Thứ Ba, 27 tháng 9, 2016
KÝ ỨC CHÓI LỌI 43
Nguyễn Đăng Kỉnh
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Đối với các định nghĩa khác, xem Nguyễn Đăng Kính.
Nguyễn Đăng Kính (sinh 1941) là một phi công quân sự nổi tiếng người Việt Nam, hàm Thiếu tướng. Ông là một trong số 16 phi công Việt Nam đạt được đẳng cấp Ách trong những trận không chiến trên bầu trời Việt Nam. Ông cũng từng giữ chức Viện phó Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao Việt Nam, kiêm Viện trưởng Viện Kiểm sát Quân sự Trung ương.Thân thế
Ông sinh ngày 19 tháng 8 năm 1941 tại làng Hành Thiện, xã Xuân Hồng, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Cha ông là một nông dân tham gia du kích chống Pháp tại quê nhà, sau bị thương nặng. Gia cảnh ông rất khó khăn, vì vậy ông chỉ được theo học trường tư thục 3 năm (1949–1952), sau đó phải ở nhà phụ giúp gia đình và chăm sóc cha.Nhập ngũ ngày 23 tháng 3 năm 1959, ông được cho đi học bổ túc văn hóa, sau đó được tuyển vào Không quân.
Tháng 10 năm 1961, ông được chọn đi học lái máy bay tiêm kích tại Liên Xô. Đây là lớp phi công học lái tiêm kích đầu tiên của Việt Nam học tại Liên Xô (các lớp trước học tại Trung Quốc), gồm 40 người do Nguyễn Hồng Nhị làm Đoàn trưởng.
Cuối năm 1964, ông và các bạn học viên hoàn thành chương trình đào tạo lái MiG-17 về nước nhận nhiệm vụ. Tuy nhiên, chỉ 4 tháng sau, ông cùng 15 đồng đội nữa lại sang Liên Xô để học chuyển loại lái MiG-21, đến tháng 10 năm 1965 mới trở về nước và được biên chế vào Trung đoàn không quân 921. Ông được kết nạp vào Đảng Lao động Việt Nam vào tháng 3 năm 1966.
Chiến tích 6:4
Trong 2 năm chiến đấu (1967-1968), ông đã 6 lần bắn rơi máy bay Mỹ và 4 lần bị bắn rơi. Những chiến tích ông được ghi nhận như sau- 8 tháng 11, 1967: 1 F-4 Phantom II;
- 19 tháng 11, 1967: 1 EB-66 (chung với Vũ Ngọc Đỉnh);
- 3 tháng 1, 1968: 1 F-105D (phi công tên Bean);
- 14 tháng 1, 1968: 1 EB-66C (phi công Mercer và Terrell + 5 người) (chung với Đồng Văn Song?);
- 3 tháng 3, 1968: 1 EB-66 (chung với phi công tên "Thanh"?);
- 21 tháng 9, 1968: 1 AQM-34 không sõ số hiệu.
Tiếp tục làm công tác chỉ huy
Tháng 8 năm 1970, đại đội trưởng Đại đội 7 và Đại đội 3 Trung đoàn Không quân 921 Bộ Tư lệnh KQ, Quân chủng Phòng không-Không quânTháng 8 năm 1971, đại đội phó Đại đội 5, Trung đoàn 921, Bộ Tư lệnh KQ, Quân chủng Phòng không-Không quân
Tháng 2 năm 1972, trung đoàn phó Trung đoàn 927, Bộ Tư lệnh KQ, Quân chủng Phòng không-Không quân
Tháng 8 năm 1972, theo học tại Học viện Không quân Liên Xô
Tháng 7 năm 1974, phó Ban rồi trưởng Ban (12.1974) Nghiên cứu Sư đoàn 371, Quân chủng Phòng không-Không quân
Tháng 9 năm 1975, tham gia viết giáo trình huấn luyện tại Bộ Tham mưu Quân chủng Phòng không-Không quân
Tháng 6 năm 1977, phó trưởng Phòng Khoa học Quân sự Bộ Tham mưu Quân chủng Không quân
Tháng 5 năm 1978, phó trưởng Phòng Quân huấn Bộ Tham mưu Quân chủng Không quân
Tháng 4 năm 1979, trưởng phòng Quân huấn Bộ Tham mưu Quân chủng Không quân
Tháng 4 năm 1980, trưởng Phòng Kế hoạch, Cục Huấn luyện – Nhà trường Quân chủng Không quân
Tháng 7 năm 1981, phó cục trưởng, trưởng Phòng Kế hoạch, Cục Huấn luyện – Nhà trường Quân chủng Không quân
Tháng 12 năm 1983, trưởng Phòng Cán bộ Quân chủng Không quân
Tháng 1 năm 1988, cán bộ chuyên trách, phó chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Đảng ủy Quân chủng Không quân
Tháng 4 năm 1989, chuyển sang công tác tại Viện Kiểm sát Quân sự Trung ương
Tháng 6 năm 1989, theo học chuyên tụ tại Trường Cao đẳng Kiểm sát Hà Nội
Tháng 6 năm 1990, viện phó Viện Kiểm sát Quân sự Trung ương
Tháng 12 năm 1994, Phó viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân Tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát Quân sự Trung ương
Tháng 8 năm 2006, ông nghỉ hưu.
Thiếu tướng (10.1994).
Danh hiệu và huy chương
- Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (2010)
- Huân chương Quân công hạng Ba
- Huân chương Chiến công (3 hạng Nhất, 2 hạng Ba)
- Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhì
- Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng Nhất, Nhì, Ba
- Huy chương Quân kỳ Quyết thắng
- 6 huy hiệu Bác Hồ
Đời tư
Ông lập gia đình với bà Mông Thị Lợi vào tháng 9 năm 1970. Con trai ông từng tốt nghiệp phi công lái Su-27 và hiện đang công tác ở ngành Hàng không dân dụng Việt Nam.- Trang này được sửa đổi lần cuối lúc 19:20 ngày 13 tháng 1 năm 2016.
Người bắt ma
MIG-21 SỐ HIỆU 4324: NỖI KHIẾP SỢ CỦA PHI CÔNG MỸ
Từ khi vào Việt Nam, máy bay MIG-21, số hiệu 4324 đã được 9 người lái chiến đấu, bắn rơi 14 máy bay địch.
Từ khi vào Việt Nam, máy bay MIG-21, số
hiệu 4324 đã được 9 người lái chiến đấu, bắn rơi 14 máy bay địch. 8/9
phi công được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân
khi lái chiếc máy bay này. Với thành tích đó, nhiều người gọi chiếc máy
bay này là “thần chết” của bầu trời, gieo nỗi khiếp sợ cho không quân Mỹ
trong mỗi trận không chiến.
Bí mật 14 ngôi sao trên mũi:
Nói về chiếc may bay MIG-21, số hiệu 4324, một cán bộ Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam tự hào, đây là chiếc máy bay nhiều sao nhất của Không quân Nhân dân Việt Nam. 14 sao trên mũi là biểu tượng cho 14 chiến công oanh liệt bắn rơi máy bay Mỹ trên bầu trời Việt Nam.
Nói về chiếc may bay MIG-21, số hiệu 4324, một cán bộ Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam tự hào, đây là chiếc máy bay nhiều sao nhất của Không quân Nhân dân Việt Nam. 14 sao trên mũi là biểu tượng cho 14 chiến công oanh liệt bắn rơi máy bay Mỹ trên bầu trời Việt Nam.
Về nguồn ngốc của biểu tượng ngôi sao in
trên mũi máy bay, phải kể đến thời gian khoảng 1966 - 1967 khi Bác Hồ
thăm một đơn vị không quân. Trong buổi gặp gỡ thời gian đó, Bác đề nghị
mỗi phi công nếu bắn rơi được 1 máy bay Mỹ thì được tặng một huy hiệu
của Người và gắn 1 ngôi sao trên mũi của chiếc máy bay đó, nếu bắn rơi 2
máy bay địch thì được in 2 sao...
Kể từ đó, nhiều máy bay của không quân Việt Nam đã chiến đấu dũng cảm, lập công lớn và được in hình ngôi sao trên mũi.
Chiếc MIG-21, số hiệu 4324 màu bạc, kiểu
F94, 1 động cơ phản lực P11 - 300, kiểu máy bay chiến đấu một chỗ ngồi
có trần bay thực tế 22 km, trọng lượng cất cánh lớn nhất 9,8 tấn, được
Liên Xô (cũ) viện trợ cho Việt Nam năm 1967. So với các máy bay cùng
thời như F4, F105 của Mỹ thì Mig 21 thua kém hơn về vũ khí, rada, tầm
hoạt động... chỉ nhỉnh hơn đối phương ở tốc độ bay.
Nhưng theo đánh giá của một số thợ chuyên sửa chữa máy bay Mig thì chiếc MIG-21, số hiệu 4324 có máy móc thuộc loại tốt trong không quân Việt Nam thời đó. Nhờ thế mà nó có thể xuất hiện giữa đội hình địch, tấn công bất ngờ và thoát ly trong nháy mắt như bóng ma.
Nhưng theo đánh giá của một số thợ chuyên sửa chữa máy bay Mig thì chiếc MIG-21, số hiệu 4324 có máy móc thuộc loại tốt trong không quân Việt Nam thời đó. Nhờ thế mà nó có thể xuất hiện giữa đội hình địch, tấn công bất ngờ và thoát ly trong nháy mắt như bóng ma.
16 lần xạ kích, 14 lần hạ máy bay Mỹ:
Theo Hồ sơ hiện vật của Bảo tàng Lịch sử
Quân sự Việt Nam thì chiếc MIG-21, số hiệu 4324 đã lập công lớn góp phần
đánh bại chiến lược “Chiến tranh cục bộ” bằng việc dùng không quân và
hải quân để đánh phá miền Bắc lần thứ nhất.
Trong cuộc chiến này, không quân ta đã bắn
rơi nhiều máy bay Mỹ, thuộc 19 chủng loại gồm cả pháo đài bay B52,
trong đó có chiến công của chiếc MIG-21, số hiệu 4324. Chỉ trong năm
1967, 9 phi công thuộc Trung đoàn không quân số 921 thay nhau trực
chiến, lần lượt lái chiếc 4324 không chiến, bắn rơi 14 máy bay Mỹ các
loại.
Hồ sơ bay của chiếc MIG-21, số hiệu 4324
ghi: “Ngày 30/4/1967, phi công Lê Trọng Huyên lái máy bay 4324 bình
tĩnh, dũng cảm bắn rơi 1 chiếc F105, mệnh danh “thần sấm” trên bầu trời
tỉnh Bắc Thái mang về ngôi sao đỏ đầu tiên cho máy bay Mig 4324...
Đến ngày 17/12/1967, đánh dấu chiến thắng
oanh liệt nhất của MIG-4324 do phi công Vũ Ngọc Đỉnh và Nguyễn Đăng Kính
thay nhau lái lần lượt đối mặt với 32 chiếc F105 và F4 của địch trên
đường tiến đánh Hà Nội và bắn rơi 2 chiếc “thần sấm” F105. Hai ngày sau,
tức 19/12/1967, phi công Nguyễn Đăng Kính tiếp tục đối đầu với biên đội
F4 và F105 trên bầu trời Tam Đảo, bắn rơi 1 chiếc F4, đánh dấu ngôi sao
thứ 14 trên mũi”.
Đáng nói là xác suất tiêu diệt mục tiêu
của chiếc MIG-21, số hiệu 4324 nhiều nhất Việt Nam thời đó. Cụ thể,
trong năm 1967, chiếc 4324 đã gặp địch 22 lần, xạ kích 16 lần và tiêu
diệt tới 14 máy bay Mỹ. Có tới 8/9 phi công lái chiếc 4324 được phong
Anh hùng. Có người đã 2 lần bắn rơi máy bay địch gồm có phi công Lê
Trọng Huyên, Phạm Thanh Ngân, Nguyễn Hồng Nhị, Nguyễn Văn Cốc, Nguyễn
Đăng Kính.
Hiện, phi công Nguyễn Văn Lý, người đã lập
công xuất sắc bắn rơi máy bay Mỹ bằng chiếc 4324 cũng đang được đề nghị
Nhà nước phong danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân. Nếu đề
nghị này được chấp thuận thì cả 9 phi công đã lái chiếc 4324 năm 1967
được phong Anh hùng.
Kể lại sự kiện bắn rơi máy bay Mỹ trong
“Chiến tranh cục bộ” trong hồ sơ đề nghị công nhận Bảo vật Quốc gia,
Thượng tướng Phạm Thanh Ngân cho biết: “Ngày 4/5/1967, tôi được lệnh
điều khiển chiếc MIG-21, số hiệu 4324 xuất kích nhiều lần và bắn rơi 1
chiếc F105 của Mỹ trên bầu trời Tuyên Quang, sau đó hạ cánh xuống sân
bay Nội Bài. Đến ngày 18/11/1967, tôi và anh Cốc xuất kích, đối mặt với
biên đội gồm 4 tiêm kích F4 và 12 chiếc F105 của Mỹ ở phía Tây Phúc
Thọ.
Sau đó, biên đội 2 chiếc MIG-21 của ta phối hợp chia tách đội hình địch, chiếc 4324 của tôi bắn cháy một máy bay Mỹ”.
Đây là biểu tượng của tinh thần bách chiến
bách thắng của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Sau những chiến công oanh
liệt, ngày 7/12/1974, chiếc máy bay MIG-21, số hiệu 4324 đã được Trung
đoàn không quân số 921 bàn giao cho Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam để
làm hiện vật trưng bày, giáo dục tinh thần yêu nước đối với các thế hệ
người Việt Nam.
Ngày 14/01/2015, máy bay huyền thoại này đã được Thủ tướng Chính phủ quyết định công nhận là Bảo vật Quốc gia.
“Cách đây vài năm, Bảo tàng Lịch sử
Quân sự Việt Nam đã mời những nhân chứng lịch sử đến đây để họp mặt.
Trong số đó, nhiều người đã trực tiếp lái máy bay Mig 21 số hiệu 4324 và
kể lại những thời khắc cam go khi đối mặt với quân địch. Đây là những
tư liệu quý giá, chứng minh cho tinh thần chiến đấu bất tử của
quân và dân ta”. Thiếu tá Hoàng Trung Hiếu, người trực tiếp thu thập hồ
sơ hiện vật, phòng Kiểm kê Bảo quản hiện vật cho biết.
|
Theo Kiến thức
Siêu phi công tiêm kích VN: "Đánh nhanh, thọc sâu", hạ 8 máy bay!
Đoàn Hoài Trung |
Tại vùng trời Văn Yên, biên đội tiêm kích Nguyễn Hồng Nhị và Nguyễn Đăng Kính đã có trận thắng đầu tiên của MiG-21 bằng chiến thuật” đánh nhanh thọc sâu”, bắn rơi 1 F-4 và 1 F-105.
Sau hiệp định Genève, Nguyễn Hồng
Nhị chia tay gia đình, tập kết ra Bắc trên chuyến tầu cuối cùng từ cảng
Quy Nhơn ra bến Sầm Sơn, Thanh Hóa, được điều về sư đoàn 324, tham gia
huấn luyện tại Nghệ An.
Sau đó, ông cùng đơn vị hành quân sang
chiến đấu giúp bạn Lào đánh phỉ Vàng Pao. Năm 1960, ông được trên cho đi
học trường sĩ quan lục quân. Tại đây, ông đã trúng tuyển đi học lái máy
bay ở Liên Xô.
Đoàn đi học năm ấy cả thợ máy và phi
công hơn 100 người, là đoàn đầu tiên học máy bay phản lực chiến đấu. Đi
cùng đoàn ông, sau này có những bạn chiến đấu trên bầu trời cũng trở
thành Anh hùng lực lượng như Hà Văn Chúc, Đặng Ngọc Ngự, Nguyễn Văn Cốc,
Phạm Thanh Ngân, Mai Cương…
Thiếu tướng, Anh hùng LLVTND
Nguyễn Hồng Nhị, quê ở Hoài Sơn, Hoài Nhơn (ngồi thứ 2 từ phải sang)
cùng các cựu sĩ quan Quân chủng Phòng không - Không quân đến thăm Đại
tướng Võ Nguyên Giáp vào mùa xuân năm 2007. Ảnh: Gia đình Thiếu tướng,
Anh hùng LLVTND Nguyễn Hồng Nhị cung cấp.
Những trận không chiến để đời
Cuối năm 1965, Nguyễn Hồng Nhị trở về
nước và được bổ nhiệm đại đội phó đại đội bay, thuộc trung đoàn không
quân 921, Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không - Không quân. Lúc này không
quân Mỹ đã leo thang, đánh phá ra miền Bắc.
14 giờ ngày 4 tháng 3 năm 1966, đơn vị
radar cảnh giới bắt được tín hiệu máy bay trinh sát không người lái của
địch hoạt động tại vùng Đông Bắc. Trung đoàn phó trung đoàn 921 Trần
Hanh trực tiếp ở Sở chỉ huy không quân lệnh cho Nguyễn Hồng Nhị xuất
kích.
Sau 19 phút bay ở độ cao 16km trên vùng
trời Quảng Ninh, Nguyễn Hồng Nhị báo cáo đã phát hiện mục tiêu cách
15km, độ cao 18km. Máy bay không người lái của địch có ký hiệu BQM34,
bay ở độ cao 18km, là độ cao mà máy bay MiG-21 muốn đạt được phải có tốc
độ vượt hơn âm thanh.
Trên độ cao đó, không khí loãng, lực
nâng máy bay ít đòi hỏi phi công phải xử lý các động tác rất chuẩn xác,
nếu cơ động không khéo thì máy bay dễ bị thất tốc, rơi xuống ngay.
Máy bay địch tốc độ khoảng 800km/giờ,
máy bay ta tốc độ tới 1.800km/giờ, do đó khi tiếp cận mục tiêu không kịp
bắn thì sẽ bị vọt qua máy bay địch và không thể quay lại để công kích.
Nguyễn Hồng Nhị đã bình tĩnh, tự tin đưa máy bay địch vào vòng ngắm rồi
ấn nút phóng tên lửa.
Chiếc máy bay không người lái trúng tên
lửa, tan thành từng mảnh vụn trong không trung đem theo cả những tấm bản
đồ vừa chụp được xuống lòng đất.
Giữa năm 1966, Nguyễn Hồng Nhị cùng Đồng
Văn Song bay biên đội lên phía Bắc chặn đánh máy bay gây nhiễu RB-66
của địch. Thật không may cho ông, chưa gặp được mục tiêu thì đã phải đối
đầu với máy bay F4. Hàng chục chiếc F4 quây lại phóng tên lửa, làm máy
bay của ông bị thương nặng.
Nguyễn Hồng Nhị phải nhẩy dù, rơi xuống
huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng. Vì ông nói tiếng miền Nam, nên dân quân du
kích tưởng là phi công nguỵ quyền Sài Gòn, liền trói gô lại giải về xã.
May mà Bộ Quốc phòng điện lên kịp, lúc đó bà con cởi trói, chăm sóc ông
tận tình.
Tuy nhiên ông phải nằm viện mất ba tháng
vì bị chấn thương cột sống. Ông trở thành thương binh 1/4, và đến giờ
mỗi khi trái gió trở trời, cái u sau lưng lại đau nhức.
Cuối năm 1966, sức khỏe bình phục,
Nguyễn Hồng Nhị tiếp tục trở về trực ban chiến đấu. Trong một trận đánh
chặn máy bay địch đi từ hướng Tây vào đánh Hà Nội, ông bay biên đội với
Nguyễn Đăng Kính, đã không chiến chống lại hàng chục máy bay F105 và F4
của địch.
Đây là loại máy bay ném bom, khi gặp máy bay MiG của ta, chúng vứt bom cơ động chiến đấu như máy bay tiêm kích. Được sự yểm trợ của Nguyễn Đăng Kính, từ trên cao Nguyễn Hồng Nhị đã lao vào đội hình địch, bắn tên lửa ở cự ly chừng 1,5km.
Chiếc máy bay Thần Sấm (F105) bị nổ
tung, rơi xuống đất, bọn còn lại bị bất ngờ hoảng loạn, ném bom lung
tung. Biên đội ta nhanh chóng cơ động thoát ly về hạ cánh an toàn.
Vào năm 1967, địch đánh dồn dập vào Hà
Nội và các vùng lân cận. Thủ đoạn của chúng thường cho máy bay trinh sát
mục tiêu trước, rồi mới tiến hành trận đánh. Biên đội Nguyễn Hồng Nhị
được lệnh Sở chỉ huy cất cánh tiêu diệt máy bay trinh sát của địch.
Những tên phi công lái máy bay trinh sát
thường là những tên sừng sỏ, có nhiều kinh nghiệm. Ngày 31 tháng 8 năm
1967, khi máy bay Nguyễn Hồng Nhị vào công kích chiếc máy bay trinh sát
RF101 trên bầu trời Phú Thọ, địch phát hiện được liền lợi dụng tốc độ
lớn, khả năng cơ động nhanh hạ thấp độ cao để chạy thoát.
Ông đã mưu trí, linh hoạt không lao
xuống thấp theo địch vì biết rằng với tốc độ lớn nhất định địch sẽ ngóc
lên, nên bám địch ở phía trên, khi địch ngóc lên ở cự ly gần, lọt vào
vòng ngắm, ông bắn luôn sau đó đuổi theo bắn thêm phát thứ hai, máy bay
địch rơi ngay tại chỗ.
Ta rút được kinh nghiệm cách đánh máy
bay trinh sát. Ngay sau đó sang tháng 9, Nguyễn Hồng Nhị lại tiêu diệt
thêm một chiếc RF101 trên vùng trời Sơn La.
Cũng trong tháng 9, Nguyễn Hồng Nhị lại
lập tiếp chiến công bắn rơi chiếc máy bay thứ 5 là chiếc F4, được mệnh
danh Con ma của không lực Hoa Kỳ, chuyên dùng không chiến với máy bay
MiG của ta.
Ngày 9 tháng 10 năm 1967, trên vùng trời
Chiêm Hóa (Tuyên Quang) phát hiện địch từ xa, mặc dù địch có tới 16 máy
bay F-4, Nguyễn Hồng Nhị vẫn cùng đồng chí số 2 yểm hộ cho nhau chặt
chẽ, tạo thế thuận lợi, mưu trí và dũng cảm xông thẳng vào đội hình máy
bay địch, kịp thời nổ súng bắn rơi 2 chiếc (Nguyễn Hồng Nhị bắn rơi 1
chiếc). Máy bay địch hoảng sợ vứt bom bừa bãi tháo chạy.
Ông nhớ rất sâu sắc trận đánh bắn rơi
chiếc máy bay thứ bẩy của mình, là trận đánh kỷ niệm 50 năm Cách mạng
tháng Mười Nga, vào ngày 7 tháng 11 năm 1967.
Trước đó địch đã dùng không quân phá huỷ
đường băng, đường lăn sân bay Nội Bài, không quân ta không thể hoạt
động được trên sân bay này, phải về sân bay Gia Lâm trực chiến. Đêm 6
tháng 11, nhân dân vùng Sóc Sơn đã cùng bộ đội san lấp hố bom, sửa chữa
gấp rút đường lăn sân bay Nội Bài.
Bộ Tư lệnh Quân chủng Phòng không -
Không quân quyết định dùng tương kế tựu kế. Khi kẻ địch nghĩ rằng ta
không thể nào xuất kích từ sân bay đổ nát, thì chính từ đó không quân ta
bay lên vít cổ chúng xuống.
Do xuất kích trên đường lăn, nên biên
đội không cùng cất cánh một lúc được, Nguyễn Hồng Nhị cất cánh trước,
Nguyễn Đăng Kính cất cánh sau. Hai phi công tập hợp biên đội, gặp địch
trên vùng trời Văn Yên thuộc tỉnh Nghĩa Lộ.
Địch có 20 chiếc máy bay F-4 và F-105
yểm hộ chặt chẽ cho nhau. Nguyễn Hồng Nhị bình tĩnh phán đoán, nhanh
chóng tìm chỗ yếu của chúng, dũng cảm dẫn đầu biên đội đánh cắt đội hình
phía sau của địch.
Tốp máy bay F4 quay lại đối phó, ông
nhanh trí phóng một quả tên lửa làm rối loạn đội hình tốp này, rồi xông
thẳng vào đánh tốp máy bay F-105 đi đầu hạ ngay một chiếc.
Kết thúc trận đánh biên đội đã bắn rơi 2
chiếc: một F4 và một F105. Đây là trận thắng đầu tiên của MiG-21 áp
dụng chiến thuật” đánh nhanh thọc sâu”, đã giúp cho đơn vị rút được
nhiều kinh nghiệm cho những trận đánh tiếp theo.
Mùa khô năm 1968, không quân ta cơ động
tới sân bay Thọ Xuân để làm nhiệm vụ bảo vệ hành lang vận chuyển hàng từ
khu 4 vào miền Nam. Nguyễn Hồng Nhị lúc này là Chủ nhiệm bay trung
đoàn.
Vào buổi sáng ngày 1 tháng 8, trong điều
kiện thời tiết phức tạp biên đội ba chiếc MiG-21 gồm Nguyễn Đăng
Kính(số1), Nguyễn Mạo (số 2) và Nguyễn Hồng Nhị (số 3) đánh một trận ác
liệt trên vùng trời Đô Lương, Thanh Chương, Nam Đàn (thuộc tỉnh Nghệ
An).
Từ xa 15km, biên đội đã phát hiện mục
tiêu. Nhưng do trời nhiều mây, số 1 và 2 bay thấp nên không nhìn thấy
địch, Sở chỉ huy cho lệnh quay về. Nguyễn Hồng Nhị bay trên cao hơn, nên
phát hiện được địch, Sở chỉ huy cho phép vào công kích.
Ông bám theo một tốp 2 chiếc F8. Đến cự
ly 1.000m, máy bay địch nghiêng 60 độ, máy bay của ông ở độ nghiêng 45
độ. Với ý định buộc phi công địch phải cải hướng, Nguyễn Hồng Nhị đã ấn
nút phóng một quả tên lửa tạo thời cơ chuẩn bị bắn quả thứ hai.
Nhưng ngay quả thứ nhất chiếc Thập tự
quân (F8) đã bốc cháy. Chiếc F8 thứ hai vòng phải kịp thời quay lại bám
theo chiếc MiG ở cự ly khoảng 2.500m. Nguyễn Hồng Nhị bật tăng lực, vòng
phải và kéo máy bay lên cao. Nhưng do hệ thống tăng lực bị hỏng, việc
điều khiển máy bay rất khó khăn.
Thực ra ông đã phát hiện hệ thống tăng
lực làm việc không bình thường từ lúc cất cánh, nhưng ông không báo cáo,
vì sợ không được tham gia trận đánh. Phát hiện địch vẫn bám sát góc 30
độ, ông nghiêng máy bay sang phải, tránh được loạt đạn thứ hai. Tên địch
nhào sang phải đuổi theo.
Nhưng đến loạt đạn thứ ba hắn vẫn bắn
trượt. Ông kịp quay lại đưa chiếc F8 vào vòng ngắm. ấn nút phóng, nhưng
tên lửa không ra do hệ thống điện bị hỏng. Đúng lúc ấy, hai chiếc F8 từ
cửa Sót bay vào phóng hai quả tên lửa. Máy bay của ông bị trúng tên lửa
địch, bốc cháy.
Ông phải nhảy dù, rơi xuống đỉnh núi khu
vực lâm trường Thanh Sơn, Nghệ An. Nguyễn Hồng Nhị bình tĩnh gỡ dù, đi
xuống núi. Trên đường đi ông thấy một con gấu to đang ăn mật ong. Ông
dừng lại rút súng lục định bắn để lấy mật gấu xoa bóp vết đau.
Nhưng rồi sợ lỡ không giết được gấu, thì
sẽ bị nó vồ lại, nên ông đi vòng tránh nó thì hơn. Vừa xuống chân núi
thì đã gặp anh em trong lâm trường đi tìm. Họ đưa ông về lán, lấy mật
gấu xoa bóp chỗ đau, nhờ vậy lần này ông sớm bình phục, trở về tiếp tục
chiến đấu.
Sau đó ít lâu ông được bổ nhiệm là trung
đoàn trưởng trung đoàn không quân 927. Trung đoàn mới ra đời, đa số phi
công trẻ mới ra trường được bổ sung.
NHưng với kinh nghiệm đã chiến đấu dày
dạn của ông, cùng các trung đoàn phó như Nguyễn Nhật Chiêu, Nguyễn Đăng
Kính đã truyền đạt, huấn luyện cho lớp phi công trẻ của trung đoàn,
trưởng thành nhanh chóng.
Năm 1972, không quân Mỹ trở lại đánh phá
miền Bắc vô cùng ác liệt, kể cả dùng B52 đánh phá thủ đô Hà Nội trái
tim của Tổ quốc. Trung đoàn 927 đã góp phần xứng đáng đánh thắng hoàn
toàn cuộc chiến tranh phá hoại của không quân Mỹ đối với miền Bắc nước
ta.
iêng trung đoàn của ông trong 6 tháng cuối năm 1972 đã bắn rơi 42 máy bay hiện đại của không quân Mỹ trong đó có một chiếc B52.
Được Bác Hồ tặng 8 chiếc huy hiệu và một chiếc đồng hồ nữ
Để động viên và khen thưởng chiến công
bắn rơi máy bay Mỹ của bộ đội không quân Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh
quyết định tặng mỗi phi công một huy hiệu của Người và phần thưởng ngôi
sao đỏ sơn trên máy bay sau mỗi lần phi công bắn rơi một máy bay Mỹ.
Nhân dịp kỷ niệm một năm không quân ta
đánh thắng trận đầu, Bác Hồ cho gọi những phi công có thành tích đặc
biệt của không quân lên để Bác gặp mặt động viên.
Nguyễn Hồng Nhị vừa lập chiến công bắn
rơi máy bay không người lái ở độ cao 18 km, nên được cùng đi với các phi
công Trần Hanh, Lâm Văn Lích, Nguyễn Nhật Chiêu, Ngô Đức Mai, Phan Như
Cẩn lên gặp Bác.
Trong lần ấy Bác Hồ đã hỏi chuyện quê
hương và động viên: “Quê chú gần vùng dừa Tam Quan phải không? đồng bào
và chiến sĩ miền Nam ta trong đó chiến đấu rất dũng cảm, anh hùng.
Ở miền Bắc chú đã thi đua với đồng bào,
đồng chí quê hương mình đánh giặc trên trời giỏi như vậy là đã thiết
thực chia lửa và phát huy truyền thống của quê hương”.
Sau lần bị thương do nhảy dù, Nguyễn
Hồng Nhị được trên cho đi nghỉ an dưỡng ở Tam Đảo. Ở đây, ông đã làm
quen được với y sĩ Nguyễn Thị Thanh Dậu, một cô gái nông thôn quê miền
Bắc, hiền lành, chịu thương chịu khó.
Ấy thế nhưng khi máy bay Mỹ bị bắn rơi
vùng trời Tam Đảo, thì cô cũng mang súng đi truy tìm bắt tên phi công
suốt ba ngày ba đêm, cuối cùng tổ của cô đã lập công tóm gọn tên giặc
lái. Tình yêu giữa ông và cô y sĩ trạm an dưỡng đã nảy nở, và cuối năm
1967 họ kết nên duyên vợ chồng.
Dù có duyên mới, nhưng ông vẫn hăng say chiến đấu lập công, năm 1967 là năm ông bắn rơi đến 5 chiếc máy bay địch.
Ngoài những tấm huy chương của Bác Hồ
gửi tặng, không ngờ đúng ngày 22 tháng 12 năm 1967, chính ủy trung đoàn
Chu Duy Kính đã chuyển cho ông món quà vô giá là chiếc đồng hồ nữ mạ
vàng xinh xắn của Bác Hồ tặng.
Chính ủy Kính nhắc lại lời của Bác: “Bác
gửi tặng chú Nguyễn Hồng Nhị chiếc đồng hồ này. Mong chú Nhị cố gắng
hơn nữa, luôn xứng đáng là Chiến sĩ thành đồng Tổ quốc”.
Chính ủy còn nói thêm: “Bác biết cậu đã xây dựng gia đình nên tặng đồng hồ nữ và Bác đã đồng ý cho phép cậu tặng cho cô Dậu dùng chiếc đồng hồ này”.
Nguyễn Hồng Nhị lặng đi vì xúc động, Ông
giơ hai bàn tay đỡ lấy chiếc đồng hồ như đang nhận vật quý vô giá từ
bàn bay và đôi mắt ấm áp, hiền từ của Bác. Đã từ lâu, trong mỗi trận
không chiến ác liệt thì hình ảnh của Bác luôn là nguồn sức mạnh tiếp sức
cho ông bay lên chiến thắng kẻ thù.
Kể đến đây ông như lặng người, nhớ lại
cái giây phút đâu thương nhất trong đời. Đó là sáng ngày 9 tháng 9 năm
1969, ông dẫn đầu biên đội 12 chiếc MiG-21 bay qua Ba Đình tiễn Bác Hồ
đi xa!
Với thành tích xuất sắc, bắn rơi 8 máy
bay Mỹ, Nguyễn Hồng Nhị đã được Đảng và Nhà nước phong tặng danh hiệu
Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân vào ngày 18 tháng 6 năm 1969.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp nói
chuyện với các anh hùng phi công tại sân bay Nội Bài sau chiến thắng
Điện Biên Phủ trên không, tháng 12-1972. Từ phải sang: Các anh hùng Phạm
Tuân, Nguyễn Đức Soát, Đỗ Văn Lanh, Ngô Duy Thư, Nguyễn Hồng Nhị.
Ông đã trưởng thành từ người chiến sĩ
lên đại đội phó, đại đội trưởng, trung đoàn trưởng, sư đoàn trưởng rồi
Phó Tư lệnh - Tham mưu trưởng Quân chủng Không quân.
Năm 1988 ông chuyển sang làm Tổng Cục phó rồi Tổng cục trưởng, Cục trưởng cục Hàng không dân dụng Việt Nam.
Con trai và con gái của ông đã có gia
đình và tiếp tục công tác trong ngành hàng không, Chiếc đồng hồ quý giá
Bác Hồ tặng cho người phi công tiêm kích xuất sắc ngày ấy, được vợ chồng
ông nâng niu trân trọng như một bảo vật.
Chỉ một lần bà Dậu đeo khi về thăm quê ông ở Hoài Nhơn, Bình Định sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng.
Theo lời kêu gọi của bảo tàng Quân chủng
PK-KQ, ông bà đã trao lại chiếc đồng hồ nữ quý giá cho Bảo tàng của
Quân chủng để những thế hệ chiến sĩ trẻ và khách thăm quan đến bảo tàng
sẽ hiểu được thêm tấm lòng bao la trời biển của Bác Hồ kính yêu đối với
đồng bào và chiến sĩ cả nước.
theo Thế giới trẻ
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét