Thứ Tư, 2 tháng 4, 2014

TIẾU LÂM KIM CỔ 33

YÊU nhầm GHÉT

Yêu đi tìm yêu, gặp ghét ngồi nhăn nhó
Quằn quại sân si, ai oán tơi bời!
Yêu thẫn thờ, chẳng đành yêu cả,
Thương tình yêu ghét mà thôi!

Ghét ơi ghét, ghét thương yêu không ghét?
Yêu thương rồi là thương ghét một đời!
Ghét ơi ghét, vui hay buồn cự tuyêt
Mà sao chẳng thốt một lời?

Yêu yêu ghét thế, ghét ghét yêu đành đoạn.
Người ơi người, buồn nản quá người ơi!...

Ôi thôi!
Nghe ghét bật cười ha hả,
Khoái trá,
Biết rồi!
Yêu mù lòa, nhầm ghét...CÁ THÁNG TƯ!

Trần Hạnh Thu

--------------------------

(ĐC sưu tầm trên NET)


Phiếm đàm: Tinh thần ngày Cá tháng Tư

Thứ Hai, ngày 31/03/2014 09:00 AM (GMT+7)
Sự kiện: Cá tháng tư
Đã có nạn nhân của ngày Cá tháng Tư, một cô gái nhảy xuống sông Thị Nghè tự tử. (Tin Cá tháng 4)
Đón xem những VIDEO HÀI đau bụng nhất, TRANH VUI hài hước, TIN VỊT, TRUYỆN CƯỜI , THƠ VUI khó đỡ nhất tại CƯỜI 24h.
Ngày 1-4 được gọi là ngày Cá tháng Tư, hay còn gọi là “Ngày nói dối”, là ngày mà người ta sẵn sàng nói dối nhau mọi lúc mọi nơi với đủ các thể loại.
Nguồn gốc của ngày Cá tháng Tư được cho là có xuất xứ từ Pháp, từ hồi năm 1564. Khi đó Nhà Vua nổi hứng đổi lịch ăn tết mới, chọn ngày 1-1, thay vì ngày 1-4  như trước kia.  Việc đổi lịch đột ngột nhiều người không biết nên họ cứ ăn tết vào ngày 1-4 theo lịch cũ, để rồi bị những người khác chọc quê. Thế là nhân chuyện đó, cứ dịp 1-4 hàng năm người dân Pháp lại kiếm chuyện để trêu chọc nhau, ai cũng cố phịa ra chuyện gì đó khiến người khác chả biết thật hay đùa. Lừa được người khác “dính bẫy” sẽ trở thành niềm vui của mỗi người trong ngày này.
Pháp là nước giầu có, mà thông thường những việc làm của người giầu thì thường được kẻ khác bắt chước, chả cần biết tốt hay xấu. Ngày Cá tháng Tư của người Pháp cũng vậy, nhanh chóng lan ra hết nước này qua nước khác, cứ như dịch cúm gà, dần dà lan đến VN lúc nào không hay.
Trước kia, thông tin chưa phát triển, ở xứ ta ít người biết đến 1-4. Khoảng chục năm trở lại đây, dân ta mới chính thức tiếp nhận ngày Cá tháng Tư, ấy là nói trên phương diện nó đã thực sự đi vào đời sống. Còn ngày nay, ai mà không biết ngày này thì tất yếu sẽ bị chọc quê như những người Pháp không biết việc đổi lịch ăn tết cách đây 5 thế kỷ.
Tất nhiên, cứ đến ngày 1-4, những người chưa biết hoặc sắp biết, kể cả người mới biết ngày Cá thángTư thì kiểu gì cũng bị quả lừa đau, nhẹ thì tức tối một lúc, nặng thì có khi hoảng loạn chạy đi đâu đó để rồi bị tốn công sức tiền bạc, có khi còn bị nổi khùng lên gây hậu quả nghiệm trọng.
Có chuyện rất đau lòng như thế này: Cô gái nọ tự dưng nhân được tin nhắn từ số máy lạ, nói rằng cô đang bị người yêu lừa dối, anh ta đã có người khác và hôm nay họ sẽ đi đăng ký kết hôn gấp để làm thủ tục định cư nước ngoài, nếu cô không tin thì cứ âm thầm theo dõi.  (Thực ra tin nhắn nặc danh này là của cô em gái anh người yêu, mục đích lừa chị dâu tương lai ngày 1-4. Sở dĩ cô em bịa ra nội dung chuyện này vì biết thừa hôm nay anh trai sẽ chở cô em họ ra phường làm thủ tục tạm trú). Vốn chưa quen ngày Cá tháng Tư, cô gái tưởng thật liền đi theo dõi và quả nhiên thấy người yêu chở một cô gái ra phường. Trực quan quá sinh động, cô gái không thể không tin. Cô đau khổ tột cùng, quyết ra sông Thị Nghè tự tử. Trước khi nhảy xuống sông, cô có nhắn tin cho người yêu lần cuối. Người yêu nhận được tin nhắn của cô, nhưng khổ nỗi anh ta vốn đã cảnh giác ngày 1-4 từ sáng sớm, cho rằng người yêu “câu cá” nên cóc thèm ra cứu. Kết quả là cô gái nhảy xuống sông thật, nhưng rất may, nước sông đặc quánh lại đầy rác, cô không chìm được, không chết nhưng người cô cứ thum thủm suốt mấy ngày.
Câu chuyện đau lòng trên chỉ là bịa nhân ngày 1-4, nhưng nó đã gióng lên một hồi chuông cảnh báo về những hậu quả nặng nề có thể xảy ra nếu tình trạng nói dối bị lạm dụng. Từ đó làm nảy sinh cuộc tranh cãi tóe loe giữa hai phe: phe cánh tả thì phản đối ngày 1-4, phe cực hữu thì ủng hộ.
Những người ủng hộ ngày Cá tháng Tư thì cho rằng trong cuộc sống ai cũng từng nói dối, nói dối là một nhu cầu có thật. Vậy nên cần có một ngày để mọi người nói dối thỏa thích, để những ngày khác người ta bớt nói dối đi. Mặt tích cực khác, là khi nói dối tập trung vào một ngày thì mọi người sẽ biết để dễ xử lý hơn, chứ nếu để nói dối lung tung, thật giả lẫn lộn, không biết đâu mà lần, rất nguy hiểm.
Người phản đối thì họ lại không nghĩ như vậy. Họ cho rằng ngay cả khi được nói dối thoải mái trong ngày 1-4 thì những ngày khác người ta vẫn nói dối như thường, chả thấy bớt đi được tí tẹo nào, có khi lại quen mồm nói dối nhiều hơn. Trong khi đó, thiệt hại trước mắt của ngày 1-4  do mọi người nói dối đồng loạt gây nên là rất đáng kể và quá rõ ràng. Một vài người đưa dẫn chứng cụ thể như sau:
Một ông chủ quán nhậu cho rằng trong năm không có ngày nào  mà quán nhậu ế ẩm như ngày 1-4, kể cả là so với ngày mưa bão hoặc triều cường lên đỉnh. Ông này cho biết, cứ 10 ông được bạn gọi rủ đi nhậu trong ngày 1-4 thì có đến 11 ông nghĩ rằng bạn đang “câu cá” mình, kết quả là chả ông nào đi. Vì vậy ông ta đề nghị khẩn trương dẹp ngay ngày Cá Tháng Tư.
Hoặc:
Một ông bác sỹ nhiều năm kinh nghiệm thì tỏ ra rất bức xúc vì trong ngày Cá tháng Tư những ca cấp cứu khi đến viện đều nặng hơn những ngày bình thường. Lý giải cho hiện tượng này, vị bác sỹ cho rằng rất nhiều người khi nhận được tin báo người thân bị bệnh hay tai nạn, thì lại nghĩ rằng mình đang bị lừa “cá tháng tư’, nên chả quan tâm, đến khi phát hiện sự thật thì đã muộn.
Trong khi 2 phe vẫn đang hăng say cãi nhau nảy lửa thì phe dung hòa cho rằng cuộc sống tươi đẹp thì không thể thiếu những lời nói dối đáng yêu. Ngày 1-4 rất cần để chúng ta đùa nhau những trò vui vẻ và vô hại. Tuy nhiên, ngày 1-4 sẽ trở thành không cần thiết, thậm chí đáng lên án nếu chúng ta đùa quá trớn, không ý thức được những khả năng có thể gây hại cho nhau. Tuy có hơi “ba phải”, nhưng ý kiến của phe dung hòa không phải không có lý.
Cuộc đời dù muốn hay không thì vẫn còn đó những lời nói dối vô hại và cả những trò ác ý, dối trá, lọc lừa. Chúng ta hãy cứ đùa thật vui khi 1-4 về, nhưng đừng quá trớn, đừng vô tâm và cũng đừng chấp vặt. Hãy "nói dối” để rồi thật thà hơn, hãy chọc ghẹo để yêu thương hơn, hãy bao dung nhưng đừng quên “cảnh giác”... đó mới chính là tinh thần của ngày Cá tháng Tư.
HienMQ


Những câu chuyện cười ra nước mắt trong ngày nói dối 1/4


(ĐSPL) - Lời thú nhận “giới tính thật”, lời tỏ tình hay một tuyên bố hùng hồn về “chuyện trăm năm”… đều trở thành những chủ đề hot ngày nói dối 1/4 và gây ra không ít tình huống “dở khóc dở cười”.
Ngày Cá tháng Tư có lẽ là ngày duy nhất trong năm cho phép chúng ta được tự do… nói dối. Chính vì thế, không ít bạn trẻ đã cho đây là cơ hội để thể hiện tài năng “chém gió” và “ lừa phỉnh”. Tuy nhiên, cũng không ít những câu chuyện “hay ho” đã trở thành niềm vui và cả nỗi ám ảnh đối với những người trong cuộc.
Những câu chuyện cười ra nước mắt trong ngày nói dối 1/4 - Ảnh 1
Ngày Cá đùa về giới tính thật
“Tôi là gay” có lẽ là câu nói dối kinh điển nhất từ trước đến nay. Dạo qua các diễn đàn, không ít người tung ra chiêu đùa quái gở. Nhưng có lẽ cũng vì quá phổ biến mà người ta biết thừa bạn đang cho họ ăn “cá”.
Tuy là thế, hãy thật cẩn trọng với câu nói đùa “nguy hiểm” như thế này, câu chuyện “dở khóc dở cười” đang lan truyền trên mạng xã hội những ngày gần đây là một ví dụ: "Nhân ngày Cá tháng Tư, anh chàng nọ gửi một tin nhắn cực kỳ phũ phàng cho người yêu với nội dung: mình thuộc giới tính thứ 3. Cô bạn vì biết tỏng hôm nay là ngày nói dối, nên mò tới nhà bạn trai định cho anh chàng một trận. Gần tới cổng thì thấy anh người yêu đang ngồi sau xe một anh chàng khác… 2 người vào nhà nghỉ. Cô sốc, không ngờ những gì trong tin nhắn lại là sự thật. Ngày hôm sau, dù cho anh chàng có giải thích gãy lưỡi đó chỉ là sự trùng hợp, chàng đi nhà nghỉ để đánh ghen hộ bạn thì người yêu cũng không tin nữa."
Vấn đề giới tính luân luôn là chủ đề “nhạy cảm”, chính vì thế, hãy cân nhắc thật kĩ trước khi đem nó ra làm “món” trong ngày cá để tránh những chuyện đáng tiếc xảy ra…
Bị "tỏ tình" vào ngày Cá tháng Tư
Không ít cô nàng (anh chàng) bị ăn dưa bở vì những trò đùa tinh quái. N-sinh viên năm nhất Học viện Báo chí Tuyên truyền tâm sự. Vì ít người để ý đến ngày tháng, lại không hay lướt Facebook, nên cô bạn cực kì bất ngờ khi nhận được lời tỏ tình của cậu bạn thân cùng lớp. Dùng hết lí lẽ để thanh minh rằng trước giờ chỉ coi cậu ta là bạn. Cuối cùng, cô đỏ mặt khi được biết hôm nay là Ngày Cá tháng Tư. Về sau, hễ gặp cậu bạn kia là cô lại muốn “chạy càng xa càng tốt”.
Trong khi đó, rất nhiều bạn trẻ không ngần ngại chia sẻ, đây là cơ hội để bày tỏ tình cảm của mình. Bạn Hương (Học viện Báo chí- tuyên truyền) chia sẻ: “Vì là ngày cá, nên nếu có bị từ chối thì cũng lấy ra làm lí do cho khỏi ngượng”, Bạn có cảm thấy tự tin hơn khi “tỏ tình”vào ngày cá không?
Nhưng cũng có những chuyện tình đẹp…      
Đối với vợ chồng chị Bình, một thành viên của diễn đàn Webtretho thì ngày nói dối cũng vô cùng ý nghĩa.
"Cách đây 7 năm, vào đúng ngày Cá tháng Tư, tớ bị lừa một cú quá lớn, mất luôn 'đời con gái' và kéo theo cả họ nhà tớ, bạn bè tớ cũng bị lừa. À mà cả họ nhà ông xã tớ, bạn bè của ổng cũng bị lừa luôn. Nhưng đây là lừa có lợi, tất cả được đi ăn nhà hàng!", chị Bình dí dỏm kể.
Vốn là những người rất hài hước, chị và người yêu cố tình chọn ngày 1/4 để tổ chức đám cưới. Chị cho biết, năm ấy, khi đi mời cưới, nhiều người còn tưởng chị đùa khi biết ngày tổ chức hôn lễ. Một anh chàng - vốn theo đuổi chị khá lâu nhưng bị từ chối - còn giận dỗi: "Việc gì em phải in cả thiếp cưới thế này để lừa anh".
Mỗi cặp yêu nhau có những ngày đặc biệt của riêng mình. Đó có thể là ngày gặp nhau, ngày họ tỏ tình hay trao nhau nụ hôn đầu tiên, ngày cưới, ngày sinh nhật hay kể cả Ngày Cá tháng Tư... Với nhiều đôi, ngày nói dối có thể trở thành ngày thể hiện tình cảm chân thật nhất.
Những câu chuyện cười ra nước mắt trong ngày nói dối 1/4 - Ảnh 2
Hãy để cho ngày Cá tháng Tư của bạn thực sự trở thành ngày tuyệt vời và thoải mái nhất bằng những trò đùa ”tưởng như thật” nhé. Nhưng nên nhớ đừng vượt quá giới hạn nếu không muốn phải rơi vào tình huống “dở khóc dở cười”.
PHẠM TRANG
Xem tiếp...

Thứ Ba, 1 tháng 4, 2014

THÀNH TỰU VÀ TỘI LỖI 2 (Giới hạn của chứng nghiệm)

(ĐC sưu tầm trên NET)


Tôn giáo

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Các biểu tượng của các tôn giáo lớn trên thế giới (từ trái qua phải)
row 1: Cơ-đốc giáo, Do Thái giáo, Hindu
row 2: Hồi giáo, Phật giáo, Thần đạo
row 3: Đạo Sikh, Đạo Bahai, Đạo Jaina
Tôn giáo hay đạo (tiếng Anh: “religion” và “religion” lại xuất phát từ thuật ngữ “legere” (Tiếng Latinh) có nghĩa là thu lượm thêm sức mạnh siêu nhiên - xét trên một cách thức nào đó, đó là một phương cách để giúp con người sống và tồn tại với sức mạnh siêu nhiên từ đó làm lợi ích cho vạn vật và con người), đôi khi đồng nghĩa với tín ngưỡng, thường được định nghĩa là niềm tin vào những gì siêu nhiên, thiêng liêng hay thần thánh, cũng như những đạo lý, lễ nghi, tục lệ và tổ chức liên quan đến niềm tin đó. Những ý niệm cơ bản về tôn giáo chia thế giới thành hai phần: thiêng liêngtrần tục[1]. Trần tục là những gì bình thường trong cuộc sống con người, còn thiêng liêng là cái siêu nhiên, thần thánh. Đứng trước sự thiêng liêng, con người sử dụng lễ nghi để bày tỏ sự tôn kính, sùng bái và đó chính là cơ sở của tôn giáo. Trong nghĩa tổng quát nhất, có quan điểm đã định nghĩa tôn giáo là kết quả của tất cả các câu trả lời để giải thích nguồn gốc, quan hệ giữa nhân loạivũ trụ; những câu hỏi về mục đích, ý nghĩa cuối cùng của sự tồn tại. Chính vì thế những tư tưởng tôn giáo thường mang tính triết học. Số tôn giáo được hình thành từ xưa đến nay được xem là vô số, có nhiều hình thức trong những nền văn hóa và quan điểm cá nhân khác nhau. Tuy thế, ngày nay trên thế giới chỉ có một số tôn giáo lớn được nhiều người theo hơn những tôn giáo khác.
Đôi khi từ "tôn giáo" cũng có thể được dùng để chỉ đến những cái gọi đúng hơn là "tổ chức tôn giáo" – một tổ chức gồm nhiều cá nhân ủng hộ việc thờ phụng, thường có tư cách pháp nhân. "Tôn giáo" hay được nhận thức là "tôn giáo" có thể không đồng nhất với những định nghĩa trên đây trong niềm tin tối hậu nơi mỗi tôn giáo (tức là khi một tín hữu theo một tôn giáo nào đó, họ không có cái gọi là ý niệm "tôn giáo" nơi tôn giáo của họ, tôn giáo chỉ là một cách suy niệm của những người không có tôn giáo bao phủ lấy thực tại nơi những người có tôn giáo).

Định nghĩa

Ngoài nghĩa rộng về tôn giáo trên, có nhiều cách sử dụng cũng như nhiều nghĩa của từ "tôn giáo." Một số lối giải thích như sau:
  • Một cách định nghĩa, đôi khi được gọi là "lối theo chức năng", định nghĩa tôn giáo là bất cứ hệ thống tín ngưỡng và phong tục nào có chức năng đề cập đến những câu hỏi căn bản về đặc tính loài người, đạo đức, sự chết và sự tồn tại của thần thánh (nếu có). Định nghĩa rộng ngày bao gồm mọi hệ thống tín ngưỡng, kể cả những hệ thống không tin tưởng vào thần thánh nào, những hệ thống đơn thần, những hệ thống đa thần và những hệ thống không đề cập đến vấn đề này vì không có chứng cớ.
  • Cách định nghĩa thứ hai, đôi khi được gọi là "lối theo hình thể", định nghĩa tôn giáo là bất cứ hệ thống tín ngưỡng nào xác nhận những điều không thể quan sát một cách khoa học được, và chỉ dựa vào chức trách hay kinh nghiệm với thần thánh. Nghĩa này hẹp hơn phân biệt "tôn giáo" với chủ nghĩa duy lý, chủ nghĩa nhân bản thế tục, thuyết vô thần, triết khách quanthuyết bất khả tri, vì những hệ thống này không dựa vào chức trách hay kinh nghiệm nhưng dựa vào cách hiểu theo khoa học.
  • Cách định nghĩa thứ ba, đôi khi được gọi là "lối theo chứng cớ vật chất", định nghĩa tôn giáo là những tín ngưỡng về nhân quả mà Occam's Razor loại trừ vì chúng chấp nhận những nguyên nhân quá phức tạp để giải thích những chứng cớ vật chất. Theo nghĩa này, những hệ thống không phải là tôn giáo là những hệ thống không tin tưởng vào những nguyên nhân phức tạp hơn cần thiết để giải thích những chứng cớ vật chất. Những người theo quan điểm này tự xưng là "bất tôn giáo", nhưng cũng có người tôn giáo nhìn nhận rằng "tín ngưỡng" và "khoa học" là hai cách hoàn toàn khác nhau để đi đến chân lý. Quan điểm này bị bác bỏ bởi những người xem rằng những giải thích siêu hình là cần thiết để giải thích các hiện tượng tự nhiên một cách căn bản.
  • Cách định nghĩa thứ tư, đôi khi được gọi là "lối tổ chức", định nghĩa tôn giáo là các hội đoàn, tín ngưỡng, tổ chức, phong tục, và luật đạo đức chính thức của tất cả các tôn giáo chính có tổ chức. Nghĩa này đặt "tôn giáo" vào một vị trí trái ngược với "tinh thần", cho nên không bao gồm những luận điệu của "tinh thần" về việc tiếp xúc, phục vụ, hay tôn thờ thần thánh. Tuy nhiên, trong nghĩa này tôn giáo và tinh thần không cần phải "được cái này mất cái kia": một người sùng đạo có thể có tinh thần hay không tinh thần, và một người có tinh thần có thể có hay không sùng đạo. Theo tương tự, ta có thể xem "tôn giáo" như là than, củi, hay xăng, và "tinh thần" là ngọn lửa.

Lịch sử


Hình vẽ nữ thần Isis trong tôn giáo cổ đại Ai Cập (khoảng năm 1360 trước Công nguyên)
  • Nếu không kể những chứng tích khảo cổ học cho thấy niềm tin tôn giáo về cuộc sống sau khi chết có từ rất xa xưa, khi mà người ta chôn đồ tùy táng cùng với người chết thì ít nhất cách đây 40.000 năm, tổ tiên con người đã có niềm tin tôn giáo và tham gia các nghi lễ tôn giáo.[2] Trong các xã hội săn bắn và hái lượm, phổ biến là thuyết vật linh, cho rằng vật thể trong thế giới tự nhiên được phú cho nhận thức và tác động đến đời sống con người. Biển cả, núi cao, gió và thậm chí cả cây cối...cũng có thể được coi là những thế lực có tính chất thần thánh sinh ra và chi phối đời sống con người. Xã hội săn bắn, hái lượm có tổ chức chưa phức tạp nên đời sống tôn giáo chủ yếu tồn tại trong gia đình. Địa vị pháp sư (shaman) có thể được trao cho một người như là lãnh tụ tôn giáo nhưng hoạt động này không phải chiếm toàn bộ thời gian của người đó.
  • Sang đến giai đoạn xã hội trồng trọt và chăn nuôi, niềm tin thần thánh là nguyên nhân hình thành thế giới dần dần được phát triển. Một hệ thống văn hóa đạo đức được ủng hộ bằng việc công nhận thần thánh đồng thời tôn giáo vượt qua khỏi phạm vi gia đình và thường gắn chặt với chính trị, lãnh tụ xã hội thường được xem là vua và tăng lữ như các Pharaoh Ai Cập.
  • Trước Cách mạng Công nghiệp, tôn giáo đã rất phát triển và là thể chế xã hội vô cùng quan trọng ở khắp các lục địa. Đây cũng là lúc các tôn giáo có nhiều xung đột với nhau: Kitô giáo với Hồi giáo qua nhiều cuộc Thập tự chinh; Ấn Độ giáo xung đột với Phật giáo và về cơ bản đã loại trừ tôn giáo này ra khỏi miền đất phát tích của nó vào thế kỷ 13; người Hồi giáo chinh phục và truyền bá tôn giáo của mình đến những vùng khác...
  • Từ khi Cách mạng Công nghiệp nổ ra, những tiến bộ của khoa học kỹ thuật đã khiến cho ảnh hưởng của tôn giáo không còn mạnh mẽ như trước, tôn giáo dần bị tách rời khỏi nhà nước. Trong đời sống xã hội, khoa học cũng dần thay thế cho tôn giáo, chẳng hạn một người khi gặp bệnh tật tìm đến bác sỹ nhiều hơn là tu sỹ. Tuy vậy, thậm chí ngay cả cho đến nay, nhiều phong trào tôn giáo mới vẫn tiếp tục phát triển.

Khái niệm

Những tôn giáo là những hệ thống tín ngưỡng thường tìm câu trả lời cho những khái niệm sau:
  • Thượng đế - Siêu việt tính hay bản chất của tồn tại (hoặc cái được loài người nhận thức là tồn tại) trong mối tương quan với con người;
  • Con người;
  • Tạo hóa, những tín ngưỡng về nguồn gốc của vũ trụ, Trái Đất, sự sống, và nhân loại;
  • Thần thánh, những tín ngưỡng về sự tồn tại (hay không tồn tại) và bản chất của thần thánh (hay Ông Trời), những gì linh thiêng hay siêu phàm;
  • Những tín ngưỡng về cách liên lạc với thần thánh, vật linh thiêng, những người khác, loài vật, thế giới tự nhiên xung quanh ta và với chúng ta;
  • Những tín ngưỡng về bản chất đạo lý và đạo đức, như đạo đức khách quanđạo đức tương đối;
  • Những cách để nhận dạng và ca tụng những kinh nghiệm giá trị;
  • Việc tìm ra trọn vẹn về lĩnh vực nhu cầu và thèm muốn;
  • Sự tìm ra mục đích của sự sống, và nhận dạng các mục tiêu trong đời;
  • Tìm ra một cơ cấu đạo lý, và định nghĩa những hành vi "thiện" (tốt) và "ác" (xấu);
  • Những tín ngưỡng về những trạng thái tồn tại khác như thiên đàng, địa ngục, hay Niết bàn và cách chuẩn bị vào những cõi này;
  • Những giải thích và sự hiểu biết về điều ác và đau khổ, và viết về thiện ác.
Thông thường, những tôn giáo khác nhau và những phe không tôn giáo đều có câu trả lời khác nhau về các khái niệm trên, và nhiều tôn giáo có nhiều trả lời cho mỗi khái niệm.

Tục lệ


Lễ thụ phong cho Hoàng đế Charlemagne
Những phong tục dựa vào tín ngưỡng tôn giáo thường gồm có:
  • Cầu nguyện
  • Thờ phụng
  • Họp mặt thường lệ với những người khác đồng tôn giáo
  • Viên chức tôn giáo để lãnh đạo hay giúp đỡ những tín đồ, như nhà tu, mục sư, tăng lữ...
  • Nghi lễ và phong tục đặc biệt trong tín ngưỡng
  • Cách giữ gìn niềm tin vào những điều răn trong kinh sách và những tục lệ của tôn giáo đó
  • Luật lệ ứng xử ngoài đời phù hợp với tín ngưỡng (đạo lý), như Mười điều răn trong Cựu Ước, đặt ra từ tín ngưỡng chứ không phải do tín ngưỡng định nghĩa, và đạo lý thường được tôn trọng đến địa vị giáo luật (luật pháp) và được các tín đồ thi hành
  • Việc duy trì và học tập những kinh sách ghi chép những tín ngưỡng cơ bản của tôn giáo.
Những tín đồ của một tôn giáo thường họp mặt để làm lễ, đọc hay tụng kinh, cầu nguyện, thờ phụng, và giúp đỡ tinh thần lẫn nhau. Tuy nhiên, cầu nguyện và ngồi thiền một mình cũng thường được xem là quan trọng, cũng như sống theo tín ngưỡng ngoài đời hay với những người không theo đạo đó. Đây thường là một chức năng của tôn giáo đó.

Tín ngưỡng

Tín ngưỡng tôn giáo là niềm tin và sự sùng bái thần thánh hay các quyền lực vô biên, siêu nhiên, vào cuộc sống sau khi chết..., tóm lại, là những phát biểu mà vì đó các thành viên của một tôn giáo nào đó gắn bó vào đó.[3] Câu chuyện về AdamEva là một ví dụ về tín ngưỡng tôn giáo. Tín ngưỡng thường phát sinh khi một lãnh tụ tinh thần khẳng định một số hiểu biết đặc biệt về chân lý thần thánh và tổ chức tín đồ của mình. Cũng có quan điểm cho rằng, tíng ngưỡng tôn giáo là hoạt động tôn giáo ít hay không có điểm chung với các tổ chức tôn giáo khác trong một xã hội cụ thể.[4] Theo quan điểm này thì tín ngưỡng là một cái gì đó hoàn toàn mới, nó có thể là kết quả của sự truyền bá quan điểm tôn giáo từ một xã hội này sang một xã hội khác, nơi mà nó chưa từng có tiền lệ. Do vậy khi mới hình thành, tín ngưỡng thường chưa được chính thức hóa và hay có mâu thuẫn với xã hội, nếu tiếp tục phát triển, tín ngưỡng sẽ trở nên có tổ chức, nghi lễ chặt chẽ hơn và có thể trở thành tôn giáo. Tuy nhiên tín ngưỡng tôn giáo không phải là các giáo phái, giáo phái là những nhóm ly khai với giáo hội hay tổ chức tôn giáo truyền thống của nó còn tín ngưỡng thì hoàn toàn mới.

Các tôn giáo

Niềm tin và thực tiễn tôn giáo vô cùng đa dạng và có rất nhiều tôn giáo trên thế giới ngày nay, có tôn giáo chỉ hạn chế trong một vùng địa lý không lớn nhưng có những tôn giáo có thể gọi là tôn giáo thế giới với nhiều triệu tín đồ ở khắp nơi trên thế giới. Nói chung có khoảng 87 phần trăm dân số thế giới đang gắn bó với một tôn giáo nào đó; chỉ có khoảng 13 phần trăm là không tôn giáo.
Các tôn giáo trên thế giới
Tôn giáo Số lượng tín đồ Vùng lãnh thổ chủ yếu
Kitô giáo 2,1 tỷ Khắp thế giới, trừ một vài nơi.
Hồi giáo 1,5 tỷ Trung Đông, Bắc Phi, Trung Á, Nam Á, Tây Phi, Đông Phi, Nam Á, Đông Nam Á, Albania, một phần lãnh thổ Nga, các tỉnh phía tây Trung Quốc.
Ấn Độ giáo 900 triệu Nam Á, Đông Nam Á, Fiji, Guyana, Mauritus.
Đạo giáo 400 triệu Trung Quốc, Singapore, Malaysia và cộng đồng người Hoa hải ngoại
Tôn giáo dân gian Trung Quốc 394 triệu Trung Quốc
Phật giáo 365 triệu (tín đồ chính thức)
1,2-1,6 tỷ (tính cả tín đồ không chính thức)
Đông Á và Ấn Độ
Tôn giáo của các bộ tộc 300 triệu Khắp thế giới trừ Châu Âu
Nho giáo 150 triệu Đông Á và cộng đồng người Hoa ở hải ngoại
Tôn giáo truyền thống Châu Phi 100 triệu Châu Phi
Thần đạo 30 triệu Nhật Bản
Đạo Sikh 23 triệu Ấn Độ, Pakistan, Canada, Mỹ, Anh
Do Thái giáo 14 triệu Israel, Mỹ, châu Âu
Bahá'í giáo 9 triệu Tín đồ phân bố rải rác nhiều nơi trên thế giới
Cao Đài 2,4 triệu Việt Nam, Bắc Mỹ, Châu Âu, Úc
Đạo Jain 1,2 triệu Ấn Độ, Pakistan, Canada, Mỹ, Anh
(Nguồn số liệu theo Adherents.com, riêng số lượng tín đồ Khổng giáo theo Macionis.)
Việc thống kê số liệu tín đồ của từng tôn giáo rất phức tạp và nhiều phương pháp khác nhau do đó các nguồn số liệu có thể cho kết quả khác nhau đáng kể, tuy vậy nó cung cấp cái nhìn tương đối về quy mô của các tôn giáo đặc biệt là trong tương quan với nhau.

Bản đồ phân bố các tôn giáo quan trọng trên thế giới
  • Kitô giáo: với ba nhánh lớn là Công giáo La Mã, Chính thống giáo Đông phươngTin Lành, là tôn giáo có số lượng tín đồ đông nhất trên thế giới, khoảng 2,1 tỷ tín đồ, chủ yếu ở Bắc Mỹ, Mỹ Latin, châu Âu và rải rác ở nhiều nơi khác trên thế giới. Kitô giáo bắt nguồn từ Do Thái giáoTrung Đông và do Chúa Jesus sáng lập. Kitô giáo theo thuyết độc thần thể hiện ở quan điểm về Chúa Ba Ngôi: Đức Chúa Cha - Đấng Tạo hóa; Đức Chúa Con (Jesus Christ) - Đấng Chuộc tội và Đức Chúa Thánh Thần - Đấng Thánh hoá. Jesus Christ bị hành hình bằng cách đóng đinh trên cây thập tự, từ đó cây thập tự trở thành biểu tượng thiêng liêng của tín đồ Kitô giáo và theo niềm tin của tín đồ Kitô giáo, Chúa phục sinh là bằng chứng về việc Người là Con Thiên Chúa, Người được phái đến để giải phóng con người khỏi ách quỷ Satan. Con người không chỉ là tôi tớ của Chúa, kẻ được cứu rỗi, mà còn là con của Chúa, do vậy con người có bổn phận noi gương Chúa trong tình yêu cuộc sống, tình yêu đồng loại, con người phải sống thánh thiện và đạt đến cuộc sống vĩnh hằng. Từ khi ra đời và trong giai đoạn đầu, Kitô giáo bị ngược đãi, đàn áp nhưng dần dần đã được truyền bá rộng rãi trên thế giới. Đây là một trong những tôn giáo lâu đời nhất trên thế giới và là tôn giáo có ảnh hưởng mạnh mẽ nhất đến nền văn minh phương Tây.
  • Hồi giáo: là tôn giáo có số lượng tín đồ đông thứ hai trên thế giới, với khoảng 1,5 tỷ tín đồ, chủ yếu tập trung ở Trung Đông, Bắc Phi, Trung Á và rải rác ở khắp nơi trên Trái Đất. Hồi giáo ra đời vào thế kỷ thứ VII, do Muhammad sáng lập. Muhammad là Đấng Tiên tri chứ không phải là thần thánh như Chúa Jesus Christ đối với người Kitô giáo, ông là Đấng tiên tri cuối cùng sau các Đấng tiên tri trước đó là Adam, Abraham, MosesJesus Christ. Vai trò của Muhammad là ghi lại lời của Thượng Đế và kinh Koran được các tín đồ coi là lời răn của Đấng Chí Tôn. Cũng giống Kitô giáo, Hồi giáo tin rằng có địa ngục, thiên đàng và ngày phán xét, mọi người có trách nhiệm giải thích trước Thượng Đế về những việc làm của mình trên trần thế. Tín đồ Hồi giáo cũng thừa nhận trách nhiệm của mình trong việc bảo vệ đức tin, chống lại mọi đe dọa và trong một số trường hợp, giáo lý này của Hồi giáo được sử dụng để biện minh cho các cuộc Thánh chiến.
  • Ấn Độ giáo: được coi là một trong những tôn giáo lâu đời nhất trên thế giới, bắt nguồn từ Ấn Độ khoảng 1500 năm trước Công nguyên. Khác với Kitô giáoHồi giáo, Ấn Độ giáo không liên kết với đời sống của một cá nhân nào, hay nói cách khác, không có người sáng lập. Qua hàng ngàn năm, Ấn Độ giáo và xã hội Ấn Độ với hệ thống đẳng cấp đan quyện, gắn bó chặt chẽ với nhau đến mức người ta không thể dễ dàng mô tả riêng biệt, cũng chính vì thế mà Ấn Độ giáo khó truyền bá đến các xã hội khác. Thế nhưng đến nay, Ấn Độ giáo vẫn có khoảng 900 triệu tín đồ chủ yếu ở Ấn Độ, Pakistan và ở nhiều nơi khác trên thế giới với số lượng ít. Trong Ấn Độ giáo, công lý sau cùng không phải thuộc về vị thần tối cao mà thông qua chu kỳ tái sinh theo luật nhân quả. Mọi hành động của con người đều dẫn đến kết quả tinh thần trực tiếp, đó chính là nghiệp chướng (karma), đời sống chính đáng khiến cho tinh thần được hoàn thiện, ngược lại sẽ làm cho tinh thần suy đồi. Trạng thái cực lạc (nirvana) là sự hoàn thiện tinh thần, trong đó linh hồn được sẵn sàng cho việc tái sinh một cách hoàn hảo.
  • Phật giáo: cũng có nguồn gốc từ Ấn Độ và khởi nguồn khoảng 500 năm trước Công nguyên. Tôn giáo này có nhiều phương diện giống với Ấn Độ giáo nhưng gắn với cuộc đời của người sáng lập - Đức Phật Thích Ca (Siddartha Gautama). Phật giáo là tôn giáo lớn trên thế giới, hiện có khoảng 365 triệu tín đồ chính thức (đã làm lễ Quy y Tam bảo), và nếu tính cả số tín đồ không chính thức (chưa làm lễ Quy y nhưng có niềm tin vào Phật pháp) thì có thể lên tới 1,2-1,6 tỷ (phần lớn người Đông Á thuộc bộ phận không chính thức này). Phật giáo chủ yếu tập trung ở Châu Á và đang lan truyền khắp thế giới. Sau nhiều năm chu du và thiền định, Siddartha Gautama đạt đến trạng thái giác ngộ (bodhi), hiểu được bản chất của đời sống và Ngài trở thành Phật. Giống như Ấn Độ giáo, Phật giáo cho rằng có kiếp luân hồi, mọi hành động của con người đều có kết quả tinh thần và hoặc là thiện (dẫn đến sự hoàn thiện tinh thần) hoặc là ác (dẫn đến sự suy đồi tinh thần), vũ trụ mang tính đạo đức, có trật tự mà không có vị thần tối cao thực hiện công lý cuối cùng (hay nói cách khác toàn thể Vũ trụ đều là Chân như của Phật tính - Pháp thân của Phật khắp mọi nơi. Mọi sự tồn tại của con người đều là khổ đau và muốn đạt đến sự bình an về tinh thần, Phật giáo phủ nhận mọi hình thức vui thú vật chất, thủ tiêu các ham muốn vật chất hay thể xác. Phật giáo cũng là tôn giáo đầu tiên đưa ra hệ thống phẩm cấp tu hành.
  • Nho giáo: hình thành ở Trung Quốc và do Đức Khổng Tử (551 - 479 trước Công nguyên) sáng lập. Có ít nguồn số liệu thống kê về các tín đồ Nho giáo nhưng ước tính có hơn 150 triệu người là tín đồ của tôn giáo này và số người chịu ảnh hưởng còn nhiều hơn nữa  chủ yếu tập trung ở Trung Quốc, Đông Bắc Á, Việt Nam, Singapore. Cũng như Phật giáo, Nho giáo quan tâm sâu sắc đến những đau khổ trên thế giới nhưng phương cách cứu rỗi, thay vì thủ tiêu ham muốn, là sống theo những nguyên tắc cụ thể về hạnh kiểm, đạo đức. Nho giáo đề cao nhân tính (jen), đạo đức luôn có vị trí cao hơn tư lợi, đạo đức của cá nhân tạo ra gia đình vững chắc và gia đình vững chắc trở thành nền tảng của xã hội vững mạnh. Không giống nhiều tôn giáo khác, Nho giáo không hướng con người vào tương lai mà hướng vào đời sống thực tại một cách có đạo đức trong xã hội có kỷ cương, trật tự. Trong Nho giáo, không có khái niệm rõ ràng về sự thiêng liêng, người ta có thể cho rằng Nho giáo xét cho cùng không phải là tôn giáo thuần túy mà đúng ra ra là nghiên cứu lịch sử Trung Hoa có kỷ cương...Nhưng cũng có điểm giống với tôn giáo là tập hợp niềm tin và hành lễ phấn đấu đạt cái thiện và tạo ra sự đoàn kết xã hội.
  • Do Thái giáo: cũng hình thành ở vùng Trung Đông như Hồi giáoKitô giáo vào thời kỳ Đồ Sắt (khoảng 2000 năm trước Công nguyên). Mặc dù chỉ có khoảng 14 triệu tín đồ, chủ yếu ở Israel, Mỹchâu Âu nhưng Do Thái giáo là một tôn giáo quan trọng vì đã tạo nền tảng lịch sử cho sự hình thành của Kitô giáoHồi giáo. Do Thái giáo do Abraham, tổ phụ và là nhà tiên tri của người Do Thái sáng lập. Do Thái giáo cũng theo thuyết độc thần, chỉ công nhận một mình Đức Chúa toàn năng. Điểm khác biệt của Do Thái giáo là mối quan hệ đặc biệt với Chúa, qua đó người Do Thái là "dân tộc được chọn" thông qua Giao ước (covenant). Giao ước được thể hiện dưới dạng như pháp luật và tập trung vào Mười điều răn Chúa tiết lộ cho Tiên Tri Moses, nhà tiên tri đã dẫn dắt dân tộc Do Thái ra khỏi ách nô lệ Ai Cập. Do Thái giáo coi năm quyển đầu tiên của bộ kinh mà đối với người Kitô giáo chính là Kinh Thánh Cựu ướcThánh thư - lịch sử cũng như pháp luật của mình. Do Thái giáo cũng không hướng đến thế giới bên kia mà xem quá khứ là nguồn hướng dẫn hiện tại và tương lai. Người Do Thái phục tùng ý Chúa bằng cách thực hiện đầy đủ tinh thần cũng như lời văn của Thánh thư thì một ngày kia, Chúa sẽ phái sứ giả mang thiên đàng xuống Trái Đất. Chúa Jesus được coi chính là sứ giả đó, nhưng người Do Thái không công nhận Người, vì Người đã chịu chết khốn cực chứ không vinh hiển như ý tưởng của họ theo lời Thánh thư.

Những điểm khác nhau giữa các tôn giáo

Những tôn giáo khác nhau có nhiều điểm bất đồng về các khái niệm trên, cũng như về phong tục của các tín đồ. Thí dụ:

Số thần thánh

  • Những tôn giáo độc thần chỉ tin vào một thần thánh. Trong những tôn giáo này có Đạo Do Thái, Đạo Sikh, Kitô giáo, Hồi giáo, và Đạo Bahá'í.
    • Đại đa số các tín đồ Kitô giáo tin vào giáo lý Ba Ngôi, nói rằng có một Chúa trời hiện hữu trong ba ngôi vị. (Hầu hết các nhánh trong Kitô giáo tin vào điều này, trừ một vài nhánh nhỏ như Nhân chứng Giêhôva hay các nhóm đã tồn tại trong quá khứ như phái Sabellius, phái Arius.)
    • Một số giáo phái cuả Ấn Độ Giáo hay thường bị gọi nhầm là theo độc thần luận, nhưng thật sự là thuộc về toàn thần luận.
    • Các tôn giáo đơn nhất thần tin rằng có nhiều thần thánh với nhiều tính chất khác nhau, nhưng chỉ có một thần là cao hơn hết. Trong các tôn giáo này gồm có những nhánh của Ấn Độ giáo (đặc biệt là hai nhánh ShivaVishnu) tin vào thiên thần, quỷ thần, deva (chư thiên), asura (atula, phi thiên), hay các thần thánh khác trong đó có một thần cao hơn hết;
  • Những tôn giáo đa thần như Tôn giáo Hy Lạp - La Mã, cũng như một số tín ngưỡng vật linh như ở châu Phi tin tưởng vào nhiều thần thánh;
  • Những tôn giáo phiếm thần tin rằng mọi vật trong thiên nhiên điều liên quan đến nhau và không thể tách rời nhau. Những tôn giáo này gồm có: những trường phái phiếm thần của nhánh Shiva và Vishnu trong Ấn Độ giáo, Thần đạo của Nhật Bản, và một vài tín ngưỡng về vạn vật hữu linh.
  • Những tôn giáo không thần (như Đạo Phật, Nho giáo) không nói gì về sự hiện hữu hay không hiện hữu của thần thánh;
  • Những tôn giáo vô thần (như Kì na giáoPhật giáo) không tin tưởng vào thần thánh nào;
  • Những người bất khả tri thường nói rằng họ không biết được số thần thánh là không, một, hay nhiều.

Giới tính thần thánh

  • Một số tín đồ cho rằng thần thánh của họ không có giới tính, có cả tính chất nam lẫn nữ;
  • Một số tín đồ cho rằng thần thánh của họ không có giới tính, nhưng có nhiều tính chất nam.
  • Một số tín đồ khác cho rằng thần thánh của họ không có giới tính, nhưng có nhiều tính chất nữ.
  • Một số tôn giáo giáo cho rằng thần thánh của họ là nam hoặc nữ, như trong các tôn giáo thần thoại truyền thống.

Nguồn kinh sách

  • Các văn bản thiêng liêng cung cấp căn cứ cho các tín đồ xem các văn bản đó có thẩm quyền, được linh truyền, linh hứng và/hoặc không thể sai lầm. Thí dụ như kinh Coran, kinh Vệ Đà, kinh Aqdas (Kitáb-i-Aqdas) và Kinh thánh;
  • Các nhà tiên tri cung cấp căn cứ cho các tín đồ xem những người tiên tri đó có khả năng thông hiểu đặc biệt hoặc có khả năng tương giao cá nhân trực tiếp với đấng thiêng liêng. Thí dụ như Giêsu, Môsê, Bahá'u'lláhMôhamét;
  • Khoa học và lý trí cung cấp căn cứ cho các tín đồ xem khoa học và lý trí có khả năng trả lời cho nhiều nghi vấn nền tảng của tôn giáo. Thí dụ như chủ nghĩa Nhân bản thế tụcthuyết Vô thần;
  • Truyền thống cung cấp căn cứ cho các tín đồ xem tập quán của tổ tiên là đặc biệt quan trọng và là nguồn cội của chân lý thiêng liêng. Thí dụ như Saman giáo (vu ngưỡng) và một số khía cạnh của Thần đạo;
  • Kinh nghiệm cá nhân cung cấp căn cứ cho các tín đồ tin rằng họ có tiếp xúc cá nhân trực tiếp với Thượng đế hay thần thánh, hoặc một sự kiện cụ thể nào đó có tầm quan trọng đối với họ về mặt tôn giáo.

Cấu trúc tổ chức

  • Những tôn giáo có tổ chức trung ương thành lập một tổ chức có cơ cấu nhằm để phát triển và giữ gìn sự trong sạch của niềm tin và giúp đỡ tín đồ sống theo đạo. Những tôn giáo này gồm có Giáo hội Công giáo Rôma, Hồi giáo lúc ban đầu và Đạo Do Thái theo phái Chasidut;
  • Những tôn giáo không có tổ chức trung ương thường phát triển độc lập với nhau, cho nên các niềm tin và phong tục rất phong phú. Những tôn giáo này gồm có Ấn Độ giáo, các thần thoại của các nước Hy LạpAi Cập cổ và các đạo ngẫu tượng mới như Wicca hay Ásatrú.

Đạo lý

  • Những tôn giáo có căn cứ trong cách ăn ở chú trọng trong việc tham gia trong các tục lệ, lễ nghi và thái độ của các tín đồ. Những tôn giáo này có đạo Do Thái theo phái Chasidut và nhiều truyền thống hữu linh.
  • Những tôn giáo có triết lý tinh thần chú trọng vào các điều dạy thực hành để dẫn đến hạnh phúc trong đời và ít quan tâm về những việc siêu phàm hơn. Thí dụ: đạo Phật, đạo Lãođạo Khổng (Nho giáo). Một số tôn giáo khác như Ấn Độ giáo chú trọng những điều này nhưng vẫn tin tưởng vào một thần thánh tối cao trong nhiều hình thể.
  • Những tôn giáo có căn cứ vào quan hệ chú trọng việc giữ gìn mối quan hệ đúng đắn với thần thánh, có thể bằng quan hệ cá nhân (như đạo Tin lành), bằng cách tuân theo các ý định của thần thánh (như Hồi giáo) hay bằng cách sám hối và tha thứ tội lỗi (như Kitô giáo truyền thống).
(Cũng nên nhắc rằng hầu hết các tôn giáo có đạo lý từ nhiều căn cứ, nhưng có căn cứ được chú trọng hơn những căn cứ khác)

Sau khi chết

  • Ấn Độ giáo tin rằng loài người sẽ mãi mãi đầu thai cho đến khi họ đến trạng thái giải thoát (Moksha), được hợp nhất với thần (Vishnu hay Shiva) và họ tin vào thuyết quả báo; vì thế, đạo này không tin vào việc bị đọa đày vĩnh viễn sau khi chết vì chúng ta có cơ hội chuộc tội trong các kiếp sau cho đến khi được giải thoát. Tuy thế, nhiều tín đồ tin rằng có một nơi trời trừng trị những kẻ ác trước khi được đầu thai.
  • Đạo Phật theo hệ phái Nam Tông cho rằng nghiệp của một người được tái sinh cho đến khi họ đến cõi Niết bàn, cho nên ta không nên đầu thai; hệ phái Bắc Tông thì gần với Ấn Độ giáo hơn trong các tín ngưỡng về đầu thai. Tuy thế, nhận thức về Niết bàn của đạo Phật và giải thoát của Ấn Độ giáo không tương đương với nhau vì Niết bàn là một trạng thái không tồn tại và không chú trọng vào một thần thánh cao siêu.
  • Kitô giáo và Hồi giáo có khái niệm Thiên đàngĐịa ngục, và Chúa trời là người định đoạt số phận vĩnh cửu của chúng ta. Trừ điều này, các đạo này có nhiều khái niệm khác nhau.
    • Công giáo Rôma và đạo Tin lành truyền thống tin rằng mỗi người sẽ được cứu rỗi bằng cách đặt niềm tin vào Chúa trời và sự cứu chuộc của Chúa Giêsu. Công giáo còn tin rằng linh hồn con người cần được thanh luyện cho những tội lỗi mà họ đã phạm nhưng chưa sám hối khi còn sống, trước khi được đưa lên thiên đàng.
    • Một số tín đồ Kitô giáo khác tin rằng mỗi người tự chọn thiên đàng và địa ngục riêng của họ: nếu một người chọn sống trong một "địa ngục trần gian", họ sẽ tiếp tục chọn điều đó sau khi chết, Chúa trời sẽ cho họ toại nguyện: bị xa cách Chúa trời và niềm hạnh phúc. Ngược lại, những người mưu cầu thiên đàng tại trần gian sẽ tiếp tục mưu cầu thiên đàng sau khi chết, Chúa trời cũng sẽ cho họ toại nguyện: gần gũi với Chúa trời và hạnh phúc. Xem The Great Divorce của C.S. Lewis.
    • Dưới hầu hết các tín ngưỡng truyền thống của Hồi giáo, Chúa trời xét xử chúng ta trong việc trung thành với năm cột trụ của Hồi giáo, trong đó có việc công nhận Chúa trời, Môhamét, và sống theo các điều lệ của Chúa trời về Công lý, Tín ngưỡng, và Từ bi, và thưởng chúng ta tùy theo các việc ta làm trên thế gian.
  • Đạo Do Thái không nói gì về sau khi chết.
  • Đạo Bahá'í tin rằng linh hồn của một người sẽ được đến cõi linh hồn của Chúa trời sau khi chết cho đến khi nó gặp Chúa trời.
  • Đạo Cao Đài cho rằng một linh hồn sẽ trở về với Thượng Đế sau khi chết nếu lúc còn sống linh hồn ấy đã sống một cuộc đời thánh thiện và ngược lại nếu lúc sống làm những điều xấu sẽ bị đọa nơi địa ngục.
  • Đạo Rastafari tin vào bất tử vật chất. Một khi thần Haile Selassie gọi họ về châu Phi để phán xét, họ sẽ được sống mãi mãi với Ngài trong thân thể của họ trong thế giới này.
  • Nhân Chứng Giêhôva tin rằng cho đến ngày tận thế, những người chết đang trong trạng thái ngủ, không nghe được lời cầu nguyện hay can thiệp vào các chuyện trên đời. Sau khi Satan bị bịt kín sau ngày tận thế, 144.000 người được chọn sẽ lên thiên đàng để thống trị với chúa Giêsu. Mọi người khác sẽ được phục sinh và được trường sinh bất tử trong địa đàng trên Trái Đất, nay được phục hồi. Sau 1000 năm, Satan sẽ được thả ra và được phép cám dỗ loài người một lần nữa. Những người bị cám dỗ vào tội lỗi sẽ bị chết vĩnh viễn với Satan, và Chúa trời sẽ trở thành người thống trị mới.

Tư tưởng về những người khác tín ngưỡng


Tòa Thánh Cao Đài Tây Ninh tại Tây Ninh, Việt Nam
Các tín đồ của các tôn giáo phải đối mặt với nhiều tư tưởng, nghi thức, tập quán của các tôn giáo khác và họ có nhiều các giải quyết khác nhau.
  • Những người có tư tưởng bài ngoại cho rằng các tôn giáo khác đều sai lầm, là tà giáo hoặc bị sai lạc. Những người cực đoan như vậy đôi lúc gây ra những căng thẳng thậm chí dẫn đến xung đột với tín đồ của các tôn giáo khác.
  • Những người có tín ngưỡng bao hàm nhận thức rằng mọi hệ thống tín ngưỡng đều có điều đúng cả, họ coi trọng các điểm giống với tôn giáo của mình và xem nhẹ các điểm khác biệt, thế nhưng luôn coi tín ngưỡng mà họ tin theo là cao hơn hết.
  • Những người có tín ngưỡng đa nguyên không có thành kiến với các tôn giáo khác, xem mỗi tôn giáo đều phù hợp với những nền văn hóa mà trong đó nó tồn tại.
  • Những người có tín ngưỡng hỗn hợp thường pha trộn các quan điểm từ nhiều tôn giáo hay tín ngưỡng khác nhau thành một tôn giáo mới để thể hiện đức tin, kinh nghiệm của họ.
  • Một số người cho rằng các tôn giáo đều không tồn tại, mà chúng chỉ là phản ảnh của đầu óc và khái niệm của loài người. Do đó, những người như thế có thể sống với thực tại cuối cùng (thống nhất mọi niềm tin và tôn giáo của loài người làm một). Trường hợp này hoàn toàn khác với trường hợp những người vô thần là những người không tin vào tôn giáo nào, không có tín ngưỡng và đứng hoàn toàn độc lập và bên ngoài so với thế giới tâm linh nơi con người.

Tôn giáo và khoa học

Quan điểm về tôn giáo và khoa học có thể đi từ thái cực cái nọ phủ nhận cái kia cho đến dung hòa hơn. Ở thái cực này, một số người cho rằng những hiểu biết tôn giáo có thể trả lời mọi câu hỏi liên quan đến vũ trụ và đời sống con người. Ở thái cực khác một số người lại cho rằng những hiểu biết tôn giáo là mê tín, phi lý, hoang đường, chỉ có khoa học mới đưa ra được câu trả lời đúng đắn. Ở giữa hai thái cực, có quan điểm coi tôn giáo và khoa học dùng các phương pháp, hay nói đúng hơn, trả lời cho các câu hỏi khác nhau để tìm đến Chân lýkiến thức đồng thời bổ sung cho nhau. Tôn giáo dùng những phương pháp dựa theo sự hiểu biết chủ quan của trực giác cá nhân và kinh nghiệm và/hoặc căn cứ vào chức trách của các kinh sách hay người được xem là tiên tri. Khoa học, trái lại, dùng phương pháp khoa học, một quá trình khách quan để điều tra nghiên cứu dựa theo chứng cớ vật chất, dùng các hiện tượng có thể quan sát và xác minh được. Tương tự, có hai loại câu hỏi mà tôn giáo và khoa học cố gắng trả lời: những câu hỏi về các hiện tượng có thể quan sát và xác minh được (như các luật vật lý, hay cách hành xử của con người) và những câu hỏi về các hiện tượng không thể quan sát được và việc đánh giá về giá trị, ý nghĩa, mục đích (như làm sao có các luật vật lý, thế nào là "thiện" và "ác"). Quan điểm này có thể được minh họa bằng những lời Hồng y Barberini đã từng nói với Galileo: "Anh dạy cho mọi người biết bầu trời di chuyển như thế nào; còn chúng tôi dạy cho mọi người biết cách lên trời". Nói cách khác, thế giới này hoạt động ra sao là vấn đề khoa học, nhưng tại sao chúng ta và phần vũ trụ còn lại nói chung lại tồn tại là vấn đề khoa học không sao giải thích được.
Trong khi nhiều nhà khoa học mang niềm tin tôn giáo, theo quan điểm hòa hợp giữa tôn giáo và khoa học thì có lúc cả hai đã xung đột với nhau. Galileo đã bị giáo hội bắt từ bỏ Thuyết Nhật tâm hay cuộc tranh luận về sự tạo thành sau khi Charles Darwin đưa ra Thuyết Tiến hóa là những ví dụ.
Trên thực tế, cho đến ngày nay, khoa học và tôn giáo vẫn cùng tồn tại, một số niềm tin tôn giáo có thể mờ nhạt đi và được thay thế bởi khoa học nhưng những chân giá trị của các tôn giáo cũ cũng vẫn giữ nguyên ý nghĩa của nó và vẫn đang ngày một hòa quyện hài hòa với khoa học, đặc biệt là trong những xã hội hiện đại nơi mà nhiều người cho rằng chủ nghĩa tiêu thụ đang chiếm ưu thế và đạo đức suy đồi.

Tôn giáo và chính trị

Trong lịch sử, tôn giáo thường đi song song với chính trị. Các hoàng đế Trung Quốc lấy căn cứ quyền của họ từ Thiên mệnh (天命). Giáo hội Công giáo Rôma đã thống trị phần lớn châu Âu cho đến cuộc Cải cách Tin lành. Đến Thời đại Ánh sáng vào thế kỷ 18 tại châu Âu, nhiều triết gia tin vào việc tách biệt giữa giáo hội và nhà nước (separation of church and state). Hiện nay tôn giáo đóng nhiều vai trò khác nhau tại nhiều nơi trên thế giới:
  • Tôn giáo độc lập: tại một số quốc gia như Hoa Kỳ, Canada, Pháp, Việt Nam... hiến pháp tách biệt giáo hội và nhà nước. Các quốc gia này thường cho phép người dân tự do tín ngưỡng, nhưng không công nhận bất cứ tôn giáo nào để khỏi bị xem là thiên vị. Tuy nhiên, tại Hoa Kỳ, khi một tổng thống nhậm chức, tổng thống phải đặt tay lên cuốn kinh thánh để tuyên thệ
  • Quốc giáo: Một số quốc gia có một quốc giáo, một tôn giáo được nhà nước công nhận là chính thức và nhận thuế từ dân, tuy nhiên người dân vẫn được phép tự do tín ngưỡng. Trong các nước này gồm có một số nước Hồi giáo, Công giáo và những nước như Thái Lan (Phật giáo), Anh (Anh giáo). Tuy nhiên, các viên chức quốc giáo không có địa vị quan trọng trong chính quyền, trừ quốc trưởng.
  • Thần quyền: Tại một số quốc gia, điển hình là IranTòa thánh Vatican, tôn giáo và chính quyền là một. Các viên chức quan trọng trong tôn giáo cũng là viên chức trong chính quyền.
Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 07:08, ngày 21 tháng 2 năm 2014.
Xem tiếp...

BÀI VIẾT HAY 53

(ĐC chép từ http://karelphung.blogspot.com)

-Putin: Nền dân chủ phương tây không hề tồn tại!

(Trích đoạn cuộc phỏng vấn của truyền thông Pháp với ông Putin)

Putin: Tôi muốn nhắc lại thời kỳ đầu của chế độ thuộc địa tại châu Phi. Người châu Âu khi đó mang luật pháp và các qui định của họ tới áp dụng tại châu Phi. Khi đó người châu Âu gọi là "khai hóa văn minh" cho người châu Phi. Và tôi có cảm giác, "truyền thống khai hóa văn minh" của người châu Âu có từ đó. Chỉ có điều ngày nay người ta sử dụng từ khác, đó là "dân chủ hóa". Ngày nay người châu Âu luôn sẵn sàng "dân chủ hóa" nơi nào họ cảm thấy có thể chiếm giữ chắc chắn được. Trên thế giới này tồn tại rất nhiều nền văn minh cổ đại và  các nền văn hóa khác nhau đáng lý ra chúng ta nên tôn trọng!

Phóng viên Pháp: Ngài tin rằng mô hình dân chủ kiểu phương tây không thích hợp với nước Nga?

Putin:  Anh có thể cho tôi biết, mô hình dân chủ của phương tây là cái gì không? Ví dụ ở nước Pháp có mô hình dân chủ khác, ở Mỹ lại có mô hình dân chủ khác.

Một chính trị gia Pháp từng nói với tôi: Dù là bầu cử thượng viện, hạ viện hay tổng thống, ở Mỹ, nếu không có rất nhiều tiền thì đừng bao giờ nói tới việc tham gia ứng cử. Không có nhiều tiền trong túi thì cũng đừng nghĩ tới việc thắng cử. Dân chủ ở chỗ nào vậy các bạn? Nền dân chủ đó là của ai, cho ai? Dân chủ cho những người có rất nhiều tiền hay sao?

Tiếp theo là tại Mỹ theo chế độ tổng thống, ở Anh vẫn là chế độ quân chủ. Đó là tất cả những gì đại diện cho nền "dân chủ phương tây". À, vậy ra nền dân chủ phương tây thực chất không hề tồn tại và cũng không hề có một khuôn mẫu nhất định và nói đúng hơn: Nền dân chủ phương tây không hề tồn tại!

Tôi không lấy những ví dụ từ nước Pháp, vì đó là nơi tôi chuẩn bị tới thăm. Tôi lấy ví dụ anh bạn của tôi ở Anh, Tony Blair. Tôi tin rằng các anh phải thừa nhận với tôi, đảng của anh ấy đã thắng cử nhờ sự lãnh đạo của Tony Blair. Tức là người bầu cử tin tưởng vào đảng của anh ấy, vào chương trình của anh ấy và cả cá nhân anh ấy.   Đáng lý ra anh ấy và đảng anh ấy thắng cử thì anh ấy phải thành thủ tướng. Nhưng rồi những người sáng lập đảng cho anh ta rời khỏi chức vụ lãnh đạo đảng, đưa ông Braun vào thế chân. Tony Blair ra đi, Braun vào thế chân và bỗng dưng ông Braun thành thủ tướng Anh mà không cần qua bầu cử! Không cần phải bầu!

Như vậy là dân chủ hay sao? Vâng, đó là dân chủ, nhưng dân chủ thế nào thì các anh nhìn thấy rõ. Và cho dù nền dân chủ ấy tốt hay xấu thì đó vẫn là sự thật không  thay đổi.

Tôi cũng từng tranh luận rất nhiều với người Mỹ về dân chủ. Khi tôi đề cập tới việc bầu cử ở Mỹ, tôi hỏi vì sao một người được dân bầu nhiều hơn mà lại không trúng cử, thay vào đó là một người khác. Nước Mỹ có một hệ thống bầu cử rất khác biệt.

Rồi người Mỹ nói với tôi: Chúng tôi làm như vậy từ lâu và đã quen vậy rồi, đừng can thiệp vào việc đó của chúng tôi. Và rồi chúng tôi cũng chẳng nói gì thêm.

Vậy thì tại sao các vị muốn can thiệp vào việc đó của nước Nga? (Hỏi 2 nhà báo Pháp). Chúng tôi vẫn làm được tất cả mọi việc mà không cần tới các vị!


Nguồn video: 
 

-"Xin đừng chế nhạo những dân tộc bất hạnh vì chiến tranh của Mỹ gây ra"

Ông Jürgen Todenhöfer sinh ngày 12 tháng 11 năm 1940 tại Offenburg. Ông từng là nghị viên trong hạ viện Đức. Năm 2008 ông là chủ tịch hội đồng quản trị tập đoàn truyền thông Burda. Ông là người Đức nổi tiếng về việc ủng hộ chính sách của Mỹ hỗ trợ tổ chức Mudschahidin cũng như cuộc chiến du kích chống Liên Xô tại Afghanistan. 
Thập niên 1980 ông đã nhiều lần vào khu vực do tổ chức Mudschahidin kiểm soát trong thời kỳ đó. Kể từ năm 2001 lại cũng chính ông trở thành người chỉ trích chính sách của Mỹ can thiệp và Afghanistan và  Irak qua rất nhiều cuốn sách ông viết. Bản thân ông là người đã nhiều lần tới các khu vực đó cũng như các nước trong đợt "mùa xuân Ả rập" vừa qua. 

Đây là đoạn ông chia sẻ trên trang facebook cá nhân hôm 30 tháng 3 vừa qua. 

*****************************************************

Thưa ông Barack Obama,
Hôm 26 tháng 3 ông phát biểu tại Brüssel trong tình trạng mệt mỏi? Say rượu? Hay là đang phê thuốc? Làm sao ông có thể nói rằng, việc nước Mỹ của ông tấn công vào Irak không tồi tệ bằng việc Nga sát nhập Krim?
Ông quên rằng, vì một cuộc chiến dối trá vi phạm luật pháp quốc tế mà đất nước ông đã mang lại cái chết cho hơn nửa triệu người Irak? Và đã ném bom khiến cho Irak rơi vào tình trạng tan hoang vô chính phủ?

Không thể nào tin được khi ông đưa ra lời khẳng định rằng người Mỹ các ông đã trả lại Irak cho người Irak. Nó giống như khi nói về sau chiến tranh thế giới thứ hai, khi những vụ hiếp dâm hàng loạt sau chiến tranh thế giới thứ hai thay vì một lời xin lỗi, lại nói rằng họ đã trả lại những người phụ nữ, bé gái cho những gia đình. Ông có biết xấu hổ hay không?

Việc sát nhập Krim rõ ràng là vi phạm luật pháp. Nhưng ít ra nó không hề có đổ máu. Điều đó hoàn toàn khác với 30 lần đất nước của ông đã can thiệp quân sự vào các nước trên thế giới kể từ sau năm 1945 và đã khiến cho hàng triệu người thiệt mạng. Ông quên Việt Nam rồi hay sao?

Ông đã quên quá nhiều rồi. Kể từ năm 1845 cho tới nay, nước Mỹ đã sát nhập vào Mỹ: Texas, California, Arizona, Nevada, Utah, một phần của Cansas, Colorado, Wyoming, Philippin (trên 40 năm), Hawaii và Puerto Rico. Nước Mỹ rất đói và cũng có một dạ dày vô cùng lớn!

Đại sứ của các ông tại Liên hợp quốc cho rằng, những vùng đất nào "ăn cắp" thì nên trả lại. Vậy thì xin mời các ông hãy bắt đầu với người da đỏ. Những người còn sống sót sau những lần các ông thảm sát, phản bội họ có lẽ rất vui mừng.

Năm 2008 khi ông phát biểu trước tượng đài chiến thắng tại Berlin tôi là một trong những 200 ngàn người lắng nghe. Khi ấy tôi cũng tin tưởng ông và cũng hô to "Yes we can!". Hôm nay tôi biết rằng, ông chẳng làm được gì cả và ông cũng chẳng muốn. Ông đã phản bội lại hầu hết tất cả những giá trị khởi đầu dành cho ông. Tệ hơn cả ông không hề quan tâm tới nó.

Tôi  gần như đã quen với điều đó. Nhưng ông hãy ngừng lại việc chế nhạo những dân tộc mà đất nước ông đã đẩy họ xuống vực thẳm của sự bất hạnh, ví dụ như người Irak. Khốn nạn với ngay cả người đã nằm xuống là điều không thể nào chấp nhận được!


Jürgen Todenhöfer
 
Xem tiếp...