Đọc lịch sử phải trên tinh thần "ôn cũ biết mới", nghĩa là biết trân trọng học hỏi một cách linh động, có suy xét những hiểu biết của quá khứ. Niềm tin mù quáng và đa nghi cực đoan đều có tác hại như nhau, đều là chướng ngại cản trở con người trên bước đường khai trí, tiến bộ!
-------------
(ĐC chép từ TRANHUNG09 BLOG)
Những cư dân đầu tiên khai phá vùng đất Miền Nam VN
NHỮNG HIỂU BIẾT MỚI VỀ NAM BỘ
Nguyễn Văn Huy (Pháp)
Những nhóm dân cư đầu tiên tại miền Nam
Những
nhóm Khmer Krom thường viện dẫn những lý do lịch sử và văn hóa để chứng
minh chủ quyền của người Khmer trên lãnh thổ miền Nam. Sự tiếp cận này
tuy hợp lý nhưng không đúng. Người Khmer chưa hề làm chủ vùng đất này.
Đế quốc Angkor trong thời cực thịnh nhất, từ thế kỷ 8 đến thế kỷ 12,
cũng chưa bao giờ làm chủ vùng đất này vì một lý do giản dị : người
Khmer không có mặt trên đồng bằng sông Cửu Long. Cho đến nay khoa khảo
cổ học không tìm thấy đền đài nào của thời Angkor trên đồng bằng sông
Cửu Long. Cũng nên biết nền văn minh chói sáng của các thời đại Angkor
thể hiện qua các công trình kiến trúc bằng đá, tất cả đều tập trung
quanh khu vực Siem Reap và Battambang. Thời kỳ sau đó, từ thế kỷ thứ 15
đến thế kỷ 17, lãnh thổ của vương quốc Chân Lạp chỉ quanh quẩn từ khu
vực phía nam hồ Tonle Sap đến khu Mỏ Vẹt phía đông, và từ Stung Treng
phía bắc đến Tàkeo về phía nam, mỗi khu vực do một tiểu vương chiếm giữ
và đánh phá lẫn nhau. Những danh xưng như Moat Chruk (Châu Đốc), Phsar
Dek (Sa Đéc), Toek Khmau (Cà Mau), v.v. chỉ xuất hiện sau này khi người
Khmer theo chân người Việt và người Minh Hương đến khai phá đồng bằng
sông Cửu Long, từ giữa thế kỷ 17 đến cuối thế kỷ 19. Di tích xưa nhất
của người Khmer : các chùa chiền có cùng niên đại với sự xuất hiện của
người Hoa và người Việt, nghĩa là cách đây khoảng 300 năm.
Những
khám phá khảo cổ gần đây cho thấy những cư dân đầu tiên trên lãnh thổ
miền Nam cách đây từ 8 đến 10.000 năm là người Melanesien, da đen, tóc
quắn, thấp người, sinh sống bằng nghề hái lượm ; nhóm này đã đồng hóa
những nhóm Veda có mặt cách đây trên 15.000 năm. Về sau là các sắc dân
Indonesien di cư từ miền Tây Ấn Độ, cách đây từ 2.500 đến 4.000 năm, đến
lập nghiệp, nhóm này đồng hóa những nhóm Melanesien có mặt trước đó.
Địa bàn cư trú của những người này là những vùng đất cao, xa biển, có
nhiều rừng và sông ngòi. Dấu vết người Indonesien được tìm thấy nhiều
nhất tại tỉnh Đồng Nai và Kiên Giang, với những dụng cụ bằng đá và sắt.
Vào
đầu công nguyên, ở vùng địa đầu miền Nam Việt Nam, những nhóm
Indonesien bản địa, người Môn, đã kết hợp lại cùng nhau xây dựng vương
quốc Phù Nam. Di chỉ Óc Eo ngày nay là một chứng tích. Hấp dẫn bởi sự
phồn vinh của Phù Nam, nhiều nhóm Malayo-Polynesien (Nam Đảo) từ vùng
biển phía nam đổ bộ lên vịnh Hà Tiên sinh sống, truyền bá luôn văn hóa
và tổ chức xã hội theo khuôn mẫu Ấn Độ mà họ đã hấp thụ. Trong thế kỷ
thứ 5, Phù Nam bị suy yếu dần vì nạn hải tặc ; đến giữa thế kỷ thứ 7,
Phù Nam bị những nhóm Khmer từ cao nguyên Korat tràn xuống tiêu diệt và
thành lập đế quốc Angkor. Đồng bằng sông Cửu Long trở thành một vùng đất
hoang, địa bàn sinh trú của các bầy thú dữ và rắn độc.
Trong
suốt thời kỳ hưng thịnh nhất của đế quốc Angkor, trung tâm chính trị và
văn hóa được thiết lập phía bắc hồ Tonlé Sap, quanh Battambang và Siem
Reap, nơi các đền Đế Thiên (Angkor Wat), Đế Thích (Angkor Thom) được xây
dựng. Gần như tất cả dân cư sinh sống quanh trung tâm này đều bị bắt về
làm nô lệ để xây dựng đền đài. Khi đế quốc Angkor bị người Xiêm La
(Thái Lan) tiêu diệt vào giữa thế kỷ 15, không người Khmer nào dám phiêu
lưu xuống đồng bằng sông Cửu Long lánh nạn hay lập nghiệp vì sợ rừng
thiêng nước độc. Gần như tất cả dân cư Khmer đều tập cư quanh nơi tiếp
giáp Biển Hồ và sông Mekong, tức thủ đô Pnom Penh ngày nay. Về sau, để
tránh cảnh lụt lội, một số di dân phiêu lưu xuống những gò đất cao
(giồng) tại Đồng Tháp và Châu Đốc định cư.
Mở rộng miền Đông
Theo Mak Phoeun (Histoire du Cambodge
de la fin du XVIe siècle au début du XVIIe, EFEO, Paris, tr. 178), cho
tới cuối thế kỷ 17 vùng đất phía Đông Nam, Prei Nokor (Gia Định) chỉ
chính thức được sáp nhập vào lãnh thổ vương quốc Chân Lạp dưới triều
Paramaraja III (1566-1576). Lý do là Paramaraja III muốn ngăn chặn sự
xâm nhập của người Champa (Chăm và Thượng) vào sâu trong nội địa Chân
Lạp, lúc đó đã có mặt đông đảo tại Barea (Bà Rịa) và Daung Nay (Đồng
Nai). Trong quá khứ, Chiêm Thành và Chân Lạp đã nhiều lần tranh chấp và
xâm chiếm lãnh thổ lẫn nhau. Đi theo đoàn quân này là một số nông dân
Khmer phiêu lưu đến Tuol Ta Mauk (Thủ Dầu Một) và Kanhchoeu (Cần Giờ)
khai khẩn đất hoang.
Để tách khỏi sự kềm chế của Xiêm La, năm
1620 Jayajettha II (1619-1627) muốn kết nghĩa sui gia với chúa Nguyễn ở
Đàng Trong bằng cách cho người sang Phú Yên xin cưới công chúa Ngọc Vạn.
Hậu ý của Jayajettha II là muốn được quân Việt tiếp cứu khi bị Xiêm La
tấn công, đây là một tính toán chiến lược quan trọng vì người Việt ở quá
xa lãnh thổ Chân Lạp nên không lo ngại bị xâm chiếm vì có vương quốc
Champa làm khu trái đệm. Trong thời kỳ này, Sãi Vương Nguyễn Phúc Nguyên
(1613-1635), đang tranh chấp với chúa Trịnh, rất cần nguồn lương thực
để nuôi quân ; có được một đồng minh chiến lược như Chân Lạp để làm hậu
cần thì không gì quí bằng. Cả hai đều ngại kết hợp với người Chăm tại
Panduranga để làm đồng minh. Bù lại, Jayajettha II nhượng cho Sãi vương
quyền khai thác lãnh thổ Prei Nokor trong vòng 5 năm để làm nơi thu mua
và vận chuyển hàng hóa (súc vật và lúa gạo) ra miền Trung. Kompong
Trabei (Bến Nghé, tức Sài Gòn hiện nay) là nơi tồn trữ súc vật.
Từ
1622 đến 1623, quân Xiêm La tiến chiếm khu vực tây-bắc Biển Hồ và xúi
giục các lãnh chúa địa phương chống lại Udong, thủ phủ Chân Lạp. Chống
không lại, Jayajettha II cử người sang xứ Đàng Trong cầu cứu. Sau vài
trận giao tranh, quân Xiêm bị đánh bật ra khỏi lãnh thổ, nhiều người bị
bắt làm tù binh. Từ đó vua Khmer rất cần sự hiện diện của quân Việt trên
lãnh thổ của mình, việc thu hồi hai nhượng địa Prei Nokor và Kompong
Trabei không còn đặt ra nữa. Để tăng cường địa bàn hậu cần này, chúa
Nguyễn đưa tù nhân bị đày biệt xứ và khuyến khích cư dân miền Bình Trị
Thiên vào đây lập nghiệp.
Năm 1627, khi Jayajettha II qua đời,
Chân Lạp trở nên loạn lạc. Anh em, chú bác và con cháu các dòng vương
tôn tranh ngôi báu lẫn nhau, tất cả đều nhờ Xiêm La hoặc Đàng Trong vào
can thiệp. Năm 1658 quân Xiêm tiến chiếm toàn bộ lãnh thổ phía tây-bắc
Biển Hồ, Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần (1648-1687) mang quân sang lấy lại.
Nhưng sự hiện diện của quân đội nước ngoài trên lãnh thổ Chân Lạp không
giải quyết được gì, các dòng vương tôn tiếp tục tranh chấp lẫn nhau ngôi
báu.
Năm 1674, Nặc Ông Nộn (Ang Nan hay Padumaraja) bị Nặc Ông
Đài (Jayachettha III), người anh con chú bác, nhờ quân Xiêm giúp chiếm
ngôi vua. Ông Nộn chạy sang Khánh Hòa (dinh Thái Khang) cấu cứu. Chúa
Hiền sai Nguyễn Dương Lâm (tổng trấn Khánh Hòa) và Nguyễn Đình Phái
(tham mưu) đưa Nặc Ông Nộn về chiếm lại Sài Gòn (Prei Nokor), Gò Bích
(Longvek) và Nam Vang (Phom Penh), rồi vây thành Long Úc (Oudong). Nặc
Ông Đài chạy vào rừng trốn, em là Nặc Ông Thu (Ang Sor hay Jayajettha
IV) ra hàng. Từ đó Chân Lạp bị chia ra làm hai : Nặc Ông Thu làm đệ nhất
vương cai trị vùng đất cao phía tây sông Mekong, thuộc ảnh hưởng của
Xiêm La, thủ đô đóng tại Long Úc ; Nặc Ông Nộn làm đệ nhị vương cai trị
vùng đất phía đông sông Mekong, tức miền Đông Nam phần (Châu Đốc, Đồng
Tháp, Gia Định), thuộc ảnh hưởng của chúa Nguyễn, thủ đô đặt tại Prei
Nokor (Sài Gòn). Nhưng tình hình vẫn không yên, cậy thế được quân Xiêm
hay quân Việt bảo vệ, lãnh tụ hai phe Khmer tiếp tục tranh chấp lẫn nhau
để giành độc quyền lãnh đạo lãnh thổ trung tâm. Cho đến gần cuối thế kỷ
17, khu vực Sài Gòn - Gia Định là một vùng tranh chấp, không thế lực
nào làm chủ quyền thật sự.
Năm 1679 hai vị tướng nhà Minh - Dương
Ngạn Địch (tổng binh quận Long Môn, tỉnh Quảng Tây) cùng phó tướng
Hoàng Tiến, và Trần Thượng Xuyên (tổng binh các quận Cao-Lôi-Liêm, tỉnh
Quảng Đông) cùng phó tướng Trần An Bình - không chịu hàng nhà Thanh,
mang 3.000 quân bản bộ đi trên 50 chiến thuyền tới bể Tư Dung (Đà Nẵng)
xin tị nạn, chúa Hiền chấp thuận và được đưa vào miền Đông khẩn hoang
đất mới. Dương Ngạn Địch và phó tướng Hoàng Tiến đem binh thuyền vào cửa
Soài Rạp và Đại Tiểu, đồn trú tại Lộc Dã (Đồng Nai), Mỹ Tho (Định
Tường) và Cao Lãnh (Cai Lậy). Trần Thượng Xuyên (Trần Thắng Tài) và Trần
An Bình cùng binh sĩ dừng lại ở cù lao Phố (Nông Nại Đại Phố, hay Đồng
Nai đại phố), Bàn Lân (Biên Hòa) và Đề Ngạn (Gia Định cũ) lập nghiệp.
