Thứ Năm, 1 tháng 10, 2020

MUÔN MẶT ĐỜI THƯỜNG I/878

ĐC sưu tầm trên NET)

 
Bản tin 113 Online cập nhật hôm nay | Tin tức 24h mới nhất ngày 30/09/2020 | ANTV
 
Thời Sự Quốc Tế Mới Nhất Sáng Ngày 01/10/2020
 
Cập Nhật Tin Biển Đông Mới Nhất.Vì Sao Trung Quốc Nổi Giận khi Mỹ Tập Trận Biển Đông có chi tiết này
 
Ngắm dàn xe tăng hiện đại nhất Việt Nam | Tin Quân Sự

 
Tin tức | Tin tức 24h mới nhất hôm nay 01/10/2020 | Chào buổi sáng | Người đưa tin 24G | NN24h

                                            

                                          Bạch Long Vỹ Đảo Quê Hương - Nhóm Biển Xanh

Các nhà khoa học vừa phát hiện hai loài sinh vật đầu tiên ăn virus, và điều đó có ý nghĩa cực kỳ quan trọng

GenK

 



Xem tiếp...

TT & HĐ II - 18/i

                                            Triết học Mác Lenin: Lý luận về nhận thức


PHẦN II:     Nền tảng


" Triết học bắt đầu từ sự ngạc nhiên"
Arixtốt

“Chúng ta có thể mường tượng thế giới của thực tại như là một dòng nước ngầm; thế giới hiện tượng thì ở bề mặt; bên dưới nó chúng ta không nhìn thấy được. Các sự kiện ở tận đáy của dòng nước gây ra bọt và những xoáy nước ở bề mặt. Đó là những chuyển động bức xạ và năng lượng của cuộc sống chung của chúng ta, nó tác động tới các giác quan và do đó, kích thích trí óc chúng ta; ở bên dưới, dòng nước ngầm vẫn chảy”
(Sir James Jeans.)
 
“Triết học chân chính chỉ là triết học truyền đạt chính xác nhất tiếng nói của bản thân thế giới và được viết dưới những sự chỉ dẫn của thế giới” 
(Ph.Bêcơn)

“Tất cả mọi khoa học cần thiết hơn triết học, nhưng không một khoa học nào tốt hơn nó” 
(Arixtốt)

CHƯƠNG VII: TIÊN NGHIỆM


Tình yêu không phải ở đôi má hồng của người thiếu nữ mà ở trong mắt của kẻ si tình.
Immanuel Kant

"Nếu bạn muốn thành công, phải lấy lòng kiên trì làm bạn tốt, lấy kinh nghiệm làm tham mưu, lấy cẩn thận làm anh em, lấy hy vọng làm lính gác" 

 Thomas Edison
“Chúng ta có thể hoặc dùng lý lẽ để hạ gục ý kiến của người khác hoặc cứ để họ phát biểu những gì họ muốn. Chúng ta không thể xóa bỏ ý kiến bằng vũ lực, làm như vậy sẽ cản trở sự phát triển tự do và trí tuệ.”
Che Guevara

“Một người nếu bắt đầu từ khẳng định, anh ta tất sẽ kết thúc trong nghi vấn, nhưng nếu anh ta bắt đầu từ nghi vấn, anh ta đương nhiên kết thúc bằng khẳng định”
Fracis Bacon

“Văn hóa chính là hiểu những lời hay nhất và những tư tưởng tốt đẹp nhất mà mọi người trên thế giới đã từng nói và từng suy nghĩ”
Arnold

"Người kinh nghiệm phong phú đọc sách dùng hai mắt, một con mắt nhìn lời trên tờ giấy, một con mắt nhìn mặt sau tờ giấy"
Goethe

"Chìa khóa mở mọi cánh cửa khoa học đều là dấu chấm hỏi; phần lớn những phát hiện vĩ đại của chúng ta đều vậy, mà trí tuệ của cuộc sống thường quyết định ở chỗ khi gặp việc gì thì hỏi câu hỏi tại sao"
Balzac

"Học vấn không có quê hương, nhưng người có học phải có tổ quốc"
L.Pasteur

“Bản tính của ta chỉ có thể có những trực giác khả giác thôi, nghĩa là theo cách ta bị sự vật tác động vào, còn khả năng suy tưởng những đối tượng của trực giác thì lại là công việc của trí năng. Trong hai đặc tính này của tâm trí ta, không cái nào được coi là trọng hơn cái kia. Không có cảm năng, thì không có một đối tượng nào sẽ được ban cho ta, và không có trí năng thì không một đối tượng nào sẽ được ta suy tưởng. Thiếu nội dung, các ý tưởng sẽ rỗng tuếch và thiếu quan niệm thì các trực giác sẽ mù tịt”.
I. Kant

“Bạn ơi, lý thuyết thì xám xịt, còn cây đời mãi mãi xanh tươi.” Wolfgang Goethe

 

 

(tiếp theo)

***
Kant sinh năm 1724 tại Kênisbéc, nước Đức. Năm 1745, ông tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Kênisbéc và trở thành gia sư. Năm 1755 ông là phó giáo sư và từ năm 1770 là giáo sư của Đại học Tổng hợp Kênisbéc. Là một trong những học giả uyên bác nhất đương thời, ông đã giảng dạy về siêu hình học, lôgic học, toán học, cơ học, địa chất học, tự nhiên đại cương…
Năm 1755 ông đã đưa ra giả thuyết giải thích nguồn gốc sự hình thành Vũ Trụ, trong đó có Thái Dương Hệ. Năm mươi năm sau, nhà toán học Laplace cũng đã đưa ra mô hình toán học cho một giả thuyết về sự ra đời của Thái Dương Hệ, giống như mô hình của Kant. Sau này giả thuyết ấy được gọi là giả thuyết Kant - Laplace.
Kể ra như vậy để thấy trên cương vị là một nhà vật lý học, chắc chắn Kant đã thấm nhuần quan niệm của Niutơn về không gian và thời gian, cho rằng: không gian và thời gian là có tính tuyệt đối, là những thực tại khách quan, tồn tại bên ngoài con người, thuộc về cái thế giới vật tự nó.
Không biết vì lẽ gì mà Kant đã từ bỏ quan niệm đó, một quan niệm đã được thừa nhận rộng rãi trong vật lý học, có tính phổ quát như thế để đi đến quan niệm cho rằng không gian và thời gian là những hình thức tiên thiên thuộc năng lực cảm tính của con người; có tính chủ quan như thế? Phải chăng là từ sự quan niệm có tồn tại một thế giới hiện tượng của ông? Không bao giờ có thể nhận thức trực tiếp được thế giới vật tự nó; con người chỉ có thể nhận thức được trực tiếp thế giới hiện tượng và thông qua đó mà nhận biết được phần nào cái thế giới nền tảng ấy. Đó là một phát kiến triết học xuất sắc của Kant. Tuy nhiên, vì trong cái thế giới khả giác ấy, hiển nhiên, dễ dàng nhận ra là phải có không gian và thời gian, nếu không thì thế giới ấy “sụp đổ”, cho nên Kant vừa phải thừa nhận sự hiện diện của chúng vừa bắt chúng cũng phải là những hiện tượng thôi, nhưng là những hiện tượng có sẵn, siêu việt hơn những hiện tượng khác để “phục vụ” cho nhận thức con người. Trong khi thừa nhận các hiện tượng trong thế giới hiện tượng là do tác động của vật tự nó lên giác quan con người mà có thì đối với không gian và thời gian, vì quá rõ ràng là không thể tưởng tượng được có nguồn gốc từ tác động của vật tự nó nào cả, nên Kant “buộc” phải trao trách nhiệm đó cho cảm năng chủ quan của con người nhưng phải là cảm năng… tiên thiên! (“Tiên thiên” đã là cây đũa thần khỏa lấp mọi chuyện!).
(Cần nói thêm rằng Kant còn chia trí năng thành hai hình thức là “lý trí thuần túy” và “lý trí thực tiễn”. “Lý trí thuần túy” làm nên tri thức khoa học (là sự nhận thức được những “tiên thiên” trong thế giới hiện tượng). Tuy nhiên, đến một giới hạn nào đó, muốn vượt khỏi thế giới hiện tượng để hòng tìm hiểu bản tính thực sự của “vật tự nó” thì lý trí thuần túy sẽ mất hiệu lực. Lúc đó mâu thuẫn sẽ phát sinh. Chẳng hạn đối với lý trí thuần túy thì câu hỏi “Vũ Trụ là gì?” là không thể xác định được vì sẽ có hai cách trả lời kèm hai chứng minh, trái ngược nhau nhưng đều đúng. (Đối với chúng ta thì thực ra đó là biểu hiện tính nước đôi của Tồn Tại dưới “màu sắc Kant” mà ở chừng mực nào đó, lại cũng là một phát kiến xuất sắc của Kant!). Để có thể tiếp cận được với vật tự nó (như Vũ Trụ, linh hồn, Chúa…) thì phải bằng lý trí thực tiễn (không có lý luận gì ở đây hết!) mà xét cho cùng ra là trực giác thuần túy, là đức tin và thực chất là tín ngưỡng không hơn không kém (tương tự như sự giác ngộ trong Phật Giáo!). Vì chúng ta không đi sâu vào học thuyết của Kant nên chỉ nói thêm, không bàn luận về vấn đề này).
Chúng ta đã từng có quan niệm riêng của bản thân mình về không gian và thời gian. Theo quan niệm ấy thì cả Niutơn lẫn Kant đều đã hiểu không gian và thời gian một cách phiến diện, thậm chí ngay cả Anhxtanh cũng đã chưa thấy được thực chất của không gian và thời gian.
Không gian và thời gian là những biểu hiện thuộc hàng dễ hiểu nhất mà cũng khó hiểu nhất của của Tự Nhiên Tồn Tại. Không có không gian, Vũ Trụ là không có, không có thời gian, Vũ Trụ thành cứng đờ; nhưng có không gian, Vũ Trụ lại không thể xác định và có thời gian, Vũ Trụ hóa ra như một mê cuồng. Không có không gian, con người không thể có, không có thời gian, con người cũng không có luôn, nhưng có không gian, con người chỉ thấy siêu hình, và có thời gian, con người lại phởn chí nghĩ… lung tung!
Không gian và thời gian thực chất chỉ là hai khái niệm, hai tên gọi về hai cái gì đó thuộc thực tại. Hai cái gì đó ấy chẳng qua là tồn tại và chuyển hóa. Không gian và thời gian là tồn tại và chuyển hóa tồn tại khi đã được nhận thức còn tồn tại và chuyển hóa tồn tại là không gian và thời gian khi chưa được nhận thức.
Phát biểu như trên chỉ mang tính ước lệ và không chân xác vì thực ra tồn tại và chuyển hóa tồn tại cũng chỉ là những khái niệm, hơn nữa là những khái niệm tương đồng một cách hình thức, một cách qui ước với không gian và thời gian. Nếu Kant cho ra thế giới hiện tượng thì chúng ta cũng có quyền cho ra thế giới khái niệm. Nếu Kant nhận biết phần nào thế giới vật tự nó thông qua thế giới hiện tượng thì chúng ta nhận thức Tự Nhiên Tồn Tại thông qua hệ thống khái niệm và cũng có một thế giới hiện tượng. Nhưng hai thế giới tuy có vẻ giống nhau, lại khác nhau về bản chất. Thế giới này xuất thân từ kinh nghiệm thì thế giới kia “đứng được” nhờ tiên thiên (?!).
Theo chúng ta thì không gian và thời gian theo quan niệm của Niutơn, không gian và thời gian theo quan niệm của Kant chỉ là hai hình thức tồn tại được hiểu khác nhau của duy nhất một Tự Nhiên Tồn Tại.
Không gian là thuần nhất khi nó là sự biểu hiện của Tồn Tại và là không thuần nhất khi nó là biểu hiện của nhiều cá thể tồn tại. Tương tự như vậy, thời gian là thuần nhất khi nó là biểu hiện của Tự Nhiên và là không thuần nhất khi nó là biểu hiện của nhiều cá thể chuyển hóa. Nếu không gian có hai chiều về vô cùng lớn - vô cùng nhỏ thì thời gian cũng có hai chiều là từ hiện tại về quá khứ hoặc đến tương lai. Nếu không gian có vô vàn tồn tại thì thời gian cũng có vô vàn hiện tại; nếu những tồn tại ấy chuyển hóa thì hiện tại gắn trên chúng cũng trôi. Nếu tồn tại luôn biến đổi để tồn tại thì hiện tại cũng luôn là quá khứ để hiện tại; tồn tại mới thì hiện tại mới, tồn tại ở dạng khả năng thì đó chính là tương lai. Có thể nói không gian và thời gian là biểu hiện của tồn tại và chuyển hóa; tồn tại và chuyển hóa rốt cuộc cũng chỉ là Tồn Tại, và Tồn Tại cũng chính là Tự Nhiên. Tự Nhiên và Tồn Tại rốt cuộc chỉ là Một!
Khi không gian và thời gian của Kant đã bị lột bỏ đi cái “bộ cánh” tiên thiên của nó thì cảm giác thuần túy theo Kant nghĩ, sẽ cũng bị “thủ tiêu” và cái thế giới hiện tượng chỉ còn được xây dựng nên từ cảm năng thường nghiệm và trí năng… cũng thường nghiệm nốt (tất cả “công năng đặc dị” không qua luyện tập, tất cả những biểu hiện thần đồng chưa qua học hành chỉ là những biểu hiện cá biệt, riêng lẻ, có tính nổi trội về cảm giác; là những siêu giác và dù có là gì đi chăng nữa thì cũng không bao giờ có thể là biểu hiện của một trí năng thuần túy tiên thiên; dù có vẻ như là tiên nghiệm đối với những cá nhân đó nhưng thực ra vẫn là sự kế thừa, trong vòng kinh nghiệm và dựa trên kinh nghiệm của bộ phận hoặc toàn thể loài người).
Không thể phủ nhận được rằng các mệnh đề tổng hợp tiên thiên, hay những định luật tất yếu phổ quát là những thể hiện của cái gì đó có sẵn, có trước và bất biến trong thế giới khách quan và được phản ánh (có thể là) không đầy đủ trong thế giới hiện tượng. Nhưng không thể cho rằng chúng là những phát hiện của một trí năng siêu phàm kiểu tiên nghiệm như Kant nghĩ.
Tự Nhiên Tồn Tại là vốn dĩ như thế! Đó là một chân lý tuyệt đối và theo chúng ta thì không nên tốn sức cãi cọ nhau làm gì nữa. Trong nhận thức lý luận, chân lý ấy đóng vai trò như một tiền đề tuyệt đối (nằm ngoài mọi sự lý giải, chứng minh), duy nhất, vĩ đại; là tiền đề của mọi tiền đề và là điểm xuất phát đầu tiên trên con đường đi nhận thức thế giới.
Vì là vốn dĩ thế nên Tự Nhiên Tồn Tại không “thị phi” nghĩa là không đúng không sai. Nhưng Tự Nhiên Tồn Tại phải thể hiện! Nếu giả sử rằng Nó không thể hiện thì không thể có cái chân lý tuyệt đối vừa nói, nghĩa là không có sự vốn dĩ thế cũng như không có chính bản thân Nó. Rốt cục, thay cho Tự Nhiên Tồn Tại là Hư Vô. Hư Vô thì làm sao bàn luận được khi chúng ta biết chắc rằng đâu đó trong Vũ Trụ đang diễn ra một cuộc bàn luận, được bắt đầu từ mấy ngàn năm trước? Mặt khác, nếu nói được là Hư Vô thì Hư Vô (lúc này ở vị trí của Tự Nhiên Tồn Tại) là vốn dĩ thế và phải thể hiện ra được điều ấy. Cuối cùng thì đến lượt Hư Vô chỉ là tên gọi khác (hoặc theo một ngôn ngữ khác!) của Tự Nhiên Tồn Tại. Thể hiện ra được nghĩa là phải có sự phân biệt; mà đã là phân biệt được thì phải có khách thể và chủ thể để “thực thi” sự thể hiện ấy thông qua tác động và phản ứng; phải xuất hiện chủ quan quan sát và nhận thức cũng như đối tượng của nó là thế giới khách quan.
Tự Nhiên Tồn Tại không “thị phi” nhưng nhận thức phải lựa chọn giữa có lý và vô lý, chính nghĩa và phi nghĩa. Không gian và thời gian là hai biểu hiện cơ bản của Tự Nhiên Tồn Tại làm nên tính siêu hình và biện bác của nhận thức đồng thời cũng là nguyên nhân sâu xa của sự lựa chọn. Sự lựa chọn trong nhận thức là một tất yếu. Ở buổi đầu, khi khả năng còn hạn chế, thì sự lựa chọn trong tư duy có tầm quan trọng quyết định đến quá trình phát triển của nhận thức. Thậm chí có thể nói rằng không thể nhận thức được nếu không có lựa chọn.
Sự lựa chọn đầu tiên của triết học là “Tồn tại hay Không tồn tại?” và “Tồn tại” là cái được chọn, vì nếu chọn cái “Không tồn tại” thì triết học… “tự sát” và chấm dứt… tồn tại (không thể hiện hữu!). Tương tự, trước lựa chọn: “Tự Nhiên Tồn Tại là có lý hay vô lý?”, chúng ta chắc chắn phải chọn “có lý” vì nếu chọn “vô lý”, chúng ta ngay lập tức trở thành những “bóng ma” (bóng ma chứ chưa được là ma!) và như thế cũng thành vô lý nốt. Trong đời sống xã hội, nếu hỏi bất cứ ai, từ hạ dân hèn kém đến vua chúa kiêu sang rằng theo chính nghĩa hay phi nghĩa, thì có lẽ họ đều chọn “theo chính nghĩa” cho dù khi hành động có thể… không theo. (Nhận thức là một chuyện còn thực hành lại là chuyện khác. Sự đời thường là thế nên mới có câu “Nói một đàng, làm một nẻo”!).
Trước quan sát và nhận thức chủ quan của con người, thế giới khách quan (bộ phận hiện hữu, phần biểu hiện trước con người của Tự Nhiên Tồn Tại) đóng vai trò là một thực tại, một hiện thực, một thực thể và hoàn toàn… có lý. Con người là của Tồn Tại nên có những nét mang tính phổ quát nhất của Tồn Tại, nó cũng vừa là tồn tại trong một môi trường có hoàn cảnh điều kiện cụ thể, tương đối độc lập với Tồn Tại nên đồng thời cũng có những nét cá biệt, đặc thù của cục bộ, địa phương. Vì lẽ đó cái thế giới khách quan mà con người quan sát được, nhận thức được bằng những “phương tiện” riêng có ở con người cũng đượm màu chủ quan của con người, trở thành “dở dở ương ương” vừa khách quan, vừa chủ quan và là của riêng con người; sự có lý của thế giới ấy cũng là sự có lý theo cách nhìn nhận của con người về Tồn Tại, phù hợp với tư duy con người.
Có thể nói đối với con người, thế giới khách quan hiển nhiên là có lý, hợp lý vì sự hiện hữu hiển nhiên của nó, hay nói ngược lại: sự hiện hữu hiển nhiên, bền vững, lâu dài của Thế giới khách quan là một minh chứng hiển nhiên trước con người về tính có lý, có tình của nó.
Thế giới khách quan là một hiện thực có lý thì nguyên nhân làm nên nó, nghĩa là mọi vận động, tương tác, chuyển hóa, biến đổi ở tầng tồn tại nền tảng, trong nội tại nó, cũng phải mang tính hợp lý và hơn nữa phải tuân theo những nguyên lý có tính tất yếu, phổ quát. Những nguyên lý này khi được nhận thức, chính là những “mệnh đề tổng hợp tiên thiên” hay những “định luật tất yếu phổ quát” theo cách nói của Kant, trong cái thế giới toàn là hiện tượng theo quan niệm cũng của Kant luôn.
Thế thì những nguyên lý ấy có từ đâu và vì sao lại mang tính tất yếu và phổ quát, không lẽ lại do sự qui ước của con người, một tồn tại nhỏ nhoi, không lấy gì làm đáng kể trong Vũ Trụ?
Tự Nhiên Tồn Tại là có lý, là một sự Có Lý, duy nhất; vì là vốn dĩ thế nên Có Lý cũng là Tất Yếu. Tự Nhiên Tồn Tại là tất yếu thì thực thể Tồn Tại cũng tất yếu và nguyên lý Tự Nhiên cũng tất yếu. Thực thể Tồn Tại theo nguyên lý Tự Nhiên để tồn tại; nguyên lý Tự Nhiên bảo toàn Tồn Tại để tự nhiên! Dù thế nào đi nữa thì Tồn Tại vẫn là Tồn Tại và chỉ Tồn Tại mà thôi!
Ở dạng thực thể, Tồn Tại chính là Vũ Trụ. Vì Tồn Tại là đầy đủ nên Vũ Trụ là một tổng thể vô cùng phong phú, vô cùng đa dạng các sự vật - hiện tượng. Vì Tồn Tại cũng lại thiếu thốn nên Vũ Trụ trở thành “chốn thư hùng” của tất cả vạn vật - hiện tượng, chúng tranh nhau tồn tại, tác động nhau, giành giật nhau, chuyển hóa nhau, làm nên một cuộc sinh sinh diệt diệt vô tiền khoáng hậu đến bất tận. Tuy nhiên Vũ Trụ chẳng hề hấn gì, Tồn Tại vẫn là Tồn Tại vì đã được nguyên lý Tự Nhiên đảm bảo! Nguyên lý Tự Nhiên ra lệnh cho toàn thể các lực lượng trong Vũ Trụ rằng: “Chúng mày muốn làm gì thì làm, muốn phá phách tạo dựng kiểu gì cũng được, muốn tranh giành, chém giết, “ăn thịt” nhau thế nào mặc kệ, yêu thương thù ghét nhau đến mức nào mặc lòng, miễn không làm cho Vũ Trụ bị “sứt mẻ” để cho Thủy Tổ của chúng mày, lão Tồn Tại ấy, được nghỉ ngơi và bản thân Tao, vợ của lão, được… an nhiên!”. Để chắc ăn, đảm bảo được tuyệt đối Tồn Tại, nguyên lý Tự Nhiên đã “cụ thể hóa” thành vô vàn những “đạo luật” vừa phổ quát vừa đặc thù cho phù hợp với từng lực lượng, từng nhóm sự vật - hiện tượng “hao hao” nhau, thậm chí là đến từng cá thể, từng vùng, từng tầng nấc qui mô để chúng… dễ thực hiện “ý chỉ” đó của Tạo Hóa! Và đúng như thế thật, việc thực hiện luôn luôn ở mức… toàn hảo tuyệt đối! (Nhưng không biết bằng cách nào mà nguyên lý Tự Nhiên, chưa qua tiến hóa thích nghi lại nói được và các lực lượng khổng lồ trong Vũ Trụ với hầu hết là “vô ý thức” ấy lại hiểu được và phục tùng đến mức hơn cả tuyệt vời như vậy? Chúng ta vĩnh viễn mù tịt về điều này!).
Những “điều luật” của nguyên lý Tự Nhiên cũng chính là những nguyên lý chúng ta đang bàn tới. Chúng có tính tất yếu và phổ quát vì là sự thể hiện của nguyên lý Tự Nhiên, cái bao hàm và vốn dĩ thế.
Tuy nhiên, nên thấy rằng các nguyên lý ấy không phải chỉ có tính tất yếu và phổ quát mà còn có tính ngẫu nhiên và đặc thù. Vì ngay từ đầu chúng ta đã chọn “có lý” rồi nên đối với chúng ta (và cả đối với Kant nữa), tính tất yếu và phổ quát trở nên nổi trội còn tính ngẫu nhiên và đặc thù trở nên chìm lặn theo qui luật tính trội tính lặn trong di truyền học của Men-đen. (Vận dụng như thế thật là khiên cưỡng và có vẻ lố lăng nhưng có lẽ không hơn việc cho Tự Nhiên đỏng đảnh như một người đàn bà!!!).
Để nhận thức được nguyên lý Tự Nhiên cùng với những “điều luật” - những dạng đã “cụ thể hóa” của nó, con người không có cách nào khác là quan sát sự biểu hiện của chúng trong thế giới khách quan (của con người!) thông qua hệ thống khái niệm của mình (mà ban đầu chưa hoàn chỉnh) dùng trí năng để phát hiện, khám phá ra, phát biểu thành những nguyên lý theo cách thức của tư duy, ngôn ngữ, trên cơ sở những quan niệm đã đạt được trước đó (cũng theo một quá trình tương tự).
Trí năng của con người từ đâu mà có? Chúng ta đã quan niệm: từ quá trình tiến hóa thích nghi mà có. Trí năng con người, vào giai đoạn đầu tiên của sự xuất hiện loài người, được hình thành nên từ những quan sát trực giác và là sự đặt ra khái niệm rồi trên cơ sở đó đúc kết kinh nghiệm từ những lần quan sát ấy, bằng cách lưu nhớ, hồi ức, liên tưởng, so sánh… Có thể nói một cách tương đối và đại khái, khi phân biệt được thế giới dưới dạng khái niệm thì con người đã có trí năng và đã nhận thức. Nhờ có trí năng mà con người nhận thức, nhờ có nhận thức mà trí năng phát triển và trí năng phát triển, đến lượt nó, làm cho nhận thức ngày càng sâu rộng. Cái gốc của nhận thức là cảm giác, quan sát và hồi ức. Nhờ biết hồi ức mà con người biết lựa chọn hành vi được cho là phù hợp trong hoạt động thực tiễn của mình (cũng là một biểu hiện của tiến hóa thích nghi!). Quá trình đó tái đi diễn lại trong suốt đời người, làm nên sự từng trải, làm nên kinh nghiệm ở mỗi con người. Trên cơ sở khái niệm với cách thức biểu hiện là nói và viết (vạch vẽ), những kinh nghiệm có được ở mỗi con người sẽ được lưu truyền, tiếp thu trong cộng đồng người; được chiêm nghiệm, đính chính, tu bổ, đúc kết lại thành tinh hoa kinh nghiệm, thành kiến thức chung của cộng đồng người ấy để cùng ứng dụng, để lưu truyền cho thế hệ sau qua con đường dạy và học. nhờ có kiến thức mà sự hiểu biết về tự nhiên và sáng tạo trong tự nhiên liên tục phát triển qua từng thời đại. Một câu hỏi hóc búa được đặt ra là đến bao giờ thì sự phát triển ấy dừng lại?
Sự tiến hóa thích nghi của bộ não, về mặt thuần túy sinh học xảy ra từ từ và có hạn độ, phù hợp với tổng thể cấu trúc sinh học của toàn cơ thể. Do đó, để đáp ứng kịp thời những đòi hỏi nảy sinh từ lối sống chủ động thích nghi, bộ não biết suy nghĩ đã chọn dạy và học (có sẵn trong thực tại!) làm phương thức chủ yếu cho tiến trình tiến hóa thích nghi của mình. Có thể nói di truyền và biến dị, dạy và học là hai phương thức cơ bản của sự tiến hóa thích nghi có tính tương phản nhau; quá trình này tương đối chậm nhưng bền vững thì quá trình kia tương đối nhanh nhưng dễ mất. Giữa chúng có mối quan hệ khăng khít, giúp nhau tồn tại nhưng cái trước là nền tảng của cái sau.
Từ hồi ức, suy tưởng, so sánh mà nảy sinh ra sự phán đoán. Phán đoán là quá trình rút ra, suy luận ra từ kinh nghiệm, từ kiến thức đã có sẵn, những nhận định mới về bản chất sự vật hiện tượng mới phát hiện hoặc những nhận định có tính khái quát hơn, đúng đắn hơn những nhận định cũ. Những nhận định ấy có thể đúng mà cũng có thể sai nên cũng chỉ ở dạng khả năng chứ chưa là kiến thức mới. Chỉ sau khi đã được thực chứng, được cộng đồng người thừa nhận, chúng mới định hình thành kiến thức dưới dạng những mệnh đề có tính “tổng hợp, tất yếu, khái quát và tiên thiên” (cũng chưa chắc đã đúng hẳn!). Chức năng phán đoán của bộ não làm cho nó có khả năng sáng tạo. Sự sáng tạo ở con người có nguồn gốc từ tính tạo dựng có sẵn trong tự nhiên; là sự nghiên cứu tìm tòi để tạo dựng ra cái mới, một cách có chủ đích.
Đến đây, chúng ta thấy rằng con người không chỉ nhận thức mà còn sáng tạo. Nhờ nhận thức mà kiến thức được lưu truyền, tàng trữ, nhờ sáng tạo mà kiến thức được điều chỉnh, sửa chữa thành tinh túy, ngày một mở rộng cũng như chuyên sâu. Khả năng nhận thức và sáng tạo làm nên trí năng ở mỗi con người. (Thế còn khả năng hoang tưởng? Đi mà hỏi ông tổ ngành phân tâm học, ngài Ximôn Phrớt (Sigmund Freud) ấy!).
Quan sát là một tất yếu có nguyên nhân từ đấu tranh sinh tồn và mục đích ban đầu của nó là vì sinh tồn. Sau này nó còn có nguyên nhân từ yêu cầu của nhận thức và mục đích vì nhận thức. Nhận thức và sáng tạo là tiếp thu kinh nghiệm, kiến thức cũ và là quá trình quan sát, tìm hiểu thế giới khách quan, trên nền tảng kinh nghiệm đã được tích lũy để đúc kết nên kiến thức mới. Biểu hiện rõ rệt nhất của nhận thức là sự học hành (“Không thầy đố mày làm nên”; “Học thầy không tày học bạn”; “Học ăn học nói, học gói học mở”; “Con thi trường học, mẹ thi trường đời”…).
Tự Nhiên Tồn Tại là phải thể hiện; muốn thể hiện thì phải phân định. Nhờ có phân định mà có thế giới chủ quan quan sát và đối tượng quan sát là thế giới khách quan! Không có quan sát thì không có nhận thức; không có nhận thức thì không có sáng tạo. Thế giới chủ quan cũng mang tính khách quan vì nó là bộ phận của thế giới ấy, ngược lại, thế giới khách quan cũng bị pha màu chủ quan vì nó bị “bao phủ” bởi quan sát chủ quan. Đó là chân lý! Chân lý đó dẫn đến hệ lụy là nhận thức chủ quan về cái khách quan và sáng tạo chủ quan theo cách khách quan, nghĩa là thế giới khách quan khi đã qua nhận thức sẽ không còn thuần túy là khách quan nữa; tất cả mọi sáng tạo chủ quan, muốn trở thành chân lý, muốn là thành tựu của trí tuệ đều phải phục tùng khách quan, phù hợp với khách quan và thuộc về thế giới khách quan. (Chúng ta “ní nuận” như thế có hợp “nôgic” không mà sao thấy “nộn” xộn, “núc” trong “núc” ngoài, “nung” tung quá!!!???).
Nhận thức và sáng tạo là hai giai đoạn (được phân chia hoàn toàn mang tính tương đối) của một quá trình nhận thức: trong nhận thức có sáng tạo và trong sáng tạo có nhận thức; là hai tương phản, chuyển hóa nhau trong hoạt động tư duy: đối với một vấn đề, ở giai đoạn đầu nhận thức là cơ bản, nổi trội, thì ở giai đoạn sau, sáng tạo trở nên lấn át, rõ ràng hơn. Kiến thức là kinh nghiệm được đúc kết và do đó cũng chính là kinh nghiệm. Kiến thức là nhận thức đã được chiêm nghiệm, đã được thừa nhận nên nó cũng là một bộ phận của nội dung nhận thức. Có thể gọi kiến thức là “kinh nghiệm tổng hợp” hay “nhận thức của quá khứ”. Nhưng chúng ta cứ gọi cho gọn là “kinh nghiệm”, vì xét cho cùng một nhận thức, khi đã được thừa nhận sẽ thành nhận thức ở quá khứ, trở thành cơ sở cho nhận thức ở hiện tại, nghĩa là nó đã chuyển thành kinh nghiệm. Do đó quá trình nhận thức là nhận thức và nhận thức lại; là nhận thức kinh nghiệm, trên cơ sở kinh nghiệm đó mà nhận thức hiện tại, tạo tiền đề cho sáng tạo tương lai. Quá trình nhận thức thực ra không suôn sẻ, “đầu xuôi đuôi lọt” như thế, mà là vì kinh nghiệm thì có đúng có sai, có đúng ít có đúng nhiều, lúc phù hợp lúc không còn phù hợp nữa, nên quá trình đó đầy lận đận gian lao, và hơn nữa vì có tính chất “tiến hóa thích nghi” nên nó vừa là tiến trình từ thấp lên cao vừa gồm những chu trình phát triển tương tự nhau từ quan sát - rút kinh nghiệm - nhận thức - sáng tạo nên trông có vẻ như đó là quá trình tiến dzích dzắc nếu nhìn ở góc độ chi tiết và có quĩ đạo xoắn trôn ốc nếu nhìn trên bình diện tổng quan.
Rốt cuộc, một cách hoàn toàn tự nhiên, có nguồn gốc từ chân lý khách quan, được hun đúc từ quá trình tiến hóa thích nghi, trí năng con người đã thực hiện vẻ vang sứ mạng của mình là làm nên tri thức trác tuyệt ở con người và đồng thời quá trình hình thành nên tri thức trác tuyệt ấy đã nâng trí năng lên tầm siêu phàm, kỳ diệu.
Chúng ta xin nhấn mạnh; nếu giả sử loài người, hiện nay, do một biến cố nào đó mà “quên béng” tri thức đi thì trí năng của họ chưa chắc hơn gì trí năng của người cổ đại, nhưng ở thời cổ đại, trí năng con người không thể đùng một cái mà nghĩ ra được thuyết tương đối rộng của Anhxtanh. Nếu không có tri thức “tiên thiên” đã tiếp thu được ở trường Đại học tổng hợp Kênisbéc và học vấn đúc kết được của hàng chục năm hoạt động khoa học trong thực tế, chắc rằng Kant sẽ không thể sáng tạo được học thuyết triết học “duy tâm siêu niệm” của mình.
Khi sáng tạo ra thế giới vật tự thân, Kant khẳng định rằng thế giới đó là bất khả tri đối với con người. Điều đó có đúng không? Không thể khẳng định hay phủ định được. Chúng ta không trả lời câu hỏi ấy, tuy nhiên, sẽ nói về quan niệm riêng của mình.
Có thể phân chia thế giới thành hai hay nhiều thế giới. Nhưng đó là việc làm mang tính chủ quan và tương đối. Khi làm cái việc phân chia ấy, chúng ta đừng quên rằng chỉ có một thế giới là chân thực một cách tuyệt đối, đó là cái thế giới đầu tiên, bao gồm toàn bộ các thế giới có được từ sự phân chia. Các thế giới có được từ sự phân chia chỉ là hình ảnh, là bộ phận của cái thế giới đầu tiên, chân thực tuyệt đối. Và điều quan trọng nhất là không bao giờ được quên tính thống nhất tuyệt đối của cái thế giới duy nhất, chân thực tuyệt đối ấy trong suốt quá trình suy tư, chiêm nghiệm của mình.
Sự phân chia thế giới của con người là mang nặng tính chủ quan con người, nhưng chỉ là “mang nặng” thôi vì khách quan mà nói thì cũng có sự phân định ấy. Khi sự phân chia là hợp lý, phù hợp với sự phân định khách quan thì bản thân sự phân chia cũng mang tính khách quan. (Chẳng biết nói thế nào cho đạt hơn được nữa dù biết rằng chưa đạt! Khái niệm thật là hữu hạn, rời rạc và siêu hình!!!).
Thế giới khách quan của con người là phần biểu hiện của Tự Nhiên Tồn Tại mà con người quan sát được bằng cảm giác, tri giác, bằng công cụ, thiết bị hỗ trợ, bằng tri thức, suy tưởng, chiêm nghiệm…, hay nói gọn lại: quan sát và nhận thức được. Tùy vào trình độ quan sát và nhận thức mà thế giới khách quan ấy nông, hẹp hay sâu rộng, biến dạng nhiều hay ít, giống nhiều hay ít so với Tự Nhiên Tồn Tại. Trước đây thế giới khách quan của con người chỉ ở dưới “gầm trời”; có khi là hợp thành của ba thế giới: Trần Gian, Thiên Đường và Địa Ngục, có khi chỉ là hai: Trần Tục và Niết Bàn. Sau đó, xuất hiện một thế giới khách quan rộng hơn là Thái Dương Hệ với Trái Đất là trung tâm, Mặt Trời và các hành tinh quay quanh, trong một cái phông “gắn” các vì sao… Ngày nay, nhờ khoa học tự nhiên, nhất là vật lý học và thiên văn học, thế giới khách quan của người, trong tri thức khoa học đã sâu rộng đến không ngờ mà về qui mô, đã “gần bằng” Tự Nhiên Tồn Tại (?!). Đó là Vũ Trụ gồm hai bộ phận vi mô và vĩ mô (nói là “gần bằng” để mai này nếu có phát hiện ra Vũ Trụ của chúng ta chỉ là bộ phận của một Vũ Trụ khác lớn hơn nó nữa, thì chúng ta sẽ đỡ bị “quê”!).
Chúng ta luôn trực tiếp tiếp cận với Tự Nhiên Tồn Tại theo cách đặc thù mà chính Tự Nhiên Tồn Tại, thông qua bộ phận của Nó, đã ban cho chúng ta (nếu có lần nào đó chúng ta đã nói ngược lại thì xin lỗi vậy!). Nhưng chúng ta không thể nhận thức được trực tiếp Tự Nhiên Tồn Tại mà phải thông qua thế giới khách quan, trên hệ thống khái niệm của mình (cũng được rút ra một cách chủ quan từ thế giới ấy).
Quá trình tìm hiểu thế giới khách quan làm cho trình độ quan sát và nhận thức ngày càng sắc xảo và đúng đắn, đồng thời thế giới khách quan cũng ngày càng sâu rộng và sáng tỏ, thấu suốt và chân xác hơn. Đến một lúc nào đó (tràn trề hy vọng lắm lắm!) con người, khi đã đến trạng thái “thần minh” nhờ có “vạn linh tâm”, “thuận phong nhĩ” và “thiên lý nhãn”, sẽ nhận thức được trọn vẹn cái thế giới khách quan mà bấy giờ đã như một bức ảnh chụp sắc nét, hay đúng hơn là một hồ sơ đầy đủ của bộ ảnh cắt lớp về Tự Nhiên Tồn Tại. (Có lẽ nói ảnh chụp là hơi quá mà nên nói là hình vẽ khéo léo của con người thì hợp hơn!).
Chúng ta thấy điều thú vị này: thế giới khách quan thuở ban đầu toàn khách quan mù tịt, khi con người bắt đầu suy nghĩ về nó, nó bắt đầu le lói một vài chủ quan sáng tỏ, tiếp tục suy nghĩ, chủ quan dần rạng rỡ để chỉ còn một vài khách quan mù tịt, suy nghĩ nữa, chủ quan lại hóa ra mù tịt và bắt đầu có nhen nhúm khách quan sáng tỏ, suy nghĩ đến tột cùng thì chủ quan chỉ còn không đáng kể để tràn ngập rạng rỡ khách quan. Thế rồi tiếp theo? Loài người chắc gì còn tồn tại mà nói tiếp về điều đó?!
Như vậy con người luôn tiếp xúc với Tự Nhiên Tồn Tại nhưng không bao giờ có thể “thấy” được Nó một cách tổng thể; có thể nhận thức được Tự Nhiên Tồn Tại (khả tri!) bằng cách phán đoán thông qua việc nhận thức trọn vẹn trực tiếp thế giới khách quan. Một câu hỏi đặt ra là: nhận thức trọn vẹn, đúng đắn thế giới khách quan đã là chân lý cuối cùng mà nhận thức cần đạt đến chưa? Và câu hỏi tiếp theo là: chân lý ấy có đồng thời là chân lý về Tự Nhiên Tồn Tại không? Đối với những cái đầu “rực rỡ” hoang tưởng thì đó là hai câu đố… quá dễ! Thế giới khách quan hiển hiện ra trước con người là của con người. Đó là một miền tự nhiên hoang vu nhưng con người đã khai phá, đặt mốc, cắm cờ, vạch dấu, ký hiệu và định nghĩa nó, rồi gieo trồng, gặt hái thu hoạch từ nó (giống như Mặt Trăng, chỉ mới cắm cờ, quăng mốc lên đó, chưa kịp làm ra phương tiện lưu thông thuận lợi nào đi từ Trái Đất đến đó, mà người ta đã ra công chứng xác nhận chủ quyền, “xẻ thịt” mua đi bán lại rầm rộ gần hết đất trên đó rồi. Thật hết biết!). Như vậy con người có quyền nhận thức nó. Nhưng con người nhận thức nó cho ai và để làm gì? Chắc chắn là nhận thức không phải cho loài hổ hay loài kiến chẳng hạn; không phải cho sao hỏa, Mặt Trời chẳng hạn, mà cho chính bản thân con người. Con người nhận thức cho bản thân mình để mục đích đầu tiên là phục vụ sinh tồn, rồi để muốn thỏa mãn sự tò mò tọc mạch vốn có của quan sát, để thỏa niềm si mê trước cái kỳ vĩ, để… nói chung là còn nhiều “để” nữa, nhưng gút lại là, hơi thô thiển nhưng có lẽ “hay” nhất, để tìm danh kiếm lợi cho mình và cả cho mọi người. Khi nhận thức đã đạt đến đầy đủ, trọn vẹn và minh xác về thế giới khách quan rồi, đã là một chân lý sáng ngời của con người rồi thì cần gì hơn thế nữa, vì thực ra đó cũng là chân lý về Tự Nhiên Tồn Tại theo cách biểu đạt của con người và trở thành tiên đề cuối cùng, không thể chứng minh, cũng không thể suy luận: tiên đề của mọi tiên đề. Nhưng biết đâu cái tiên đề ấy lại chưa phải là tiên đề mà chỉ nói lên giới hạn của nhận thức con người? Để trả lời câu hỏi này thì cần phải biết chờ đợi và chờ đợi. Chờ đợi cho đến khi nào “lùng” ra được một “ông bạn” đâu đó trong Vũ Trụ, ở tầng qui mô khác, có một cấu trúc cơ thể khác hẳn chúng ta và do đó cũng “sở hữu” một thế giới khách quan khác hoàn toàn cái của chúng ta. Giả sử rằng ông bạn đó đã nhận thức được hoàn hảo thế giới khách quan đó và cũng đúc kết thành một chân lý mang tính tiên đề. Nếu sau khi phiên dịch (chắc là khó khăn mệt mỏi lắm!), hoặc dùng phép qui chiếu kiểu gì đó, mà hai chân lý của hai thế giới khách quan trùng nhau về nội dung thì lúc đó, cả chúng ta và “ông bạn” sẽ cùng ca khúc khải hoàn vì tính tiên đề của hai chân lý đã được chứng thực và rõ ràng, hai chân lý đó là hai cách phát biểu của một chân lý duy nhất, và là tiên đề cuối cùng, cơ bản nhất, bao hàm nhất của Tự Nhiên Tồn Tại.
Chắc rằng Kant sẽ không đồng thuận được cái quan niệm “tự nhiên chủ nghĩa” vừa rồi mà chúng ta đã sáng tạo. Nhưng bản thân cuộc đời khoa học của Kant đã đủ xác định mức độ chân lý của học thuyết tiên nghiệm mà Kant đã sáng tạo ra. Dù sao đi nữa, Kant vẫn luôn là một câu chuyện rất hay và bổ ích về sự suy tư triết học, trong lịch sử nhận thức của nhân loại. Đọc học thuyết của ông, chúng ta có một ám ảnh lạ lùng. Chúng ta cứ thấy lởn vởn thấp thoáng trong đó hình bóng Đức Chúa Jêsu hát vang bài ca Đức tin, hình bóng Platon chập chờn trên vách hang kể say sưa câu chuyện về ý niệm, hình bóng Đức Phật Thích Ca tay lần tràng hạt, lim dim giảng dạy về cõi tạm vô thường và Niết bàn vĩnh cửu, hình bóng của Lão Tử phong phanh áo vải thô, trầm mặc ngồi viết Đạo đức kinh, hình ảnh của Mác và Ănghen dắt tay nhau trên con đường đi tới chủ nghĩa cộng sản. Hình như học thuyết triết học của Kant là điểm hội tụ của các phương chiều “đồng sàng dị mộng” trong quá khứ ấy!...
(Còn tiếp)
-------------------------------------------------------

Xem tiếp...