Lịch sử dân tộc Việt
Nam để tồn tại và phát triển đã trải qua hang nghìn năm chiến đấu chống
ngoại xâm. Trong khoảng thời gian đó, chiến tranh là thể hiện sự so tài
bằng sức lực nghệ thuật chiến đấu với các loại vũ khí thô sơ và hiện đại
thời bấy giờ… Thực hiện chiến lược và chiến thuật, chiến tranh bảo vệ
Tổ quốc, ngoài đường lối quân sự, mưu lược của các tướng lĩnh, sử dụng
các công cụ để thực hiện sức mạnh của dân tộc ta chính là nghệ thuật
chiến đấu của cá nhân và tập thể. Đó chính là thời kỳ hình thành Võ
thuật.
Võ bắt nguồn từ nhu
cầu của cuộc sống và chiến đấu bảo vệ sự sinh tồn, được lưu truyền từ
đời này sang đời khác, từ vùng này sang vùng khác; được sang lọc, tái
tạo và phân chia nhiều chi nhánh, môn phái lan tỏa khắp năm châu. Bản
sắc của một vùng, một chi, một môn phái, một dân tộc có đặc thù riêng
của nó. Nếu đi tìm nguồn gốc của một dòng võ thì cũng chỉ đứt đoạn ở một
khoảng thời gian nào đó vì ở đâu chả có người biết võ. Từ thời nguyên
thủy, tổ tiên ta vì nhu cầu cuộc sống, đã biết ném đá, phóng lao, đánh
gậy múa kiếm… để chống chọi với thú rừng và kẻ thù nhằm bảo vệ cuộc sống
và bộ tộc của chính mình, đó chính là Võ. Qua nhiều đời, nhiều thời
gian, võ thuật được sáng tạo cách tân theo sự tiến bộ của con người,
theo yêu cầu, mục đích sử dụng, theo địa lý khác nhau. Võ thuật cổ
truyền lưu truyền trong dân gian rồi hình thành môn phái. Tuy mỗi môn
phái có khác nhau về gốc gác, nội dung, đòn thế nhưng tôn chỉ và mục
tiêu của Võ thuật cổ truyền nói chung là có nhiều điểm tương đồng…
Trong lịch sử Võ
thuật dân tộc Hà Nội, Sơn Tây, Hà Bắc… là những vùng đất võ nổi tiếng đã
nẩy sinh nhiều Anh hùng hào kiệt, Trạng nguyên, Bảng nhãn, Cử nhân võ
thuật,…Những lò võ là gốc của Võ thuật dân tộc đều thuộc vùng đất này.
Qua một thời gian lịch sử đã xây dựng được một hệ thống các môn Võ thuật
dân tộc đậm đà bản sắc. Lão Võ sư Văn Nhân đã được sinh ra ở vùng đất
đó. Ông tên thật là Vũ Văn Nhàn – Nguyễn Văn Nhân, ông sinh vào những
năm 20 của thế kỷ XX tại vùng Kinh Bắc lịch sử, một vùng đất giàu truyền
thống võ thuật. Từ nhỏ vốn là một cậu bé có tư chất võ thuật ông là
người được thừa hưởng một căn bản tinh hoa Võ thuật dân tộc của dòng họ.
Trên cơ sở đó ông còn nghiên cứu tìm hiểu tinh hoa của các dòng võ khác
trong và ngoài nước để bổ sung và hoàn thiện vốn Võ thuật dân tộc của
mình.
Sớm hiểu là người dân
của một dân tộc bị đô hộ Lão võ sư đã tham gia cách mạng từ rất sớm.
Tháng 8/1945 khi cả dân tộc bừng bừng trong cơn bão cách mạng, Lão võ sư
vào bộ đội. Ông phụ trách Đại đội quân báo của Trung đoàn E41, Liên khu
Ba. Suất những năm dài kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Lão võ
sư đã tham gia huấn luyện võ thuật chiến đấu cho bộ đội ở chiến khu
Việt Bắc. Những năm sau hòa bình ông tham gia huấn luyện võ thuật cho
các đơn vị đặc biệt của Bộ Quốc Phòng.
Suất mấy chục năm tham gia huấn
luyện võ thuật cho các đơn vị đặc biệt của lực lượng vũ trang và đã từng
tham gia công tác bảo vệ một số vị lãnh tụ của Đảng và Nhà nước, Lão võ
sư đã được tặng thưởng nhiều huân chương cao quý.
Sau khi nước nhà
thống nhất, theo yêu cầu chung và phong trào phát triển võ thuật nước
nhà Lão võ sư đã tinh lọc và đúc kết được một phương pháp rèn luyện võ
thuật thích hợp với tính cách và thể trạng của người Việt Nam. Phương
pháp đó dựa trên vốn liếng căn bản là tinh hoa Võ thuật của dòng tộc
cùng kinh nghiệm gần một đời người chiến đấu và huấn luyện võ thuật,
Phương pháp võ đó chính là Võ phái Thăng Long Võ Đạo.
Thăng Long Võ Đạo lấy
nhu, hòa, nhân, trí làm gốc. Xuất phát từ đặc điểm của người Việt Nam
tầm vóc nhỏ bé và cách sống nặng về tình, trong thời gian dài lịch sử
lại phải thường xuyên đối đầu với người phương Bắc thể lực to khỏe và
quyết trí cao, do đó khó có thể đương lực, ngang bằng theo lối đối đòn
và trả miếng bằng sức mạnh cơ bắp. Muốn thắng phải tìm ra những thế mạnh
riêng. Xuất phát từ thể chất không cứng, mạnh, võ sinh không thể tập
theo lối cương cường mà tập trung vào việc luyện công và môn công để
khắc chế võ Tàu. Cụ thể là tập nhiều về thân pháp để tránh né sao cho
thật thuần thục, để những đòn đánh của đối phương đều không đến được
đích, rồi chọn cơ hội tấn công vào đúng điểm hở, điểm yếu của đối phương
để dứt điểm.
Lão võ sư Văn Nhân
cho rằng sở học của Võ thuật Thăng Long võ đạo là để đạt cái tính để chế
cái nhiều, cái khéo để chế cái mạnh, cái tĩnh để chế cái động, cái đột
để phá cái ì, cái cong để chống cái cứng, cái thẳng để chống cái vòng,
cái xuyên để chống cái bè… Tất cả đều phải đạt độ quyền biến vi côn
kiếm, tới mức thần quyền.
Phương châm của Thăng
Long võ đạo là né tránh đánh nhanh điểm đặt đòn chính xác, đúng chỗ
hiểm có hiệu quả cao. Do đó về võ thuật phải luyện thân pháp, di chuyển
cực kỳ mau lẹ để luôn tránh được đòn của đối phương. Thăng Long võ đạo
nghiên cứu kỹ hệ thống huyệt đạo trên cơ thể con người và những bài
thuốc lấy từ cây cỏ, muông thú để chữa trị bảo kiện cơ thể.
Các bài bản của môn
phái Thăng Long đã được Lão võ sư Văn Nhân hệ thống hóa có cơ sở khoa
học, có tính đến các kiến thức y lý, lấy “Bát pháp, Lục hợp” làm Cơ bản
công “Bát bộ thiên long” làm bộ pháp “Yêu tự xà hành” làm thân pháp,
“Thăng Long quyền” làm thủ pháp, “Nhãn tự điện quang” làm nhãn pháp.
Thuật cường thân để luyện nội lực.
Ngoài quyền cước các
môn sinh Thăng Long võ đạo được tập tinh thông, “Thập bát ban võ nghệ”
và các loại binh khí đặc dị của môn phái . Bên cạnh những bài quyền
chiến đấu trong chương trình huấn luyện của môn phái Thăng Long võ đạo
còn có những bài quyền dưỡng sinh chữa bệnh và các phương pháp Khí công
nhập định nhằm tu dưỡng nhân cách con người.
Thăng Long võ đạo là
một môn Võ thuật dân tộc do Lão võ sư Nguyễn Văn Nhân khởi xướng và suy
tôn người Anh hung dân tộc Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn làm Thánh
tổ của môn phái và lấy ngày 20 tháng 8 (Âm lịch) làm ngày Giỗ Tổ.
Với chương trình huấn
luyện có hệ thống, có mục tiêu rõ rang Thăng Long võ đạo đã nhanh chóng
phát triển rộng trên địa bàn cả nước cũng như nước ngoài.
Hiện nay Võ sư – Bác
sĩ Nguyễn Văn Thắng (Vũ Mạnh Thắng ) (con trai cố võ sư Nguyễn Văn
Nhân) đang chấp chưởng môn phái (là chưởng môn đời thứ 5 theo dòng phái -
đời thứ 2 theo môn phái Thăng Long võ đạo) tiếp tục kế tục tinh hoa
truyền thống và đưa môn phái lên một tầm cao mới. Với những bí kíp võ
học và khí công VS – BS Văn Thắng phát triển môn phái một cách toàn diện
đi từ Võ thuật Kungfu đến Nội công đỉnh cao và Khí công trị liệu.
Dưới sự lãnh đạo của VS – BS Văn
Thắng cùng các VS. Công Thắng, VS. Vũ Hải, VS. Bùi Hoàng Lân, VS. Nguyễn
Anh Tuấn, VS. Chử Đức Vân, VS. Minh Phương, VS. Quang Phát, VS. Nguyễn
Ngọc Dương, VS. Phạm Đức… Thăng Long Võ Đạo đang đóng góp tích cực vào
sự nghiệp phát triển võ thuật của Thủ đô và Việt Nam, đưa tinh hoa võ cổ
truyền Việt Nam ra toàn thế giới.
Lần cập nhật cuối ( MONDAY, 04 OCTOBER 2010 06:46 )
Nội Công Thăng Long Võ Đạo
Búa tạ, giầy đinh thua ngón tay bé nhỏ
TUESDAY, 19 FEBRUARY 2013 09:41
administrator
Búa tạ, giầy đinh thua ngón tay bé nhỏ
Bằng pháp luyện công, BS.VS Nguyễn Văn Thắng có thể dùng ngón tay đục thủng tường.
Không những thế, ông còn
để đá tảng trên một ngón tay, rồi dùng búa tạ cho lực sĩ đánh mạnh,
hoặc cho 10 người thanh niên khoẻ mạnh đi giầy đinh nện trên ngón
tay...
Đây là bí quyết kungfu tuyệt đỉnh được giới võ lâm gọi là nhất dương chỉ.
Tay không chống lại bàn đinh
Trên
võ đường của môn phái Thăng Long võ đạo, các học trò xếp hai bàn đinh
10cm lên nhau, để tiếp 5 viên ngói đỏ, rồi người thầy của mình BS.VS
Nguyễn Văn Thắng (Trưởng khoa giải phẫu tế bào, Bệnh viện Thanh Nhàn, Hà
Nội) để ngón tay trỏ trắng hồng lên trên, học trò xếp tiếp 5 viên gạch
nung già, rồi một võ sư có sức mạnh mình đồng da sắt, dùng búa tạ quai
sắt đập mạnh...
Tôi
rùng mình không dám nhìn. Chỉ nghe một tiếng hự... 5 viên gạch và ngói
bên dưới vỡ tan, tay võ sư đang ở sát bàn đinh. Khuôn mặt BS Thắng vẫn
bình thản, tươi cười, giơ ngón tay hơi ửng đỏ lên cho mọi người xem. Sau
1 phút ngón tay lại trở về bình thường.
Thấy
tôi chưa hết ngỡ ngàng, VS Thắng đế luôn: Đây chỉ là màn biểu diễn nhỏ,
"tập một tý cho vui", còn sức mạnh thực sự của ngón tay thì lớn hơn
nhiều, có thể xuyên thủng tường, hạ gục đối phương... chứ việc búa đập,
giày đinh xéo thấm vào đâu.
Thực
tế, đã có một vài lần khi các đoàn võ thuật của Pháp, Thụy Sỹ... sang
thăm, ngoài việc biểu diễn, BS Thắng không ngại ngần để ngón tay xuống
đất, cho các võ sinh nước ngoài nặng cả trăm kg "thử nghiệm" đi giầy
đinh nhảy lên, mà ngón tay vẫn lành lặn.
Mình đồng da sắt mới luyện được nhất dương chỉ
BS.VS
Thắng cho biết, đó là kungfu nhất dương chỉ trong bí kíp Thôi Sơn quyền
nổi tiếng do Cụ Tốn - cụ ngoại của võ sư - là cử nhân võ cuối cùng của
Triều Nguyễn, người được vua Tự Đức ban tặng 4 chữ "xạ năng quán quốc"
để lại. Thôi Sơn quyền là bí kíp dùng để luyện đòn tay. Nếu ai luyện
được thành công bí kíp này chắc chắn sẽ có một đôi tay cứng như thép,
sức mạnh có thể đấm xuyên tường. Thậm chí đạt đến ngưỡng giới cao nhất
có thể dùng một ngón tay đục thủng tường mà trong giới võ lâm gọi là
.... nhất dương chỉ.
Tuy
nhiên, đây là bí kíp tuyệt kỹ rất hiếm người luyện được. Bởi người
trước khi bước vào luyện bí kíp này, bắt buộc phải có một nền kiến thức
võ học vững chắc và nội công tương đối uyên thâm. Cùng với đó phải là
người có đạo đức tốt và sự trung thành tuyệt đối với môn phái.
Để
luyện thành công Thôi Sơn quyền, phải hết sức vất vả, kiên trì trong
nhiều năm trời, có khi cả đời cũng không luyện được. Vì để có được sức
mạnh của "nhất dương chỉ", người luyện phải thâm hậu toàn bộ phương pháp
về vận công, đề khí, nội lực có được sức mạnh toàn thân cứng như sắt
thép, giáo đâm, búa đập không xây xát... (môn sinh phải ở trình độ khổ
luyện sau 7 - 10 năm), sau đó tăng cường luyện tập ngạnh công ở hai cánh
tay, sao cho cánh tay bình thường thì mềm dẻo nhưng khi vận công thì
cứng hơn sắt thép.
Muốn
có nhất dương chỉ phải luyện "thiết chương công" tức bàn tay có sức
mạnh. Đầu tiên là các bài cương công, tôi luyện cơ lực và ma sát của bàn
tay với các thế nắn, bóp, xỉa, vỗ đập trên cát, sỏi, đá ong, đóng cọc
bằng tay trên nền cứng, rồi dùng tay không đấm thẳng vào tường hoặc vào
thân cây, cột sắt... Cùng với luyện cương công phải luyện nhu công: Vỗ,
chém, đập vào cao su, xốp, nước, đất ướt, các lu nước... để sao cho tay
bên trong rắn như sắt thép, bên ngoài mềm như nhung...
Khi
bàn tay đã đạt được kungfu "Thôi Sơn quyền" nghĩa là sở hữu một nội
công uyên thâm và thân pháp xuất quỷ nhập thần, khi đó sẽ dùng nhiều
phương pháp luyện bổ trợ, vận công đề khí ra bàn tay và từ bàn tay ra
ngón tay bằng các chiêu: Vặn đũa, đóng cả bó đũa 12 chiếc xuống lòng
đất, kéo lò xo... để đủ lực cương nhu và áp dụng các bí kíp võ khác để
tạo lực cho "nhất dương chỉ". Bởi nhất dương chỉ thường được thực hiện
để đạt ở thế tấn công và phòng thủ nhanh nhất.
Cú đấm chết ngựa
Giở
cuốn gia phả, BS.VS Thắng cho chúng tôi xem các huyền thoại võ nổi
tiếng của làng võ Việt Nam như Mùi Đen, Lý Đen, Tư Bá, Tư Côi... cùng
hàng trăm đệ tử khác do cụ Cử Tốn truyền dạy. Đặc biệt trong đó có hai
huyền thoại được làng võ Việt nhắc đến nhiều nhất là hai anh em Tư Vá và
Tư Côi, người đã luyện được kungfu tuyệt kỹ nên có sức mạnh phi thường,
có thể đấm chết ngựa, đá chết voi. Tư Côi sở hữu cú đá có kình lực rất
mạnh, có thể giết chết voi, trong khi cụ Tư Vá có cú đấm uy lực trong
chốc lát khiến một con ngựa khoẻ mạnh lăn ra chết.
Môn phái Thăng Long võ đạo (TLVĐ) hiện
vẫn duy trì các kỷ luật nghiêm ngặt, những bài tập rất nặng, thậm chí có
phần hơi khắc nghiệt vì tinh thần võ đạo, học võ là để rèn luyện thân
thể, không phải dùng để đánh người. Môn phái này có nhiều bài quyền được
cho là bí kíp gia truyền như "Thiên Long thương", "Thượng phương bảo
kiếm", "Cử long bát quái đao", "Bát bộ côn", "Tuyết kiếm"... cùng một
kho tàng kiến thức về võ học trên nhiều lĩnh vực về khí công chữa bệnh,
nội công kungfu, phong thủy - tâm pháp và những bài võ gia truyền sử
dụng đủ bát bộ binh khí. Các bài biểu diễn võ, công năng đặc dị của môn
phái đã đạt gần 200 huy chương các loại trong các kỳ đại hội võ thuật
Nguồn "Báo Khoa học và Đời sống"
Người anh hùng đả hổ chấn động làng võ Bắc Kỳ
TUESDAY, 11 SEPTEMBER 2012 09:27
administrator
Người
được đề cập trong tích xưa có biệt danh là Mùi Đen, một đệ tử của cụ
Cử Tốn (cụ Cử Tốn là cử nhân võ cuối cùng của thời kỳ phong kiến – một
huyền thoại võ công Bắc Kỳ thời Pháp thuộc).
Trong
tích xưa, Mùi Đen là một đại cao thủ, người sở hữu cú đấm có thể hạ
gục đối thủ trong chốc lát. Thậm chí, ông được hậu thế truyền tụng là
người Việt Nam duy nhất có thể đấm chết một lúc hai con hổ trước sự
chứng kiến của hàng trăm người dân Hà Nội thời bấy giờ.
Thượng đài để khẳng định võ Việt
Mùi Đen là một cao thủ nổi tiếng của Việt Nam trước cách mạng tháng
Tám. Ông là đệ tử ruột của cụ Cử Tốn – một huyền thoại võ công Việt
Nam. Trong lịch sử của môn phái Thăng Long võ Đạo, thì cụ Cử Tốn chính
là ông ngoại của võ sư Nguyễn Văn Nhân người sáng lập ra môn phái.
Nhiều “bí kíp” độc đáo của môn phái Thăng Long Võ Đạo hiện này được kế
thừa từ di sản võ học của cụ Cử Tốn. Do đó khi nhắc đến Thăng Long Võ
Đạo, nhiều người sẽ liên tưởng đến tên tuổi của tay đấm huyền thoại
này.
Một pha biểu diễn nội công rợn người của môn phái Thăng Long Võ Đạo
Những
năm đầu của thế kỷ trước, võ học Việt Nam chịu nhiều áp lực lớn đến từ
phía thực dân Pháp. Nước nhà bị đô hộ nên trong con mắt của người Pháp
và nhiều dân tộc khác hình ảnh của người Việt Nam bị coi thường. Thực
dân Pháp cai trị nước ta bằng nhiều chính sách cấm đoán, trong đó có
chính sách cấm dạy võ và học võ. Tuy nhiên, để chấn hưng tinh thần dân
tộc, khẳng định tư chất của người Việt Nam, những võ sư từng là những
tướng võ trước đây của triều đình Huế, hay những võ tướng bị thất trận
trọng các cuộc khởãi nghĩa như Yên Thế, Bãi Sậy…. sau khi thoát được sự
truy lùng của thực dân Pháp đã âm thầm lập võ đường và truyền võ cho
các học trò.
Để
khẳng định hình ảnh của người Việt và võ học Việt Nam,, những võ sinh
sau khi được truyền thụ võ công sẵn sàng đăng đài đánh với những võ sĩ
đến từ Trung Quốc, Nhật Bản, Pháp. Thậm chí, khi được thực dân Pháp cho
phép lập đài tự do, nhiều môn phái đã dựng những võ đài riêng như một
sự thách thức với những cao thủ võ lâm đến từ nhiều nước khác. Cuộc
chiến trên đài thời bấy giờ thực chất là cuộc chiến vì danh dự của người
Việt. Việc thắng thua của các võ sĩ không đơn thuần là thượng đài mang
tính chất thể thao đơn thuần.
Trong
lần trò chuyện với Võ sư Nguyễn Văn Ty (SN 1937), một võ sư tên tuổi,
trưởng môn phái Nam Hồng Sơn, ông cho biết, “thời bấy giờ, để đấu lại
với những cao thủ đến từ Ấn Độ, Triều Tiên, Nhật Bản, Trung Quốc,
Camphuchia, Pháp, các võ sư của nhiều môn phái Việt Nam thường phải liên
hiệp lại để bàn cách đánh hạ đối phương. Có những cuộc đấu lúc đầu
phần thắng thuộc về đối thủ đến từ nhiều quốc gia khác nhưng sau khi
những bậc thầy võ công Việt Nam hội bàn đã tìm ra cách để chiến thắng.
Trong
ký ức của võ sư Nguyễn Văn Tỵ, ông còn nhớ như in cuộc đấu kịch tính
giữa võ sĩ đến từ Nhật Bản và một võ sĩ Việt Nam. Theo võ sư Tỵ, “Võ sĩ
Nhật Bản sở hữu một bí kíp lạ. Khi võ sĩ của chúng ta đứng ở phía sau
không thể nào nhìn rõ được hình ảnh của đối thủ nên không biết cách ra
đòn. Chính vì vậy, lúc mới thượng đài, võ sĩ Việt Nam mất phương hướng
dẫn tới bị đối thủ hạ gục một cách đơn giản”. Sau lần đó bốn đại cao thủ
cũng là bậc chí tôn võ Việt lúc bấy giờ là cụ Ba Các, cụ Cử Tốn, cụ
Hàn Bái, cụ Sáu Tộ đã họp bàn và đưa ra một quyết định chính xác: “Khi
lên đấu, sau khi luồn ra sau đối thủ thì thẳng tay đấm mạnh không cần
thiết có nhìn thấy được đối thủ hay không. Chính nhờ cách đánh đó, khi
thượng đài tái đấu, võ sĩ của chúng ta đã hạ gục đối thủ chớp nhoáng”.
Câu
chuyện võ sư Nguyễn Văn Tỵ kể lại cũng là để minh chứng cho một thời
kỳ thượng đài vì hình ảnh người Việt Nam của một lớp võ sĩ người Việt
trước cách mạng tháng Tám. Cũng chính vì tinh thần đó, trong làng võ
Việt Nam bấy giờ đã xuất hiện những huyền thoại võ lâm mà Mùi Đen là một
điển hình. Nhắc đến võ sĩ Mùi Đen, làng võ Việt nhớ đến hình ảnh của
một võ sĩ chu du khắp Đông Nam Á chỉ mục đích duy nhất là đấu đài. Võ sư
Thắng cho biết “hễ nơi nào lập võ đài là ở đó có sự hiện diện của Mùi
Đen”. Hành lý vỏn vẹn chỉ một chiếc túi trên tay, võ sĩ Mùi Đen tự tin
vào Nam ra Bắc, thậm chí sang cả Camphuchia, Thái Lan, Malaixia, Hồng
Kong để thi thố võ công. Ông được ví là một võ sĩ đánh hăng và hay nhất
những năm đầu thế kỷ XX.
Đánh chết hổ nhằm dằn mặt thực dân Pháp?
Thượng
đài thi đấu, Mùi Đen nhiều lần hạ gục đối thủ chỉ bằng một nắm đấm.
Nhưng cuộc đời huy hoàng của võ sĩ này được nhiều người nhắc đến trong
một giai thoại nổi tiếng làng võ. Mùi Đen là người duy nhất được lưu
danh đánh một lúc chết hai con hổ ngay tại Sở thú Hà Nội trước sự chứng
kiến của hàng trăm người. Chính giai thoại được truyền tụng trong làng
võ Việt suốt hơn thế kỷ qua khiến tên tuổi của ông trở thành bất tử với
hậu thế.
Tích
xưa kể lại, cụ Cử Tốn do bí mật mở võ đường đào tạo các võ sinh nên
thực dân Pháp sợ rằng đây chính là mầm loạn trong tương lai. Chính quyền
thực dân nhiều lần nghĩ cách thu phục ông nhưng bất thành đành nghĩ kế
hèn hạ nhằm hãm hại. Chúng ngang nhiên loan báo khắp Đông Dương, ai
thượng đài đánh thắng được cụ Cử Tốn, người đó sẽ nhận được một khoản
tiền hàng trăm đồng bạc Đông Dương. Thực chất hành động của bọn thực dân
là kế “mượn tay giết người” một cách công khai.
Theo
nhiều võ sư, những cuộc chiến mà Pháp đứng sau giật dây thường diễn ra
theo cách tàn khốc nhất có thể. Bên cạnh võ đài luôn đặt sẵn một cỗ
quan tài mây, trận đấu chỉ kết thúc khi một trong hai người bỏ mạng. Đa
số những ai mắc kế giăng bẫy của thực dân Pháp chỉ có một con đường
chết. Đơn giản, dù thắng võ sĩ này đồng nghĩa sẽ chấp nhận thi đấu với
một võ sĩ khác. Đó là chiêu thức thâm hiểm của thực dân Pháp là “Dùng
người Việt trị người Việt”.
Biết
rõ âm mưu của Pháp, Cụ Cử Tốn cùng các đệ tử mưu bàn kế sách đối phó.
Cả nhóm tìm cách dằn mặt các đối thủ không để ai ra thách đấu đồng
nghĩa với phá hỏng âm mưu của thực dân Pháp. Cuối cùng thầy trò đưa ra
quyết định táo bạo. Diễn lại tích Võ Tòng đấm hổ ngay chính tại Sở thú
Hà Nội, và người được chọn vào vai không ai khác là tay đấm huyền thoại
Mùi Đen.
Đúng
kế hoạch, hôm đó là ngày chủ nhật, sở thú đông người, ai nấy đều ngạc
nhiên khi thấy võ đài được dựng lên. Cụ Cử Tốn điềm tĩnh phát biểu
trước đông đảo nhân dân, nói rõ mục đích của việc làm hôm nay. Ở dưới
nhiều người sợ hãi, thậm chí nhắm mắt không dám trông lên. Mùi Đen hùng
dũng bước ra, theo sau là mấy chục người khiêng hẳn hai chuồng hổ.
Trống nổi lên giục giã, hai con hổ lồng lên, gầm rú dữ tợn, nhiều người
không đủ can đảm để chứng kiến đành sợ hãi bỏ chạy.
Mùi
Đen bình tĩnh tiến thẳng lại chuồng hổ bên trái, nơi nhốt con hổ cụt
đuôi nổi tiếng hung dữ sau đó tự tay mở cửa. Con hổ lao lên, hai bên bắt
đầu quần nhau. Hổ lâu ngày bị giam hãm, nay được sổ lồng nên hung giữ
gấp trăm lần. Còn Mùi Đen tỏ ra hết sức bình tĩnh. Sau hơn một tiếng
đồng hồ quần thảo, hổ gần như đã kiệt sức vì dính phải nhiều cú đấm thôi
sơn của võ sĩ Mùi Đen. Nắm thời cơ, Mùi Đen giáng đòn quyết định vào
chính giữa yết hầu khiến con hổ lăn ra chết. Đến lúc này quần hùng bắt
đầu reo hò khôn xiết, bọn Pháp chứng kiến cảnh đóá mặt mày xanh mét.
Những
tưởng sau khi đánh chết một con hổ, võ sĩ Mùi Đen phải nghỉ ngơi.
Nhưng khi tiếng la hét chúc tụng của đám đông chưa dứt, Mùi Đen tiến
lại chuồng cọp thứ hai. Cuộc chiến với con cọp cái này cũng diễn ra gần
một tiếng. Kết quả, phần thắng nghiêng về phía võ sĩ huyền thoại. Sau
trận đấu, danh tiếng của võ sĩ Mùi đen càng nổi, anh hùng võ lâm vì
thế mà khiếp vía không ai dám đến đăng ký thượng đài với cụ Cử Tốn. Bởi
họ cho rằng học trò giỏi thế chắc chắn thầy càng giỏi hơn. Sau sự kiện
này, phía Pháp cũng đành ngậm ngùi chịu thất bại về kế sách hèn hạ của
mình.
Chuyện
về người anh hùng đả hổ chấn động Bắc kỳ đến nay vẫn chỉ là huyền
thoại, nhưng Mùi Đen được giới võ thuật phong biệt danh là Hắc Hổ là có
thật. Huyền thoại đả hổ có thể là một cách để ghi nhớ về tay đấm khét
tiếng làng võ thuật một thời này.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét