Chuyển đến nội dung chính

KÝ ỨC CHÓI LỌI 40/a (Chiến tranh biên giới tây nam)

(ĐC sưu tầm trên NET)

40 năm máu đổ biên giới Tây Nam - Kỳ 1: Vừa buông súng, đã cầm lấy súng

- Chỉ vài ngày sau 30.4.1975, trong khi những người lính giải phóng vẫn đang ngỡ ngàng và hừng hực với chiến thắng, thì có những đơn vị lại nhận thêm súng đạn, lương khô, rời Sài Gòn ngược lên biên giới Tây Nam nhận nhiệm vụ “bí mật”.
40 năm máu đổ biên giới Tây Nam - Kỳ 1: Vừa buông súng, đã cầm lấy súng - ảnh 1
Bộ đội C5, Công an nhân dân vũ trang An Giang trên trận địa đánh trả quân Pol Pot xâm lược, năm 1978 - Ảnh do ông Nguyễn Ngọc Chiến cung cấp

Rất nhiều người trong số họ không ngờ rằng, súng nổ tiếp ở ngay biên giới và cuộc chiến đấu chống quân xâm lấn Pol Pot cũng gian lao gấp ngàn lần...

Đến các Đồn Biên phòng dọc biên giới Tây Nam, tôi thường gặp những tấm bia nhỏ ghi tên các cán bộ chiến sĩ của đồn đã hy sinh trong những năm giữ đất, đánh trả quân Pol Pot xâm lược (thời điểm 1977-1978). Thời điểm ấy, có những đồn, trạm bị xóa phiên hiệu bởi hy sinh toàn bộ. Nhiều nơi, số quân hy sinh đều đều hàng tuần. Cộng lại toàn tuyến, lên đến hàng nghìn liệt sĩ.

Ở Ban chỉ huy Bộ đội Biên phòng các tỉnh biên giới Tây Nam bây giờ, ký ức về những ngày “mới buông súng đã cầm lấy súng”, để chiến đấu với những kẻ “vừa là bạn, đã quay ngoắt thành thù”, mãi là bài học mà những người lính già truyền lại cho lớp sau, bởi bài học đó, đánh đổi bằng máu của hàng nghìn người lính biên phòng.

Chiến sĩ Nguyễn Ngọc Chiến, C5-CANDVT An Giang trong trận đánh ngày 27.3.1978, tại kênh Năm Xã, Phú Châu (nay là An Phú), An Giang. (hình Nguyễn Ngọc Chiến cung cấp)
Chiến sĩ Nguyễn Ngọc Chiến, C5-Công an nhân dân vũ trang An Giang trong trận đánh ngày 27.3.1978, tại kênh Năm Xã, Phú Châu (nay là An Phú), An Giang - Ảnh do ông Nguyễn Ngọc Chiến cung cấp

Thổ Chu: Súng nổ

Đại tá Chung Kỳ Tập, hiện đang nghỉ hưu tại thị trấn Tịnh Biên (huyện Tịnh Biên, An Giang) không chỉ nổi tiếng khắp biên giới Tây Nam về quãng thời gian gần 30 năm chỉ làm Đồn trưởng Biên phòng mà còn có trí nhớ rất tốt, đến từng chi tiết, địa danh trong những ngày đầu chiến tranh biên giới Tây Nam.

Vị đại tá già rành mạch: Lực lượng Công an nhân dân vũ trang (nay là Bộ đội Biên phòng) được triển khai bảo vệ biên giới Tây Nam ngay sau ngày miền Nam giải phóng và đến tháng 3.1976, Công an nhân dân vũ trang trên tuyến biên giới Tây Nam đã có 44 đồn, 12 trạm (mỗi đồn biên chế 30-40 cán bộ chiến sĩ).

