Chủ Nhật, 2 tháng 3, 2014

VĂN MINH HÓA 5 (Andes-Inca-Maia)

(ĐC sưu tầm trên NET)


Nền văn minh Andes

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Vùng núi Andes giữa ChileArgentina
Vào thời kỳ trước khi Christopher Columbus đến châu Mỹ, ở Nam Mỹ từng tồn tại nền văn minh cổ đại lâu đời của người thổ dân châu Mỹ, gọi là nền văn minh Andes. Nền văn minh này có phạm vi phát triển trên một phạm vi rộng lớn, nằm giữa bờ biển Thái Bình Dươngdãy núi AndesNam Mỹ, trải dài từ vĩ độ Nam 2 đến vĩ độ Nam 34, thuộc lãnh thổ các nước Peru, Bolivia, Colombia, EcuadorChile ngày nay.
Đó là khu vực, nhìn chung, có điều kiện khắc nghiệt. Ngoài vùng duyên hải và một vài đồng bằng nhỏ có điều kiện trồng trọt thuận lợi, còn lại phần lớn là các núi non hiểm trở, rừng nhiệt đới. Dãy núi Andes có nhiều ngọn núi cao quanh năm phủ kín tuyết, chạy xuyên suốt từ Bắc xuống Nam. Rải rác giữa các núi đồi trùng điệp là những hồ lớn như Poopó (Bolivia), Uyuni (Bolivia) và rộng nhất là hồ Titicaca (nằm trên đường biên giới của Peru và Bolivia) có độ cao 3809 mét.
Khí hậu vùng Andes thay đổi tùy theo độ cao và khá thất thường: buổi sáng có thể ấm áp nhưng trưa lại có thể nóng bức như mùa hè và tối đến lại giá buốt như mùa đông. Vùng Andes thường xảy ra động đất, cũng như thời tiết rất khác nhau trong ngày. Vùng Andes cũng có nhiều núi lửa đã tắt như Chimborazo, Cayambe, El Altar... và các núi lửa đang hoạt động như Cotopaxi, Antisana... (tất cả nằm tại Ecuador).
Tuy vậy ở vùng Andes lại có rất nhiều mỏ kim loại như đồng, chì, thiếc, kẽm, bạc, vàng... và rất nhiều loại đá quí cũng như các loại đá xây dựng khác.
Những yếu tố trên tạo nên một điều kiện thuận lợi cho những cư dân đầu tiên hình thành và phát triển. Những cư dân đầu tiên, xuất hiện rất sớm và biết khai thác những điều kiện thuận lợi của vùng Andes, đồng thời biết đấu tranh bền bỉ với các yếu tố khắc nghiệt để tồn tại và tạo ra một sắc thái riêng biệt. Các nhà khảo cổ cũng khám phá ra nền văn minh này khá muộn, và hiện nay việc khám phá đang hé lộ dần những thành tựu kinh ngạc mà nền văn minh này có được. Nền văn minh Andes được khẳng định là nền văn minh sớm nhất khu vực Nam Mỹ.

Nền văn minh tiền Inca


Cổng đền thờ mặt trời Tiwanaku

Tượng người ở Tiwanaku

Di tích đền thờ ở Kalasasaya
Bằng chứng về một nền văn minh xưa nhất ở đây vẫn còn được giữ lại. Đó là di tích thành phố cổ Tiahuanaco (hay Tiwanaku), nằm gần hồ Titicaca. Tuy bị đổ nát hoang tàn, nhưng những di tích còn lại chứng minh đã từng tồn tại những công trình kiến trúc đồ sộ và tuyệt đẹp như: các đài tế lễ và các kim tự tháp. Đáng chú ý là di tích đền thờ Mặt Trời Kalasasaya bằng đá khối rất lớn và kim tự tháp Acapana.
Theo học giả người Mỹ Actua Pôzơnanski (Arthur Broznansky?) thì niên đại của thành phố Tiahuanaco ở vào khoảng 14.000 đến 10.000 năm cách ngày nay. Sau thời kỳ cách nay 10.000 năm do một thảm họa chưa được xác định và nghiên cứu đầy đủ, thành phố Tiahuanaco bị tán phá. Có một vài học giả cho rằng, sự xuất hiện và phát triển của thành phố Tiahuanaco còn sớm hơn rất nhiều so với giả thuyết của Pôzơnanski (Broznansky?).
Ở cùng núi Andes, cụ thể là cao nguyên Nazca (Peru) hiện nay còn bảo tồn gần như nguyên vẹn những đường rãnh kỳ lạ trên mặt đất. Nhưng đường rãnh này rộng chừng 20 cm, sâu chừng 35 cm và có chiều dài hàng kilômét. Có giả thuyết cho rằng những đường rãnh này là một hệ thống thủy nông nhân tạo. Nhưng sau này người ta đã xác định bằng không ảnh là các hình vẽ khổng lồ trải dài trên nhiều kilômét là các hình chim, thú và các hình kỷ học hà khác nhau. Thật là kỳ diệu, một khu triển lãm khổng lồ có một không hai này trên thế giới này cho thế hệ ngày nay biết được một trình độ cao của những cư dân đầu tiên ở Andes cách đây cả trên 14.000 năm.
Hiện nay các nhà khảo cổ học chưa xác định chính xác được niên đại của các hình vẽ vĩ đại trên, nhưng một thực tế không thể phủ nhận rằng chúng xuất hiện sớm hơn các nền văn minh khác còn lại đã được liệt kê đến trên 10.000 năm. Có điều gì bí ẩn ở đây chăng? Hiện tại vùng núi Andes vẫn còn chứa nhiều thông tin bí ẩn cần được khám phá và biết đâu đó, những di sản văn minh trên lại không thuộc về con người ngày nay.
Việc khám phá và tìm hiểu kỹ văn hóa Tiahuanacovăn hóa Nazca là công việc phức tạp và lâu dài. Mới đây nhất, các nhà khảo cổ đã có những phát hiện gây kinh ngạc về thành tựu của nền văn minh cổ xưa này. Người ta còn gọi nền văn minh này với tên: nền văn minh tiền Inca. Kế thừa di sản và sự phát triển nền văn minh tiền Inca là nền văn minh được nhắc dưới đây, nền văn minh Inca.

Thư viện hình của sa mạc Nazca

Nền văn minh Inca


Machu Picchu trong nắng sớm

Tổng quan

Lịch sử văn minh khởi điểm Inca có thể được xem rằng cách ngày nay khoảng 1.000 năm. Cũng như các nền văn minh cổ xưa, nền văn minh Inca được khảo sát khá đầy đủ và chính xác. Những điều được thể hiện và ghi lại bằng nhiều hình thức, văn hóa truyền khẩu, bia đá, chạm khắc, đồ châu báu vàng bạc và các hoa văn trên đồ thảm dệt.
Huyền thoại về sự giàu có vàng, bạc, đá quý đã lôi cuốn nhiều người phương Tây. Cách ngày nay khoảng 400 năm, đã xảy ra những cuộc cướp phá có hệ thống của thực dân xâm lược Tây Ban Nha. Những chiến lợi phẩm được chở về châu Âu và đã góp phần làm biến đổi nền kinh tế châu Âu khi đó[1]. Sự tàn phá đã đẩy nền văn minh Inca chia rẽ và suy sụp sau đó.

Lịch sử


Bản đồ phân bố Đế chế Inca
Lịch sử của Đế chế Inca được chia thành 13 đời vua (hoàng đế) như sau đây:
  1. Manco Capac (tiếng Quechua: Manqo Qhapaq), thường được xem như Thần Mặt Trời, trị vì vào khoảng đầu thế kỷ 13
  2. Sinchi Roca (tiếng Quechua: Sinchi Roq'a Inka), trị vì vào khoảng 1230
  3. Lloque Yupanqui (tiếng Quechua: Lloq'e Yupanki Inka), trị vì vào khoảng 1260
  4. Mayta Capac (tiếng Quechua: Mayta Qhapaq Inka), trị vì vào khoảng 1290
  5. Capac Yupanqui (tiếng Quechua: Qhapaq Yupanki Inka), trị vì vào khoảng 1320
  6. Inca Roca (tiếng Quechua: Inka Roq'a), trị vì vào khoảng 1350
  7. Yahuar Huacac (tiếng Quechua: Yawar Waqaq Inka), trị vì vào khoảng 1380
  8. Viracocha (tiếng Quechua: Wiraqocha), trị vì vào khoảng 1410
  9. Pachacuti Inca Yupanqui (tiếng Quechua: Pachakutiq), trị vì 1438-1471
  10. Tupac Inca Yupanqui (tiếng Quechua: Tupaq Inka Yupanki), trị vì 1471-1493
  11. Huayna Capac (tiếng Quechua: Wayna Qhapaq), trị vì 1493-1527
  12. Huascar, trị vì 1527-1532
  13. Atahuallpa (tiếng Quechua: Atawallpa), trị vì 1532-1533
Thật nhanh chóng và như có phép lạ, Đế chế Inca bành trướng lãnh thổ vào thời kỳ Pachacuti, là một vị vua dũng mãnh và nổi tiếng trong lịch sử Nam Mỹ. Pachacuti cùng con trai là Tupac Inca tạo được sức mạnh không thể ngăn nổi và nhanh chóng xâm chiếm nhiều vùng đất ở khu vực Andes và bắt đầu xây dựng vương quốc của mình. Pachacuti đồng thời cũng là một kiến trúc sư phác thảo kế hoạch xây dựng thành phố đồ sộ và truyền lại cho các vị vua sau một thủ đo thời sơ khởi ở Cuzco.
Kế hoạch tấn công của Pachacuti trước hết là những bộ lạc ở hồ Titicaca. Trận đánh tiếp theo chiếm giữ Cuzco, và đàn áp thành công các cuộc nổi dậy nhỏ. Thời gian tiếp theo Pachacuti tiếp tục chinh phục nhiều vương quốc hùng mạnh và văn hóa khác thuộc về phía Bắc của dãy Andes thuộc các quốc gia Ecuador và Peru ngày nay. Tupac Inca là người kế thừa di sản của cha mình để lại và tiếp tục tiến về phía Nam đến tận sông Maule của Chile. Nối tiếp là Huayna Capac tiếp tục xâm chiếm đến sông Ancasmayo thuộc Ecuador, hiện nay thuộc biên giới gữa Ecuador và Colombia.

Địa lý

Người Inca tự gọi đế chế của mình là Tawantin Suyu trong tiếng Quechua của họ (sau khi bị xâm chiếm bởi người Tây Ban Nha, tên này được phiên âm sang tiếng Tây Ban Nha thành Tahuantinsuyu) và có nghĩa là "bốn vùng hợp nhất". Nó trải dài từ bắc tới nam suốt 2500 dặm dọc theo dãy Andes từ Colombia đến Chile và tây sang đông từ vùng khô cằn của vùng duyên hải Atcama đến vùng ẩm ướt của rừng nhiệt đới Amazon.
Người Inca thống trị dãy Andes, dãy núi cao và khắc nghiệt chỉ sau có dãy Himalaya. Cuộc sống hàng ngày của họ ở 15.000 feet trên mực nước biển và đời sống tôn giáo thì mở rộng lên tận 22.057 feet đến đỉnh núi lửa Llullaillaco ở Chile, nơi cúng tế cao nhất của người Inca được biết đến ngày nay. Những con đường núi và các bục cúng tế được xây dựng mất rất nhiều thời gian vận chuyển đất, đá và kéo lên những độ cao không người trú ngụ. Ngay cả với những bộ đồ leo núi cùng với dụng cụ chuyên dụng ngày nay cũng thật khó để có thể thích nghi với khi hậu, môi trường để cúng tế với tiết trời giá lạnh và thiếu nước như ở độ cao này thường xuyên như người Inca. Khả năng này của người Inca và sự thịnh vượng nhanh chóng của họ vẫn tiếp tục khiến các nhà khoa học ngày nay phải bối rối.
Ở độ cao này, Đế chế Inca là quốc gia lớn nhất trên Trái Đất mà ngày nay chỉ còn lại những dấu tích cho một thời huy hoàng. Sự giàu có và thịnh vượng của người Inca khiến các nhà khảo cổ và phân loại phải đến vùng núi Andes để tim ra nguyên nhân nào khiến một nền văn minh như thế đã bị diệt vong.

Dân số

Tại thời điểm cao nhất, xã hội Inca có khoảng hơn 6 triệu người. Việc mở rộng bộ tộc và xâm chiếm các bộ tộc khác, nhu Paracas, người Inca bắt đầu củng cố đế chế của họ không chỉ bằng cách sát nhập và thống trị các bộ tộc bị xâm chiếm mà còn phát triển một thứ ngôn ngữ chung được gọi là tiếng Quechua.

Xã hội

Xã hội Inca cấu thành bởi các ayllu, là những tộc gia đình cùng sống và làm việc với nhau. Mỗi ayllu có một thủ lĩnh gọi là curaca (hay kuraqa). Họ sống trong những ngôi nhà lợp mái tranh có tường được xây bằng đá và bùn. Hầu hết trong nhà không có đồ đạc gì. Người Inca ngồi sinh hoạt và ngủ trên nền nhà. Thức ăn chính của người Inca là khoai tây. Họ đã sử dụng dép (sandal).
Trong cấu trúc xã hội của người Inca, người lãnh đạo tối cao của đất nước được gọi là Sapa Inca và vợ gọi là Coyas. Vị trí quyền lực thứ hai thuộc về các thầy tu tối cao và những người chỉ huy quân đội. Tiếp đến là bốn apo, những người chỉ huy quân đội của bốn vùng. Sau đó là những thầy tu ở các đền thờ, kiến trúc sư, quản lý, binh lính. Rồi đến những họa sỹ, nhạc sỹ,...

Văn hoá-nghệ thuật


Hoa văn trên trang phục người Inca

Đồ gốm của nền văn hóa Nazca
Vùng Cuzco (Peru ngày nay) được xem là trung tâm quyền lực của Đế chế Inca. Đế chế Inca được xem như một xã hội văn minh thời bấy giờ ở vùng Andes, họ đã biết làm thủy lợi, đồ gốm, làm nông nghiệp, kiến trúc cao, dệt và luyện sắt.
Nhờ biết luyện kim loại từ quặng nên người Inca đã biết chế ra nhiều loại nhạc cụ đa dạng từ kim loại. Một loại nhạc cụ như trumpet và các loại chuông; các loại nhạc cụ từ đồng và đàn đá. Âm nhạc của các cư dân Inca chủ yếu phục vụ các nghi lễ trang trọng.
Người Inca nổi tiếng về sự giàu có bởi họ có một số lượng lớn tiền và vàng, bạc, các loại đá quí được chế tạo tinh xảo và đa dạng. Quan niệm của người Inca về vàng như mồ hôi của Mặt Trời và với bạc là nước mắt của Mặt Trăng.

Một hầm mộ của người Inca
Nghề gốm của Inca đạt đến trình độ thẩm mỹ cao. Nhưng di vật còn lại đến ngày nay gây kinh ngạc các nhà khảo cổ bởi giá trị nghệ thuật cũng như tín ngưỡng của họ.
Nghề dệt vải và thảm của người Inca đạt một trình độ cao thời bấy giờ, những tấm khăn, thảm với những hoa văn sặc sỡ và chất liệu tân tiến.

Di sản Inca

Đế chế Inca và Tây Ban Nha

Thực dân Tây Ban Nha xâm chiếm Nam Mỹ bắt đầu từ 1527 bởi Francisco Pizarro ở Nam Panama. Vào năm 1529, đội quân xâm lược được bổ sung đông đảo và thực hiện xâm chiếm vùng đất rộng lớn với nhiều chiến lợi phẩm vàng bạc. Pizarro tiếp tục tiến sâu và lãnh thổ của Inca khi được sự đồng ý của Hoàng gia Tây Ban Nha và phần thưởng cho Pizarro là chức Tổng trấn.
Năm 1532, lại một đợt tấn công sâu vào trung tâm Nam Mỹ, đi cùng với những bệnh tật của văn minh cựu lục địa như bệnh đậu mùa đã góp phần làm suy kiệt đế chế Inca.
Pizarro với một lực lượng không lấy làm gì mạnh; khoảng 180 tay súng, 1 cannon và 27 ngựa, ông luôn luôn tìm kiếm những thỏa hiệp với lực lượng hùng mạnh Inca. Đầu tiên ông thương lượng với người Inca về một cuộc chiến khác với một tiểu bộ lạc, gần Guayaquil, Ecuador ngày nay; tháng 7 năm 1532, Pizarro tiến vào thành phố của bộ tộc Piura. Hernando de Soto được cử đi thám thính lục địa Nam Mỹ sau đó ông nhận được sự đồng ý gặp mặt với thủ lĩnh Inca, Atahualpa, một người đã thắng trong một cuộc nội chiến với người anh trai của mình trước đó đang đóng quân ở Cajamarca với 80.000 chiến binh.
Pizarro đến gặp mặt thủ lĩnh Inca, với một đoàn tùy tùng kiêm tốn, yêu cầu phía Inca phải cải sang đạo Cơ Đốc. Atahualpa cầm quyển Kinh thánh và ném xuống sàn nhà, cùng với yêu sách của Tây Ban Nha như một lời thách đấu, thông qua một số người phiên dịch, Atahualpa khẳng định rằng ông không muốn hiểu những gì trong cuốn sách kia. Quân Tây Ban Nha đã tấn công đoàn tùy tùng của thủ lĩnh Inca và bắt sống Atahualpa.
Atahualpa đã ra giá chuộc tự do cho mình với người Tây Ban Nha bằng số vàng nhét đầy căn phòng đang giam giữ ông, cùng với hai lần số lượng bạc. Những người Inca đã đáp ứng đủ số của cải để chuộc, nhưng Pizarro đã bội ước những người Inca. Trong khi Atahualpa đang bị giam giữ thì Huascar đã bị ám sát. Những người Tây Ban Nha duy trì sự giam giữ Atahualpa như một sự cung cấp các đòi hỏi của họ; và cuối cùng, khi sự chu cấp cạn kiệt cũng là lúc người Tây Ban Nha kết thúc sự sống của Atahualpa, tháng 8 năm 1533.
Thực dân Tây Ban Nha đưa anh trai của Atahualpa là Manco Inca Yupanqui lên ngôi Inca; Manco không thể hiểu được những âm mưu của Pizarro cũng như vai trò bù nhìn của mình nên thủ đô Cuzco rơi vào tay những người Tây Ban Nha năm 1536. Manco thất thủ và rút lui lên vùng núi của Vilcabamba, trong khi người kế vị và Manco kéo dài thêm được 36 năm, thì người Tây Ban Nha khuyến khích những người nổi dậy chống đối. Năm 1572 pháo đài cuối cùng của Inca, đang được nắm giữ bởi Túpac Amaru, con trai của Manco, bị phát hiện và người Tây Ban Nha đánh chiếm, nền văn minh Inca sụp đổ.
Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 03:07, ngày 24 tháng 10 năm 2013.

Văn minh Maya

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Ngôi đền Palenque

Laura Bush và người Maya
Nền văn minh Maya là nền văn minh cổ đặc sắc bên cạnh nền văn minh Andes, được xây dựng bởi người Maya, một bộ tộc thổ dân châu Mỹ mà từ 2000 năm trước đây đã từng sinh sống ở bán đảo Yucatán của Trung Mỹ, thuộc đông nam Mexico, Bắc GuatemalaHonduras ngày nay.
Nền văn minh Maya đạt một trình độ cao không những về lĩnh vực xây dựng nhà nước mà còn phát triển rực rỡ cả lĩnh vực kiến trúc, toán học, thiên văn học và tính toán thời gian.
Căn cứ vào các di vật khám phá ngày càng phong phú, người ta xác định được rằng vào khoảng thế kỷ thứ 1 các quốc gia cổ đại của người Maya đã được thành lập. Phần lớn các quốc gia người Maya bị diệt vong do nhiều lý do ở vào khoảng thế kỷ thứ 9 đến thế kỷ thứ 10. Duy chỉ có quốc gia thành thị trên bán đảo Yucatán, thuộc Mexico tiếp tục tồn tại cho đến khi thực dân Tây Ban Nha đến xâm chiếm vùng này vào thế kỷ 16. Hậu quả của cuộc xâm lăng đã tàn phá rất nhiều các di sản của người Maya.
Nền kinh tế của người Maya chủ yếu dựa vào nông nghiệp và phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện tự nhiên như khí hậu. Các sản phẩm trồng trọt của người Maya chủ yếu là ngô, đậu, cà chua, bí đỏ, ca cao... Người Maya cũng lấy chăn nuôi làm sản phẩm chính sau trồng trọt. Họ chăn nuôi các loại động vật như, chó, , hươu, nai, chim, ong mật... Các sản phẩm thủ công mỹ nghệ của người Maya cũng đạt đến một trình độ rất cao. Ngoài ra, người Maya còn biết làm muối với những khu vực rộng lớn và độc đáo.

Lược sử

Khởi đầu

Khảo cổ học chứng minh rằng người Maya có những công trình xây dựng đầu tiên có niên đại vào khoảng năm 1000 TCN. Có một vài bất đồng quan điểm về ranh giới văn hóa và địa lý của Maya cổ với những nền văn minh Trung Mỹ tiền cổ điển lân cận, bởi vì có rất nhiều nền văn hóa có những khu vực trùng lấp và ảnh hưởng lẫn nhau, nhưng về sau có sự phát triển riêng và tạo ra văn hóa đặc sắc riêng của mình.
Những công trình đầu tiên của người Maya là những ngôi mộ đơn lẻ trên các đồi cao, tiền đề cho những kiến trúc kiểu kim tự tháp được xây dựng về sau này. Cuối cùng, văn hóa Olmec lụi tàn sau khi ảnh hưởng đến bán đảo Yucatán, ngày nay thuộc Mexico, và các vùng khác ở Nam Mỹ.
Những bằng chứng về văn minh Maya có các thành phố nổi tiếng Tikal, Palenque, CopánKalakmul, cũng như Dos Pilas, Uaxactun, Altun Ha, Bonampak và rất nhiều vị trí khác trong vùng. Họ chứng minh cho thấy một trình độ cao về nông nghiệp, các trung tâm đô thị sầm uất của nhiều quốc gia đô thị độc lập. Rất nhiều các công trình tôn giáo kiểu kim tự tháp nổi tiếng của họ được xây dựng trong các trung tâm quyền lực của người Maya. Rất nhiều các tác phẩm chạm khắc trên phiến đá còn lại ngày nay (người Maya gọi là tetun, hoặc là cây-đá), khắc chữ tượng hình mô tả về sự cai trị theo phả hệ, các chiến thắng của cuộc chiến, và các thành tựu khác.
Người Maya đã có quá trình buôn bán lâu dài ở Trung Mỹ và có lẽ còn xa hơn nữa. Những sản vật được buôn bán trao đổi chính là cacao, muối và đá vỏ chai (obsidian).
Xem thêm: Sử dụng obsidian ở Trung Mỹ

Suy tàn của Maya

Vào khoảng thế kỷ thứ 89, nền văn minh Maya bắt đầu suy tàn, với rất nhiều các thành phố ở các vùng đất thấp bị bỏ hoang. Các cuộc chiến tranh đã nhanh chóng vắt kiệt nguồn lực và con người Maya, cộng với khí hậu thay đổi, dẫn đến hạn hán và kết hợp nhiều lý do mà dẫn đến sự suy vong của văn minh Maya. Các khảo cổ đã chứng minh các yếu tố như xung đột, đói kém và các cuộc nổi dậy từ trung tâm quyền lực và ở các vùng đất thấp. Những chứng cứ mà các nhà khoa học chứng minh được rằng vào thế kỷ thứ 9 ở đây có một biến động gây hạn hán tồi tệ nhất trong 7000 năm mới xảy ra một lần này đã góp phần làm suy kiệt văn minh Maya. Tuy nhiên đó không phải là nguyên nhân duy nhất cho sự suy tàn của văn minh Maya.

Sự xâm lược của Tây Ban Nha

Xem bài chính: Tây Ban Nha xâm lược Yucatán
Tây Ban Nha xâm lược Yucatán bắt đầu năm 1511 và sau 170 năm thì hoàn thành việc chinh phục. Người Maya không có các lãnh tụ tập trung như người IncaPeru, nhưng họ lại sống tập trung đông đảo trong một quốc gia, mà một số kháng cự mãnh liệt sự thống trị của người ngoại quốc. Tuy vậy, vùng đất này không có nhiều vàng hay bạc để thu hút sự quyết tâm và quan tâm của thực dân Tây Ban Nha như trung tâm México hay Peru. Quốc gia sau này của Maya, Vương quốc Itza, không chịu sự quấy nhiễu của Tây Ban Nha đến tận 1697.
Nhiều người còn cho rằng nền văn minh này bị các nước láng giềng xâm lấn tiêu diệt. Nhưng chưa có ai chứng minh được điều này.

Thành tựu văn hóa của người Maya

Xã hội và thể chế của người Maya

Chính trị điển hình của người Maya là các vương quốc nhỏ (ajawil, ajawlel, ajawlil) đứng đầu bởi truyền thống cha truyền con nối – ajaw, sau này là k’uhul ajaw. Cả hai điều khoản viết trong Colonial thời kỳ đầu, bao gồm Papeles de Paxbolón xem bất kỳ nơi nào đồng nghĩa với các điều khoản đã có của Aztec với Tây Ban Nha về chủ quyền lãnh thổ và sự thống trị tối cao của họ - tlahtoani (Tloloanni) và tlahtocayotl. Thông thường thì các vương quốc không lớn hơn thủ đô, mà chỉ vài ba thị trấn vừa, nhưng ở đó lại là những vương quốc vĩ đại, có tầm cai trị lãnh thổ rộng lớn và bảo trợ các thể chế nhỏ hơn trong tầm quốc gia. Mỗi một vương quốc có tên của nó không nhất thiết tương quan đến bất kỳ vùng lãnh thổ của họ. Sự đồng nhất là các đơn vị chính thể liên hệ với cùng một triều đại thống trị.

Tôn giáo của người Maya

Xem bài chính: Tôn giáo Maya

Một kim tự tháp của người Maya
Tương tự như người AztecInca, là những phát triển muộn hơn, người Maya tin tưởng vào một chu kỳ tự nhiên của thời gian. Những nghi thức và nghi lễ là những sự kết hợp tỷ mỉ của chu kỳ vũ trụ/Trái Đất, thành một đối tượng nghiên cứu quan sát và ghi chép như một cuốn lịch riêng biệt. Các thầy pháp Maya có nhiệm vụ phân tích các chu kỳ này và đưa ra những tiên đoán cho tương lai hoặc cơ sở của quá khứ trên những con số tương quan của tất cả các loại lịch của họ.
Rất nhiều tín ngưỡng truyền thống của người Maya cho đến nay làm lúng túng các nhà khoa học, nhưng lại được hiểu biết của người Maya, giống như rất nhiều xã hội cân đại, họ tin rằng vũ trụ có ba (3) mặt phẳng chính, địa ngục, thiên đườngtrần gian. Địa ngục của người Maya là ở trong khoảng đi xuyên qua các hang động và bên dưới mặt đất, nó được cai quản bởi một vị thần Maya cao niên của sự chết và thối rữa. Mặt Trời và Itzamna, cả hai đều là vị thần cao niên ăn sâu vào tiềm thức Maya, là các vị thần của thiên đường. Bầu trời đêm có ý chỉ một cửa sổ cho thấy tất cả các siêu nhiên đi đến. Người Maya định hình các chòm sao của thần linh và nơi ở, mà tục ngữ truyền khẩu về sự biến động theo mùa, tin tưởng rằng sự giao cắt của tất cả thế giới là bầu trời đêm.
Thần của người Maya không riêng biệt, như trong các quan niệm của người Hy Lạp. Thần của người Maya cùng một diện mạo do họ hợp nhất vào với nhau trên mọi nẻo đường mà không có giới hạn. Đó chắc chắn là một thế lực siêu phàm trong quan niệm tín ngưỡng của người Maya. Đặc tính "tốt" và "xấu" không phải là điều cố định trong các thần của Maya, không chỉ có một mặt "tốt" tuyệt đối. Cái nào không thích hợp trong suốt một mùa có thể làm nên một sự bắt đầu chu kỳ mới trong quan niệm của tín ngưỡng Maya và không cố định.

Chữ viết của người Maya


Nét chạm khắc Maya (chữ viết) ở trên tường ở Palenque, Mexico
Chữ viết xuất hiện ở vùng Lưỡng Hà, Ai CậpẤn Độ vào khoảng 3.000 năm TCN. Tuy nhiên những ký tự hoàn chỉnh đầu tiên, một chuỗi các dấu hiệu rõ ràng kể lại một câu chuyện, vẫn chưa có mặt ở châu Mỹ cho đến tận năm 400-300 TCN.
Mới đây các nhà khảo cổ học khám phá ra một hệ thống chữ viết kiểu chữ tượng hình của người Zapotecs ở thung lũng Oaxaca, phía nam miền Trung Mexico. Hầu hết chữ viết sớm của người Maya chỉ xuất hiện trong khoảng 150-250.
Hệ thống chữ viết Maya là một chuỗi của các ký hiệu âm và dấu tốc ký. Nó được xác định như những ký hiệu tốc ký hay hệ thống chữ viết dưới dạng biểu trưng, mà các ký hiệu biểu thị một từ có chủ đích. Chúng là một hệ thống chữ viết duy nhất của tiền thời kỳ Tân Thế Giới của Colombo dùng để trình bày một thứ ngôn ngữ của dân địa phương. Trong tổng thể, hệ thống chữ viết của người Maya có hơn 1000 kí hiệu khác nhau, mặc dù có một vài các ký hiệu có thay đổi cách viết và ý nghĩa từ, nhưng rất nhiều bản viết thể hiện rất ít khác nhau ở các địa điểm khác nhau.

Kiến trúc xây dựng


Bức tường sân bóng khổng lồ ở Chichen Itza

Kim tự tháp của người Maya
Độc đáo và hiếm có đó là nhận xét về kiến trúc của người Maya, giống như kiến trúc Hy Lạp cổ đạikiến trúc La Mã, kiến trúc của người Maya có hàng nghìn năm tuổi, rất đa dạng và tuyệt đẹp cho những xây dựng kiểu kim tự tháp có bậc ở khắp lãnh thổ Nam Mỹ.
Với người Maya, hang động cũng là một phần quan trọng của họ. Trong số những hang động, phải kể đến hang Jolja, bên trong hang Naj Tunich, hang Candelariahang của Phù thủy (Cave of the Witch). Ở đây chính là các hang thần thoại nguyên thủy của những người Maya. Một vài hang động hiện nay vẫn được sử dụng cho người Maya hiện đại ở đảo Chiapas.
Nó gợi cho chúng ta thấy, bên trong sự kết hợp của lịch đếm chiều dài Maya, mỗi 52 năm, hoặc chu kỳ, các đền đài và kim tự tháp được sửa chữa và xây dựng lại. Nó nói rằng ngay bây giờ phải xây dựng là thức dục một sự cai trị mới hoặc cho vấn đề chế độ, giống như sự tương phản tuần tự như trong chu kỳ của lịch. Tuy nhiên, quy trình xây dựng lại trên đỉnh của công trình cũ là một việc làm bình thường. Rất nhiều phải kể, North Acropolis ở Tikal được xem như là tổng thể của 1.500 năm của sự biến đổi kiến trúc.
Thông qua sự nghiên cứu của số lượng lớn yếu tố đặc sắc và kiểu dáng độc đáo, những di sản còn lại của kiến trúc Maya có một tầm quan trọng để mở ra tầm hiểu biết về quá trình phát triển của Văn minh Maya.

Nghệ thuật Maya


Một bức bích họa trên tường ở Bonampak

Trang sức bằng ngọc đổi màu, cao 195 mm
Nhiều người xem nghệ thuật Maya ở Kỷ nguyên Kinh Điển của họ (khoảng từ năm 200 đến 900) là rất tinh xảo và đẹp nhất của Tân Thế Giới cổ. Những tác phẩm chạm khắc và nghệ thuật đắp nổi bằng vữa tường ở Palenque và những tượng của Copán đáng ngưỡng mộ, phô bày dáng vẻ tinh tế, yêu kiều, chính xác của con người ở Nam Mỹ làm các nhà khảo cổ nhớ đến các nền văn minh kinh điển của Cựu Thế Giới, mà ban tặng cho cái tên quý giá trên.
Ngoài những tác phẩm hội họa kinh điển Maya, còn rất nhiều những đồ gốm tùy táng hay hiến tế với độ chắc chắn và tinh xảo. Tại công trình của Maya ở Bonampak còn lưu giữ những bức tranh tường cổ đại với vẻ đẹp trường tồn. Cùng với việc giải mã các chữ viết của người Maya, các nhà khoa học cũng biết được rất nhiều nghệ sỹ tài ba Maya được nhắc đến cùng với tên tuổi và công việc của họ trong quá khứ xa xôi.

Công nghệ của người Maya

Nền văn minh Maya có nhiều thành tựu trong lĩnh vực kĩ thuật công nghệ. Những thời kỳ đầu, thuộc thời đại đồ đá, người Maya đã sử dụng và chế tác thành thạo các dụng cụ cắt gọt từ đá núi lửa (obsidian), về sau người Maya đã biết đến kim loại khá sớm. Một vấn đề đã được giải thích khá sáng tỏ về các con đường lớn tại sao không được xây dựng ở đây, đó là do ở châu Mỹ không có các loại gia súc như , ngựa hay la để phục vụ cho việc kéo xe.
Một kỹ thuật nổi trội của người Maya là biết sử dụng và chế biến cao su đã lưu hóa vào các dụng cụ và thể thao hàng ngày. Người Maya gây kinh ngạc cho những người Tây Ban Nha thời kỳ đầu ở các trò chơi bằng bóng cao su và sức khỏe của dân da đỏ rất tốt. Những sân chơi bóng của người Maya khổng lồ và có số lượng người tham gia và đến xem cổ vũ rất lớn, một sinh hoạt có tính cộng đồng rất cao. Người Maya biết sử dụng cao su bọc lót cho các dụng cụ có tay cầm như, dao, vũ khí... và biết làm ra những đôi giày từ cao su không thấm nước.
Người Maya biết nắm chắc kỹ thuật làm muối và sử dụng chúng như những hàng hóa để trao đổi với các cư dân khác trong vùng. Những di chỉ làm muối khổng lồ đã được khám phá.
Việc xây các kim tự tháp của người Maya được tính toán rất chính xác theo các quan niệm vũ trụ và các loại lịch của họ, họ ghi chép và tính toán khá chính xác các chu kỳ thiên nhiên tại đây và có các biện pháp để đối phó. Họ sử dụng các thiết kế về thời gian và tạo ra những chiếc "đồng hồ" các dạng để xác định thời gian.
Nhiều bí mật về công nghệ còn được khám phá, nhưng những di sản của người Maya gây không ít kinh ngạc cho các nhà khảo cổ học của Cựu Thế Giới.

Toán học của người Maya


Chữ số của người Maya, có số 0
Cùng phát triển với các nền văn minh Trung Mỹ khác, người Maya sử dụng hệ đếm nhị thập phân (vigesimal) và hệ ngũ phân (xem chữ số Maya). Hệ ngũ phân trên cơ sở so sánh với số ngón tay của một bàn tay, còn nhị thập phân là toàn bộ số ngón tay và ngón chân. Trong tiếng Quiche, từ chỉ số 20 là huvinak, có nghĩa là "toàn thân". Ngoài ra, người Maya đã phát triển khái niệm "số 0" vào năm 357, sớm hơn châu Âu khoảng gần 900 năm. Văn bản cổ cho thấy, những người Maya, có nhu cầu công việc cộng vào hàng trăm triệu và số ngày lớn đòi hỏi phải có phương cách chính xác để thực hiện chúng. Kết quả tính toán về thiên văn học theo một không gian và thời gian dài là cực kỳ chính xác; bản đồ về sự vận động của Mặt Trăng và các hành tinh là ngang bằng hoặc vượt xa các văn minh khác quan sát vũ trụ bằng mắt thường.
Người Maya xác định chính xác độ dài của một năm gồm 365 ngày, thời gian Trái Đất quay hết một vòng quanh Mặt Trời, chính xác hơn rất nhiều lịch được châu Âu sử dụng vào thời đó (lịch Gregory). Có giả thiết cho rằng người Maya đã kế thừa cách tính lịch từ các nền văn minh cổ Zapotecs (ở Mont Alban) và Olmecs (ở La venta và Tres Zapotes). Tuy thế, người Maya lại không sử dụng độ dài tính toán thời gian một năm vào lịch của họ. Người Maya sử dụng lịch (gọi là lịch Maya) trên cơ sở năm Mặt Trời với 365 ngày. Một năm Mặt Trời được chia thành 18 tháng, mỗi tháng có 20 ngày (dùng hệ đếm cơ số 20), năm ngày còn lại được đưa vào cuối năm. Các ngày trong tháng được ghi bằng số thứ tự từ 0 đến 19 trước tên tháng (0 đến 4 cho tháng thiếu, cuối năm có 5 ngày). Theo lịch này, các năm nối tiếp nhau không ngừng, không có năm nhuận. Như vậy kết quả là lịch sẽ bị sai lệch lùi về một ngày trong vòng 4 năm. Khi so sánh với lịch Julius, dùng ở châu Âu từ thời Đế quốc La Mã cho đến tận thế kỷ 16, thì độ sai số cho một ngày là mỗi 128 năm; với lịch Gregory hiện đại, thì sai số sấp xỉ một ngày mỗi 3.257 năm.
Lịch của thầy bói
Ngày xưa, những người da đỏ Quiche, IxilMam vẫn dùng lịch Maya truyền thống với một năm có 260 ngày để dự đoán tương lai. Để giải thích vì sao bộ lịch lại gồm 260 ngày, người ta đã phỏng vấn nhiều thầy bói ở ChichicastenangoMomstenango và phát hiện ra rằng: Việc chọn độ dài của năm nay không phải do ngẫu nhiên mà là do phù hợp với thời gian mang thai của con người. Hệ đếm 20 cho phép chia một năm 260 ngày thành 13 tháng, mỗi tháng 20 ngày, kết hợp với một trong 20 tên gọi các con vật, các lực lượng tự nhiên, các quan niệm hay khái niệm mà ý nghĩa không còn lưu truyền đến ngày nay.

Tham khảo 


Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 10:54, ngày 4 tháng 1 năm 2014.



Xem tiếp...

Thứ Bảy, 1 tháng 3, 2014

TIẾU LÂM KIM CỒ 28

(ĐC sưu tầm trên NET)


Xem tiếp...

VUA HÁT "SẾN" - CHẾ LINH 3

(ĐC sưu tầm trên NET)

Chế Linh: Người ca sĩ 4 vợ và 14 con

Xuất bản: 08:23, Thứ Hai, 20/06/2011
.

Người Chăm nghe tiếng hát Chế Linh với một tình cảm đặc biệt, không phải ở lời ca thắm đượm tình yêu quê hương và lứa đôi, mà chính bởi giọng hát âm vang buồn dâng lên vời vợi khó tả cùng với nét diễn xuất đầy suy tư.

Con đường âm nhạc
Mô tả ảnh.
Ca sĩ Chế Linh
Chế Linh vốn là người gốc Chăm, tên thật Chà Len, sinh năm 1942 tại xã Phước Hữu, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận. Chế Linh vừa là ca sĩ, vừa là nhạc sĩ với nghệ danh Tú Nhi, anh có một giọng hát trời phú đặc biệt và có rất nhiều bài hát nổi tiếng. Vào năm 1958, khi 16 tuổi, Chế Linh vào Sài Gòn, trải qua biết bao nhiêu cực khổ tìm kế sinh nhai, từ làm đầu bếp, giữ trẻ. Anh rất chịu khó, siêng năng trau dồi kiến thức cho bản thân ngay trong những hoàn cảnh vô cùng cực khổ.

Rồi may mắn đến với Chế Linh khi anh tìm được việc làm cho một chủ người Hoa tốt bụng, ông chủ này đã giúp đỡ Chế Linh đi học và trả lương rất hậu cho Chế Linh khi làm người giúp việc trong nhà, nấu ăn và trông con cho ông ta. Sau chín tháng làm việc và dành dụm được một số tiền, Chế Linh quyết định vào Trường Bồ Ðề rồi sau đó là Trường Nguyễn Công Trứ để tiếp tục học.

Đoàn văn nghệ Biên Hòa cần tuyển ca sĩ để theo đoàn đi hát trong các miệt làng xa tại Biên Hòa. Chế Linh tham dự và được giải Nam ca xuất sắc nhất. Hoàn toàn không nghĩ là mình sẽ theo nghề ca hát, nhưng Chế Linh đã theo đoàn này hát (cùng với Châu Kỳ, Trúc Phương) vì tiền lương rất cao. Hai năm sau, đoàn văn nghệ tan rã, Chế Linh bắt đầu làm nghề tài xế (chở xe đá) tại Biên Hòa. Anh vừa làm việc vừa luyện giọng và viết nhạc, tình yêu âm nhạc đã bắt đầu nảy nở và phát triển trong Chế Linh.

Cũng trong thời gian này, "Ðêm buồn tỉnh lẻ", "Bài ca kỷ niệm" và "Ðếm bước cô đơn" ra đời... Với sự nhiệt tình và tài năng của mình, Chế Linh đã hoạt động âm nhạc rất sôi nổi vào thời đó. Anh đã cùng hát với những ca sĩ nổi tiếng như: Anh Ngọc, Duy Khánh, Thái Thanh, Thanh Thúy, Minh Hiếu, Tùng Lâm… Ra đời đĩa nhạc đầu tay "Vùng Biển Trời Và Màu Áo Em" với Cty Continental và sau đó ký hợp đồng với Cty Đĩa Việt Nam.

Thần tượng một thời

Chế Linh, ca sĩ một thời từng được ghi nhận là một "hiện tượng" trong dòng nhạc mà theo ngôn ngữ bình dân, mộc mạc vẫn gọi là nhạc "vàng". Nhạc "vàng" ở đây được hiểu là dòng nhạc mang tính "phổ thông" và được phổ biến rất rộng trong quần chúng do sự đa dạng của nó. Khi mặn mà, nồng nàn tình cảm với những cuộc tình đôi lứa. Khi đậm đà tình tự quê hương với những tâm tình bình dị và chân chất như tâm hồn của những người dân Việt bình thường.

Bây giờ, sau trên 40 năm góp tiếng hát của mình vào những sinh hoạt nhạc Việt từ khi còn ở trong nước đến khi ra hải ngoại, dĩ nhiên "hiện tượng" Chế Linh chỉ còn là một kỷ niệm đẹp về một thời lẫy lừng tên tuổi, nhưng có điều kỷ niệm đó sẽ không bao giờ có thể phai mờ trong tâm trí của những ai đã một lần "trót" yêu tiếng hát của một nghệ sỹ tài năng.
Mô tả ảnh.

Cũng như bất kỳ "thần tượng" nào, Chế Linh cũng phải tuân theo luật đào thải để nhường ngôi vị này cho những tiếng hát của thế hệ tiếp nối bước đi của anh. Nhưng rõ là trải qua bao năm tháng, trường hợp "hiện tượng" hay danh hiệu "thần tượng" cũng đã được gán cho không ít những giọng ca xuất hiện sau đó nhưng cho đến nay vẫn chưa có ai có thể so sánh với trường hợp Chế Linh trong những ngày vàng son của anh. Hiện tượng Chế Linh của những năm tháng xa xưa đến nay vẫn còn đi hát, vẫn còn tham gia vào những sinh hoạt ca nhạc và thỉnh thoảng vẫn còn góp mặt trong những chương trình video.

Dù thời gian có xói mòn phần nào giọng hát của anh, nhưng khi anh cất tiếng, ai cũng nhận ra cái chất Chế Linh đặc biệt. Cái "chất" Chế Linh đó đã là mẫu mực cho khá nhiều tiếng hát xuất hiện sau này tại hải ngoại với dòng nhạc luôn được đại đa số quần chúng yêu thích. Có thể nói không ngoa khi 2 cái tên Tuấn Vũ, Chế Linh đã đi vào tiềm thức của những người nặng lòng với dòng nhạc vàng, ở Tuấn Vũ là chút gì đó của sự phiêu du, từng trải còn ở Chế Linh là cả một sự tiết chế trong tâm, một giọng hát như được chắt lọc từ cái tình, cái nết của người dân xứ Chăm.

Ngày về…

Sau gần 30 năm xa quê, Chế Linh quyết định trở về quê hương "Cuộc đời tôi đã quen với nhiều chuyến đi nhưng lần này thì tôi như người đi làm xa trở về nhà. Cảm giác khác lạ nhất là lúc xuống sân bay Tân Sơn Nhất, nhìn phố phường, đường sá, nhà cửa thấy mọi thứ đều khang trang, mới mẻ", Chế Linh tâm sự. Mục đích của những lần về thăm quê của anh là nhằm tổ chức các chương trình ca nhạc để vận động gây quỹ từ thiện ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh. Mặc dù là người miền Nam và nổi tiếng tại đây nhưng trong nhiều lần về nước anh đều có những buổi ra mắt tại miền Bắc trước, bởi theo anh "Người Hà Nội chưa bao giờ gặp mặt, chuyện trò mà tình thương dành cho Chế Linh quá lớn lao nên tôi xin dành cho Hà Nội trước, tôi muốn trang trải tấm lòng mình đối với khán thính giả ngoài đó". Chế Linh còn nói rằng: "Điều mà tôi ngạc nhiên nhất là lớp trẻ ở Việt Nam thuộc lòng nhiều bài hát của tôi. Đi đến đâu tôi cũng nghe các bạn hát một vài câu hoặc cả bài. Tôi nghe mà cảm động vô cùng. Cảm ơn quê hương đã ưu ái dành cho tôi một chỗ đứng trang trọng trong lòng công chúng".
Mô tả ảnh.
Chế Linh bên vợ Vương Nga
Cũng trong lần trở lại với công chúng Việt Nam, Chế Linh còn cho biết là anh “dám” hát phòng trà khi anh nhận được một số lời mời. Trước đây, Chế Linh cũng chưa bao giờ đi hát cho các phòng trà, nếu có thì chỉ là hát giúp vui cho anh em bạn bè. Theo anh "không đi hát phòng trà vì tôi là người của các chương trình đại nhạc hội, toàn đi lưu diễn xa nên phải toàn tâm toàn sức cho chương trình". Hơn nữa Chế Linh về Việt Nam không phải để hát mà để làm một số chương trình từ thiện. Vả lại "giá" của anh cũng thuộc hàng rất cao, các phòng trà khó có thể theo nổi.

Khi được phóng viên hỏi về cuộc sống hiện tại của anh tại Canada, Chế Linh có chia sẻ: "Chính xác là tôi có 4 vợ và 14 con. Có một tờ báo đã nhầm lẫn viết rằng tôi 4 vợ 7 con. Cũng không có gì đâu nhưng tôi sợ các con mình buồn vì thấy bố kể thiếu". Việc một ca sỹ có nhiều vợ âu cũng là chuyện thường tình, nhưng ở vào hoàn cảnh của Chế Linh thì lại khác, anh bao giờ cũng tâm niệm việc giữ tròn đạo nghĩa vợ chồng. Chế Linh tâm sự: "Một người vợ của tôi mất, hai người vợ ly dị, tôi đang sống với người vợ thứ tư tại Canada cùng 3 con. Đây là người vợ tôi đã cưới trước khi ra nước ngoài". Người phụ nữ sẽ cùng với Chế Linh đi hết con đường đời là chị Vương Nga, người mà lúc nào cũng ở bên cạnh chồng như hình với bóng, chị không chỉ là chỗ dựa tinh thần cho anh mà còn là điểm tựa cho sự thành công của anh khi anh tiếp tục bước đi trên con đường nghệ thuật mình đã chọn.
Theo PL&XH
.
Xem tiếp...

VĂN MINH HÓA 4 (Trung Quốc)

(ĐC sưu tầm trên NET)

Văn hóa Trung Quốc

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Lịch sử Trung Quốc
Lịch sử Trung Quốc
CỔ ĐẠI
Tam Hoàng Ngũ Đế
Hạ ~tk 21– ~tk 16TCN
Thương ~tk 17– ~tk 11 TCN
Chu ~tk 11–256 TCN
 Tây Chu ~tk 11–771 TCN
 Đông Chu 770–256 TCN
   Xuân Thu 770–476 TCN
   Chiến Quốc 476–221 TCN
ĐẾ QUỐC
Tần 221 TCN–206 TCN
(Tây Sở 206 TCN–202 TCN)
Hán 202 TCN–220 CN
  Tây Hán 202 TCN–9 CN
  Tân 9–23
  (Huyền Hán 23–25)
  Đông Hán 25–220
Tam Quốc 220–280
  Tào Ngụy, Thục Hán , Đông Ngô
Tấn 266–420
  Tây Tấn 266–316
Thập Lục Quốc
304–439
  Đông Tấn 317–420
Nam-Bắc triều 420–589
  Lưu Tống, Nam Tề, Lương, Trần
  Bắc Ngụy, Đông Ngụy, Tây Ngụy, Bắc Tề, Bắc Chu
Tùy 581–619
Đường 618–907
 (Võ Chu 690–705)
Ngũ Đại Thập Quốc
907–979
Liêu 907–1125
(Tây Liêu 1124–1218)
Tống 960–1279
  Bắc Tống 960–1127
Tây Hạ
1038–1227
  Nam Tống 1127–1279
Kim
1115–1234

(Đại Mông Cổ Quốc 1206–1271)
Nguyên 1271–1368
(Bắc Nguyên 1368–1388)
Minh 1368–1644
(Nam Minh 1644–1662)
(Hậu Kim 1616–1636)
Thanh 1636–1912
HIỆN ĐẠI
Trung Hoa Dân Quốc 1912–1949
Cộng hòa Nhân dân
Trung Hoa
1949–nay
Trung Hoa Dân Quốc
tại Đài Loan
1949–nay
Văn hóa Trung Quốc là một trong những nền văn hóa lâu đời nhất và phức tạp nhất trên thế giới.[1][2] Các vùng mà văn hóa Trung Quốc thống trị trải dài trên một khu vực địa lý rộng lớn ở miền Đông châu Á với các phong tục và truyền thống rất nhiều điểm khác nhau giữa các thị trấn, thành phố và tỉnh.

Điều kiện hình thành

Điều kiện tự nhiên

Lãnh thổ Trung Quốc thời cổ đại nhỏ hơn bây giờ nhiều. Địa hình Trung Quốc đa dạng, phía Tây có nhiều núicao nguyên,khí hậu khô hanh, phía đông có các bình nguyên châu thổ phì nhiêu, thuận lợi cho việc làm nông nghiệp.
Trung Quốc có hàng ngàn con sông lớn nhỏ, nhưng có hai con sông quan trọng nhất là sông Hoàng Hàsông Trường Giang (hay sông Dương Tử). Hai con sông này đều chảy theo hướng tây-đông và hàng năm đem phù sa về bồi đắp cho những cánh đồng ở phía đông Trung Quốc.

Dân tộc

Trung Quốc có nhiều dân tộc nhưng đông nhất là người Hoa-Hạ. Người Hoa ngày nay tự cho tổ tiên họ gổc sinh sống ở ven núi Hoa thuộc tỉnh Thiểm Tâysông Hạ thuộc tỉnh Hồ Bắc ngày nay. (Dân núi Hoa sông Hạ).
Trung Quốc ngày nay có khoảng 100 dân tộc, và 5 dân tộc có dân số đông nhất là Hán, Mãn, Mông, Hồi, Tạng.

Lịch sử

Con người đã sinh sống ở đất Trung Quốc cách đây hàng triệu năm. Dấu tích người vượn ở hang Chu Khẩu Điếm (gần Bắc Kinh) có niên đại cách đây hơn 500.000 năm. Cách ngày nay khoảng hơn 5000 năm, xã hội nguyên thuỷ ở Trung Quốc bước vào giai đoạn tan rã, xã hội có giai cấp, nhà nước ra đời.
Giai đoạn đầu, lịch sử Trung Quốc chưa được ghi chép chính xác mà chỉ được chuyển tải bằng truyền thuyết. Theo truyền thuyết, các vua đầu tiên của Trung Quốc là ở thời kì Tam Hoàng Ngũ Đế (Phục Hy, Nữ Oa, Thần Nông và Hoàng đế, Cao Dương đế, Cốc đế, Nghiêu đế, Thuấn đế). Theo các nhà nghiên cứu, thực ra đây là giai đoạn cuối cùng của thời kì công xã nguyên thuỷ.
Nền văn minh Trung Hoa cổ gắn liền với vùng lục địa Đông Á rộng lớn. Cách đây khoảng 50 vạn năm, ở vùng Chu Khẩu Điếm (về phía Tây Nam thành phố Bắc Kinh ngày nay) đã có con người sinh sống, được gọi là người vượn Bắc Kinh (Peking Man). Đó chính là những bầy đoàn người nguyên thủy dùng cành cây gậy gộc và các công cụ đá thô sơ để săn bắt, hái lượm và tự vệ. Người vượn Bắc Kinh đã biết dùng lửa.

Thời kỳ sơ khởi

Trải qua hàng chục vạn năm, những cư dân nguyên thủy vùng này đã phát triển và ngày một đông đúc. Họ đã hình thành các bộ lạc lớn và bành trướng lãnh thổ, biết chăn nuôi và trồng trọt và cư trú trên một vùng rộng lớn của lục địa châu Á. Trên vùng đồng bằng rộng lớn Hoa Bắc, tổ tiên xưa của người Trung Hoa sống thành những làng xóm ven sông, trong những túp lều tường đất, mái tranh. Tôn giáo-nghệ thuật cũng bắt đầu hình thành từ những cụm cư dân này. Các nhà khảo cổ học khám phá và xác định hai nền văn hóa là Ngưỡng Thiều thuộc Hà Nam và Long Sơn thuộc Sơn Đông Trung Quốc cách ngày nay vào khoảng từ 5.000-7.000 năm. Những di vật tìm thấy ở hai nền văn hóa này, bên cạnh các dụng cụ sản xuất, sinh hoạt còn có các sản phẩm gốm được làm từ một loại đất mà đồ gốm có màu đen và có các hoa văn hình học, hình động thực vật... được tạo dáng thanh thoát và có độ bền chắc.

Thời kỳ văn minh sông Hoàng Hà

Theo truyền thuyết, vào khoảng từ 3.000 đến 4.000 năm trước đây, vùng phía Tây và Tây Bắc Trung Quốc, dọc theo thượng nguồn của con sông Hoàng Hà có một quần thể dân cư sinh sống và đã đạt được một trình độ văn hóa khá cao, Văn minh sông Hoàng Hà hay văn minh Hoa Hạ. Những cư dân này sống định cư dưới chân núi Hoa nên tiếng Trung Quốc gọi là Hoa Hạ (người sống dưới núi Hoa). Cũng theo truyền thuyết, người Hoa Hạ đã có nhiều thành tựu trong các lĩnh vực văn hóaxã hội.
Văn minh Hoàng Hà theo các nhà sử học và khảo cổ học, được xem là bắt đầu từ khoảng 2.200 TCN đến 1.066 TCN, và được chia thành các giai đoạn sau:
  • Thời kỳ Tam hoàng Ngũ đế
  • Thời Tam Đại
  • Thời Nhà Hạ
  • Thời Nhà Thương

Thời kỳ dựng nước Trung Quốc (1.066 TCN 206 TCN)


Vạn Lý Trường Thành bắt đầu được xây dựng từ trước khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc
Thời kỳ này bắt đầu bởi sự sụp đổ của nhà Thương và bắt đầu kỷ nguyên của nhà Chu (1.066 TCN - 221 TCN) bao gồm nhà Tây Chu, (1.066 TCN - 771 TCN) và nhà Đông Chu hay còn được gọi là thời Xuân Thu và Chiến Quốc và kết thúc chiến tranh giữa các tiểu vương quốc bằng sự bắt đầu triều đại nhà Tần thống nhất Trung Hoa vào năm 221 TCN.Sau đó nhà Hán thống nhất Trung Quốc thành lập vương triều Hán tồn tại gần 400 năm


Thành tựu chủ yếu

Chữ viết

Đời nhà Thương, người Trung Hoa đã có chữ Giáp cốt được viết trên mai rùa, xương thú, được gọi là Giáp cốt văn. Qua quá trình biến đổi, từ Giáp cốt văn hình thành nên Thạch cổ văn, Kim văn. Tới thời Tần, sau khi thống nhất Trung Quốc, chữ viết cũng được thống nhất trong khuôn hình vuông được gọi là chữ Tiểu triện.

Văn học

Kinh Thi là tập thơ cổ nhất ở Trung Quốc do nhiều tác giả sáng tác thời Xuân-Thu, được Khổng tử sưu tập và chỉnh lí. Kinh Thi gồm có 3 phần: Phong, Nhã, Tụng.
Thơ Đường là thời kì đỉnh cao của nền thơ ca Trung Quốc. Trong hàng ngàn tác giả có ba nhà thơ lớn nổi bật là Lí Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị.
Tới thời Minh-Thanh, tiểu thuyết lại rất phát triển với các tác phẩm tiêu biểu như: Tam quốc chí diễn nghĩa của La Quán Trung, Thuỷ hử của Thi Nại Am, Tây du kí của Ngô Thừa Ân, Nho lâm ngoại sử của Ngô Kính Tử, Hồng Lâu Mộng của Tào Tuyết Cần...trong đó Hồng lâu mộng được đánh giá là tiểu thuyết có giá trị nhất.

Sử học

Người Trung Hoa thời cổ rất có ý thức về biên soạn sử. Nhiều nước thời Xuân-Thu đã đặt các quan chép sử. Trên cơ sở quyển sử nước Lỗ, Khổng Tử đã biên soạn ra sách Xuân Thu.
Tới thời Hán, Tư Mã Thiên là một nhà viết sử lớn đã để lại Phẩm Sử kí, chép lại lịch sử Trung Quốc gần 3000 năm, từ thời Hoàng Đế đến thời Hán Vũ Đế.
Tới thời Đông Hán, có các tác phẩm Hán thư của Ban Cố, Tam quốc chí của Trần Thọ, Hậu Hán thư của Phạm Diệp.
Tới thời Minh-Thanh, các bộ sử như Minh sử, Tứ khố toàn thư là những di sản văn hoá đồ sộ của Trung Quốc.

Khoa học tự nhiên và kĩ thuật

Toán học

Người Trung Hoa đã sử dụng hệ đếm thập phân từ rất sớm. Thời Tây Hán đã xuất hiện cuốn Chu bễ toán kinh, trong sách đã có nói đến quan niệm về phân số, về quan hệ giữa 3 cạnh trong một tam giác vuông.
Thời Đông Hán, đã có cuốn Cửu chương toán thuật, trong sách này đã nói đến khai căn bậc 2, căn bậc 3, phương trình bậc1, đã có cả khái niệm số âm, số dương.
Thời Nam-Bắc triều có một nhà toán học nổi tiếng là Tổ Xung Chi, ông đã tìm ra số Pi xấp xỉ 3,14159265, đây là một con số cực kì chính xác so với thế giới hồi đó.

Thiên văn học

Từ đời nhà Thương, người Trung Hoa đã vẽ được bản đồ sao có tới 800 vì sao. Họ đã xác định được chu kì chuyển động gần đúng của 120 vì sao. Từ đó họ đặt ra lịch Can-Chi. Thế kỉ IV TCN, Can Đức đã ghi chép về hiện tượng vết đen trên Mặt trời. Thế kỉ II, Trương Hành đã chế ra dụng cụ để dự báo động đất.
Năm 1230, Quách Thủ Kính (đời Nguyên) đã soạn ra cuốn Thụ thời lịch, xác định một năm có 365,2425 ngày. Đây là một con số rất chính xác so với các nhà thiên văn Châu Âu thế kỉ XIII.

Y, dược học

Thời Chiến Quốc đã có sách Hoàng đế nội kinh được coi là bộ sách kinh điển của y học cổ truyền Trung Hoa. Thời nhà Minh có cuốn Bản thảo cương mục của Lý Thời Trân. Cuốn sách này được dịch ra chữ Latin và được Darwin coi đây là bộ bách khoa về sinh vật của người Trung Quốc thời đó. Đặc biệt là khoa châm cứu là một thành tựu độc đáo của y học Trung Quốc.

Kĩ thuật

Có 4 phát minh quan trọng về mặt kĩ thuật mà người Trung Hoa đã đóng góp cho nhân loại, đó là giấy, thuốc súng, la bàn và nghề in. Giấy được chế ra vào khoảng năm 105 do Thái Luân. Nghề in bằng những chữ rời đã được Tất Thăng sáng tạo vào đời Tuỳ. Đồ sứ cũng có nguồn gốc từ Trung Hoa. Từ thế kỉ VI, họ đã chế ra diêm quẹt để tạo ra lửa cho tiện dụng.

Hội hoạ, điêu khắc, kiến trúc

Hội hoạ

Hội hoạ Trung Quốc có lịch sử 5000 - 6000 năm với các loại hình: bạch hoạ, bản hoạ, bích hoạ. Đặc biệt là nghệ thuật vẽ tranh thuỷ mạc, có ảnh hưởng nhiều tới các nước ở Châu Á. Cuốn Lục pháp luận của Tạ Hách đã tổng kết những kinh nghiệm hội hoạ từ đời Hán đến đời Tuỳ.

Điêu khắc

Trung Quốc cũng phân thành các ngành riêng như: Ngọc điêu, thạch điêu, mộc điêu. Những tác phẩm nổi tiếng như cặp tượng Tần ngẫu đời Tần, tượng Lạc sơn đại Phật đời Tây Hán (pho tượng cao nhất thế giới), tượng Phật nghìn mắt nghìn tay.

Kiến trúc

Công trình nổi tiếng thế giới như: Vạn Lý Trường Thành (dài 6700 km), Thành Tràng An, Cố cung, Tử cấm thànhBắc Kinh.

Triết học, tư tưởng

Thời Xuân Thu - Chiến Quốc, ở Trung Quốc đã xuất hiện rất nhiều những nhà tư tưởng đưa ra những lí thuyết để tổ chức xã hội và giải thích các vấn đề của cuộc sống (Bách gia tranh minh).
Thuyết Âm dương, Bát quái, Ngũ hành, Âm dương gia: -Âm dương, bát quái, ngũ hành, là những thuyết mà người Trung Quốc đã nêu ra từ thời cổ đại để giải thích thế giới. Họ cho rằng trong vũ trụ luôn tồn tại hai loại khí không nhìn thấy được xâm nhập vào trong mọi vật là âm và dương (lưỡng nghi).
-Bát quái là 8 yếu tố tạo thành thế giới: Càn (trời), Khôn (đất), Chấn (sấm), Tốn (gió), Khảm (nước), Ly (lửa), Cấn (núi), Đoài (hồ). Trong Bát quái, hai quẻ Càn, Khôn là quan trọng nhất.
-Ngũ hành là: Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ. Đó là 5 nguyên tố tạo thành vạn vật. Các vật khác nhau là do sự pha trộn, tỉ lệ khác nhau do tạo hoá sinh ra. Sau này, những người theo thuyết Âm dương gia đã kết hợp thuyết Âm dương với Ngũ hành rồi vận dụng nó để giả thích các biến động của lịch sử xã hội.

Nho giáo

Đại biểu cho phái Nho gia là Khổng Tử. Nho gia đề cao chữ nhân, chủ trương lễ trị, phản đối pháp trị. Nho gia đề cao Tam cương, Ngũ thường, cùng với tư tưởng Chính danh định phận và đề cao tư tưởng Thiên mệnh. Giá trị quan trọng nhất trong tư tưởng của Khổng Tử là về giáo dục. Ông chủ trương dạy học cho tất cả mọi người.
Tới thời Hán Vũ Đế (140-87 TCN), chấp nhận đề nghị của Đổng Trọng Thư, Hán Vũ Đế đã ra lệnh “bãi truất bách gia, độc tôn Nho thuật”, Nho gia đã được đề cao một cách tuyệt đối và nâng lên thành Nho giáo.

Đạo giáo

Đạo gia là Lão TửTrang Tử. Hai ông đã thể hiện tư tưởng của mình qua hai tác phẩm Đạo đức kinh và Nam Hoa kinh. Theo Lão Tử, “Đạo” là cơ sở đầu tiên của vũ trụ, có trước cả trời đất, nằm trong trời đất. Qui luật biến hoá tự thân của mỗi sự vật ông gọi là “Đức”. Lão Tử cho rằng mọi vật sinh thành, phát triển và suy vong đều có mối liên hệ với nhau.
Tới thời Trang Tử, tư tưởng của phái Đạo gia mang nặng tính buông xuôi, xa lánh cuộc đời. Họ cho rằng mọi hoạt động của con người đều không thể cưỡng lại “đạo trời”, từ đó sinh tư tưởng an phận, lánh đời.
Phái Đạo giáo sinh ra sau này khác hẳn Đạo gia, mặc dù có phái trong Đạo giáo tôn Lão Tử làm “Thái thượng lão quân”. Hạt nhân cơ bản của Đạo giáo là tư tưởng thần tiên. Đạo giáo cho rằng sống là một việc sung sướng nên họ trọng sinh, lạc sinh.

Pháp gia

Ngược hẳn với phái Nho gia, phái Pháp gia chủ trương “pháp trị”, coi nhẹ “lễ trị”. Tiêu biểu cho phái Pháp gia là Hàn Phi Tử, một kẻ sĩ thời Tần Thuỷ Hoàng.
Theo Hàn Phi Tử, trị nước chỉ cần pháp luật nghiêm minh, rõ ràng, dễ hiểu với mọi người, không cần lễ nghĩa. Ông cho rằng trị nước cần nhất 3 điều:
Pháp: đó là phải định ra được pháp luật nghiêm minh, rõ ràng, dễ hiểu, công bằng với mọi người, không phân biệt đó là quí tộc hay dân đen.
Thế: Muốn thực thi pháp luật thì các bậc quân vương phải nắm vững quyền thế, không chia sẻ cho kẻ khác.
Thuật: đó là thuật dùng người. Thuật có 3 mặt: bổ nhiệm, khảo hạch và thưởng phạt. Thuật bổ nhiệm là khi chọn quan lại chỉ căn cứ vào tài năng và lòng trung thành, không cần dòng dõi, đức hạnh. Khảo hạch là phải kiểm tra công việc thường xuyên. Thưởng phạt thì chủ trương “ai có công thì thưởng, ai có tội thì trừng phạt thật nặng, bất kể là quí tộc hay dân đen”, trọng thưởng, trọng phạt.

Mặc gia

Người đề xướng là Mặc Tử (Khoảng giữa thế kỉ V TCN đến giữa thế kỉ IV TCN). Hạt nhân tư tưởng triết học của Mặc gia là nhân và nghĩa. Mặc Tử còn là người chủ trương “ thủ thực hư danh” (lấy thực đặt tên). Tư tưởng của phái Mặc gia đầy thiện chí nhưng cũng không ít ảo tưởng. Từ đời Tần, Hán trở về sau, ảnh hưởng của phái Mặc gia hầu như không còn đáng kể.

Trang phục

Các tầng lớp khác nhau trong xã hội vào những thời kỳ khác nhau theo những xu hướng phục trang khác nhau, màu vàng thường được dành riêng cho hoàng đế. Lịch sử phục trang Trung Quốc trải hàng trăm năm với những cải cách đa dạng và đầy màu sắc nhất. Trong triều đại nhà Thanh, triều đại huy hoàng cuối cùng của Trung Quốc, đã xảy ra những thay đổi về trang phục đột ngột và ấn tượng, quần áo của thời đại trước nhà Thanh được gọi là Hán phục hoặc trang phục Trung Hoa truyền thống nhà Hán. Nhiều biểu tượng như phượng hoàng được sử dụng cho mục đích trang trí cũng như kinh tế.

Ẩm thực

Sự đa dạng áp đảo khổng lồ của ẩm thực Trung Quốc chủ yếu đến từ việc các hoàng đế triều đại tổ chức những bữa tiệc với 100 món mỗi bữa ăn.[3] Vô số các nhân viên nhà bếp hoàng gia và phi tần cùng tham gia vào quá trình chuẩn bị thức ăn. Theo thời gian, nhiều món ăn trở thành một phần văn hóa hàng ngày của người dân. Một số các nhà hàng cao cấp nhất có những công thức nấu ăn gần với thời kỳ triều đại các vua chúa gồm nhà hàng Phòng Sơn ở Công viên Bắc Hải tại Bắc Kinh và Pavilion Oriole[3] Có thể cho rằng, tất cả các chi nhánh Hồng Kông dù theo phong cách ẩm thực hoặc thậm chí là phong cách Mỹ thì theo một cách nào đó vẫn có nguồn gốc từ văn hóa các triều đại Trung Hoa.


Tham khảo

  1. ^ “Chinese Dynasty Guide - The Art of Asia - History & Maps”. Minneapolis Institute of Art. Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2008.
  2. ^ “Guggenheim Museum - China: 5,000 years”. Solomon R. Guggenheim Foundation & Solomon R. Guggenheim Museum. 6 February 1998 to 1998-06-03. Truy cập ngày 10 tháng 10 năm 2008.
  3. ^ a b Kong, Foong, Ling. [2002]. The Food of Asia. Tuttle Publishing. ISBN 0-7946-0146-4
Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 09:34, ngày 26 tháng 12 năm 2013.
Xem tiếp...