24 giờ có mặt ở hiện trường, người lính công binh lữ đoàn 29 và tiểu
đoàn 93 Binh chủng công binh đã góp công lớn vào câu chuyện thần kỳ giải
cứu thành công 12 công nhân bị nạn.
Sáng 20/12, những tốp công binh cuối cùng của lữ đoàn 293 và tiểu đoàn 93 đã rời Đà Lạt về đơn vị.
Gặp lại những người lính công binh ấy ở bến xe Đà Lạt, trên quân phục của nhiều người vẫn còn lấm những vệt bùn từ Đạ Dâng.
Không được phép sai sót
Ra vào hầm Đạ Dâng trong những thời khắc cam go ấy để tường thuật
việc cứu nạn, chúng tôi vẫn nhớ trong tiết trời rét run của cao nguyên
Lâm Viên, nhất là những lúc đêm khuya, nhưng những tốp công binh trong
hầm thủy điện thì mồ hôi đẫm vai áo, tóc bết bùn đất.
Trong ngách hầm cứu nạn, những người lính khom lưng xúc từng xẻng đất
lẫn đá chuyền ra ngoài. Hầm cứu nạn chỉ cao ngang hông, tất cả đều phải
cúi gập người và không được phạm sai sót. Bởi đường hầm cứu nạn của các
công binh được đào ngay dưới lớp đất, đá vừa đổ ập xuống.
Đào xong, phải gia cố ngay bằng gỗ và thép. Bất cứ một sai sót nào cũng có thể làm đường hầm cứu nạn sập xuống.
|
Công binh lữ đoàn 293 đào và gia cố hầm cứu nạn. |
Trung úy Nguyễn Văn Tiền, đại đội phó công binh, người chui vào đoạn
hầm bị sập và đưa cả 12 nạn nhân ra ngoài, khi gặp lại chúng tôi chỉ
cười hiền: “Tôi chỉ nhớ nhất là hình ảnh những công nhân nhường nhau ra
trước mà xúc động mãi”.
Trung úy Tiền kể khi anh và đồng đội đang đào thì bất ngờ một lỗ hổng
từ trên nóc hầm cứu nạn xuất hiện, ánh đèn pin chiếu lên thì xuyên
thẳng và rọi thấy rõ cả trần hầm chính.
Anh Tiền di chuyển vào bên trong và bơi qua đoạn nước ngập, tiếp cận chiếc máy đào bị kẹt bên trong khu vực sụp hầm.
“Nước ngập ngang cổ, lạnh lắm không thấy gì cả, tôi lần theo tiếng
kêu cứu mà bơi, Nam (công nhân Hoàng Viết Nam - PV) ở gần nhất nên tôi
đưa ra trước” - anh Tiền kể lại.
Chạm được vào tay Nam đang đứng gần miệng hầm cứu hộ, Tiền nói anh đã khóc vì quá vui sướng.
Anh kể: “Tôi vừa bơi vừa cõng Nam tới miệng hầm rồi đặt Nam tựa lên
chân mình lê từng bước chui qua đường hầm cao khoảng 60cm giao lại cho
đồng đội ở miệng hầm cứu hộ phía ngoài. Trong tiếng thở hồi hộp của Nam,
tôi nghe cậu ấy nói mọi người đều bình an”.
“Trong lúc nguy cấp mới hiểu tình người khi tôi bảo ai yếu nhất tôi
đưa ra trước thì không ai chịu ra hết, cứ nhường. Tôi nóng quá phải gắt
lên là đưa phụ nữ ra trước đi, khi đó Ngọc (Đặng Thị Hồng Ngọc) mới để
tôi đưa ra”, trung úy Tiền nói.
Bí mật đến phút chót
Theo đại úy Lê Văn Quỳnh - đại đội trưởng đại đội 3, tiểu đoàn 93,
cuộc giải cứu thành công còn nhờ vào việc những người lính đã ngăn cảm
xúc và giữ bí mật đến phút cuối cùng.
Là người đã lao như tên bắn từ hầm Đạ Dâng ra cấp báo với chỉ huy về
thông tin đã giải cứu được 12 công nhân, đại úy Quỳnh tiết lộ: 16h35 mọi
người mới vỡ òa khi nạn nhân đầu tiên được đưa ra khỏi hầm Đạ Dâng
nhưng thực tế từ 15g55, công binh đã tiếp cận được 12 công nhân.
“Biết tin anh em công nhân còn sống và an toàn, chúng tôi chỉ muốn
hét lên nhưng lúc này phía bên ngoài là hàng người đang nghẹt thở chờ
đợi. Nếu biết tin thì mọi người sẽ khó giữ bình tĩnh, sẽ ùa tới và có
thể gây cản trở công tác cứu nạn. Do đó chúng tôi phải bí mật đến phút
chót” - đại úy Quỳnh nhớ lại.
Đại úy Quỳnh kể sau khi đồng đội ở lữ đoàn 293 phát hiện các công
nhân, bên trong hầm cứu nạn một nhóm công binh thực hiện việc đưa các
công nhân ra.
Các tốp cứu nạn khác vẫn không hay biết, tiến hành công việc bình
thường. Chỉ đến khi một sĩ quan đề nghị các nhóm cứu nạn khác ngừng việc
đào bới, nổ mìn và từ trong hầm cứu nạn từng công nhân được cõng ra thì
mọi người trong hầm mới được biết.
Lúc này, các công binh xếp thành hai hàng dài khoảng 50m hai bên vách
hầm để ứng cứu, hỗ trợ nhau đưa 12 công nhân qua đoạn hầm bị ngập và
lầy lội nhất.
Và phương án giữ bí mật đến phút chót đã làm cuộc giải cứu thêm trọn
vẹn. Khi công nhân đầu tiên sắp được đưa ra khỏi hầm thì đại tá Phạm Văn
Tỵ - Phó cục trưởng Cục Cứu hộ cứu nạn - từ lều chỉ huy mới phát lệnh
cho tất cả lực lượng cứu nạn sẵn sàng tiếp ứng.
Sự bí mật, bất ngờ ấy đã mang lại hiệu quả trọn vẹn. Khi lực lượng
cứu nạn bên ngoài cửa hầm nhận lệnh tiếp ứng vừa chạy đến miệng hầm thì
cũng là lúc nạn nhân đầu tiên được đưa ra.
Chỉ trong chưa đầy 5 phút, 12 nạn nhân lần lượt được đưa đến lều chăm
sóc y tế. Và đến lúc ấy, những người lính công binh biết rằng mình đã
hoàn thành nhiệm vụ, nhảy cẫng và hò reo bật lên những cảm xúc và niềm
vui tột độ sau 40 phút kìm nén, giữ bí mật.
Thành công nhờ phương pháp “hầm trong cát”
Đại tá Nguyễn Hữu Hùng - Phó tham mưu trưởng Bộ tư lệnh công binh -
vui mừng nói rằng việc lực lượng công binh đào được hầm cứu nạn giải
thoát thành công 12 công nhân bị kẹt trong hầm thủy điện Đạ Dâng là nhờ
áp dụng phương pháp đào hầm truyền thống của quân đội: “hầm trong cát”.
Theo ông, giải pháp này mở ra cơ hội cứu các nạn nhân nhanh nhất nhờ đào được đường hầm ngắn nhất.
“Đương nhiên, đây là phương án rất khó khăn bởi mức độ sụt trượt của
cát rất lớn. Tuy nhiên, với kinh nghiệm và sự tinh nhuệ của lực lượng
công binh, chúng tôi đã khắc phục mọi khó khăn như tạo khung vào cửa
hầm, chống sụt trượt rất tốt nên đã thắng lợi”, ông Hùng nói.
Ông Hùng cho biết phương pháp “hầm trong cát” đã được Phó thủ tướng
Hoàng Trung Hải đồng ý cho triển khai và Ban chỉ đạo cứu nạn thống nhất
nên lực lượng công binh mới mạnh dạn thực hiện.
TPO - Đại tá Nguyễn Hồng Sơn, Bí thư Đảng
ủy, Chính ủy Lữ đoàn Công binh 543 (Quân khu 2) vừa cho hay, một đồng
chí sỹ quan vừa dũng cảm hy sinh khi cứu đồng đội.
Di ảnh Đại úy Cao Xuân Tú.
Đại tá Nguyễn Hồng Sơn, Chính ủy Lữ đoàn cho biết, vào hồi 16
giờ 30 phút ngày 15/8, trong khi cùng một cán bộ và 2 chiến sỹ đi kiểm
tra công trình quốc phòng đang tạm dừng thi công do ảnh hưởng của cơn
bão số 2, khi hành quân tới vị trí lối lên xiên cửa C, Đại úy Cao Xuân Tú (sinh
ngày 20-9-1983, Phó Tiểu đoàn trưởng Quân sự Tiểu đoàn 25, Chỉ huy
trưởng thi công công trình quốc phòng, Lữ đoàn Công binh 543, quê ở xã
Diễn Cát, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An) phát hiện một khối lượng đất đá rất lớn có chiều hướng đổ sập xuống vị trí của tổ.
Gần như không kịp suy nghĩ gì, Đại úy Cao Xuân Tú hô to: “Sập
hầm, các đồng chí thoát ra khẩn trương!”, đồng thời nhanh tay đẩy mạnh
các đồng đội của mình ra khỏi vị trí nguy hiểm. Cùng lúc đó, cả khối
lượng đất đá khoảng trên 20m
3 đã đổ ập xuống làm Đại úy Cao Xuân Tú anh dũng hy sinh…
“Ngay sau hành động dũng cảm hy sinh khi cứu đồng đội của Đại úy Cao
Xuân Tú, suốt hai ngày qua, trong điều kiện mưa lớn kéo dài, số lượng
đất đá vẫn tiếp tục xô xuống vị trí đồng chí đã ngã xuống, nhưng công
tác cứu hộ vẫn đang được Bộ Tư lệnh Quân khu 2, Bộ Tư lệnh Công binh
cùng các cơ quan chức năng và cán bộ, chiến sỹ Lữ đoàn Công binh 543
tiến hành khẩn trương, huy động tối đa mọi lực lượng, phương tiện, quyết
tâm đưa thi thể đồng chí Tú ra khỏi hầm trong thời gian sớm nhất”.
Thiếu tướng Nguyễn Thái Bình, Phó Tham mưu trưởng Quân khu 2, Chỉ huy
trưởng lực lượng cứu hộ khẳng định.
Trao đổi với chúng tôi, Đại tá Nguyễn Hồng Sơn cho biết, hiện Đảng
ủy, Chỉ huy Lữ đoàn Công binh 543 đã cử các lực lượng tới hỏi thăm, động
viên gia đình Đại úy Cao Xuân Tú, đồng thời tiến hành các thủ tục đề
nghị công nhận liệt sỹ, đề nghị tặng thưởng Huân cương Chiến công hạng
Ba, thăng quân hàm trước niên hạn từ Đại úy lên Thiếu tá và phát động
phong trào thi đua học tập hành động hy sinh dũng cảm trong khi thực
hiện nhiệm vụ, cứu đồng đội của Đại úy Cao Xuân Tú.
Được biết, con gái đầu lòng của vợ chồng Đại úy Cao Xuân Tú và chị
Nguyễn Thị Thủy, giáo viên trường THPT Diễn Châu 2, huyện Diễn Châu,
tỉnh Nghệ An vừa tròn 5 tuổi và chỉ còn ít ngày nữa, anh chị sẽ được đón
cháu thứ hai đang sắp ra đời.
Chiến sỹ công binh 3 lần "được" truy điệu sống
(Baonghean) - Gặp ông Nguyễn
Văn Tài khi vừa kết thúc hành trình thăm chiến trường xưa. Với ông, kỷ
niệm về “một thời hoa lửa” luôn vẹn nguyên trong ký ức…
Sinh ra ở xã Duy Minh, huyện Duy Tiên,
tỉnh Hà Nam, 18 tuổi, vừa học xong phổ thông chàng trai trẻ Nguyễn Văn
Tài lên đường nhập ngũ theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc. Ông bảo:
Lúc đó, tôi vừa nhân giấy báo nhập học của Trường Đại học Tổng hợp Hà
Nội. Được học ở trường Tổng hợp là niềm tự hào lớn đối với bản thân và
gia đình và mở ra tương lai rạng ngời. Nhưng đất nước còn cảnh chiến
chinh, mình lại là thanh niên trai tráng nên phải có trách nhiệm lên
đường đánh giặc cứu nước. Dù biết chiến trường vô cùng ác liệt, tàn
khốc, ra đi chẳng hẹn ngày về, hơn nữa gia đình có 4 anh em trai thì 3
người đã ra trận nhưng tôi vẫn quyết tâm xung phong đi bộ đội”.
Năm 1967, bố mẹ đành gạt nước mắt tiễn
ông lên đường làm nhiệm vụ. Chàng trai trắng trẻo, thư sinh ngày nào
sau 3 tháng huấn luyện ở Sư đoàn 338 đóng quân ở Thạch Thành (Thanh Hóa)
đã trở nên rắn rỏi, có kỹ năng chiến đấu thuần thục. Ông được điều động
về đơn vị Đại đội công binh, Trung đoàn 2, Sư đoàn 324 và cuộc đời của
người lính trẻ gắn liền với những trận đánh ác liệt. Trong đó có 3 trận
đánh mà với ông là “kỷ niệm không thể quên”, bởi đã xác định khi tham
gia thì “1 phần sống 9 phần hy sinh”, vì thế trước mỗi trận đánh ông và
đồng đội đều “được” đơn vị làm lễ truy điệu sống theo nghi thức liệt sỹ
hy sinh vì đất nước.
|
Ông Nguyễn Văn Tài (thứ 5, trái sang) cùng đồng đội về thăm chiến trường xưa ở TP Huế. |
Trận đánh ác liệt nhất đó là sau khi
giải phóng Huế vào Tết Mậu Thân năm 1968, các cánh quân của ta buộc phải
rút lui để củng cố và bảo toàn lực lượng chuẩn bị cho trận đánh cuối
cùng. Lúc đó, trung đội của ông được giao nhiệm vụ đánh chặn hậu để đơn
vị rút ra vùng giải phóng an toàn. Trước khi rút về hậu cứ, đơn vị đã tổ
chức truy điệu cho những người ở lại, bởi đơn vị xác định đã ở lại cảm
tử thì sự hy sinh sẽ không thể tránh khỏi. Khi biết quân ta đã rút, địch
huy động 3 tiểu đoàn với đủ các loại hỏa lực hạng nặng và các loại vũ
khí bộ binh tiến đánh, cộng với sự yểm trợ từ máy bay B52 đánh bom rải
thảm.
Sau mấy ngày chiến đấu quyết liệt,
trung đội có 12 người thì 10 người đã hy sinh, chỉ còn lại ông và Trung
đội trưởng Song bị thương nặng. Ông rưng rưng nhớ lại: “Trước khi mất,
anh Song trườn lại ôm lấy tôi dặn rằng: “Tài ạ, trung đội chúng ta đã hy
sinh hết rồi, anh cũng không thể sống được nữa, vì thế em phải cố gắng
sống để trở về báo cáo với đơn vị là chúng ta đã hoàn thành nhiệm vụ!”.
Rồi anh Song hy sinh. Chỉ còn lại mình tôi trong vòng vây bốn bề của
địch, lúc đó, tôi nghĩ tới 2 phương án, một là giả chết để hoàn thành
nhiệm vụ mà anh Song giao, hai là rút chốt 2 quả lựu đạn rồi lao vào
địch. Sau đó vì nhiệm vụ, ông đã chọn cách thứ nhất. Khi thấy tiếng đạn
đã dứt hẳn, 3 tiểu đoàn địch xiết chặt vòng vây, tên chỉ huy hô lớn:
“Xem thằng nào còn sống không?” rồi lấy xăm sắt xăm lên cơ thể từng
người để kiểm tra. Chúng không ngờ rằng trong số 12 đồng chí đã hy sinh
có người đang giả chết để trở về đơn vị theo lời trăn trối của đồng đội.
Sau 3 tiếng đồng hồ bao vây, địch rút
xuống cắm trại ở bên suối cách trận địa khoảng 200m. Ông Tài đứng dậy
lấy hết sức bình sinh vượt qua cơn đói khát để khắc tên từng chiến sỹ
lên thắt lưng rồi chôn cất các đồng đội của mình dưới những hố bom. Sau
đó, tìm đường trở về đơn vị...
Sau 15 ngày băng rừng, vượt suối và
sống nhờ bằng nước suối, lá cây, của mài, củ sắn đào được bằng dao găm
cùng sự giúp đỡ của đồng bào dân tộc Vân Kiều, ông đã tìm được đơn vị
khi ấy đóng quân ở xã Hưu Thủy, huyện Lệ Thủy (Quảng Bình) trong niềm
xót xa xen lẫn tự hào của đồng đội.
Lần thứ 2 ông “được” truy điệu sống,
đó là vào năm 1972 ở cao điểm 367, mặt trận Tây Nam Quảng Trị, đây là
cao điểm khét tiếng của địch, chúng án ngữ ở cao điểm này và khống chế
mọi con đường tấn công vào phía Nam của quân đội ta với đủ các loại vũ
khí, khí tài tối tân nhất. Bên ngoài cứ điểm chúng giăng trận địa mìn
dày đặc như mạng nhện và coi đây là cứ điểm “bất khả xâm phạm”. Nhiệm vụ
của đơn vị công binh là phải gỡ mìn để dọn đường cho quân ta tấn công
cứ điểm. Một lần nữa, ông xung phong xông vào trận địa để rà phá bom
mìn. Khi nhiệm vụ hoàn thành cũng là lúc bị địch phát hiện, một mặt
chúng tấn công bằng súng, một mặt cho kích nổ những quả mìn còn lại.
Trận đấu đó, 2 đồng đội của ông đã hy sinh, còn ông bị thương nặng.
|
Anh Tài (thứ 2, phải sang) và đồng đội trong ngày giải phóng Phan Rang. |
Lần thứ 3 ông “được” truy điệu sống là
trong trận đánh ở Tây Bắc Huế vào tháng 3/1975. Nhiệm vụ của công binh
là phải phá hủy bằng được một cây cầu để chặn đường tiến đánh cũng như
rút lui của địch. Trong khi đó, cây cầu hoàn toàn nằm trong tầm kiểm
soát của địch, chúng bố trí 2 đầu cầu rất nhiều hỏa lực mạnh và một đơn
vị thiện chiến. Một lần nữa ông lại phải lựa chọn giữa sự sống và cái
chết. Với vai trò chỉ huy và là người điểm hỏa cuối cùng ở giữa cầu, ông
cùng 10 chiến sỹ được đơn vị làm lễ truy điệu sống.
Bước vào trận đánh, trận địa pháo yểm
trợ của ta đã dội cơn mưa đạn pháo xuống 2 đầu cầu, 11 chiến sỹ cảm tử
ôm bộc phá xông ra giữa cầu, khi đã đặt được bộc phá cũng là lúc 7 đồng
chí ngã xuống trước làn đạn dày đặc của quân thù, 2 đồng chí bị thương
rất nặng và hy sinh ngay sau đó, chỉ còn lại ông và một đồng chí nữa ở
Hà Tĩnh sống sót. Vì sợ bộc phá không kịp nổ nên ông để dây cháy chậm
chỉ vài mm, đến lúc kích nổ, sức ép của khối bộc phá khổng lồ đã đánh
văng ông xuống sông. Khi đó không ai có thể nghĩ được ông còn sống,
nhưng điều thần kỳ đã đến, ông chỉ bị thương nặng và 3 ngày sau, ông tìm
về đơn vị của mình.
Sau khi giải phóng Huế - Đà Nẵng, ông
và đồng đội tiếp tục nhận lệnh tiếp tục tiến đánh vào Nam, và khi đơn vị
của ông vào đến Phan Rang cũng là lúc quân dân ta đã giành chiến thắng.
Sau này, ông còn tiếp tục chiến đấu trên những mặt trận không kém phần
cam go, ác liệt khác. Đó là chiến dịch truy quét tàn quân Fulro, sang
chiến trường Campuchia chiến đấu và huấn huyện xây dựng lực lượng quân
đội cho nước bạn. Với những chiến công của mình, ông đã 19 lần được
phong tặng danh hiệu “Dũng sỹ diệt Mỹ”, diệt tăng, dũng sỹ giao thông…
Cảnh Nam
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét