, nó hy vọng vượt thoát khỏi những
phương tiện và độc giả giới hạn vốn là những đặc trưng của tiểu thuyết hiện đại:
“Tác giả hậu hiện đại lý tưởng của tôi không bài bác mà cũng không bắt
chước các bậc phụ huynh hiện đại của họ trong thế kỷ 20 hay các bậc tổ
phụ tiền hiện đại
của họ trong thế kỷ 19. Hắn có nửa đầu của thế kỷ dưới dây nịt chứ
không phải trên lưng. Không sa vào sự đơn giản hoá đạo lý hay nghệ
thuật, những cách viết vụng về, thói hối lộ, những sự ngây thơ thực sự
hay giả vờ, hắn khao khát nhắm tới một thứ hư cấu mang tính chất dân chủ
hơn là những kỳ quan nghệ thuật hiện đại chủ nghĩa (theo định nghĩa và
sự phán đoán của tôi) như Stories and Texts for Nothing của Beckett
hay Pale Fire của Nabokov. Hắn có thể không hy vọng vươn tới và làm xúc
động những người sùng mộ James Michener và Irving Wallace, đừng nói gì
đến những kẻ mù chữ do bị tràn ngập bởi các phương tiện thông tin đại
chúng. Tuy nhiên hắn nên hy vọng vươn tới và làm vui mừng, ít nhất một
phần thời gian, vượt ra ngoài phạm vi của cái Mann thường gọi là những
tín đồ Ky tô giáo sơ khởi (Early Christians): những kẻ sùng mộ chuyên
nghiệp nền nghệ thuật cao cấp. [...]
Nhưng bởi vì ý nghĩa và truyền thống của nó [chủ nghĩa hậu hiện đại]
thay đổi, người ta không những chỉ xác định khái niệm mà còn phải chỉ ra
thời điểm và bối cảnh chung quanh khái niệm ấy. Có thể nói lại thế này:
tôi gọi chủ nghĩa hậu hiện đại là một thứ chủ nghĩa nhị nguyên đầy
nghịch lý, hay một cái mã kép (double coding), một tên gọi lai ghép cho
thấy chủ nghĩa hậu hiện đại là một sự kế tục của chủ nghĩa hiện đại và
những sự siêu việt hoá của nó. Chủ nghĩa hậu hiện đại theo quan điểm của
Hassan, theo cách nhìn này, hầu như chỉ là hậu kỳ hiện đại, sự tiếp nối
của chủ nghĩa hiện đại trong hình thức tận cùng hay phóng đại của nó mà
thôi. Vài nhà văn và nhà phê bình,
như Barth và Eco, đồng ý với định nghĩa này trong khi nhiều người khác,
gồm cả Hassan và Lyotard, sẽ không đồng ý. Trong cả sự đồng ý hay không
đồng ý, sự hiểu biết và tranh luận
này, có một tính chất biện chứng mềm dẻo giống nhau thể hiện trong
phong trào mà người ta nghi ngờ là sẽ có những bước ngoạt bất ngờ trước
khi nó kết thúc. Một điều chúng ta có thể chắc chắn là: bất cứ lời khai
tử nào cũng quá sớm trước khi các chủ nghĩa hiện đại bị biến mất.
Phan Việt Thuỷ chuyển ngữ
(Dịch theo bài “What is Post-Modernism?” của Charles Jencks in trong
cuốn The Fonta Postmodernism Readerdo Walter Truett Anderson biên tập,
Fonta Press xuất bản, 1996, tr. 26-30)
Nguồn: Dẫn theo http://www.vanhoahoc.vn
Nhận xét
Đăng nhận xét