Nhiều người Minh Hương tị nạn trước đó tại những làng xã dọc bờ biển
miền Trung cũng xin miền Đông lập nghiệp với hai binh đoàn này.
Từ
đó hai đoàn quân Minh triều cùng với người Minh Hương vỡ đất phá rừng,
đào kinh, cất phố, lập chợ, đưa văn hóa, văn minh và kỹ thuật cao của
Trung Hoa vào thẳng miền Nam Việt Nam. Họ chọn những vị trí thuận lợi
cho việc giao thông (những vùng đất cao cạnh mé sông) và tập trung khai
thác những vùng đất mới.
Cũng nên biết miền Đông vào thời này còn
rất hoang dã, nhiều huyền thoại của người Hoa còn lưu truyền cho đến
nay, như huyền thoại về các võ sư người Hoa đến đất Gia Định tìm long
mạch để khôi phục lại nhà Minh., từ đó xảy ra nhiều chuyện đấu võ giữa
các võ sư phái Thiếu Lâm Tự và các võ sư bản địa, nhất là với phái võ
Bình Định của Tây Sơn tại 18 thôn Vườn Trầu. Năm 1770 ông Tăng Ân, một
võ sư người Hoa, đánh cọp bằng tay không tại chợ Tân Cảnh (Gia Định).
Năm 1786, ông Võ Tánh đánh cọp tại thôn Vườn Trầu. Đất Gia Định thời đó
còn nổi tiếng về ma quái và bùa phép. Nhiều am miếu, chùa chiền của
người Hoa được xây dựng trong địa bàn Biên Hòa (cù lao Phố) và Gia Định
như chùa Quan Đế năm 1694, chùa Giác Lâm do Lý Thoại Long xây năm 1774,
chùa Kim Chương (hay Kim Chung) năm 1775, chùa Gia Thạnh năm 1789, Quan
Võ Miếu năm 1820, chùa Bà Thiên Hậu... để tạ ơn các vị thần và trấn áp
ma quỷ vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay.
Sau khi tạm ổn định cư
trú và muốn phát triển vùng đất mới, Trần Thượng Xuyên kêu gọi những
thương nhân gốc Hoa từ các quốc gia khác (Singapore, Mã Lai, Trung Hoa)
đến buôn bán và làm phát triển nền kinh tế của vùng đất mới. Thương
thuyền các nước Trung Hoa, Nhật Bản, Java qua lại trao đổi và buôn bán
rất tấp nập.
Trong giai đoạn này sự phân chia lãnh thổ cư trú
giữa các thành phần chủng tộc cũng khá đặc biệt. Quân và lưu dân Việt
Nam trú đóng mạn bắc Sài Gòn (Bà Rịa và Bến Nghé). Quân Minh triều cũ và
người Minh Hương đồn trú tại Gia Định, Biên Hòa, Mỹ Tho và Định Tường.
Dân chúng Khmer tập trung tại Phú Lâm và các làng xã dọc hai bờ sông Cửu
Long, đông nhất là tại Sóc Trăng. Ba thành phần sắc tộc này, do điều
kiện sinh kế, đã sống xen kẽ và nương tựa lẫn nhau. Người Khmer thích ở
nhà sàn, định cư trên những vùng đất cao (giồng), người Việt và Hoa
thích nhà trệt và sống trong các vùng đất thấp (đồng bằng). Sự giao lưu
giữa ba thành phần này có lúc rất hài hòa nhưng cũng có lúc rất gay go
vì ngôn ngữ và văn hóa bất đồng.
Năm 1698, Minh vương Nguyễn Phúc
Chu phong Nguyễn Hữu Kính làm Kinh lược sứ lãnh thổ miền Đông, ông lấy
xứ Đồng Nai làm huyện Phước Long, lấy xứ Sài Côn làm huyện Tân Bình, lấy
đất Biên Hòa lập Trấn Biên dinh và đất Gia Định lập Phiên Trấn dinh.
Ông chiêu mộ lưu dân ngũ Quảng (Quảng Bình, Thừa Thiên, Quảng Nam, Bình
Định và Phú Yên) vào khai khẩn đất hoang. Từ đó toàn bộ đất đai miền
Đông được sát nhập vào sổ bộ Việt Nam. Những thành phố, làng xã mang tên
Khmer đều được phiên âm ra tiếng Nôm (dựa theo cách phát âm của người
Hoa). Theo Trịnh Hoài Đức (Gia Định thành thông chí), vào đầu thế kỷ 18,
đất Gia Định rộng 1.000 dặm, dân số được hơn 40.000 hộ (200.000 người),
đa số là người di dân gốc Việt, số còn lại là người Hoa và Khmer sinh
sống bằng nghề buôn bán và làm rẫy.
Khai phá miền Tây
Năm 1671, một người Hoa tên Mạc
Cửu (Mạc Kính Cửu), quê ở Lôi Châu tỉnh Quảng Đông, mang cả gia đình,
binh sĩ và một số sĩ phu khoảng 400 người lên thuyền rời khỏi Phúc Kiến.
Sau nhiều ngày lênh đênh trên biển cả, phái đoàn Mạc Cửu đổ bộ lên một
vùng đất hoang trong Vịnh Thái Lan. Sau khi dò hỏi và biết vùng đất này
thuộc ảnh hưởng Chân Lạp, phái đoàn liền tìm đường đến Oudong xin tị
nạn, nhưng lúc đó nội bộ Chân Lạp có loạn. Mạc Cửu gặp Nặc Ông Thu (Ang
Sur, Jayajettha III) và ở lại hợp tác cho đến năm 1681. Vì không được
tin cậy, Mạc Cửu từ giả nhà vua và được chấp thuận khai khẩn vùng đất
hoang trong vịnh Thái Lan mà không phải trả một khoảng thuế nào. Cũng
nên biết trong giai đoạn này uy quyền của vua Chân Lạp không ảnh hưởng
gì trên những vùng đất ven biển, vịnh Thái Lan là nơi hành nghề của các
đám hải tặc gốc Hoa và Thái vì thương thuyền qua lại nơi này rất đông.
Mạc
Cửu là một người giỏi tổ chức. Nhận thấy có khả năng khai thác nguồn
lợi từ những đám hải tặc trong vịnh này mang lại, ông lập ra 7 sòng bạc
dọc bờ biển để kinh tài : Mán Khảm (Peam), Long Kỳ (Ream), Cần Bột
(Kampot), Hương Úc (Kompong Som), Sài Mạt (Cheal Meas), Linh Quỳnh (Rạch
Giá) và Phú Quốc (Koh Tral). Thủ phủ đặt tại Mán Khảm (cảng của người
Mán, rtức người Khmer), sau đổi thành Căn Khẩu (Căn Kháo hay Căn Cáo).
Tiếng đồn vang xa, lưu dân gốc Hoa từ khắp nơi trong vịnh Thái Lan xin
vào đây lập nghiệp, dần dần vùng đất này trở thành một lãnh địa phồn
vinh với tên gọi mới : Căn Khẩu Quốc. Đảo Koh Tral cũng đổi tên thành
Phú Quốc (vùng đất phú cường). Nhiều gia đình Khmer trong nội địa đã di
cư đến đây lập nghiệp và sinh sống bằng nghề phục dịch. Những tay phiêu
lưu giang hồ tứ xứ đến đầu quân dưới trướng Mạc Cửu ngày càng đông và là
một đe dọa uy cho quyền Xiêm La đang lên trong vùng.
Năm 1708
Mạc Cửu liên lạc được với Minh vương Nguyễn Phúc Chu và năm 1711 được
mời ra Huế tiếp kiến. Năm 1714, Mạc Cửu xin làm thuộc hạ của chúa Nguyễn
và được phong chức tổng binh cai trị đất Căn Khẩu. Năm 1724, Mạc Cửu
dâng luôn toàn bộ đất đai và được phong làm đô đốc cai trị lãnh thổ Căn
Khẩu, đổi tên thành Long Hồ dinh. Từ 1729, Long Hồ dinh nổi tiếng là
vùng đất trù phú nhất vịnh Thái Lan. Mạc Cửu mất (1735), con là Mạc Sĩ
Lân, sau đổi thành Mạc Thiên Tứ, được phong làm đô đốc, kế nghiệp cha
cai trị Long Hồ dinh. Gia đình họ Mạc được Ninh vương Nguyễn Phúc Trú
nâng lên hàng vương tôn. Long Hồ dinh đổi tên thành trấn Hà Tiên. Năm
1739, Mạc Thiên Tứ lập thêm bốn huyện : Long Xuyên (Cà Mau), Kiên Giang
(Rạch Giá), Trấn Giang (Cần Thơ) và Trấn Di (bắc Bạc Liêu).
Thời
bấy giờ nội bộ Chân Lạp tiếp tục có loạn, các vương tôn tranh nhau ngôi
báu. Mỗi dòng đều cậy nhờ quân Việt hoặc quân Xiêm vào giúp đỡ. Năm
1755, Nặc Nguyên nhờ Mạc Thiên Tứ dâng chúa Nguyễn lãnh thổ hai phủ Tầm
Bôn (Cần Thơ) và Lôi Lập (Long Xuyên) để được về Nam Vang cai trị. Năm
1758, chúa Nguyễn đưa Nặc Tôn (Ang Ton II) lên làm vua và được tặng thêm
lãnh thổ Tầm Phong Long (Châu Đốc và Sa Đéc). Nặc Tôn tặng riêng Mạc
Thiên Tứ lãnh thổ 5 phủ miền Đông-Nam Chân Lạp : Hương Úc (Kompong Som),
Cần Bột (Kampot), Trực Sâm (Chưng Rừm), Sài Mạt (Cheal Meas) và Linh
Quỳnh (vùng duyên hải từ xã Sré Ambel đến làng Peam), nói chung là toàn
bộ vùng biển ven duyên quanh đảo Phú Quốc, Mạc Thiên Tứ dâng hết cho Võ
vương Nguyễn Phúc Khoát. Thật ra đây là những vùng đất hoang, không
người Khmer nào sinh sống tại đây vì sình lầy và lụt lội quanh năm. Võ
vương sát nhập tất cả các vùng đất mới vào trấn Hà Tiên, giao cho Mạc
Thiên Tứ cai trị.
Từ đó các lãnh thổ miền Tây được qui thành ba
đạo : Đông Khẩu đạo (Sa Đéc), Tân Châu đạo (Tiền Giang) và Châu Đốc đạo
(Hậu Giang). Long Hồ dinh được chuyển về Tầm Bào (Vĩnh Long) thuộc Châu
Đốc đạo. Năm 1759, công cuộc bình định đất đai miền Nam xem như hoàn
tất.
Cộng đồng người Khmer dưới triều Nguyễn
Trong cuộc
tranh chấp giữa các vua chúa Chân Lạp, cộng đồng người Khmer tại miền
Nam giữ thái độ trung lập. Dân chúng Khmer thường tìm cách tránh xa nơi
nào có giao tranh, hoặc di cư về những vùng đất cao dọc hai bờ Tiền
Giang và Hậu Giang (Ba Thắc) sinh sống (Trà Vinh, Sóc Trăng ngày nay)
lập nghiệp. Khi thấy chúa Nguyễn bị quân Tây Sơn nhiều lần đánh bại
(1776-1777), cộng đồng người Khmer tại Trà Vinh có nổi lên ủng hộ nhưng
bị Đỗ Thành Nhân cùng binh đoàn Đông Sơn tàn sát rất dã man năm 1780. Từ
đó người Khmer giữ thái độ trung lập trong các cuộc tranh chấp giữa
người Việt và người Hoa tiến chiếm các tỉnh miền Đông và miền Tây, cộng
đồng người Khmer tránh xa những nơi hành quân và tranh chấp giữa quân
Việt và quân Pháp.
Dưới thời Gia Long (1802-1820), toàn bộ lãnh
thổ miền Nam tương đối ổn định. Khu vực biên giới giữa Việt Nam (Gia
Định, Vĩnh Thanh) và Chân Lạp , tuy chưa được phân chia một cách rõ ràng
nhưng rất ổn định. Chủ quyền trên các hải đảo trong vịnh Thái Lan cũng
đã rõ ràng : đảo Phú Quốc, đảo Thổ Châu thuộc về nhà Nguyễn. Toàn bộ
lãnh thổ Chân Lạp từ Phnom Penh đến hữu ngạn sông Hậu Giang (Kandal,
Takeo, Kocong) đặt dưới quyền bảo hộ của nhà Nguyễn.
Năm 1817,
Nguyễn Văn Thoại (Thoại Ngọc Hầu) tuyển mộ người Việt và người Khmer đào
kinh Núi Sập (Thoại Hà) từ Hậu Giang đến Rạch Giá. Từ đầu năm 1818,
tướng Lê Văn Duyệt chỉ huy 55.000 dân công, trong đó dân công Việt được
tuyển mộ ở Vĩnh Thanh và Định Tường do Thoại Ngọc Hầu điều khiển, dân
công Khmer tuyển mộ ở Trà Ôn (đồn Uy Viễn) do Nguyễn Văn Tồn (một tướng
gốc Khmer được Gia Long ban họ Nguyễn) chỉ huy đào kinh Vĩnh Tế, nối
liền Châu Đốc với Hà Tiên đến năm 1823 thì hoàn tất. Từ đó đồng bằng
sông Cửu Long đông đảo dần, người Việt và người Khmer sinh sống xen kẽ
với nhau. Các tỉnh Bến Tre, Trà Vinh, Vĩnh Long, Sa Đéc, Sóc Trăng, Long
Xuyên, Châu Đốc, Cần Thơ trở nên trù phú. Do đất đai còn rộng, nhiều
gia đình Khmer tự ý thay đổi chỗ ở khi có người Việt hoặc người Hoa đến
lập nghiệp kế bên. Cũng nên biết người Khmer rất tôn trọng sự thuần
chủng, những cuộc hôn nhân dị chủng, nhất là với phái nữ, rất khó được
chấp nhận. Thêm vào đó yếu tố tôn giáo cũng rất quan trọng, đa số người
Khmer theo văn hóa Ấn Độ và Phật giáo tiểu thừa nên không muốn có sự
chung chạ trong các lễ đưa nước, rước nước?
Dưới thời các chúa
Nguyễn và Gia Long, cộng đồng người Khmer hưởng qui chế tự trị. Sang
thời Minh Mạng, chính sách đồng hóa (về văn hóa), dưới tên gọi "nhất thị
đồng nhơn", nghĩa là phải coi họ là người (như chúng ta), được áp dụng
chung cho tất cả các sắc tộc, kể cả những cộng đồng người Khmer sinh
sống từ lâu tại miền Nam : Trà Ôn (Châu Đốc), Lạc Hóa (Cầu Kè, Tiểu
Cần), Ba Thắc (Sóc Trăng, Kế Sách), Ô Môn (bắc Cần Thơ), Hà Tiên. Quyền
hạn của giới tăng lữ Phật giáo tiểu thừa cũng bị giới hạn. Chịu không
nổi chính sách đồng hóa của Minh Mạng, năm 1820 nhiều lãnh tụ Khmer như
Achar Kuy (Chauvai Kuy), Teva Som ở Trà Cú kêu gọi dân chúng Khmer nổi
lên chống lại, tất cả đều bị dẹp trong biển máu. Từ sau khi Lê Văn Khôi
bị đánh dẹp năm 1835, cộng đồng người Khmer càng bị trù dập nhiều hơn :
phải sống cố định, phum, sóc đổi thành làng, xã và họ tên của mỗi người
phải được phiên âm tiếng Việt như Sơn, Thạch, Kim, Kiên?
Chính
sách đồng hóa này gây bất mãn trong cộng đồng người Khmer. Năm 1838, một
người tên Gi, giữ chức an phủ, và một viên quản cơ Khmer ở vùng biên
giới Hà Tiên-An Giang cấu kết với quân Xiêm chống lại triều đình ; cuộc
nổi dậy bị thất bại và tất cả các thủ lãnh đều bị giết. Năm 1840, người
Khmer tiếp tục chống đối ở vùng biên giới này, hàng ngàn người Khmer từ
núi Thất Sơn tràn qua biên giới đốt phá làng xã, chợ búa của người Kinh
tại Kiên Giang, Rạch Giá, Tri Tôn.
Dưới thời Thiệu Trị, những
cuộc nổi loạn của người Khmer xảy ra nhiều hơn, đặc biệt là tại Lạc Hóa
(Trà Vinh, Cầu Kè, Tiểu Cần, Cầu Chong), tức Trà Vinh (nay là Vĩnh
Bình). Cuộc nổi dậy kéo dài 7 tháng, từ tháng 3 đến tháng 10-1841, thủ
lãnh là Sana Som (Lâm Sum). Lâm Sum dùng bùa phép xui giục dân chúng
Khmer địa phương theo nếu không sẽ bị hại, đa số người Khmer vì sợ thần
thánh đã nghe theo. Khoảng 8.000 quân nổi loạn chiếm cứ một vùng đất dài
hơn 30 km dọc hai bờ sông Hậu Giang. Thừa thắng xông lên, dân chúng
Khmer sinh sống tại Sóc Trăng, Ba Xuyên, Trà Tâm, Sóc Sâm do Sana Tía
lãnh đạo và tại Thất Sơn, Vĩnh Tế, Rầy Đéc, Cần Sư, Tịnh Biên, Hà Dương,
Hà Âm, được quân Xiêm La do Phi Nhã Chất Tri (Chakri) lãnh đạo, cũng
nổi lên chống lại quân triều đình. Nhà Nguyễn phải gởi những tướng nổi
tiếng nhất của triều đình thời đó (Bùi Công Huyên, tổng đốc, tham tán
trấn Tây Thành, Nguyễn Tấn Lâm, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Tri Phương,
Trương Minh Giảng) đến dẹp, tất cả đã phải rất khó khăn mới dẹp được
yên.
Từ sau 1842, quan quân triều Nguyễn tỏ ra rất dè dặt với
người Khmer, người Kinh từ miền Trung và những tội nhân thường phạm được
ồ ạt đưa vào sống xen kẽ với người Khmer tại Lạc Hóa, Ba Xuyên, Tịnh
Biên, nhiều kinh lạch được đào thêm để sự di chuyển của quân đội được dễ
dàng, đặc biệt là trên kinh Long An Hà, nhiều đồn điền quân sự được
thành lập dọc vùng biên giới (Giang Thành, Vĩnh Tế). Cộng đồng người
Khmer tại đồng bằng sông Cửu Long bị cô lập hoàn toàn với triều đình
Chân Lạp. Nói chung, cho đến khi Pháp chiếm đóng Lục Tỉnh, toàn bộ đồng
bằng sông Cửu Long đã được tổ chức rất nề nếp, mỗi địa phương quan trọng
đều có một quan gốc Kinh cai trị.
Dưới thời Pháp thuộc, khu vực
biên giới miền Nam và Cambodge đã được xác định lại khá rõ ràng. Tại một
vài nơi như Cà Mau và Rạch Giá, người Pháp để người Khmer cai quản
người Việt nên đã xảy ra nhiều cuộc tranh chấp đáng tiếc giữa hai cộng
đồng năm 1868. Tuy nhiên đời sống người Khmer trong thời kỳ này thấp hơn
người Kinh, vì người Khmer rất sợ giới quan quyền nên chịu nhiều thiệt
thòi về ruộng đất và quyền lợi. Thêm vào đó, các quan chức Pháp rất coi
thường người Khmer vì cho rằng không có kiến thức, trừ những người đã có
chức phận từ thời nhà Nguyễn. Tên họ những người Khmer bị đặt một cách
tùy tiện như Danh cho đàn ông và Thị cho đàn bà.
Trong những năm
mất mùa vì lụt lội hay bão tố, cộng đồng người Khmer đã cùng người Kinh
nhiều lần nổi lên chống lại những chính sách ức hiếp của người Pháp như
năm 1928 tại Rạch Giá (vụ Ninh Thạnh Lợi) chống tịch biên ruộng đất và
đòi dân sinh do chủ điền Chọt, Mốc và Cồ Cui cầm đầu. Nhưng nói chung,
cộng đồng người Khmer vẫn thích sống tách biệt với cộng đồng người Việt
và người Hoa. Trong thập niên 1940 phong trào Việt Minh có tiếp cận cộng
đồng này, nhưng không đạt hiệu quả mong muốn, chỉ vài người như Lâm
Phát (phó chủ tịch ủy ban hành chánh kháng chiến tỉnh Cửu Long), Maha
Thông (hội trưởng hội Khmer Issarak), Thạch Ngọc Biên đã tỏ ra tích cực
hợp tác. Tại một vài nơi, quân đội Pháp không dám vào Cầu Kè, Cầu Ngang,
Hòa Tú, Lộc Hòa, Trường Khánh, Trà Vinh do Việt Minh chiếm giữ.
Trong một bài viết khác của ông Huy có nhiều tình tiết rất đang lưu ý (trích)
Ngày
Nay: Trong chuyện tranh giành biên giới, một số dư luận Miên (kể cả cựu
hoàng Sihanouk) nói Phú Quốc thuộc về họ, có đúng không ?
Ts Nguyễn Văn Huy: Không đúng.
Năm
1681, một phái đoàn người Minh Hương tị nạn, do Mạc Cửu dẫn đầu, đổ bộ
vào vùng Panthais, trong eo biển Vịnh Xiêm La, tức lãnh thổ Hà Tiên ngày
nay. Họ đã không gặp một cư dân nào và cũng không biết vùng đất này
thuộc về ai. Đúng là một vùng đất vô chủ (terra nullus). Sau nhiều ngày
đi sâu vào nội địa, gần đến địa phận Oudong, phái đoàn mới gặp được các
vị vương Khmer, lúc đó đang tranh chấp ngôi vị với nhau. Mạc Cửu giúp
Jayachetta III chiếm lại ngôi vua và được quyền khai thác toàn bộ vùng
duyên hải trong vịnh Xiêm La. Mạc Cửu đã tìm được bảy địa điểm cao ráo,
từ Hà Tiên đến Kompong Som ngày nay, để thành lập những sòng bài thu hút
số tiền do những đám hải tặc, đa số là người Hoa, đang hoành hành trong
vịnh Xiêm La. Không ngờ, với thời gian, vùng đất này trở thành sầm uất.
Khách giang hồ tứ xứ nườm nượp đến đây lập nghiệp và giúp Mạc Cửu xây
dựng một vùng đất phú cường. Đảo Phú Quốc (tên Khmer là Koh Tral), trước
kia la một đảo hoang, trở thành địa điểm họp mặt của những tay giang hồ
trao đổi hàng hóa do cướp giựt hay thu mua từ khắp nơi mang về. Lãnh
thổ do Mạc Cửu lãnh đạo mang tên Căn Khẩu, và là một đe dọa cho chính
quyền Ayuthia, thủ đô Xiêm La do Trình Quốc Anh, một người Minh Hương
khác, đang giữ quyền lãnh đạo. Trong suốt giai đoạn này, không một người
Khmer nào xuất hiện để tranh giành ảnh hưởng với Mạc Cửu. Lo sợ bị quân
Xiêm tấn công, năm 1714 Mạc Cửu xin thần phục Minh Vương Nguyễn Phúc
Trăn và được giao quyền lãnh đạo Căn Khẩu quốc. Năm 1724, sau khi chúa
Nguyễn đánh bại quân Xiêm tại Căn Khẩu, Mạc Cửu xin dâng toàn bộ vùng
đất này. Căn Khẩu Quốc đổi tên thành Long Hồ Dinh, thủ phủ đặt tại Hà
Tiên. Con Mạc Cửu là Mạc Thiên Tứ (tên thật là Mạc Sĩ Lân) được nhìn
nhận là truyền nhân của dòng họ Mạc. Dưới thời Mạc Thiên Tứ, lãnh thổ
Long Hồ phát triển và được nới rộng thêm đến Long Xuyên và Cà Mau ngày
nay.
Một tình cờ khác là năm 1739, Nặc Nguyên (Ang Sgnuon), một
vương tôn Khmer, bị chúa Nguyễn đánh bại và được Mạc Thiên Tứ xin khoan
hồng, đã tặng riêng Mạc Thiên Tứ lãnh thổ Tầm Bôn (Cần Thơ) và Lôi Lập
(Long Xuyên), một hình thức để hợp thức hóa bốn huyện do Mạc Thiên Tứ
thành lập từ lâu để tạ ơn. Năm 1758, một vương tôn khác tên Nặc Tôn (Ang
Ton) nhờ Mạc Thiên Tứ giúp lên ngôi. Sau khi thành công Nặc Tôn đã tặng
chúa Nguyễn vùng đất Tầm Phong Long (Châu Đốc) để tạ ơn và tặng riêng
Mạc Thiên Tứ vùng bờ biển trong vịnh Xiêm La, từ Kompong Som đến Rạch
Giá. Tiến trình hợp thức hóa quyền làm chủ toàn bộ lãnh thổ miền Nam,
tức đồng bằng sông Cửu Long, đến năm 1758 coi như hoàn tất.
Vấn đề là
giới trí thức và chính trị Khmer, mặc dù biết rõ việc này, đã lờ đi coi
như không có. Những người Khmer quá khích, kể cả Norodom Sihanouk,
không muốn nhắc lại giai đoạn u tối này trong lịch sử của họ, và chỉ
nhắc lại với người Pháp gia đình họ yêu cầu Pháp bảo hộ và dựa vào thế
lực của Pháp đòi lại những vùng đất đã mất, tức một phần lãnh thổ Đắc
Lắc, vùng đất quanh Tây Ninh và Mỏ Vẹt, và nhất là chủ quyền trên đảo
Phú Quốc, vì những nguồn lợi dưới lòng biển mà người Khmer tin rằng có
dầu lửa.
Nói tóm lại, việc đòi chủ quyền trên đảo Phú Quốc là không đúng và trái với sự thật lịch sử.
Ngày Nay: Chủ quyền của Việt Nam trên Vịnh Xiêm La tỏa rộng đến đâu ?
Ts
Nguyễn Văn Huy: Xin nhắc lại là cho đến năm 1914, chủ quyền của Việt
Nam trên vịnh Xiêm La kéo dài từ Kompong Som (Hương Úc hay Vũng Thơm)
đến Hà Tiên. Sự kiện này có thể làm người Khmer thất vọng và phẫn nộ
nhưng đó là sự thật.
Sau khi tiêu diệt Phù Nam cuối thế kỷ thứ 7, đầu
thế kỷ thứ 8, vương triều Angkor bỏ rơi Oc Eo để thành lập đế đô tại
khu vực Battambang-Siemreap, một vùng đất sình lầy nhưng gần các núi đá
hoa cương, phía Tây-Bắc Biển Hồ (Tonlé Sap). Trong suốt bảy thế kỷ cầm
quyền, các triều vương Angkor chỉ lo tổ chức chiến tranh để bắt thêm nô
lệ về xây dựng đền đài. Vùng đất dọc vùng duyên hải Vịnh Xiêm La trở nên
hoang vắng vì không còn dân cư cho đến cuối thế kỷ 17 khi phái đoàn Mạc
Cửu đổ bộ lên đất liền năm 1681. Từ sau ngày đó, người Hoa sau đó là
người Việt làm chủ vùng đất này trong suốt hơn 300 năm và biến thành một
vùng đất phồn vinh. Chính sự phồn vinh này đã làm người Khmer thèm muốn
và bằng mọi giá muốn thu hồi lại. Sự tranh chấp về mặt hành chánh và
quân sự giữa miền Nam và Cambodge buộc chính quyền thuộc địa Pháp ban
hành thông tư ngày 31-1-1939 xác định lãnh hải phân chia hai vùng đất là
một đường thẳng từ kinh tuyến 104 : toàn bộ các đảo phía Bắc kinh tuyến
này thuộc vương quốc Cambodge, toàn bộ hải đảo phía Nam kinh tuyến này
thuộc về Nam Kỳ. Đường phân ranh này được tôn trọng cho đến 1958.
Về
việc phân chia lãnh hải và đảo Phú Quốc bắt đầu từ kinh tuyến 104 và vĩ
tuyến 10 là một sự thật hiển nhiên. Người Khmer chưa bao giờ làm chủ đảo
Phú Quốc mặc dù đảo này nằm sát cạnh vùng duyên hải hiện hành so với
Việt Nam chỉ vì một lý do giản dị : dân tộc Khmer chưa bao giờ là một
dân tộc hàng hải và sống bằng nghề đánh cá biển. Người Khmer chỉ bắt đầu
làm quen với biển cả khi được Pháp bảo hộ, và họ chỉ hành nghề đánh cá.
Việc biên phòng lãnh hải đều do hải quân Pháp đảm nhiệm.
Tháng
2-1958, hải quân Khmer đã đơn phương chiếm đóng các đảo Hòn Tai và Hòn
Tre Nam và tháng 3-1960 chiếm đóng quần đảo Phù Du gồm Hòn Nang Trong và
Hòn Nang Ngoài) để chuẩn bị cho phe cộng sản Bắc Việt đưa người người
và vũ khí vào miền Nam. Lực lượng hải quân Việt Nam Cộng Hòa đã chiếm
lại các hòn đảo nói trên và kiểm soát luôn mọi ngỏ ra vào bằng đường
biển trong Vịnh Xiêm La. Tình trạng này chỉ chấm dứt sau năm 1975 khi
lực lượng hải quân Việt Nam di tản ra nước ngoài và lực lượng hải quân
Khmer đỏ liền thay thế và chiếm đóng một số hải đảo quanh đảo Phú Quốc
cho đến cuối năm 1978.
Giới đối lập Khmer hiện nay vẫn tiếp tục
phản bác sự phân chia này vì cho rằng bất công và không phù hợp với
những nguyên tắc công pháp quốc tế, và phản bác luôn những văn kiện về
lãnh hải đã chính thức ký kết với Việt Nam tháng 7-1982, và thỏa thuận
bổ sung ngày 10-10-2005 vừa qua. Để làm gì ? Họ muốn làm rùm beng một sự
kiện không quan trọng để che giấu những tranh chấp nội bộ giữa các phe
phái chính trị, nhất là sự ghen tức với đương kim thủ tướng Hun Sen,
được chính quyền cộng sản Việt Nam ủng hộ.
Vượt lên những tranh
chấp chính trị trong nội bộ chính quyền Khmer, chúng ta, người Việt Nam,
chỉ yêu cầu những người Khmer nhìn lại sự thật lịch sử để tránh những
va chạm vô ích và không cần thiết giữa hai quốc gia và hai dân tộc trong
quá trình chia sẻ một tương lai chung trong vùng Đông Nam Á. Nếu những
người Khmer quá khích tiếp tục đòi xét duyệt lại các đường biên giới
theo nguyên tắc uti possidetis juris thì lãnh thổ Việt Nam kéo dài đến
cảng Kompong Som (Sihanoukville) ngày nay. Lịch sử Đông Dương không thể
bắt đầu từ sau khi Campuchia bị Pháp bảo hộ năm 1863, và đó cũng không
phải là một ngày không vinh quang gì cho dân tộc Khmer.
______________
Nguyễn Văn Huy là tiến sỹ dân tộc học và giáo sư tại Đại học Paris.
Theo:
Ttvnol
Song Jung Nam: Lịch sử mở rộng lãnh thổ về phía Nam của Việt Nam (1009-1847)
GS.TS. Song Jung Nam
Trường Đại học Ngoại ngữ Hàn Quốc
I. MỞ ĐẦU
Việc mở rộng lãnh thổ của
Việt Nam được tiến hành chủ yếu về phía Nam bởi hai nguyên nhân chính là
dùng triết lý sức mạnh và do yếu tố địa chính học. Nguyên nhân thứ nhất
cụ thể là sự hùng mạnh của Trung Quốc, nguyên nhân thứ hai là dãy
Trường Sơn.
Với
mục đích chính trị – kinh tế, khi tiến hành quá trình mở mang lãnh thổ
và tăng cường sức mạnh của mình, Việt Nam đã không thể tiến lên phía Bắc
vì có Trung Quốc mạnh hơn mình. Vô hình trung, Việt Nam không còn cách
nào khác là phải chống lại quá trình mở mang lãnh thổ về phía Nam của
Trung Quốc và kết quả là Việt Nam đã phải trải qua một quá trình lịch sử
đấu tranh lâu dài.
Mặt khác, Việt Nam cũng đã
mấy lần thử tiến về phía Tây là nước Lào với mục đích và nguyên nhân như
đã nêu trên nhưng giữa hai nước có dãy núi dài hiểm trở nên không được
như mong muốn. Kết quả là Việt Nam và Lào tiếp tục duy trì mối quan hệ
hữu nghị truyền thống bất chấp quy luật lịch sử “giữa các nước láng giềng không có quan hệ tốt”.
Dù thế, trong lịch sử, quan
hệ giữa hai nước Việt Nam và Lào không hẳn đều tốt đẹp. Dưới triều đại
Hậu Lê hay triều đại nhà Nguyễn, Việt Nam đã hợp nhất một phần lãnh thổ ở
phía Đông Bắc Lào với vùng biên giới của mình. Tuy nhiên, mức độ và số
lần căng thẳng về chính trị không nhiều và sâu sắc, đất chiếm lĩnh thì
chưa được khai thác, dân số của Lào ít nên sau khi chiếm lĩnh được cũng
không đủ lực lượng lao động tại chỗ để khai thác. Hơn nữa, có nhiều lý
do nên không thu hút được dân nước mình khai thác vùng đất đó nên việc
tiến sang Lào của Việt Nam không dễ dàng. Tương tự, triều Nguyễn đã lấy
đất của Lào và nhập vào lãnh thổ của mình 6 trấn là Trấn Man, Trấn Biên,
Trấn Ninh, Trấn Tĩnh, Trấn Định, Lạc Biên và rồi trả lại cho Lào khi
Pháp tiến vào (2).
Vì khó tiến lên phía Tây Bắc
nên Việt Nam tiến về phía Nam là một kết quả tất yếu. Ở đây, so với các
nước ở phía Nam, Việt Nam chiếm ưu thế về sức mạnh, so với phía Tây Bắc
thì không tồn tại trở ngại nào, sau khi chiếm lĩnh có thể khai thác mở
rộng bằng lực lượng lao động phong phú tại chỗ. Không những thế, về mặt
địa lý, phía Nam nối liền với đường biển rất thuận tiện nên dễ tiến hơn
đường bộ. Việc chinh phục được Champa hiếu chiến là đỉnh cao của vị thế
và sự phát triển của Việt Nam.
Cũng như lịch sử trường kỳ
của Việt Nam, việc mở rộng lãnh thổ mất thời gian dài. Trong thời gian
đó, việc mở rộng lãnh thổ bắt đầu từ triều nhà Lý. Bài nghiên cứu này
xem xét việc mở rộng lãnh thổ về phía Nam của triều đại hậu Lê, thời kỳ
mà công cuộc mở mang lãnh thổ được tiến hành sâu rộng và mạnh mẽ nhất
trong lịch sử Việt Nam.
Nhà Lý là triều đại tồn tại
lâu nhất trong lịch sử Việt Nam, ngoại trừ 100 năm hưng thịnh, còn lại
đều là thời kỳ bất ổn. Việc mở rộng lãnh thổ dưới triều đại Lý được hoàn
thành trong 260 năm, thời kỳ bất ổn định bởi Trịnh – Nguyễn phân tranh,
tức là thời kỳ đối lập và phân chia Nam Bắc.
Tài liệu tham khảo của bài nghiên cứu này là Đất
nước Việt Nam qua các đời của Đào Duy Anh, Việt Nam quốc hiệu và cương
vực qua các thời đại của Nguyễn Đình Đầu, Khảo sát chế độ đất đai và mở
rộng lãnh thổ phía Nam Việt Nam và Quốc hiệu và lãnh thổ của Việt Nam của Song Jung Nam (3).
Khác với các bài nghiên cứu
trước, bài nghiên cứu này mang tính phức hợp và xem xét đến các vấn đề
lịch sử trong giới hạn một thời đại và một chủ đề, đồng thời có mục đích
phân tích tính chất thời đại trong việc mở rộng lãnh thổ – vấn đề chưa
được đề cập trong các bài nghiên cứu trước. Để thực hiện mục đích này,
bài viết phân chia thời kỳ trước và sau khi chúa Trịnh và chúa Nguyễn – 2
nhà quyền lực dưới 1 triều đại trong 1 quốc gia – phân tranh quyền lực
và xem xét bối cảnh, quá trình triển khai, tính chất của việc mở rộng
lãnh thổ trong từng thời kỳ. Ở thời kỳ trước khi Trịnh Nguyễn phân
tranh, trong mối liên hệ với thời kỳ sau, chúng tôi xem xét đến thời
điểm việc mở rộng lãnh thổ được triển khai; Thời kỳ sau Trịnh Nguyễn
phân tranh, bài viết sẽ xem xét đến khi Pháp tiến vào ngăn chặn việc mở
rộng lãnh thổ của Việt Nam.
II. THỜI KỲ TRƯỚC KHI PHÂN CHIA NAM BẮC
Ngay sau thời kỳ Bắc thuộc
tức là sau thời kỳ thuộc địa của Trung Quốc thì ranh giới phía Nam của
Việt Nam là Hà Tĩnh. Lợi dụng lúc nước Đường khó giữ được An Nam bởi
tình hình hỗn loạn nghiêm trọng cuối thời Đường như sự xâm chiếm Java,
Chiêm Thành, Nam Triều, Campuchia và sự nổi dậy của An Nam… cũng là lúc
mà Chiêm Thành đang ở trong thời kỳ hưng thịnh mở rộng lãnh thổ từ Ai
Vân (còn gọi là Hải Vân) đến Hoành Sơn, nay được phỏng đoán là đã quyết
định Indrapura của huyện Thăng Bình tỉnh Quảng Nam làm thủ đô (4).
Việc mở rộng lãnh thổ về
phía Nam được bắt đầu từ thời kỳ Việt Nam có vương triều độc lập. Nhưng
vì thời gian tồn tại của Ngô, Đinh, Tiền Lê ngắn và chưa được vững vàng,
thiếu chuẩn bị nên lãnh thổ không có thay đổi gì kể cả phía Nam. Trong 3
triều đại kể trên thì triều đại Tiền Lê đã viễn chinh đến thủ đô của
Chiêm Thành nhưng không thể mở rộng được lãnh thổ. Nhưng kể từ đấy,
Chiêm Thành đã trở thành nước triều cống của Việt Nam (5).
Trong lịch sử Việt Nam, việc
mở rộng lãnh thổ về phía Nam được bắt đầu từ năm 1069 dưới triều đại Lý
– triều đại đầu tiên có thời gian tồn tại lâu nhất. Kết quả là Chiêm
Thành đã nhường 3 châu Bố Chánh, Địa Lý, Ma Linh (6). Căn cứ vùng đất
thuộc Địa Lý ở huyện Lê Ninh, tỉnh Quảng Bình, Ma Linh ở huyện Bến Hải,
tỉnh Quảng Trị, Bố Chính ở huyện Quảng Trạch, Bố Trạch, Tuyên Hóa tỉnh
Quảng Bình thì có thể nói là triều đại Lý đã mở rộng lãnh thổ phía Nam
đến tỉnh Quảng Trị ngày nay. Năm 1075, Địa Lý và Ma Linh đã đổi tên
thành châu Lâm Bình và Minh Linh (7). Năm 1104, với sự xâm lược của
Chiêm Thành 3 châu này bị chiếm mất nhưng ngay sau đó với sự tấn công
của Lý Thường Kiệt, Việt Nam đã giành lại được (8).
Năm 1307, thông qua cuộc hôn
nhân với Chế Mân –vua của Chiêm Thành, Trần Nhân Tông đã nhận được châu
Ô, Lý. Đại Việt sử ký toàn thư có ghi “Trước đây vua Chiêm Thành là
Chế Mân đem đất đó làm lễ vật dẫn cưới, dân các thôn La Thủy, Tác Hồng,
Đà Bồng không phục, vua bèn sai Đoàn Nhữ Hài đến đó để tuyên thị đức ý
của triều đình, chọn dân ở đấy ban cho chức quan, cấp cho ruộng vườn,
miễn tô thuế 3 năm để vỗ về” (9).
Trong lịch sử chinh phục
Chiêm Thành của Việt Nam, việc nhận được lãnh thổ do nhà trai cho nhà
gái là việc lấy lãnh thổ thông qua quan hệ hữu nghị (10). Chúng tôi sẽ
đề cập sau, trong lịch sử cũng có sự kiện tương tự như thế nhưng lại kết
thúc bởi sự di trú của người dân thông qua quan hệ hôn nhân. Năm sau
đó, triều đại nhà Trần đã đổi vùng đất này thành Thuận Châu (bây giờ là
Quảng Trị), Hóa Châu (bây giờ là Thừa Thiên Huế) (11). Triều đại nhà
Trần vì phải đương đầu với 3 cuộc xâm lược kéo dài và quyết liệt của
quân Mông Cổ nên cũng như các triều đại trước và sau đó, ngoài trường
hợp trên, Việt Nam không nhận được một tất đất nào từ Champa. Ngược lại,
do bị tổn thất nặng nề trong thời kỳ chiến tranh chống Mông Cổ và sự
mạnh lên của Chiêm Thành, Thăng Long đã vài lần phải lâm vào thế tự vệ
và thậm chí năm 1368 còn bị Chiêm Thành yêu cầu trả lại châu Hóa – một
phần trong lãnh thổ là lễ vật hôn thú trước đây.
“Tháng 2 năm 1368, Chiêm Thành sai Mục Bà Ma sang đòi lại đất biên giới Hóa Châu” (12).
Với yêu cầu này của Chiêm
Thành, trước hết nhờ sức mạnh sẵn có nhưng Việt Nam còn có tư cách đòi
phạt hay bồi thường đối với một phần lễ hôn thú bị mất. Kết hôn chưa
được một năm thì vua Chiêm Thành mất, theo phong tục Suttee của Ấn Độ,
công chúa phải chết cùng với vua, phía Việt Nam đã dùng mưu lược phục
thù nhằm cứu công chúa (13).
Việc mở rộng lãnh thổ về
phía Nam cũng được tiếp tục với triều Hồ. Năm 1402, nhà Hồ xâm chiếm
Chiêm Thành và nhận được Chiêm Động chia thành hai châu Thăng và Hóa;
đồng thời nhận được Cổ Lũy chia thành 2 châu Tư và Nghĩa 14. Châu Thăng
và Hóa ngày nay thuộc huyện Duy Sơn, Quế Sơn, Tam Kỳ Thăng Bình của tỉnh
Quảng Nam, Châu Tư và Nghĩa nay thuộc huyện Đức Phổ, Mộ Đức, Tư Nghĩa,
Sơn Tịnh, Bình Sơn của tỉnh Quảng Ngãi. Điều này có nghĩa là lãnh thổ
phía Nam Việt Nam được mở rộng đến Quảng Nam và Quảng Ngãi.
Nhưng khi nhà Minh cai trị thì khu vực này bị Chiêm Thành chiếm lại. Đại Việt sử ký toàn thư có ghi “Minh
Vĩnh Lạc thứ 12, Phủ Thăng Hoa tuy có đặt quan, nhưng Chiêm Thành vẫn
có trưởng lộ chiếm giữ, nên nhà Minh chỉ ghi tên không mà thôi (15). Đào
Duy Anh đã lấy ở Hoàng Minh thực lực và đưa ra bằng chứng về điều này
“Năm Vĩnh Lạc thứ 13, tháng 11, vua nước Chiêm Thành là Chiêm Ba Dịch
Lai… lại xâm đoạt đất 4 châu 11 huyện thuộc phủ Thăng Hoa đuổi cướp nhân
dân” (16).
Trong lịch sử Việt Nam,
triều đại hậu Lê là triều đại có được nhiều lãnh thổ nhất. Kết quả là
Việt Nam có lãnh thổ gồm phần phía Nam ngày nay. Việc mở rộng lãnh thổ
của triều đại hậu Lê có thể chia thành 100 năm hưng thịnh và 260 năm suy
vong. Ở chương này chủ yếu tập trung vào thời kỳ hưng thịnh.
Năm 1470, Lê Thánh Tông đem
26 vạn đại quân chiếm Chiêm Thành và năm 1471 đã lấy lại 4 châu Thăng,
Hoa, Tư, Nghĩa bị mất trong thời gian cai trị của nhà Minh đặt tên gọi
là Quãng Nam thừa tuyên (17). Ngoài ra, qua cuộc viễn chinh này, vua Lê
Thánh Tông đã chiếm được vùng đất từ Hoài Nhân đến đèo Cù Mông (18). Do
đó, Việt Nam đã mở rộng lãnh thổ đến Bình Định ngày nay, và năm 1490 đưa
Quảng Nam và Thăng Hoa nhập vào lãnh thổ đã chiếm được (19).
Cuộc viễn chinh lớn vào năm
1470 đã giúp cho Việt Nam sau này có bàn đạp để có thể dễ dàng hợp nhất
Chiêm Thành. Ngoài lãnh thổ chiếm được, Việt Nam chia Chiêm Thành thành 3
khu vực Nam Bàn, Hoa Anh, Phiên Lung vốn đã chịu nhiều thất bại nặng nề
(20) để có thể dễ dàng hợp nhất khu vực này vào bất cứ lúc nào. Cụ thể
là Việt Nam cho Nam Bàn nhập vào Gia Lai, Kon Tum, Đắc Lắc; Hòa Anh vào
Phú Yên, Khánh Hòa; Phiên Luân vào Ninh Thuận thuộc Phan Rang. Việt Nam
đã phân ly Chiêm Thành thành 3 vùng ban sắc phong cho 3 vua và đặt nền
móng cho việc hợp nhất Chiêm Thành. Ngoài ra, trong thời kỳ hưng thịnh
triều đại hậu Lê cũng đã mở rộng lãnh thổ về phía Tây. Khác với cách xâm
lược và hợp nhất như khi mở rộng lãnh thổ ở phía Nam, ở đây có tính
chất lệ thuộc và hợp nhất nhiều hơn.
Vào năm 1353, Angcowat độc
lập, ở vương quốc Lan Xang của Lào có bộ lạc Bồn Man ở khu vực trung tâm
Quảng Bình thuộc Sơn La – vùng tiếp giáp với biên giới Việt Nam. Tộc họ
Câm cai trị khu vực này nhiều đời và có quan hệ đối ngoại với Việt Nam
từ thế kỷ 15. Năm 1447, theo đề nghị quy phục của Bồn Man, Việt Nam đã
tiếp thu điều này và đổi thành châu Quy Hợp (21) nhập vào phủ Lâm An
(22). Cho dù bị quy phục Việt Nam nhưng cũng như lúc quy phục Lan Xang,
vùng này vẫn được công nhận là tự trị như trước (23). Đất này bị hợp
nhất cho đến khi Việt Nam bị Pháp xâm chiếm.
Sau vương triều độc lập, đến
thời kỳ hưng thịnh của triều đại hậu Lê, việc mở rộng lãnh thổ của Việt
Nam được tiến hành trong điều kiện năng lực quốc gia yếu kém. Cho dù là
triều đại độc lập, nhưng thời kỳ Ngô, Đinh, tiền Lê ở trong tình thế bị
đóng khung trong một quốc gia, thời nhà Trần thì tuy là một đất nước có
một không hai trên thế giới có khả năng đẩy lùi quân Mông Cổ 3 lần
nhưng vì hậu quả chiến tranh, gặp phải nhiều khó khăn nên không thể tiến
hành mở rộng lãnh thổ bằng vũ lực.
Việc mở rộng lãnh thổ có
tính cách hợp nhất vĩnh viễn đã đẩy mạnh sự phát triển của Việt Nam
thông qua sự di trú của người Việt và chính sách phái quan lại người
Việt làm quản lý và tiến hành Việt Nam hóa người bản địa. Với sự lệ
thuộc của Bồn Man, lãnh thổ của Lào được sát nhập vào lãnh thổ Việt Nam
và tuy chính sách phát triển thông qua sự di trú của người dân như ở
phía Nam cho dù không được thực hiện nhưng Việt Nam phái người quản lý
tới địa phương để trực tiếp quản lý đã cho thấy tính chất chiếm lĩnh
vĩnh viễn ở đây. Để dàn xếp sự chống đối của Bồn Man, từ năm 1460 Lê
Thánh Tông đã nhiều lần gửi quân đội đến trấn áp, thậm chí tháng 8 năm
1479 đã điều động 18 vạn đại quân bình định đến Luang Prahang (24). Năm
1474, chính sách di trú người Việt tới khu vực Chiêm Thành ra sắc chỉ
rằng: Tù nhân bị tội lưu, ở châu gần thì sung làm quân vệ Thăng Hoa, ở
châu ngoài thì sung làm quân vệ Tư Nghĩa, ở châu gần thì sung làm quân
vệ Hoài Nhân, những kẻ được tha tội cũng sung làm quân vệ Hoài Nhân
(25).
Đặc trưng của việc mở rộng
lãnh thổ trong thời gian này có khác với thời kỳ suy thoái là đối tượng
mở rộng lãnh thổ là ngoài một phần của Lào ra chỉ giới hạn trong khu vực
Chiêm Thành. Kết quả là Chiêm Thành ở vùng đệm nên có thể duy trì quan
hệ đối ngoại giữa Thái Lan, Campuchia với Việt Nam. Nhưng thời kỳ sau,
đối tượng mở rộng lãnh thổ đến cả Campuchia, quan hệ giữa Việt Nam –
Campuchia hay Việt Nam – Thái Lan trở thành mối quan hệ đối lập sâu sắc,
thậm chí Campuchia là trục chiến lược trong sự cạnh tranh của Việt Nam
và Thái Lan.
III. THỜI KỲ SAU PHÂN CHIA NAM BẮC
Việc mở rộng lãnh thổ trong
lịch sử Việt Nam được thực hiện sôi động, nhanh và trong phạm vi rộng
lớn nhất là vào thời kỳ Trịnh – Nguyễn phân tranh. Việc mở rộng lãnh thổ
trong thời kỳ này hay được triển khai với mục đích cơ bản vốn có nhưng
có thể thấy được sự khác nhau với thời kỳ trước ở chỗ được tiến hành
trong sự chia rẽ và đối lập sâu sắc về quyền lực. Việc mở rộng lãnh thổ
trong thời gian này không được triển khai qua thời gian lâu dài như thời
kỳ trước mà được thực hiện trong thời gian ngắn khoảng 250 năm. Dĩ
nhiên có khả năng là vì đã chuẩn bị bàn đạp trong thời kỳ trước. Giống
như khi xem xét thời gian tồn tại dài hay ngắn của một vương quốc, thông
qua việc mở rộng lãnh thổ cũng có thể nhìn thấy được sức mạnh của quốc
gia và tổn thất của Chiêm Thành.
Một mặt, việc mở rộng lãnh
thổ ở thời kỳ sau phân chia Nam Bắc được thực hiện thông qua việc hợp
nhất hoàn toàn Chiêm Thành và sự mở rộng về phía Campuchia đã kéo theo
sự căng thẳng sâu sắc trong quan hệ giữa Việt Nam và Campuchia và dĩ
nhiên ảnh hưởng tới cả quan hệ Campuchia và Thái Lan. Kết quả là ngày
nay, đối ngoại giữa 3 nước, đặc biệt Việt Nam – Campuchia hay Thái Lan –
Campuchia vẫn còn chịu ảnh hưởng không nhỏ (26).
Để thoát khỏi sự uy hiếp của
chúa Trịnh, chúa Nguyễn đi xuống phía Nam thúc đẩy chính sách một cách
năng động như chính sách đối ngoại thông thương, chính sách mở rộng lãnh
thổ để xây dựng sức mạnh nhằm khôi phục quyền lực đã mất(27).
Do đó, việc mở rộng lãnh thổ
của chúa Nguyễn tiếp tục được thúc đẩy không quan tâm đến thời gian 7
lần phân tranh với chúa Trịnh như trích đoạn dưới đây.
“Năm 1611, quân Chiêm
Thành xâm lấn biên giới. Chúa sai chủ sự là Văn Phong (không rõ họ) đem
quân đi đánh lấy được đất ấy, bèn đặt làm một phủ, cho hai huyện Đồng
Xuân và Tuy Hòa lệ thuộc vào. Nhân sai Văn Phong làm lưu thủ đất ấy (28).
Sự kiện năm 1611 đã chứng
minh rằng khác với thời kỳ đầu, đặc trưng của thời kỳ sau là chiếm lĩnh
đồng thời sát nhập và hợp nhất lãnh thổ. Đặc trưng này cũng có thể thấy
được qua sự kiện xảy ra vào năm 1653. “Vua nước Chiêm Thành là Bà Tấm
quấy rối đất Phú Yên. Sai cai cơ Hùng Lộc hầu làm tổng binh và xá sai
Minh võ làm tham mưu đem 3000 quân đi đánh. Đến phủ Phú Yên, ngày 3
tháng 4, nhân đêm qua đèo Hổ Dương núi Thạch Bi, ruổi thẳng đến trại của
Bà Tấm, phóng lửa đánh gấp, phá tan, đuổi dài đến sông Phan Lang. Bà
Tấm sai con là Xác Bà Ân nộp lễ xin hàng. Phúc Tần cho, bắt chia đại
giới, lấy đất tự phía đông sông ấy đến Phú Yên đặt làm hai phủ Thái
Khang và Diên Ninh, đặt dinh trấn thủ Thái Khang, phía Tây sông vẫn là
nước Chiêm Thành, khiến giữ bờ cõi mà nộp cống”. (29) Thái Khang và Diên Ninh bây giờ là Ninh Hòa và Diên Khánh, lúc này lãnh thổ của Việt Nam được mở rộng đến Khánh Hòa.
Tháng 8 năm 1692, chúa
Nguyễn chiếm Chiêm Thành và nhân cơ hội chiếm Diên Ninh của Chiêm Thành
và tháng 3 năm sau đã bắt được vua Chiêm Thành là Bà Tranh. Lúc này,
chúa Nguyễn đã đổi tên Chiêm Thành là Thuận Thành. Chúa Nguyễn đã sai
cai đội Nguyễn Trí Thắng, cai cơ Nguyễn Tân Lễ, cai đội Chu Kiêm Thắng
đến Phố Hài, Phan Rí, Phan Rang thuộc Bình Thuận ngày này để phòng ngự
tàn đảng của Thuận Thành (30).
Đất nước Chiêm Thành đến bây
giờ đã hoàn toàn bị biến mất trên bản đồ. Chiêm Thành đã bị hợp nhất
hoàn toàn vào Việt Nam năm 1697 nhưng trên thực tế, với tư cách là một
quốc gia thì đã bị xóa bỏ vào năm 1693.
“Tháng 8 năm 1693, đổi
trấn Thuận Thành làm phủ Bình Thuận, lấy tả trà viên Kế Bà Tử làm khám
lý, ba người con Bà Ân làm đề đốc, đề lãnh và cai phủ, bắt mặc quần áo
theo lối người kinh và sai về để vỗ yên lòng dân” (31) Việc lấy
người Chiêm Thành cai trị người Chiêm Thành thế này là hình thức mà lịch
sử Việt Nam đã đối xử với tất cả các dân tộc thiểu số từ trước đến nay.
Công nhận sự tự trị nhưng có nghĩa là tự trị dưới cơ cấu cai trị dạng
piramid trong quốc gia. Do đó, kể từ bây giờ Chiêm Thành đã trở thành
một dân tộc thiểu số của Việt Nam.
Nhưng việc loại trừ hoàn
toàn Chiêm Thành làm chúa Nguyễn gặp nhiều khó khăn và trở thành gánh
nặng. Từ tháng 12 năm 1693 đến tháng 2 năm sau, người Thanh A Ban và
người Chiêm Thành Oc Nha That liên kết với nhau gây ra phản loạn ở Thuận
Thành; Tháng 9 năm 1695 người lái buôn Lính đã liên kết Quy Ninh và
Quảng Phú ở Quảng Ngãi gây phản loạn; tháng 3 năm 1697, 5 sách huyện Phú
Vang nổi dậy… là những ví dụ có thật gây khó khăn cho chúa Nguyễn (32).
Sau khi chiếm Chiêm Thành
vào năm 1693, chúa Nguyễn đã thi hành một số chính sách để giảm thiểu
gánh nặng và những mối lo lắng đó. Thứ nhất, hợp nhất hoàn toàn đất
chiếm lĩnh Thuận Thành vào lãnh thổ của mình, đặt theo hình thức trấn
hơn là đơn vị hành chính. Cho dù đã đặt lãnh, phủ, huyện, tổng, tư là
đơn vị hành chính địa phương đối với khu vực đồng bằng của chúa Nguyễn
lúc đó nhưng chúa Nguyễn đã không áp đặt mà đặt Thuận Thành là trấn. Đây
cũng là hình thức cai trị dân tộc thiểu số trong quá khứ. Do đó, ngoài
việc dùng phương pháp cực đoan là đàn áp phản loạn, vào tháng 8 năm
1693, chúa Nguyễn đã đổi trấn Thuận Thành thành phủ Bình Thuận rồi tháng
năm năm sau lại đổi thành trấn Thuận Thành (33).
Thứ hai, như đã viết ở trên,
chúa Nguyễn đã thi hành chính sách đồng hóa hay lấy người Chiêm Thành
cai trị người Chiêm Thành. Với phương pháp cụ thể hơn đối với điều này
chúa Nguyễn đã dùng Kế Ba Tư làm tả đô đốc của phủ Thuận Thành và tiếp
tục cai trị nơi này, đã nộp cống ông ta bởi phiên vương của trấn Thuận
Thành và thu thập quân dân nộp cống hằng năm, và đã trả lại những vật
lấy được trong cuộc chiến như ấn, gươm, yên, ngựa và những người bị bắt
trước đây. Lúc này chúa Nguyễn đã chỉ định những danh sách nộp cống cho
Việt Nam là voi đức 2 thớt, bò vàng 20 con, ngà voi 6 cái, sừng tê 10
tòa, khăn vải trắng 500 bức, sáp ong 50 cân, da cá 20 tấm, cát sủi 400
thúng, chiếu tre trắng 500 lá, gỗ mun 200 cây, thuyền dài 1 chiếc (34).
Việc quy định đối với các
vật nộp cống và dâng phiên vương có thể nói là một điển hình trong việc
nâng cao vị thế so với các nước nhỏ xung quanh của Việt Nam. Cho đến bây
giờ khi xem xét đến thông lệ ban sắc phong cho các tù trưởng các dân
tộc thiểu số thì có thể thấy đó là mắt xích trong chính sách hợp nhất
Chiêm Thành như đã nêu. Khi so sánh thời gian tồn tại hay diện tích lãnh
thổ, chính sách thôn tính một quốc gia có thế lực không thua kém mình
là một sách lược chính trị khổ nhục.
Nhưng vào năm 1697, Việt Nam
đổi trấn Thuận Thành thành Bình Thuận và sát nhập vào một đơn vị hành
chính của Việt Nam đồng thời hợp nhất lãnh thổ còn lại của Chiêm Thành
từ Phan Rang đến Phan Rí đổi thành 2 huyện An Phuc và Hoa Da rồi sát
nhập vào Bình Thuận nên dấu tích của Chiêm Thành hoàn toàn đã bị xóa bỏ
trên bản đồ (35).
Việc hợp nhất hoàn toàn
Chiêm Thành thể hiện sự vững vàng của một quốc gia thống trị nhưng cũng
cho thấy đây là một mắt xích trong việc thực hiện ý định hợp nhất
Campuchia có chung đường biên giới. Kể từ trước đó rất lâu, khi trấn
Thuận Thành và Phan Rang, Phan Rí vẫn còn là khu vực tự trị của Chiêm
Thành, sự tiến vào Campuchia của Việt Nam đã được thúc đẩy qua việc lợi
dụng những người di cư của nước Minh để phát triển lãnh thổ Campuchia
nhưng lúc này thì Việt Nam không còn lý do gì để tiếp tục giữ chế độ tự
trị ở khu vực này. Việc chia rẽ mục đích chính sách này mất cân bằng đối
với nhiều dân tộc thiểu số và dân tộc Khơme của Campuchia.
Tham vọng mở rộng lãnh thổ
của Chúa Nguyễn không dừng lại ở Chiêm Thành. Điều đó có thể nhìn thấy
được vào năm 1621, chúa Nguyễn đã có quan hệ hôn thú với đời thứ 2 Chey
Chettha của Campuchia (36). Lúc đó, chúa Nguyễn đã yêu cầu vua Campuchia
cho người Việt Nam di trú tự nhiên, di trú Thủy Chấn Lạp với những hình
thức miễn thuế, thương mại, phát triển. Kết quả là việc di trú đến
Campuchia của người Việt Nam được bắt đầu từ tỉnh Đồng Nai và Mỗi Xoài
thuộc Bà Rịa, Vũng Tàu bây giờ (37).
Lúc đó Campuchia lệ thuộc
vào vương quốc Ayuthaya của Thái Lan đã mượn sức mạnh của Việt Nam để
thoát khỏi sự cai trị của Thái, Việt Nam đã có được cơ hội tiến vào
Campuchia một cách hợp pháp và đồng thời trên cơ sở đó, đã có được cơ
hội tuyệt vời để có thể cản trở sự tiến vào Campuchia của Thái và xâm
chiếm lãnh thổ Campuchia (38). Sau đó, dưới chính sách ngoại giao cận
Việt viễn Thái của Campuchia (chữ Hán), năm 1658, lần đầu tiên Việt Nam
có cơ hội gửi quân đội theo yêu cầu của Campuchia để giải quyết phân
tranh vương vị và kết quả là nhận được sự cư trú hợp pháp ở Mỗi Xoài,
Đồng Nai và nộp cống, thần phục từ Campuchia (39).
Vào năm 1674, Việt Nam đã
gửi quân đội đến Campuchia lần thứ hai để giải quyết tranh chấp vương vị
và có thể bước một bước sâu hơn vào việc hợp nhất lãnh thổ Campuchia
bằng cách đặt ra chế độ chính vương và phó vương (chữ Hán). Lúc này, phó
vương sống ở Sài Gòn. Trên cơ sở này, vào tháng 1 năm 1679 Việt Nam đã
đem 50 chiến thuyền với hơn 3 nghìn quân, lợi dụng những người quản lý
của nước Minh Trung Quốc đầu hàng như Dương Ngan Địch, Hoàng Tiến, Trần
Thượng Xuyên, Trần An Bình … tiến hành thực hiện việc phát triển Mỹ Tho
và Biên Hòa (40). Những khu vực này là kết quả chiến thắng trong cuộc
phân tranh vũ lực với Thái trên lãnh thổ Campuchia của Việt Nam, vì một
phần thuộc khu vực mà Nạc Ông Nộn được bổ nhiệm cai trị, nên Việt Nam có
thể định cư ở đó. Năm 1679, do chính vương và phó vương của Campuchia
xung đột, Việt Nam và Thái đều gửi quân đội can thiệp nên chiến tranh đã
xảy ra, Việt Nam đã hoàn toàn không thể đưa ra các giải quyết vấn đề
này.
Những người có thế lực khai
phá đất, xây dựng thành Đông Phố và biến nơi đây thành nơi thương mại
quốc tế đông đúc với những chiếc thuyền của nhà Thanh – phương Tây –
Nhật – Java. Thời điểm này, có thể nói ngoài người Việt Nam ra, người
Trung Quốc cũng phát triển Thủy Chân Lạp. Vào năm 1680, việc phát triển
Thủy Chân Lạp dựa vào Mạc Cửu người Quảng Đông Trung Quốc. Ông ta được
bổ nhiệm làm quản lý của Campuchia và đã phát triển Phú Quốc, Cần Bọt,
Gia Khê, Luỗng Cây, Hương Úc, Cà Mau (41). Ở đây, vào năm 1810 đã đổi
thành trấn Hà Tiên rồi năm 1831 đổi thành tỉnh Hà Tiên.
Năm 1688, với cuộc phản loạn
của Hoàng Tiến đã trở thành cơ hội cho Việt Nam thực hiện hợp nhất lãnh
thổ Campuchia. Hoàng Tiến gây ra phản loạn, quốc vương của Campuchia
Nặc Ông Thu đã từ chối thần phục và nộp cống cho Việt Nam và dương ngọn
cờ phản loạn. Việt Nam đã gửi quân vào Sài Gòn để bình định việc này
nhưng không thành công. Tuy nhiên, trong trong một thời gian dài nắm
giữ, Việt Nam thực sự đã có ảnh hưởng ở khu vực này. Tiếp đó, năm 1691,
người có thực quyền ở đây là phó vương Nặc Ông Nộn tử vong đã tạo ra một
khoảng trống quyền lực đã xúc tiến quá trình hợp nhất của Việt Nam ở
khu vực này. Trên cơ sở đó, từ năm 1698, bắt đầu hợp nhất khu vực Gia
Định khai thác được dựa vào người Trung Quốc và người bản xứ trước đây.
Năm 1698 là năm sau khi Việt
Nam hoàn toàn hợp nhất Chiêm Thành. Điều này rất quan trọng vì thể hiện
được tính quan hệ tương hỗ trong việc hợp nhất Chiêm Thành và Campuchia
của Việt Nam. Tức là, trước năm 1698, Việt Nam có thể lợi dụng khoảng
trống cai trị của Campuchia trên mảnh đất do người Trung Quốc và người
bản xứ khai phát và hợp nhất nhưng trong khi chưa hợp nhất hoàn toàn
Chiêm Thành nên có thể gặp nhiều khó khăn; hoặc trong trường hợp đã hợp
nhất hoàn toàn Chiêm Thành nhưng có khả năng xảy ra phản loạn và chống
đối nên có thể cho rằng sức lực sẽ bị phân tán nên đã không thực hiện và
chuẩn bị cho đến năm 1698 mới tiến hành hợp nhất Campuchia.
“Bắt đầu đặt phủ Gia
Định. Sai thống suất Nguyễn Hữu Kính kinh lược đất Chân Lạp, chia đất
Đông Phố, lấy xứ Đồng Nai làm huyện Phúc Long, dựng dinh Trấn Biên, lấy
xứ Sài Gòn làm huyện Tân Bình, dựng dinh Phiên Trấn, mỗi dinh đều đặt
các chức lưu thủ, cai bạ, ký lục và cơ độ thuyền thủy bộ tinh binh và
thuộc binh. Mở rộng đất được nghìn dặm, được hơn 4 vạn hộ, bèn chiêu mộ
những dân xiêu dạt từ Bố Chính trở về nam cho đến ở cho đông. Thiết lập
xã thôn phường ấp, chia cắt giới phận, khai khẩn ruộng nương, định lệ
thuế to dung, làm sổ đinh điền. Lại lấy người Thanh đến buôn bán ở xã
Minh Hương. Từ đó người Thanh ở buôn bán đều thành dân hộ của ta” (42).
Nội dung trên cho thấy việc
hợp nhất lãnh thổ Campuchia của Việt Nam khác với phương pháp hợp nhất
Chiêm Thành trong thời kỳ trước. Khi hợp nhất lãnh thổ của Chiêm Thành,
đa số dùng phương pháp chiếm bằng vũ lực nhưng khi hợp nhất lãnh thổ
Campuchia thì lợi dụng người trong nước hay người nước ngoài trước hết
là khai thác rồi lợi dụng khi quyền lực cai trị của Campuchia yếu đi thì
hợp nhất một cách tự nhiên. Không những thế, ở đây còn cho thấy sự ưu
tiên phương pháp nhận lãnh thổ bằng cách hỗ trợ giải quyết nội chiến của
Campuchia hơn là dùng vũ lực trực tiếp.
Vào năm 1708, Mạc Cửu cảm
thấy bất an với nội tình của Campuchia, nhờ thần phục Việt Nam mới có
được đường biên giới của Campuchia bây giờ còn Việt Nam thì có được khu
vực ở phía cực nam bao gồm đảo Phú Quốc, Kiên Giang, Cà Mau, Bạc Liêu
(43). Khu vực này là một trong 6 tỉnh thuộc tỉnh Hà Tiên thời nhà
Nguyễn. Điều này cũng như đã đề cập ở trên cho thấy hình thức hợp nhất
không liên quan đến vũ lực của Việt Nam.
Do đó, trong 6 tỉnh, Việt
Nam đã hợp nhất 3 tỉnh là Biên Hòa, Gia Định, Hà Tiên. Ba tỉnh còn lại
vẫn trong tình trạng chưa hợp nhất được là Định Tường, Vĩnh Long, An
Giang. Ba tỉnh này ở trong địa thế hình răng cưa, nằm xem kẽ giữa hai
tỉnh Biên Hòa – Gia Định và tỉnh Hà Tiên. Vì thế, để bảo tồn tỉnh Hà
Tiên ở vị trí xa nên việc hợp nhất 3 tỉnh còn lại là một việc cần thiết.
Do đó qua 3 lần liên tiếp thực hiện hợp nhất, khu vực này được hợp nhất
với phương pháp khác với trước đây là bằng vũ lực.
Lần thứ 1, năm 1732, Việt
Nam đã gửi quân đội tới, lấy Mỹ Tho, Sa Đéc ở phía Tây Gia Định, và đặt
châu Định Viễn, lĩnh Long Hồ (44). Những khu vực này thuộc tỉnh Định
Tường. Những khu vực này bây giờ thuộc tỉnh Tiền Giang, Đồng Tháp. Với
cơ hội này, vào năm 1744 chúa Nguyễn đã xác lập khu vực hành chính với
cơ cấu 12 lĩnh và 1 trấn (45).
Lần thứ 2 cũng dành được
thành quả bằng vũ lực. Chúa Nguyễn đã hai lần viễn chinh Campuchia vào
năm 1753 và 1755 do hiệp ước quan hệ của chúa Trịnh và YuRin Côn Man của
Nạc Ông Nguyên là vua Campuchia. Lúc này Nạc Ông Nguyên tị nạn ở Hà
Tiên và năm 1756, đưa Mạc Thiên Tứ đề nghị thần phục và nộp cống cho
chúa Nguyễn và đã dâng 2 phủ Tam Bon, Loi Lap (46). Nơi này giáp với
tỉnh Định Tường thuộc tỉnh Vĩnh Long.
Lần cuối cùng, năm 1757,
trong quá trình lên ngôi, vua Cao Miên nhận sự giúp đỡ đã nhận từ Nạc
Ông Tôn 2 phủ Trà Vinh, Ba Thắc và Tầm Phong Long (47). Trong 6 tỉnh,
những khu vực này thuộc tỉnh An Giang. Do đó, Việt Nam đã xác lập được
lãnh thổ phía Nam bây giờ.
Đối với sự kiện của năm 1757, khi xem xét biên giới lãnh thổ Việt Nam qua ghi chép là “Năm
1757, Nạc Ông Nguyên nước Chân Lạp chết. Người chú họ là Nạc Nhuân Tạm
coi việc nước. Biên thần tâu xin nhân đó lập Nhuận để tỏ ân nghĩa, cho
vững biên cương. Chúa bắt phải hiến hai phủ Trà Vinh, Ba Thắc, rồi sau
mới y cho …” (48) chúng ta có thể thấy rõ hơn. Nói cách khác, cho dù
đã hợp nhất Định Tường và Vĩnh Long nhưng dưới thời chúa Nguyễn, không
có tỉnh An Giang nên Châu Đốc, Cần Thơ, Sóc Trăng có địa thế như răng
rụng nên Việt Nam cần có được vùng này với cái giá là phải can thiệp
chính trị.
Ngoài ra, cùng năm 1757,
Việt Nam đã được vua Camphuchia Nạc Ông Tôn dâng 5 phủ Hương Úc, Cần
Bọt, Chân Sum, Sài Mạt, Linh Quỳnh (49). Khu vực này tiếp giáp với Hà
Tiên nhưng trong thời gian vua Tự Đức tại vị đã trả lại cho Campuchia
(50).
Việc mở rộng lãnh thổ phía
Nam của chúa Nguyễn đã gặp phải một số yếu tố nên phải tạm dừng ở đây.
Thứ nhất, do sức lực quốc gia của chúa Nguyễn bị yếu đi nên không đủ nội
lực để mở rộng lãnh thổ hơn nữa. Thứ hai, trong thời gian ngắn không đủ
năng lực để khai thác quản lý lãnh thổ tăng nhiều (51).
Việc mở rộng lãnh thổ về
phía nam của Việt Nam cũng được tiếp tục dưới triều đại cuối cùng trong
lịch sử Việt Nam là triều đại nhà Nguyễn. Như đã đề cập ở trên, Việt Nam
đã hợp nhất một phần lãnh thổ của Lào tiếp giáp với khu vực từ Quảng
Bình tới Lạng Sơn, đã gửi quân đi 6 phủ và bổ nhiệm làm tộc trưởng ở đây
theo hình thức cai trị gián tiếp. Khi xem xét đến nhiều điều kiện như
chính trị – kinh tế – địa chính học, Việt Nam tiếp tục thúc đẩy hợp nhất
Cao Miên để dành lợi cho quốc gia, và kết quả là năm 1835, Chân Lạp –
quốc hiệu của Cao Miên đã đổi thành Chân Tây Thành và lập 2 huyện, 32
phủ (52). Nhưng cuộc xung đột dành quyền cai trị Campuchia giữa Việt Nam
và Thái kéo dài, cộng với việc phản đối sự cai trị của Việt Nam trên
toàn Campuchia và các cuộc phản loạn trong nước nên đã đẩy Việt Nam vào
thế bất lợi. Cho nên, năm 1847, Việt Nam đã ký hiệp định với Thái và rút
quân. Do đó, cho đến khi Việt Nam và Campuchia đều trở thành thuộc địa
của Pháp thì Campuchia chỉ duy trì mối quan hệ nộp cống cho Việt Nam
(53). Qua đây, có thể thấy việc mở rộng lãnh thổ của Việt Nam được điều
khiển bởi Thái và Pháp. Nếu giả định trường hợp Pháp không tiến hành xâm
lược hay không có mâu thuẫn với Thái thì Việt Nam đã có được một vùng
rộng lớn trong lãnh thổ của Lào và Campuchia.
IV. KẾT LUẬN
Việc mở rộng lãnh thổ của Việt Nam cho thấy một quy luật điển hình trong lịch sử nhân loại là cá lớn nuốt cá bé.
Việt Nam đã không ngừng đấu tranh trong trường kỳ lịch sử để sinh tồn
bên cạnh một Trung Quốc mạnh hơn mình nhưng ngược lại cũng tiến hành
chinh phục Chiêm Thành và Campuchia yếu hơn. Điều này thể hiện hai mặt
trong đặc trưng lịch sử của Việt Nam là chủ nghĩa dân chủ đấu tranh và
chủ nghĩa dân chủ xâm lược.
Việt Nam đã trải qua quá
trình dân chủ đấu tranh và bồi dưỡng sức mạnh quốc gia rồi trên cơ sở đó
hướng đến chủ nghĩa dân chủ xâm lược và kết quả là xác lập được lãnh
thổ phía Nam bây giờ.
Việc mở rộng lãnh thổ về
phía Nam đã thúc đẩy sự phát triển kinh tế của Việt Nam, đặc biệt là
trong việc sản xuất ngũ cốc. Ngoài khí hậu nhiệt đới gió mùa có lượng
mưa và lượng nắng nhiều thì vùng này còn có tài nguyên phong phú và đất
đai màu mỡ và rộng lớn.
Ở đây cũng không thể bỏ qua
sự đóng góp của người dân di trú Trung Quốc. Trong khi không đủ nhân lực
phát triển thì việc tham gia của người dân Trung Quốc đã giảm bớt đi
gánh nặng cho người dân Việt Nam, thúc đẩy sự phát triển thương mại của
phía Nam và đã tăng cường tính đặc trưng đa văn hóa – đa dân tộc của
Việt Nam.
Liên quan đến việc tăng
cường tính đặc trưng đa văn hóa – đa dân tộc của Việt Nam không thể loại
trừ vai trò của Campuchia. Việc hợp nhất Thủy Chân Lạp tức 6 tỉnh phía
Nam dành được ngoài mảnh đất màu mỡ và rộng lớn còn có được dân tộc
Khơme đông nhất trong 54 dân tộc đã biến Việt Nam từ một nước có văn hóa
Phật giáo Đại thừa sang một nước văn hóa Phật giáo Tiểu thừa.
Đồng thời, việc mở rộng lãnh
thổ của Việt Nam cũng là một trường hợp điển hình minh chứng cho quy
luật lịch sử “giữa các nước láng giềng không có quan hệ tốt ”. Nếu như
quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Trung Quốc mới được tái lập vào năm
1991 thì quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Campuchia cũng không được
mặn mà khi 20 vạn quân Việt Nam rút lui khỏi Campuchia dưới áp lực của
chủ nghĩa tư bản đứng đầu là Mỹ vào năm 1989. Quan hệ giữa Việt Nam và
Thái cũng đối lập sâu sắc trong việc gây ảnh hưởng trên đất Campuchia.
Xét trên quan điểm địa chính học, quan hệ giữa Việt Nam và Lào có thể là
một dị biệt nhưng xét cho cùng thì có thể cũng không khác với những mối
quan hệ nước láng giềng đã nêu trên.
Tài liệu
2 Phan Huy Lê, Chu Thiên,
Vương Hoàng Tuyên, Đinh Xuân Lâm, Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam,
T.III, Nxb Giáo dục, H.1961, p.484.
3 Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời,
Nxb Văn hóa, H.2006; Nguyễn Đình Đầu, Việt Nam quốc hiệu và cương vực
qua các thời đại, Nxb BT, 2003; Song Jung Nam, A study on the land
system and territorial expansion in southern part of Vietnam: from the
mid – 16 century to 18 century SHPS T 36, 1999; Song Jung Nam, The Name
and Territory of Vietnam NCĐNA 16 – 2, 2007.
4 Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời, Sđd, p.227.
5 Đại Việt sử ký toàn thư, T.I, Nxb KHXH,
H.1998, p.228 tham khảo; Đại Việt sử ký tiền biên, Nxb KHXH, H.1997,
p.174 tham khảo; Song Jung Nam, Lịch sử Việt Nam, Nxb ĐHPS, 2001, p.134.
6 Đại Việt sử ký toàn thư, T.I, Sđd, pp.274 –
275; Đại Việt sử ký tiền biên, Sđd, p.238; Lê Quý Đôn toàn tập: Phủ biên
tạp lục, T.I, Nxb KHXH, H.1977, p.32; Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược,
Nxb VHTT, H.1999, p.107; Song Jung Nam, The Name and Territory of
Vietnam NCĐNÁ 16 – 2, 2007, p.106.
7 Đại Việt sử ký toàn thư, T.I, Sđd, p.278; Lê Quý Đôn toàn tập: Phủ biên tạp lục T.I, Sđd, p.32.
8 Đại Việt sử ký toàn thư, T.I, Sđd, p.284; Đại
Việt sử ký tiền biên, Sđd, p.546; Lê Quý Đôn toàn tập: Phủ biên tạp
lục, T.I, Sđd, p.32.
9 Đại Việt sử ký toàn thư, T.II, Nxb KHXH,
H.1998, p.91; Đại Việt sử ký tiền biên, Sđd, p.407; Lê Quý Đôn toàn tập:
Phủ biên tạp lục, T.I, Sđd, p.32.
10 Jung Nam, The Name and Territory of Vietnam NCĐNÁ 16 – 2, 2007, p.107.
11 Đại Việt sử ký toàn thư, T.II, Sđd, p.91; Lê Quý Đôn toàn tập: Phủ biên tạp lục, T.I, Sđd, p.32.
12 Đại Việt sử ký toàn th,ư T.II, Nxb KHXH, 1998, p.145; Đại Việt sử ký tiền biên, Sđd, p.458 tham khảo.
13 Đại Việt sử ký toàn thư,T.II, Sđd, p.91; Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Sđd, p.170.
14 Đại Việt sử ký toàn thư, T.II, Sđd, pp.202 –
203; Đại Việt sử ký tiền biên, Sđd, p.512; Đào Duy Anh, Đất nước Việt
Nam qua các đời, Sđd, p.127; Lê Quý Đôn toàn tập: Phủ biên tạp lục T.I,
Sđd, p.35.
15 Đại Việt sử ký toàn thư, T.II, Sđd, p.235;
Đại Việt sử ký tiền biên, Sđd, p.546; Lê Quý Đôn toàn tập: Phủ biên tạp
lục ,T.I, Sđd, pp.37 – 38 tham khảo.
16 Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời, Sđd, p.168.
17 Đại Việt sử ký toàn thư, T.II, Sđd, pp.441 – 452; Lê Quý Đôn toàn tập: Phủ biên tạp lục T.I, Sđd, p.43.
18 Phan Huy Lê, Lịch sử chế độ phong keiens Việt Nam, T.II, Nxb GD, 1960, p.182; Đại Việt sử ký toàn thư T.II, Sđd, p.464.
19 Đại Việt sử ký toàn thư, T.II, Sđd, p.507.
20 Đại Việt sử ký toàn thư, T.II, Sđd, p.450;
Việt sử thông giám cương mục, T.XI, Nxb Văn Sử Địa, 1959, pp.68 – 69; Lê
Quý Đôn toàn tập: Phủ biên tạp lục, T.I, Sđd, p.43.
21 Đại Việt sử ký toàn thư, T.II, Sđd, p.363 tham khảo.
22 Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời, Sđd, p.199.
23 Phan Huy Lê, Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, T.II, Sđd, p.174 – 177.
24 Đại Việt sử ký toàn thư, T.II, Sđd, p.477.
25 Đại Việt sử ký toàn thư, T.II, Sđd, p.464.
26 Song Jung Nam, Quan hệ giữa Việt Nam và Thái
Lan thời kỳ truyền thống, Hội thảo khoa học 2007 của hội Việt Nam học
Hàn Quốc, 2007, p.44.
27 Song Jung Nam, A Study on the Development Factor of Trade in Dang Trong in 16th – 18th centuries NCĐNÁ 14 – 1, 2004, p.133.
28 Đại Nam thực lực tiền biên, T.I, Nxb Sử học, 1962, pp.43 – 44.
29 Đại Nam thực lực tiền biên, T.I, Sđd, p.83; Lê Quý Đôn toàn tập: Phủ biên tạp lục, T.I, Sđd, p.56 tham khảo.
30 Đại Nam thực lực tiền biên, T.I, Sđd, p.147;
Phan Khoang, Việt sử: Xứ Đàng Trong 1558 – 1777, nhà sách Khai Trí,
1969, pp.217 – 218.
31 Đại Nam thực lực tiền biên, T.I, Sđd, p.148.
32 Đại Nam thực lực tiền biên, T.I, Sđd, pp.148 – 153.
33 Đại Nam thực lực tiền biên, T.I, Sđd, p.150.
34 Đại Nam thực lực tiền biên, T.I, Sđd, pp.150 – 151; Phan Khoang, Việt sử: Xứ Đàng Trong 1558 – 1777, Sđd, pp.217 – 218.
35 Đại Nam thực lực tiền biên, T.I, Sđd, p.153.
36 Lê Nguyễn, Xã hội Đại Việt qua bút ký của
người nước ngoài, Nxb VN TP HCM, 2004, p.174; Phan Huy Lê, Chu Thiên,
Vương Hoàng Tuyên, Đinh Xuân Lâm, Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam,
T.III, Sđd, p.105; Song Jung Nam, Quan hệ giữa Việt Nam và Thái Lan thời
kỳ truyền thống, Bđd, p.43.
37 Phan Huy Lê, Chu Thiên, Vương Hoàng Tuyên,
Đinh Xuân Lâm, Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, Sđd, pp.105 – 106;
Phan Khoang, Việt sử: Xứ Đàng Trong 1558 – 1777, Sđd, pp.400 – 402.
38 Phan Huy Lê, Chu Thiên, Vương Hoàng Tuyên,
Đinh Xuân Lâm, Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, Sđd, p.105; Yu In
Sun, Lịch sử Việt Nam viết mới, Nxb Y San, 2002, 219 tham khảo.
39 Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí,
Nxb Giaos dục, H.1998, pp.74 – 75; Đại Nam thực lực tiền biên, T.I, Sđd,
p.98 tham khảo; Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập, Nxb Thuận Hóa,
1993, p.542; Lê Quý Đôn toàn tập: Phủ biên tạp lục, T.I, Sđd, p.58 tham
khảo.
40 Đại Nam thực lực tiền biên, T.I, Sđd, p.125;
Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập, Sđd, p.542; Lê Quý Đôn toàn tập:
Phủ biên tạp lục, T.I, Sđd, p.62 tham khảo.
41 Đại Nam thực lực tiền biên, T.I, Sđd, p.167.
42 Đại Nam thực lực tiền biên, T.I, Sđd, pp.153 – 154; Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập, Sđd, p.542 tham khảo.
43 Đại Nam thực lực tiền biên, T.I, Sđd, p.167;
Song Jung Nam, A study on the land system and territorial expansion in
southern part of Vietnam: from the mid – 16 century to 18 century SHBS T
36, 1999, p.57.
44 Đại Nam thực lực tiền biên, T.I, Sđd, 1962,
p.195; Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, Sđd, p.78; p.241; Đào
Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời, Sđd, p.241; Phan Khoang, Việt
sử: Xứ Đàng Trong 1558 – 1777, Sđd, p.232.
45 Đại Nam thực lực tiền biên, T.I, Sđd, 1962, p.208.
46 Đại Nam thực lực tiền biên, T.I, Sđd, p.224;
Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập, Sđd, p.544; Trịnh Hoài Đức, Gia
Định thành thông chí, Sđd, p.78; Lê Quý Đôn toàn tập: Phủ biên tạp lục
T.I, Sđd, p.69; Phan Khoang, Việt sử: Xứ Đàng Trong 1558 – 1777, Sđd,
p.242.
47 Đại Nam thực lực tiền biên, T.I, Sđd, p.226;
Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập, Sđd, p.544; Trịnh Hoài Đức, Gia
Định thành thông chí, Sđd, pp.79 – 80; Phan Khoang, Việt sử: Xứ Đàng
Trong 1558 – 1777, p.242; Song Jung Nam, A study on the land system and
territorial expansion in southern part of Vietnam: from the mid – 16
century to 18 century SHBS T 36, 1999, p.58.
48 Đại Nam thực lực tiền biên, T.I, Sđd, pp.225
– 226; Trịnh Hoài Đức, Gia Định thành thông chí, Sđd, p.79; Đại Việt sử
ký tục biên 1676 – 1789, Nxb KHXH, 1991, pp.257 – 258.
49 Đại Nam thực lực tiền biên, T.I, Sđd, p.226;
Đại Nam chính biên liệt truyện sơ tập, Sđd, p.544; Trịnh Hoài Đức, Gia
Định thành thông chí, Sđd, p.79, p.80.
50 Đào Duy Anh, Đất nước Việt Nam qua các đời, Sđd, p.243.
51 Song Jung Nam, The Name and Territory of Vietnam NCĐNA 16 – 2, 2007, p.110.
52 Phan Huy Lê, Chu Thiên, Vương Hoàng Tuyên, Đinh Xuân Lâm, Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, T.III, Sđd, p.479.
53 Phan Huy Lê, Chu Thiên, Vương Hoàng Tuyên, Đinh Xuân Lâm, Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, T.III, Sđd, p.481.