40 năm máu đổ biên giới Tây Nam - Kỳ 1: Vừa buông súng, đã cầm lấy súng - ảnh 3
Đại tá Chung Kỳ Tập (bìa phải) kể lại hồi ức chiến tranh biên giới Tây Nam

Ông Tập kể: “Ngày 30.4.1975, ta giải phóng Sài Gòn và đúng 10 ngày sau đó (10.5.1975), hải quân Pol Pot lợi dụng lúc lính Việt Nam Cộng hòa tan rã, quân ta chưa kịp tiếp quản, tranh thủ thời cơ đánh chiếm đảo Thổ Chu và tràn lên đảo Phú Quốc. Do bị đánh trả, không chiếm được Phú Quốc, lính Pol Pot quay về Thổ Chu tàn sát đa số người dân, bắt đi 515 người còn lại và định chiếm đóng Thổ Chu lâu dài, buộc quân ta phải đánh đuổi khỏi đảo”.

“Sự kiện Thổ Chu và Phú Quốc thực sự mở đầu cho những hành động gây căng thẳng, tiếp theo là hàng loạt sự kiện dọc biên giới Tây Nam”, đại tá Tập khẳng định. Ông tiếp dòng hồi ức: Cuối năm 1975, đầu 1976, quân Pol Pot xâm lấn vùng Sa Thầy (Kon Tum), phía Nam đường 9 và đêm 3.1.1976, chúng cho quân vào làng Sộp đốt hết nhà, cướp hết tài sản và bắt đi 130 người dân của làng. Ngày 25.2.1976, Pol Pot bất ngờ tấn công đồn Công an nhân dân vũ trang số 7 và 8, tỉnh Đắk Lắk (nay là Đồn Đắk Dang, Đắk Nông). Các nơi khác dọc biên giới cũng liên tiếp xảy ra các hoạt động khiêu khích của lực lượng vũ trang Campuchia như: Ra sát biên giới xâm canh, lấn đất; bắn vào các đội tuần tra của Công an nhân dân vũ trang; uy hiếp nhân dân làm ăn, đi lại trên các sông rạch gần đường biên giới; tổ chức những cuộc tập kích, đốt phá, bắt cóc, gài mìn, ném lựu đạn... nhất là ở các tỉnh: Long An, Tây Ninh, Sông Bé...

Thượng tá Bùi Văn Cường, từng là Chính trị viên Đồn Biên phòng Bắc Đai (An Phú, An Giang) nói với tôi: “Trong cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam, tuyến An Giang hứng chịu cuộc tấn công đồng loạt cấp sư đoàn đầu tiên của quân Pol Pot và sự hy sinh, không thể nào đo đếm nổi” rồi lặng người: “Đồn Bắc Đai của tôi nằm cạnh con sông, bên kia là nơi địch tập trung binh lính, vũ khí. Lệnh của trên là tiêu diệt địch ngay khi chúng vào đất ta, nên phải cho trinh sát bơi sang buộc dây thừng để anh em lần dây sang. Địch phát hiện, nổ súng ngay khi đang di chuyển, anh em toàn miền Bắc không biết bơi, nếu không bị giết bởi đạn nhọn, cũng chết đuối, hy sinh rất nhiều”.

Rừng thiêng, nước độc

Không chỉ ngã xuống bởi súng đạn mà các cựu chiến binh miền bắc tham gia BP Tây Nam, đến giờ gặp nhau vẫn nhớ nhắc lại tâm trạng bỡ ngỡ những ngày đầu từ đồng bằng sông Hồng - duyên hải miền Trung vào Nam.

Triển khai trên địa bàn đa dụng mới lạ, nhà cửa doanh trại thậm chí trận địa phòng ngự cực kỳ thiếu thốn, đơn giản và tạm bợ, các cán bộ chiến sĩ Biên phòng còn phải chống chọi với những thử thách khắc nghiệt của thiên nhiên, với đủ các loại bệnh tật như sốt rét, thương hàn, tả lỵ...

Thượng tá Bùi Văn Cường giờ là Chính trị viên Đồn Biên phòng Tịnh Biên (An Giang) nhớ lại thời là chiến sĩ mới điều vào khu vực phía tây An Giang: “Rất nhiều anh em miền bắc hy sinh vì bệnh sốt rét, ngã nước. Nhiều khi, cả đồn có đến 50% quân số nằm bệnh xá” và lắc đầu: "Hồi ấy, ăn uống đã thiếu thốn kham khổ mà vẫn san sẻ lương thực thực phẩm cho bà con trong vùng, bởi họ quá nghèo và sản xuất sau chiến tranh chưa đảm bảo. Thuốc men chữa bệnh đơn giản chỉ là ký ninh chống sốt rét. Thậm chí quân trang, súng đạn cũng thiếu...".

Thượng tá Trần Văn Hưng, Chính trị viên Đồn Biên phòng Phú Mỹ cũng giữ nguyên ký ức những năm mới tò te từ Nam Định vào Kiên Giang: Ngay từ tháng 6.1975, sau khi được Bộ Tư lệnh Công an nhân dân vũ trang tăng cường, Công an nhân dân vũ trang tỉnh Long Châu Hà (tên gọi cũ của một phần tỉnh An Giang và Kiên Giang hiện nay) đưa lực lượng về Hà Tiên (Kiên Giang) thành lập 3 đồn Công an nhân dân vũ trang (Giang Thành, Xà Xía, Ba Hòn). Đầu năm 1976, huyện Hà Tiên được thành lập và nằm trong tỉnh Rạch Giá (nay là Kiên Giang).
“Hồi ấy là Đồn đông quân nhất tỉnh với 40 người và do quá nhiều anh em miền Bắc với vào bỡ ngỡ, nên được trên tăng cường thêm 8 anh em người bản địa, giúp cho 32 anh em quê xa làm quen với từ phong tục tập quán, cách ăn ở cho đến địa hình, địa vật, tác chiến”, thượng tá Hưng kể vậy và nói buồn: “Hồi ấy, đến doanh trại tranh tre nứa lá cũng không có, nên đơn vị phải trú tạm trong chùa để tránh mưa nắng. Bộ đội toàn trẻ, không quen thời tiết khí hậu, đau ốm liên miên. Cộng thêm ăn uống kham khổ, nên cứ vài tuần đi họp, lại nghe tin anh này anh kia mất, đau xót vô cùng”...


Sau ngày giải phóng Campuchia (17.4.1975), bè lũ Pol Pot - Iêng Xary đã thực hiện ở đất nước này một xã hội kỳ quái: Không có thành thị, chùa chiền mà chỉ có những trại tập trung mang tên “công xã lớn”, ở đó nhân dân phải lao động khổ sai dưới roi vọt của Ăng Ca. Trong công xã, từ cụ già đến em nhỏ đều phải lao động như nô lệ, bị đánh đập như súc vật; nhiều phụ nữ bị tuyệt đường sinh đẻ; con người bị đập chết bằng cuốc xẻng, báng súng bất cứ lúc nào... Trong xã hội quái gở này, những người yêu nước, yêu tự do công lý, có văn hóa, tri thức đều “đáng tội chết”. Ngay cả những sĩ quan, binh lính trong quân đội của chúng, chỉ cần thoáng nghi ngờ là lập tức bị thủ tiêu. Hàng chục vạn Việt kiều và cả Hoa kiều cũng không thoát khỏi cảnh đầy ải, khủng bố, sát hại...
Cuộc thanh trừng nội bộ của bè lũ Pol Pot diễn ra toàn diện và rất tàn bạo, bao gồm cả trong Đảng và ngoài chính quyền, quân đội và trong cả nhân dân, từng bước gạt dần đến thanh toàn triệt để những người, bộ phận không tán thành đường lối phản động phiêu lưu của chúng, mà chúng cho là có cảm tình và chịu ảnh hưởng của Việt Nam...
(Trường Chinh: Vấn đề Campuchia; Báo Nhân dân, 24.11.1979)

Trong chiến dịch ồ ạt đẩy đuổi Việt kiều, bọn lính Pol Pot đã tiến hành những hành động đàn áp và khủng bố, cướp bóc tài sản với ý đồ phá vỡ triệt để cơ sở ảnh hưởng của Việt Nam trên lãnh thổ Campuchia. Pol Pot xác định: Việt Nam là kẻ thù số 1, kẻ thù truyền kiếp. Y phát động một số chiến dịch tuyên truyền, học tập chính trị xuống đến các cơ sở, vu khống Việt Nam chiếm đất và hô hào đòi chiếm lại 6 tỉnh Nam kỳ Việt Nam.
(Ký sự lịch sử: Chiến sĩ Biên phòng 1975-1978; NXB CAND, 1998)


Mai Thanh Hải
Nguồn TNO: http://www.thanhnien.com.vn/chinh-tri-xa-hoi/40-nam-mau-do-bien-gioi-tay-nam-ky-1-vua-buong-sung-da-cam-lay-sung-589939.html

40 năm máu đổ biên giới Tây Nam - Kỳ 2: Sao đỏ bên sông Giang Thành

Sông Giang Thành chảy từ ngã ba sông Giang Thành (kênh biên giới Việt Nam) - sông Prek Tonhon Chas (Campuchia), ngay kề Đồn biên phòng Giang Thành. Qua các đồn, dòng sông đều cuộn mình thành hình cánh sao và người dân Kiên Giang bảo: Những nơi sông cuộn đó, đều ghi dấu hy sinh của bộ đội biên phòng (BĐBP)...

(TNO) Sông Giang Thành chảy từ ngã ba sông Giang Thành - kênh biên giới (Việt Nam) và sông Prek Tonhon Chas (Campuchia), ngay kề Đồn biên phòng Giang Thành (ấp Hòa Khánh Hòa, Tân Khánh Hòa, Giang Thành, Kiên Giang). Qua các đồn, dòng sông đều cuộn mình thành hình cánh sao và người dân Kiên Giang bảo: Những nơi sông cuộn đó, đều ghi dấu hy sinh của bộ đội biên phòng (BĐBP)...

Ban Chỉ huy C5 Cơ động, CANDVT An Giang tháng 5.1978 - Ảnh: cựu chiến binh Nguyễn Ngọc Chiến cung cấp
Ban Chỉ huy C5 Cơ động, CANDVT An Giang tháng 5.1978 - Ảnh: cựu chiến binh Nguyễn Ngọc Chiến cung cấp

Nữ du kích Campuchia
Thiếu úy Chau Cuốn, nhân viên Đội Vận động quần chúng của Đồn BP Phú Mỹ (BCH BĐBP tỉnh Kiên Giang) rất trẻ, người Khơ me với màu da sạm đen, tóc xoăn, răng trắng đặc trưng nhưng nói chuyện về lịch sử chiến tranh biên giới Tây Nam cực rành rẽ. Hỏi ra mới được bật mí: “Ông bà già vợ đều tham gia Đại đội du kích của xã trong chiến tranh biên giới, cùng chiến đấu với các chú bác trong Đồn Phú Mỹ và chôn cất các liệt sĩ, sau trận 16.5.1978”.
C5, CANDVT An Giang nhận danh hiệu “Tuổi trẻ anh hùng bảo vệ Tổ quốc”  - Ảnh: cựu chiến binh Nguyễn Ngọc Chiến cung cấp
C5, CANDVT An Giang nhận danh hiệu “Tuổi trẻ anh hùng bảo vệ Tổ quốc”   - Ảnh: cựu chiến binh Nguyễn Ngọc Chiến cung cấp
Lạch phạch xe máy, thượng tá Trần Văn Hưng - Chính trị viên Đồn BP Phú Mỹ và thiếu úy Chau Cuốn đưa tôi sang thăm bà Danh Thị Nho (58 tuổi bán hàng cà phê - ăn sáng trong quán lá lụp xụp sát trụ sở UBND xã Phú Mỹ, ngay sau khu bia ghi danh 50 người lính Biên phòng (BP) hy sinh trong chiến tranh biên giới Tây Nam.
Mới nhìn, không thể hình dung nổi người đàn bà lặng lẽ, nói tiếng Việt bập bõm kia, 38 năm trước là cô gái 20 tuổi nhỏ bé trong Đại đội du kích của xã, sát cánh với trận địa CANDVT Phú Mỹ ngăn bước quân Polpot xâm lược từ những ngày cuối năm 1977 và khi trận đánh tổng lực cấp Sư đoàn của địch nhằm vào Đồn Phú Mỹ, cô gái ấy đã khóc khi phải rút về tuyến sau, nhường ác liệt cho bộ đội, rồi cả chục ngày sau, khi lực lượng chủ lực lên chi viện, cô gái ấy lại khóc đến không còn nước mắt, khi khênh từng xác bộ đội chôn cất...
Bập bõm câu chuyện ký ức, khi khách trong xã ăn sáng đã thưa thớt, bà líu ríu qua lời dịch của con rể: “Cuối năm 1976, đồn BP được dựng ở ấp Trà Phô với gần 40 anh em chủ yếu là miền Bắc và hầu hết là rất trẻ, chưa vợ con!” và khóc: “Nhớ nhất là anh Tần y tá vì hay khám bệnh - cho thuốc dân trong ấp và rất hay lân la tìm hiểu đời sống, phong tục của đồng bào!”.
Thượng tá Trần Văn Hưng kể: Được chính thức thành lập từ cuối tháng 11.1976 ngay sau đó đã phải đối mặt với tình hình căng thẳng trên biên giới Tây Nam, Đồn BP Phú Mỹ đã giằng co với lính  Polpot trên các tuyền biên giới và ngày 18.12.1977, đã có 3 cán bộ chiến sĩ của đồn BP hy sinh.
CBCS Đồn BP Phú Mỹ thắp hương cho các liệt sĩ của Đồn
CBCS Đồn BP Phú Mỹ thắp hương cho các liệt sĩ của Đồn
Ác liệt nhất là trận đánh kéo dài từ ngày đầu tháng 5.1978, nhiều tiểu đoàn  Polpot chia làm nhiều hướng bao vây, tập trung đánh vào chốt của đồn đang bảo vệ các ấp Rạch Cát, Mương Khai, Trà Phô, Trà Phọt, Giồng Kè. Do trang bị thiếu thốn, bị bao vây cô lập nên Ban chỉ huy Đồn BP Phú Mỹ đã thành lập đội Cảm tử quyết chiến đấu đến hơi thở, giọt máu cuối cùng và tất cả cán bộ chiến sĩ xung phong xin cảm tử.
Sáng sớm ngày 16.5.1978, lính  Polpot được chi viện thêm 4 tiểu đoàn, điên cuồng tấn công vào trận địa của đồn. Do bị bao vây tứ phía, mất liên lạc với trên, lực lượng tiếp viện không đến kịp và nhất là quá trình chiến đấu 15 ngày đêm căng thẳng, thiều từ hớp nước, miếng ăn cho đến viên đạn nên lực lượng ngày càng tiêu hao.
12 giờ trưa ngày 16.5.1978, khi đã bắn đến viên đạn cuối cùng, toàn bộ cán bộ chiến sĩ Đồn BP Phú Mỹ nhất tề theo khẩu lệnh của đại úy Đồn trưởng Nguyễn Minh Phương, giương lên xung phong đánh giáp lá cà ngăn bước tiến của quân Polpot và cùng hy sinh, ngay tại trận địa.

40 năm máu đổ biên giới Tây Nam - Kỳ 2:  Sao đỏ bên sông Giang Thành - ảnh 4 Binh nhất Nguyễn Văn Dân, quê Minh Hải to con nên bị chúng hành hạ thi hài, phía sau lưng vẫn ngập nửa cán rìu, gỡ mãi mới ra. Hạ sĩ Nguyễn An Phú, quê An Biên, Kiên Giang khi gục ngã vẫn ôm cứng khẩu B41, địch gỡ ra định cướp không nổi, bộ đội và du kích phải dùng nước ấm xoa hàng tiếng đồng hồ, mới kéo được súng!
 
40 năm máu đổ biên giới Tây Nam - Kỳ 2:  Sao đỏ bên sông Giang Thành - ảnh 5

Đại tá Chung Kỳ Tập, nguyên Đồn trưởng BP Tịnh Biên

Chấm nước mắt, bà Danh Thị Nho nức nở: “Lính  Polpot ác lắm, sau khi hành hạ thi hài, chất đống anh em ở sân Đồn BP Phú Mỹ cả tuần, mãi sau này lực lượng phía sau đánh lên, mới lấy được anh em. Tôi và các anh du kích mang 35 anh em đi chôn, không nhận nổi mặt!” và thần người kể: Mở hàng cà phê sau bia ghi danh liệt sĩ, ngoài sự quan tâm của chính quyền xã, còn là để chờ thân nhân anh em từ Bắc vào tìm hài cốt, đưa qua nghĩa trang tìm kiếm mộ.
Súng nổ trong ngày thống nhất
Trong khoảng thời gian gần 2 thập kỷ chiến đấu trên biên giới Tây Nam trước quân  Polpot, những người lính BP đã lần lượt ngã xuống.
Đêm 30.4.1977, lính  Polpot với hỏa lực xung lực mạnh, ý đồ “đánh nhanh thắng nhanh”, huy động lực lượng cấp sư đoàn quân chính quy kết hợp với tàn quân phản động nổi dậy trên các địa bàn, đồng loạt tấn công vào tất cả các Đồn - Trạm của CANDVT An Giang.
13/13 xã biên giới thuộc 2 huyện Phú Châu và Bảy Núi, từu Vĩnh Xương đến Vĩnh Gia bị tấn công.
Bà Danh Thị Nho kể về sự hy sinh của 35 liệt sĩ Đồn BP Phú Mỹ
Bà Danh Thị Nho kể về sự hy sinh của 35 liệt sĩ Đồn BP Phú Mỹ
Ở Đồn Bắc Đai (An Phú, An Giang), anh em vừa xong buổi liên hoan văn nghệ chào mừng ngày thống nhất đất nước, thì pháo  Polpot trùm lên doanh trại và 1 tiểu đoàn lính chính quy chia thành nhiều mũi, có sự hỗ trợ của hậu bị tuyến sau đánh vào.
Quân địch đông, bộ đội phải căng ra phòng ngự chống đỡ từ 3 phía. Ở các chốt Vạc Lài, Mương Hội Đồng, ta và địch giành giật nhau từng vị trí. Rạng sáng, lính Polpot không tiêu diệt được chốc Vạc Lài, nhưng ở chốt Mương Hội Đồng, 7 CBCS hy sinh sau khi đã chiến đấu hết đạn và chỉ 1 chiến sĩ bị thương nặng, rút khỏi vòng vây.
Cũng trong đêm 30.4.1977, lính Polpot tấn công vào Trạm CANDVT Tịnh Biên, trên chốt lộ 2 đi Tà Keo. 10 CBCS của Trạm đã bám đất, đánh lui nhiều đợt tấn công của địch và hy sinh đến người cuối cùng.
Đại tá Chung Kỳ Tập, nguyên Đồn trưởng BP Tịnh Biên (An Giang) nhớ lại đêm hôm đó: “Binh nhất Nguyễn Văn Dân, quê Minh Hải to con nên bị chúng hành hạ thi hài, phía sau lưng vẫn ngập nửa cán rìu, gỡ mãi mới ra. Hạ sĩ Nguyễn An Phú, quê An Biên, Kiên Giang khi gục ngã vẫn ôm cứng khẩu B41, địch gỡ ra định cướp không nổi, bộ đội và du kích phải dùng nước ấm xoa hàng tiếng đồng hồ, mới kéo được súng!”
Ân tình nơi biên giới
Kể lại những ngày chống chọi với những toán quân áo đen từ bên kia biên giới, ông Hoàng Đình Dong (thị trấn Vĩnh Gia, Tri Tôn, An Giang) thảng thốt: “Lính Polpot cứ bắt được dân là dùng là thốt nốt có răng cưa, cứ ngang cổ dần dần cho đến chết. Không có bộ đội BP hồi ấy, chắc dân xứ này sạch bách!” và rầu rầu: “Tháng 1.1977, anh em Đại đội 1 cơ động CANDVT đóng quân ở ấp Cá Ngay đánh quân Polot và hy sinh 6 người, bị thương 12 người. Đơn vị toàn người Bắc, mới tăng cường từ Nghệ Tĩnh vào, nên bà con từ tuyến sau kệ pháo địch, kéo nhau lên lo hậu sự - chôn cất anh em!”.
Chó nghiệp vụ BP tuần tra bảo vệ biên giới Tây Nam
Chó nghiệp vụ BP tuần tra bảo vệ biên giới Tây Nam
Câu chuyện về tình cảm của những người dân biên giới Tây Nam đối với bộ đội BP của ông Dong, khiến tôi nhớ lại câu chuyện của mẹ Lê Thị Bánh (81 tuổi, ở ấp Phú Hòa, An Phú, Tịnh Biên, An Giang).
Ven lộ 91 nườm nượp xe cộ Châu Đốc - Tịnh Biên chở hàng, du lịch và cả người sang Campuchia đánh bạc bây giờ, mẹ kể: hồi ấy 44 tuổi, vợ chồng làm ruộng nuôi 8 đứa con lớn bé lít nhít. Khi Polpot đánh sang, toàn BĐBP chặn đánh và chi viện lúc ấy cũng toàn lính trẻ BP mới từ miền Bắc vào, mặt lún phún lông tơ.
Đánh nhau ác liệt, thương vong nhiều lên BP phải nhờ bệnh xá ở thị trấn Nhà Bàng (Tịnh Biên) làm bệnh viện dã chiến. Do nhà ven đường, anh em đi công tác hay ghé uống nước, thăm hỏi nên mẹ Bánh sốt ruột cho “mấy thằng nhỏ Bắc Kỳ”, chạy bộ gần 5 km lên thăm. Tới nơi, thấy anh em hy sinh nằm 1 nơi chờ xe đưa đi chôn cất, còn lại băng bó - máu me khắp người nằm ngổn ngang, kêu gọi: “Bố mẹ ơi! Con chết mất!” và có anh nhận ra mẹ Bánh, khóc ròng: “Má ơi! Con tưởng không còn được gặp má nữa!”.
Tấm bia ghi di nguyện của các liệt sĩ đã hy sinh tại Đồn BP Phú Mỹ, năm 2007 - Ảnh: CTV
Tấm bia ghi di nguyện của các liệt sĩ đã hy sinh tại Đồn BP Phú Mỹ, năm 2007 - Ảnh: CTV
“Tui cứng cả người khi nghe tụi nó kêu la, gọi vậy. Mình nhà cửa ruộng vườn ở đây, thấy giặc là chạy hết. Tụi nó ở mãi tít đâu đâu, bỏ nhà cửa - gia đình vào đây đánh giặc, giữ nhà cho mình, mà để chúng nó lăn lộn vậy. Chịu sao thấu hở cậu?” - Mẹ Bánh thầm thì vậy và nhìn ra rặng núi sau nhà, đau đáu: “Vẫn còn mấy đứa đánh Polpot trên ấy, bị pháo nó bắn mất xác, bao năm rồi, tìm mãi không ra!”.
Tháng 3.1977, qua công tác trinh sát kỹ thuật, BTL CANDVT nắm được “Kế hoạch 3 bước” của Thường vụ Trung ương Polpot chỉ thị cho lực lượng vũ trang Campuchia thực hiện, đó là:
Bước 1: Dùng lực lượng đủ sức lấn chiếm vào lãnh thổ Việt Nam để chiếm đất, tạo ra 1 đường biên giới có lợi. Đặc biệt chú ý các đoạn biên giới như: Dọc kênh Vĩnh Tế, rạch Bình Di (An Giang), tây sông Vàm Cỏ (Long An), đường Trần Lệ Xuân (Sông Bé), khu vực Bu phơ răng và vùng tây sông Sa Thầy (Tây Nguyên)
Bước 2: Quyết tâm dùng lực lượng quy mô lớn tấn công lấn chiếm sâu vào lãnh thổ Việt Nam, tạo ra tuyến hành lang phòng thủ từ xa…
Bước 3: Kết hợp hoạt động vũ trang với phong trào nổi dậy, xây dựng “Mặt trận đoàn kết Khơ me hạ” và tổ chức thu gom các loại tàn quân, kêu gọi hơn nửa triệu người Việt Nam gốc Khơ me đứng lên “lấy lại 6 tỉnh Nam kỳ”, đánh chiếm Tây Ninh, uy hiếp TP.HCM...
(Nguồn: BTL BĐBP)
Di nguyện 35 liệt sĩ đồn BP Phú Mỹ "không còn nữa"
Thời điểm 2007, bên cạnh bia ghi danh các liệt sĩ Đồn BP Phú Mỹ (Giang Thành, Kiên Giang) hy sinh trong chiến tranh biên giới Tây Nam, còn phần bia ghi lại di nguyện của toàn bộ CBCS trong Đồn, gửi lại cho thế hệ sau trước khi hy sinh đến người cuối cùng, buổi trưa ngày 16.5.1978, trong khi đánh trả quân Polpot xâm lược.
Nội dung di nguyện như sau:
CÁC BẠN THÂN MẾN
CHÚNG TÔI YÊU THƯƠNG TỔ QUỐC MÌNH
YÊU QUÝ BẢN THÂN
VÀ YÊU THƯƠNG CẢ CÁC BẠN NỮA
KHI KẺ THÙ XÂM LƯỢC ĐẾN ĐÂY
1978
CHÚNG TÔI ĐÃ KHÔNG TIẾC THÂN MÌNH
QUYẾT CHIẾN ĐẤU
ĐẾN HƠI THỞ CUỐI CÙNG
BẢO VỆ BIÊN CƯƠNG TỔ QUỐC
Lời nhắn nhủ của chúng tôi cùng các bạn là:
ĐỪNG ĐỂ BẤT CỨ KẺ THÙ XÂM LƯỢC NÀO 
BÉN MẢNG ĐẾN ĐÂY
MỘT LẦN NỮA
HÃY BẢO VỆ TOÀN VẸN LÃNH THỔ CỦA TỔ QUỐC
BẢO VỆ CUỘC SỐNG
YÊN LÀNH HẠNH PHÚC
CỦA NHÂN DÂN
Các Liệt sĩ đồn Biên phòng Phú Mỹ
1978
Tuy nhiên, những ngày cuối tháng 7.2015 này, khi công tác tại Đồn BP Phú Mỹ (Giang Thành, Kiên Giang) và sang thắp hương, chụp hình khu vực bia ghi tên Liệt sĩ, tôi không thấy tấm bảng ghi di nguyện. Gọi điện hỏi lại Thượng tá Trần Văn Hưng, Chính trị viên Đồn BP Phú Mỹ cũng nhận được sự ngạc nhiên không kém, bởi từ khi Thượng tá Hưng từ Đồn khác về nhận công tác, đã thấy bia ghi danh như hiện tại, không có bảng ghi di nguyện...
Mai Thanh Hải
  

 

 

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

BÍ ẨN ĐƯỜNG ĐỜI 156

MUÔN MẶT ĐỜI THƯỜNG I/30

KIẾP GIANG HỒ 4