THỰC TẠI VÀ HOANG ĐƯỜNG 32* (Anh hùng) chính thức,chưa in đươc)


PHẦN III:     NGUỒN CỘI 

" Đi đi con!
Trong khinh khi may nhớ nước non
Mà ôn lại cho đừng quên lịch sử
Bốn ngàn năm rồi, Việt Nam bất tử
Dằng dặc đoạn trường chống giặc ngoại xâm
Biết mấy đau thương, biết mấy anh hùng
Ghi tạc địa cầu bao chiến công hiển hách
..."

                                                                                Trần Hạnh Thu

"Lịch sử hoài thai chân lý, nó có thể kháng cự với thời gian, có thể dìm đi những việc cũ, nó là dấu tích của thời xa xưa, là gương soi của đương đại, là lời giáo huấn cho thế hệ sau."
                                                                 
Cervantes (Tây Ban Nha)

"Lịch sử là bằng chứng của thời đại, là ngọn lửa của chân lý, là sinh mệnh của kí ức, là thầy giáo của cuộc sống và là sứ giả của cổ nhân."
                                                                                                      Cicero (La Mã)
 
“Đừng chê cõi trần nhơ
Đừng khen cõi trần đẹp
Cõi trần là thản nhiên
Chỉ có đời nhơ, đẹp.” 
.


.

CHƯƠNG XI (XXXII): ANH HÙNG


Heroism on command, senseless violence, and all the loathsome nonsense that goes by the name of patriotism - how passionately I hate them!


Đọc thêm tại: http://www.tudiendanhngon.vn/tabid/87/strcats/111/sw/a/charmode/true/default.aspx © TuDienDanhNgon.vn

Heroism on command, senseless violence, and all the loathsome nonsense that goes by the name of patriotism - how passionately I hate them!


Đọc thêm tại: http://www.tudiendanhngon.vn/tabid/87/strcats/111/sw/a/charmode/true/default.aspx © TuDienDanhNgon.vn


"Chủ nghĩa anh hùng theo mệnh lệnh, bạo lực phi lý và tất cả những điều vô nghĩa nhân danh lòng ái quốc - tôi mới căm ghét chúng làm sao!"
-Albert Einstein
 
"Dân ta phải biết sử ta, cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam. Sử ta dạy cho ta những chuyện vẻ vang của tổ tiên ta. Dân ta là con Rồng cháu Tiên, có nhiều người tài giỏi đánh Bắc dẹp Nam, yên dân trị nước, tiếng để muôn đời. Sử ta dạy cho ta bài học này: Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn"
Hồ Chí Minh

"Lòng yêu nước và sự đoàn kết của nhân dân là một lực lượng vô cùng to lớn, không ai thắng nổi. Nhờ lực lượng ấy mà tổ tiên ta đã đánh thắng quân Nguyên, quân Minh, đã giữ vững quyền tự do, tự chủ. Nhờ lực lượng ấy mà chúng ta làm cách mạng thành công giành được độc lập. Nhờ lực lượng ấy mà sức kháng chiến của ta càng ngày càng mạnh. Nhờ lực lượng ấy mà quân và dân ta quyết chịu đựng muôn nỗi khó khăn, thiếu thốn, đói khổ, tang tóc, quyết một lòng đánh tan quân giặc cướp nước."
Hồ Chí Minh
 
“Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng, và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quí hơn độc lập, tự do! Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn!” 
                                                          Hồ Chí Minh

"Thà làm dân một nước độc lập còn hơn làm vua một nước nô lệ"
                                                          Phạm Khắc Hòe

 

 

Cái "Có" tuyệt đối duy nhất trong thế giới này là Tồn Tại. Không có cái "Không có" tuyệt đối, tức Hư Vô. Tồn Tại vì thế mà được bảo toàn, không có sinh thêm ra và mất bớt đi. Tồn Tại là vốn dĩ có sẵn thế. Do đó mới gọi là Tự Nhiên Tồn Tại!

Tự Nhiên Tồn Tại là vĩnh viễn, tuyệt đối, ngoài thời gian (ngoài tầm quan sát, theo dõi, chiêm nghiệm) nó bất biến, trong thời gian (trong tầm quan sát, theo dõi, chiêm nghiệm) nó thường biến. Ở đây, khái niệm "quan sát", "theo dõi" phải được mở rộng tối đa. Cho dù chúng ta chỉ tưởng tượng về Tự Nhiên Tồn Tại, thì cũng có nghĩa chúng ta đã theo dõi nó, nghĩa là đã "nhìn" nó trong thời gian! Suy ra, không thể có "cái nhìn", hay sự quan sát ngoài thời gian!
Một đặc tính cơ bản của Tự Nhiên Tồn Tại là "sức ỳ tồn tại". Vì Tồn Tại là vĩnh viễn nên"sức ỳ tồn tại" cũng là tuyệt đối vĩnh viễn. Một bộ phận hợp thành Tồn Tại, từ Tồn Tại phát sinh ra được gọi là vật chất hay tồn tại tương đối. Trong thế giới vật chất, vì cũng là Tồn Tại (nhưng có tính đặc thù) nên cũng có "sức ỳ tồn tại" nhưng chỉ ở mức độ tương đối thôi và gọi là "cố gắng tồn tại". Thể hiện của "cố gắng tồn tại" chính là "quán tính" (khối lượng). 
Sinh vật được hun đúc nên từ vật chất, thế giới sinh vật là một tập hợp nhỏ của thế giới vật chất. Vì thuộc về vật chất nên ở sinh vật cũng có có tính "cố gắng tồn tại" và vì là dạng vật chất đặc thù nên sự "cố gắng tồn tại" cũng thể hiện ra một cách đặc thù với tên gọi là "cố gắng sống còn", hay "đấu tranh sinh tồn". Có thể nói "đấu tranh sinh tồn" là qui luật cơ bản nhất của thế giới sinh vật. Chính có sự chi phối mạnh mẽ của qui luật "đấu tranh sinh tồn" cùng với tác động của sự tăng - giảm lạm phát về số lượng cư dân khi có điều kiện đã làm nên hiện tượng có tính phổ biến là lan tỏa và hội tụ dân cư tự nhiên, và những hiện tượng khác như sự thịnh - suy, sự tranh giành, sự phân hóa tầng lớp...trong xã hội
 
                                                                                                                     Quân Pháp tấn công quân Thanh ở Lạng Sơn 
 
Lịch sử đã chứng minh rằng hình thể đất trời sông biển Việt Nam có được như ngày nay là kết quả của một quá trình giữ nước kiên cường, bất khuất của Dân tộc Việt, đi đôi với quá trình đắp đập, be bờ phía Bắc là lan tỏa dân cư một cách tương đối hòa bình xuống phía Nam trước một Chiêm Thành tự suy tàn bởi tính hiếu chiến của nó và một Chân Lạp sình lầy, nước đọng, hoang sơ. Có thể nói sự mở rộng lãnh thổ đó có tính hồn nhiên, “thuận thiên”.
Dù rằng cũng có một hai đời vua kéo quân đi xâm lấn láng giềng, nhưng nhìn chung thì trong tâm hồn Dân tộc Việt không tồn tại ý chí bành trướng lãnh thổ bằng bạo lực. Do đó mà cũng không thể xây Việt Nam “to” hơn được.
Tâm nguyện của Hồ Chí Minh, tiêu biểu cho tâm hồn cao đẹp, trong sáng của Dân tộc Việt trong thời đại mới, là mong đất nước được độc lập, dân tộc được tự do, Tổ quốc thịnh vượng. Vì thế, khi Hồ Chí Minh nói “to đẹp hơn” thì nên hiểu theo nghĩa “cao đẹp hơn”, “tươi đẹp hơn”.
Như đã nói, cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai đã tạo ra thiên thời có một không hai cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc của Cách mạng Việt Nam, đứng đầu là Hồ Chí Minh - một đại anh hùng dân tộc ở thế kỷ XX của Dân tộc Việt.
      Sau đây là những tư liệu lịch sử  được cho là xác đáng nhất mà chúng ta tom góp được từ các nơi, trong đó có một phần là của wikipedia và vài đoạn trong các bài viết của "bá tánh" trên mạng Internet.

                             
                                            Quân Nhật vào Đông Dương tháng 9/1941
                             
                                    Binh lính Nhật Bản hành quân trên đường phố Sài Gòn 
Ngày 23-9-1940, với sự giúp đỡ của phát xít Đức, chính phủ bù nhìn của Pháp, đứng đầu là Pêtanh đã ký hiệp ước thỏa thuận cho Nhật được đưa quân vào Đông Dương. Toàn quyền Đờcu  (Jean Decoux) được ủy quyền trực tiếp dâng Đông Dương cho Nhật. Hồ Chí Minh dã làm bài thơ tặng Đờcu như sau:

 Bài thơ Tặng Toàn quyền Đờcu[1]) của Nguyễn Ái Quốc, đăng trên báo Việt Nam độc lập:
Non nước Rồng Tiên rõ mịt mù,
Lợi quyền phó mặc bố thằng Cu.
Đối dân Nam Việt thì lên mặt,
Gặp bọn Phù Tang[2]) chỉ đội khu[3])!
Về Pháp, không cơm e chết đói,
Ở đây, hút máu béo ni-nu.
Cũng như thống chế Pêtanh vậy,
Chú cứ cu cù được mãi ru!
------------------------------------------
[1]) Đờcu (Jean Decoux), Thuỷ sư đô đốc, Toàn quyền Pháp ở Đông Dương từ ngày 30-8-1940. Theo chủ trương của chính phủ Pháp, do Pêtanh cầm đầu, Đờcu thi hành chính sách đầu hàng, dâng nước ta cho Nhật. Y bị Nhật tống giam trong cuộc đảo chính ngày 9-3-1945 (B.T).
[2]) Phù Tang: nước Nhật (B.T).
[3]) Đội khu: đội đít, chỉ việc Toàn quyền Đờcu khuất phục, bợ đỡ quân phiệt Nhật (B.T).

Nguồn trích:

 - Báo Việt Nam độc lập, số 134, ngày 11-8-1942.

- Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 3, tr. 240.
- Hồ Chí Minh-Biên niên tiểu sử, Nxb.Chính trị quốc gia, 2006, t. 2,  tr. 172

      Cuối tháng 10 năm đó, những toán lính Nhật đầu tiên đã tới Hà Nội. Để yên lòng kẻ hàng thần mới, Mikado (Nhật hoàng) ra chiếu phủ dụ: “Trẫm vĩ đại. Trẫm lòng lành. Trẫm giải phóng cho các người. Trẫm trông cậy ở các người sẽ cộng tác với Nhật Bản để “phòng thủ Đông Dương” mà chủ quyền Trẫm công nhận là thuộc về nước Pháp”! Thế là để bảo đảm mạng sống cho khoảng trăm ngàn Pháp kiều và quân viễn chinh, mẫu quốc Pháp bỏ rơi gần ba chục triệu dân nô lệ da vàng bản xứ! Pháp chịu để cho phát xít Nhật biến Đông Dương thành nơi trung chuyển và căn cứ hậu cần cùng lời hứa cộng tác về mặt quân sự với Nhật trong trường hợp có sự tấn công của các nước Đồng minh. Tại các bãi bến thủy bộ, hàng ngày tàu biển Nhật ra vào tấp nập, các cuộc chuyển quân và vũ khí phương tiện chiến tranh rầm rập trên các tuyến hỏa xa và xa lộ, các sân bay ở Bắc kỳ được dùng để tấn công các căn cứ và đường  giao thông ở Birmanie, Vân Nam, Tứ xuyên, Trùng Khánh. Máy bay chiến đấu Nhật bay tới bay đi nhào lộn luyện tập ngay trên bầu trời Hà Nội mà không cần xin phép. Đông Dương biến thành bãi chiến trường, chịu những trận oanh kích của máy bay Đồng minh suốt từ Sài Gòn, Đà Nẵng dọc ra Hải phòng, Hà Nội, hàng trăm thường dân bị chết lây! 
    Tuy nhiên bộ máy chính quyền Pháp hầu như vẫn còn nguyên từ thượng tầng kiến trúc đến hạ tầng cơ sở vì người Nhật khôn ngoan chẳng những có được hậu phương ổn định mà còn được cả về kinh tế nữa. Họ thúc ép “gắn liền kinh tế Đông Dương vào kinh tế Nhật". Gạo và cao su cứ ùn ùn chở sang Nhật hoặc cung cấp cho quân Nhật đóng ở tiền đồn vùng biển phía Nam. Theo tài liệu của chính quyền Decoux thì về gạo đã xuất, năm 1941: 700.000 tấn, năm 1942: 1.050.000 tấn, năm 1943: 950.000 tấn, năm 1944: 900.000 tấn; về cao su và các khoản thương vụ khác trong mấy năm đầu thập niên 1940 đã xuất số lượng tính ra bằng vàng tổng giá trị là 32.620kg (tính tròn), tương đương số tiền lúc đó là 22 tỷ Franc (Bác sỹ Ngô Văn Quỹ: Đêm dài Nhật-Pháp bắn nhau – NXB Trẻ 2001).

      Sau một vài năm mị dân để chuẩn bị tình thế, đến ngày 9-3-1945 thì Nhật nổ súng hất cẳng Pháp một cách dễ dàng. Chúng vẫn giữ nguyên bộ máy cai trị cũ, thay người Pháp thành người Nhật: thống sứ Nhật, đốc lý Nhật, chúa ngục Nhật, hiến binh Nhật… Lúc này bộ mặt tàn bạo của phát xít Nhật mới lộ hết chân tướng: ra sức vơ vét cướp bóc, bắt dân nhổ lúa, ngô, trồng đay, thầu dầu phục vụ chiến tranh, đàn áp, bắt bớ phong trào Việt Minh, gây ra nạn đói thê thảm làm chết hai triệu người.
 
      Để tranh thủ sự ủng hộ của người Việt, cùng những nước Á châu khác đang bị Nhật chiếm đóng như Miến Điện, Philippines, Nhật tuyên bố trao trả độc lập cho Việt Nam.
      Ngày 11 tháng 3 năm 1945, triều đình Huế tuyên bố hủy bỏ Hòa ước Patenôtre ký với Pháp năm 1884, khôi phục chủ quyền Việt Nam.
      Vua Bảo Đại liền giải tán Hội đồng cơ mật gồm Thượng thư sáu bộ, tuyên bố từ nay sẽ tự mình cầm quyền nhưng bên cạnh nhà vua là viên Đại sứ Nhật ở Đông Dương Yokoyama làm "Tối cao cố vấn".
Chỉ huy quân Nhật, tướng Tsuchihashi Yuitsu  , nghĩ rằng chỉ cần Việt Nam độc lập trên danh nghĩa và chính phủ mới của Việt Nam phải được Nhật kiểm soát chặt chẽ. Thoạt đầu Phạm Quỳnh được chỉ định tạm quyền nhưng ông này quá thân Pháp, ngoài ra ông ta thấy ngay "nền độc lập" có những giới hạn như giống như hồi còn chế độ bảo hộ Pháp: Không có tự chủ về ngoại giao, không có quân đội, không có độc lập tài chính... Nhật liền chọn một nhân vật ôn hoà hơn và gần gũi với Nhật Bản. Đó chính là Trần Trọng Kim, đang ở Singapore. Theo Daniel Grandcléme, nhà vua Bảo Đại chẳng có vai trò gì trong việc chỉ định này.
 
     Ngày 30 tháng 03 năm 1945, Trần Trọng Kim được Nhật Bản đón từ Băng Cốc về Sài Gòn. Khoảng 5 tháng 04 năm 1945, Trần Trọng Kim đến Huế. Sau khi được yết kiến Bảo đại và gặp Trần Đình Nam, Trần Trọng Kim cũng tán thành giải pháp lập nội các do Ngô Đình Diệm đứng đầu nên một bức điện thứ 2 triệu tập Ngô Đình Diệm được Tối cao cố vấn Yokoyama nhận chuyển đi. Nhưng Ngô Đình Diệm không ra Huế (do Nhật không chuyển điện, hay nhận điện mà từ chối). Bảo Đại triệu Trần Trọng Kim vào tiếp kiến lần thứ hai.
      Trần Trọng Kim và một số trí thức có tiếng tăm được giao thành lập nội các ở Huế vào ngày 17 tháng 4 năm 1945. Đây là một dạng chính phủ nghị viện đầu tiên tại Việt Nam và Trần Trọng Kim trở thành Thủ tướng đầu tiên của Việt Nam. Tham gia Nội các của ông đều là các nhà trí thức luật sư, bác sĩ, kỹ sư (một giáo sư, hai kỹ sư, bốn bác sĩ, bốn luật sư):
  • Trần Đình Nam (1896-1974) y sĩ Đông Dương, Bộ trưởng Nội vụ.
  • Trần Văn Chương (1898 – 1986), Tiến sĩ Luật, Bộ trưởng Ngoại giao.
  • Trịnh Đình Thảo (1901-1986), Tiến sĩ Luật, Bộ trưởng Tư pháp.
  • Vũ Văn Hiền (1911-1963), Tiến sĩ Luật, Bộ trưởng tài chính.
  • Hoàng Xuân Hãn (1908-1996), Giáo sư, Thạc sĩ toán học, Bộ trưởng giáo dục và Mỹ thuật.
  • Vũ Ngọc Ánh (1901-1945), Bác sĩ Y khoa, Bộ trưởng Y tế.
  • Lưu Văn Lang (1880-1969), Kỹ sư bách nghệ được vua Bảo đại mời làm Bộ trưởng Công chính, nhưng đến giờ chót ông từ chối vì tuổi cao.
  • Hồ Tá Khanh (1908-1996), Bác sĩ Y khoa, Bộ trưởng Kinh tế.
  • Nguyễn Hữu Thi (1899-?), Y sĩ, đại thương gia, Bộ trưởng tiếp tế.
  • Phan Anh (1911-1990) Luật sư, Bộ trưởng Thanh niên.
                          
                 Cờ quẻ Ly của chính phủ Đế quốc Việt Nam, 9 tháng 3 1945 - 22 tháng 8 1945 
    
  Ngoài các thành viên Nội các, nhiều nhà trí thức có tiếng tăm cùng tham gia công việc của chính quyền: Phan Kế Toại (Khâm sai Bắc bộ), Bác sĩ Trần Văn Lai (Thị trưởng Hà Nội), Giáo sư Nguyễn Lân (Thị trưởng Huế), Phó bảng Đặng Văn Hướng (Tỉnh trưởng Nghệ An), Phó bảng Hà Văn Đại (Tỉnh trưởng Hà Tĩnh), Giáo sư Đặng Thai Mai (Tỉnh trưởng Thanh Hóa)… Các ông Hoàng Đạo Thúy, Tạ Quang Bửu, Trần Duy Hưng, Nguyễn Xiển, Vũ Văn Cẩn, Ngụy Như Kontum, được mời ra thành lập Hội đồng Thanh niên. Tạ Quang Bửu được mời làm Cố vấn đặc vụ ủy viên Bộ Thanh niên và Kỹ sư Lê Duy Thước làm Chánh văn phòng Bộ.
      Một chính phủ được thành lập trong bối cảnh lịch sử như chính phủ Trần Trọng Kim, thông thường dễ bị coi là thân Nhật, là tay sai Nhật. Và thực tế đã là như vậy. Luật sư Phan Anh, một bộ trưởng trong chính phủ Trần Trọng Kim, sau này viết:
“Chúng tôi đã lầm rất lớn. Chúng tôi đã tưởng lợi dụng được một đế quốc chống một đế quốc khác, tranh thủ quyền lợi về ta, nhưng trái lại bọn Nhật đã lợi dụng chúng tôi, ít nhất cũng là về danh nghĩa. Đó là một bài học đau đớn!”
      Giáo sư Đinh Xuân Lâm có viết: "Nội các Trần Trọng Kim, với thành phần là những trí thức có tên tuổi, trong đó phải kể tới một số nhân vật tiêu biểu của nước ta trước năm 1945, có uy tín đối với nhân dân, như: Trần Trọng Kim, Hoàng Xuân Hãn, Trịnh Đình Thảo, Phan Anh… Thủ đoạn của bọn cầm quyền Nhật Bản là triệt để lợi dụng bộ máy chính quyền do chúng mới dựng lên để lũng đoạn tình hình có lợi cho chúng, chúng chỉ muốn có một chính phủ bù nhìn hoàn toàn để thi hành mọi ý định của chúng".
     Theo Tiến sĩ Lê Mạnh Hùng: "Với an ninh, quốc phòng và kinh tế tài chánh đều nằm trong tay quân đội Nhật, tất cả những gì mà chính phủ Trần Trọng Kim có thể đạt được trong việc giành lại chủ quyền cho Việt Nam thực tế là chỉ có tính cách biểu tượng. Nhưng trong tình huống Đông Dương vào năm chót của thế chiến thứ hai, biểu tượng đóng một vai trò rất quan trọng. Biết rằng thất bại của Nhật Bản chỉ là một vấn đề thời gian, Trần Trọng Kim và chính phủ của ông đưa ra một chương trình nhằm thay đổi tâm lý người Việt đến mức mà đất nước sẽ không thể trở lại tình trạng thuộc địa nữa một khi chiến tranh chấm dứt...".
        Tháng 6 năm 1945, chính phủ Trần Trọng Kim đặt quốc hiệu là Đế quốc Việt Nam; đặt quốc thiều là bài "Đăng đàn cung"; quốc kỳ có "nền vàng hình chữ nhật, giữa có hình quẻ Ly màu đỏ thẫm".
 
                          HUẾ NĂM 1945 VÀ CHÍNH PHỦ TRẦN TRỌNG KIM(*)

                            HUẾ NĂM 1945 VÀ CHÍNH PHỦ TRẦN TRỌNG KIM

      Chính phủ Trần Trọng Kim thực tế vẫn nằm dưới sự bảo hộ của quân đội Nhật chiếm đóng Đông Dương. Nhật Bản đưa ra chính sách Đại Đông Á, tuyên bố "giúp các dân tộc da vàng đánh đổ ách thống trị của thực dân da trắng để lập nên khu vực thịnh vượng chung", nhưng thực ra đó chỉ là một tên gọi cho ách chiếm đóng mới của quân phiệt Nhật. Vai trò của Nhật, theo kế hoạch của người Nhật, không chỉ giới hạn trong lĩnh vực kinh tế, mà còn bảo vệ quân sự và dẫn dắt chính sách nội bộ của các nước trong khối, miền Nam Châu Á sẽ trở thành thị trường và nơi cung cấp nguyên liệu.
       Vì vậy nhiều người cho rằng đây chỉ là một chính phủ bù nhìn thân Nhật, không có thực quyền và không có được sự ủng hộ của dân chúng. Nó được xếp chung với các chính phủ bù nhìn do Nhật thành lập tại các nước bị họ chiếm đóng trong thế chiến thứ 2 như Mãn Châu quốc, Chính phủ Uông Tinh Vệ, Mông Cương, Đệ nhị Cộng hòa Philipine... Cùng với sự bại trận của Nhật Bản trong thế chiến, tất cả các chính phủ này đều tự sụp đổ hoặc bị Đồng Minh giải thể trong năm 1945, dù cho Cách mạng tháng Tám không nổ ra thì chính phủ này cũng sẽ bị giải thể khi quân Đồng Minh (Anh và Pháp) tới Việt Nam vào tháng 9/1945.

                            

                                Nạn đói năm 1945 đã cướp đi hơn 2 triệu sinh mạng đồng bào

      Về hành chánh, Nhật đảo chính lật đổ Pháp ngày 09 tháng 03 năm 1945, nhưng không trao trả toàn bộ chủ quyền đất nước lại cho chính quyền Đế quốc Việt Nam, mà mãi đến tháng 7 năm 1945, sau các cuộc thương lượng của Trần Trọng Kim, toàn quyền Nhật là  Tsuchihashi mới trả lại cho chính phủ Đế quốc Việt Nam ba thành phố nhượng địa Hà Nội, Hải Phòng và Ðà Nẵng kể từ ngày 20 tháng 7 năm 1945. Về việc thu hồi Nam Kỳ thì cuộc thương thuyết với Toàn quyền Tsuchihashi có kết quả mặc dù lúc đầu Tsuchihashi còn do dự vì triều đình Cao Miên cũng đòi đất Nam Kỳ. Trần Trọng Kim phái Nguyễn Văn Sâm là khâm sai vào Sài Gòn tiếp thu. Ở ngoài Bắc thì Thống sứ Nishimura bàn giao với khâm sai Phan Kế Toại tại Hà Nội ngày 12 Tháng 8. Ngày 14 Tháng 8, chính phủ Trần Trọng Kim công bố chính thức tiếp thu Nam Kỳ. Chính phủ Trần Trọng Kim cũng thay chương trình học bằng tiếng Pháp bậc tiểu học và trung học sang chương trình học bằng tiếng Việt, do học giả Hoàng Xuân Hãn biên soạn. Hành chánh được cải tổ với việc dùng chữ Việt trong tất cả các giao dịch của chính phủ ngoại trừ lĩnh vực y tế và các văn thư liên lạc với Pháp hoặc các công ty của người Trung Hoa.
      Việc Nhật chiếm đóng vào thời điểm 1945 đã gây ra những hậu quả tai hại cho Việt Nam như nạn đói năm Ất Dậu. Vấn đề cấp thiết nhất khi đó là việc cứu đói, nhưng chính phủ Trần Trọng Kim đã không làm được điều mình hứa hẹn, chính phủ này không có phương tiện, nhân lực đều do quân Nhật nắm, giao thông đường bộ, đường sắt, đường biển từ Nam ra Bắc thì bị quân Đồng minh cắt đứt nên không thể làm làm tình hình được cải thiện. Nạn đói năm Ất Dậu đã khiến gần 2 triệu người dân Việt Nam (chủ yếu ở miền Bắc) chết đói. Báo Ngày Nay xuất bản tháng 6/1945 nhận xét về sự bất lực hoàn toàn của chính phủ này, viết:
“Chúng tôi nhận thấy ai ai cũng thất vọng và chán nản, vì sau hai tháng hô hào và tốn bao giấy mực, dân đói miền Bắc cũng chưa thấy một bao gạo nào ở Nam đưa ra. Lời tuyên bố của thủ tướng còn vang vọng bên tai ta: “Cần nhất là phải tiếp tế cho dân đói miền Bắc” mà tới nay việc làm vẫn chưa đi theo lời nói; tuy rằng gạo miền Nam vẫn chất đầy trong các kho, các nhà máy, tuy rằng giấy bạc vẫn nằm từng xấp dày trong các két sắt của nhà tư sản Việt Nam, tuy rằng nội các vẫn có một bộ tiếp tế và một bộ tài chính"
       Về vấn đề này, nhà sử học Trần Văn Giàu chỉ ra nguyên nhân của sự bất lực này là do tính chất bù nhìn của chính phủ Trần Trọng Kim:
       Không những vậy, Đạo dụ của chính phủ Trần Trọng Kim ngày 13/6/1945 còn quy định: ai phạm việc phá hoại cầu cống, đường sá, cướp phá hoặc làm hư hại kho ngũ cốc, đồ ăn, gạo, đều bị kết án tử hình. Đạo dụ cũng cấm chỉ mọi cuộc tụ tập trên 10 người. Vì đạo dụ này, nhân dân không dám kéo đi phá kho thóc để chia cho người đói, hàng chục vạn người đã chết đói ngay bên ngoài cửa những kho thóc còn đầy ắp.

                                  

                                                       Hiệu kỳ của Quốc trưởng Bảo Đại.


     Trong khi Bộ Tiếp tế chỉ làm được vài việc vặt, thì Bộ Tài chính của Đế quốc Việt Nam chỉ chuyên làm một việc là gom tiền thuế của dân giao cho Nhật. Chỉ riêng trong 5 tháng tồn tại, Chính phủ Trần Trọng Kim đã nộp cho Nhật Bản khoản tiền 720 triệu đồng Đông Dương (Piastre), ngang với số tiền 726 triệu do chính quyền thực dân Pháp nộp cho Nhật Bản trong 5 năm trước đó (từ 1940 tới 9/3/1945). Tổng cộng trong thời gian Thế chiến thứ hai, người Việt Nam đã phải nộp cho Nhật khoản tiền là 1 tỷ 446 triệu Piastre, tương đương 14 tỷ 460 triệu Franc lúc đó.
        Khi quân Nhật thất trận sắp đầu hàng Đồng Minh, chính phủ Trần Trọng Kim cũng chỉ tồn tại được đến ngày 23 tháng 8 năm 1945 thì sụp đổ.
       Con người, bất kể tốt xấu, khi tự do hành động đều vì mục đích danh lợi, và điều đó có tính nguyên tắc. Ngày nay nhìn lại, thật là kỳ quặc khi thấy một nước phát xít đi xâm lược lại nhủ lòng thương, trao trả độc lập thật sự cho nhân dân nước bị xâm lược. Chỉ có thể đó là hành động mỵ dân. Như vậy, chính phủ Trần Trọng Kim, không thể khác, phải là chính phủ bù nhìn và Trần Trọng Kim là một con người ngây thơ hoặc thiển cận về chính trị!
      Chính phủ Trần Trọng Kim không có quân đội để tránh phải tham gia chiến tranh thế giới thứ II với tư cách đồng minh của Nhật Bản. Bộ trưởng Bộ thanh niên Phan Anh đã thành lập đoàn Thanh niên Tiền tuyến, Thanh niên Xã hội để thực hiện công tác trị an, bảo vệ. Tuy nhiên khi Cách mạng Tháng Tám nổ ra, lực lượng Thanh niên Tiền tuyến đã rời bỏ hàng ngũ Đế quốc Việt Nam để quay sang ủng hộ lực lượng Việt Minh. Trường Thanh niên tiền tuyến đã đào tạo ra nhiều tướng lĩnh, sĩ quan của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sau này.
      Mới ra mắt được 4 tháng, ngày 5/8/1945, hàng loạt thành viên nội các Trần Trọng Kim xin từ chức: 3 bộ trưởng xin từ nhiệm, Bộ trưởng Vũ Ngọc Anh qua đời vì trúng bom máy bay Mỹ. Các bộ trưởng khác tuyên bố bản thân họ cũng bất lực, bởi không thể làm được việc gì nếu không được cố vấn tối cao Nhật đồng ý, trong khi vua Bảo Đại chỉ lo ăn chơi, săn bắn mà không quan tâm đến chính trị. Trần Trọng Kim cố gắng liên hệ nhưng các nhân vật cấp tiến đều khước từ cộng tác, đến đầu tháng 8 thì chính Trần Trọng Kim cũng nản lòng. Ông nói mình bị "tăng huyết áp" và không ra khỏi nhà.
      Trong hồi ký của mình, Trần Trọng Kim viết về giai đoạn làm chính trị dưới sự khống chế của Nhật Bản:

      Sau khi Việt Minh giành được chính quyền và nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã đối xử với trần Trọng Kim cực kỳ ưu đãi, hiếm thấy ở một cuộc cách mạng nào. Ông được sống yên ổn tự do ở nhà, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa còn cấp tiền lương cho ông ăn. Chính ông đã viết trong hồi ký: “Bây giờ tôi không có tiền, may nhờ chính phủ Việt Minh ở Huế trả tôi 1.600 đồng tiền lương quá nửa tháng 8 tôi mới có tiền chi tiêu”. Món tiền 1.600 đồng lúc ấy là không hề nhỏ, có thể mua được hai tấn gạo.

                                   
                                 
Hình ảnh lưu lại- Năm 1945 - Nội các chính phủ Trần Trọng Kim trình diện Hoàng Đế Bảo Đại và ra mắt quốc dân.

     Tháng 6-1946, khi quân Quốc dân đảng Trung Quốc phải rút về nước, ông sang Trung Quốc tìm gặp cựu hoàng Bảo Đại đang ở Hồng Kông. Ông cùng Bảo Đại bàn mưu tính kế khôi phục lại ngôi báu nhà Nguyễn, có cả Cousseau, chỉ huy mật thám Pháp tham dự.
Sau nhiều năm tháng ở Quảng Châu và Hồng Kông, ngày 6 tháng 2 năm 1947, ông trở về Sài Gòn và sống tại nhà luật sư Trịnh Đình Thảo.
     Người Pháp thu xếp cho ông trở về Sài Gòn để vận động thành lập chính phủ mới. Về đến Sài Gòn, ông nhận ra rằng những lời hứa hẹn của người Pháp là giả dối nên ông quyết định không làm gì.
Năm 1948, ông qua Phnom Penh và sống với người con gái. Sau đó, ông lại trở về Việt Nam sống thầm lặng và mất tại Đà Lạt vào ngày 2 tháng 12 năm 1953, thọ 71 tuổi.
     Ngày nay vẫn nhiều người còn mơ hồ, bị hiểu xuyên tạc về giai đoạn lịch sử giành độc lập đầy tự hào và cũng có phần may mắn của dân tộc Việt, nên cần nói thêm cho rõ về âm mưu thâm độc phát xít Nhật và chính phủ danh nghĩa, bù nhìn Trấn Trọng Kim.

                             Nạn đói ở Việt Nam vào năm 1945

                            Việt Nam chờ lời xin lỗi từ Nhật Bản vì 2 triệu người chết đói


     Khi chủ nghĩa phát xít đã thành tai họa của loài người thì các quốc gia thấy cần liên kết lại tiêu diệt nó. Cùng lúc ở mặt trận châu Âu và châu Phi, quân phát xít Đức, Ý bị đẩy lùi về tận hang ổ của chúng, Hoa Kỳ tham chiến cả trên Đại Tây Đương và Thái Bình Dương, nước Pháp được giải phóng, quân đội Nhật hoàng bị đánh tả tơi cả trên biển và trên lục địa. Đã đến lúc giới quân phiệt Nhật thấy vấn đề Đông Dương không thể tách khỏi những sự kiện đang xảy ra trong vùng Đông Nam Á. Vào những ngày đầu thảng 3/1945, quân Mỹ đã chiếm được đảo Palawan ở Thái Bình Dương, đối mặt với nam bán đảo Đông Dương. Đề phòng tái diễn sự kiện như ở bờ biển Normandie năm trước, lúc này lại có thêm quân Pháp làm hậu thuẫn, tất nhiên là quân Nhật ở Miến Điện, Thái Lan, Malaixia... sẽ hết đường về bảo vệ quốc đảo Phù tang. Phát xít quyết định hất cẳng thực dân. Ngày N, giờ G được xác định. 
     Yếu tồ bất ngờ được Nhật khai thác đến triệt để trong sự kiện ngày 9/3/1945. Cuộc chính biến xảy ra trên toàn cõi Đông Dương vào cùng một ngày, một giờ gần như thống nhất. Quan lính Pháp qua 5 năm sống yên phận chờ thời, dù thấy sự nghi ngờ cũng dễ bỏ qua, giờ vỡ ra thì không kịp trở tay. Mở đầu vào đêm 9/3 bằng những “bữa tiệc máu” và kết thúc lúc sáng hôm sau bằng những cuộc chém giết như thời trung cổ. Khi tiếng súng lệnh nổ thì những tên lính cải trang mà dân chúng ở các thành phố Hải Phòng, Hà Nội, Đà Nẵng, Huế, Sài  gòn... đã quen mặt, hàng ngày tỏ ra lịch thiệp, dễ dãi, bỗng khoác quân phục vào và trở thành những con quỷ dữ khát máu, giết người không gớm tay. Riêng đối với các binh sỹ người Việt Nam thì được đối xử tử tế vì là đồng thanh, đồng chủng, cùng trong Khối thịnh vượng chung. Chỉ trong một đêm, trên toàn cõi Đông dương đã có 2.650 binh sỹ và sỹ quan da trắng bị giết. Trong đó phải kể đến: 1 tướng, 9 đại tá, 20 thiếu tá, 60 đại úy, 91 trung úy, 9 bác sỹ và một thú y bác sỹ. (BS Ngô Văn Quỹ - sđd).

                                  Japanese advance to Lang Son1940.jpg
Các binh sĩ Lục quân Đế quốc Nhật Bản tiến tới Lạng Sơn, vào tháng 9 năm 1940 tại Đông Dương thuộc Pháp.
                                  
                                           Quân Nhật tiến vào Hải Phòng ngày 24/11/1940
                                 https://ichef.bbci.co.uk/news/640/cpsprodpb/33F7/production/_103230331_gettyimages-568884677.jpg
                     Các tướng lĩnh Pháp bị bắt trong ngày Nhật đảo chính Pháp, ngày 9/3/1945.
     Kết cuộc là hệ thống cai trị thực dân hoàn toàn tan rã. Toàn bộ quan chức đầu não và tướng lĩnh Tư lệnh các cấp của Pháp đều bị bắt giam, kể cả Toàn quyền Decoux. Hàng trăm sỹ quan và hàng ngàn binh lính bị chết ngay tại trận hoặc trên các ngả đường trốn chạy. Cả sáu Tập đoàn quân trên toàn cõi Đông Dương như ong vỡ tổ, mạnh ai nấy chạy vào các cánh rừng, tìm lối thoát sang Thái Lan, Miến Điện. Số lớn chạy qua Trung Quốc thì lại bị người Mỹ, người Hoa coi như kẻ thù, bị tấn công, bị xua đuổi từ làng này sang làng khác, bị đói khát, bệnh tật... quân số thương vong thêm quá nửa!
      Tại kinh đô Huế, cuộc chính biến nổ ra lúc 9giờ15phút đêm 9/3, đến 10giờ sáng hôm sau thì kết thúc. Một phần tư trong số hơn một ngàn sĩ quan binh lính Pháp tử trận. Số còn lại hoặc bị bắt hoặc tẩu tán sâu vào dãy Trường Sơn. Lúc 11 giờ, Khâm sứ Nhật Yokoyama vào gặp vua Bảo Đại giải thích tình hình, tuyên bố trao trả độc lập cho Việt Nam, đề nghị vua ra tuyên bố độc lập và chuẩn bị thành lập chính phủ mới trên cơ sở  hợp tác dưới sự bảo trợ của Nhật! Cùng lúc đó, qua đài phát thanh Sài Gòn, Nhật thanh minh cho cuộc tấn công đêm 9/3, đổ lỗi cho phía Pháp thiếu hẳn tinh thần cộng tác, đã tổ chức mạng gián điệp làm việc cho quân Đồng minh, đã tích trữ súng đạn được thả dù xuống, bố trí quân đội để tấn công quân Nhật. Đồng thời cũng tuyên bố từ nay chủ quyền của Pháp ở Đông Dương không còn nữa, các dân tộc ở đây được độc lập nhưng trước mắt vẫn duy trì toàn bộ hệ thống tổ chức chính trị và hành chính của Pháp để lại trên toàn cõi Đông Dương. Ngay hôm sau, 11/3/1945, triều đình Huế tuyên bố: “Theo tình hình thế giới nói chung và hiện tình Á châu, chính phủ Việt Nam long trọng công bố rằng: Kể từ ngày hôm nay, Hòa ước Bảo hộ ký kết với nước Pháp (1884) được hủy bỏ và vô hiệu hóa. Việt Nam thu hồi hoàn toàn chủ quyền của một Quốc gia độc lập!” (Hồi ký Phạm Khắc Hòe).
       Nhật không dễ nhả ra miếng mồi Đông Dương béo bở. Trong khi vua tôi nhà Nguyễn đang loay hoay tìm người lập nội các mới thì ngày 30/3/1945, trong một cuộc họp với công chức Việt Nam ở Long Xuyên, Toàn quyền Minoda (từng học Saint Cyr) nói toạc ra bằng tiếng Pháp để không ai nhầm lẫn: “Il-y-a un grand malentendu au sujet de l’indépendance de l’Indochine. Celle ci tout entière est sous le contrôle militaire du Japon. L’indépendence de l’Empire d’Annam et cellce du Cambodge on été pro clameés. La Cochinchine, non seulement se trouve sous le contrôle militaire du Japon, mais encore sous l’aminis tration militaire japonaise. Donc, pas l’indépendance de la Cochinchine...” (Có một sự hiểu lầm lớn về sự độc lập ở Đông Dương. Sự độc lập này là hoàn toàn ở dưới sự kiểm soát quân sự của Nhật Bản. Sự độc lập của đế chế Trung Kỳ và cũng như của Cao Miên đã được tuyên bố. Nam Kỳ chẳng những ở dưới sự kiểm soát quân sự mà còn dưới cả sự cai trị quân sự của Nhật Bản. Vậy thì không có sự độc lập của Nam Kỳ) (BS Ngô Văn Quỹ - sđd). Sự thực là gần đến những ngày tàn Nhật mới chịu giao lại ba tỉnh nhượng địa Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng (20/7), sau cùng là Nam Kỳ (14/8), đúng vào ngày Nhật ký hiệp ước đầu hàng không điều kiện Đồng minh chống phát xít.
Tất nhiên, việc tìm một chính quyền tay sai người bản xứ cũng được Nhật tính trước từ lâu. Cụ HuỳnhThúc Kháng là một yếu nhân trong phong trào Duy Tân, được nhắm tới đầu tiên, đã thẳng thắn khước từ. Nhưng cách mạng tháng Tám thành công, sau khi tiếp xúc với Hồ Chủ tịch, Cụ nói: "Trong lúc phục hưng dân tộc, xây dựng nước nhà thì bất kỳ già, trẻ, trai, gái, ai cũng ra sức phụng sự Tổ quốc”.



                                                    
   Huỳnh Thúc Kháng
       Huynh Thuc Khang.jpg
       Chức vụ
Nhiệm kỳ31 tháng 5 năm 1946 – 21 tháng 9 năm 1946
0 năm, 113 ngày
Vị trí Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Nhiệm kỳ2 tháng 3 năm 1946 – 21 tháng 4 năm 1947 (mất)
1 năm, 50 ngày
Tiền nhiệmVõ Nguyên Giáp
Kế nhiệmPhan Kế Toại (quyền)
Vị trí Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Thứ trưởngHoàng Hữu Nam
Thông tin chung
Sinh1 tháng 10 năm 1876
Tiên Phước, Quảng Nam, Đại Nam
Mất   21 tháng 4, 1947 (70 tuổi)

 

Nguyễn An Ninh là nhà văn, nhà báo, nhà nghiên cứu tôn giáo và là nhà cách mạng ở đầu th kỷ 20 trong lịch sử Việt Nam. Wikipedia
Sinh: 5 tháng 9, 1900, Chợ Lớn, Việt Nam
Mất: 14 tháng 8, 1943, Côn Đảo, Việt Nam

Bài thơ cuối cùng

Sống và chết
Sống mà vô dụng, sống làm chi
Sống chẳng lương tâm, sống ích gì?
Sống trái đạo người, người thêm tủi
Sống quên ơn nước, nước càng khi.
Sống tai như điếc, lòng đâm thẹn
Sống mắt dường đui, dạ thấy kỳ
Sống sao nên phài, cho nên sống
Sống để muôn đời, sử tạc ghi.
Chết sao danh tiếng vẫn còn hoài
Chết đáng là người đủ mắt tai
Chết được dựng hình tên chẳng mục
Chết đưa vào sử chứ không phai
Chết đó, rõ ràng danh sống mãi
Chết đây, chỉ chết cái hình hài
Chết vì Tổ quốc, đời khen ngợi
Chết cho hậu thế, đẹp tương lai.

Đó thật sự là những con người đẹp, làm việc đẹp và viết nên trang sử đẹp, đáng là niềm tự hào cho mỗi người Việt Nam ta. 

Ngô Đình Diệm cũng được Nhật để mắt tới nhưng họ không lạ gì con người này. Trong tình thế ấy, Trần Trọng Kim là sự lựa chọn cuối cùng. Ông được Nhật đưa sang Chiêu Nam Đảo (Singapour) trước đó cả năm trời, qua Băng Cốc (Thái Lan), về Sài Gòn, ra Huế vào giờ phút chót. Ông viết trong hồi ký “Một cơn gió bụi”:

“Có một điều nên nói cho rõ, là trong khi tôi chọn người lập chính phủ lúc ấy, người Nhật Bản không bao giờ hỏi tôi chọn người này người kia. Tôi được hoàn toàn tự chủ tìm lấy người mà làm việc. Và tôi đã định từ trước rằng nếu người Nhật can thiệp vào việc trong nước thì tôi thôi ngay, không làm nữa. 


“Chừng mười giờ sáng ngày 17 tháng tư năm 1945, tôi đem danh sách ấy vào trình vua Bảo Ðại. Vào đến nơi, tôi thấy ông Yokohama, tối cao cố vấn Nhật, đã ngồi đó rồi. Ông thấy tôi vào liền hỏi: “Cụ đã lập thành chính phủ rồi à?”. Tôi nói: “Vâng, hôm nay tôi đem danh sách các bộ trưởng vào tâu trình hoàng thượng để ngài chuẩn y”.
“Tôi đệ trình vua Bảo Ðại, ngài xem xong phán rằng: “Ðược”. Khi ấy ông Yokohama nói: “Xin cho tôi xem là những ai”. Ông xem rồi, trả lại tôi và nói: “Tôi chúc mừng cụ đã chọn được người rất đứng đắn”. Sự thực là thế, chứ không như người ta đã tưởng tượng là người Nhật Bản bắt tôi phải dùng những người của họ đã định trước”.

Có ai không nghĩ rằng đó là vở kịch được người Nhật dàn dựng từ đầu chí cuối?

Ngày 8/5/1945, chỉ một ngày trước khi phát xít Đức đầu hàng Đồng Minh, tại Huế, Hoàng đế Bảo Đại đọc Tuyên chiếu thành lập nội các. Tân Tổng trưởng đưa ra bản Tuyên cáo khẳng định nền độc lập mới có được sau 80 năm bị Pháp áp chế và cám ơn Nhật Bản đã ra tay “giải phóng”, kêu gọi Quốc dân phải cố gắng sức làm việc, chịu nhiều hy sinh hơn nữa và phải thành thật hợp tác với nước Đại Nhật Bản”, lấy quốc hiệu là Đế quốc Việt Nam, quốc kỳ Quẻ Ly đỏ trên nền vàng (ứng với hoàng đế làm chủ phương Nam). Bà con kinh đô nhạo là “vương rút ruột”. Vấn đề là có thật Nhật “giải phóng” cho Việt Nam không, hay chỉ là động tác tháo vòng xích cũ, choàng vào cổ cái vòng xích mới xiết chặt hơn để kéo dài cơn hấp hối của tên phát xít cuối cùng?!    

Kế hoạch của tân chính phủ đưa ra thì nhiều nhưng chỉ là những ý tưởng hão huyền. Trước hết vì chính quyền quân phiệt Nhật kiềm chế khắt khe cả về mọi mặt. Trong khi chính phủ thì “hữu danh vô thực”: Không lực! Không quyền! Không được nhân dân ủng hộ! Mặt trận Việt Minh kêu gọi phải tận dụng thời cơ, tự ta giải phóng cho ta, đồng thời cảnh báo những ai nhẹ dạ cả tin: “Lợi dụng Nhật tức là tự để mình cho Nhật lợi dụng; lợi dụng Nhật, đi theo Nhật tức là trốn ra ngoài hàng ngũ kháng Nhật cứu nước mà toàn thể đồng bào đương hăng hái bước vào; lợi dụng Nhật là “đánh đu với tinh”; lợi dụng Nhật là tự tử” (Báo Cứu quốc, số 24 ngày 25/6/1945). Yêu cầu bức thiết lúc bấy giờ là cứu đói. Trong khi các kho thóc đầy ắp, ngoài việc cấp ăn cho lính còn dùng thay than cho các tàu thủy, tàu hỏa và nhà máy! Khắp Bắc Kỳ, nhiều làng vắng tanh không một bóng người, cảnh chết đói đầy đường, đầy phố! Việt Minh hô hào phá kho thóc Nhật cứu đói cấp thời, thì tân Chính phủ lại công bố: “Chúng tôi vẫn hợp tác chặt chẽ với nhà đương chức Nhật Bản” và ra lệnh kết án tử hình những ai cướp phá kho tàng ngũ cốc! Cái gọi là Bộ Tiếp tế làm được vài việc vặt, coi như vô dụng! Bộ Tài chính chuyên làm một việc gom tiền thuế của dân giao cho giặc! Chỉ riêng trong 5 tháng tồn tại, Chính phủ Trần Trọng Kim đã nộp cho Nhật khoản tiền 720triệu Đồng Đông Dương (Piastre), không thua số tiền 726triệu do chính quyền Decoux nộp trong 5 năm (1940-1945). Cụ thể là: 1940: 6tr; 1941: 58tr; 1942: 86tr; 1943: 116tr; 1944: 360tr; 1945 cho đến ngày 9/3: 100tr. Tổng cộng trong thời gian Thế chiến hai, chính quyền Đông Dương đã nộp cho Nhật 1 tỷ 446 triệu Piastre, tương đương 14 tỷ 460 triệu Franc lúc đó (BS Ngô Văn Quỹ - sđd). Thật sự đó là tội ác với nhân dân và lịch sử mà chính quyền Trần Trọng Kim không thể chạy tội được! Vai trò lịch sử của nội các do ông lãnh đạo thực chất là như thế. Dù rằng thành viên trong nội các đều là những người có đủ học thức và đức hạnh, chánh trực thanh liêm, lúc hữu sự muốn góp phần mình giúp nước nhưng trước thực tế đều thấy bị cô lập và bất lực, rã đám dần.  Sau cách mạng tháng Tám, phân nửa các vị theo Chính phủ kháng chiến cho tới ngày thắng lợi hoàn toàn. Một số ra định cư ở nước ngoài và hầu như không có ai hợp tác với các chính quyền tay sai ngoại bang sau đó.

       Luật sư Phan Anh, người sớm nhận ra sự thật, đứng hẳn về phía cách mạng và có những đóng góp to lớn, sau này viết: “Chúng tôi đã lầm rất lớn. Chúng tôi đã tưởng lợi dụng được một đế quốc chống một đế quốc khác, tranh thủ quyền lợi về ta, nhưng trái lại bọn Nhật đã lợi dụng chúng tôi, ít nhất cũng là về danh nghĩa. Đó là một bài học đau đớn!” (Phan Anh – Con đường đi tới cách mạng tháng 8 của tôi – Báo Nhân dân số 2346 ngày 21/8/1960). Giả như có một “khoảng trống quyền lực” mà nhân dân không được tổ chức, không có lực lượng thì làm sao giành được chính quyền? Huống chi quyền lực vẫn nằm trong tay quân phiệt Nhật tới giờ phút chót! Đó là sự thật lịch sử! Riêng vị Tổng trưởng nội các, sau khi quân Nhật bị giải giáp về nước, cách mạng tháng Tám thành công, quân Pháp quay lại tái xâm lược Việt Nam, ngài lại tìm đến cố vấn Vĩnh Thụy đang đào tẩu ở Hương Cảng, theo lời phế đế về Sài Gòn nghe ngóng. Ở đây, vị học giả đã nhìn ra chân tướng cái xã hội nhố nhăng này: “Tôi xem việc người Pháp làm, không thấy gì là chân thực. Liên hiệp Pháp chỉ là một thứ cũi chó mạ vàng! Còn về phương diện người mình, thì không có gì đáng vui, phe nọ đảng kia lăng nhăng chẳng đâu vào đâu cả!”. Và nhìn ra một sự thật là: “Tôi vẫn biết việc chống với Pháp chỉ có Việt Minh mới làm nổi”. Tuy nhiên nhà nho vẫn loanh quanh xứ trời nam, hy vọng  được mời ra hợp tác với lời an ủi của bậc thánh hiền: “Dụng chi tắc hành. Xả chi tắc tàng” (Dùng thì ra làm việc. Bỏ thì ở ẩn). Mòn mỏi đợi chờ, trước khi bỏ xác xứ người, ông thầy ngán ngẩm thở than: “Nghĩ cho cùng, ở đời chẳng cái đếch gì ra cái đếch gì”!

                                                                       ***  

Cách mạng Việt Nam, sau ngày Nhật đảo chính Pháp, bước vào thời kỳ cao trào chống Nhật, cứu nước. Bản chỉ thị “Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” của Trung ương Đảng trở thành kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng và của Mặt trận Việt Minh. Ban thường vụ Trung ương Đảng chỉ rõ: “Nếu Nhật đem quân đánh phá khu du kích thì đội quân du kích phải khéo dùng chiến thuật hóa chẵn thành lẻ, hóa lẻ thành chẵn phối hợp với nhân dân đằng sau quân địch đánh phá, nhiễu loạn làm cho chúng phải rút lui”.
Tháng 4-1945, Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ của Đảng ra nghị quyết về nhiệm vụ chống lại cuộc tấn công của Nhật vào các khu căn cứ địa, đại ý như sau:
- Vì là đang thời kỳ xây dựng lực lượng vũ trang chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa, nên phải dùng chiến thuật đánh du kích, đánh úp địch bằng những trận nhỏ, nắm chắc phần thắng để giữ gìn và bồi dưỡng lực lượng.
- Phát động du kích thành nhiều chiến khu, nhiều căn cứ địa để đề phòng địch bao vây.
- Dùng chiến thuật “dĩ công vi thủ” (lấy tấn công làm phòng thủ) mà đối phó khi địch bao vây. Nếu không giữ được căn cứ thì kiên quyết rút lui để bảo toàn lực lượng.
- Thi hành vườn không nhà trống.
- Các chiến khu và căn cứ địa phải liên kết chặt chẽ, tương ứng được với nhau.
Từ sau ngày 9-3 đến cuối tháng 4-1945, bằng nhiều hình thức hoạt động du kích kết hợp với nổi dậy của nhân dân địa phương, Việt Minh đã giải phóng được phần lớn nông thôn của 6 tỉnh ở Việt Bắc, lập chính quyền cách mạng ở những vùng đó.

Sau khi hất cẳng Pháp, đến cuối tháng 3, quân Nhật bắt đầu tràn lên chiếm đóng các tỉnh lỵ, sục xuống các làng xã, tiến đánh các khu du kích, đặc biệt, vào trung tuần tháng 5, chúng huy động hàng ngàn quân mở cuộc càn quét lớn khu căn cứ của Việt Minh ở giữa sông Lô và quốc lộ 3.
Bằng cuộc chiến tranh du kích ở các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang và Thái Nguyên, các lực lượng vũ trang cách mạng và quần chúng nhân dân đã nhanh chóng bẻ gãy các mũi tiến công càn quét của Nhật, đánh bật chúng ra khỏi các vùng giải phóng, bao vây chúng trong một số huyện lỵ, tỉnh lỵ, vừa giữ vững được chính quyền cách mạng, vừa tiếp tục mở rộng vùng giải phóng.
Sau khi Khu giải phóng Việt Bắc được thành lập, quân Nhật lại tiếp tục mở các cuộc càn quét mới, nhưng đều thất bại. Không những bảo vệ vững chắc cùng giải phóng đã tạo lập được, các lực lượng vũ trang cách mạng ở Việt Bắc đã sẵn sàng cùng toàn dân xông lên, tổng khởi nghĩa…

                                                       
Võ Nguyên Giáp (ngoài cùng bên trái) trong buổi lễ thành lập đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng Quân
      Ngoài căn cứ địa Việt Bắc ra, hoạt động thành lập chiến khu, căn cứ địa và đấu tranh du kích để bảo vệ và mở rộng những địa bàn đó của Việt Minh cũng diễn ra tại những nơi khác ở Bắc Kỳ, Trung Kỳ và cả ở Nam Kỳ (vùng Tân Uyên đang manh nha trở thành căn cứ địa, sau này trở nên lừng danh với cái tên: Chiến khu Đ).
      Khi Thế chiến thứ II sắp kết thúc, Nhật còn muốn nắm lực lượng thanh niên để phục vụ mưu đồ riêng. Ở Nam Kỳ Nhật mời Bác sỹ Phạm Ngọc Thạch lập Thanh niên Tiền phong, biểu trưng là cờ nền vàng sao đỏ (thực ra xứ ủy Nam Kỳ đã chủ động nắm tổ chức này). Nhật cũng vận động Bộ trưởng Phan Anh lập ra tổ chức thanh niên. Lúc này ở Bắc Kỳ đã có “Đoàn Thanh niên cứu quốc” trong đoàn thể Việt Minh. Tổ chức “Thanh niên Phan Anh” ra đời ở Huế. Ông bàn với giáo sư Tạ Quang Bửu là người có ảnh hưởng rất lớn trong giới học sinh ở Huế đứng ra mở “Trường võ bị thanh niên tiền tuyến” và mời ông Phan Tử Lăng – võ quan chỉ huy lực lượng Bảo an binh ở kinh đô Huế và cả Trung kỳ, làm Hiệu trưởng. Các ông đều có tinh thần dân tộc cao và sớm liên hệ với Việt Minh. Nhà trường kêu gọi: “Đất nước ta sẽ rất cần thanh niên có học, có hiểu biết về quân sự” và hứa: “Học xong không bắt buộc ra làm việc cho chính phủ”! Thực chất là chủ động chuẩn bị bổ sung cho lực lượng vũ trang yêu nước khi cần. Số người ghi danh vào học khá đông, có cả một số sinh viên từ Hà Nội vào theo học. Lá “cờ quẻ kiền” ba sọc đỏ (tượng trưng cho người quân tử làm điều nghĩa hiệp), được lấy làm biểu tượng của thanh niên Võ bị. 
     Vậy là Mặt trận Việt Minh thông qua những người yêu nước, chủ động biến tướng một tổ chức phục vụ cho ý đồ của Nhật thành một tổ chức nòng cốt của mình. Cách mạng thành công, đổi tên là “Trường võ bị Thuận Hóa” và mở rộng thành phong trào “Thanh niên tiền tuyến”, góp phần đẩy mạnh phong trào “Nam tiến” sôi động trong cả nước, bổ sung tiếp ứng kịp thời cho mặt trận phía Nam. Nước nhà vừa độc lập thì bước ngay vào cuộc kháng chiến từ Nam lan nhanh ra Bắc. Cũng như Thanh niên Tiền phong,  Thanh niên Tiền tuyến chấm dứt vai trò lịch sử, hợp nhất vào tổ chức Thanh niên cứu quốc trong Mặt trận Việt minh. Cuộc trường kỳ kháng chiến giành thống nhất, độc lập kết thúc thắng lợi, tám học viên khóa đầu của Trường võ bị được phong quân hàm cấp tướng (Hồi ký của Thiếu tướng QĐNDVN Mai xuân Tần).

                               Quân lính Pháp tại một quán cafe vỉa hè ở Sài Gòn.
                                        Quân lính Pháp tại một quán cafe vỉa hè ở Sài Gòn

    Nhân chuyến công cán qua Trung Quốc, Cố vấn tối cao Vĩnh Thụy đào nhiệm và lưu trú ở Hồng Công. Giữa năm 1948, kế hoạch “đánh nhanh thắng nhanh” thất bại, chủ cũ tìm đến ký với phế đế cái gọi là Hiệp định Hạ Long, công nhận nền độc lập của Việt Nam  nằm trong khối Liên hiệp Pháp và lập ra cái chính phủ quốc gia! Phục dựng lá “cờ quẻ kiền” làm quốc kỳ và lấy bài hát “Tiếng gọi thanh niên” (của Lưu Hữu Phước) ra đời trong phong trào thanh niên tiền khởi nghĩa, làm quốc ca. Ngay lập tức, Chính phủ kháng chiến Hồ Chí Minh ra tuyên bố cảnh cáo: “Chính phủ và nhân dân Việt Nam sẽ theo pháp luật nước nhà trừng trị bọn phản quốc ấy. Đối với các nước trên thế giới, tôi thay mặt chính phủ và nhân dân nước Việt Nam dân chủ cộng hòa trịnh trọng tuyên bố không bao giờ thừa nhận những giấy tờ gì do bọn bù nhìn ấy ký kết với bất cứ nước nào”!
         “Quân đội quốc gia” được gấp rút nặn ra. Với lệnh Tổng động viên, học sinh trung học ở các thành thị trong vùng tạm chiếm bị dồn vào các trường sỹ quan trù bị Nam Định, Thủ Đức và Võ bị Đà Lạt. Lá “cờ quẻ kiền” với bài ca vốn ra đời từ phong trào yêu nước sôi nổi chống ngoại xâm nhưng đã bị đánh tráo nhận vơ cho cái quốc gia ngụy tạo! Từ đấy “cờ quẻ kiền” hết đi sau “cờ tam tài” rồi “cờ hoa” trong những cuộc tàn sát, khủng bố, giết chóc đồng bào ta!
Ngày 8-8-1945, Liên Xô tuyên chiến với Nhật và ngay lập tức tấn công đội quân Quan Đông ở Mãn Châu. Sự kiện này làm rúng động chính quyền Nhật ở Đông Dương, gây chia rẽ, tan rã, mất tinh thần quân Nhật đóng ở đó. Mặt khác nó cũng mở ra cơ hội cho thực dân Pháp đang lăm le khôi phục lại địa vị của chúng ở Việt Nam.
Khoảng giữa tháng 8-1945, Trung ương Đảng khẩn trương triệu tập Hội nghị toàn quốc của Đảng. Giữa lúc Hội nghị đang họp thì nhận được tin Nhật tuyên bố đầu hàng Đồng Minh. Sau khi nhận định tình hình, Hội nghị đã xác định: “Cơ hội rất tốt cho ta giành quyền độc lập đã tới”, “Tình hình vô cùng khẩn cấp”. Ngay đêm 13-8, Ủy ban khởi nghĩa được thành lập. Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi toàn dân tổng khởi nghĩa. Ủy ban khởi nghĩa ra quân lệnh số 1. Tất cả các đơn vị Giải phóng quân được lệnh chiến đấu.

                       
                                         Lệnh tổng khởi nghĩa được phát hành rộng rãi
                                       và được toàn thể nhân dân đồng tình hưởng ứng
Quân Nhật ở Đông Dương lúc này còn nguyên một quân đoàn (quân đoàn số 38) với 6 vạn người vẫn trang bị đầy đủ vũ khí và các đơn vị không quân, hải quân… cùng với lực lượng ngụy quân gồm hơn 2 vạn lính bảo an. Tuy nhiên tinh thần chiến đấu của chúng đã không còn nữa. 
Trong khi đó, lực lượng vũ trang cách mạng mới chỉ có khoảng 5 ngàn Giải phóng quân và khoảng vài vạn dân quân tự vệ với trang bị vũ khí kém nhưng tinh thần chiến đấu lại rất cao, thể hiện ý chí quật cường của cả một dân tộc đang khao khát độc lập tự do hơn bao giờ hết, tựu trung trong câu nói của Hồ Chí Minh: “Lúc này, thời cơ thuận lợi đã tới, dù hy sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”.
Với khí thế sục sôi cao độ đó, với sách lược mềm dẻo “trung lập hóa quân Nhật”, trong thời cơ chín muồi có một không hai đó, chỉ trong vòng 12 ngày, Tổng khởi nghĩa giành chính quyền đã thành công trên hầu khắp đất nước Việt Nam. Có thể nói sự thành công này là kết quả của hành động kiên quyết cách mạng có thế và lực áp đảo quân thù. 
Lực có được là từ sự đấu tranh bền bỉ, chuẩn bị lâu dài, thế có được là do biết chớp được thời cơ và ở đây thời cơ đã trở thành một lực lượng quan trọng, to lớn của cách mạng. Hay có thể nói khác đi rằng: thời cơ đã làm cho chính quyền Nhật và tay sai ở Việt Nam trở thành một cái xác cồng kềnh nhưng đã mất hồn và bất lực.

                                  Hình ảnh Đại đoàn kết - Bài học tuyệt vời từ Cách mạng Tháng Tám số 1

Riêng ở Hà Nội kính yêu, diễn tiến của phong trào Cách mạng dẫn đến khởi nghĩa cướp chính quyền được tóm tắt như sau:
Chỉ trong vòng 5 tháng (từ ngày Nhật đảo chính Pháp đến tháng 8-1945), phong trào đấu tranh của công nhân, quần chúng Hà Nội bộc phát, sôi nổi và mang tính chất tập dượt, biểu dương lực lượng chính trị. Cũng sau ngày 9-3-1945, ở Hà Nội ra đời những lực lượng vũ trang tuyên truyền đầu tiên. Tháng 4-1945, Thành ủy triệu tập hội nghị quyết định đẩy mạnh việc phát triển các đội tự vệ chiến đấu, tuyên truyền xung phong, tổ chức mua sắm vũ khí và mở các lớp huấn luyện tuyên truyền cấp tốc.
Ngày 20-4-1945, hàng trăm thanh niên nam nữ nội thành đã được huy động đến tham dư cuộc mít tinh lớn tại xã Mễ Trì (huyện Từ Liêm). 
Ngày 29-4, một cuộc mít tinh gồm hàng ngàn thanh niên được tổ chức ở chợ Canh (Hoài Đức). Tại đây, các nữ đội viên tuyên truyền xung phong đã giải thích tình hình và kêu gọi quần chúng tham gia Việt Minh đánh Nhật cứu nước. 
Trong tháng 5, Đoàn thanh niên xung phong Hoàng Diệu đột nhập diễn thuyết ở nhiều nơi như: trường Gia Long (phố Phủ Doãn), trường Kỹ Nghệ (phố Quang Trung), chợ Láng (quận Đống Đa), nhà máy rượu (phố Lò Đúc)… Sang tháng 6, hoạt động xung phong tuyên truyền càng sôi nổi: nói chuyện ở cửa trường Phêlit Phôrơ (cuối đường Trần Phú), cắt ngang buổi diễn ở rạp Tố Như (phố Hàng Bạc) để tuyên truyền chính sách của Việt Minh, phá cuộc mít tinh ngày 17-6 (kỷ niệm Nguyễn Thái Học) do đám Đại Việt (thân Nhật) tổ chức ở vườn Bách Thảo với ý đồ ca ngợi phát xít Nhật… Ở vùng ngọai thành phong trào chống Nhật và tay sai cũng phát triển rầm rộ…
Ở Hà Nội, các sinh viên cánh tả tổ chức biểu tình với danh nghĩa Tổng hội sinh viên kêu gọi Bảo Đại thoái vị, thành lập nền cộng hòa dưới sự bảo trợ của Việt Minh, yêu cầu Việt Minh thảo luận với tất cả các đảng phái để thành lập chính phủ Lâm thời, đồng thời kêu gọi nhân dân và các đảng phái ủng hộ chính phủ Lâm thời bảo vệ nền độc lập của đất nước. Việt Minh phát động công nhân, nông dân cướp chính quyền trên toàn quốc. Trước áp lực đó, Bảo Đại mời Việt Minh thành lập một chính phủ mới dưới quyền ông thay thế chính phủ Trần Trọng Kim.
Tháng 5/1945, các thành viên của các đảng Đại Việt Quốc dân Đảng, Đại Việt Dân chính Đảng thân Nhật và Việt Nam Quốc dân Đảng (Việt Quốc) gặp nhau tại Trung Quốc để thành lập một liên minh đặc biệt nhằm phối hợp hoạt động giữa các nhóm trong nước và nhóm lưu vong trong trường hợp Trung Quốc đưa quân vào Đông Dương. Đại Việt Dân chính Đảng sáp nhập vào Việt Nam Quốc dân Đảng.
 Khi Nhật tuyên bố đầu hàng vào tháng 8/1945, ở Việt Nam chỉ có lực lượng vũ trang của Đại Việt còn lực lượng vũ trang của Việt Nam Quốc dân Đảng vẫn còn ở Trung Quốc. Ngày 17/8/1945, Trương Tử Anh, Đảng trưởng Đại Việt Quốc dân Đảng, dẫn đầu một đơn vị 250 người hành quân vào Hà Nội. 
Tuy nhiên ngày 19/8/1945, lực lượng này đã không ngăn cản Việt Minh cướp chính quyền tại Hà Nội. Tối hôm đó, các đảng viên Đại Việt và Việt Quốc tổ chức họp nhưng không thống nhất được kế hoạch chống Việt Minh giành chính quyền. 
Các đơn vị khác của Đại Việt ở các tỉnh không thể tiến về Hà Nội do lũ sông Hồng. Quân đội của Đại Việt rút về phía Đông và phía Tây Hà Nội chờ diễn biến tình hình. 


Đại Việt Dân chính Đảng
Chủ tịch Nguyễn Tường Long
Tổng bí thư Nguyễn Tường Tam
Thành lập 1938
Giải tán 1945
Báo chí Ngày Nay
Ý thức hệ Chủ nghĩa Tam Dân

Việt Nam Quốc dân Đảng
 
Lãnh tụ Nguyễn Thái Học
Vũ Hồng Khanh
Nguyễn Tường Tam
Chủ tịch Trần Tử Thanh
Thành lập 25 tháng 12, 1927
Báo chí Tiếng dân
Tổ chức thanh niên Đoàn thanh niên Ký Con
Đoàn thanh sinh Phó Đức Chính
Ý thức hệ Chủ nghĩa xã hội dân chủ, chủ nghĩa Tam Dân (Dân tộc độc lập, Dân quyền tự do , Dân sinh hạnh phúc)
Đầu tháng 7-1945, hai đại biểu Thành ủy Hà Nội đi dự Hội nghị toàn quốc của Đảng ở Tân Trào và một đoàn đại biểu nhân dân Hà Nội cùng lên đường đến Tân Trào dự Quốc dân đại hội. Bước sang tháng 8, điều kiện chuẩn bị khởi nghĩa về chủ quan đã chín muồi và tình thế thuận lợi khách quan đã xuất hiện. 
Chính quyền tay sai bù nhìn ở Bắc Kỳ lúc này đã thực sự hoảng sợ, ngỏ ý muốn gặp đại diện của Việt Minh. Ngày 13-8, Nguyễn Khang dẫn đầu một phái đoàn Việt Minh đến gặp Khâm sai Bắc Kỳ. Trong cuộc gặp gỡ này, phía chính phủ bù nhìn nói rõ ý muốn mời Việt Minh tham gia chính quyền và xin ngừng bạo động chống Nhật: Họ sẽ đứng ra điều đình để Nhật trao lại quyền độc lập(!) và cả vũ khí. Một đề nghị thật sự khôi hài! Phía Việt Minh đã bác nó, tuyên bố rõ lập trường chống phát xít và đường lối cách mạng của mình.
Ngày 15-8, chính phủ Nhật chính thức đầu hàng Đồng Minh. Ở Hà Nội, các nơi Nhật đóng quân đều treo cờ rũ. Xứ ủy Bắc Kỳ họp ngay tại cơ sở làng Vạn Phúc (thị xã Hà Đông), chủ động ra quyết định xúc tiến khởi nghĩa giành chính quyền ở các tỉnh do Xứ ủy phụ trách (chủ trương của Hội nghị Đảng toàn quốc và Quốc dân đại hội tại Tân Trào đã có nhưng chưa kịp truyền đạt tới). 
Hội nghị cán bộ quân sự bất thường được Thành ủy Hà Nội triệu tập tại chùa Hà (làng Dịch Vọng, huyện Từ Liêm) để bàn công tác quân sự chuẩn bị cho khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Nội.
Một ngày sau, tức ngày 16-8, Thành ủy lại triệu tập một hội nghị cán bộ mở rộng ở xóm Duệ Tú (làng Dịch Vọng), để thông báo quân lệnh số 1 (vừa nhận được) và thành lập Ủy ban quân sự cách mạng Hà Nội - sau này gọi là Ủy ban khởi nghĩa. Tối hôm sau, ủy ban đã triệu tập cuộc họp tại nhà bà Hai Nhã (làng Dịch Vọng, huyện Từ Liêm) để quyết định kế hoạch và ngày giờ khởi nghĩa.
Ngày 17-8, báo chí hàng ngày đã công khai thông tin Nhật đầu hàng vô điều kiện.
 Cũng trong ngày đó, cái gọi là Hội đồng Tư vấn Bắc Kỳ họp ở Khai trì tiến đức (nay là phòng bán vé máy bay ở phố Lê Thái Tổ) với mục đích tìm cách chống phá cuộc khởi nghĩa mới phát động của Việt Minh. 
Vào buổi chiều, cái gọi là Tổng hội viên chức đã tổ chức một cuộc mít tinh tại quảng trường Nhà hát thành phố, nhằm hô hào quần chúng ủng hộ chính quyền bù nhìn. 
Vì Việt Minh đã có sẵn những nhân mối trong tổ chức này nên Ủy ban quân sự cách mạng Hà Nội đã quyết định tương kế tựu kế, chiếm diễn đàn để tuyên truyền cách mạng. Trong dòng người kéo về quảng trường có những tiểu tổ tự vệ chiến đấu, những đoàn viên tuyên truyền xung phong, hội viên các tổ chức cứu quốc… để thi hành nhiệm vụ trên.
Hai giờ chiều, cuộc mít tinh bắt đầu. Sau lời khai mạc, một diễn giả thuộc phe chính phủ bù nhìn chuẩn bị nói thì một đội viên tự vệ đứng cạnh lễ đài bỗng giương cao lá cờ đỏ sao vàng. Hàng vạn người reo lên:
- Cờ Việt Minh! Cờ Việt Minh!...
Tức khắc, từ trong đám đông dự mít tinh trên quảng trường, nhiều lá cờ đỏ sao vàng cũng xuất hiện. Cả biển người náo động. Lính bảo an và cảnh sát có tới hàng trăm tên, súng có trong tay nhưng bất lực. 
Bên lễ đài, cờ (quẻ ly) của bù nhìn bị hạ. Từ bao lơn Nhà hát thành phố, một lá cờ đỏ sao vàng rất lớn tỏa ra phủ kín mặt trước lễ đài. Cả biển người lại đồng loạt vỗ tay vang dậy. Một đội viên tuyên truyền xung phong Việt Minh bước đến trước loa phóng thanh và sau khi sự ồn ào dịu xuống, đã nói về những chuyển biến của tình hình thế giới rồi kêu gọi đồng bào đoàn kết, cầm vũ khí nổi dậy. Tiếp đó, một đại biểu phụ nữ lên hô hào nữ giới tham gia khởi nghĩa.
Tiếng reo hò hưởng ứng Việt Minh từ quần chúng tham gia mít tinh lại vang lên. Ông Nguyễn Khang, đại diện cho Mặt trận Việt Minh kêu gọi nhân dân Hà Nội vùng lên khởi nghĩa và đề nghị quần chúng có mặt tại cuộc mít tinh chuyển sang biểu tình tuần hành. 
Đồng bào hưởng ứng ngay và nhanh chóng xếp thành đội ngũ dưới sự hướng dẫn của các tiểu tổ tự vệ chiến đấu, hội viên cứu quốc… Theo hiệu lệnh từ loa phóng thanh, một đoàn biểu tình phút chốc được hình thành và bắt đầu tuần hành. 
Có thể nói rằng chính thời khắc này là phút giây đầu tiên của Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám ở Hà Nội nói riêng và cả nước nói chung.
Đoàn biểu tình có lá cờ đỏ sao vàng dẫn đầu đi dọc phố Tràng Tiền, tới Bờ Hồ thì rẽ sang phố Đinh Tiên Hoàng. Dọc đường, người ở hai bên hè phố nhập vào đoàn ngày một đông. Ban đầu, đám lính bảo an và cảnh sát của chính quyền bù nhìn còn đi trên hè, nhưng đến vườn hoa Chí Linh, theo sự vận động của tiểu tổ tự vệ, họ cũng nhập luôn vào hàng ngũ biểu tình. Đoàn biểu tình tiếp tục tuần hành qua Hàng Đào, Hàng Ngang, Đồng Xuân, rẽ sang phố Phan Đình Phùng. Tới đây, trời bỗng đổ mưa rào nhưng đoàn biểu tình vẫn tiến, qua Cửa Bắc, rẽ sang phố Hùng Vương, qua Phủ toàn quyền, xuôi theo đường Cột Cờ (đường Điện Biên Phủ ngày nay), tới Cửa Nam thì tản ra các ngả phố…

                                  
              
Bức họa lễ xuất quân của 34 chiến sỹ Giải phóng quân tại cây đa Tân Trào 8/1945 

Ngay tối hôm ấy (17-8), Ủy ban quân sự cách mạng Hà Nội họp bàn biện pháp cụ thể tiến hành khởi nghĩa và quyết định khởi sự vào sáng ngày 19-8-1945.
Ngày 19-8, mới sáng ra, cả Hà Nội, trên khắp các nẻo đường đã rực rỡ rừng cờ sao. Từ các cửa ô, từng đoàn nông dân lũ lượt tấp vào. Đồng bào ở Láng, Mọc, Thái Hà đã tập hợp thành đội ngũ kéo đi chiếm đại lý Hoàn Long trước khi vào nội thành dự mít tinh. Tất cả các đường ô Cầu Giấy, Chợ Dừa, Cầu Dền, Vống Mác, Yên Phụ, các vùng Chợ Bưởi, Nghĩa Đô, và cả từ bên kia sông Hồng, từ Gia Lâm, Ái Mộ, đồng bào nườm nượp kéo về nội thành. 
Đi đầu từng đoàn là các đội tự vệ, trai thì mặc quần áo nâu chẽn ống, đầu trần, gái thì chít khăn vuông, áo nâu, quần thâm nịt ống. Người nào cũng có một thứ vũ khí trong tay: súng, giáo mác, mã tấu, dao phát bờ, câu liêm, liềm, hái… cả bà con nông dân ở thị xã Hà Đông, Thanh Trì, Thường Tín, Đan Phượng, Hoài Đức cũng nô nức về tụ hội…
Đúng 11 giờ, cuộc mít tinh bắt đầu. Sau phút mặc niệm tưởng nhớ các chiến sĩ cách mạng đã hy sinh, ba phát súng báo hiệu lễ chào cờ. Trong tiếng nhạc của bài “Tiến quân ca” hùng tráng, lá cờ đỏ sao vàng được kéo lên giữa quảng trường. 
Vị đại diện Ủy ban quân sự cách mạng Thành phố lên lễ đài đọc lời kêu gọi toàn dân khởi nghĩa. Sau đó cuộc mít tinh chuyển thành biểu tình vũ trang, chia ra làm hai đoàn chính đi chiếm các công sở. Một đoàn đi chiếm Phủ Khâm sai (phố Ngô Quyền), Tòa Thị chính (phố Đinh Tiên Hoàng) và Sở cảnh sát Trung ương (phố Hàng Bài). Đoàn trước không gặp sự kháng cự nào đáng kể. 
Đoàn sau, lúc đầu bị quân Nhật dùng xe tăng bít các ngả đường, nhưng sau, trước khí thế của quần chúng, địch phải nhượng bộ. Lực lượng Cách mạng thu được 400 súng và thêm một kho vũ khí. Ngoài ra, các đơn vị tự vệ cũng tỏa ra chiếm được kho bạc, sở mật thám…
Đến đây, chính quyền thành phố đã nắm trọn trong tay quần chúng cách mạng. Cuộc khởi nghĩa ở thành phố Hà Nội đã thắng lợi. 
70 năm trước, người dân cả nước đứng lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền, vua Bảo Đại trao ấn kiếm cho đại diện Chính phủ lâm thời trước ngày Hồ Chủ tịch đọc Tuyên ngôn Độc lập. 

Ngày 25/8/1945, Chủ tịch Ủy ban Dân tộc giải phóng Hồ Chí Minh về đến Hà Nội. Hai hôm sau, theo đề nghị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Ủy ban Dân tộc giải phóng do Quốc dân Đại hội ở Tân Trào cử ra được cải tổ thành Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Ngày 28/8/2915, người dân Sài Gòn nổi dậy giành chính quyền. Như vậy, từ ngày 14 đến 28/8, các địa phương cả nước đứng lên Tổng khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi.
Cùng ngày hôm đó, Đoàn Giải phóng quân ở Việt Bắc về duyệt binh ở Quảng trường Nhà hát Lớn, Hà Nội
Chiều 30/8/1945 tại Huế, vua Bảo Đại thoái vị trong một buổi lễ long trọng ở Ngọ Môn, trao quốc ấn Hoàng đế Chi Bửu và thanh kiếm bạc nạm ngọc cho đại diện của Chính phủ lâm thời là ông Trần Huy Liệu
Thắng lợi của Cách mạng tháng 8/1945 và nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời là sự kiện lịch sử trọng đại, đánh dấu bước tiến nhảy vọt của cách mạng Việt Nam. Lần đầu tiên giai cấp công nhân và nhân dân lao động giành được chính quyền trong cả nước. Lần đầu tiên chế độ Dân chủ nhân dân ở Việt Nam ra đời.
Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. 
 
"Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa. Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng Minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!", trích Tuyên ngôn Độc lập.

Tại miền Nam, sau khi đảo Pháp, ngày 14/8/1945, Nhật cho phép Bảo Đại cử một Khâm sai đại thần nắm quyền cai trị tại Nam Kỳ đồng thời bổ nhiệm những người Việt thuộc Mặt trận Quốc gia Thống nhất vào các vị trí trong bộ máy chính quyền do các viên chức dân sự Pháp đã bị Nhật tống giam. 
Ngày 16/8/1945, người Việt tiếp quản Sài Gòn. Điều này được chào đón như một cuộc cách mạng. Ngày 19/8/1945, Khâm sai Nguyễn Văn Sâm đến Sài Gòn. Nhật chuyển giao vũ khí cho chính quyền Việt Nam và các đảng phái thuộc Mặt trận Quốc gia Thống nhất. 
Trong cuộc họp ngày 22/8/1945 của Mặt trận Quốc gia Thống nhất, Trần Văn Giàu thuyết phục các đảng phái trong Mặt trận chuyển giao quyền lực cho Việt Minh vì Mặt trận có thể bị Đồng Minh xem là một tổ chức thân Nhật còn Việt Minh lại đang hợp tác với Đồng Minh (tình báo quân sự Mỹ OSS) chống Nhật.
 Ngày 23/8/1945, Mặt trận Quốc gia Thống nhất quyết định rút lui, nhường quyền lãnh đạo cho Việt Minh thành lập Ủy ban Hành chính Lâm thời Nam Bộ do Trần Văn Giàu làm Chủ tịch. Ngày 25/8/1945, tại Sài Gòn, Việt Minh tuyên bố thành lập Ủy ban Hành chính Lâm thời Nam Bộ gồm 9 người đều là thành viên Việt Minh. Ủy ban Hành chính Lâm thời Nam Bộ ra tuyên bố họ là bộ phận phía Nam của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Tại Huế, Chính phủ Đế quốc Việt Nam đồng loạt từ chức và chuyển giao quyền lực cho phong trào Việt Minh. Theo lời thuật của Phan Anh, Bộ trưởng Bộ Thanh niên thì "với tư cách bộ trưởng, chúng tôi trăm phần trăm ủng hộ Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tất cả, kể cả Thủ tướng Trần Trọng Kim, đã có sự nhất trí toàn vẹn, sâu sắc về sự chuyển tiếp ấy.
Sáng ngày 23 tháng 8, hai phái viên của Việt Minh là Trần Huy Liệu và Cù Huy Cận đến cung điện Huế. Theo lời yêu cầu của hai ông này, chiều ngày 25 tháng 8 năm 1945, Bảo Đại đã đọc Tuyên ngôn Thoái vị trước hàng ngàn người tụ họp trước cửa Ngọ Môn và sau đó trao ấn tín, quốc bảo của hoàng triều cho ông Trần Huy Liệu. Ông thoái vị với lý do "Hạnh phúc của dân Việt Nam, độc lập của nước Việt Nam, muốn đạt mục đích ấy, Trẫm đã sẵn sàng hy sinh hết tất cả mọi phương diện, và cũng vì mục đích ấy nên Trẫm muốn sự hy sinh của Trẫm phải có lợi cho Tổ quốc. Xét thấy điều bổ ích nhất cho Tổ quốc lúc này là sự đoàn kết toàn thể quốc dân, Trẫm đã tuyên bố ngày 22 tháng 8 vừa rồi rằng trong giờ nghiêm trọng này rằng đoàn kết là sống mà chia rẽ là chết. Nay thấy nhiệt vọng dân chủ của quốc dân Bắc bộ lên quá cao, nếu Trẫm cứ ngồi yên mà đợi Quốc hội thì không thể nào tránh khỏi nạn Nam Bắc phân tranh, đã thống khổ cho quốc dân lại thuận tiện cho người ngoài lợi dụng, cho nên mặc dầu Trẫm hết sức đau đớn nghĩ tới công lao Liệt Thánh vào sinh ra tử trong gần bốn trăm năm để mở mang giang sơn đất nước từ Thuận Hóa đến Hà Tiên, mặc dầu Trẫm hết sức bùi ngùi cho nỗi làm vua trong hai mươi năm mới gần gũi quốc dân được mấy tháng chưa làm được gì ích lợi cho quốc dân như lòng Trẫm muốn, Trẫm cũng quả quyết thoái vị để nhường quyền điều khiển quốc dân lại cho một Chính phủ dân chủ Cộng hòa...". Ông cũng yêu cầu chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa: "Đối với các đảng phái đã từng phấn đấu cho nền độc lập quốc gia, nhưng không đi sát theo phong trào dân chúng, Trẫm mong chính phủ mới sẽ lấy sự ôn hòa xử trí để những phần tử ấy cũng có thể giúp vào việc kiến thiết quốc gia và tỏ rằng Chính phủ dân chủ cộng hòa nước ta đã xây đắp ở trên sự đoàn kết của toàn thể nhân dân.". Ông trở thành "công dân Vĩnh Thụy". Trong bản Tuyên ngôn Thoái vị, ông có câu nói: "Trẫm muốn được làm Dân một nước tự do, hơn làm Vua một nước bị trị". 
 Ngày 28 tháng 8 thành lập Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa, tuyên cáo cho biết: "Chính phủ lâm thời không phải là chính phủ riêng của Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) như có người đã lầm tưởng. Cũng không phải là một Chính phủ chỉ bao gồm đại biểu của các chính đảng. Thật là một Chính phủ quốc gia thống nhất, giữ trọng trách là chỉ đạo cho toàn quốc, đợi ngày triệu tập được quốc hội để cử ra một Chính phủ Dân chủ cộng hòa chính thức".
Ngày 24-8-1945, Hồ Chí Minh từ chiến khu Việt Bắc về tới làng Phú Gia (huyện Từ Liêm), hôm sau thì vào nội thành, ở tại nhà số 48 Hàng Ngang.
Ngày 28-8, danh sách Chính phủ lâm thời được công bố trên các báo chí Hà Nội.
Đúng 14 giờ ngày 2-9-1945, các thành viên của Chính phủ Cách mạng lâm thời đã có mặt trên lễ đài. Sau khi chào cờ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản “Tuyên ngôn độc lập”, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, độc lập - tự do - hạnh phúc.
Buổi lễ tổng kết bằng “Lời thề độc lập”:
“Chúng tôi, toàn thể dân Việt Nam xin thề: Kiên quyết một lòng ủng hộ chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hòa, ủng hộ Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Chúng tôi xin thề: cùng Chính phủ giữ vững nền độc lập hoàn toàn cho Tổ quốc, chống mọi mưu mô xâm lược, dù có phải chết cũng cam lòng”.
Không có dấu hiệu của cuộc cách mạng vô sản tại Việt Nam, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyền sở hữu tư nhân phương tiện sản xuất, chỉ quyết định loại bỏ các quan lại và hệ thống phân cấp hành chính và chính trị cũ của Đế quốc Việt Nam, giải tán các Hội đồng Nhân sĩ và thay bằng các Ủy ban Nhân dân do dân địa phương bầu ra. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thực hiện một số cải cách nhưng thận trọng để không tạo ra sự chống đối của giai cấp trung lưu và đại địa chủ...
Ngay sau khi tuyên bố độc lập, Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tổ chức lễ phát động phong trào cứu đói tại Nhà hát lớn Hà Nội. Chính phủ còn phái một ủy ban vào Nam bộ tổ chức vận chuyển gạo ra Bắc. Chính phủ cũng kêu gọi các hội buôn và người dân tham gia vận chuyển lương thực từ Nam ra Bắc. Việc vận chuyển gạo từ Nam ra Bắc chỉ thực hiện được trong tháng 9 năm 1945 với số lượng không quá 30.000 tấn do chiến tranh bùng nổ khi Pháp đưa quân đội vào Nam Kỳ. 
Trong thư gửi đồng bào cả nước đăng trên Báo Cứu Quốc ngày 28-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: "Lúc chúng ta nâng bát cơm mà ăn, nghĩ đến kẻ đói khổ, chúng ta không khỏi động lòng. Vậy tôi xin đề nghị với đồng bào cả nước, và tôi xin thực hiện trước: Cứ 10 ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn ba bữa. Đem gạo đó (mỗi bữa một bơ) để cứu dân nghèo". Chính phủ cũng chi ngân sách sửa chữa các quãng đê bị vỡ, củng cố hệ thống đê điều, đắp thêm một số đê mới. Cho đến đầu năm 1946, hệ thống đê tại miền Bắc đã sửa xong.
Để giải quyết tận gốc nạn đói, Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kêu gọi nhân dân tăng gia sản xuất. Chính phủ còn vận động tư nhân cho mượn các vườn trống quanh nhà để tăng gia sản xuất. Mỗi địa phương lập ra một tiểu ban để huy động nhân lực và tổ chức sản xuất, lương thực làm ra được dùng để cứu tế. Cuối năm 1945 đầu 1946 không còn kịp thời vụ để trồng lúa nữa, nên chính phủ phát động dành phần lớn đất đai để tranh thủ trồng liên tiếp hai vụ màu (khoai lang, đậu, bắp...) bù cho phần lúa thiếu hụt. Kết quả sản lượng màu đã tăng gấp 4 lần so với thời kỳ trước năm 1945. Chỉ trong 5 tháng từ tháng 11/1945 đến tháng 5/1946 đã đạt 614.000 tấn, tương đương 506.000 tấn lúa, đủ đắp được số thiếu hụt của vụ mùa năm 1945.
     Trong năm 1946, nạn đói cơ bản đã được giải quyết. Ngày 2/9/1946, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Võ Nguyên Giáp tuyên bố: "Cuộc cách mạng đã chiến thắng được nạn đói, thật là một kỳ công của chế độ dân chủ". Giáo sư kinh tế Đặng Phong đánh giá việc giải quyết được nạn đói là lý do giải thích tại sao tuyệt đại đa số dân chúng đã tin và đi theo Việt Minh.

Trong sự nghiệp cách mạng vĩ đại của dân tộc ta, dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, lực lượng Công an nhân dân đã được hình thành và từng bước trưởng thành, góp phần xứng đáng vào những thắng lợi vẻ vang của dân tộc.
Trong các tài liệu của Việt Minh những ngày đầu sau độc lập chỉ nhắc đến Việt Minh, tuy nhiên những ngày sau khẳng định việt Minh bao gồm Đảng Cộng sản và các tổ chức khác, và nhấn mạnh các cuộc khởi nghĩa trước đó như Bắc Sơn, Nam Kỳ. 
Ngày 11 tháng 11 năm 1945 Đảng Cộng sản tuyên bố "tự giải tán" (trong khi chiến sự tại Nam Bộ rất ác liệt) đăng tải trên báo Cứu Quốc của Việt Minh ngày 12, kèm tổ chức kỷ niệm ngày sinh Tôn Trung Sơn. Tờ báo đăng tiểu sử nhà đại cách mạng Trung Hoa, cho biết Hồ chủ tịch tham dự chủ tọa buổi lễ do Hội Văn hóa cứu quốc tổ chức, đề nghị nhân dân treo cờ hai nước. Báo cũng cho biết Hiến pháp "ngăn ngừa sự lũng đoạn chính quyền của một giai cấp, một đảng phái, một cá nhân nào". Ngày 13 tháng 11 báo Cứu quốc đã tường trình "Vì những kẻ phản bội quyền lợi dân tộc, cố ý không hiểu chính sách của Việt Minh, phao tin trong dân chúng và dèm pha với các nước Đồng minh rằng Việt Minh là cộng sản sẽ thực hành chính sách cộng sản, mục đích chúng gây sự chia rẽ mặt trận dân tộc, và gieo mối hoài nghi trước thế giới"
Trước đó, báo Cứu quốc ngày 21 tháng 9 đã bác bỏ thành lập Mặt trận công nông thay cho Mặt trận dân tộc thống nhất với lý do "Đã bao năm dưới ách phát xít Nhật - Pháp chẳng những công nhân bị thất nghiệp, nông dân bị phá sản, cả địa chủ cũng bị cướp thóc, cướp đất, tư sản cũng bị đình đốn kỹ nghệ và thương nghiệp; ngoài ra biết bao các từng lớp nhân dân khác đều chung một tai nạn chết đói chết rét. Việt Minh đã liên kết các giai cấp các tầng lớp nhân dân đó đánh đuổi kẻ thù chung, giành quyền độc lập tự do cho dân tộc... Quyền lợi của giai cấp công nhân và tư sản, nông dân và địa chủ lúc nào cũng mâu thuẫn nhau, nhưng lúc này phải nhân nhượng nhau, phải đặt quyền lợi quốc gia lên trên hết".
Trước đó, Pháp đã vận động Anh và Mỹ cho phép đặt một phái bộ không chính thức của Pháp ở Hà Nội. Ngày 22-8-1945, Xanhtơni (Sainteny), sĩ quan tình báo của Pháp cùng 4 sĩ quan Pháp khác, theo chân phái đoàn Mỹ do thiếu tá Pati (Patty) - thuộc cơ quan tình báo chiến lược Mỹ Q.S.S (tiền thân của cục tình báo chiến lược Mỹ - C.I.A) chỉ huy, đáp máy bay từ Côn Minh (Trung Quốc) đến Hà Nội. Do mâu thuẫn giữa Tưởng và Pháp mà nhóm Xanhtơni bị cô lập ở Phủ toàn quyền cũ. Mãi hai tháng sau, nhóm này mới được Tưởng cho phép đặt trụ sở không chính thức ở một ngôi nhà gần trường Kỹ nghệ thực hành (ở phố Quang Trung).
Dựa vào sự giúp đỡ của viên tướng Mỹ cố vấn cho Lư Hán là Caladơ (Callagher), Xanhtơni mua được vũ khí của quân Tưởng để trang bị cho lính Pháp ở trong thành. Ngoài ra, nhóm Xanhtơni còn xúc tiến việc liên lạc móc nối với lũ quan cai trị cũ của Pháp đang sống và chờ đợi ở khách sạn Mêtrôpôn (nay là khách sạn Thống Nhất) cũng như làm một số việc xấu xa khác… Tất cả những hành động của nhóm Xanhtơni đều nằm trong mưu đồ phục vụ cho việc tái chiếm Đông Dương của Pháp.


       Thực ra ý đồ muốn lập lại quyền thống trị Đông Dương của Thực dân Pháp đã có từ lâu. Ngay từ 24-3-1945, chính phủ lưu vong Đờ Gôn đã ra một tuyên bố về Đông Dương, trong đó có đoạn:
“Đông Dương sẽ được thành lập theo kiểu liên bang gồm 5 xứ khác nhau (Nam Kỳ, Trung Kỳ, Bắc Kỳ, Cao Miên, Ai Lao). Liên bang Đông Dương sẽ cùng với nước Pháp xây dựng thành khối liên hiệp Pháp mà quyền ngoại giao sẽ do Pháp đại diện.
Đông Dương sẽ có một chính phủ liên bang, đứng đầu là một viên toàn quyền và gồm những bộ trưởng chịu trách nhiệm trước viên toàn quyền đó. Chính phủ liên bang sẽ là người trọng tài của 5 xứ. Bên cạnh viên toàn quyền có một hội đồng nhà nước, trong đó người Đông Dương chiếm nhiều nhất là 50% số ghế. Một quốc hội được bầu ra phải phản ánh quyền lợi của nước Pháp…”.
Đến tháng 6-1945, Lơcléc, một tướng Pháp cừ khôi của chính phủ Đờ Gôn trong chiến tranh thế giới thứ hai, thuộc dòng họ quí tộc có truyền thống binh nghiệp vào hàng lâu đời nhất của Pháp, được Đờ Gôn cử làm tư lệnh lực lượng viễn chinh Pháp tại Viễn Đông. Lực lượng này bao gồm sư đoàn thiết giáp số 2, hai sư đoàn bộ binh thuộc địa số 3 và số 9 (hầu hết là lính châu Phi). Ngoài ra còn có 6.000 lính Pháp bị đuổi dạt sang Trung Quốc từ Bắc - Đông Dương khi Nhật đảo chính và đang ẩn náu ở đó, cùng với khoảng 5.000 lính Pháp bị Nhật bắt giam ở Hà Nội, Sài Gòn… cũng được “đặt dưới sự chỉ huy của tướng Lơcléc”.
Ngày 18-8-1945, Lơcléc cùng bộ phận “tiền trạm” đáp máy bay đi Xri Lanca, liên lạc với tổng hành dinh của tư lệnh lực lượng Anh ở Đông Nam Á, với nhiệm vụ “khẩn khoản đề nghị với Anh cho Pháp được đưa một bộ phận trang bị nhẹ, có tính chất tượng trưng đi theo quân Anh vào tiếp quản miền Nam Đông Dương, trong khi chờ đợi lực lượng viễn chinh tiếp tục kéo vào sau”.
Tuy nhiên, hành động chớp thời cơ cực kỳ mau lẹ của Cách mạng Tháng Tám (chỉ sau Nhật Hoàng tuyên bố đầu hàng vô điều kiện Đồng Minh có 5 ngày, đã thành công!) làm cho khi Hồ Chủ Tịch trịnh trọng tuyên bố với thế giới về sự ra đời của một nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, độc lập và tự do, tại vườn hoa Ba Đình thì cả Anh, Mỹ, Tưởng, Pháp, và nói chung là cả cái đám có tâm hồn không lấy gì làm trong sáng ấy vẫn chưa kịp kéo vào Việt Nam.
Ngày 27-8-1945, đại tá Pháp là Xêdin nhảy dù xuống Hớn Quản, được quân Nhật đưa về Sài Gòn, đã nhân danh ủy viên cộng hòa Pháp ở miền Nam - Đông Dương gặp Ủy ban nhân dân Nam Bộ đòi công nhận bản tuyên bố ngày 24-3 của Đờ Gôn. Ủy ban Cách mạng kiên quyết bác bỏ và còn đòi Pháp phải công nhận chủ quyền độc lập và thống nhất của Việt Nam. Để tỏ rõ thiện chí, Ủy ban Cách mạng cũng tuyên bố sẵn sàng hợp tác với nước Pháp mới.
Ngày 2-9-1945, giữa lúc 50 vạn nhân dân Sài Gòn họp mít tinh mừng ngày Độc Lập thì một số người Pháp nấp trong nhà thờ Đức Bà xả súng bắn vào đám đông, làm chết 47 người và nhiều người khác bị thương.
Với danh nghĩa vào giải giáp quân Nhật ở Đông Nam Á theo Hội nghị Pốtxđam, ngày 6-9-1945, những đơn vị đầu tiên của quân Anh đã đổ bộ vào Sài Gòn. Ngày 11-9, tư lệnh quân Anh là Grêxi (Douglas D. Gracy) đến Sài Gòn. Ngày 12-9, một lữ đoàn thuộc sư đoàn 20 của quân đội Hoàng gia Anh cũng tập kết đến nơi. Đến theo quân Anh có 120 lính thuộc trung đoàn bộ binh thuộc địa số 5 của Pháp.
Từ ngày quân Anh đóng quân ở Sài Gòn, tình hình ở đây ngày càng căng thẳng. Bất chấp chủ quyền của Việt Nam, quân Anh hành động rất ngang ngược. Chúng lấy vũ khí của Nhật trang bị cho tù binh Pháp, dùng bọn này thay Nhật tăng cường canh gác ở một số nơi, cấm nhân dân ta mang vũ khí và biểu tình, ra lệnh giới nghiêm ban đêm. Nghiêm trọng hơn, ngày 15-9, Grêxi đòi tước vũ khí của lực lượng vũ trang Cách mạng, buộc quân đội Cách mạng phải rút khỏi thành phố, đòi đặt công an Cách mạng dưới quyền chỉ huy của chúng.
Được sự dung túng của quân Anh, bọn phản động thân Pháp ngóc đầu dậy, ra mặt chống lại Cách mạng, chuẩn bị gây bạo loạn, lật đổ chính quyền…
Ngày 22-9, sau khi quân Anh trả tự do cho tù binh Pháp bị Nhật giam giữ trước đó thì Pháp quyết định nhanh chóng dùng vũ lực đánh chiếm Sài Gòn. Lực lượng của Pháp ở Sài Gòn lúc này gồm có 120 lính thuộc trung đoàn bộ binh thuộc địa số 5, 1.400 tù binh Pháp mới được thả, cùng khoảng 500 Pháp kiều vũ trang, dựa trên thế lực và sự yểm trợ của 2.800 quân Anh với 5.000 quân Nhật được Grêxi ra lệnh tham gia “giữ gìn trật tự”. Đáng lẽ thực hiện nhiệm vụ giải giáp quân Nhật theo yêu cầu Đồng Minh thì lại ra lệnh cho quân Nhật yểm trợ người Pháp chống lại Việt Minh - một lực lượng đứng về phe Đồng Minh chống phát xít và đã có chủ quyền đất nước. Đó là hành động thực sự bê bối không phải của riêng Grêxi mà là sự thể hiện của những cấu kết thực dân đen tối. Hành động đó rõ ràng là đê hèn và mang tính tội ác đối với nhân dân Việt Nam.
Từ khi quân Anh kéo vào, quân dân Nam Bộ đã nghiêm chỉnh chấp hành chủ trương của Trung ương Đảng và Chính Phủ, tránh xung đột vũ trang với Anh, và do đó mà đã rút các đơn vị vũ trang thuộc “Đệ nhất sư đoàn” Cộng hòa vệ binh mới thành lập (gồm khoảng 10 ngàn người) ra khỏi Sài Gòn. Trong thành phố chỉ còn lực lượng tự vệ của Công đoàn.
Đêm 22 rạng ngày 23-9-1945, giặc Pháp nổ súng đánh chiếm Sài Gòn, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước Việt Nam lần thứ hai.

                              
                                      Dân quân Nam Bộ năm 1945
                                        
Quần chúng Sài Gòn sôi sục căm thù, đòi cho lệnh đánh. Ngày 23-9, vào lúc 10 giờ sáng, Xứ ủy và Ủy ban nhân dân Nam Bộ họp hội nghị tại ngôi nhà số 625 đường Cây Mai (nay là đường Nguyễn Trãi) và đi đến quyết định: hết sức tránh đụng độ với quân Anh và quân Nhật, nhưng kiên quyết đánh trả Thực dân Pháp. Đúng vào 12 giờ trưa ngày hôm đó, nhân dân Sài Gòn nói riêng và Nam Bộ nói chung đã đứng lên theo tiếng gọi của non sông, tiến hành kháng chiến chống quân xâm lược Pháp. Và thế là:
“Mùa thu rồi
Ngày 23
Ta đi theo tiếng kêu sơn hà nguy biến
Rền khắp trời
Lời hoan hô
Quân dân Nam nhịp bước tiến ra trận tiền
Thuốc súng kém
Chân tay không
Mà đoàn người giàu lòng vì nước
Nóp với giáo
Mang ngang vai
Nhưng thân trai nào kém oai hùng
Cờ phấp phới bay ngang trời
Sao vàng xao xuyến
Khắp nơi bưng biền
Một lòng nguyền với tổ tiên
Ta đem thân ra đền cho nước
Ta đem thân ta đền ơn trước
Muôn thu sau lừng tiếng anh hào
Người Việt Nam lắm chí cao…”
(Bài hát: “Nam Bộ kháng chiến”)

 

                            NAM BỘ KHÁNG CHIẾN

Ngày 26-9-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào Nam Bộ những lới tâm huyết:
“Hỡi đồng bào Nam Bộ!
Nước ta vừa tranh quyền độc lập thì đã gặp nạn ngoại xâm. Khi còn chiến tranh với Nhật thì bọn thực dân Pháp hoặc đầu hàng, hoặc chạy trốn; nay vừa hết chiến tranh thì bọn thực dân Pháp hoặc bí mật hoặc công khai lại mò đến. Trong bốn năm, họ đã bán nước ta hai lần, nay họ lại muốn thống trị dân ta một lần nữa.
Tôi tin và đồng bào cả nước đều tin vào lòng kiên quyết ái quốc của đồng bào Nam Bộ. Chúng ta nên nhớ lời nói oanh liệt của một nhà đại cách mạng Pháp: “Thà chết tự do còn hơn sống nô lệ!”
Tôi chắc và đồng bào Nam Bộ cũng chắc rằng Chính phủ và đồng bào toàn quốc sẽ hết sức ủng hộ những chiến sĩ và nhân dân đương hy sinh đấu tranh để giữ vững nền độc lập tự do của nước nhà.
Tôi chắc và tất cả đồng bào đều chắc rằng những người và những dân tộc yêu chuộng bình đẳng, tự do trên thế giới đều đồng tình với chúng ta.
Chúng ta nhất định thắng lợi vì chúng ta có lực lượng đoàn kết toàn dân. Chúng ta nhất định thắng lợi vì cuộc đấu tranh của chúng ta là chính nghĩa.
Tôi chỉ muốn dặn đồng bào Nam Bộ một lời: Đối với những người Pháp bị bắt trong cuộc chiến tranh, ta phải canh phòng cho cẩn thận; nhưng phải đối đãi họ khoan hồng, phải làm cho thế giới, trước hết cho dân Pháp biết rằng chúng ta chỉ đòi quyền độc lập, tự do, chứ chúng ta không vì tư thù tư oán; làm cho thế giới biết rằng chúng ta là một dân tộc thông minh, văn minh hơn bọn đi giết người, cướp nước

                                
Một đơn vị Nam tiến tại ga Hàng Cỏ, Hà Nội trước khi lên đường vào Nam chi viện cho mặt trận Nam Bộ năm 1945. Ảnh: baotanglichsu.vn.
 
Có câu chuyện thế này: trong khoảng thời gian quân Anh vào tiếp quản Sài Gòn để thực thi nhiệm vụ giải giáp quân Nhật theo kế hoạch của Đồng Minh (nhưng với cách làm thật “ngược đời”!) thì một nhóm thuộc lực lượng OSS của Mỹ do trung tá Điuê (A. Peter Dewey) chỉ huy cũng được điều đến hỗ trợ. Chứng kiến cách hành xử của Grêxi, tư lệnh quân Anh, với nhãn quan nhạy bén của mình, Điuê đã thực sự lo ngại. Theo ông thì những hành động của Grêxi là rất tai hại, thổi bùng thêm ngọn lửa căm thù trong lòng người dân Việt nhằm vào phương Tây. Ông liên tục gửi báo cáo về Mỹ chỉ trích Grêxi. Đáp lại, Grêxi đã lệnh cho Điuê phải rời khỏi Việt Nam. Sáng ngày 26-9-1945, Điuê ra sân bay Sài Gòn, tìm hiểu lịch bay để chuẩn bị về Mỹ. Chiếc xe Jeep ông lái không cắm cờ Mỹ vì lệnh cấm của Grêxi (chỉ có xe của ông ta, trong vai trò tư lệnh, mới được cắm cờ). Xe đang chạy thì đột nhiên Điuê thấy một mớ cây nằm chắn giữa đường, đành phải giảm tốc độ và chạy vòng lách qua. Ngay lúc đó có ba người Việt Nam đứng ở rãnh mương bên đường. Điuê quát họ bằng tiếng Pháp. Tưởng rằng ông ta là sĩ quan Pháp, họ đã đáp trả bằng một tràng súng máy làm bay mất phần sau hộp sọ của ông. Điuê chính là quân nhân Mỹ đầu tiên bị giết tại Việt Nam. Điều quá ư trớ trêu là với nhãn quan nhạy bén của mình, chính Điuê đã tiên tri: “Nam Kỳ đang bốc cháy! Người Pháp và Anh sẽ bị kết liễu tại đây, và chúng ta phải chạy khỏi Đông Nam Á”.
Ngày 3/10/1945, 10.000 quân Pháp do Leclerc chủ huy đổ bộ xuống Sài Gòn. Ngày 9/10/1945, Pháp Anh ký thỏa hiệp tại Luân Đôn xác định Anh hoàn toàn ủng hộ Pháp trong việc cai trị toàn Đông Dương dưới vĩ tuyến 16. Đêm ngày 10/10/1945, bộ đội Việt Nam tấn công sân bay Tân Sơn Nhất. Lực lượng Việt Nam giao chiến với quân Anh, Pháp tại tất cả các cửa ngõ vào Sài Gòn. Người Anh yêu cầu Nhật hỗ trợ. Nhật đồng ý tham chiến. Lực lượng Anh, Pháp, Nhật đã phá vỡ cuộc phong tỏa Sài Gòn của Việt Nam sau hai tuần chiến đấu liên tục. Ngày 16/10/1945, phía Việt Nam ngừng bao vây Sài Gòn và rút quân về vùng nông thôn do lực lượng Anh, Pháp, Nhật quá mạnh. Không quân Hoàng gia Anh và không quân Nhật tiếp tục ném bom vào các địa điểm đóng quân của Việt Nam.
Phản ứng trước việc Anh dùng quân đội Nhật tấn công lực lượng Việt Nam, tướng Douglas MacArthur phát biểu: "Nếu có gì đó làm máu tôi sôi lên thì đó là việc tôi thấy các nước Đồng Minh của chúng ta ở Đông Dương và Java sử dụng quân Nhật để đàn áp các dân tộc nhỏ bé này mà chúng ta đã hứa giải phóng. Đó là một sự phản bội kinh tởm nhất.
Thống-Tướng lừng danh nhứt của Quân Đội Mỹ: Tướng Douglas MacArthur (1880-1964).









 Thống tướng Douglas Mac Arthur (26 tháng 1 năm 1880 - 5 tháng 4 năm 1964) là một danh tướng của Hoa Kỳ và là Thống tướng Quân đội Philippines (Field Marshal of the Philippines Army). Ông là Tham mưu trưởng Lục quân Hoa Kỳ trong suốt thập niên 1930 và sau đó đã đóng một vai trò quan trọng trên mặt trận Thái Bình Dương trong Chiến tranh thế giới thứ hai. MacArthur đã nhận được Huân chương Danh dự. Ông được bổ nhiệm chỉ huy cuộc xâm chiếm Nhật Bản mà đã được hoạch định tiến hành vào tháng 11 năm 1945. Nhưng khi thấy không còn cần thiết nữa, MacArthur chính thức chấp nhận sự đầu hàng của Nhật ngày 2 tháng 9 năm 1945.
       Ông được biết đến với câu nói quân sự nổi tiếng: "In war, there is no substitute for victory" (Trong chiến tranh, không có gì thay thế được chiến thắng). MacArthur đã chiến đấu trong 3 cuộc chiến lớn (Chiến tranh thế giới thứ nhất,Chiến tranh thế giới thứ hai và Chiến tranh Triều Tiên) và là một trong 5 người được phong quân hàm Thống tướng (General of the Army).
Khi tới Sài Gòn, Lơcléc đặt sở chỉ huy trong lớp rào bảo vệ của quân Anh. Đến ngày 31-12, đã có 145 chuyến tàu biển chở tới miền Nam - Việt Nam 27.907 lính Pháp và 2.325 xe quân sự. Thực hiện chiến thuật “vết dầu loang”, Lơcléc đã chiếm được một số thành phố, thị xã, thị trấn và các đầu mối giao thông quan trọng. Nhưng cuộc tiến công đánh nống ra đó đã bị ngăn chặn ngày một tích cực và mạnh mẽ bởi cuộc chiến tranh nhân dân đang ngày được củng cố và mang ý chí của cả một dân tộc đồng lòng. Những dấu hiện về khả năng bị sa lầy của đội quân viễn chinh Pháp đã bắt đầu xuất hiện. Tình hình đó đã cho viên tướng mẫn cán Lơcléc thấy rằng nếu quân Pháp thực hiện giai đoạn 2 là “tiếp tục cuộc hành quân ra Bắc - Việt Nam”, nhất định sẽ bị chống cự lại mạnh mẽ hơn gấp bội phần. Hơn nữa, quân Tưởng ở Bắc Kỳ vẫn chưa chịu cho lực lượng Pháp trở lại. Đầu năm 1946, Lơcléc điện báo về Pháp:
“… cho tới nay đã giải tỏa được Sài Gòn và đánh thông ra miền Nam - Trung Kỳ, nhưng đã bị chết 600, bị thương 1.600 binh lính. Việt Minh vẫn đang tiếp tục chống cự quyết liệt. Trung bình mỗi ngày có 3 cuộc đụng độ với Việt Minh. Không còn lực lượng dự trữ nữa. Việc chiếm lại Bắc Kỳ, dù chỉ là một bộ phận, là điều không thể thực hiện được. Không thể nào chỉ với khoảng một sư đoàn mà chinh phục được một xứ sở rộng bằng hai phần ba diện tích nước Pháp, trong đó nhân dân đang hồ hởi, được vũ trang, quyết tâm bảo vệ đến cùng nền độc lập của mình”.
Bằng nhãn quan quân sự mẫn tiệp của mình, Lơcléc chắc chắn là viên tướng lĩnh Pháp nhìn vấn đề Việt Nam tỉnh táo nhất. Ông này cho rằng đạt được sự thỏa thuận riêng lẻ với Tưởng Giới Thạch (cho phép quân Pháp thay quân Tưởng làm nhiệm vụ giải phóng quân Nhật ở Bắc Kỳ) là không đủ mà phải thương lượng nghiêm chỉnh với Việt Minh và “không nên ngần ngại tuyên bố công nhận nền độc lập của Việt Nam”, nếu muốn đảm bảo an toàn cho quân Pháp kéo vào Hà Nội. Trong một bức thư gửi đô đốc Đácgiăngliơ, Cao ủy Pháp ở Đông Dương, Lơcléc nhấn mạnh:
“Tôi không hề bao giờ có ý định dùng vũ lực thuần túy để chiếm lại Đông Dương. Kinh nghiệm ở Nam Kỳ trong mấy tháng qua đã chứng tỏ, muốn tiến hành thắng lợi công cuộc bình định, phải có những đạo quân lớn, lớn hơn rất nhiều mức quân số chúng ta có thể có được: Vì vậy, trong khi vẫn chuẩn bị cho cuộc hành quân, tôi xin lưu ý ngài Cao ủy về những điểm có lợi hơn, đó là giải pháp hòa bình, tức là một mặt thương lượng với Trung Quốc, một mặt đàm phán với Chính phủ Hồ Chí Minh…”
                                 
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký hiệp định sơ bộ ngày 06-3-1946 với đại diện Pháp Sainteny.
Ông Hoàng Minh Giám đọc bản hiệp định.
(ảnh tư liệu)


                                 
Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng các đại diện quốc tế tham dự lễ ký Hiệp định sơ bộ chụp ảnh lưu niệm trước nhà 38 Lý Thái Tổ sau lễ ký.
Nhưng với bản chất thực dân, gắn liền với dã tâm và tính ngạo mạn của nó ở lực lượng cực hữu, trong đó có Đácgiăngliơ, chính phủ Pháp đã khăng khăng đòi dùng bạo lực khuất phục chính quyền Việt Nam dân chủ cộng hòa còn non trẻ hòng duy trì chế độ thuộc địa khi xưa.
Đến đây, chúng ta đột nhiên có một liên tưởng đến hai giai đoạn na ná giống nhau về hình thức của hai cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, lần thứ nhất và lần thứ hai của thực dân Pháp. Đó là trong cuộc xâm lược lần thứ nhất có giai đoạn: sau khi chiếm Gia Định, giặc Pháp đánh tỏa ra chiếm lục tỉnh Nam Kỳ rồi tiến ra gây hấn Bắc Kỳ, đánh chiếm Hà Nội rồi đánh tỏa ra chiếm Bắc Kỳ. Song song với quá trình đó là những hiệp ước được ký giữa triều đình Huế và chính phủ Pháp. Trong cuộc xâm lược lần thứ hai cũng có giai đoạn tương tự: sau khi chiếm Sài Gòn, giặc Pháp đánh lan ra chiếm Nam Bộ, rồi cũng tiến ra gây hấn Bắc Bộ, đánh chiếm Hà Nội rồi mở rộng chiến tranh ra khắp Bắc Bộ. Song song với quá trình đó cũng có những hiệp ước được ký giữa Chính phủ Việt Minh và Chính phủ Pháp. Cũng có thể cho rằng tình thế của hai giai đoạn đó là hao hao giống nhau. Nếu kẻ thù chính của quân dân Bắc Kỳ ở giai đoạn trước là quân Pháp và quân Mãn Thanh thì kẻ thù chính của quân dân Bắc Bộ ở giai đoạn sau là quân Pháp và quân Tàu Tưởng. 
Tuy nhiên đó chỉ là những nét phác giống nhau bề ngoài. Sự khác nhau giữa chúng là hết sức cơ bản, có tính tương phản rõ rệt. Ở giai đoạn trước, đối diện với thực dân Pháp là một triều đình Huế bạc nhược, một Tự Đức đê hèn, ký hiệp ước với Pháp để cầu hòa mà thực chất là rút lui, đầu hàng, bán nước, đưa dân tộc Việt Nam vào vòng nô dịch ngoại bang. Ở giai đoạn sau, đối diện với thực dân Pháp là một Chính phủ Cách mạng trung kiên, một Hồ Chí Minh anh hùng, ký hiệp ước với Pháp cũng để cầu hòa nhưng thực chất là “hòa để tiến”, chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ sự thống nhất và độc lập dân tộc vừa mới giành được từ ngoại bang bằng bất kỳ giá nào.
Phải nói rằng giai đoạn từ tháng 9-1945 đến tháng 12-1946 là giai đoạn khó khăn, phức tạp và hiểm nghèo nhất của Cách mạng Việt Nam, khi mà Chính quyền Cách mạng đang trong bước hình thành còn non yếu, trước hàng loạt kẻ thù lăm le bóp nghẹt: giặc Pháp, giặc Tưởng, giặc phản động tay sai, giặc đói, giặc dốt…
Chính trong lúc ngàn cân treo sợi tóc đó, thiên tài của đại anh hùng dân tộc Hồ Chí Minh vụt sáng chói hơn bao giờ hết.
Đều xuất phát từ quyền lợi ích kỷ của mình, và đều lấy Việt Nam ra làm con bài thương lượng, Cộng hòa Pháp và Trung Hoa Dân quốc đã ký một hiệp ước tại Trùng Khánh (Trung Quốc) vào ngày 28-2-1946, theo đó, Pháp sẽ trả lại cho Tưởng toàn bộ các “tô giới” và “nhượng địa” trên đất Trung Quốc để đổi lại việc Tưởng sẽ đồng ý cho quân đội Pháp kéo vào Bắc - Đông Dương thay thế quân Tưởng làm nhiệm vụ giải giáp quân Nhật. Cũng theo hiệp ước này thì quá trình thay thế sẽ được tiến hành từ ngày 1 đến ngày 15 và hoàn tất vào ngày 31-3-1946 theo một kế hoạch đã bàn định giữa Pháp và Tưởng cũng tại Trùng Khánh.
Việc ký hiệp ước Pháp - Trung đã tạo ra một tình thế hết sức nguy hiểm. Nếu Pháp tiến quân vào Bắc - Việt Nam thì dù với chiêu bài “tiếp quản” vẫn là nhằm thực hiện âm mưu xâm lược. Do đó, buộc quân dân miền Bắc phải chiến đấu để bảo vệ thành quả cách mạng. Sự bùng nổ chiến sự sẽ tạo ra cái cớ là tình hình không ổn định để quân Tưởng ở lại làm thế lực cho bọn phản dân hại nước Quốc Dân Đảng đánh phá chính quyền Việt Minh. Hơn nữa, một cuộc chiến đấu xảy ra sớm như vậy mà còn phải chống lại cùng lúc ba kẻ thù Pháp, Tưởng, bè lũ tay sai phản động, sẽ không những không tạo ra được khoảng thời gian quí báu, cần thiết để Việt Minh chuẩn bị chu đáo kỹ càng hơn cho Toàn quốc kháng chiến mà còn tạo ra sự bao vây, chia cắt đối với lực lượng vũ trang Cách mạng đang trong thời kỳ củng cố.
  Năm 1941, sau 30 năm hoạt động ở nước ngoài, Người về nước triệu tâp hội nghị lần thứ tám của Ban chấp hành Trung ương Đảng, quyết định đường lối đánh Pháp, đuổi Nhật, thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất lấy tên là Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh), gấp rút xây dựng lực lượng, đẩy mạnh phong trào đấu tranh cách mạng của quần chúng, chuẩn bị tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.
Ngày 22/12/1944, Người chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân, tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam ngày nay và xây dựng căn cứ địa cách mạng.
Mục đích của cuộc Cách mạng Tháng 8 là độc lập - tự do. Sự kiện Pháp gây hấn, đánh chiếm Nam Bộ đã lộ rõ ý chí quyết tâm xâm lược Việt Nam một lần nữa của chúng. Do vậy lúc đó, kẻ thù số một và nguy hiểm nhất của dân tộc Việt chính là thực dân Pháp. Một cuộc kháng chiến toàn diện chống Pháp là không thể tránh khỏi. Nhưng cần phải trì hoãn càng lâu càng tốt thời điểm xảy ra cuộc chiến tranh đó (không làm xuất hiện cuộc chiến tranh đó là tốt nhất, nhưng nếu như thế thì hoặc Cách mạng phải rời bỏ mục đích độc lập, tự do của mình, hoặc thực dân Pháp không còn mang… bản chất thực dân nữa!), để vừa có thêm thời gian chuẩn bị tổ chức lực lượng đánh lâu dài, vừa (và đây là điều tối quan trọng) cho quân Tưởng rút hết đi (kéo theo là sự tan rã của bè lũ phản động trong nước), chỉ còn phải “đấu tay đôi” với Pháp. Thực hiện được điều này là rất khó khăn, tài năng không xuất chúng sẽ không làm được.
Dân tộc Việt đã đặt nhiệm vụ nặng nề đó lên vai Hồ Chí Minh, người con ưu tú nhất của mình trong một thời đại, vị đại anh hùng dân tộc mà phải trăn trở suốt hơn 150 năm, tính từ khi Quang Trung - Nguyễn Huệ băng hà, đất nước Việt Nam mới hun đúc nên được.
Còn Hồ Chí Minh thì chủ động đứng ra nhận lãnh gánh vác trách nhiệm đó và đã hoàn thành sứ mạng mà dân tộc Việt Nam trao cho, một cách tuyệt vời nhất: kết quả tuyệt vời, phong thái tuyệt vời. Không đao to búa lớn, không phùng má trợn mang, cũng không yếu mềm bạc nhược, không ủ dột van nài, cương trong nhu, nhu trong cương, không phải nhu mà cũng không phải cương, không kiêu mà cũng không nản, cứ thản như nước chảy thì bèo trôi, ấy vậy mà việc thành. Như thế không phải là tuyệt vời nhất sao? Đọc những tư liệu lịch sử ghi chép những hồi ức, cảm nghĩ, nhận xét, đánh giá của các nhân vật từng trực tiếp tham gia, trực tiếp đối mặt với Hồ Chí Minh, và của các học giả nghiên cứu lịch sử ở cả hai phía bạn, thù về quãng đời hoạt động của ông trong những ngày tháng ấy (chưa cần nói đến cả cuộc đời hoạt động cách mạng vì nước quên thân của ông), chúng ta thấy ở con người Hồ Chí Minh tỏa ra, ánh lên cái ý chí chủ động tiến công của Lý Thường Kiệt, cái đĩnh đạc xác quyết của Trần Hưng Đạo, cái ung dung thấu triệt của Nguyễn Trãi, cái kiên định sắt đá của Nguyễn Huệ. Như thế không phải là tuyệt vời nhất sao?

                                                 
 
Trên tàu Emile Bertin tại Vịnh Hạ Long, ngày 24/3/1946. Từ trái sang phải: Hồ Chí Minh, Jean Sainteny, Tướng Leclerc, và Thống Đốc Thierry d’Argenlieu.


 

Tác giả Jean Sainteny và Hồ Chí Minh trên đường đến Vịnh Hạ Long. Lên tàu Catalina ngày 24/3/1946.
Tựu trung lại, phương châm hành xử của Hồ Chí Minh trong giai đoạn ngặt nghèo đó là theo thời lựa thế, dĩ bất biến ứng vạn biến… và như thế, đó cũng chính là sự biểu hiện của cái quan niệm vô vi vô bất vi (trông như không làm mà lại làm được tất cả) của Đạo Gia. Sự thể hiện của Hồ Chí Minh trong những nhận định hết sức tinh tế của ông về thị phi, trong sự đối xử hết sức nhã nhặn và đầy nhân văn của ông ngay với cả kẻ thù xâm lược, trong sự yêu thương trìu mến của ông khi nói đến Đại Chúng, đến “người cùng khổ”, trong tình cảm thiết tha của ông đối với nền độc lập - tự do của dân, của nước, trong thái độ của ông đối với chiến tranh và trong sự căm ghét của ông đối với cường bạo, áp bức, bất công, đã làm cho tâm hồn cộng sản của ông, hóa ra lại rất gần gũi với tâm hồn Lão Tử, một đại hiền triết của phương Đông cổ đại.
       Theo King C. Chen, nhà nghiên cứu lịch sử Trung Hoa Dân Quốc thì ngay từ ngày 18-8-1945 đã có những tiếp xúc và thương lượng Pháp - Việt. Lúc đó Hồ Chí Minh đã đưa ra 5 điều kiện mà nội dung chủ yếu là sự độc lập của Việt Nam, đổi lại Việt Minh sẵn sàng chấp nhận người Pháp làm cố vấn “chống ngoại xâm”. Mà ngoại xâm là ai nếu không phải là quân Tưởng như sau này đã thấy? Thật rõ, Hồ Chí Minh đã “gợi ý” người Pháp chọi lại người Trung Hoa khi mà quân Tưởng còn chưa kéo vào chiếm đóng Bắc - Việt Nam.
       Ngày 20/8/1945, Việt Cách cùng quân đội Trung Hoa Dân quốc tiến vào Việt Nam. Ngày 30/9/1945, Nguyễn Hải Thần dẫn đầu một phái đoàn tới gặp Tiêu Văn (cuối tháng 8 năm 1945, 20 vạn quân Tưởng do Lư Hán làm tổng chỉ huy, Tiêu Văn làm phó tư lệnh vượt biên giới Việt-Trung tiến vào Việt Nam) để thảo luận về việc loại bỏ Chính phủ Cách mạng lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và đàn áp Đảng Cộng sản Đông Dương. Tiêu Văn tỏ ra không ủng hộ ý định của Nguyễn Hải Thần. Cuối tháng 10/1945, bảy đảng viên Việt Cách dưới quyền Nguyễn Hải Thần ký bản "Đoàn kết tinh thần" với Việt Minh theo đó Việt Cách sẽ liên kết với Việt Minh chống lại sự xâm lược của Pháp, bảo vệ nền độc lập của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tuy nhiên sau đó nhiều người chối bỏ họ đã ký bản "Đoàn kết tinh thần". Nguyễn Hải Thần công khai bác bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương tại Việt Nam. Hàng loạt vụ đụng độ giữa Việt Minh và Việt Cách xảy ra khiến công chúng bị sốc và làm các chỉ huy quân đội Trung Hoa Dân quốc tại miền Bắc Việt Nam khó chịu. Tiêu Văn gây sức ép lên tất cả các bên để buộc họ thành lập chính phủ liên hiệp.
       Tuy nghi ngờ, thậm chí thù địch nhau nhưng các thành viên Việt Minh và Việt Quốc vẫn gặp nhau thậm chí còn ký kết các thỏa thuận. Ngày 29/9/1945, Nguyễn Lương Bằng (Việt Minh) và Chu Bá Phượng (Việt Quốc) gặp nhau và đồng ý chấm dứt xung đột, thả tù nhân và ngừng lên án nhau công khai. Ngày 19/11/1945, Hồ Chí Minh, Vũ Hồng Khanh và Nguyễn Hải Thần thỏa thuận về các nguyên tắc chung nhằm định hướng đàm phán thành lập chính phủ liên hiệp, quân đội thống nhất và kết thúc cuộc đấu tranh đảng phái để cùng nhau chống Pháp. Ngày 24/11/1945, sau buổi lễ trước trụ sở Việt Quốc, lãnh tụ 3 tổ chức Việt Minh, Việt Cách, Việt Quốc ký bản ghi nhớ cam kết các bên sẽ không tấn công lẫn nhau, đi đến thống nhất và hỗ trợ Nam Bộ kháng chiến.
        Ngày 23/12/1945, Tướng Tiêu Văn tổ chức một cuộc họp hòa giải các bên để thành lập chính phủ liên hiệp. Tại cuộc họp này, Nguyễn Hải Thần đề nghị Hồ Chí Minh hợp tác với Việt Quốc, Việt Cách thành lập một chính phủ bao gồm thành viên của Việt Quốc, Việt Cách, Việt Minh và các đảng phái nhỏ khác. Nguyễn Hải Thần sẽ đảm nhận chức Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh làm Phó Chủ tịch.
Do các đảng phái đối lập phản đối nên Hồ Chí Minh đồng ý loại Võ Nguyên Giáp và Trần Huy Liệu ra khỏi nội các. Các bên tổ chức Hội nghị và họp nhiều lần để thảo luận ai sẽ nắm giữ chức Bộ trưởng Quốc phòng và Bộ trưởng Nội vụ đồng thời làm thế nào chia sẻ quyền lực trong Vệ quốc quân. Phan Anh được chọn làm Bộ trưởng Quốc phòng tuy anh trai ông ta là thành viên Việt Minh. Các đảng phái đối lập hy vọng Phan Anh sẽ chống lại việc Việt Minh cố gắng nắm toàn bộ Bộ chỉ huy và Bộ tổng tham mưu Vệ quốc quân nhưng họ sẽ thất vọng. Hội nghị cũng xem xét các nhân sĩ Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đình Diệm, Bùi Bằng Đoàn và Trần Đình Nam xem ai thích hợp cho vị trí Bộ trưởng Bộ nội vụ. Ngô Đình Diệm bị loại vì quá chống cộng còn Bùi Bằng Đoàn quá thân Việt Minh. Trong 2 người còn lại, Hồ Chí Minh đã chọn Huỳnh Thúc Kháng. Ông gửi điện cho Kháng và cử sứ giả đến gặp ông này. Huỳnh Thúc Kháng miễn cưỡng chấp thuận. Không ai phản đối Huỳnh Thúc Kháng làm Bộ trưởng Nội vụ vì ông có uy tín khắp cả nước. Hội nghị cũng thành lập Ủy ban Kháng chiến gồm 9 người với Võ Nguyên Giáp làm Chủ tịch và Vũ Hồng Khanh làm Phó chủ tịch.

       Ngày 6 tháng 1 năm 1946, Chính phủ Liên hiệp Lâm thời do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu đã tổ chức cuộc Tổng tuyển cử trên toàn quốc, lần đầu tiên đã bầu Quốc hội và thông qua Hiến pháp. Nhiều đảng phái không có quyền tham gia Tổng tuyển cử đã tìm cách phá hoại. Các đảng này cho là "trúng cử chỉ là Việt Minh cộng sản", "chính quyền trong tay nên Việt Minh muốn ai trúng cũng được". Hai đảng đối lập trong Chính phủ là Việt Nam Quốc dân Đảng (Việt Quốc) và Việt Nam Cách mệnh Đồng minh hội (Việt Cách) không tham gia bầu cử dù trước đó Hồ Chí Minh đã gửi thư cho Nguyễn Hải Thần (lãnh tụ Việt Cách) và Vũ Hồng Khanh (lãnh tụ Việt Quốc) mời Việt Quốc và Việt Cách tham gia Tổng tuyển cử và đề nghị hai bên không công kích nhau bằng lời nói hoặc hành động cho đến ngày Quốc hội khai mạc.

Chỉ 4 tháng sau ngày đất nước giành được độc lập, thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - năm 1946, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, chính quyền cách mạng đã quyết định tổ chức cuộc Tổng tuyển cử trong cả nước. Người đã thực hiện quyền và nghĩa vụ của một công dân Việt Nam, tận tay tham gia bỏ phiếu bầu cử tại các kỳ Tổng tuyển cử trong cả nước.
 Theo quan sát của sử gia Trần Trọng Kim thì có nơi người dân bị cưỡng bách bầu cho Việt Minh. Nhưng theo Việt Minh, cuộc bầu cử diễn ra công bằng.  Đa số đại biểu trúng cử không phải là thành viên Việt Minh Trong hồi ký "Những năm tháng không thể nào quên", đại tướng Võ Nguyên Giáp nhận định các đảng phái này lo sợ thất bại trước sức ủng hộ lớn của cử tri với mặt trận Việt Minh nên tìm cách chỉ trích và không tham gia bầu cử.
      Sau khi Quốc hội được bầu, ngày 2 tháng 3 năm 1946, Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến được thành lập để thay thế Chính phủ Liên hiệp Lâm thời. Ở các địa phương, các cấp chính quyền liên hiệp được thành lập trong năm 1946. Theo thỏa thuận với Việt Minh, phe đối lập bao gồm một số tổ chức như Việt Nam Cách mạng Đồng minh hội và Việt Nam Quốc dân Đảng được Trung Hoa Dân quốc ủng hộ, không tham gia Tổng tuyển cử nhưng vẫn được nắm 70 ghế Quốc hội (Việt Quốc 50 ghế, Việt Cách 20 ghế) cùng một số vị trí trong chính quyền trung ương do chính sách hòa hợp các đảng phái của Chính phủ. Hai mươi thành viên Việt Cách trở thành đại biểu quốc hội bằng một sắc lệnh hành pháp. Hồ Đắc Thành và Bồ Xuân Luật ứng cử và cũng trở thành đại biểu quốc hội. Ngày 2/3/1946, quốc hội họp phiên đầu tiên nhưng Nguyễn Hải Thần vắng mặt. Hồ Chí Minh đề cử Nguyễn Hải Thần làm Phó chủ tịch nước, Nguyễn Đình Tri của Việt Cách làm bộ trưởng xã hội. Theo David G. Marr, Hồ Chí Minh đồng ý để Nguyễn Hải Thần thay vì một lãnh đạo nào đó của Việt Quốc làm Phó Chủ tịch nước vì Thần từng là đồng chí của Phan Bội Châu, được các lãnh đạo Trung Hoa Dân quốc kính trọng và nhất là Thần không có khả năng tự gây dựng cơ sở quyền lực trong nước. Việc Nguyễn Hải Thần làm Phó chủ tịch nước cũng gây ra sự chia rẽ bên trong nội bộ Việt Cách có lợi cho Việt Minh.

     Trong thời gian hoạt động, Chính phủ đã tiếp tục thực hiện các biện pháp, chính sách để giữ vững nền độc lập của nước Việt Nam dân chủ non trẻ. Về đối nội đã kêu gọi các đảng phái đoàn kết phụng sự quốc gia, thực hiện các chính sách kinh tế, quốc phòng, văn hóa, giáo dục... Hồ Chí Minh giao cho Võ Nguyên Giáp và Trần Quốc Hoàn, sau này trở thành Bộ trưởng Công an, nhiệm vụ vô hiệu hóa các cuộc biểu tình do Việt Nam Quốc dân Đảng và Việt Nam Cách mệnh Đồng minh Hội tổ chức nhằm chấm dứt hoạt động tuyên truyền của các đảng này trong dân chúng. 
      Võ Nguyên Giáp kể lại: "Chúng tôi phải trừng trị bọn phá hoại... Nhưng bằng mọi giá phải tránh khiêu khích và đảm bảo không xảy ra xung đột lớn". Võ Nguyên Giáp dùng lực lượng tự vệ và các hội viên Hội Cứu Quốc phá các cuộc biểu tình này. Khi có lộn xộn, lính Trung Quốc bắn chỉ thiên, xông vào giải tán đám biểu tình để vãn hồi trị an. Việt Nam Quốc dân Đảng hoảng hốt khi người Trung Hoa không giúp được gì nhiều trong việc chống lại Việt Minh như họ mong đợi. 
       Ông Nguyễn Duy Thanh, một người theo chủ nghĩa quốc gia buồn rầu nhớ lại: "Không có Trung Hoa ủng hộ, những đảng phái theo chủ nghĩa quốc gia chẳng thể đối phó được với những người Cộng sản".

                            
Đội trinh sát đặc biệt, đơn vị chủ chốt trấn áp bọn phản động Quốc dân đảng ngày 12-7-1946.

Ngày 15/6/1946, người lính cuối cùng của quân đội Trung Hoa Dân Quốc rời khỏi Việt Nam. Các thành viên Việt Nam Quốc dân Đảng và Việt Nam Cách Mệnh Đồng minh hội mất chỗ dựa hậu thuẫn chính là quân đội Tưởng Giới Thạch và do bất đồng về việc ký Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt mùng 6 tháng 3 đã lần lượt rút khỏi chính phủ Liên hiệp. Lãnh tụ Việt Cách là Nguyễn Hải Thần, lãnh tụ Việt Quốc Vũ Hồng Khanh trong chính phủ và cánh thân Tưởng do Vũ Hồng Khanh lãnh đạo lưu vong sang Trung Quốc. Các đảng viên Đại Việt phần lớn vẫn ở lại Việt Nam chờ thời cơ. Mặc dù Hồ Chí Minh giữ độc quyền liên lạc với Pháp với sự trợ giúp của Hoàng Minh Giám nhưng Nguyễn Tường Tam vẫn thực hiện trách nhiệm của mình một cách nghiêm túc. 
       Nguyễn Tường Tam với tư cách Bộ trưởng Bộ ngoại giao dẫn đầu phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tham gia Hội nghị trù bị tại Đà Lạt mặc dù trên thực tế Võ Nguyên Giáp là người lãnh đạo phái đoàn. Theo đại tướng Võ Nguyên Giáp, do bất đồng Tam đã không tham gia hầu hết các phiên họp. Còn theo David G. Marr, Tam là người phát ngôn có năng lực và giúp giải quyết một số tranh cãi về chiến thuật đàm phán trong đoàn. Sau đó Tam cũng không tham gia Hội nghị Fontainebleau, cuối cùng rời bỏ chính phủ (tài liệu nhà nước nêu Nguyễn Tường Tam thiếu bản lĩnh chính trị, lập trường bấp bênh, biển thủ công quỹ, tiền chi phí cho phái đoàn sang Pháp đàm phán, rồi đào nhiệm ra nước ngoài.

    Sớm ngày 10.7.1946, Công an quận (CAQ) I (nay là quận Hoàn Kiếm) nhận được tin báo của có một xác chết nổi trên hồ Ha-le (nay là hồ Thiền Quang) trên phố Nguyễn Du. Theo chỉ đạo của ban chỉ huy CAQ, một tổ công tác gồm Lê Thiết Hùng, Nguyễn Văn Khâm và Nguyễn Văn Bảo trong lực lượng công an xung phong (CAXP) khẩn trương tới hiện trường.
 
       Từ xác chết nghi vấn trên hồ Ha-le:
        Tới nơi, Bảo lội xuống hồ để vớt thi thể người chết – là nam giới chừng 28 tuổi. Còn Khâm ấn vào bụng nạn nhân, thấy không có nước, phán đoán nạn nhân chết trên cạn, sau đó mới bị quẳng xuống hồ. Sau khi đưa thi thể nạn nhân đến nhà thương Phủ Doãn (nay là Bệnh viện Việt – Đức), kết quả khám nghiệm trùng khớp với nhận định của tổ công tác. Xác định là vụ án hình sự nghiêm trọng, CA Hà Nội đã triển khai các biện pháp nghiệp vụ truy xét hung thủ.
        Khoảng 21 giờ cùng ngày, một số trinh sát có mặt trong một quán bán thịt chó ở chợ Đuổi. Lúc này quán rất đông khách, nhưng câu chuyện của 4 vị khách ở bàn bên đã không thể lọt qua tai mắt các chiến sĩ công an. Khi nghe các vị khách xì xầm bàn tán: “Quân Tưởng đã rút, quân đội Pháp đã kéo vào Hà Nội, sẽ thuận lợi cho ta nhiều hơn cả quân Tưởng. Ông nào làm chuyện ở hồ Ha-le rất sơ hở…đã dọn đường cho công an Việt Minh theo dõi…”, các trinh sát đã bí mật lên xe xích-lô theo họ về phố Ôn Như Hầu. Trước đó, những người dân ở phố Ôn Như Hầu thấy một nhóm người đi cùng một phụ nữ vào nhà số 7 phố này. Sau đó mấy ngày, không thấy phụ nữ này quay ra (?).
        Đến phá án vụ Ôn Như Hầu lừng lẫy
         Sáng 12.7, các mũi công tác của lực lượng CAXP nhận được lệnh tập trung tại trụ sở CAQ I. Đồng chí Trần Dung – trưởng CAQ – khen ngợi lực lượng CAXP đã thu thập được nhiều thông tin có giá trị cho ban chuyên án, đồng thời quán triệt lệnh của Nha CA và Ty CA Hà Nội về cuộc tổng trấn áp bọn Quốc dân đảng để vạch trần âm mưu gây bạo loạn, cướp chính quyền của chúng.
       Ngay đêm 12.7, anh em được trang bị súng tiểu liên, cạcbin, sắc phục CA tề chỉnh, đeo phù hiệu, phân hiệu CAXP Quận I cùng lực lượng trinh sát CA Hà Nội nhanh chóng áp sát cổng trụ sở Quốc dân đảng ở 132 phố Đuyvinhô (nay là phố Bùi Thị Xuân), khiến bọn phản động không kịp trở tay. CA đã bắt gọn 20 tên phản động, thu giữ nhiều tài liệu, chứng cứ, trong đó một hòm sắt đựng tài liệu mật là “Kế hoạch đảo chính Chính phủ Hồ Chí Minh”.
        Tại số 7 phố Ôn Như Hầu, CA Hà Nội nhanh chóng bắt gọn toàn bộ bọn Quốc dân đảng, trong đó có tên đầu sỏ Phan Kích Nam. Khám xét toàn bộ ngôi nhà, ngoài việc thu được nhiều súng, 1 kiếm của Phan Kích Nam, nhiều tài liệu gây rối, một số dụng cụ tra tấn, làm bạc giả và thuốc mê, CA Hà Nội đã giải thoát một ông cụ ở phố Hàng Bông bị bọn chúng bắt cóc để tống tiền, đang bị trói, giam ở gầm cầu thang, đồng thời phát hiện thi thể một nam giới và một nữ giới bị bọn Phan Kích Nam hãm hại, chôn ở trong vườn. Cùng thời điểm trên, hệ thống trụ sở Quốc dân đảng ở 80 Quán Thánh, Nguyễn Du, chùa Ngũ Xã, phố Lò Đúc, chợ Đuổi cũng bị triệt phá. Ta bắt sống gần 300 tên, thu giữ nhiều vũ khí, máy in truyền đơn, loa phóng thanh, đài điện báo cùng nhiều tang vật nhằm gây bạo loạn, chống phá chính quyền cách mạng còn non trẻ của ta.
          Với kết quả khám phá nhanh vụ Ôn Như Hầu, CA Hà Nội đã đập tan âm mưu đen tối lật đổ chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà của bọn Quốc dân đảng câu kết với bọn phản động bên ngoài, góp phần ổn định an ninh quốc gia đang ở thời điểm ngặt nghèo “thù trong, giặc ngoài”. Chiến công đó đã ghi vào lịch sử truyền thống vẻ vang của Công an nhân dân Việt Nam.
 
     Vụ Ôn Như Hầu:
      Tài liệu được công bố của đảng cộng sản Việt Nam nói rằng tại số 7 Ôn Như Hầu, Hà Nội, có nhiều căn hầm dùng làm nơi giam giữ và tra tấn với nhiều dụng cụ còn dính máu. Khai quật trong vườn chuối có nhiều xác người mà Quốc dân đảng đã thủ tiêu.
Người cộng sản họ dựng nên vụ án, rồi nói rằng trong đó có vũ khí với tra tấn, làm sao mà một cái nhà giữa thành phố Hà Nội lại như vậy. Chuyện đó hoàn toàn không phải là sự thật.
- Ông Trần Tử Thanh
      Trả lời về thông tin này, ông Trần Tử Thanh, hiện là Chủ tịch Hội đồng đại biểu Quốc dân đảng, hiện sống tại Virginia, Hoa Kỳ cho rằng:
      “Lúc đó Việt Nam quốc dân đảng chúng tôi mới nhận trụ sở Ôn Như Hầu mới có vài tháng thôi. Người nhà thầu đến sửa sang trụ sở đó cho Quốc dân đảng làm việc, sau này có kể lại là khi ông ta vào làm việc thì thấy trong khu vười chuối có vài ngôi mộ, hỏi ra thì mới biết là mộ đó của những người Trung Hoa quốc gia họ sang đây bị bệnh chết, rồi chôn ở đó. Dựa vào đó người cộng sản họ dựng nên vụ án, rồi nói rằng trong đó có vũ khí với tra tấn, làm sao mà một cái nhà giữa thành phố Hà Nội lại như vậy. Chuyện đó hoàn toàn không phải là sự thật.”
        Ông Thanh còn thuật một câu chuyện là đêm hôm trước công an Việt Minh có đến lấy một số tử thi ở nhà xác thành phố, và sau đó đem đến số 7 Ôn Như Hầu, nói là do Quốc dân đảng giết hại.
Cũng theo tài liệu chính thức của Việt Nam thì vụ tấn công trụ sở Quốc dân đảng ở số 7 Ôn Như Hầu, cũng như hàng loạt cơ sở khác là nhằm để đập tan một âm mưu đảo chính lật đổ chính phủ.
Ông Trần Tử Thanh không đồng ý:
       “Vụ đảo chánh lật đổ chính phủ thì chính ngay ông Võ Nguyên Giáp cũng đã liên hệ với một sĩ quan của Pháp để chính thức xin yểm trợ cho ông ta một số vũ khí tối tân, cũng như một số sĩ quan Pháp, để ông ta tấn công vào các cơ sở của Việt Nam Quốc dân đảng. Thì như vậy làm sao nói Việt Nam Quốc dân đảng liên hệ với Pháp được, tài liệu của những người cộng sản sau này cũng có đề cập đến vấn đề đó.”
       (Không trực tiếp chứng kiến mà nói, dù có tâm tốt chăng nữa, thì cũng chỉ là dựng chuyện, xuyên tạc, không đáng tin!)  
      Nhưng theo sử gia David G. Marr, việc này khó xảy ra vì Tam khó lòng được giao trách nhiệm giữ tiền của phái đoàn).
     Việc các thành viên chủ chốt của Việt Quốc, Việt Cách như Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh rời bỏ chính phủ, lưu vong sang Trung Quốc đã đánh dấu chấm hết cho thời kỳ hợp tác giữa Việt Minh và các đảng phái đối lập tại miền Bắc, trong công cuộc "kháng chiến kiến quốc" mà Chính phủ Liên hiệp Kháng chiến là biểu tượng. Tấn kịch bi hài mà Hồ Chí Minh khôn khéo dàn dựng cho bè lũ cơ hội mùa may như những con rối đã hạ màn! 
Tình hình thực tế đã làm cho Pháp thấy không thể phớt lờ sức mạnh quân sự của một chính quyền được nhân dân ủng hộ nếu muốn tiến quân suông sẻ ra Bắc Bộ cho dù quân Tưởng đã “mở cửa”. Trong suốt năm 1946, mặc dù hai bên cùng chuẩn bị lực lượng cho chiến tranh, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cố gắng hết mức thương lượng với Pháp để cứu vãn hòa bình và đẩy lui thời điểm nổ ra cuộc chiến tranh. 
      Tháng 2/1946, tại Lai Châu, lực lượng vũ trang của Việt Quốc và Vệ quốc quân lần lượt giao tranh nhỏ với Pháp. Việt Quốc rút về Lào Cai còn Vệ quốc quân rút về Sơn La. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ký với Pháp Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt (1946) cho phép Pháp đưa quân vào miền Bắc đổi lại Pháp công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là trong Liên bang Đông Dương thuộc khối Liên hiệp Pháp. Do đó cùng với quá trình thương lượng ký hiệp ước với Trung Quốc, Pháp cũng xúc tiến việc thương lượng với Chính phủ Việt Nam. Cuộc thương thuyết Pháp - Việt được thực hiện bởi đại diện của nước Pháp là viên trung tá tình báo, Ủy viên Cộng hòa Xanhtơni và đại diện của Việt Nam là Chủ tịch Hồ Chí Minh.
        Sau khi hiệp ước Pháp - Trung được ký kết (mà không đếm xỉa gì đến ý kiến của chính phủ Việt Nam), và được công bố vào ngày 1-3-1946, thực dân Pháp đã chớp thời gian, ngay lập tức tổ chức lực lượng, dự định ngày 6-3 đổ bộ vào thành phố Hải Phòng (thực tế, ngày 7-3, 5.000 quân Pháp đã đổ bộ được vào đó), ngày 9-3 sẽ tiến vào Hà Nội.
       Sáng 6 tháng 3 năm 1946, hạm đội Pháp do Leclerc chỉ huy tiến vào cảng Hải Phòng. 8h30, quân Pháp tiến đến cửa sông Cấm. Quân Trung Hoa Dân quốc đóng ở dọc sông nổ súng. 15 phút sau, quân Pháp bắn trả. Kho đạn của quân Trung Hoa ở cảng bị bốc cháy. Một số tàu Pháp bị bắn thủng. Quân Pháp chịu nhiều thương vong. Chiến sự kéo dài đến 11h trưa.
      Tối hôm đó, Hiệp định sơ bộ được ký kết với sự thỏa thuận của hai bên Pháp-Việt. Theo đó, quân Pháp mới đủ điều kiện để vào bắc vĩ tuyến 16.
       Ngày 30/10/1946 Bộ chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương ra mệnh lệnh số 938- PC cùng với toàn bộ kế hoạch chi tiết triển khai đánh chiếm Hải Phòng. Điều này buộc quân và dân Hải Phòng nổi dậy.
     Hải Phòng là cửa ngõ đường biển quan trọng có vị trí đặc biệt ở miền Bắc. Tại đây, Pháp bố trí một lực lượng mạnh, đặc biệt là pháo binh và thiết giáp, bao gồm: Trung đoàn pháo binh thuộc địa Ma-rốc 4; Trung đoàn chiến xa cơ động và một bộ phận thủy quân, không quân; tổng cộng khoảng 3000 quân. Về phía ta có Trung đoàn 41 Vệ quốc đoàn, 1 đại đội công an xung phong, 1 trung đội thủy quân cùng lực lượng tự vệ và nhân dân thành phố Hải Phòng.
      9 giờ sáng ngày 20/11/1946, quân Pháp gây ra xung đột trên bến Tam Kỳ, xả súng bắn vào chiến sĩ và dân thường. Sau đó, chúng liên tục thực hiện các vụ nổ súng tấn công vào các vị trí trọng yếu trong thành phố bất chấp những thỏa thuận ngừng bắn tạm thời đã ký kết trước đó. Trắng trợn hơn, chúng gửi tối hậu thư đến Ủy ban bảo vệ thành phố, đòi giải tán các lực lượng vũ trang của ta ra khỏi khu vực nội thành. Va-luy, Tổng Chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương từ Sài Gòn yêu cầu Chỉ huy quân Pháp tại Hải Phòng Đép-bơ: “Phải lợi dụng vụ rắc rối ngày 20 để củng cố thêm vị trí Hải Phòng của chúng ta”.
     Sự kiềm chế của quân và dân Hải Phòng đã đến ranh giới tận cùng. Ngay khi các xung đội xảy ra, Ủy ban bảo vệ thành phố đã phát lệnh “chuẩn bị tác chiến”. Ngay lập tức, các hàng rào, chiến lũy được xây dựng tại các ngã tư quan trọng trong thành phố ngăn chặn các hướng tấn công của địch.
 
                                 

Báo Cứu quốc đưa tin quân Pháp gây xung đột ở Hải Phòng ngày 20/11/1946 - Ảnh Thư viện quốc gia Việt Nam.

 
     Ngày 21/11/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho Moóclie, Chỉ huy quân sự miền Bắc Đông Dương. Trong thư, Người đề nghị hai bên cần thương lượng đề có giải pháp và trở về “Tình trạng trước ngày 20/11 nhằm ổn định tình hình ở Hải Phòng”.
     Phớt lờ đề nghị thương lượng, sáng 23/11/1946, quân Pháp tiến công khắp nơi trong thành phố. Máy bay địch oanh tạc liên tiếp, pháo hạm từ ngoài biển bắn dữ dội vào các vị trí của ta trong nội thành và khu vực lân cận, nhất là khu vực Nhà hát thành phố, nhà ga, bưu điện, nhà đốc lý,… hòng hủy diệt thành phố. Bất chấp sự tiến công ồ ạt của kẻ thù, quân và dân thành phố vẫn kiên cường bám trụ. Dựa vào từng ổ đề kháng, tường nhà, góc phố, các chiến sĩ chiến đấu anh dũng, hiệp đồng đánh cả mặt trước, sau lưng, bên sườn quân địch, không cho chúng tiến công, giữ vững trận địa.
       Trước tình hình đang diễn biến nghiêm trọng, trưa ngày 23/11/1946, Đài tiếng nói Việt Nam phát đi lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh về việc quân Pháp gây hấn ở Hải Phòng, Người kêu gọi “toàn thể đồng bào phải trấn tĩnh, các bộ đội và tự vệ phải sẵn sàng bảo vệ chính quyền của Tổ quốc, bảo vệ tính mệnh, tài sản của ngoại kiều”.
      Đáp lời kêu gọi thiêng liêng của Hồ Chí Minh, quân và dân thành phố Hải Phòng đã thề “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”, quyết bảo vệ vị trí cửa ngõ Đông Bắc của Tổ quốc. Quân ta tổ chức nhiều cuộc phản kích ở khu vực nhà ga, Ngã Sáu, Phố Khách, phố Ba Ti, Nhà hát Lớn, Nhà máy đèn, Nhà máy nước; tiến công sân bay Cát Bi, đánh địch ở khu vực Trại bảo an binh, Trại Cau... Kết quả loại khỏi chiến đấu hơn 160 địch, thu hơn 20 súng các loại.
        Ngày 26/11/1946, địch huy động lực lượng lớn tiến công, đánh phá các khu phố Lý Thường Kiệt, Hoàng Văn Thụ, Quang Trung, Cầu Đất nhằm đánh vào Sở Chỉ huy Trung đoàn 41. Cán bộ, chiến sĩ trung đoàn dựa vào công sự đẩy lui được nhiều đợt tiến công, buộc chúng phải co cụm.
       Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Dân tộc ta có thể trường kỳ kháng chiến, nhưng thực dân Pháp không thể trường kỳ xâm lược”. Bảy ngày đêm chiến đấu (từ ngày 20 đến ngày 26/11/1946) chống lại hàng nghìn quân tinh nhuệ của Pháp, được trang bị vũ khí hiện đại, có sự hỗ trợ của hải quân và không quân là một thử thách lớn trong những ngày đầu trước khi toàn quốc kháng chiến bùng nổ.
     Với tinh thần “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”, quân và dân thành phố Hải Phòng đã kiên cường bám trụ, chiến đấu anh dũng, khiến kẻ địch bị bất ngờ vì phải đương đầu với sức mạnh của toàn dân, một sức mạnh “cả thành phố một lòng, quân dân cùng chiến đấu”. Bảy ngày đêm giữ vững Hải Phòng tuy không dài nhưng để lại nhiều bài học lớn về tác chiến trong thành phố của quân và dân ta. Cuộc chiến đấu “có tác dụng của một cuộc tổng diễn tập thực sự chuẩn bị cho trận đánh nhiều ngày ở Thủ đô Hà Nội xảy ra sau đó một tháng” như lời đánh giá của Đại tướng Võ Nguyên Giáp sau này.
Do tình hình biến chuyển nhanh chóng theo hướng ngày một nguy hiểm hơn, Hồ Chí Minh, với mục tiêu kéo dài hòa hoãn để thoát ra khỏi cái thế tạm gọi là “lưỡng đầu thọ địch”, đã phải chọn cách duy nhất đúng là nhượng bộ Pháp, thỏa hiệp tạm thời với Pháp bằng một hiệp ước sơ bộ, tạo ra khoảng thời gian “chờ đợi” đến một cuộc thương thảo mới nhằm ký kết một hiệp ước chính thức. Ngày 6-3-1946, hiệp ước sơ bộ Việt - Pháp được ký kết giữa Hồ Chí Minh và Xanhtơni. Nội dung chủ yếu của bản Hiệp ước này là:
- Pháp công nhận Việt Nam là một quốc gia tự do, có chính phủ riêng, quốc hội riêng, tài chính riêng, quân đội riêng, nằm trong Liên bang Đông Dương và Liên hiệp Pháp.
- Việt Nam đồng ý cho 15.000 quân Pháp vào Bắc Bộ, đóng quân tại nhiều thành phố và thị xã, tại những vị trí và với số quân do Việt Nam ấn định.
- Vấn đề thống nhất Nam Bộ, Trung Bộ, Bắc Bộ sẽ được quyết định bằng trưng cầu dân ý.
Sau khi bản hiệp ước sơ bộ được ký kết, Hồ Chí Minh có nói với Xanhtơni: “Nó không làm cho tôi vui mừng vì rốt cuộc, chính ông đã thắng. Ông thừa biết là tôi muốn được hơn thế nữa…”
Hồ Chí Minh đã nói rất thực vì rõ ràng từ đây, Pháp lại một lần nữa được tự do hành động ở Đông Dương. Cũng trong tháng 3-46, ông có nói đến việc phải chờ đợi độc lập từ 5 đến 10 năm và trong thời gian đó thực hiện các cải cách ôn hòa tạm thời dưới quyền một viên toàn quyền người Pháp.
Sau khi Sainteny ký Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt với chính phủ Hồ Chí Minh, tại Nam Kỳ Cédille liên hệ Nguyễn Bình đề nghị ký hiệp ước hòa bình giữa Pháp và lực lượng kháng chiến Nam Bộ. Ngày 20/3/1946, hai bên gặp nhau tại miếu Bà Cố cách Biên Hòa 10 km. Cédille đề nghị phía Việt Nam giải giáp dân quân, nạp khí giới cho Pháp. Pháp sẽ hợp tác với những người kháng chiến. Phái đoàn Việt Nam không đồng ý và trở về căn cứ kháng chiến.
Về phía người Pháp, Hiệp định sơ bộ Pháp-Việt giúp họ danh chính ngôn thuận khi đưa quân đội ra miền Bắc Việt Nam để chuẩn bị tái chiếm Đông Dương như họ đã làm ở Nam Việt Nam, đồng thời Hiệp ước Hoa-Pháp giúp họ tránh khỏi sự ngăn cản của các tướng lĩnh Trung Hoa Quốc dân đảng; đổi lại Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một quốc gia tự do trong Liên bang Đông Dương thuộc khối Liên hiệp Pháp, có chính phủ, nghị viện, quân đội và tài chính riêng. Đó là những điều kiện mà quân đội Pháp đồng ý để lấy lại một chỗ đứng tại Bắc Kỳ. 

                                             
                                                               Nguyễn Bình (1906-1951) 
Khi thực dân Pháp đánh chiếm rộng ra toàn Nam Bộ, Nguyễn Bình được Chủ tịch nước Hồ Chí Minh cử vào Nam lo việc chỉnh đốn phong trào kháng chiến và thống nhất các lực lượng vũ trang tại Nam Bộ. Tháng 12 năm 1945 ông được cử làm Khu trưởng Khu 7 Nam Bộ, lập tổng hành dinh ở Làng An (Biên Hòa), sau bị địch truy quét nên chuyển về xã An Phú (Gia Định) rồi xã An Thành, phía nam Bến Cát. Dưới sự chỉ huy của Nguyễn Bình, tình trạng cát cứ dần giảm bớt, các quân phiệt cát cứ bị giải tán và hạn chế, các đơn vị bộ đội được phiên chế thống nhất thành các chi đội Vệ quốc đoàn. Ông còn lập các ban Công tác thành làm nhiệm vụ phá hoại sau lưng địch. Năm 1946 ông gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam.
       Ngày 20 tháng 1 năm 1948, ông được Chính phủ phong quân hàm Trung tướng và cử làm tổng chỉ huy chiến trường Nam Bộ. Cùng đợt có Võ Nguyên Giáp được phong Đại tướng; Nguyễn Sơn, Lê Thiết Hùng, Chu Văn Tấn, Hoàng Sâm, Hoàng Văn Thái, Lê Hiến Mai, Văn Tiến Dũng, Trần Đại Nghĩa, Trần Tử Bình được phong Thiếu tướng
        Ngày 29 tháng 9 năm 1951, theo yêu cầu của Trung ương, ông lên đường ra Bắc nhận nhiệm vụ mới. trên đường đi, ông bị quân Pháp phục kích và hi sinh tại xã Srê Dốc, huyện Sê San, tỉnh Xtung Treng, trên đất Campuchia. Người chỉ huy lực lượng bảo vệ ông khi ấy là cán bộ cấp tiểu đoàn Nguyễn Văn Sĩ, nay là Thiếu tướng nghỉ hưu tại Thành phố Hồ Chí Minh. Bộ Tổng tư lệnh thông báo tin ông hi sinh ngày 31 tháng 12 năm 1951 (theo bản tin ông sinh năm 1909 tại Bần Yên Nhân, Hưng Yên). Tháng 2 năm 1952, Hồ Chủ tịch ký sắc lệnh 84/SL truy tặng ông Huân chương Quân công hạng nhất. Ông cũng là người đầu tiên trong quân đội được nhận Huân chương cao quý này.. 

Việc ký hiệp ước 6-3 đã là cái cớ cho phe phái việt gian phản động các cơ hội tuyên truyền kích động gây hoang mang trong xã hội. Sau khi ký Tạm ước Việt Pháp, Hồ Chí Minh bị Việt Quốc và Việt Cách chỉ trích phản bội và hợp tác với Pháp đồng thời yêu cầu ông từ chức. Tại kỳ họp thứ 2 Quốc hội khóa I, Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã phê chuẩn Tạm ước Việt Pháp, biểu quyết tín nhiệm Hồ Chí Minh và yêu cầu ông thành lập nội các mới. Tại miền Nam, ngày 28/10/1946, Ủy ban Hành chính lâm thời Nam Bộ theo chỉ thị của Chính phủ Trung ương ra tuyên bố sẵn sàng thành thực thi hành Tạm ước Việt Pháp và chống lại mọi hành động phá hoại Tạm ước đồng thời kêu gọi dân chúng giữ kỷ luật, thi hành đúng những mệnh lệnh của Chính phủ và tránh mọi hành động khiêu khích. Không ít người trong dân chúng và cả trong hàng ngũ cách mạng lo âu, thất vọng. Tại một cuộc míttinh đông đến khoảng 10 vạn người ở quảng trường Nhà hát lớn của thành phố Hà Nội, Võ Nguyên Giáp (tư lệnh lực lượng vũ trang cách mạng, sau này là đại tướng, Tổng tư lệnh quân đội nhân dân Việt Nam) và Hồ Chí Minh đã lần lượt lên giải thích vì sao phải nhượng bộ Pháp. Trong cuộc míttinh đó, Hồ Chí Minh đã nói những lời giản dị mà đầy xúc động: “Tôi, Hồ Chí Minh, đã luôn hướng dẫn đồng bào trên con đường tự do. Tôi đã chiến đấu suốt đời vì độc lập của Tổ Quốc. Đồng bào đã biết rằng tôi thà chết còn hơn phản quốc. Tôi thề với đồng bào rằng tôi đã không phản bội đồng bào”.
        Ngoài ra, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn gửi thư cho nhiều nguyên thủ quốc gia trên thế giới kêu gọi công nhận nhà nước Việt Nam mới được thành lập cũng như tranh thủ sự ủng hộ nhưng không nhận được hồi âm (Tổng thống Hoa Kỳ Harry S. Truman, lãnh tụ Liên Xô Stalin, Tổng thống Pháp Léon Blum, bộ trưởng Thuộc địa Pháp Marius Moutet và Nghị viện Pháp,…). Từ giữa tháng 10/1945 đến tháng 3/1946, Hồ Chí Minh đã gửi nhiều điện tín cho Tổng thống, Bộ trưởng Ngoại giao, Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại Thượng viện Mỹ và Liên Hiệp Quốc kêu gọi Mỹ và Liên Hiệp Quốc can thiệp vào Việt Nam trên cơ sở những nguyên tắc của Hiến chương Đại Tây Dương và vì lý do nhân đạo nhưng không đến được tay những người có thẩm quyền do Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chưa được Mỹ công nhận nên không được hồi đáp. Hồ Chí Minh cũng viết thư cho Stalin thông báo về sự ra đời của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và đề nghị Liên Xô đưa vấn đề độc lập của Việt Nam vào chương trình nghị sự của Liên hiệp quốc nhưng cũng không được hồi đáp. Vào thời điểm này, Liên Xô quan tâm đến châu Âu hơn Đông Dương. Trong lúc đó, những người Việt Nam theo chủ nghĩa Quốc gia và những người Pháp theo chủ nghĩa thực dân qua những mối quan hệ với giới chính trị Trung Quốc và Pháp tuyên truyền rằng Hồ Chí Minh là tay sai trung thành của Liên Xô. Ngày 5/12/1946, khi A.B. Moffat, Vụ trưởng Vụ Đông Nam Á thuộc Bộ ngoại giao Mỹ, đến thăm Đông Dương, Bộ trưởng Ngoại giao Mỹ Acheson có điện tín chỉ dẫn trong trường hợp gặp Hồ Chí Minh "phải luôn nhớ rằng ông Hồ đã được xác định là một tay sai của Quốc tế Cộng sản".
Ngày 8-3-1946, trong một phiên họp nội các, Hồ Chí Minh đã quyết định cử một phái đoàn đi Trùng Khánh để trình bày quan điểm của mình và tìm sự ủng hộ của Trung Quốc; một đoàn đại biểu sang Pari để tìm một sự thỏa hiệp dứt khoát.
Khoảng cuối tháng 3-1946, Hồ Chí Minh đã làm việc với các nhà chức trách quân sự của Trung Hoa Dân Quốc tại Hà Nội để tìm kiếm sự ủng hộ của họ cho những đề nghị sau đây của ông:
- Các nhà chức trách quân sự Trung Quốc gây sức ép mạnh mẽ với người Pháp để buộc sớm mở cuộc thương lượng và sớm đạt tới một thỏa hiệp chính thức với Việt Nam
- Quân đội Trung Quốc chỉ rời khỏi Việt Nam sau khi bản hiệp ước Pháp - Việt chính thức đã được ký kết.
- Trước khi ra đi, quân đội Trung Quốc trao lại cho Việt Nam toà nhà mà Bộ tư lệnh quân Tưởng đang đóng, tức Dinh Toàn quyền cũ, vì đây là tượng trưng quyền cai trị nước Việt Nam, nếu nó được trao lại cho Pháp thì sẽ có ảnh hưởng xấu lớn lao trong dân chúng.
- Quân đội đang chiếm đóng của Trung Quốc giúp đỡ chính phủ Việt Nam ngăn cản không cho Pháp tổ chức một cuộc duyệt binh.
Mười một ngày sau khi Lơcléc cho quân đổ bộ lên Hải Phòng, ngày 18-3, Lơcléc dẫn 1.076 quân Pháp kéo vào Hà Nội, đem theo nhiều xe vũ khí để tái vũ trang cho đám tù binh Pháp mới được thả ra và cho cả các kiều dân Pháp (quân Tưởng đã thỏa thuận để quân Pháp chiếm đóng Hải Phòng vào ngày 22-3, Nam Định và Đà Nẵng vào những ngày từ 24 đến 26-3…)
Theo nhận xét của nhiều nhà viết sử thì sau khi kéo quân vào Hà Nội, cũng trong ngày hôm đó, Lơcléc đã có cuộc tiếp xúc với Chủ tịch Hồ Chí Minh và qua cuộc gặp gỡ này, Lơcléc càng khẳng định ý kiến trước đó của mình, rằng nên đàm phán nghiêm chỉnh với chính phủ Việt Nam để cố đạt được một giải pháp hòa bình vững chắc.
Xanhtơni dù luôn vận động hết mình cho quyền lợi Pháp ở Đông Dương thì cũng cùng quan điểm với Lơcléc, nghĩa là nên thỏa hiệp trung thực với Hồ Chí Minh, người mà ông này cho rằng có “tầm cỡ phi thường, thông minh, hiểu rộng và hoàn toàn không ích kỷ”. Tuy nhiên, lực lượng cánh hữu, bảo thủ vẫn một mực chống lại mọi sự thương lượng nghiêm chỉnh nào với chính phủ Việt Nam mà họ coi là “những kẻ khủng bố”. Tiêu biểu và cuồng nhiệt nhất lực lượng này là Đácgiăngliơ, nhận vật có quyền lực cao cấp nhất của Pháp ở Đông Dương lúc đó. Chính Đờ Gôn đã quyết định Đácgiăngliơ làm Cao ủy Pháp ở Đông Dương, và ấn định rõ Đácgiăngliơ “đảm nhiệm toàn bộ các chức vụ cũ của toàn quyền Pháp ở Đông Dương trước kia, đồng thời kiêm nhiệm chức vụ Tổng chỉ huy các lực lượng vũ trang toàn Đông Dương” trong khi “nhiệm vụ chủ yếu của đại tướng Lơcléc là trợ giúp đô đốc Đácgiăngliơ về mặt quân sự nhằm khôi phục chủ quyền Pháp trên toàn bộ lãnh thổ Đông Dương”. Như vậy là tại Đông Dương, Lơcléc trở thành cấp dưới của Đácgiăngliơ. Sự phân công đó của Đờ Gôn làm cho “vị đô đốc cao ủy và vị đại tướng tổng tư lệnh đã giẫm chân lên nhau”.
          Đối với Đácgiăngliơ thì Hiệp định sơ bộ 6-3 bất quá chỉ là một đòn nghi binh ngoại giao, ngoài ra nó không hơn gì một mớ giấy lộn. Do đó ngay từ đầu, ông này đã hành xử hung hăng theo kiểu “kẻ mạnh” của thực dân ở thế kỷ XIX, phớt lờ như chưa hề có bản hiệp ước vừa ký còn chưa ráo mực đó. (Nhưng thưa ông, đã có biết bao nhiêu nước trôi qua cầu từ dạo ấy, đã có biết bao nhiêu đổi thay làm cho trò “ngoại giao pháo hạm” đến giữa thế kỷ XX đã trở nên vô hiệu và lố bịch, nhất là đối diện với ông không phải là một triều đình Huế bạc nhược mà là một chính quyền nhân dân sẵn sàng chiến đấu một mất một còn). Kể thêm: cũng như Lơcléc, Đácgiăngliơ thuộc một dòng dõi quý tộc lâu đời ở Pháp, bắt đầu binh nghiệp từ năm 1908, sau chiến tranh thế giới thứ nhất giải ngũ đi tu, từ vị trí một thầy dòng lên đến chức Tổng giám mục địa phận Pari, thì chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, tái ngũ theo lệnh tổng động viên, bị phát xít Đức bắt làm tù binh, trốn thoát theo Đờ Gôn chiến đấu đến ngày Pháp được giải phóng, được phong đô đốc và làm tổng chỉ huy lực lượng hải quân Pháp, sau được Đờ Gôn cử sang Đông Dương làm Cao ủy, đầu năm 1947 bị thay thế, trở về Pháp và sau một thời gian thì quay lại nhà thờ (đạo Cơ đốc) tiếp tục… tu, cuối đời về sống ở viện dưỡng lão của một vùng quê hẻo lánh. Một cuộc đời đặc sắc và nghe cũng thú vị đấy chứ?!
 
                        p011yjv8
Ngoại giao pháo hạm (Gunboat diplomacy)
                                                          ngoại giao pháo hạm
 
         Thế nên dù Lơcléc có căn dặn (ghi rõ trong chỉ thị) binh lính khi kéo vào Bắc - Việt Nam phải “tôn trọng chủ quyền, quốc kỳ của Việt Nam” thì đội quân Pháp ấy cũng chẳng “ngoan” tí nào: vẫn ngông nghênh làm những điều phạm luật, gây hấn khiêu khích, phá phách, đặc biệt là lấn chiếm một cách có tổ chức và ngày càng nghiêm trọng. Đơn cử là ngày 27-3-1946 (tức chỉ sau 9 ngày kéo vào Hà Nội), quân Pháp đã vi phạm Hiệp định, ngang nhiên chiếm đóng Nhà tài chính Việt Nam (nay là Bộ Ngoại giao), treo cờ tam tài (cờ Pháp) lên…
Ngày 16-5-1946, Hồ Chí Minh nói chuyện với Tiêu Văn về “Ba nguyên tắc trong chính sách quốc gia” của ông. Ba nguyên tắc đó là:
1- Chọn một đường lối thân Trung Quốc
2- Không đầu hàng Pháp
3- Không thực hiện cương lĩnh cộng sản trong vòng 50 năm tới
Hồ Chí Minh giải thích với Tiêu Văn rằng ông tin ở thuyết Tam dân chủ nghĩa. rằng chủ nghĩa cộng sản không thích hợp với nước Việt Nam lạc hậu về công nghiệp, rằng chính phủ ông không phải là chính phủ cộng sản, và chính sách cơ bản của chính phủ ông giống chính sách của chính phủ Trung Quốc như Tưởng Tổng Tài (Tưởng Giới Thạch) đã tuyên bố; “Nhân dân trước hết, quốc gia trước hết”.
Hồ Chí Minh đã làm hết sức mình để tranh thủ tình hữu nghị và sự ủng hộ của Trung Quốc trước khi ông đi Pháp tiến hành cuộc đàm phán.
Ngày 31-5-1946, hàng chục vạn nhân dân Hà Nội tiễn đưa Chủ tịch Hồ Chí Minh và phái đoàn chính phủ Việt Nam lên đường sang Pháp đàm phán (hội nghị được tiến hành tại Phongtenơblô). Trước khi đi, Hồ Chủ Tịch đã nói trước nhân dân mình một lời bất hủ: “Nam Bộ là máu của máu Việt Nam, là thịt của thịt Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý đó không bao giờ thay đổi”.
                                
                          Lễ đón Chủ tịch Hồ Chí Minh tại sân bay Bourget, Paris (22-6-1946).
                                
                                          Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc thư ở Paris (7-1946).
                                 
                         Chủ tịch Hồ Chí Minh đi thăm vùng chiến trường Normandy (17-7-1946).
Rất có thể khi nói ra như thế, nhất là trong bối cảnh cường độ chiến tranh đang gia tăng ở Nam Bộ, Hồ Chí Minh, trong thâm tâm đã thấy trước được sự thất bại của Hội nghị Phôngtenơblô (Hồ Chí Minh không trực tiếp tham gia đàm phán mà sang Pháp với tư cách là thượng khách do Chính phủ Pháp mời). Mục đích tối thượng của chính phủ Việt Nam là độc lập, thống nhất toàn vẹn cho đất nước. Khi tình thế đòi hỏi ở chừng mực nhất định có thể nhân nhượng, nhưng nhân nhượng đến mức đất nước bị chia cắt và mất luôn cả chủ quyền lãnh thổ thì không thể được. Làm cách mạng là vì một mục đích cao cả nào đó. Để mất mục đích thì coi như cách mạng đã thất bại. Điều dễ thấy là thực dân Pháp không bao giờ thành tâm muốn cho Việt Nam được độc lập, thống nhất. Hành động dựa vào quân Anh đánh chiếm Sài Gòn và ỷ vào sức mạnh quân sự vượt trội để hòng cướp lại Nam Kỳ đã lộ rõ cái dã tâm ấy của thực dân Pháp. Ngay cả Lơcléc và Xanhtơni, nếu không nhận thấy được sức mạnh tiềm tàng của Việt Nam thì cũng không nghĩ đến giải pháp hòa bình cho vấn đề Việt Nam. Ngay cả trong thực tế, dù rằng hai người này chủ trương thương lượng nghiêm túc và có quan tâm đến nền độc lập của Việt Nam thì cũng vì quyền lợi ích kỷ của chính phủ Pháp lúc bấy giở chứ chẳng hề có chút yêu thương, đồng cảm nào đối với dân Việt Nam (dù nước họ vừa mới trải qua sự xâm lược của phát xít Đức và họ đã từng phải chiến đấu để giải phóng nó).
       Hai ý chí Việt và Pháp là tương phản nhau, tùy vào mối tương quan về thế và lực mà để tránh xung đột, có thể thỏa hiệp với nhau về một số quyền lợi. Tuy nhiên, điểm mấu chốt nhất, cốt lõi nhất và cũng hóc búa nhất là vấn đề Nam Bộ thì lại không giải quyết được do sự thiếu thiện chí và cản trở quyết liệt của một bên là những kẻ còn mang nặng bản chất thèm khát xâm lược, thực dân cổ hủ, mù quáng và một bên là những người quyết giữ toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng vừa mới giành lại được của dân tộc.

Ông Hồ Chí Minh và thư ký riêng, ông Vũ Đình Huỳnh tại Paris, 1946.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và thư ký riêng Vũ Đình Huỳnh tại Paris năm 1946

Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp sau phiên họp Hội đồng Chính phủ tại chân đèo De, xã Tân Trào, huyện Sơn Dương
Chỉ một ngày sau khi Hồ Chí Minh rời Việt Nam, ngày 1-6-1946, Đácgiăngliơ đã lập ra cái gọi là “Chính phủ Nam Kỳ tự trị”, đứng đầu là Nguyễn Văn Thịnh. Hành động này hết sức ngang ngược, vi phạm thô bạo Hiệp định sơ bộ 6-3, trong đó có nêu rõ “vấn đề Nam Bộ sẽ giải quyết thông qua cuộc trưng cầu dân ý”. Tệ hại hơn nữa, một đoàn đại biểu của cái nước tự trị do Pháp nặn ra một cách vội vã này cũng được gửi sang Pari để thương thuyết riêng với Pháp. Đúng là một trò hề!
Không những thế, ngày 21-6, Đácgiăngliơ ra lệnh cho quân Pháp tiến chiếm Tây Nguyên, mưu toan lập thêm một “xứ tự trị” giả hiệu nữa. Ngày 25-6, quân Pháp chiếm giữ Phủ toàn quyền cũ ở Hà Nội (theo hiệp ước Việt - Pháp ký ngày 20-4-1946 thì Phủ toàn quyền cũ không có trong danh sách những ngôi nhà thuộc quyền của Pháp).

                 Quân đội của thế lực thuộc địa Pháp ở Việt Nam (khoảng 1950)
                Quân đội của thế lực thuộc địa Pháp ở Việt Nam (khoảng 1950)
Hồ Chí Minh, lúc đó đang ở Pháp, đã gửi hai bức thư vào ngày 27-6 và 12-7 để phản đối những hành động của Đácgiăngliơ. Trong bức thư đề ngày 27-6 gửi cho Bộ trưởng Bộ Pháp quốc hải ngoại (thực chất là Bộ Thuộc địa) là Mariuýt Mutê, có đoạn:
“Thái độ khiêu khích của những người chỉ huy quân sự cục bộ Pháp là nguy cơ làm mất thiện chí của nhân dân Việt Nam đối với nước Pháp và có thể gây trở ngại đáng kể cho diễn biến của cuộc đàm phán ngoại giao sắp tới giữa hai đoàn đại biểu của hai chính phủ chúng ta”.
Trong bức thư đề ngày 12-7, gửi Chính phủ Pháp ở Pari, có đoạn:
“Những người chỉ huy quân sự Pháp ở Việt Nam, với những hành động của họ ở Nam Bộ từ ngày 6-3, ngày càng vi phạm đến Hiệp định sơ bộ đã được ký kết giữa Việt Nam và Pháp, là người khởi xướng và chịu trách nhiệm về hai hành động có tính xâm lược mà bản chất của nó là làm rối loạn nghiêm trọng đến không khí của cuộc hội nghị Pháp - Việt sắp tới”.
Cả hai bức thư đó đã chẳng có tác động gì nhiều nếu không nói rằng bị quan chức Chính phủ Pháp thờ ơ, phớt lờ. 
Do mâu thuẫn không hòa giải được với “thầy tu” Đácgiăngliơ bởi những quyết định và hành động ngỗ ngược, trắng trợn của ông này nên tháng 7-1946, Lơcléc đã xin từ chức tổng tư lệnh các lực lượng Pháp ở Viễn Đông. Sau này, Lui Xôren, nhà sử học Pháp đã nhận định:
“Nếu trong vấn đề Việt Nam, đại tướng Lơcléc tiêu biểu cho tương lai, chủ trương một sự hợp tác tin cậy lẫn nhau giữa Việt Minh và nước Cộng hòa Pháp vừa được giải phóng khỏi ách phát xít, thì đô đốc Đácgiăngliơ lại tiêu biểu cho quá khứ lỗi thời, chủ trương một chính sách cực kỳ phản động nhằm quay trở lại chủ nghĩa thực dân. Chính Đácgiăngliơ là một trong những kẻ phải chịu trách nhiệm về sự bùng nổ cuộc chiến tranh Đông Dương”.
Sau một thời gian đàm phán Việt - Pháp (từ tháng 7 đến tháng 9-1946), điều tất yếu xảy ra: Hội nghị Phôngtennơblô kết thúc thất bại, hai bên không ký được hiệp ước chính thức. Tuy nhiên Hồ Chí Minh đã đạt được điều mong muốn: trì hoãn thời điểm bùng nổ chiến tranh Đông Dương vào lúc có lợi nhất cho Cách mạng Việt Nam, cũng như tạo thêm nhiều thiện cảm trong mọi tầng lớp nhân dân Pháp.
Cũng theo nhà sử học King C. Chen thì sau thất bại của cuộc đàm phán Việt - Pháp đó, Hồ Chí Minh đã nói với Mutê và Xanhtơni rằng: “Đừng để cho tôi ra về như thế này. Hãy cho tôi một vũ khí nào đó để chống bọn quá khích”. Với từ ngữ “quá khích”, không biết Hồ Chí Minh ám chỉ ai? Chúng ta biết rằng quân Tưởng đã không đợi đến khi có một sự dàn xếp dứt khoát giữa Việt Nam và Pháp như đã yêu cầu, mà rút hết vào tháng 6-1946. Bám theo chúng là đám đầu têu phản cách mạng như Nguyễn Tường Tam, Vũ Hồng Khanh… Đám lau nhau còn lại tự nhiên mất đầu, phải thay thầy đổi chủ, quay sang làm tay sai cho Pháp. Tại Hà Nội, bọn này định lợi dụng quân Pháp tổ chức diễu binh nhân dịp kỷ niệm “ngày 14-7” (Ngày 14-7-1789 quần chúng cách mạng Pháp đánh chiếm pháo đài Baxti - biểu tượng của chế độ phong kiến Pháp, ngày này đã vĩnh viễn đi vào lịch sử vinh quang của dân tộc Pháp và trở thành ngày Quốc Khánh của nước Cộng hòa Pháp) để tiến hành bạo loạn. Ngày 12-7-1946, nhờ sự giúp đỡ của quần chúng và sau một thời gian điều tra, lực lượng an ninh Cách mạng đã bất ngờ bắt giữ hơn 120 kẻ phản loạn với đầy đủ tang chứng. Khi thấy rõ những chứng cứ về tội ác đẫm máu của chúng như giết người, bắt cóc, tống tiền, in bạc giả… tại phố Ôn Như Hầu (nay là phố Nguyễn Gia Thiều), Huỳnh Thúc Kháng, quyền Chủ tịch nước (khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đi Pháp), đã ký lệnh thi hành nghiêm phép nước, đưa vụ này ra xét xử, tiệt trừ triệt để. Đến đây, sự đe dọa của quân Tưởng không còn nữa, bè lũ phản cách mạng cũng tạm thời bị dẹp yên. Vậy Hồ Chí Minh ám chỉ ai vào thời điểm ký tạm ước khi dùng từ ngữ “quá khích” nếu không phải là chính quân Pháp ở Việt Nam?
Dù sao thì tới khuya 14-9-1946, Hồ Chí Minh và Mutê đã ký được một tạm ước. Tạm ước này là sự nhắc lại các điều khoản của Hiệp ước sơ bộ 6-3, cho Pháp thêm nhiều quyền trong lĩnh vực kinh tế ở tại Bắc - Việt Nam, còn Pháp hứa “sẽ dân chủ hơn” tại Nam Bộ. Vấn đề Nam Bộ, vẫn còn để ngỏ, hai bên sẽ tiếp tục thương lượng tìm một giải pháp dứt khoát vào đầu năm 1947.
Ký được tạm ước 14-9 là một bước đi tuyệt đẹp của Hồ Chí Minh.
Tạm ước đó chắc chắn không thể loại trừ được chiến tranh, có thể về mặt giá trị chẳng đáng là bao nhưng vẫn là một cái khiên tạm xài được và đối với quân Pháp ở Bắc - Việt Nam nó vẫn là vòng kim cô pháp lý, dù lỏng lẻo, nhưng có còn hơn không.

                                                
                                                 Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng tại Paris,
                               
                              Hồ Chí Minh và Marius Moutet bắt tay sau khi ký Tạm ước Việt - Pháp            
                                

Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ trưởng Hải ngoại Pháp Marius Moutet ký bản tạm ước Việt – Pháp ngày 14-9-1946.Tạm ước 14/9/1946: Hòa để tiến. Bài đã được xuất bản.: 12/09/2011 09:00 GMT+7 , Tác giả: Vũ Khoan.
Ngày 14-10-1946, lúc 15 giờ, Hồ Chí Minh về tới Hà Nội trong sự đón mừng nồng nhiệt của toàn thể nhân dân thủ đô.
Bản tạm ước dù có thể đã làm chậm tiến trình nhưng không ngăn cản được sự ráo riết chuẩn bị chiến tranh của những cái đầu thực dân bảo thủ của Pháp ở Việt Nam. Ngày 23-11, quân đội Pháp công khai phá bỏ hiệp ước bằng cách đòi kiểm soát quân sự cảng Hải Phòng và đã bắn phá thành phố này làm rất nhiều người Việt Nam thiệt mạng (phía Pháp thừa nhận là 6.000 người, phía Việt Minh nói là 20.000 người).
        Xung đột quân sự đầu tiên nổ ra tại Hải Phòng. Đầu tháng 11 năm 1946, quân Pháp chiếm trụ sở hải quan tại cảng Hải Phòng. Quốc hội Việt Nam phản đối hành động này và khẳng định chủ quyền của Việt Nam trong việc kiểm soát tất cả các vấn đề liên quan đến xuất nhập khẩu.
       Ngày 30/10/1946 Bộ chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương ra mệnh lệnh số 938- PC cùng với toàn bộ kế hoạch chi tiết triển khai đánh chiếm Hải Phòng. Điều này buộc quân và dân Hải Phòng nổi đậy.
       Hải Phòng là cửa ngõ đường biển quan trọng có vị trí đặc biệt ở miền Bắc. Tại đây, Pháp bố trí một lực lượng mạnh, đặc biệt là pháo binh và thiết giáp, bao gồm: Trung đoàn pháo binh thuộc địa Ma-rốc 4; Trung đoàn chiến xa cơ động và một bộ phận thủy quân, không quân; tổng cộng khoảng 3000 quân. Về phía ta có Trung đoàn 41 Vệ quốc đoàn, 1 đại đội công an xung phong, 1 trung đội thủy quân cùng lực lượng tự vệ và nhân dân thành phố Hải Phòng.
        9 giờ sáng ngày 20/11/1946, quân Pháp gây ra xung đột trên bến Tam Kỳ, xả súng bắn vào chiến sĩ và dân thường. Sau đó, chúng liên tục thực hiện các vụ nổ súng tấn công vào các vị trí trọng yếu trong thành phố bất chấp những thỏa thuận ngừng bắn tạm thời đã ký kết trước đó. Trắng trợn hơn, chúng gửi tối hậu thư đến Ủy ban bảo vệ thành phố, đòi giải tán các lực lượng vũ trang của ta ra khỏi khu vực nội thành. Va-luy, Tổng Chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương từ Sài Gòn yêu cầu Chỉ huy quân Pháp tại Hải Phòng Đép-bơ: “Phải lợi dụng vụ rắc rối ngày 20 để củng cố thêm vị trí Hải Phòng của chúng ta”.
Sự kiềm chế của quân và dân Hải Phòng đã đến ranh giới tận cùng. Ngay khi các xung đội xảy ra, Ủy ban bảo vệ thành phố đã phát lệnh “chuẩn bị tác chiến”. Ngay lập tức, các hàng rào, chiến lũy được xây dựng tại các ngã tư quan trọng trong thành phố ngăn chặn các hướng tấn công của địch.
        Ngày 21/11/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho Moóclie, Chỉ huy quân sự miền Bắc Đông Dương. Trong thư, Người đề nghị hai bên cần thương lượng đề có giải pháp và trở về “Tình trạng trước ngày 20/11 nhằm ổn định tình hình ở Hải Phòng”.
        Phớt lờ đề nghị thương lượng, sáng 23/11/1946, quân Pháp tiến công khắp nơi trong thành phố. Máy bay địch oanh tạc liên tiếp, pháo hạm từ ngoài biển bắn dữ dội vào các vị trí của ta trong nội thành và khu vực lân cận, nhất là khu vực Nhà hát thành phố, nhà ga, bưu điện, nhà đốc lý,… hòng hủy diệt thành phố. Bất chấp sự tiến công ồ ạt của kẻ thù, quân và dân thành phố vẫn kiên cường bám trụ. Dựa vào từng ổ đề kháng, tường nhà, góc phố, các chiến sĩ chiến đấu anh dũng, hiệp đồng đánh cả mặt trước, sau lưng, bên sườn quân địch, không cho chúng tiến công, giữ vững trận địa.           
Quân và dân Thủ đô dựng chiến lũy cản bước tiến của giặc Pháp. (Ảnh tư liệu TTXVN)

                                 
Hình 2: Nhân dân Hà Nội dùng đồ đạc, tài sản dựng chiến lũy trên đường, cản bước xe tăng địch ( Phố Mai Hắc Đế tháng 12-1946). Ảnh: TTXVN
 
         Trước tình hình đang diễn biến nghiêm trọng, trưa ngày 23/11/1946, Đài tiếng nói Việt Nam phát đi lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh về việc quân Pháp gây hấn ở Hải Phòng, Người kêu gọi “toàn thể đồng bào phải trấn tĩnh, các bộ đội và tự vệ phải sẵn sàng bảo vệ chính quyền của Tổ quốc, bảo vệ tính mệnh, tài sản của ngoại kiều”.
        Đáp lời kêu gọi thiêng liêng của Bác Hồ, quân và dân thành phố Hải Phòng đã thề “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”, quyết bảo vệ vị trí cửa ngõ Đông Bắc của Tổ quốc. Quân ta tổ chức nhiều cuộc phản kích ở khu vực nhà ga, Ngã Sáu, Phố Khách, phố Ba Ti, Nhà hát Lớn, Nhà máy đèn, Nhà máy nước; tiến công sân bay Cát Bi, đánh địch ở khu vực Trại bảo an binh, Trại Cau... Kết quả loại khỏi chiến đấu hơn 160 địch, thu hơn 20 súng các loại.
          Ngày 26/11/1946, địch huy động lực lượng lớn tiến công, đánh phá các khu phố Lý Thường Kiệt, Hoàng Văn Thụ, Quang Trung, Cầu Đất nhằm đánh vào Sở Chỉ huy Trung đoàn 41. Cán bộ, chiến sĩ trung đoàn dựa vào công sự đẩy lui được nhiều đợt tiến công, buộc chúng phải co cụm. Quân Pháp gặp phải hỏa lực mạnh của lực lượng Việt Minh bảo vệ thành phố. Quân Tự vệ Việt Nam chỉ có súng trường Mousqueton, mã tấu và lựu đạn nhưng vẫn quyết tâm chiến đấu bảo vệ Hải Phòng. Chiến sự kéo dài cho đến khi người lính Việt Minh cuối cùng rút khỏi chiến trường vào ngày 28 tháng 11.
        Tin chiến sự lan ra toàn quốc. Hồ Chí Minh kêu gọi nhân dân hãy bình tĩnh. Trong khi đó thì Võ Nguyên Giáp yêu cầu được gặp Tướng Molière (Tư lệnh Pháp tại Bắc Việt Nam) vào ngày 27/11/1946 để đàm phán. Mãi tới ngày 29/11, Tướng Molière mới chịu gặp Giáp. Khi nói chuyện, Tướng Molière nói thẳng lập trường của Pháp là Pháp phải kiểm soát Hải Phòng cùng các vùng phụ cận và quốc lộ số 5 (nối liền Hà Nội với Hải Phòng) cũng như tất cả các thông lộ nối liền với các đồn trú quân của Pháp. Nếu chính phủ Việt Nam không chấp nhận những điều kiện này thì không có đàm phán gì hết. Đòi hỏi của Pháp khíến cho chính quyền Việt Nam không còn hy vọng gì thương thuyết được với người Pháp và phải chuẩn bị chiến tranh. Tất các cơ quan chính quyền Việt Nam chuẩn bị rút lui ra khỏi thủ đô Hà Nội để chuẩn bị kháng chiến lâu dài. 
 
                                 
                            Hình 4: Pháo của bộ đội tại trận địa Láng - Hà Nội chuẩn bị khai hoả.
                                         
Hình 5: Ngày 19/12/1946, pháo đài Láng là nơI bắn phát đạn đầu tiên vào thành Hà Nội, mở đầu ngày toàn quốc kháng chiến.
 
     Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Dân tộc ta có thể trường kỳ kháng chiến, nhưng thực dân Pháp không thể trường kỳ xâm lược”. Bảy ngày đêm chiến đấu (từ ngày 20 đến ngày 26/11/1946) chống lại hàng nghìn quân tinh nhuệ của Pháp, được trang bị vũ khí hiện đại, có sự hỗ trợ của hải quân và không quân là một thử thách lớn trong những ngày đầu trước khi toàn quốc kháng chiến bùng nổ. Với tinh thần “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”, quân và dân thành phố Hải Phòng đã kiên cường bám trụ, chiến đấu anh dũng, khiến kẻ địch bị bất ngờ vì phải đương đầu với sức mạnh của toàn dân, một sức mạnh “cả thành phố một lòng, quân dân cùng chiến đấu”. Bảy ngày đêm giữ vững Hải Phòng tuy không dài nhưng để lại nhiều bài học lớn về tác chiến trong thành phố của quân và dân ta. Cuộc chiến đấu “có tác dụng của một cuộc tổng diễn tập thực sự chuẩn bị cho trận đánh nhiều ngày ở Thủ đô Hà Nội xảy ra sau đó một tháng” như lời đánh giá của Đại tướng Võ Nguyên Giáp sau này.  Với hành động này, coi như Pháp đã mở lời thách thức chiến đấu với quân dân Việt Nam và như thế, đối với một chính quyền đứng đầu là Hồ Chí Minh lấy mục đích tối cao: “Dân tộc trên hết, Tổ quốc trên hết” làm lẽ sống, thì không thể không phát động kháng chiến. Ngày 29-11-1946, báo “Sự thật” ở Hà Nội, số 64, đăng lời kêu gọi của Hội nghiên cứu chủ nghĩa Mác ở Đông Dương (tức là Đảng Cộng sản Đông Dương rút vào hoạt động bí mật). Trong đó có đoạn: “Sự thật đã chứng tỏ rằng: thực dân Pháp ngang nhiên khiêu hấn. Chúng định dùng võ lực bắt ta phải nhượng bộ, nhưng không khi nào ta chịu. Tạm ước ngày 14-9 là một bước nhân nhượng cuối cùng. Nhân nhượng nữa là phạm đến chủ quyền đất nước, là hại quyền lợi cao trọng của dân tộc”.

Sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh qua ảnh


Làng Sen – quê nội Bác
Làng Sen – quê nội Bác
Tháng 6/1911, Người ra nước ngoài, đi đến nước Pháp và nhiều nước châu Âu, châu Á, châu Phi, châu Mỹ. Người vừa lao động để sống, vừa học tập, nghiên cứu các học thuyết cách mạng. Năm 1917, Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, Người đã nhận rõ đây là đường lối duy nhất đúng đắn để giải phóng dân tộc và giải phóng xã hội.
Tháng 6-1911, Người ra nước ngoài, đi đến nước Pháp và nhiều nước châu Âu, châu Á, châu Phi, châu Mỹ. Người vừa lao động để sống, vừa học tập, nghiên cứu các học thuyết cách mạng. Năm 1917, Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, Người đã nhận rõ đây là đường lối duy nhất đúng đắn để giải phóng dân tộc và giải phóng xã hội. Trong ảnh: Bác Hồ làm phụ bếp trên con tàu đã đưa Người ra đi tìm đường cứu nước năm 1911
Năm 1919, Người gia nhập Đảng Xã hội pháp và hoạt động trong phong trào công nhân Pháp. Đầu năm đó, Người gửi đến Hội nghị Véc-xây (Pháp) “Bản yêu sách của nhân dân Việt Nam”, đòi Chính phủ Pháp phải thừa nhận các quyền tự do và bình đẳng của dân tộc Việt Nam
Năm 1919, Người gia nhập Đảng Xã hội pháp và hoạt động trong phong trào công nhân Pháp. Đầu năm đó, Người gửi đến Hội nghị Véc-xây (Pháp) “Bản yêu sách của nhân dân Việt Nam”, đòi Chính phủ Pháp phải thừa nhận các quyền tự do và bình đẳng của dân tộc Việt Nam
Ngôi nhà số 9, ngõ hẻm Com-poăng (Paris), nơi Người trọ từ năm 1920 đến năm 1923
Ngôi nhà số 9, ngõ hẻm Com-poăng (Paris), nơi Người trọ từ năm 1920 đến năm 1923
Tháng 12/1920, trong Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp, Người bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế cộng sản và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp.
Tháng 12-1920, trong Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp, Người bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế cộng sản và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp.
Năm 1921, Người tham gia thành lập Hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa và năm 1922 xuất bản báo “Người cùng khổ” ở Pháp.
Năm 1921, Người tham gia thành lập Hội liên hiệp các dân tộc thuộc địa và năm 1922 xuất bản báo “Người cùng khổ” ở Pháp. Trong ảnh: Hồ Chủ Tịch và tờ báo Le Paria – Người cùng khổ
Tháng 6/1923, Người từ Pháp đi Liên Xô, tiếp tục nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin và tham gia công tác của Quốc tế cộng sản. Năm 1924, người dự Đại hội lần thứ 5 của Quốc tế cộng sản và được cử làm Ủy viên Bộ phương Đông, phụ trách Cục phương Nam, hướng dẫn và xây dựng phong trào cách mạng và phong trào Cộng sản ở các nước Đông – Nam châu Á. Năm 1925, Người thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông.
Tháng 6-1923, Người từ Pháp đi Liên Xô, tiếp tục nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin và tham gia công tác của Quốc tế cộng sản. Năm 1924, người dự Đại hội lần thứ 5 của Quốc tế cộng sản và được cử làm Ủy viên Bộ phương Đông, phụ trách Cục phương Nam, hướng dẫn và xây dựng phong trào cách mạng và phong trào Cộng sản ở các nước Đông – Nam châu Á. Năm 1925, Người thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông. Trong ảnh: Đồng chí Nguyễn Ái Quốc với một số đại biểu dự Đại Hội Quốc Tế Cộng Sản lần V
Từ 1930 đến 1940, Người ở nước ngoài tham gia công tác của Quốc tế Cộng sản, đồng thời theo dõi sát phong trào cách mạng trong nước và có những chị thị quý báu cho Ban chấp hành Trung ương Đảng.
Từ 1930 đến 1940, Người ở nước ngoài tham gia công tác của Quốc tế Cộng sản, đồng thời theo dõi sát phong trào cách mạng trong nước và có những chỉ thị quý báu cho Ban chấp hành Trung ương Đảng. Trong ảnh: Bác Hồ vào năm 1933 khi vừa từ Trung Quốc trở lại Nga
Sau 30 năm bôn ba hải ngoại, tháng 2 năm 1941, Bác Hồ về nước trựctiếp chỉ huy phong trào cách mạng trong nước. Bác sống và làm việc trong hang Pác Pó thuộc huyện Hà Quảng tỉnh Cao Bằng.
Sau 30 năm bôn ba hải ngoại, tháng 2 năm 1941, Bác Hồ về nước trực tiếp chỉ huy phong trào cách mạng trong nước. Bác sống và làm việc trong hang Pác Pó thuộc huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Trong ảnh: Lễ thành lập đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân
Ngày 24 tháng 5, Bác Hồ từ Cao Bằng về đến Tân Trào để chỉ đạo phong trào cách mạng trong cả nước.
Ngày 24 tháng 5, Bác Hồ từ Cao Bằng về đến Tân Trào để chỉ đạo phong trào cách mạng trong cả nước. Trong ảnh: Bác Hồ ở Hang Bòng (Tân Trào, Sơn Dương) 
Bữa cơm của Bác Hồ và các chiến sỹ ở Tân Trào trong những ngày kháng chiến chống thực dân Pháp
Bữa cơm của Bác Hồ và các chiến sỹ ở Tân Trào trong những ngày đấu tranh chống thực dân Pháp
Ngày 17 tháng 8, ngay sau Đại hội Quốc dân, Bác Hồ ra lời kêu gọi, đồng bào cả nước Tổng khởi nghĩa, động viên quân dân ta nhất tề xông lên giành lấy chính quyền, xây dựng nước Việt Nam độc lập, tự do.
Ngày 17 tháng 8, ngay sau Đại hội Quốc dân, Bác Hồ ra lời kêu gọi đồng bào cả nước Tổng khởi nghĩa, động viên quân dân ta nhất tề xông lên giành lấy chính quyền, xây dựng nước Việt Nam độc lập, tự do. Trong ảnh: Lá cờ treo tại đình Tân Trào trong Đại hội Quốc dân.
Ngày 19.8.1945, hơn 10 vạn quần chúng thủ đô Hà Nội đã tham gia mít tinh mở đầu cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
Ngày 19-8-1945, hơn 10 vạn quần chúng thủ đô Hà Nội đã tham gia mít tinh mở đầu cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
Và kết quả đã làm nên cuộc cách mạng tháng 8 kỳ diệu với chiến thắng vang dội.
Và kết quả đã làm nên cuộc Cách mạng Tháng 8 kỳ diệu với chiến thắng vang dội.
Ngày 22 tháng 8, Bác Hồ rời Tân Trào về Hà Nội. Ngày 2/9/1945, Người đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Ngày 22 tháng 8, Bác Hồ rời Tân Trào về Hà Nội. Ngày 2-9-1945, Người đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Lễ tuyên ngôn Độc Lập tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội ngày 2-9-1945
Lễ tuyên ngôn Độc Lập tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội ngày 2-9-1945
Người đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
Người đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Tháng 9/1945 câu kết với các đế quốc Mỹ, Anh và bọn phản động Quốc dân Đảng Trung Quốc, thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta một lần nữa, âm mưu xóa bỏ mọi thành quả của Cách mạng tháng Tám. Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Ban chấp hành Trung ương Đảng lãnh đạo toàn quân, toàn dân ta vừa đánh trả bọn thực dân Pháp xâm lược ở miền Nam, vừa đối phó với bọn phản động Tưởng Giới Thạch ở miền Bắc.

Tháng 9-1945 câu kết với các đế quốc Mỹ, Anh và bọn phản động Quốc dân Đảng Trung Quốc, thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta một lần nữa, âm mưu xóa bỏ mọi thành quả của Cách mạng Tháng Tám. Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Ban chấp hành Trung ương Đảng lãnh đạo toàn quân, toàn dân ta vừa đánh trả bọn thực dân Pháp xâm lược ở miền Nam, vừa đối phó với bọn phản động Tưởng Giới Thạch ở miền Bắc. Trong ảnh: Quân đội Trung Hoa Dân quốc đến Hải Phòng, năm 1945

Quân Anh đến Sài Gòn, tháng 9 năm 1945
Quân Anh đến Sài Gòn, tháng 9 năm 1945
Hiệp định sơ bộ ngày 6/3/1946 được ký kết giữa Việt Nam và Dân chủ Cộng hòa Pháp. Quân Tưởng Giới Thạch rút khỏi miền Bắc Việt Nam.
Hiệp định sơ bộ ngày 6-3-1946 được ký kết giữa Việt Nam và Pháp. Quân Tưởng Giới Thạch rút khỏi miền Bắc Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và thư ký riêng Vũ Đình Huỳnh tại Paris năm 1946
Chủ tịch Hồ Chí Minh và thư ký riêng Vũ Đình Huỳnh tại Paris năm 1946
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ trưởng Hải ngoại Pháp Marius Moutet ký bản tạm ước Việt – Pháp ngày 14-9-1946
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ trưởng Hải ngoại Pháp Marius Moutet ký bản tạm ước Việt – Pháp ngày 14-9-1946
Quân đội Pháp mở rộng đánh chiếm miền Nam, kéo ra chiếm đóng miền Bắc, âm mưu tiến tới xóa bỏ Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trước tình hình ấy, tháng 12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến.

Quân đội Pháp mở rộng đánh chiếm miền Nam, kéo ra chiếm đóng miền Bắc, âm mưu tiến tới xóa bỏ Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trước tình hình ấy, tháng 12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Trong ảnh: Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến – Hồ Chí Minh (9-12-1946)

Sau đó Người trở lại Việt Bắc lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong 9 năm, trường kỳ kháng chiến, Bác Hồ cùng với Trung ương Đảng lãnh đạo quân và dân đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Sau đó Người trở lại Việt Bắc lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp. Trong 9 năm, trường kỳ kháng chiến, Bác Hồ cùng với Trung ương Đảng lãnh đạo quân và dân đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trong ảnh: Nhà sàn đầu tiên của Bác ở Vai Cày, Đại Từ, Thái Nguyên

Ở chiến khu, mọi sinh hoạt của Bác…
Ở chiến khu, mọi sinh hoạt của Bác…
từ làm việc…
từ làm việc…
…đến việc ra các quyết định quan trọng đến vận mệnh dân tộc đều hết sức giản dị, đơn sơ
… đến việc ra các quyết định quan trọng đến vận mệnh dân tộc đều hết sức giản dị, đơn sơ.
Những hình ảnh Bác làm việc ở chiến khu Việt Bắc
Hình ảnh Bác làm việc ở chiến khu Việt Bắc
Bác Hồ đi công tác ở chiến khu Việt Bắc
Bác Hồ đi công tác ở chiến khu Việt Bắc
Bác tăng gia sản xuất ở chiến khu Việt Bắc
Bác tăng gia sản xuất ở chiến khu Việt Bắc
Bác Hồ với đồng chí Phạm Văn Đồng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp tại ATK Định Hóa
Bác Hồ với đồng chí Phạm Văn Đồng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp tại ATK Định Hóa
Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng các đồng chí bảo vệ và giúp việc tại chiến khu Việt Bắc
Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng các đồng chí bảo vệ và giúp việc tại chiến khu Việt Bắc
Bác Hồ đọc báo ở chiến khu Việt Bắc, năm 1951
Bác Hồ đọc báo ở chiến khu Việt Bắc, năm 1951
Bác Hồ nói chuyện về tình hình cách mạng trong nước và thế giới với cán bộ, chiến sỹ bảo vệ và phục vụ những ngày ở Chiến khu Việt Bắc.
Bác Hồ nói chuyện về tình hình cách mạng trong nước và thế giới với cán bộ, chiến sỹ bảo vệ và phục vụ những ngày ở Chiến khu Việt Bắc.
Ở Việt Bắc, Bác thường đi thăm bà con dân tộc
Ở Việt Bắc, Bác thường đi thăm bà con dân tộc
 
 
Ngoài giờ làm việc, Bác chơi thể thao và tập võ để nâng cao sức khỏe
Ngoài giờ làm việc, Bác chơi thể thao và tập võ để nâng cao sức khỏe
Đến cuối năm 1953, Chiến tranh Đông Dương đã kéo dài 8 năm, Pháp lâm vào thế bị động trên chiến trường, quân đội dưới sự lãnh đạo của Bác và Đảng đã giải phóng nhiều khu vực rộng lớn ở Tây Nguyên, khu 5, các tỉnh Cao Bắc Lạng,.. Thời cơ đã đến, Bác và các đồng chí lãnh đạo của Đảng như Đại tướng Võ Nguyên Giáp, đồng chí Trường Chinh … đã họp bàn và ra quyết định mở chiến dịch Điện BIên Phủ.

Đến cuối năm 1953, Chiến tranh Đông Dương đã kéo dài 8 năm, Pháp lâm vào thế bị động trên chiến trường, quân đội dưới sự lãnh đạo của Bác và Đảng đã giải phóng nhiều khu vực rộng lớn ở Tây Nguyên, khu 5, các tỉnh Cao Bắc Lạng... Thời cơ đã đến, Bác và các đồng chí lãnh đạo của Đảng như Đại tướng Võ Nguyên Giáp, đồng chí Trường Chinh... đã họp bàn và ra quyết định mở chiến dịch Điện BIên Phủ. Trong ảnh: Hình ảnh “Ông Ké” trở nên quen thuộc, gần gũi với đồng bào các dân tộc.

Bác tại nhà sàn Việt Bắc
Bác tại nhà sàn Việt Bắc
Hồ Chủ tịch ở chiến khu Việt Bắc trong thời gian kháng chiến chống Pháp, cùng với Đại tướng Võ Nguyên Giáp và đồng chí Trường Chinh, sau này là Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam.
Hồ Chủ tịch ở chiến khu Việt Bắc trong thời gian kháng chiến chống Pháp, cùng với Đại tướng Võ Nguyên Giáp và đồng chí Trường Chinh, sau này là Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam.
Vào tháng 12 năm 1953, Bác và các đồng chí lãnh đạo của Đảng họp tại Việt Bắc quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ
Vào tháng 12 năm 1953, Bác và các đồng chí lãnh đạo của Đảng họp tại Việt Bắc quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ
Chủ tịch Hồ Chí Minh trao nhiệm vụ cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ
Chủ tịch Hồ Chí Minh trao nhiệm vụ cho Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ huy chiến dịch Điện Biên Phủ
Bộ đội hành quân ra mặt trận.
Sau hai đợt tiến công ở Điện Biên Phủ, ta đã giành được nhiều thắng lợi rất lớn và rất quan trọng. Bộ Chính trị và Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đạo lực lượng cả nước phối hợp hoạt động với mặt trận Điện Biên Phủ. Trong ảnh: Bộ đội hành quân ra mặt trận.
Công binh, dân công, thanh niên xung phong mở đường Tuần giáo – Điện Biên Phủ.
Ngày 19-4-1954, Bộ Chính trị ra hai nghị quyết: một chỉ đạo Điện Biên Phủ tiếp tục thấu triệt phương châm “đánh chắc, thắng chắc”; một chỉ đạo chiến trường trong cả nước tiếp tục thấu triệt phương châm “đánh nhỏ, ăn chắc”. Trong ảnh: Công binh, dân công, thanh niên xung phong mở đường Tuần giáo – Điện Biên Phủ.
Bộ đội Đại đoàn 351 và 312 kéo pháo vào trận địa.
56 ngày đêm chiến đấu dũng cảm, kiên cường, tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương của thực dân Pháp lúc bấy giờ bị Quân đội Nhân dân Việt Nam đập tan. Chiến thắng Điện Biên Phủ là kết quả hợp thành của một loạt nhân tố dân tộc và thời đại, là đỉnh cao chói lọi của chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam thời đại mới dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong ảnh: Bộ đội Đại đoàn 351 và 312 kéo pháo vào trận địa.
Bộ đội ta reo mừng chiến thắng bên xác máy bay địch.
Bộ đội ta reo mừng chiến thắng bên xác máy bay địch.
Quân lính Pháp thất trận tại Điện Biên Phủ lũ lượt ra hàng.
Quân lính Pháp thất trận tại Điện Biên Phủ lũ lượt ra hàng.
17 giờ 40 phút ngày 7-5-1954, bộ đội ta đã cắm lá cờ “Quyết chiến quyết thắng” trên nóc hầm Tướng De Castries.
17 giờ 40 phút ngày 7-5-1954, bộ đội ta đã cắm lá cờ “Quyết chiến quyết thắng” trên nóc hầm Tướng De Castries.
Bác Hồ trao tặng huy hiệu Chiến sĩ Điện Biên Phủ cho chiến sỹ trinh sát đã lập nhiều thành tích xuất sắc
Bác Hồ trao tặng huy hiệu Chiến sĩ Điện Biên Phủ cho chiến sỹ trinh sát đã lập nhiều thành tích xuất sắc
Ngày 7-5-1954, quân đội Pháp đại bại ở Điện Biên Phủ. Đúng 16 giờ 30 phút, ngày 8-5-1954, Hội nghị Giơ-ne-vơ về Đông Dương khai mạc. Ngày 20-7-1954, Hiệp định Giơ-ne-vơ về đình chỉ chiến sự ở Đông Dương được ký kết.
Ngày 7-5-1954, quân đội Pháp đại bại ở Điện Biên Phủ. Đúng 16 giờ 30 phút, ngày 8-5-1954, Hội nghị Giơ-ne-vơ về Đông Dương khai mạc. Ngày 20-7-1954, Hiệp định Giơ-ne-vơ về đình chỉ chiến sự ở Đông Dương được ký kết. Trong ảnh: Đại diện Việt Nam Dân chủ cộng hoà Tạ Quang Bửu (ngồi thứ hai từ bên trái) ký Hiệp định Giơ-ne-vơ.
Năm cửa ô đón mừng đoàn quân tiến về – bộ đội tiếp quản thủ đô Hà Nội tháng 10 năm 1954
Năm cửa ô đón mừng đoàn quân tiến về – bộ đội tiếp quản thủ đô Hà Nội tháng 10 năm 1954

 Theo GD&TĐ

                      Làng Trù – quê ngoại Bác

                                   nha-so-38-pho-ly-thai-to.jpg

Nhà số 38 Lý Thái Tổ (nay là số nhà 36), phường Lý Thái Tổ, quận Hoàn Kiếm – Nơi Chủ tịch Hồ Chí Minh ký với thực dân Pháp bản Hiệp định Sơ bộ, ngày 6/3/1946



                                  Trận đánh đầu của pháo binh Việt Nam ảnh 2
                                       Di tích Pháo đài Láng ở phường Láng Thượng ngày nay



                                  Về nơi phát sóng lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến - ảnh 1
Đài tiếng nói Việt Nam tại hang núi chùa Trầm, xã Phụng Châu, huyện Chương Mỹ - Nơi đã ra lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sáng ngày 20/12/1946


     Muốn xâm lược Bắc Kỳ thì trước hết phải chiếm được Hà Nội. Cuộc xâm lăng trước, thực dân Pháp đã hành động như thế và lần này, chúng cũng chủ trương như thế. Ngay sau khi ký Hiệp định sơ bộ 6-3 được một tháng, tướng Valuy, chỉ huy quân Pháp đóng ở Hà Nội đã lệnh cho quân lính: “Trong mỗi trại, ngay khi mới đến, viên chỉ huy phải đặt ngay một kế hoạch an toàn chủ yếu. Kế hoạch này phải có phần phòng thủ vĩnh viễn những chỗ đóng quân và nhất là phải có phần hành động để chiếm lĩnh thành phố…”. Để chuẩn bị đánh Hà Nội, thực dân Pháp đã tăng cường về đây, tạo nên một lực lượng mạnh áp đảo đối phương gồm: 6.500 binh lính, 5.000 súng trường, 600 súng máy loại nhẹ, 180 súng máy loại nặng, 42 pháo hạng nặng, 22 xe tăng, 40 xe bọc thép, 4 máy bay thám thính Moran, 4 máy bay khu trục Spitphai, 6 máy bay khu trục ném bom.

Quân dân Hà Nội cũng khẩn trương, tích cực đối phó trên nền tảng cả nước đã mạnh lên rất nhiều về thế và lực do được quan tâm, chuẩn bị ngay từ tháng 8-1945 và trong khoảng thời gian đủ dài của quá trình đấu tranh ngoại giao khéo léo, dẻo dai của Hồ Chí Minh.
Ngay từ ngày 19-10-1946, Hội nghị quân sự toàn quốc khẳng định: “Không sớm thì muộn, Pháp sẽ đánh mình và mình cũng nhất định phải đánh Pháp”. Đến đầu tháng 12-1946, quân dân Hà Nội đã trong tư thế sẵn sàng chiến đấu nhưng vẫn giữ thái độ bình tĩnh chờ lệnh trước sự gây hấn ngày càng trầm trọng của binh lính Pháp.
Như một cố gắng cuối cùng để cứu vãn hòa bình, giữa tháng 12-1946, Hồ Chí Minh đã nói với một phóng viên báo chí: “Chúng tôi muốn tránh chiến tranh, tránh bằng mọi giá. Chúng tôi tha thiết mong ước độc lập trong Liên hiệp Pháp: Chiến tranh không có lợi gì cả”.
        Ngày 12 tháng 12, Léon Brum, thủ tướng mới của Pháp tuyên bố ý định giải quyết xung đột ở Đông Dương theo cách sẽ trao lại độc lập cho Việt Nam. Ba ngày sau, Hồ Chí Minh đưa Sainteny một bức thông điệp gửi Brum với các gợi ý cụ thể về cách giải quyết xung đột. Sainteny đánh điện bức thông điệp vào Sài Gòn, yêu cầu chuyển tiếp tới Paris.
Trong khi chính phủ Pháp đang do dự về yêu cầu của Cao ủy Đông Dương Georges D'Argenlieu về việc tăng quân và lập tức hành động quân sự chống lại người Việt, Valluy, người có chung quyết tâm với d'Argenlieu về việc giữ sự hiện diện của Pháp tại Đông Dương, đã quyết định rằng cần phải khiêu khích Hà Nội nhằm tạo xung đột và đưa Paris vào sự đã rồi. Ngày 16 tháng 12, ông lệnh cho tướng Morlière phá các chướng ngại vật mà Việt Minh dựng trong thành phố. Khi bức điện của Hồ Chí Minh gửi Brum vào đến Sài Gòn, Vallue viết thêm bình luận của mình, cảnh báo rằng sẽ nguy hiểm nếu trì hoãn các hành động quân sự cho đến năm sau. Đến ngày 19, bức điện mới đến Paris, khi đó đã quá muộn.
 
Những câu nói và hành động của Hồ Chí Minh trong giai đoạn này rất gần với quan niệm xác đáng về chiến tranh của Lão Tử, nhà hiền triết vĩ đại của Trung Hoa cổ đại và có lẽ của cả thế giới, với những lời khuyên dạy chí lý:
“Ta có ba vật báu mà ta ôm giữ cẩn thận: một là lòng từ ái (khoan dung), hai là tính kiệm ước (tiết kiệm), ba là không dám đứng trước thiên hạ (khiêm tốn). Vì từ ái mà sinh ra dũng cảm, vì kiệm ước mà hóa ra sung mãn, quảng đại, vì không dám đứng trước thiên hạ nên mới được làm chủ thiên hạ… Vì từ ái nên hễ chiến đấu là thắng, cố thủ là vững…
“Viên tướng giỏi không tỏ ra vũ dũng, người giỏi tác chiến không tỏ ra hung hăng, người khéo thắng địch không giao phong với địch, người khéo chỉ huy thì tự đặt mình ở dưới người. Như vậy là có cái đức không tranh với người, như vậy là biết dùng sức của người, như vậy là hoàn toàn hợp với đạo”
“Thuật dùng binh có câu: ta không dám làm chủ (tức khiêu chiến, xâm lấn) mà chỉ muốn làm khách (tức ứng chiến, kháng chiến), không dám tiến một tấc, thà chịu lùi một bước (nghĩa là nhượng bộ). Như vậy là dàn trận mà như không thành hàng, xua đuổi mà không đưa cánh tay ra. Tuy có binh khí mà như không dùng binh khí, tuy có địch mà như không chạm trán với địch. (Ở đây, chúng ta thấy từ cái quan niệm rất đúng đắn về sự vận động của Tự Nhiên cũng như của xã hội, về Đạo và Đức mà Lão Tử đi đến một quan niệm hết sức sâu sắc về nghệ thuật chiến tranh, về sức mạnh vô địch của chiến tranh nhân dân lấy lối đánh du kích đầy biến hóa làm nền tảng. Điều này được minh chứng hùng hồn trong cuộc kháng chiến chống Pháp - Mỹ cứu nước của dân tộc Việt).
Họa không gì lớn bằng khinh địch, khinh địch thì sẽ mất những vật báu của ta. Cho nên khi hai bên cử binh giao chiến, bên nào từ ái thì bên đó thắng lợi”.
“Dũng cảm mà cương cường (hùng hổ) thì chết (bởi mù quáng), dũng cảm mà không cương cường (tức là nhu nhuyễn, bình tĩnh) thì sống (linh hoạt)… Đạo trời là không tranh mà khéo thắng, không nói mà khéo đáp (giỏi ứng phó), không kêu gọi mà (thời thế) tự tới, bình dị tự nhiên mà khéo đặt quyền mưu…”.
Dân tộc Việt Nam đã không còn một sự lựa chọn nào khác để sống còn trong phẩm giá ngoài cách phải cầm vũ khí đứng lên đánh đuổi thực dân Pháp và sau này là đế quốc Mỹ ra khỏi bờ cõi. Trước đòi hỏi giải giáp lực lượng vũ trang ở Hà Nội như một tối hậu thư của Thực dân Pháp, quân dân Hà Nội đã buộc phải chiến đấu và thực tế đã chiến đấu vô cùng ngoan cường, mở đầu cuộc toàn quốc kháng chiến.



          Từ ngày 15 tháng 12 năm 1946, tình hình nóng lên từng giờ. Sáng 16 tháng 12, Valluy từ Sài Gòn ra Hải Phòng, triệu tập Morlière, Jean Sainteny, Đe-bơ phổ biến kế hoạch đánh chiếm Hà Nội và khu vực phía bắc vĩ tuyến 16. Cùng ngày, lực lượng Công an xung phong đang giữ gìn trật tự trên đường phố bị quân Pháp bắn. Ngày 17 tháng 12, tự vệ lại bị tấn công, đồng thời hàng chục người dân phố Hàng Bún, Yên Ninh bị tàn sát. Quân Pháp với xe tăng yểm trợ vào các đường phố Hà Nội để phá các công sự mà Việt Minh dựng trong những ngày trước đó, rồi dàn quân ra chốt giữ từ cổng thành Hà Nội đến tận cầu Long Biên và bao vây gây sức ép đồn Công an quận 2 của Hà Nội. Người Việt không phản ứng. Hôm sau, Pháp ra một tối hậu thư đòi chấm dứt dựng chướng ngại vật trên phố. Chiều hôm đó, Pháp ra tối hậu thư thứ hai tuyên bố rằng từ ngày 20, quân Pháp sẽ tự mình đảm nhiệm việc trị an ở Hà Nội. Đáp lại, tối hôm đó, các lực lượng Việt Minh bắt đầu chặn mọi ngả đường từ ngoại ô vào thành phố. Sáng hôm sau (ngày 19 tháng 12), Pháp ra tối hậu thư thứ ba, đòi chính phủ Việt Nam đình chỉ mọi hoạt động chuẩn bị chiến tranh, tước vũ khí của Tự vệ tại Hà Nội, và trao cho quân đội Pháp việc duy trì an ninh trong thành phố.
Ngày 18 tháng 12 năm 1946, thành phố Hà Nội có vẻ yên tĩnh, phố xá thưa thớt bóng người.Hai ngày trước, quân Pháp nổ súng khiêu khích, gây rối ở các phố Lò Đúc, Hàng Bột, Hàng Khoai, Đồng Xuân... nhưng quân và dân Hà Nội cảnh giác, không bị mắc mưu, tuân thủ kỷ luật, chờ lệnh Chính phủ không bắn trả. Hai bên đường, nhà cửa đóng kín, nhưng bên trong nhà, ban công, cửa sổ những mái nhà bằng đều trở thành vị trí chiến đấu. Tường trong nhà, ngoài sân, trên gác, đều đã được đục thành lỗ giao thông, mở đường đi từ buồng này sang buồng khác, nhà này sang nhà khác, đi suốt dãy phố dọc, luồn sang dãy phố ngang, tạo thành một trận địa chiến đấu liên hoàn. Đâu đâu cũng xuất hiện những dòng khẩu hiệu viết trên cửa, trên tường: "Sống chết với Thủ đô", "Thà chết không chịu trở lại làm nô lệ"... Lực lượng phía Việt Minh gồm 2.500 Vệ quốc quân, 8.000 tự vệ, được đông đảo nhân dân thủ đô ủng hộ, mặc dù vũ khí còn thô sơ, chỉ có 2.250 cây súng, hầu hết là súng trường, với nhiều súng khai hậu với rất ít đạn. Trung bình hai người mới có một quả lựu đạn. Quân Pháp gồm có một trung đoàn bộ binh, một trung đoàn xe tăng, thiết giáp, một tiểu đoàn pháo, một bộ phận biệt kích, một bộ phận dù, cùng với không quân và thủy quân, tổng cộng 6.500 lính chính quy cùng 7.000 kiều dân vũ trang Pháp. Vài ngàn lính Lê dương Pháp đóng tập trung trong khu vực thành Hà Nội và một số đóng rải rác ở các địa điểm khác như Nhà thương Đồn Thủy, dinh Toàn quyền cũ, nhà ga, nhà băng Đông Dương, cầu Long Biên và sân bay Gia Lâm ở bờ đông sông Hồng. 
Chiều 18 tháng 12, Pháp gửi cho chính phủ Việt Minh tối hậu thư đòi làm nhiệm vụ trị an ở Hà Nội và đe dọa "Đến sáng 20-12 những điều đó không được chấp nhận thì quân Pháp sẽ chuyển hướng sang hành động". Sáng 19 tháng 12, Pháp gửi tiếp cho phía Việt Minh một tối hậu thư, đòi tước vũ khí của Vệ quốc đoàn ở Hà Nội, đòi Việt Minh phải đình chỉ mọi hoạt động chuẩn bị kháng chiến.
Đối với người Việt, tình hình không khác với sự kiện Hải Phòng hồi tháng trước, khi Đại tá Dèbes cũng đã ra các lệnh tương tự trước khi bắn phá thành phố. Sáng ngày 18 tháng 12, Hồ Chủ tịch ra lệnh chuẩn bị cho các cuộc tấn công quân Pháp vào hôm sau. Đồng thời, sợ rằng bức điện gửi Thủ tướng Brum có thể chưa đến nơi, ông gửi một bức điện thẳng tới Paris. Sáng 19, để thể hiện thiện chí và cố gắng cứu vãn hòa bình, Hồ Chủ tịch viết một bức thư ngắn và cử cố vấn ngoại giao Hoàng Minh Giám tới gặp Sainteny để đàm phán "tìm giải pháp để cải thiện bầu không khí hiện tại". Sau khi được tin Sainteny từ chối gặp Hoàng Minh Giám, Hồ Chủ tịch triệu tập Hội nghị Thường vụ Trung ương Ðảng mở rộng tại làng Vạn Phúc, Hà Nội, và tuyên bố rằng trong tình hình hiện tại, không thể nhân nhượng thêm được nữa. Hội nghị duyệt lại Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến mà Hồ Chủ tịch đã viết, thông qua văn kiện "Toàn dân kháng chiến" do Tổng Bí thư Trường Chinh dự thảo. 

                             

     Pháo đài Xuân Tảo là di tích lịch sử cách mạng quan trọng trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp trên địa bàn thủ đô Hà Nội. Đây là một trong hai pháo đài đã nã những loạt pháo đầu tiên vào quân đội Pháp, mở màn 60 ngày đêm chiến đấu chống thực dân Pháp năm 1946.
Cuộc chiến tranh vệ quốc thần thánh của nhân dân Việt Nam bắt đầu từ ngày Nam Bộ kháng chiến và chính thức nổ ra từ ngày 19-12-1946 ngay tại khu vực đã khai sinh ra đất nước Việt Nam: Cổ Loa - Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội.
         Trưa ngày 19 tháng 12, Ban Thường vụ Trung ương của chính phủ Việt Nam điện cho các chiến khu và tỉnh ủy, thành ủy: "Giặc Pháp đã hạ tối hậu thư và đòi tước khí giới của quân đội, tự vệ, công an ta. Chính phủ đã bác bỏ tối hậu thư ấy. Như vậy, chỉ trong vòng 24 giờ là cùng, chắc chắn giặc Pháp sẽ nổ súng. Chỉ thị của Trung ương: Tất cả hãy sẵn sàng".
         Đúng 20 giờ 03 ngày 19 tháng 12 năm 1946, đèn điện toàn thành phố phụt tắt, pháo đài Láng (Hà Nội) nổ súng phát ra hiệu lệnh tổng tiến công, chính thức báo hiệu cuộc  chiến tranh chống Pháp lần thứ hai bắt đầu. Tới 20 giờ 30, Chính phủ Việt Nam đã phát đi lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Bộ trưởng Quốc phòng-Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp ra mệnh lệnh chiến đấu:
"Tổ quốc lâm nguy!
Giờ chiến đấu đã đến!
Theo chỉ thị của Hồ Chủ tịch và Chính phủ, nhân danh Bộ trưởng Quốc phòng-Tổng chỉ huy, tôi hạ lệnh cho toàn thể bộ đội Vệ quốc quân và dân quân tự vệ Trung-Nam-Bắc phải nhất tề đứng dậy, phải xông tới mặt trận giết giặc cứu nước.
Hy sinh chiến đấu đến giọt máu cuối cùng!
Tiêu diệt bọn thực dân Pháp!
Quyết chiến!" 
Ngày 20-12-1946, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chí Minh đã vang trên bầu trời Thủ Đô và khắp cả non sông:
"Hỡi đồng bào toàn quốc!
Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta một lần nữa!
Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.
Hỡi đồng bào!
Chúng ta phải đứng lên!
Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp, cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước.
Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân!
Giờ cứu quốc đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước.
Dù phải gian khổ kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta!
Việt Nam độc lập và thống nhất muôn năm
Kháng chiến thắng lợi muôn năm

Hà Nội, ngày 19 tháng 12 năm 1946
Hồ Chí Minh "


         Các chướng ngại vật, hầm hào được dựng nên trên các phố phường nội ô Hà Nội. Những đội cảm tử quân được thành lập, sẵn sàng dùng bom ba càng để kích nổ tiêu diệt xe tăng Pháp.

Vietnamese soldier holding the Lunge Mine at Hàng Đậu Street on December 1946.jpg
Chiến sĩ quyết tử Trần Thành ôm bom ba càng đón đánh xe tăng Pháp năm 1946.
Hình ảnh người chiến sỹ Vệ quốc quân của Trung đoàn Thủ đô kiên cường, gan góc chiến đấu, bảo vệ từng mái nhà,góc phố trong suốt 60 ngày đêm được tái hiện tại Triển lãm. Ảnh tư liệu
         Thanh niên nam nữ của 36 phố phường tại thủ đô Hà Nội đã cùng Vệ quốc đoàn, Công an xung phong, Tự vệ chiến đấu... đứng lên đánh Pháp theo Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Cuộc chiến đấu không cân sức, bộ đội Việt Minh với vũ khí thô sơ và ít ỏi chống lại đội quân thiện chiến của Pháp với vũ khí hiện đại đã diễn ra ác liệt trong 60 ngày đêm. Lúc đó, toàn mặt trận Hà Nội, tính cả tự vệ thì Việt Minh có khoảng hơn 2000 cây súng với ít đạn. Mỗi tiểu đoàn Việt Minh chỉ có 2 đến 3 khẩu trung liên, từ 2 đến 3 khẩu tiểu liên và carbin, còn lại toàn là súng trường mà cũng không đủ, đạn thì thiếu và "thối" nhiều, lựu đạn cũng ít, bom thì một số không nổ. Mỗi tiểu đội chỉ có 3 đến 4 khẩu súng trường, còn hầu hết là mã tấu. Trong khi đó, quân Pháp đã chiếm nhiều vị trí quan trọng như nhà máy điện, nhà máy nước, nhà ga, cầu Long Biên... Trong chiến đấu, bộ đội Việt Minh đã sáng tạo, dùng chai xăng crếp để đánh xe tăng, dùng chai sỏi, chai vôi bột để đánh bộ binh, dùng pháo đùng, pháo tép để nghi binh.
       Do nhận được thông tin tình báo chính xác, nên phía Pháp không bị bất ngờ khi cuộc tấn công nổ ra, sau đó quân Pháp đã phản công một cách quyết liệt. Quân Pháp đóng trong thành được tung ra để ứng cứu các vị trí bị đánh, bị chiếm. Pháp tấn công ga Hà Nội, cầu Long Biên, nhà Bưu điện, Bắc Bộ phủ... Tổng chỉ huy và doanh trại Vệ quốc đoàn ở Hàng Bài, Sở chỉ huy tự vệ ở nhà Đấu Xảo... nhưng ở đâu quân Pháp cũng gặp phải sức chống cự mãnh liệt của lực lượng Việt Minh. Tướng Valluy muốn dùng không quân tiêu diệt các ổ đề kháng, nhưng tướng Morlière chọn cách tiến quân chiếm lần lượt từng khu phố vì như vậy sẽ không phải tàn phá hoàn toàn thành phố.
         Như đã thành quy luật, sáng sớm và ban ngày: quân Pháp đánh bộ đội, xẩm tối và đêm khuya: bộ đội Việt Minh đánh và quấy phá quân Pháp. Quân Pháp bị rơi vào thế bất lợi, khi Việt Minh ở Liên khu I nằm trong vòng vây đánh ra, còn Liên khu II và III tạo thành gọng kìm từ ngoài vòng vây đánh vào. Nhiều trận đánh lớn diễn ra rất ác liệt, như trận Bắc Bộ phủ của Tiểu đoàn 101 Vệ quốc đoàn, trận Hàng Đậu, Trường Ke, trận nhà Hoa Nam, trận Đồng Xuân của Tiểu đoàn 101 Đồng Xuân, trận Hàng Thiếc của Tiểu đoàn 102, trận nhà Xô-va của Tiểu đoàn 103. Tại nhiều đường phố, Việt Minh và quân Pháp giành nhau từng bờ tường góc phố, đóng xen kẽ chỉ cách nhau 5, 3 nhà, hoặc bộ đội ở dãy số lẻ, quân Pháp ở số chẵn như ở Hàng Giấy, Hàng Khoai...
         Đêm 17 tháng 2 năm 1947, trung đoàn Thủ đô rút quân khỏi Hà Nội. Được trung đoàn phân công, tiểu đoàn 101 Đồng Xuân đi đầu theo đường gầm cầu Long Biên, nếu gặp địch thì đánh mở đường máu để trung đoàn rút ra. Nhưng hôm đó mưa phùn, giá rét, đêm tối như mực, lính Pháp gác trên cầu co cụm lại, áo ca pốt trùm kín nên không hay biết cả một đoàn quân hơn 1.000 người đang hành quân dưới gầm cầu, dưới mũi súng của họ. Lực lượng của Trung đoàn Thủ đô chia thành từng đơn vị nhỏ cùng nhân dân Liên khu phố I lặng lẽ đi dưới gầm cầu Long Biên, rẽ nước vượt sông Hồng, sông Đuống, bí mật vượt qua vòng vây an toàn.

                                Đường Trường Chinh cong và sự nhầm lẫn trên tượng đài

         Sáng hôm sau, ngày 18 tháng 2 năm 1947, lính Pháp phát hiện, đuổi theo, nhưng bộ đội đã vượt sông Hồng về làng Thượng Hội thuộc huyện Đan Phượng, Hà Tây. Riêng Đội tự vệ Hồng Hà gồm những người dân lao động ngoài bãi sông Hồng đã chiến đấu ròng rã 60 ngày đêm, bảo vệ và nối liền con đường tiếp tế cho dân quân Liên khu I đã có thương vong. Đó là đảng viên Nguyễn Ngọc Nại, Tiểu đội trưởng, và 7 đồng đội khác của anh. Sáng hôm đó, họ đã trụ vững ở bãi giữa, chiến đấu quyết liệt với lính Pháp để thu hút hỏa lực về phía mình, bảo vệ an toàn cho cuộc rút lui chiến lược của Trung đoàn Thủ đô và quân dân Hà Nội. Pháp trả thù kéo quân đánh vào xã Tứ Tổng (nay là hai phường Ngọc Thụy và Tứ Liên), là xã đã dùng thuyền đưa trung đoàn vượt sông Hồng, đốt cháy gần 30 nóc nhà, giết chết 27 thanh niên và chọc thủng gần 40 con thuyền. Hằng năm, người dân ở đây vẫn lấy ngày 29 tháng 1 âm lịch làm ngày giỗ trận. 
Trong đêm giao thừa đón tết Đinh Hợi, Hồ Chủ Tịch đã tới núi Trầm (thuộc ngoại thành Hà Nội) đọc bài thơ chúc mừng năm mới:
                           "Cờ đỏ sao vàng tung bay trước gió
                           Tiếng kèn kháng chiến rung động non sông
                           Toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến
                           Chí ta đã quyết, lòng ta đã đồng
                           Tiến lên chiến sĩ, tiến lên đồng bào
                           Sức ta đã mạnh, người ta đã đông
                           Trường kỳ kháng chiến, nhất định thắng lợi
                           Thống nhất độc lập nhất định thành công".


***
 
        Đầu tháng 1 năm 1947, thành lập Trung đoàn Thủ Đô với lực lượng là chiến sĩ và tự vệ Hà Nội, trung đoàn này về sau là nòng cốt của Sư đoàn Quân tiên phong 308, chỉ huy Vương Thừa Vũ (ban đầu gọi là Đại đoàn). Sư đoàn có mệnh danh là Sư đoàn Thép, được các sử gia và các nhà nghiên cứu tại Việt Nam cũng như quốc tế coi là một trong những sư đoàn xuất sắc nhất trên thế giới. (Xem Phillip Davidson, Vietnam at war,) Theo công sứ Mỹ O'Sullivan, người Việt Nam chiến đấu với một sự "ngoan cường và dũng cảm chưa từng thấy", gợi lại hình ảnh binh lính Nhật trong Đại chiến thế giới lần thứ hai
Với lực lượng chênh lệch, vũ khí thô sơ, thiếu thốn, phải chống lại lực lượng tinh nhuệ được vũ trang hiện đại của Pháp, cầm chân và tiêu hao quân Pháp trong gần 2 tháng là một kỳ công đáng khích lệ cho quân đội non trẻ của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Các lực lượng Quyết tử Việt Nam đã thực hiện chiến thuật chiến tranh đô thị cầm chân quân Pháp, tạo thời gian để chính quyền Việt Nam rút ra và tổ chức cuộc chiến tranh lâu dài, làm thất bại âm mưu đánh nhanh thắng nhanh của quân Pháp, tạo điều kiện sau này để chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa giành thắng lợi quyết định cuối cùng tại trận Điện Biên Phủ
Chiến dịch Việt Bắc
Một phần của Chiến tranh Đông Dương
Map tonkin autumn 1947.jpg
Thời gian7 tháng 10 - 22 tháng 12 năm 1947
Địa điểmBắc Việt Nam
Kết quảPháp chiếm giữ một số khu vực biên giới nhưng thất bại về mặt chiến lược
Việt Minh giành thắng lợi chiến lược

         Về phía Pháp, chiếm được Hà Nội với tổn thất tương đối nhỏ (chừng vài trăm thương vong trên tổng số chừng 110.000 quân Pháp có mặt tại Đông Dương vào đầu năm 1947) cũng là một chiến thắng. Quân Pháp tin tưởng sau khi chiếm được Hà Nội, họ sẽ có thể dễ dàng và nhanh chóng bình định được toàn bộ Việt Nam, nhưng cuộc chiến đã kéo dài 9 năm, kết thúc tại chiến trường Điện Biên Phủ với thất bại hoàn toàn của người Pháp.

        Chiến lược của cuộc kháng chiến do Việt Minh lãnh đạo được tóm lược trong tài liệu Kháng chiến nhất định thắng lợi, một tài liệu tuyên truyền của Trường Chinh, phát hành những ngày đầu kháng chiến. Tài liệu chia kháng chiến ra 3 giai đoạn: cầm cự, phòng ngự, phản công. Diễn biến chiến tranh về sau đúng như vậy.

  • Cầm cự: bao gồm gian đoạn vừa đánh vừa đàm trước 19/12/1946 đến hết Chiến dịch Việt Bắc. Thời này có cuộc Nam Bộ Kháng chiến, cầm cự miền Nam, miền Trung, Hiệp định Sơ bộ và Tạm ước Việt - Pháp, Toàn quốc kháng chiến ở các tỉnh, Hà Nội 1946, nỗ lực vãn hồi hòa bình, công cuộc di tản lên chiến khu. Cuối cùng là đánh bại Pháp trong Chiến dịch Việt Bắc.
  • Phòng ngự: sau chiến dịch Việt Bắc đến hết Chiến dịch Biên giới. Có các chiến dịch lớn: Chiến dịch Đông Bắc, Chiến dịch Cao-Bắc-Lạng, Chiến dịch Biên giới.
  • Phản công: Chiến dịch Trung Du, Chiến dịch Đồng Bằng, Chiến dịch Hoàng Hoa Thám, Chiến dịch Tây Bắc, Chiến dịch Hòa Bình, Chiến dịch Thượng Lào, Kế hoạch Navarre, Chiến cục đông-xuân 1953-1954, Chiến dịch Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơnevơ, chấm dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Đông Dương (21/7/1954).

        Phương pháp tiến hành chiến tranh của quân đội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (lấy tên chính thức là Quân đội Nhân dân Việt Nam năm 1950) chỉ đơn giản là "Toàn dân-toàn diện-trường kỳ kháng chiến", gồm hai điều: đánh tiêu hao, phân tán lực lượng địch và từng bước xây dựng lực lượng, giành thế chủ động để đẩy địch vào tình thế bị động đối phó. Khi có đủ lực lượng sẽ tung đòn đánh lớn vào những vùng mà địa thế, tương quan binh lực có lợi để giành những thắng lợi chiến lược. Phương pháp này đã đi suốt lịch sử lớn mạnh của Quân đội Nhân dân Việt Nam, và vẫn phát huy hiệu quả trong kháng chiến chống Mỹ sau đó. Tuy "đơn giản" nhưng cả Pháp và Mỹ đều không thể chống lại chiến lược chiến tranh nhân dân này, bởi như tướng De Castries đã trả lời trước Ủy ban Điều tra của Bộ Quốc phòng Pháp rằng: "Người ta có thể đánh bại một quân đội, chứ không thể đánh bại được một dân tộc".

                         Hồ Chí Minh cùng các chiến sĩ cách mạng tại căn cứ địa Việt Bắc.
               Bộ đội pháo binh Sông Lô trong chiến dịch Việt Bắc Thu-Đông 1947. Ảnh: qdnd.vn
Đại tướng đi Chiến dịch Biên giới.
                        Đại tướng thị sát thị xã Cao Bằng sau Chiến dịch Biên giới.
 
        Hồ Chí Minh vẫn chưa bỏ cuộc trong việc tìm kiếm một giải pháp hòa bình. Ngay ngày đầu tiên của cuộc chiến, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa rải truyền đơn trên đường phố Hà Nội thông báo với "nhân dân Pháp" rằng chính phủ Việt Nam sẵn lòng tồn tại hòa bình trong Liên hiệp Pháp, rằng chiến tranh nổ ra là do "bọn thực dân phản cách mạng tìm cách chia rẽ và gây chiến", rằng chỉ cần Pháp công nhận độc lập và thống nhất của Việt Nam thì thái độ hợp tác và hiểu biết lẫn nhau giữa hai dân tộc sẽ được lập tức khôi phục. Ngày hôm sau, đài Việt Minh bắt đầu định kì phát các lời kêu gọi tái đàm phán.        Ngày 23 tháng 12 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết thư cho Marius Moutet, Bộ trưởng Bộ các lãnh thổ thuộc địa, và tướng Philippe Leclerc de Hauteclocque, đề nghị một cuộc họp giữa đại diện cả hai bên. Một vài ngày sau, ông chính thức đề nghị ngừng bắn và tổ chức một cuộc hội nghị hòa bình mới tại Paris trong khuôn khổ Hiệp định sơ bộ hồi tháng 3.
      Nhà Xã hội chủ nghĩa Marius Moutet đã được gửi đến tìm hiểu về triển vọng chính trị, và trở về với kết luận rằng chỉ có một giải pháp quân sự đã được hứa hẹn. Như Đô đốc d'Argenlieu, Moutet tin rằng có thể sẽ không có cuộc đàm phán với Hồ Chí Minh. Ông đã viết về "vỡ mộng tàn nhẫn của thỏa thuận mà không thể được đưa vào hiệu lực...", và tuyên bố rằng: "Chúng tôi không còn có thể nói về một thỏa thuận tự do giữa Pháp và Việt Nam... Trước bất kỳ cuộc đàm phán ngày hôm nay, cần thiết phải có một quyết định quân sự". Trước áp lực của các đảng phái cánh tả Pháp như Đảng Cộng sản Pháp và Đảng Xã hội Pháp, Thủ tướng Ramadier - một đại biểu xã hội chủ nghĩa, thông báo rằng chính phủ của ông ủng hộ nền độc lập và thống nhất cho Việt Nam: "Độc lập trong Liên hiệp Pháp [và] liên minh của ba nước An Nam, nếu người dân An Nam mong muốn nó" và Pháp sẵn sàng đàm phán một cuộc hòa giải với những đại diện chân chính ở Việt Nam.
Trả lời phỏng vấn với Tướng Georges Catroux vào tháng 1 năm 1947 ở Moscow, bộ trưởng Ngoại giao Liên Xô Vyacheslav Mikhailovich Molotov nói rằng “ông hy vọng rằng Pháp và Việt Nam có thể đạt được một thoả thuận khiến cho cả đôi bên đều hài lòng,” và không dẫn đến việc tái thiết “một chế độ cai trị thực dân”. Liên Xô không trợ giúp cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và cũng không đưa vấn đề Việt Nam ra Liên hiệp quốc. Cũng trong năm 1947, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đề nghị Liên Xô hỗ trợ cuộc kháng chiến của họ bao gồm viện trợ quân sự và kinh tế, cung cấp chuyên gia quân sự, tuyên truyền quốc tế có lợi cho Việt Nam và giúp Việt Nam tham gia Liên Hiệp Quốc nhưng Liên Xô phớt lờ những yêu cầu này.
       Trong tháng hai, năm 1947, người Pháp đưa các điều kiện để Hồ Chí Minh đầu hàng vô điều kiện. Hồ thẳng thừng bác bỏ những, yêu cầu người đại diện Pháp, "Nếu bạn ở vị trí của tôi, bạn sẽ chấp nhận họ chăng?... Trong Liên hiệp Pháp không có chỗ cho những kẻ hèn nhát". Tháng 3 năm 1947, Hồ Chí Minh kêu gọi chính phủ Pháp và người Pháp: "Một lần nữa, chúng tôi tuyên bố long trọng rằng nhân dân Việt Nam mong muốn chỉ thống nhất và độc lập trong Liên hiệp Pháp, và chúng tôi cam kết bảo đảm quyền lợi kinh tế và văn hóa Pháp..".
       Ngày 19 tháng 4 năm 1947, Hồ Chí Minh gửi thông điệp đến Chính phủ Pháp, đề nghị nối lại đàm phán trên cơ sở "hai nước anh em trong Liên hiệp Pháp, một liên hiệp của những người tự do, hiểu biết và yêu thương nhau". Trong khi đó, Thủ tướng Ramadier tuyên bố trong tháng 3 năm 1947, rằng: "Chúng ta phải bảo vệ cuộc sống và tài sản của người Pháp, của người nước ngoài, bạn bè ở Đông Dương của chúng ta có niềm tin vào tự do Pháp"
       Nhưng tất cả đều không đem lại kết quả gì, người Pháp muốn có phản ứng quân sự mạnh trước khi tính đến chuyện đàm phán. Emile Bollaert, Cao ủy Pháp mới được bổ nhiệm từ tháng 3 năm 1947, được tướng Leclerc khuyên "đàm phán bằng mọi giá". Những người thân cận ông như Pierre Messmer và Paul Mus cũng thiên về chiều hướng đối thoại. Nhưng đã có hơn 1.000 binh sĩ Pháp chết hoặc mất tích, và cộng đồng người Pháp ở Đông Dương phản đối kịch liệt việc thương lượng với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước mà họ chỉ gọi bằng cái tên Việt Minh, tổ chức nắm đa số trong chính phủ.
Ngày 23 tháng 4, qua Bộ trưởng Bộ ngoại giao Việt Nam Hoàng Minh Giám, Hồ Chủ tịch lại gửi thông điệp tới Bollaert đề nghị ngừng bắn lập tức và đàm phán. Tự tin vào ưu thế quân sự, Bollaert đáp lại bằng một loạt các điều kiện đòi quân đội Việt Nam hạ vũ khí trước khi khôi phục hòa bình. Hồ Chí Minh từ chối thẳng các yêu cầu này khi Paul Mus đến chiến khu Việt Bắc gặp ông để truyền đạt thông điệp trên.
       Theo tài liệu của Mỹ, rất sớm trong chiến tranh, Pháp đã tăng nỗi ám ảnh về âm mưu của Cộng sản Việt Nam. D'Argenlieu đô đốc ở Sài Gòn kêu gọi một chính sách quốc tế phối hợp để các cường quốc phương Tây chống lại sự mở rộng của chủ nghĩa cộng sản ở châu Á, bắt đầu với Việt Nam. Trong Quốc hội thảo luận vào tháng 3 năm 1947, một đại biểu cánh hữu cáo buộc rằng bạo lực tại Việt Nam đã được chỉ đạo từ Moskva: "Chủ nghĩa dân tộc ở Đông Dương là một phương tiện, cuối cùng là chủ nghĩa đế quốc Liên Xô."
       Cả chính phủ lẫn người dân Pháp chú ý tuyên bố tháng 1 năm 1947 của tướng Leclerc: "Chống chủ nghĩa cộng sản sẽ là một công cụ vô dụng chừng nào vấn đề của chủ nghĩa dân tộc còn chưa được giải quyết." Về phần mình, Hồ Chí Minh đã ban hành kháng cáo lặp đi lặp lại để Pháp ngưng chiến và công nhận nền độc lập của Việt Nam, thậm chí đề xuất "Khi Pháp công nhận sự độc lập và thống nhất của Việt Nam, chúng tôi sẽ lui về làng của chúng tôi, vì chúng tôi không tham vọng quyền lực, danh dự"...
Mùa hè năm 1947, lực lượng chủ lực của quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa có khoảng 60.000 người, chưa kể tự vệ và du kích địa phương. Vũ khí thiếu, chủ yếu là do tự tạo và lấy được của Pháp. Yếu về hỏa lực nhưng cơ động và có hỗ trợ lớn của nhân dân, các tiểu đoàn Việt Nam ngày càng có khả năng tránh các trận càn của Pháp và tấn công đối phương lại những nơi mình lựa chọn. Quân chủ lực chính quy của Việt Nam tổ chức như quân đội phương Tây, nhưng thừa kế nhiều kinh nghiệm chiến tranh cổ truyền của Việt Nam. Quân đội và Chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tổ chức lực lượng dân quân du kích là những chiến sĩ bán quân sự, nửa bí mật nửa công khai, sống tại nhà, vừa làm ruộng vừa chiến đấu trong lòng địch.
       Hoàn thành việc đánh rộng ra vùng đồng bằng, Pháp quyết định tiến công lên Việt Bắc để sớm kết thúc chiến tranh. Ngày 7 tháng 10 năm 1947, cuộc hành quân Léa tấn công vào chiến khu Việt Bắc bắt đầu. Quân Pháp tiến nhanh nhưng đã không định vị được những nơi đóng các cơ quan đầu não của đối phương. Lực lượng vũ trang của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhanh chóng được phân tán, sử dụng du kích vận động chiến, bất thần phục kích, đánh tiêu hao quân Pháp ở những khu vực hiểm yếu. Pháp không đạt được mục đích tiêu diệt căn cứ Việt Bắc, nhưng cũng đã cắt được đường số 4 và kiểm soát biên giới Việt Trung, cô lập Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với thế giới bên ngoài.
       Cuộc chiến tranh du kích tại đồng bằng gây khó khăn lớn cho Pháp. Ở mọi nơi, bộ đội Việt Nam vẫn tự do đi lại, tuyển quân, thu thuế. Có những hội tề (chính quyền làng xã trong vùng Pháp kiểm soát) được lập ra để che mắt Pháp nhưng hành động theo Việt Minh. Dân chúng gánh thóc gạo từ vùng do Pháp chiếm đóng đi đóng thuế cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Các đội du kích được thành lập khắp các vùng bị chiếm quấy rối quân Pháp, Pháp phải để phần lớn quân chủ lực giữ đồng bằng Bắc Bộ. Mặc dù là vùng do Pháp kiểm soát, nhưng thực chất đồng bằng màu mỡ đông dân đó vẫn là nguồn cung cấp nhân lực, hàng hóa và lương thực lớn nhất cho Việt Nam.
       Thắng lợi duy nhất của Pháp trong mùa hè này là về chính trị, khi tướng Nguyễn Bình - Tổng chỉ huy quân đội Việt Nam tại Nam Bộ ra sách lược: Tổ chức lại lực lượng vũ trang các giáo phái để biên chế chính quy thành Vệ quốc đoàn. Trong năm 1947, sau những xung đột quân sự với Việt Minh và nhất là sau khi giáo chủ Hòa Hảo Huỳnh Phú Sổ mất tích (Hòa Hảo cho rằng Việt Minh thủ tiêu Huỳnh Phú Sổ) cả hai giáo phái Cao Đài và Hòa Hảo đều chấm dứt hợp tác với Việt Minh để tạm thời hợp tác với Pháp chống Việt Minh. Năm 1948, một phần lực lượng Bình Xuyên cũng hợp tác với Pháp chống lại Việt Minh.
        Sau chiến dịch Léa, xung đột lặng xuống. Thiếu phương tiện để tiếp tục các chiến dịch tấn công, quân Pháp chỉ giới hạn trong các hoạt động vừa phải ở đồng bằng. Nhưng cũng tại đồng bằng, lực lượng vũ trang Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được phân tán thành các đại đội độc lập, tiểu đoàn tập trung, tổ chức thêm các đội du kích hoạt động bán công khai, sống tại nhà, vừa làm ruộng vừa chiến đấu, thực hiện các hoạt động quấy rối quân Pháp. Các cán bộ của chính quyền và mặt trận Việt Minh vẫn đi lại tuyển quân, thu thuế trong vùng Pháp kiểm soát. Những vùng này vẫn tiếp tục là nơi cung cấp một số loại nhu yếu phẩm như thuốc men, lương thực, vải vóc... cho Việt Nam. Tại các chiến khu, chính quyền Việt Nam củng cố căn cứ, tổ chức tự sản xuất lương thực và vũ khí để có thể kháng chiến lâu dài.
         Lực lượng vũ trang và du kích đồng bằng sông Hồng tổ chức các trận chiến quấy rối quân Pháp. Cuối chiến tranh, quân địa phương và du kích cầm giữ phần lớn quân Pháp trong vùng đồng bằng. Mỗi chuyến hàng của Pháp từ Hải Phòng về Hà Nội phải tụ thành đoàn lớn, nhiều xe tăng và lính bảo vệ mới đi thoát. Các đường bộ bị đào bới ngăn cản xe cơ giới, đường sắt bóc hết gang thép làm vũ khí.

Những hình ảnh về cuộc đời bình dị của Bác ảnh 1
Hình ảnh giản dị của Hồ Chí Minh-một vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam, đã tạo nên biết bao nguồn cảm xúc cho các văn nghệ sĩ. Để rồi từ đây, nhiều tác phẩm giá trị về nhiều mặt đã ra đời.
       Nhà thơ Tố Hữu thấy Hồ Chí Minh cưỡi ngựa đi giữa núi rừng chiến khu như một ông tiên bèn viết bài thơ Việt Bắc, trong đó có đoạn:
"Nhớ ông cụ mắt sáng ngời
Áo nâu túi vải, dẹp tươi lạ thường
Nhớ Người những sáng tinh sương
Ung dung yên ngựa trên đường suối reo…"

        Tại miền Trung Việt Nam, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kiểm soát từ Hội An đến Mũi Đại Lãnh, gần như ngăn đôi đất nước. Ở miền Nam, quân Pháp ở tình thế tốt hơn do lực lượng chính trị và quân sự tại đây ở xa và liên lạc rất khó khăn với chủ lực ở miền Bắc. Lực lượng của tướng Nguyễn Bình bị đẩy về các chiến khu trong vùng ngập mặn và rừng núi, họ còn gặp sự chống đối của các giáo phái người Việt như Cao Đài, Hòa Hảo, Bình Xuyên. Năm 1948, quân Pháp tổ chức cuộc hành quân Véga nhằm phá hủy cơ quan đầu não kháng chiến ở Nam Bộ và nhiều cuộc hành quân khác vào Đồng Tháp Mười nhưng đều thất bại. Cuối năm 1949, quân đội Pháp tại Đông Dương dưới quyền tướng M. Carpentier mất quyền chủ động.
       Cho đến thời điểm này, Hồ Chí Minh vẫn cố gắng kêu gọi Pháp hãy ngừng bắn và tôn trọng nền độc lập của Việt Nam. Ông viết:
"Việt Nam sẵn sàng cộng tác thân thiện với nhân dân Pháp. Những người Pháp tư bản hay công nhân, thương gia hay trí thức, nếu họ muốn thật thà cộng tác với Việt Nam thì sẽ được nhân dân Việt Nam hoan nghênh họ như anh em bầu bạn. Song nhân dân Việt Nam kiên quyết cự tuyệt những người Pháp quân phiệt. Nói cho rõ hơn là: Cũng như những nước độc lập khác cự tuyệt quân đội ngoại quốc đóng trên đất nước mình, nhân dân Việt Nam kiên quyết cự tuyệt quân đội Pháp đóng ở Việt Nam."
        Trong 3 năm đầu của cuộc chiến tranh, Mỹ đã giữ một thái độ "trung lập" nhưng ủng hộ Pháp rất rõ ràng. Mỹ chẳng muốn tự đặt bản thân vào một vị thế khó xử là công khai ủng hộ chủ nghĩa thực dân, nhưng cũng không muốn làm mất lòng Pháp - một đồng minh quan trọng ở châu Âu. Do vậy, chính quyền Truman đã bí mật trao cho Pháp nhiều khoản viện trợ về tài chính và quân sự.
tại ATK Định Hóa.

      Đầu năm 1950, Hoa Kỳ bắt đầu chính thức gửi viện trợ quân sự cho Pháp ở Đông Dương. Tháng 1 năm 1951 người Pháp nhận được 20 xe tăng M24, 40 khẩu pháo 105-mm và 250 quả bom thông thường và cả bom napalm cùng đạn dược và vũ khí tự động. Tới tháng 1/1953, Pháp đã nhận được 900 xe thiết giáp cùng với 15.000 xe vận tải các loại, gần 2.500 khẩu pháo, 24.000 vũ khí tự động, 75.000 vũ khí cá nhân và gần 9.000 máy radio. Ngoài ra, Không quân Pháp đã nhận được 160 máy bay F6F Hellcat và F8F Bearcat, 41 máy bay ném bom B-26 Invader, 28 máy bay vận tải C-47 cùng với 155 động cơ máy bay và 93.000 quả bom. Cho tới khi Pháp thất bại hoàn toàn thì phía Mỹ đã viện trợ trên 1 tỷ USD mỗi năm (tương đương khoảng 5,8 tỷ USD theo thời giá năm 2004) và chi trả 78% chi phí của Pháp ở Đng Dương. Trả lời nhà báo Mỹ Harold Issacs (tháng 3/1949), Chủ tịch Hồ Chí Minh có đoạn đối thoại sau:

       Trả lời nhà báo Mỹ A. Steele của tờ New York Herald Tribune (tháng 10/1949), Hồ Chí Minh nói: "Người ta lẫn lộn Việt Minh, một tổ chức yêu nước của dân tộc với Việt Nam, vốn là một quốc gia. Sự tuyên truyền giả dối của Pháp, và quan niệm sai lầm cho mọi phong trào giải phóng dân tộc và mọi sự cải cách xã hội đều là cộng sản... Tôi muốn hỏi nhân dân Mỹ một câu này, và mong ông cho tôi biết những câu trả lời của nhân dân Mỹ: Nếu Pháp hoặc một ai khác xâm phạm nước Mỹ, giết người đốt phá thành phố và làng mạc Mỹ, với mục đích là để bắt người Mỹ làm nô lệ, thì nhân dân Mỹ sẽ đối phó như thế nào?"
       Trên báo Cứu quốc, Hồ Chí Minh kêu gọi: "Lâu nay đế quốc Mỹ đã công khai can thiệp vào Đông Dương. Lâu nay thực dân Pháp làm chiến tranh ở Việt Nam, Cao Miên và Ai Lao là nhờ tiền bạc, súng đạn Mỹ, và theo chỉ thị của Mỹ... Muốn độc lập thì các dân tộc Đông Dương quyết phải đánh tan thực dân Pháp là kẻ thù số một. Đồng thời phải chống bọn can thiệp Mỹ. Chúng can thiệp càng mạnh, ta càng đoàn kết và chiến đấu mạnh hơn, chống cự mạnh hơn. Ta phải vạch rõ âm mưu của chúng cho nhân dân đều thấy, nhất là nhân dân ở vùng bị tạm chiếm. Ta phải lột mặt nạ và phá tan bọn người cam tâm làm chó sǎn cho đế quốc Mỹ để dụ dỗ lừa bịp, chia rẽ nhân dân ta. Dân tộc Việt Nam đoàn kết chặt chẽ với dân tộc anh em Miên, Lào thì sức mạnh đó đủ đánh tan thực dân Pháp và bọn can thiệp Mỹ. Đế quốc Mỹ đã thất bại ở Trung Quốc, đế quốc Mỹ sẽ thất bại ở Đông Dương. Chúng ta gặp nhiều khó khǎn. Nhưng chúng ta nhất định thắng lợi." 

                                  

                      Hình ảnh du kích quân trong tranh Nhớ một chiều Tây Bắc của Phan Kế An

      Đầu năm 1947, D'Argenlieu bị triệu hồi về nước do bị người Việt Nam và các đảng phái cánh tả Pháp căm ghét. Trước áp lực của các đảng phái cánh tả Pháp như Đảng Cộng sản Pháp và Đảng Xã hội Pháp, Thủ tướng Ramadier - một đại biểu xã hội chủ nghĩa, thông báo rằng chính phủ của ông ủng hộ nền độc lập và thống nhất cho Việt Nam: "Độc lập trong Liên hiệp Pháp [và] liên minh của ba nước An Nam, nếu người dân An Nam mong muốn nó" và Pháp sẵn sàng đàm phán hòa giải "với những đại diện chân chính của Việt Nam". Theo sử gia William Duiker, đây là việc né tránh vấn đề điều đình với Chính phủ Hồ Chí Minh. Thực chất mục đích của Pháp là tìm cách xây dựng một chính quyền bản xứ người Việt để làm đối trọng với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, và để thuyết phục Mỹ viện trợ kinh tế và quân sự để Pháp có thể tiếp tục đứng chân tại Đông Dương
       Ngay sau đó, Mặt trận Thống nhất Quốc gia Liên hiệp quyết định sẽ ủng hộ Bảo Đại đàm phán với Pháp về nền độc lập của Việt Nam. Tháng 5/1947, Mặt trận Thống nhất Quốc gia Liên hiệp cử phái đoàn đến Hồng Kông gặp Bảo Đại để thuyết phục ông này thành lập một Chính phủ Trung ương và đàm phán với Pháp về nền độc lập của Việt Nam.
      Ngày 7 tháng 12 năm 1947, Bảo Đại và Pháp ký Hiệp định vịnh Hạ Long, trong đó Pháp cam kết mập mờ về nền độc lập dân tộc của Việt Nam. Những chính trị gia trong Mặt trận Thống nhất Quốc gia Liên hiệp và Ngô Đình Diệm đã chỉ trích hiệp định này là kém quá xa so với một nền độc lập thực sự. Ngày 5 tháng 6 năm 1948, Bảo Đại và Bollaert ký Hiệp định Vịnh Hạ Long thứ hai, Pháp "long trọng công nhận độc lập" của Việt Nam. Tuy nhiên, chính phủ Pháp vẫn giữ quyền kiểm soát quan hệ ngoại giao và quốc phòng, đồng thời trì hoãn việc chuyển các giao chức năng khác của chính quyền sang những cuộc đàm phán trong tương lai.

        Tướng Georges Revers, Tổng Tham mưu trưởng quân đội Pháp, được phái sang Việt Nam để nghiên cứu tình hình (tháng 5, 6 năm 1949) và sau đó đã viết:

"Hồ Chí Minh đã có khả năng chống cự lại với sự can thiệp của Pháp lâu đến như thế, chính là vì nhà lãnh đạo Việt Minh đã biết tập hợp chung quanh mình một nhóm những người thực sự có năng lực… Ngược lại, Bảo Đại đã có một chính phủ gồm độ 20 đại biểu của toàn các đảng phái ma, trong số đó đảng mạnh nhất cũng khó mà đếm được 25 đảng viên".
        Người Pháp trì hoãn một cách có tính toán việc thi hành Hiệp ước Élysée với Quốc gia Việt Nam. Quân đội của họ tiếp tục tham chiến tại Việt Nam, nhân viên hành chính tiếp tục làm việc ở các cấp chính quyền; Quốc gia Việt Nam chẳng được trao cho một chút quyền hành thực sự nào, như bấy giờ người ta nói, Quốc gia Việt Nam chỉ là một sự nguỵ trang cho nền cai trị của Pháp.
       Kỳ thực Pháp coi giải pháp Bảo Đại chỉ là do tình thế thúc ép, họ không tin tưởng và tôn trọng chính phủ này. Năm 1949, Tổng tham mưu trưởng lục quân Pháp, đại tướng Revers sau chuyến khảo sát tình hình Đông Dương đã có bản tường trình mật trong đó viết: "Vấn đề điều đình với Việt Nam thì tìm những người quốc gia chống cộng để điều đình. Giải pháp Bảo đại chỉ là một giải pháp thí nghiệm, nhưng chế độ Bảo Đại là một chế độ ung thối với sự tham nhũng, buôn lậu đồng bạc, buôn lậu giấy phép nhập cảng, những khu chứa cờ bạc đĩ điếm..." (Trung tâm du hí Đại thế Giới ở Chợ Lớn được chính phủ Bảo Đại cho phép công khai sòng bạc và chứa mại dâm để kiếm chác).

Cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953 - 1954: Đánh bại nỗ lực chiến tranh cuối cùng của thực dân Pháp
Thường vụ Trung ương Đảng họp bàn chủ trương và kế hoạch
 tác chiến Đông Xuân 1953 - 1954, tháng 9/1953
      Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Trung đoàn trưởng Thái Dũng, Tiểu đoàn trưởng Dũng Mã đang nghiên cứu sơ đồ tác chiến Chiến dịch Biên giới.

        Bản tường trình sau đó bị lộ khiến chính phủ Pháp "muối mặt", và Revers bị cho về hưu non sau khi ra khai trình tại Hội đồng tối cao quân lực. bản thân Bảo Đại cũng nhận xét rằng: "Cái được gọi là giải pháp Bảo Đại hóa ra là giải pháp của người Pháp."
     Tháng 10/1951, nghị sĩ John F. Kennedy - về sau trở thành Tổng thống Mỹ - đã đến Việt Nam để khảo sát. Lúc đó, Mỹ đã tài trợ một cách hào phóng cho chiến tranh của thực dân Pháp ở Đông Dương, nhưng Kennedy tự hỏi: tại sao viện trợ Mỹ vẫn không thể giúp Pháp chiến thắng? Ông đã hỏi tướng De Lattre, Cao ủy kiêm Tổng chỉ huy quân Pháp ở Đông Dương rằng: “Tại sao ông có thể trông mong người Việt Nam (Quốc gia Việt Nam) chiến đấu (chống lại Việt Minh) để duy trì nước họ như một bộ phận của Pháp?". Về lại Mỹ, Kennedy phát biểu ngày 15/11/1951 trên đài phát thanh:

“Các xứ Đông Dương là những chính phủ bù nhìn, những lãnh địa của các ông hoàng (chỉ cựu hoàng Bảo Đại và các quốc vương Lào và Campuchia) thuộc Pháp với tài nguyên to lớn nhưng là những ví dụ điển hình của đế quốc và thực dân mà người ta có thể thấy bất kỳ nơi đâu… Ở Đông Dương, chúng ta [Mỹ] đang liên kết với nỗ lực tuyệt vọng của một đế chế Pháp muốn bám lấy những mảnh còn lại của đế quốc”. Kết quả là (chúng ta) không có sự ủng hộ sâu rộng của nhân dân Việt Nam đối với chính phủ bản xứ (tức chính phủ Quốc gia Việt Nam của Bảo Đại)”
      Trả lời điện báo của một nhà báo quốc tế tháng 3/1948 khi thông báo tin Bảo Đại chịu nhận điều kiện quân đội người Việt Nam sẽ nằm dưới quyền chỉ huy của Pháp, chủ tịch Hồ Chí Minh trả lời: "Ông Vĩnh Thuỵ (tên thật của Bảo Đại) là Cố vấn của Chính phủ Việt Nam. Ông ấy không thể đàm phán hoặc hành động gì trước khi Chính phủ Việt Nam đồng ý. Vả chǎng, nếu quân đội và ngoại giao Việt Nam ở dưới quyền Pháp tức là Việt Nam chưa được độc lập hẳn và vẫn là thuộc địa của Pháp. Điều kiện như thế thì ngoài bọn phản quốc ra, không có một người Việt Nam nào chịu nhận, Cố vấn Vĩnh Thuỵ cũng vậy. Hơn 80 nǎm dưới quyền thống trị của Pháp, nhân dân Việt Nam đã nếm đủ sỉ nhục và đau khổ. Nhân dân Việt Nam quyết không chịu làm nô lệ lần nữa.".
      Khi trả lời điện phỏng vấn của Dân quốc Nhật báo (Trung Hoa Dân Quốc) ngày 3/4/1949, chủ tịch Hồ Chí Minh đã trả lời câu hỏi về hiệp định Elysée như sau:
"Đối với dân Việt Nam, đó chỉ là một tờ giấy lộn. Thứ thống nhất và độc lập giả hiệu ấy chẳng lừa bịp được ai. Ngay nhân dân Pháp và dư luận thế giới cũng đã hiểu rõ và tố cáo điều đó. Lúc nào quân đội thực dân Pháp hoàn toàn rút khỏi đất nước Việt Nam, thì mới có thống nhất và độc lập... Vĩnh Thụy trở về với 10.000 viễn binh Pháp, để giết hại thêm đồng bào Việt Nam. Vĩnh Thụy cam tâm bán nước, đó là sự thực... Pháp luật Việt Nam tuy khoan hồng với những người biết cải tà quy chính nhưng sẽ thẳng tay trừng trị những tên Việt gian đầu sỏ đã bán nước buôn dân. Quân và dân Việt Nam quyết tâm đánh tan tất cả âm mưu của thực dân, quyết kháng chiến để tranh cho kỳ được độc lập và thống nhất thật sự.".

       Còn Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhận xét: "Với việc mở đường cho chủ nghĩa thực dân mới vào Việt Nam, De Lattre đã mang đến cho ta một hiểm hoạ lâu dài".
     Trong năm 1950, Kháng chiến chống Pháp có sự thay đổi quan trọng, chuyển sang một giai đoạn mới.



                                                        Chiến dịch Đông Bắc (năm 1951)
                                  Hình ảnh những người lính ra trận với chiếc áo choàng bằng vải dù đã trở thành biểu tượng của một thời.
Hình ảnh những người lính ra trận với chiếc áo choàng bằng vải dù đã trở thành biểu tượng của một thời.

      Sau chiến dịch Việt Bắc, Việt Minh dần dần tổ chức lại bộ máy và lực lượng, bắt đầu tổ chức những trận đánh quy mô chống lại Pháp. Tháng 1/1950, Việt Minh mở một loạt các chiến dịch quân sự uy hiếp trực tiếp đồng bằng sông Hồng. Từ tháng 2/1945 đến tháng 4/1945, Việt Minh thực hiện những chiến dịch quy mô lớn nhằm kiểm soát Đông Bắc Bắc Bộ. Trong năm 1950, các lực lượng vũ trang của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được hoàn chỉnh về biên chế, thống nhất với tên gọi Quân đội Nhân dân Việt Nam.
     Về phía Pháp, chiến tranh đã vào thế sa lầy tuy họ đã dùng đến 40-45% ngân sách quân sự và 10% ngân sách quốc gia. Với sự nổ ra của Chiến tranh Triều Tiên vào tháng 6 năm 1950, Mỹ thay đổi thái độ về cuộc xâm lược của Pháp tại Đông Dương, coi Triều Tiên và Việt Nam là hai chiến trường phụ thuộc lẫn nhau trong cuộc chiến của phương Tây chống lại chủ nghĩa cộng sản. Tổng thống Mỹ Harry S. Truman tuyên bố sẽ viện trợ quân sự trực tiếp cho các nỗ lực của quân Pháp tại Đông Dương.
      Trước năm 1950, Việt Minh vẫn giữ đường lối cân bằng trong quan hệ quốc tế. Năm 1948, Đảng Cộng sản Đông Dương lúc này đang hoạt động bí mật dưới danh nghĩa Việt Minh nhắc nhở các cấp uỷ không viết bài công kích Hoa Kỳ trong các tài liệu tuyên truyền và duy trì đường lối trung lập. Ngày 18/1/1950, Trung Quốc chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Các lãnh đạo Trung Quốc đã thuyết phục Stalin công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, xua tan nghi ngờ của Stalin về tính chất hai mặt của Hồ Chí Minh khi hợp tác với tình báo Mỹ và giải tán Đảng Cộng sản Đông Dương. Ngày 30/1/1950, Liên Xô thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và đồng ý viện trợ vũ khí cho họ chống Pháp. 
     Cùng ngày, Đảng ban hành một chỉ thị bí mật cho phép thể hiện xu hướng chống Mỹ trên các tài liệu tuyên truyền chính thức. Tháng 4 năm 1950, tổng bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương, Trường Chinh, khẳng định Việt Nam, cũng giống như Trung Quốc, đã lựa chọn phong trào cộng sản chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Stalin đồng thời loại bỏ tư tưởng trung lập theo kiểu Tito. 
      Ngày 20/7/1950, khi trả lời cuộc phỏng vấn với đại diện Đảng Cộng sản Pháp, Hồ Chí Minh phát biểu công khai lên án chủ nghĩa đế quốc của Mỹ và sự can thiệp của Mỹ vào vấn đề nội bộ Việt Nam. Hồ Chí Minh tuyên bố hành động viện trợ vũ khí cho Pháp mà Mỹ đang thực hiện là sự phản dân chủ và tương tự như một cuộc xâm lăng. Trong chuyến đi tới Moscow, Hồ Chí Minh hết lời ca ngợi Stalin và chủ nghĩa Stalin, thậm chí ông còn sáng tác một bài thơ ca ngợi Stalin.
Để lấy lại thế chủ động, Pháp thực hiện tăng cường hệ thống phòng ngự đường số 4, khoá biên giới Việt-Trung: cô lập căn cứ địa Việt Minh với bên ngoài, thiết lập hành lang Đông-Tây, cô lập Việt Bắc với đồng bằng Bắc bộ, chuẩn bị lực lượng để tấn công Việt Bắc lần 2 để tiêu diệt đầu não Việt Minh.
      Về phía Việt Minh, Bộ chỉ huy Việt Minh nhận định đúng ý đồ của Pháp nên nhanh chóng vạch kế hoạch chủ động tấn công để mở cửa biên giới, khai thông bàn đạp để nhận viện trợ của Trung Quốc, Liên Xô và khối xã hội chủ nghĩa. Theo chủ trương này, đầu tháng 7 năm 1950, Bộ Tổng tư lệnh Việt Minh quyết định chọn hướng chiến dịch là Cao Bằng – Lạng Sơn.

      Chiến dịch Biên giới bắt đầu ngày 16 tháng 9 năm 1950, diễn ra trong ba đợt. Đợt 1, ngày 16 tháng 9, Việt Minh tiến hành đánh công kiên quy mô tương đối lớn, có hiệp đồng giữa các binh chủng tấn công cứ điểm Đông Khê nhằm cô lập Cao Bằng, và đến ngày 18, cứ điểm Đông Khê hoàn toàn thất thủ dù quân Pháp đã huy động cả không quân yểm trợ. Sự kiện này làm mất một mắt xích quan trọng trong hệ thống phòng thủ đường số 4 của Pháp. Sang đợt hai, quân Pháp quyết định rút khỏi Cao Bằng, đồng thời thực hiện cuộc "hành quân kép", gửi tiếp viện từ Lạng Sơn qua Thất Khê nhằm tái chiếm Đông Khê. Việt Minh đã bố trí thế trận phục kích, bao vây sau đó lần lượt tiêu diệt cả hai cánh quân Pháp từ Thất Khê lên lẫn từ Cao Bằng rút về. Qua đợt ba, Việt Minh tiến hành truy kích quân Pháp rút chạy đồng thời liên tục quấy rối, không cho họ chuyển quân tiếp viện cho mặt trận Cao-Bắc-Lạng.
      Dưới sự uy hiếp của quân Việt Minh và sự hoang mang của bộ chỉ huy Pháp, đến ngày 22 tháng 10 năm 1950, quân Pháp phải rút bỏ hoàn toàn khỏi các cứ điểm còn lại trên đường 4 như Thất Khê, Na Sầm, Đồng Lập, Lạng Sơn... Đến ngày 17 tháng 10, sau khi đã đạt được toàn bộ các mục tiêu đề ra, Việt Minh chủ động kết thúc chiến dịch.
     Thắng lợi của Việt Minh trong chiến dịch này đã làm phá sản chiến lược quân sự chính trị của Pháp, phá được thế bị cô lập của căn cứ địa Việt Bắc, khai thông một đoạn biên giới dài, nối Việt Bắc với các đồng minh lớn thành một dải liên tục đến tận châu Âu, mở đầu cầu tiếp nhận viện trợ. Vành đai đồn bốt bao vây Việt Bắc đã bị phá hủy hoàn toàn. Đồng thời chiến dịch này đã gây nên không khí chủ bại và hoảng sợ tại Hà Nội. Bộ chỉ huy Pháp được cải tổ, dẫn đến việc tướng Jean de Lattre de Tassigny lên nắm quyền chỉ huy quân viễn chinh Pháp ở Đông Dương.
                                         
Đại tướng De Lattre De Tassigny,Tổng chỉ huy Quân đội kiêm Cao uỷ Pháp ở Đông Dương
Chức vụ
Tham mưu trưởng Quân đội Pháp thứ 32
Nhiệm kỳ30 tháng 11 năm 1945 – 12 tháng 3 năm 1947




   Chiến dịch này có ý nghĩa bản lề quan trọng, là bước ngoặt của cuộc chiến tranh. Kể từ đây Quân đội Nhân dân Việt Nam bắt đầu chuyển sang thế chủ động tấn công. Cũng từ năm 1950, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa bắt đầu nhận được viện trợ từ các nước Xã hội chủ nghĩa. Trong bối cảnh Pháp được Mỹ giúp sức muốn nhanh chóng giành thắng lợi, kết thúc chiến tranh còn thế và lực của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chưa thực sự lớn mạnh, viện trợ này có ý nghĩa hết sức quan trọng.
    Không còn hy vọng tiến công hay bao vây chiến khu Việt Bắc, Pháp tổ chức Phòng tuyến Tassigny để bảo vệ vùng đồng bằng. Từ khi chuyển sang chủ động tiến công, các chiến dịch liên tiếp của Quân đội Nhân dân Việt Nam - Chiến dịch Trung Du, Chiến dịch đường 18, Chiến dịch Hà Nam Ninh - đã bóc vỏ Phòng tuyến Tassigny khỏi đồng bằng, buộc Pháp duy trì một lực lượng lớn bên trong để bảo vệ vùng đồng bằng Bắc Bộ.Từ cuối năm 1950, Quân đội Nhân dân Việt Nam bắt đầu thực hiện các trận chiến quy mô lớn theo kiểu kinh điển. Nhưng họ đã phải chịu thiệt hại lớn, các chiến dịch Trung du, Đường 18 và Hà Nam Ninh bị thất bại trước quân Pháp do tướng Jean de Lattre de Tassigny chỉ huy. Chiến dịch Hòa Bình mà de Lattre mở vào tháng 11 năm 1951 đã trở thành "cối xay thịt" đối với cả hai bên. Khi trận đánh kết thúc vào tháng 2 năm 1952, Quân đội Nhân dân Việt Nam chịu thương vong không nhỏ, nhưng họ đã học được cách đối phó với chiến thuật và vũ khí của Pháp, và họ đã thâm nhập được sâu hơn vào trong vòng cung phòng thủ của Pháp.

Cuối năm 1952, Quân đội Nhân dân Việt Nam mở Chiến dịch tiến công Tây Bắc giải phóng thị xã và hầu hết Sơn La cùng các khu vực Nghĩa Lộ, Yên Bái (2 huyện), Lai Châu (4 huyện). Cuộc tấn công vào Phú Thọ để cứu vãn tình thế của Salan thất bại. Salan liền cho củng cố Nà Sản, xây dựng vị trí này như một "con nhím" xù lông để chặn bước tiến của Quân đội Nhân dân Việt Nam.

     Ở miền Trung, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã đạt được những thành công quan trọng. Vùng kiểm soát của Pháp ở Tây Nguyên đã bị thu hẹp lại chỉ còn vài vùng ven biển hẹp ở quanh Huế, Đà Nẵng, và Nha Trang. Những khu vực duy nhất mà Pháp còn có thể thành công là Nam Kỳ và Campuchia.
     Mùa xuân năm 1953, Quân đội Nhân dân Việt Nam tổ chức một lực lượng lớn tiến công quân Pháp ở Lào, với sự hỗ trợ của Quân đội Chính phủ Souphanouvong. Do hậu cần quá xa nên Quân đội Nhân dân Việt Nam không tiến công quân Pháp ở Cánh đồng Chum. Đây được coi là thành công lớn của Pháp.

Ở các vùng khác, Quân đội Nhân dân Việt Nam tấn công phối hợp đồng bộ từ Nam Bộ, Khu 5, Tây Nguyên, Trung Lào, Hạ Lào, Bắc Bộ, buộc Pháp phân tán xé lẻ khối quân cơ động. Việt Minh tiến đánh Tây Bắc, Pháp không còn lực lượng cơ động để ứng cứu, hình thành Chiến cục đông-xuân 1953-1954.
Tháng 7 năm 1953, chỉ huy mới của Pháp, tướng Henri Navarre, đến Đông Dương. Được sự hứa hẹn về việc Mỹ tăng viện trợ quân sự, Navarre chuẩn bị cho một cuộc tổng phản công mà báo chí Pháp và Mỹ gọi là "Kế hoạch Navarre".
Ngày 18 tháng 7 năm 1953, Navarre mở cuộc hành quân Hirondelle ("Con én") vào Lạng Sơn và cuộc hành binh "Camargue" vào Quảng Trị nhằm phá hủy được một số dụng cụ và máy móc của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ở Lạng Sơn, quân Pháp lùng sục các kho tàng rồi vội vã rút chạy. Sau đó truyền thông Pháp loan tin quân đội đã diệt được hai tiểu đoàn, một số căn cứ trong khu tam giác là mối đe dọa trên quốc lộ số 1. 

                 Bộ đội cùng đồng bào các dân tộc Tây Bắc xẻ núi, làm đường vào trận địa.
                                

 Quân ủy Trung ương, Bộ Tổng tư lệnh bàn kế hoạch tác chiến Đông Xuân 1953 - 1954. Từ phải sang trái:
Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Nguyễn Chí Thanh, Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp,
Chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần Trần Đăng Ninh, Tổng Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng.

Liên tiếp với hai cuộc hành quân này, ngày 9 tháng 8 năm 1953 Pháp rút quân ra khỏi Nà Sản bằng không vận. Trước đây, năm 1952, Pháp đặt cứ điểm Na Sản để ngăn Quân đội Nhân dân Việt Nam tiến công quân Pháp ở Lào.
     Ngày 15 tháng 10 năm 1953, Navarre mở Cuộc hành quân Moutte vào Ninh Bình và Thanh Hóa hòng giành lại thế chủ động trên chiến trường chính. Mục đích chính lại là phá các căn cứ hậu cần tiền duyên của Quân đội Nhân dân Việt Nam trong cuộc tiến công 1953-1954 được cho là sẽ diễn ra ở đồng bằng. Nhưng thực sự trong kế hoạch Quân đội Nhân dân Việt Nam được đề ra hồi tháng 9, đồng bằng Bắc Bộ chỉ là chiến trường phối hợp. Cuộc hành quân Moutte diễn ra là sự suy đoán sai của Navarre cùng sự xuất sắc của bộ đội mật mã Việt Nam.
Ngày 12 tháng 4 năm 1953 Quân đội nhân dân Việt Nam tiến quân sang Lào. Chính phủ Vương quốc Lào lên án "Việt Minh xâm lược".
Tháng 11 năm 1953, Navarre mở cuộc hành quân Castor đánh chiếm Điện Biên Phủ - Khu vực mà ông cho rằng có vị trí chiến lược chặn giữa tuyến đường chính của Quân đội Nhân dân Việt Nam sang Lào. Navarre xem căn cứ này vừa là một vị trí khóa chặn, vừa là một cái bẫy để nhử đối phương vào một trận đánh lớn theo kiểu kinh điển và có tính chất quyết định mà tại đó Quân đội Nhân dân Việt Nam sẽ bị tiêu diệt bởi pháo binh và hỏa lực không quân vượt trội của Pháp. 

      Navarre đã chọn Điện Biên Phủ - vùng đất nằm trong một thung lũng lớn, cách Hà Nội 200 dặm đường không, với sự chi viện của khoảng 400 máy bay. Quân Pháp sau những trận đánh nống thất bại, đã nhường các điểm cao xung quanh cho Quân đội Nhân dân Việt Nam, Navarre cho rằng khi đó Quân đội Nhân dân Việt Nam không đủ khả năng đưa pháo lên Điện Biên Phủ nên sẽ không có nguy hiểm gì từ các điểm cao. Điện Biên Phủ được Navarre xem như là một "cái nhọt tụ độc", hút hết phần lớn chủ lực của Quân đội Nhân dân Việt Nam và đảm bảo an toàn cho đồng bằng Bắc Bộ.
        Khi đó, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đang nghĩ tới một cuộc tấn công, hy vọng sẽ mở được một con đường xuyên Lào thọc qua Campuchia. Sau đó đưa lực lượng Quân đội Nhân dân Việt Nam tại miền Bắc vào chi viện bổ sung cho lực lượng sẵn có ở Nam Bộ. Trong cuộc họp tháng 11 năm 1953 của Bộ Quốc phòng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, các chỉ huy quân sự quyết định mở Chiến cục đông-xuân 1953-1954 để xé lẻ khối quân chủ lực của Pháp đang co cụm đồng bằng Bắc Bộ. Các vị trí tiến công được xác định ở Lai Châu, Trung-Hạ Lào và Tây Nguyên. Ý tưởng tuyến đường chiến lược xuyên Lào sẽ được thực hiện một phần trong tương lai thông qua con đường mòn Hồ Chí Minh.
        Chiến dịch Lai Châu và Chiến dịch Trung Lào tháng 12 năm 1953 đến tháng 1 năm 1954 đã giúp Quân đội Nhân dân Việt Nam nắm giữ mảng lớn còn lại của vùng Tây Bắc (Điện Biên Phủ chỉ là một thung lũng nhỏ) và phần lớn vùng Trung và Nam Lào.
        Để đối phó, Navarre tăng cường cho Điện Biên Phủ khiến nó trở thành một "pháo đài bất khả xâm phạm" trong con mắt phương Tây. Nhưng Navarre không hề biết rằng bản thân đã rơi vào một cái "bẫy" của Võ Nguyên Giáp khi "đặt bẫy" đối thủ của mình. Việc xây dựng một tập đoàn cứ điểm ở vùng núi Tây Bắc hiểm trở đã hút đi của Pháp những đơn vị thiện chiến nhất. Điều đó tạo nên khoảng trống không thể bù vào ở đồng bằng Bắc Bộ.
       Đại tướng Võ Nguyên Giáp quyết định vào "bẫy", và đưa vào Điện Biên Phủ 4 sư đoàn với một số lượng lớn pháo xấp xỉ quân Pháp ở Điện Biên Phủ, dù cơ số đạn hạn chế (chủ yếu là thu được của Pháp; phần Trung Quốc viện trợ rất hạn chế do nước này đang tham chiến tại Triều Tiên). Những cuộc tiến công trên toàn Đông Dương không cho Pháp tập hợp một đội quân cơ động ứng cứu. Những đơn vị phòng không đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam được huấn luyện ở Liên Xô về nước tham chiến. Một lực lượng khổng lồ dân công làm công tác vận tải. Các đơn vị mạnh nhất của Quân đội Nhân dân Việt Nam bao vây quân Pháp ở Điện Biên Phủ.
         Cuộc vây hãm Điện Biên Phủ diễn ra từ ngày 13 tháng 3 đến ngày 7 tháng 5 khi quân Pháp đầu hàng. Ở Washington đã có cuộc tranh luận về việc Mỹ có nên trực tiếp can thiệp bằng quân sự, nhưng tổng thống Eisenhower đã quyết định loại bỏ khả năng này do chính quyền Anh sẽ không ủng hộ.
        Cục diện chiến trường Đông Dương, tại thời điểm trong và sau Chiến dịch Điện Biên Phủ, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa kiểm soát khoảng 2/3 lãnh thổ Việt Nam, nhưng chủ yếu là các vùng nông thôn và rừng núi, một số thị xã nhỏ, chưa kiểm soát được các thành phố lớn, Pháp kiểm soát một số tỉnh đồng bằng và các thành phố lớn đông dân cư, một số tỉnh đồng bằng nằm trong vùng tranh chấp. Việt Minh kiểm soát gần như toàn bộ miền Bắc Việt Nam nhưng tại miền Nam Việt Nam, quân đội Quốc gia Việt Nam và quân đội Pháp chiếm ưu thế, quân đội riêng của các giáo phái tự trị cũng khá mạnh nên Việt Minh chỉ kiểm soát được một số vùng tại Nam Trung Bộ, Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ.

Chiến dịch Mouette
Một phần của Chiến tranh Đông Dương
                            French indochina napalm 1953-12 1.png
           Máy bay Pháp ném bom napalm vào vị trí của Đại đoàn 320 trong Chiến dịch Hải Âu
.
                                   Thời gian 15 tháng 10 năm 1953 – 6 tháng 11 năm 1953
                                   Địa điểm Thanh Hóa và Ninh Bình (Việt Nam)
                                    Kết quả Quân đội Nhân dân Việt Nam thắng

      Trận Điện Biên Phủ là trận đánh lớn nhất trong Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất diễn ra tại lòng chảo Mường Thanh, châu Điện Biên, tỉnh Lai Châu (nay thuộc thành phố Điện Biên Phủ, tỉnh Điện Biên), giữa Quân đội Nhân dân Việt Nam (QĐNDVN) và quân đội Liên hiệp Pháp (gồm lực lượng viễn chinh Pháp, lê dương Pháp, phụ lực quân bản xứ và Quân đội Quốc gia Việt Nam, tiền thân của quân ngụy Việt Nam Cộng Hòa sau này).
          Đây là chiến thắng quân sự lớn nhất trong cuộc kháng chiến chống Pháp 1945 – 1954 của Việt Nam. Bằng thắng lợi quyết định này, lực lượng QĐNDVN do Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ huy đã buộc quân Pháp tại Điện Biên Phủ phải đầu hàng vào tháng 5 năm 1954, sau suốt 2 tháng chịu trận. Giữa trận này, quân Pháp đã gia tăng lên đến 16.000 người nhưng vẫn không thể chống nổi các đợt tấn công của QĐNDVN. Thực dân Pháp đã không thể bình định Việt Nam bất chấp nhiều năm chiến đấu và sự hỗ trợ ngày càng gia tăng của Hoa Kỳ, và họ đã không còn khả năng để tiếp tục ứng chiến sau thảm bại này.

Trên phương diện quốc tế, trận này có một ý nghĩa rất lớn: lần đầu tiên quân đội của một nước thuộc địa châu Á đánh thắng quân đội của một cường quốc châu Âu bằng sức mạnh quân sự. Được xem là một thảm họa bất ngờ đối với thực dân Pháp và cũng là một đòn giáng mạnh với thế giới phương Tây, đã đánh bại ý chí duy trì thuộc địa Đông Dương của Pháp và buộc nước này phải hòa đàm và rút ra khỏi Đông Dương, các thuộc địa của Pháp ở Châu Phi được cổ vũ mạnh mẽ cũng đồng loạt nổi dậy. Chỉ riêng trong năm 1960, 17 nước châu Phi đã giành được độc lập và đến năm 1967, Pháp đã buộc phải trao trả độc lập cho tất cả các nước là thuộc địa của Pháp.
       Qua đó, đại thắng của QĐNDVN trong Chiến dịch Điện Biên Phủ còn được xem là một thảm họa đánh dấu thất bại hoàn toàn của nước Pháp trong nỗ lực tái gây dựng thuộc địa Đông Dương nói riêng và đế quốc thực dân của mình nói chung sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, qua đó chấm dứt thời đại hơn 400 năm của chủ nghĩa thực dân kiểu cổ điển trên thế giới.

                                  
Chiếc mũ cối (ở đây là mũ thời Đệ nhị Đế chế Pháp) là một hình tượng đại diện cho chủ nghĩa thực dân.

        Đến cuối năm 1953, Chiến tranh Đông Dương đã kéo dài 8 năm, quân Pháp lâm vào thế bị động trên chiến trường. Trong khi đó, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã thiết lập được quyền kiểm soát vững chắc tại nhiều khu vực rộng lớn ở Tây Nguyên, khu 5, các tỉnh Cao Bắc Lạng... và nhiều khu vực ở đồng bằng Bắc bộ. Nước Pháp hầu như không còn đủ sức chịu đựng gánh nặng chiến tranh Đông Dương và đã phải cầu viện sự trợ giúp của Hoa Kỳ.
        Kết quả là tới năm 1954, 80% chiến phí của Pháp ở Đông Dương là do Hoa Kỳ chi trả. Tới năm 1953, viện trợ Mỹ cả kinh tế và quân sự đã lên tới 2,7 tỷ trong đó viện trợ quân sự là 1,7 tỷ đôla, năm 1954 Mỹ viện trợ thêm 1,3 tỷ đô la nữa. Tổng cộng Mỹ đã cung cấp cho Pháp trên 40 vạn tấn vũ khí, gồm 360 máy bay, 347 tàu thuyền các loại, 1.400 xe tăng và xe bọc thép, 16.000 xe vận tải, 17,5 vạn súng cá nhân.
         Thời gian này ở tất cả các cấp bộ trong quân đội viễn chinh Pháp đều có cố vấn Mỹ. Người Mỹ có thể đến bất cứ nơi nào kiểm tra tình hình mà không cần sự chấp thuận của Tổng chỉ huy lực lượng viễn chinh Pháp. Sự phụ thuộc quá nhiều của Pháp vào Mỹ khiến tướng Henri Navarre than phiền trong hồi ký: "Địa vị của chúng ta đã chuyển thành địa vị của một kẻ đánh thuê đơn thuần cho Mỹ."Ngày 24 tháng 7 năm 1953, thủ tướng chính phủ Quốc gia Việt Nam Nguyễn Văn Tâm được Tổng thống Dwight D. Eisenhower mời sang Hoa Kỳ. Cuối tháng 7, Eisenhower quyết định dành 400 triệu đô la cho Đông Dương để "tổ chức một quân đội Việt Nam thực sự". Pháp đề nghị Mỹ viện trợ 650 triệu đô la cho niên khóa 1953, và được chấp nhận 385 triệu. Mỹ hứa năm 1954 sẽ tăng viện trợ cho Pháp tại Đông Dương lên gấp đôi. Mỹ cũng chuyển giao cho Pháp nhiều trang bị, vũ khí, trong đó có 123 máy bay và 212 tàu chiến các loại. 

      Pháp bổ nhiệm tổng chỉ huy Henri Navarre sang Đông Dương tìm kiếm một chiến thắng quân sự quyết định để làm cơ sở cho một cuộc thảo luận hòa bình trên thế mạnh. Kế hoạch của bộ chỉ huy Pháp tại Đông Dương gồm hai bước:
  • Bước thứ nhất: Thu Đông 1953 và Xuân 1954 giữ thế phòng ngự ở miền Bắc, tập trung một lực lượng cơ động lớn ở đồng bằng Bắc Bộ để đối phó với cuộc tiến công của Việt Minh; thực hiện tiến công chiến lược ở miền Nam nhằm chiếm đóng 3 tỉnh ở đồng bằng Liên khu 5; đồng thời đẩy mạnh việc mở rộng Quân đội Quốc gia Việt Nam (QGVN) và xây dựng một đội quân cơ động lớn đủ sức đánh bại các đại đoàn chủ lực của Việt Minh.
  • Bước thứ hai: Từ Thu Đông năm 1954, sau khi đã hoàn thành những mục tiêu trên, sẽ dồn toàn lực ra Bắc, chuyển sang tiến công chiến lược trên chiến trường chính giành thắng lợi lớn về quân sự, buộc Việt Minh phải chấp nhận điều đình theo những điều kiện của Pháp, nếu khước từ, quân cơ động chiến lược của Pháp sẽ tập trung mọi nỗ lực loại trừ chủ lực Việt Minh.
Từ hàng ngũ quân đội Pháp, Stefan Kubiak đã đứng trong hàng quân của Việt Minh, chiến đấu như một người cộng sản. Với những đóng góp của mình vì sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam, người lính lê dương đó đã được vinh dự mang họ Bác Hồ.
Trong ký ức của cựu chiến binh Điện Biên Phủ Nguyễn Xuân Tính (phường Trung Đô, Thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An) vẫn in đậm hình ảnh của một người lính ngoại quốc cao lớn. Họ gặp nhau khi Chiến dịch Điện Biên Phủ đang ở giai đoạn ác liệt nhất. Qua sự “sửng sốt” ban đầu về một người lính “mắt xanh, mũi lõ” trong hàng ngũ Bộ đội Cụ Hồ là sự ngưỡng mộ, kính phục của người lính Việt Nam. Và họ đã gọi nhau bằng hai từ “đồng chí”.
Cựu chiến binh Nguyễn Xuân Tính nhớ lại: “Khi Chiến dịch Điện Biên Phủ vào giai đoạn ác liệt nhất, tôi còn nhớ rất rõ, ngày đó, tôi được lệnh theo đồng chí Toàn - Thủ trường đơn vị sang Đại đội Pháo binh. Trên trận địa pháo, tôi quá đỗi ngạc nhiên khi thấy một người nước ngoài cao lớn trong bộ trang phục Bộ đội Cụ Hồ. Ông đang say sưa tính toán các phương án, cự ly trên tấm bản đồ tác chiến.
Như đọc được sự ngạc nhiên trong mắt tôi, đồng chí Toàn kể sơ qua về người lính Tây ở trong hàng ngũ của Bộ đội Cụ Hồ. Thì ra, đó là Stefan Kubiak, một người dân Ba Lan, đã từng đứng “bên kia chiến tuyến”.
Sinh ra ở Ba Lan, Stefan Kubiak lớn lên và bị cuốn vào cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất. Khi kết thúc chiến tranh, ông bị rơi vào tay quân Pháp và bị cưỡng bức vào đội quân lê dương ngoại quốc rồi được đưa tới Việt Nam. Người lính ấy đã được dạy cầm súng bắn vào những người "chống lại sự khai phá văn minh của Pháp quốc".
Thế nhưng, những ngày tháng cầm súng, người lính lê dương này nhận ra rằng mình đang cố gắng tiêu diệt những người đang bảo vệ Tổ quốc của mình trước sự xâm lăng của ngoại bang. Bằng tinh thần dũng cảm, gan dạ và tình yêu đất nước, con người hồn hậu nơi đây, Stefan Kubiak đã rời bỏ hàng ngũ những người lính lê dương để đứng vào hàng ngũ những người chiến đấu vì chính nghĩa.

      Để thực hiện kế hoạch này, người Pháp cho tiến hành xây dựng và tập trung lực lượng cơ động lớn, mở rộng lực lượng phụ lực quân (Forces suppletives) bản xứ và Quân đội Quốc gia Việt Nam, càn quét bình định vùng kiểm soát. Thực hành tấn công chiến lược ở vùng Khu V, Navarre được chính phủ Pháp cấp thêm cho 9 tiểu đoàn tinh nhuệ. Điều quan trọng hơn, Kế hoạch Navarre được Mỹ tán thành. Viện trợ của Mỹ tăng vọt, chiếm đại đa số chi phí chiến tranh của Pháp.
        Kế hoạch Navarre chỉ gặp trở ngại khi bộ trưởng tài chính Edgar Faure nêu ra việc thực thi kế hoạch phải chi ít nhất là 100 tỉ Franc. Ở Hội đồng Tham mưu trưởng cũng như Hội đồng Quốc phòng Mỹ, người ta bàn nên bớt cho Navarre nhiệm vụ bảo vệ nước Lào đề ra trong kế hoạch, để giảm bớt chi tiêu, nhưng Pháp không muốn bỏ Lào. Thống chế Alphonse Juin, người phát ngôn của các tham mưu trưởng, nhấn mạnh: cần trao cho Bộ Ngoại giao yêu cầu Mỹ và Anh phải bảo đảm sự toàn vẹn lãnh thổ của Lào, đồng thời lưu ý Liên Xô và Trung Quốc nguy cơ xung đột quốc tế có thể diễn ra nếu Lào bị chiếm. Tướng Navarre xác nhận nếu QĐNDVN đánh Thượng Lào thì ông không thể đương đầu được, Navarre yêu cầu chính phủ ra chỉ thị rõ rệt nếu trường hợp đó xảy ra. Điều đó liên quan mật thiết đến việc xây dựng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ sau này.

                      Dân công trong chiến dịch Điện Biên Phủ

                      dân công hỏa tuyến Đoàn xe thồ đi vào huyền thoại (ảnh tư liệu)


        Trước mùa khô 1953-1954, so sánh lực lượng về quân số, Pháp đã vượt lên khá xa. Tổng quân số của Pháp là 445.000 người, gồm 146.000 quân Âu Phi (33%) và 299.000 quân Việt (67%). Tổng quân số của QĐNDVN là 252.000 người. Như vậy, quân Pháp đông hơn 193.000 người. Chỉ riêng lực lượng phụ lực quân bản xứ do các sĩ quan Pháp chỉ huy cũng đã đông hơn 47.000 người.
Lực lượng cụ thể 2 bên lúc này như sau:
- Về bộ binh, Pháp có 267 tiểu đoàn. Về pháo binh, Pháp có 25 tiểu đoàn; quân phụ lực bản xứ có 8 tiểu đoàn. Về cơ giới, Pháp có 10 trung đoàn, 6 tiểu đoàn và 10 đại đội; quân phụ lực bản xứ có 1 trung đoàn và 7 đại đội. Về không quân, Pháp có 580 máy bay; quân phụ lực bản xứ có 25 máy bay thám thính và liên lạc. Về hải quân, Pháp có 391 tàu; quân phụ lực bản xứ có 104 tàu loại nhỏ và 8 tàu ngư lôi. Lực lượng QĐNDVN vẫn đơn thuần là bộ binh, gồm 6 đại đoàn, 18 trung đoàn và 19 tiểu đoàn. Về pháo binh, QĐNDVN có 2 trung đoàn, 8 tiểu đoàn và 4 đại đội. Về phòng không, QĐNDVN có 1 trung đoàn và 2 tiểu đoàn.
- Tính theo số tiểu đoàn bộ binh, QĐNDVN có tổng cộng 127 tiểu đoàn so với 267 tiểu đoàn của Pháp. Biên chế tiểu đoàn của QĐNDVN là 635 người; biên chế tiểu đoàn Pháp từ 800 - 1.000 người.
Về viện trợ, từ tháng 6 năm 1950 đến tháng 6 năm 1954, Việt Minh nhận được từ Liên Xô, Trung Quốc tổng cộng 21.517 tấn các loại, trị giá 34 triệu đôla. Giá trị này chỉ bằng 0,85% lượng viện trợ mà Mỹ cấp cho Pháp.
       Pháp tuy có ưu thế vượt trội về binh lực, nhưng thế trận chiến tranh nhân dân của QĐNDVN đã làm cho Pháp phải phân tán trên khắp các chiến trường. Không những Pháp không thể tập trung toàn bộ ưu thế đó vào một trận đánh quyết định, mà cũng chưa đủ lực lượng để mở một cuộc tiến công lớn vào các đại đoàn chủ lực QĐNDVN trên miền Bắc. Trong tổng số 267 tiểu đoàn, thì 185 tiểu đoàn đã phải trực tiếp làm nhiệm vụ chiếm đóng, chỉ còn 82 tiểu đoàn làm nhiệm vụ cơ động chiến thuật và chiến lược. Già nửa lực lượng cơ động Pháp, 44 tiểu đoàn, phải tập trung trên miền Bắc để đối phó với chủ lực QĐNDVN. Vào thời điểm này, nếu tính chung trên chiến trường Bắc Bộ, lực lượng QĐNDVN mới bằng 2/3 lực lượng Pháp (76 tiểu đoàn/112 tiểu đoàn), nhưng tính riêng lực lượng cơ động chiến lược, thì lực lượng QĐNDVN đã vượt hơn về số tiểu đoàn (56/44).
 
                              

                                 Quân Pháp nhảy dù xuống Điện Biên Phủ ngày 20/11/1953.

            B-26 Invader, pháo đài bay mạnh nhất của Pháp tại Điện Biên Phủ
Máy bay ném bom B-26 Invader do Mỹ viện trợ là loại máy bay ném bom chính của Pháp tại Điện Biên Phủ.
        
      Chủ tịch Hồ Chí Minh tổng kết: "Địch tập trung quân cơ động để tạo nên sức mạnh... Không sợ! Ta buộc chúng phải phân tán binh lực thì sức mạnh đó không còn."
Theo đó QĐNDVN sẽ mở một loạt chiến dịch tại nhiều vùng để phân tán binh lực địch, không cho quân Pháp co cụm tạo thành một lực lượng cơ động đủ mạnh để xoay chuyển tình thế.
  • Trên chiến trường Bắc Bộ, sẽ mở cuộc tiến công lên hướng Tây Bắc, tiêu diệt quân Pháp còn chiếm đóng Lai Châu, uy hiếp quân Pháp ở Thượng Lào.
  • Hướng thứ hai, là Trung Lào.
  • Hướng thứ ba, là Hạ Lào, đề nghị quân Pathet Lào phối hợp với bộ đội Việt Nam mở cuộc tiến công vào hai hướng này, nhằm tiêu diệt sinh lực địch và giải phóng đất đai.
  • Hướng thứ tư, là bắc Tây Nguyên.
  • Vùng tự do ba tỉnh Liên khu 5 sẽ là mục tiêu chính những cuộc tiến công đánh chiếm của Pháp trong mùa khô này, cần chuẩn bị sẵn sàng đón đánh.
       Hội chứng Thượng Lào, trong đó có kinh đô Luông Phabăng, luôn luôn ám ảnh Navarre. Nếu cả miền cực Bắc Đông Dương rơi vào quyền kiểm soát của Việt Minh sẽ là một nguy cơ lớn cho cuộc chiến tranh. Nó sẽ mang lại những ảnh hưởng chính trị tai hại, vì nước Pháp bất lực trong việc bảo vệ các quốc gia liên kết. Tướng René Cogny, Tư lệnh Bắc Bộ, nhiệt liệt tán đồng ý kiến này.
     Điện Biên Phủ là một thung lũng phì nhiêu ở Tây Bắc Việt Nam. Dài 15 km, rộng 5 km, giữa thung lũng có sông Nậm Rốm chảy qua cánh đồng do người Thái cầy cấy. Một sân bay bỏ phế từ lâu, có từ thời Nhật, nằm dọc theo sông Nậm Rốm về phía bắc lòng chảo. Điện Biên Phủ cách Hà Nội 300 km về phía tây, cách Lai Châu 80 km về phía nam. Xung quanh là núi đồi trập trùng bao quanh tứ phía, rừng già khắp nơi làm chỗ ẩn náu dễ dàng cho quân du kích. Cũng như Lai Châu và Nà Sản, Điện Biên Phủ là một điểm chiến lược bảo vệ tây bắc Lào và thủ đô Vạn Tượng (Luang Prabang). Tướng Cogny nhấn mạnh: Điện Biên Phủ là một căn cứ bộ binh - không quân (base aéroterrestre) lý tưởng, là "chiếc chìa khoá" của Thượng Lào.
      Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ được ra đời án ngữ miền Tây Bắc Việt Nam, kiểm soát liên thông với Thượng Lào để làm bẫy nhử, thách thức quân chủ lực Việt Minh tấn công và, theo kế hoạch của Pháp, quân Việt Minh sẽ bị nghiền nát tại đó.
      Ngày 2 tháng 11 năm 1953, Navarre đã chỉ thị cho Cogny từ ngày 15 đến ngày 20 tháng 11, chậm nhất là ngày 1 tháng 12, phải đánh chiếm Điện Biên Phủ để thiết lập một điểm ngăn chặn bảo vệ cho Thượng Lào. Cuộc hành binh đánh chiếm Điện Biên Phủ có bí danh là "Hải Ly" (Cuộc hành quân Castor), chỉ huy là tướng Jean Gilles.
      Ngày 20 tháng 11, lúc 11 giờ sáng, 63 chuyến máy bay C-47 Dakota thả 3.000 lính dù và chiến cụ xuống Điện Biên Phủ. Thiếu tá Marcel Bigeard và Tiểu đoàn 6 Dù thuộc địa (6e BPC) nhảy xuống điểm DZ (dropping zone) Tây Bắc, Thiếu tá Jean Bréchignac và Tiểu đoàn 2, Trung đoàn Dù nhẹ số 1 (II/1er RCP) nhảy xuống điểm DZ phía nam. Tiểu đoàn của Bigeard nhảy trúng khu vực có 1 tiểu đoàn QĐNDVN đang tập dượt nên bị chống cự mãnh liệt. Máy bay Pháp phải yểm trợ đến 4 giờ chiều QĐNDVN mới rút lui với tổn thất vài chục người. Pháp thiệt hại 16 người chết, 47 bị thương.

Có tổng cộng 34.931 dân công phục vụ trực tiếp cho Chiến dịch Điện Biên Phủ
(28.619 dân công đi bộ, 6.312 dân công đi cùng với xe đạp thồ)
(Ảnh: Tư liệu Bảo tàng Lịch sự Quân sự Việt Nam)


                                
                    Dân công hỏa tuyến với những chiếc xe đạp thồ góp phần làm nên chiến thắng vĩ đại
 
       Hai ngày sau, ngày 21 và 22 tháng 11, liên tiếp 3 tiểu đoàn Dù nữa được thả xuống cùng với một đại đội pháo binh. Ngày 24 tháng 11, phi đạo được sửa chữa xong, phi cơ lại đáp xuống được. Vậy là từ ngày 20 tới ngày 22 tháng 11 năm 1953, Pháp đã ném xuống cánh đồng Mường Thanh 6 tiểu đoàn dù, khoảng 4.500 quân.
      Ngày 3 tháng 12 năm 1953, Navarre đã quyết định "chấp nhận chiến đấu ở Điện Biên Phủ". Phương Tây coi đây là một sự chuyển hướng có tính chiến lược của Navarre, vì Điện Biên Phủ không nằm trong kế hoạch mùa khô 1953 - 1954. Ngày 7 tháng 12, Đại tá Christian de Castries được Cogny và Navarre chỉ định chỉ huy tập đoàn cứ điểm, chuẩn bị đương đầu với một cuộc tiến công. Có người hỏi Navarre vì sao lại trao quyền chỉ huy Điện Biên Phủ đáng lẽ phải là một viên tướng, cho một đại tá? Navarre trả lời: "Cả tôi lẫn Cogny đều không trông lon mà xét người nên cũng chẳng sùng bái gì lắm mấy ngôi sao cấp tướng. Tôi khẳng định: trong số các chỉ huy được lựa chọn, không ai có thể làm giỏi hơn Castries".
       Ngày 15 tháng 12, lực lượng Pháp ở Điện Biên Phủ tiếp tục tăng lên 11 tiểu đoàn. Ngày 24 tháng 12, Navarre tới Điện Biên Phủ dự lễ Giáng sinh với quân đồn trú. Tại Điện Biên Phủ, một tập đoàn cứ điểm đã xuất hiện, chạy suốt chiều dài cánh đồng Mường Thanh, hai bên bờ sông Nậm Rốm.
       Sau này có những ý kiến chỉ trích các tướng lĩnh Pháp đã "mắc một lỗi sơ đẳng" khi thiết lập một căn cứ ở nơi quá xa xôi hẻo lánh, dễ bị bao vây cô lập để rồi bại trận. Nhưng ở vào thời điểm đó, với những yêu cầu chiến lược và chính trị của Pháp trong cuộc chiến (phải giữ bằng được Lào), thì việc thiết lập này là yêu cầu tất yếu và không thể khác được, như Navarre đã viết: "Có cần bảo vệ Lào hay không? Tôi thì chỉ còn một cách chấp nhận phương án chiến đấu ở Điện Biên Phủ."Hơn nữa, các chỉ huy Pháp tin rằng lợi thế công nghệ vượt trội và sự trợ giúp của Mỹ sẽ giúp họ đánh bại được QĐNDVN vốn có trang bị thô sơ hơn nhiều. Jean Pouget sĩ quan tùy tùng của Tổng chỉ huy Navarre, viết: "...có thể khẳng định là không một ai trong số hơn 50 chính khách, các tướng lĩnh đã tới thăm Điện Biên Phủ, phát hiện được cái thế thua đã phơi bày sẵn...". Tướng Navarre viết: "Theo ông de Chevigné vừa ở đó về 2-3 "thật là bất khả xâm phạm. Vả lại, họ không dám tiến công đâu.". Tướng Cogny thì tin tưởng: "Chúng ta đến đây là buộc Việt Minh phải giao chiến, không nên làm gì thêm để họ phải sợ mà lảng đi".
       Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhận xét: "Tới lúc này, quân đồn trú ở Điện Biên Phủ vẫn có thể mở một con đường rút lui. Vì sao Navarre không làm điều đó khi thấy nguy cơ một trận đánh sẽ xảy ra? Theo tôi, Navarre vẫn muốn Điện Biên Phủ sẽ làm vai trò "chiếc nhọt tụ độc" trên miền Bắc.". Theo đó, Điện Biên Phủ ra đời nhằm thu hút chủ lực QĐNDVN, tại đó Pháp sẽ dùng ưu thế hỏa lực vượt trội để tiêu diệt. Nhưng thực ra, Navarre đã bị cuốn theo các hoạt động trong Chiến cục đông-xuân 1953-1954 của QĐNDVN mà ông không hề biết. Trận đánh xảy ra không bất ngờ mà nó đã nằm trong dự tính của QĐNDVN về một thắng lợi quyết định để kết thúc chiến tranh.
 
                              Sự kiện ảnh, Tư liệu, Đại tướng Võ Nguyễn Giáp, Điện Biên Phủ, Lịch sử, Văn hóa

Hội nghị Đảng ủy và Bộ Chỉ huy Chiến dịch tại Mường Phăng (Sở chỉ huy cuối cùng) hạ quyết tâm tiêu diệt Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, ngày 22/4/1954....

                             Sự kiện ảnh, Tư liệu, Đại tướng Võ Nguyễn Giáp, Điện Biên Phủ, Lịch sử, Văn hóa

Bộ đội kéo pháo vào lần 2 chuẩn bị tác chiến theo phương án "đánh chắc, tiến chắc"... 

                         Sự kiện ảnh, Tư liệu, Đại tướng Võ Nguyễn Giáp, Điện Biên Phủ, Lịch sử, Văn hóa

Mệnh lệnh Tổng công kích....

                           

                                          Tô Vĩnh Diện lấy thân mình chèn pháo

       “Đêm tối, đường dốc, dây kéo pháo đứt, pháo lao nhanh xuống dốc. Trước cảnh hiểm nghèo đó, anh hô anh em: “thà hi sinh, quyết bảo vệ pháo”, và buông tay lái xông lên trước, lấy thân mình lao vào chèn bánh xe pháo. Pháo bị vướng nghiêng tựa vào bờ, nhờ đó đơn vị giữ được pháo không rơi xuống vực.”

       Về phía Việt Nam, kể từ sau năm 1950 do nối thông biên giới với Trung Quốc, lại được sự viện trợ quân sự to lớn của Trung Quốc và Liên Xô, QĐNDVN đã lớn mạnh rất nhiều, với các sư đoàn (đại đoàn) bộ binh và các trung đoàn pháo binh, công binh đã có kinh nghiệm đánh tiêu diệt cấp tiểu đoàn của quân Pháp trong phòng ngự kiên cố.
     Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội Quốc gia và dân quân Việt Nam nhìn nhận trận Điện Biên Phủ như cơ hội đánh tiêu diệt lớn, tạo chiến thắng vang dội để từ đó chấm dứt kháng chiến trường kỳ, và đã chấp nhận thách thức của quân Pháp để tiến công tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ. Đây là trận quyết chiến chiến lược của QĐNDVN. Trung ương Đảng Lao động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) đã hạ quyết tâm: "Tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ để tạo nên một bước ngoặt mới trong chiến tranh, trước khi đế quốc Mỹ can thiệp sâu hơn vào Đông Dương."
Thời gian hoạt động ở Tây Bắc sẽ chia làm hai đợt:
  • Đợt 1: Đại đoàn 316 tiến hành đánh Lai Châu và kết thúc vào cuối tháng 1 năm 1954. Sau đó, bộ đội nghỉ ngơi, chấn chỉnh một thời gian khoảng 20 ngày, tập trung đầy đủ lực lượng để đánh Điện Biên Phủ.
  • Đợt 2: Tiến công Điện Biên Phủ. Thời gian đánh Điện Biên Phủ ước tính 45 ngày. Nếu Pháp không tăng cường thêm nhiều quân, có thể rút ngắn hơn. Chiến dịch sẽ kết thúc vào đầu tháng 4 năm 1954. Phần lớn lực lượng sau đó sẽ rút, một bộ phận ở lại tiếp tục phát triển sang Lào cùng với bộ đội Lào uy hiếp Luông Pha Bang.
       Trước trận đánh, về tương quan lực lượng:
      Lực lượng QĐNDVN tham gia gồm 11 trung đoàn bộ binh thuộc các đại đoàn bộ binh (304, 308, 312, 316), 1 trung đoàn công binh, 1 trung đoàn pháo binh 105 ly (24 khẩu), 1 trung đoàn pháo binh 75 ly (24 khẩu) và súng cối 120 ly (16 khẩu), 1 trung đoàn cao xạ 24 khẩu 37 ly (367)(sau được tăng thêm một tiểu đoàn 12 khẩu) vốn là phối thuộc của đại đoàn công pháo 351 (công binh – pháo binh). Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm Tư lệnh chiến dịch. Thiếu tướng Hoàng Văn Thái làm Tham mưu trưởng chiến dịch. Thiếu tướng Đặng Kim Giang làm Chủ nhiệm cung cấp chiến dịch. Ông Lê Liêm làm Chủ nhiệm chính trị chiến dịch.
       Lực lượng quân Pháp ở Điện Biên Phủ có 12 tiểu đoàn và 7 đại đội bộ binh (trong quá trình chiến dịch được tăng viện 4 tiểu đoàn và 2 đại đội lính nhảy dù), 2 tiểu đoàn pháo binh 105 ly (24 khẩu - sau đợt 1 được tăng thêm 4 khẩu nguyên vẹn và cho đến ngày cuối cùng được thả xuống rất nhiều bộ phận thay thế khác), 1 đại đội pháo 155 ly (4 khẩu), 2 đại đội súng cối 120 ly (20 khẩu), 1 tiểu đoàn công binh, 1 đại đội xe tăng 18 tấn (10 chiếc M24 Chaffee của Mỹ), 1 đại đội xe vận tải 200 chiếc, 1 phi đội máy bay gồm 14 chiếc (7 máy bay khu trục, 6 máy bay liên lạc trinh sát, 1 máy bay lên thẳng). Lực lượng này gồm khoảng 16.200 quân.

Pháo binh là lực lượng không thể thiếu trong những trận đánh của chiến dịch.
      Tổng cộng tất cả là 10 trung tâm đề kháng được đặt theo tên phụ nữ Pháp: Gabrielle (Bắc), Béatrice, Dominique (Đông), Eliane, Isabelle (Nam), Junon, Claudine, Françoise (Tây), Huguette và Anne Marie. 10 trung tâm đề kháng lại chia ra thành 49 cứ điểm phòng thủ kiên cố liên hoàn trang bị hỏa lực mạnh yểm trợ lẫn nhau; có 2 sân bay: Mường Thanh và Hồng Cúm để lập cầu hàng không. Tổng công quân Pháp ban đầu có hơn 10.800 quân, cùng với đó là 2.150 lính phụ lực bản xứ và QGVN. Trong trận đánh có thêm hơn 4.300 lính (trong đó có 1.901 lính phụ lực bản xứ) được tiếp viện cho lòng chảo. Đại tá Christian de Castries (trong thời gian chiến dịch được thăng hàm Chuẩn tướng) là chỉ huy trưởng tập đoàn cứ điểm.
       Hỏa lực pháo binh được bố trí thành hai căn cứ: một ở Mường Thanh, một ở Hồng Cúm, có thể yểm trợ lẫn cho nhau, và cho tất cả các cứ điểm khác mới khi bị tiến công. Ngoài hỏa lực chung của tập đoàn cứ điểm, mỗi trung tâm đề kháng còn có hỏa lực riêng, bao gồm nhiều súng cối các cỡ, súng phun lửa, và các loại súng bắn thẳng bố trí thành hệ thống vừa tự bảo vệ, vừa yểm hộ cho những cứ điểm chung quanh.
        Hỗ trợ cho Điện Biên Phủ là lực lượng không quân Liên hiệp Pháp, và không quân dân sự Mỹ. Tổng cộng Pháp huy động 100 máy bay C-47 Dakota, cộng thêm 16 máy bay C-119 của Mỹ. Máy bay ném bom gồm 48 chiếc B-26 Invader, 8 oanh tạc cơ Privater. Máy bay cường kích gồm 227 chiếc F6F Hellcat, F8F Bearcat và F4U Corsair. Điện Biên Phủ có hai sân bay. Sân bay chính ở Mường Thanh, và sân bay dự bị ở Hồng Cúm, nối liền với Hà Nội, Hải Phòng bằng một cầu hàng không, trung bình mỗi ngày có gần 100 lần chiến máy bay vận tải tiếp tế khoảng 200 - 300 tấn hàng, và thả dù khoảng 100 - 150 tấn.
        Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ gồm ba phân khu yểm hộ lẫn nhau. Mỗi cứ điểm đều có khả năng phòng ngự độc lập. Nhiều cứ điểm được tổ chức lại thành cụm cứ điểm, gọi là "trung tâm đề kháng theo kiểu phức hợp", có lực lượng cơ động, hỏa lực riêng, hệ thống công sự vững chắc, chung quanh là hào giao thông và hàng rào dây kẽm gai, khả năng phòng ngự khá mạnh. Mỗi một phân khu gồm nhiều trung tâm đề kháng kiên cố như vậy. Mỗi trung tâm đề kháng, cũng như toàn bộ tập đoàn cứ điểm, đều có hệ thống công sự nằm chìm dưới mặt đất, chịu được đạn pháo 105mm. Hệ thống công sự phụ (hàng rào, bãi dây thép gai, bãi mìn) dày đặc, hệ thống hỏa lực rất mạnh. Pháp đã rải xuống hàng ngàn km dây kẽm gai, chôn hàng vạn các loại mìn: mìn phát sáng, mìn sát thương, mìn cóc nhảy, mìn chứa xăng khô napalm để thiêu cháy hàng loạt bộ binh... Phương tiện chống đạn khói, máy hồng ngoại tuyến bắn đêm, áo chống đạn, súng phóng lựu hiện đại nhất cũng được cung cấp.


                                
Liên tiếp thất bại trước mục tiêu quay lại xâm lược Việt Nam, cuối năm 1953, Pháp chọn Điện Biên Phủ để làm đồn trú. Pháp cho tiến hành xây dựng và tập trung lực lượng cơ động lớn, mở rộng quân đội bản địa, càn quét bình định vùng kiểm soát. Thực hành tấn công chiến lược ở vùng Khu V., Navarre được nhà nước Pháp cấp thêm cho 9 tiểu đoàn tinh nhuệ. Viện trợ Mỹ tăng vọt, chiếm đại đa số chi phí chiến tranh. Tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ được ra đời án ngữ miền Tây Bắc Việt Nam, kiểm soát liên thông với Thượng Lào để làm bẫy nhử, thách thức quân chủ lực Việt Minh tấn công. Theo kế hoạch của Pháp, quân Việt Minh sẽ bị nghiền nát tại đó. (Trong ảnh là Phó tổng thống Mỹ Ních-xơn kiểm tra tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ tháng 1/1954).

                                  
Pháp tập trung xây dựng Điện Biên Phủ thành một tập đoàn cứ điểm mạnh, một “Pháo đài không thể công phá”, nhằm thu hút lực lượng của ta vào đây để tiêu diệt. Điện Biên Phủ trở thành khâu chính, là trung tâm của kế hoạch quân sự Na Va. (Trong ảnh là Trung tướng O Danien - Chủ tịch hội đồng cố vấn của Mỹ ở Đông Dương kiểm tra tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ tháng 3/1954).
 
                                 
Điện Biên Phủ được Pháp xây dựng thành tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương, gồm các tiểu đoàn bộ binh và quân dù thiện chiến nhất của Pháp, có hỏa lực mạnh của pháo, xe tăng và không quân chi viện, kết hợp với hệ thống công sự và chiến hào vững chắc, với lưới thép gai và lưới mìn dày đặc.
 
                                
                                                          Hầm súng 12,7mm của Pháp.
 
        Theo đánh giá thì khu trung tâm tập đoàn cứ điểm chỉ rộng khoảng 2,5 km vuông đã có tới 12 khẩu 105mm, 4 khẩu 155mm, 24 khẩu cối 120 và 81mm và một số dự trữ đạn dược đồ sộ (tương đương từ 6 đến 9 cơ số đạn trước trận đánh, hơn 10 vạn viên) là quá mạnh. Navarre đã viết trong hồi ký: "Tất cả đều có những cảm tưởng thuận lợi trước sức mạnh phòng thủ của tập đoàn cứ điểm và tinh thần tốt của đạo quân đóng ở đây. Không một ai mảy may tỏ ý lo ngại... Chưa có một quan chức dân sự hoặc quân sự nào đến thăm (bộ trưởng Pháp và nước ngoài, những tham mưu trưởng của Pháp, những tướng lĩnh Mỹ) mà không kinh ngạc trước sự hùng mạnh của nó cũng như không bày tỏ với tôi tình cảm của họ".
       Về phía QĐNDVN, tuy có quân số đông đảo hơn nhiều đối phương nhưng chưa có kinh nghiệm đánh công kiên lớn trên cấp tiểu đoàn. Theo lý thuyết quân sự "Ba tấn một thủ", bên tấn công phải mạnh hơn bên phòng thủ ít nhất là 3 lần cả về quân số lẫn hỏa lực thì mới là cân bằng lực lượng. Về quân số, QĐNDVN chỉ vừa đạt tỉ lệ này, nhưng về hỏa lực và trang bị thì lại kém hơn hẳn so với Pháp. Như các cuộc chiến tranh trước đó đã cho thấy, một nhóm nhỏ quân phòng thủ trong công sự kiên cố trên cao, sử dụng hỏa lực mạnh như đại liên có thể chặn đứng và gây thương vong nặng nề cho lực lượng tấn công đông hơn nhiều lần. Tiêu biểu như trận Iwo Jima, quân Mỹ dù áp đảo 5 lần về quân số và hàng chục lần về hỏa lực nhưng vẫn bị quân Nhật phòng thủ trong các lô cốt gây thương vong nặng nề.
      Trong từng trận đánh cụ thể, việc tiếp cận đồn Pháp cũng không dễ dàng. Khi Pháp nhảy dù xuống Điện Biên Phủ ngày 20 tháng 11 năm 1953, một trong những công việc đầu tiên của họ là san phẳng mọi chướng ngại vật trong thung lũng, để tạo điều kiện tối đa cho tầm nhìn và tầm tác xạ của các loại hoả lực, tiếp đó là để lấy nguyên vật liệu nhằm xây dựng tập đoàn cứ điểm. Hàng nghìn dân vốn sống ở trung tâm Điện Biên Phủ được dồn vào khu vực bản Noong Nhai. Hơn nữa, các loại hỏa lực như xe tăng, lựu pháo, súng cối, súng phóng lựu, DKZ v...v... không bao giờ ngồi yên. Để có thể xung phong tiếp cận hàng rào, bộ đội Việt Nam phải chạy khoảng 200 m giữa địa hình trống trải dày đặc dây kẽm gai và bãi mìn, phơi mình trước hỏa lực Pháp mà không hề có xe thiết giáp và chướng ngại vật che chắn. Chỉ huy Pháp tự tin rằng, nếu QĐNDVN chỉ biết học theo Chiến thuật biển người mà Trung Quốc áp dụng ở Triều Tiên, thì quân tấn công dù đông đảo tới đâu cũng sẽ bị bom, pháo và đại liên Pháp tiêu diệt nhanh chóng.
      Và đặc biệt khó khăn lớn nhất của QĐNDVN là khâu tiếp tế hậu cần. Phía Pháp cho rằng QĐNDVN không thể đưa pháo lớn (cỡ 105mm trở lên) vào Điện Biên Phủ, các khó khăn hậu cần của QĐNDVN là không thể khắc phục nổi nhất là khi mùa mưa đến. Navarre lý luận rằng Điện Biên Phủ ở xa hậu cứ Việt Minh 300–400 km, qua rừng rậm, núi cao, QĐNDVN không thể tiếp tế nổi lương thực, đạn dược cho 4 đại đoàn được, giỏi lắm chỉ một tuần lễ là QĐNDVN sẽ phải rút lui vì cạn tiếp tế. Trái lại quân Pháp sẽ được tiếp tế bằng máy bay, trừ khi sân bay bị phá hủy do đại bác của QĐNDVN. Navarre cho rằng trường hợp này khó có thể xảy ra vì sân bay ở quá tầm trọng pháo 105 ly của QĐNDVN, và dù QĐNDVN mang được pháo tới gần thì tức khắc sẽ bị máy bay và trọng pháo Pháp hủy diệt ngay.

      Vì các lý do trên, khi thiết lập tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, các tướng lĩnh Pháp và Mỹ đã đánh giá sai khả năng của đối phương và đều tự tin cho rằng Điện Biên Phủ là "pháo đài bất khả chiến bại", là "cái bẫy để nghiền nát chủ lực Việt Minh". Nếu QĐNDVN tấn công sẽ chỉ chuốc lấy thảm bại.

     Tướng Cogny đã trả lời phỏng vấn rằng: "Chúng ta đã có một hỏa lực mạnh đủ sức quét sạch đối phương đông gấp 4-6 lần… Tôi sẽ làm tất cả để bắt tướng Giáp phải "ăn bụi" và chừa cái thói muốn đóng vai một nhà chiến lược lớn". Tướng Navarre nhận xét: "Làm cho Việt Minh tiến xuống khu lòng chảo! Đó là mơ ước của đại tá Castries và toàn ban tham mưu. Họ mà xuống là chết với chúng ta... Và cuối cùng, chúng ta có được cái mà chúng ta đang cần: đó là mục tiêu, một mục tiêu tập trung mà chúng ta có thể " quất cho tơi bời". Charles Piroth, chỉ huy pháo binh thì tự đắc: "Trọng pháo thì ở đây tôi đã có đủ rồi… Nếu tôi được biết trước 30 phút, tôi sẽ phản pháo rất kết quả. Việt Minh không thể nào đưa được pháo đến tận đây; nếu họ đến, chúng tôi sẽ đè bẹp ngay... và ngay cả khi họ tìm được cách đến, tiếp tục bắn, họ cũng không có khả năng tiếp tế đầy đủ đạn dược để gây khó khăn thật sự cho chúng tôi!" Pierre Schoenderffer, phóng viên mặt trận của Pháp, nhớ rõ câu trả lời của Piroth: "Thưa tướng quân, không có khẩu đại bác nào của Việt Minh bắn được 3 phát mà không bị pháo binh của chúng ta tiêu diệt!".
       Bộ Tổng Tham mưu Quân đội Nhân dân Việt Nam làm việc với Tổng cục Cung cấp tính toán bước đầu, phải huy động cho chiến dịch 4.200 tấn gạo (chưa kể gạo cho dân công), 100 tấn rau, 100 tấn thịt, 80 tấn muối, 12 tấn đường. Tất cả đều phải vận chuyển qua chặng đường dài 500 km phần lớn là đèo dốc hiểm trở, máy bay Pháp thường xuyên đánh phá. Theo kinh nghiệm vận tải đã tổng kết ở chiến dịch Tây Bắc (năm 1952), để có 1 kg gạo đến đích phải có 24 kg ăn dọc đường. Vậy nếu cũng vận chuyển hoàn toàn bằng dân công gánh bộ, muốn có số gạo trên phải huy động từ hậu phương hơn 60 vạn tấn, và phải huy động gần 2 triệu dân công để gánh. Cả hai con số này đều cao gấp nhiều lần so với kế hoạch dự kiến ban đầu.
      Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Bộ Chính trị và Tổng Quân ủy đã đề ra những giải pháp quyết đoán. Một mặt động viên nhân dân Tây Bắc ra sức tiết kiệm để đóng góp tại chỗ, mặt khác đẩy mạnh làm đường, sửa đường, huy động tối đa các phương tiện vận chuyển thô sơ như ngựa thồ, xe đạp thồ, thuyền mảng... nhằm giảm đến mức tối đa lượng lương thực thực phẩm tiêu thụ dọc đường do phải đưa từ xa tới.

      Henri Eugène Navarre (31/7/1898-26/9/1983) là một tướng quân đội Pháp từng tham gia chiến đấu trong Chiến tranh thế giới I, Chiến tranh thế giới II và là Tổng chỉ huy quân đội Pháp tại chiến trường Điện Biên Phủ.
 
                                  
Báo chí nước ngoài từng ca ngợi Navarre như một danh tướng có thể “uốn nắn lại tình hình Đông Dương…”
 
       Henri Navarre sinh trưởng trong một gia đình nhiều đời làm Chưởng lý quan tòa và luật sư vùng Normandie, Pháp. Khi tham gia quân đội Pháp Navarre từng phục vụ ở Đội kỵ binh Saint Germain số 16, chỉ huy đội kỵ binh Maroc số 3. Trong Thế chiến lần thứ II, Navarre chỉ huy sư đoàn Constantine ở Algeria (Bắc Phi). Khi sang làm Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương, Navarre là tướng 4 sao, Tổng tham mưu trưởng lục quân khối Bắc Đại Tây Dương (NATO). Báo chí nước ngoài từng ca ngợi Navarre như một danh tướng có thể “uốn nắn lại tình hình Đông Dương…”
        Ngày 07/5/1953, Tướng Henri Navarre được cử sang làm Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở Đông Dương. Trong lúc quân đội Pháp ngày càng lún sâu và bế tắc và thất bại ở Tây Bắc và Thượng Lào (1952, 1953), khi nhận chức, vị tướng quân đội Pháp đã tuyên bố đầy tự tin: “Bây giờ chúng ta có thể nhìn thấy rõ chiến thắng (ở Việt Nam) giống như nhìn thấy ánh sáng cuối đường hầm”.
      Navarre quyết định chọn Điện Biên Phủ là căn cứ điểm phòng ngự chiến lược, mạnh nhất Đông Dương khi đó, với ý đồ chặn đường tiếp tế của Việt Minh đi qua Lào đồng thời thực hiện chiến lược tập trung dồn lực lượng theo kiểu “con nhím” khiến kẻ thù khi tấn công sẽ bị tiêu hao sinh lực và thất bại. Navarre tính toán rằng để chiếm lại tuyến đường tiếp tế này, Tướng Giáp sẽ phải tiến hành một cuộc tấn công qui mô lớn vào Điện Biên Phủ, tổ chức chiến tranh kiểu truyền thống và khi đó quân đội Pháp sẽ có lợi thế.

      Tổng cộng trong thời gian tiến hành chiến dịch, Việt Minh đã huy động được hơn 26 vạn dân công từ các dân tộc Tây Bắc, Việt Bắc, Liên khu 3, Liên khu 4…, 20.911 xe đạp thồ, 11.800 bè mảng, đóng góp cho chiến dịch 25.000 tấn lương thực. Trừ số tiêu hao dọc đường, số tới được mặt trận để cung cấp cho quân đội là 14.950 tấn gạo, 266 tấn muối, 62 tấn đường, 577 tấn thịt, 565 tấn lương khô. Ngoài ra, từ Thanh Hóa, Hòa Bình, Vĩnh Yên, Phúc Yên, Thái Nguyên, Phú Thọ… cũng đã huy động được hơn 7.000 xe cút kít, 1.800 xe trâu, 325 xe ngựa, hàng chục ngàn xe đạp thồ để phục vụ hậu cần chiến dịch.
Ngoài ra, Pháp cũng đã đánh giá sai khả năng pháo binh của QĐNDVN khi cho rằng đối phương vốn không có xe cơ giới nên không thể mang pháo lớn (lựu pháo 105 mm và pháo phòng không 37 mm) vào Điện Biên Phủ mà chỉ có thể mang loại pháo nhẹ là sơn pháo 75 mm trợ chiến mà thôi. Đối lại, những người lính QĐNDVN đã khôn khéo tháo rời các khẩu pháo rồi dùng sức người để kéo, sau khi đến đích thì ráp lại. Bằng cách đó họ đã đưa được lựu pháo 105 mm lên bố trí trong các hầm pháo có nắp khoét sâu vào các sườn núi, xây dựng thành các trận địa pháo rất nguy hiểm và lợi hại, từ trên cao có khả năng khống chế rất tốt lòng chảo Điện Biên Phủ mà lại rất an toàn trước pháo binh và máy bay đối phương. Với thế trận hỏa lực này, các khẩu pháo của QĐNDVN chỉ cách mục tiêu 5–7 km, chỉ bằng một nửa tầm bắn tối đa để bắn chính xác hơn, ít tốn đạn và sức công phá cao hơn, thực hiện được nguyên tắc "phân tán hỏa khí, tập trung hỏa lực", từ nhiều hướng bắn vào một trung tâm, ngược lại pháo binh Pháp lại bố trí ở trung tâm, phơi mình trên trận địa.

       Mặc dù vậy, việc sử dụng đạn pháo 105mm của QĐNDVN trong chiến dịch rất tiết kiệm. Trước mỗi trận đánh có hiệp đồng binh chủng, số lượng đạn pháo đều phải được duyệt trước. Ngoài ra, các trung đoàn, đại đoàn muốn xin pháo chi viện thì cứ 3 viên phải được phép của Tham mưu trưởng chiến dịch, 5 viên trở lên phải được đích thân Tổng tư lệnh duyệt. Bởi với dự trữ chỉ có hơn 15.000 viên, nếu bắn cấp tập theo kiểu "không tiếc đạn" như Pháp thì các khẩu pháo sẽ hết đạn chỉ sau vài ngày.
       Bên cạnh đó, các chỉ huy pháo binh QĐNDVN còn lập trận địa nghi binh – dùng gỗ thui đen thành khẩu pháo giả, nghếch nòng lên, khi trận địa thật phát hỏa thì chiến sĩ phụ trách nghi binh từ trong công sự, ném bộc phá, tung lên không trung, làm cho 80% bom đạn của Pháp dùng phản pháo đã dồn vào đánh trận địa giả, đồng thời bảo vệ được những trọng pháo quý giá của mình. Suốt chiến dịch, pháo binh QĐNDVN chỉ hỏng một pháo 105mm. Đây là một nguyên nhân làm cho pháo binh Pháp dù có các thiết bị phản pháo hiện đại vẫn bị thất bại. Tướng Võ Nguyên Giáp về sau nhận xét: "Thực tế kinh nghiệm này của chiến dịch Điện Biên Phủ đã trở thành truyền thống chiến đấu dùng thô sơ đánh hiện đại của quân đội ta trong suốt chiều dài chống Mỹ cứu nước.". Còn tướng Paul Ély, Tổng tham mưu trưởng quân đội Pháp khi diễn ra trận Điện Biên Phủ nhận định: "Một lần nữa, kỹ thuật lại bị thua bởi những con người có tâm hồn và một lòng tin."Ngày 14 tháng 1 năm 1954 tại hang Thẩm Púa, tướng Giáp và Bộ chỉ huy chiến dịch phổ biến lệnh tác chiến bí mật với phương án "đánh nhanh thắng nhanh" và ngày nổ súng dự định là 20 tháng 1. Nhiệm vụ thọc sâu giao cho Đại đoàn 308, đại đoàn chủ lực đầu tiên của Bộ. Đại đoàn 308 sẽ đánh vào tập đoàn cứ điểm từ hướng tây, xuyên qua những vị trí nằm trên cánh đồng, thọc thẳng tới sở chỉ huy của de Castries. Các đại đoàn 312, 316 nhận nhiệm vụ, đột kích vào hướng Đông, nơi có những cao điểm trọng yếu. Phương án này đặt kế hoạch tiêu diệt Điện Biên Phủ trong 3 ngày đêm bằng tiến công ồ ạt đồng loạt, thọc sâu,
đã được Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, Quân ủy Trung ương cùng Bộ Tổng tham mưu phê duyệt với sự nhất trí của đoàn cố vấn quân sự trung ương Trung Quốc, bởi đánh sớm khi Pháp chưa tập trung đủ lực lượng và củng cố công sự thì có nhiều khả năng giành chiến thắng.

                                     

                                     Tướng De Castries trong hầm ẩn nấp tại Điện Biên Phủ 
 
         Ngày 7/12/1953, Đại tá Christian de Castries được Cogny và Navarre chỉ định chỉ huy tập đoàn cứ điểm, chuẩn bị đương đầu với một cuộc tiến công. Có người hỏi Navarre vì sao lại trao quyền chỉ huy Điện Biên Phủ đáng lẽ phải là một viên tướng, cho một đại tá? Navarre trả lời: "Cả tôi lẫn Cogny đều không trông lon mà xét người nên cũng chẳng sùng bái gì lắm mấy ngôi sao cấp tướng. Tôi khẳng định: Trong số các chỉ huy được lựa chọn, không ai có thể làm giỏi hơn Castries".
       Tuy nhiên, tài điều quân linh hoạt và sáng suốt của Tướng Giáp trong trận đánh Điện Biên Phủ đã khiến Tướng De Castries phải thốt lên rằng: “Điều làm tôi hết sức ngạc nhiên là không biết Tướng Võ Nguyên Giáp đã tốt nghiệp từ những trường, học viện võ bị cao cấp nào”.
       Trong chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954, ngay sát giờ nổ súng, Tướng Giáp đã hạ lệnh rút hết quân đội, pháo binh ra khỏi vị trí, lùi thời điểm tiến đánh, chuyển từ “đánh nhanh thắng nhanh” sang “đánh chắc, tiến chắc”.
       Đây chính là yếu điểm buộc quân đội Pháp tại Điện Biên Phủ phải đầu hàng vào tháng 5/1954 sau 2 tháng chịu trận. Dù triển khai tới 16.000 binh sĩ nhưng quân đội Pháp vẫn không thể chống đỡ trước các cuộc tấn công dồn dập của Quân đội Nhân dân Việt Nam. Thậm chí, sau nhiều năm chiến đấu tại Việt Nam và nhận được sự hỗ trợ mạnh mẽ từ phía Mỹ, quân đội Pháp vẫn không thể tiếp tục ứng chiến sau thất bại Điện Biên Phủ.
“Ông chỉ huy những chiến dịch tưởng chừng không thể thắng, đưa ra những quyết định mà có lẽ không một vị tướng nào dám thực hiện. Đặc biệt, Tướng Giáp rất giỏi khi tổ chức, bố trí những trận đánh du kích lấy ít địch nhiều”, Tướng De Castries nhận định.

Do một đơn vị trọng pháo QĐNDVN vào trận địa chậm nên ngày nổ súng được quyết định lùi lại thêm 5 ngày đến 17 giờ ngày 25 tháng 1. Sau đó, do tin về ngày nổ súng bị lộ, Pháp biết được, Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định hoãn lại 24 giờ, chuyển sang 26 tháng 1.
       Ngày và đêm 25 tháng 1, tướng Giáp suy nghĩ và quyết định phải cho lui quân do ba khó khăn rõ rệt:
  1. Bộ đội chủ lực cho đến thời điểm đó chưa thành công trong việc đánh các công sự nằm liên hoàn trong một cứ điểm. Ví dụ tại trận Nà Sản bộ đội đã không thành công, và bị thương vong nhiều.
  2. Trận này là một trận đánh hiệp đồng lớn, nhưng pháo binh và bộ binh chưa qua tập luyện, chưa qua diễn tập.
  3. QĐNDVN từ trước chỉ quen tác chiến ban đêm ở những địa hình dễ ẩn náu, chưa có kinh nghiệm tấn công đồn ban ngày trên địa hình bằng phẳng, nhất là với một đối phương có ưu thế tập trung máy bay, pháo binh, xe tăng chi viện.
      Tướng Giáp cho rằng phương án "Đánh nhanh thắng nhanh" mang nhiều tính chủ quan, không đánh giá đúng thực lực hai bên không thể đảm bảo chắc thắng. Ông kiên quyết tổ chức lại trận đánh theo phương án "Đánh chắc, tiến chắc", đánh dài ngày theo kiểu "bóc vỏ" dần tập đoàn cứ điểm.
     Cuộc họp Đảng ủy, Bộ chỉ huy QĐNDVN sáng 26 tháng 1 không đi đến được ý kiến thống nhất tuy không ai tin rằng trận này sẽ chắc thắng. Tuy nhiên, tướng Giáp quyết định hoãn cuộc tấn công chiều hôm đó. Ông kết luận: Để bảo đảm nguyên tắc cao nhất là "đánh chắc thắng", cần chuyển phương châm tiêu diệt địch từ "đánh nhanh thắng nhanh" sang "đánh chắc tiến chắc". Nay quyết định hoãn cuộc tiến công. Ra lệnh cho bộ đội trên toàn tuyến lui về địa điểm tập kết, và kéo pháo ra.
      Trong vòng gần 2 tháng sau đó, pháo được kéo ra, QĐNDVN tiếp tục đánh nghi binh, mở đường rộng hơn, dài hơn chung quanh núi rừng Điện Biên Phủ, rồi lại kéo pháo vào, xây dựng công sự kiên cố hơn, hào được đào sâu hơn, tiếp cận gần hơn căn cứ của quân Pháp, lương thảo, vũ khí từ hậu phương dồn lên cho mặt trận nhiều hơn. Tất cả chuẩn bị cho trận đánh dài ngày, có thể sang đến cả mùa mưa.
        Về chiến thuật tác chiến bộ binh, từ những kinh nghiệm thu được ở Hòa Bình, Nà Sản, Bộ chỉ huy QĐNDVN chủ trương tiêu diệt dần từng trung tâm đề kháng, từng cứ điểm từ ngoài vào trong, thu hẹp phạm vi chiếm đóng cho tới lúc Pháp không còn sức kháng cự. Không sử dụng lối đánh xung phong trực diện mà dùng cách đánh vây lấn, đào hào áp sát cứ điểm địch. Cách đánh này cần một thời gian chuẩn bị và chiến đấu dài ngày, thường gọi là "Đánh chắc Tiến chắc", cũng còn được gọi là "đánh bóc vỏ". Bộ binh được đường hào che chắn và có được vị trí tiến công gần nhất có thể, sẽ hạn chế tối đa thương vong khi tấn công.Sau này, tướng Giáp cho rằng đây là quyết định khó khăn nhất trong đời cầm quân của mình. Việc điều chỉnh phương châm tác chiến này kéo theo việc phải chuẩn bị lại hậu cần cho chiến dịch, nhu cầu hậu cần sẽ tăng lên gấp nhiều lần, diễn ra trong mùa mưa và phải bố trí lại sơ đồ các trận địa pháo, phải kéo pháo ra khỏi các sườn núi rồi kéo lại vào các vị trí mới. QĐNDVN đã quyết tâm thực hiện và đã thực hiện được với một nỗ lực rất lớn.
      Sau này khi tổng kết về chiến thắng của QĐNDVN tại Điện Biên Phủ, các tướng lĩnh và các nhà nghiên cứu của hai bên đều thống nhất được với nhau: một nguyên nhân chính làm nên chiến thắng của QĐNDVN tại trận đánh này là đã huy động được rất lớn nguồn sức người để đảm bảo hậu cần cho chiến dịch, một việc mà Pháp cho rằng không thể giải quyết được. Trong hồi ký Navarre cũng khẳng định: "Nếu tướng Giáp tiến công vào khoảng 25 tháng 1 như ý đồ ban đầu thì chắc chắn ông ta sẽ thất bại. Nhưng không may cho chúng ta, ông ta đã nhận ra điều đó và đây là một trong những lý do khiến ông ta tạm ngưng tiến công.".Phát hiện lực lượng lớn của QĐNDVN đang tiến về lòng chảo Điện Biên, de Castries liên tục tung lực lượng giải tỏa các ngọn đồi. Theo Benard Fall thì từ ngày 6 tháng 12 năm 1953 đến 13 tháng 3 năm 1954, de Castries đã huy động một nửa lực lượng của tập đoàn cứ điểm vào những cuộc hành binh giải tỏa: "Theo những bản kê mới nhất từ Điện Biên Phủ gửi về, thiệt hại của binh đoàn đồn trú từ 20 tháng 11 đến 15 tháng 2 đã lên tổng số 32 sĩ quan, 96 hạ sĩ quan và 836 binh lính, tương đương với 10% số sĩ quan và hạ sĩ quan và 8% binh lính ở thung lũng. Nói cách khác, số tổn thất của người Pháp tương đương với một tiểu đoàn bộ binh nhưng số sĩ quan là của hai tiểu đoàn. Trong tổng số này còn chưa tính đến số thiệt hại của các đơn vị trong cuộc hành binh Pollux".

      Xuất thân là thầy giáo, Đại tướng Võ Nguyên Giáp trở thành chính trị gia, tổng tư lệnh tối cao của Quân đội nhân dân Việt Nam. Đại tướng là biểu tượng của nhiều thế hệ người dân về ý chí kiên cường và niềm tự hào dân tộc.
         Con đường đi tới thành công của đại tướng cũng gắn với những tuyên ngôn bất hủ không chỉ trong lúc điều binh, khiển tướng mà ngay cả khi ông đã về với đời thường, con người ông vẫn toát lên trách nhiệm của một người chỉ huy tài ba.
       Cùng điểm lại một vài câu nói bất hủ của Đại tướng Võ Nguyên Giáp để hiểu hơn về lòng yêu nước, sự nhiệt huyết luôn cháy rực trong con người anh hùng này.
"... Giải phóng dân tộc là nghĩa vụ thiêng liêng nhất của mỗi người Việt Nam yêu nước..."

       Navarre đã viết trong cuốn hồi ký của mình: "Trong thời gian này, đại tá Castries thực hành những trận chiến đấu mạnh mẽ có tính thăm dò xung quanh Điện Biên Phủ. Ở khắp nơi, quân Pháp đều vấp phải những đơn vị bộ đội vững vàng và phòng ngự rất giỏi của địch. Chúng ta bị thiệt hại khá nặng nề. Rõ ràng là vòng vây chung quanh tập đoàn cứ điểm không hề bị rạn nứt" 
       Ngày 11 tháng 3 năm 1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư tới các chiến sĩ: "Các chú sắp ra trận. Nhiệm vụ các chú lần này rất to lớn, khó khăn nhưng rất vinh quang... Bác tin chắc rằng các chú sẽ phát huy thắng lợi vừa qua, quyết tâm vượt mọi khó khăn gian khổ để làm tròn nhiệm vụ vẻ vang sắp tới... Chúc các chú thắng to!"
       Cùng ngày, lệnh động viên toàn thể cán bộ, chiến sĩ mở cuộc tiến công vào tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ đã được gửi tới các đơn vị: "Chiến dịch Điện Biên Phủ sắp bắt đầu! Đây là chiến dịch công kiên quy mô lớn nhất trong lịch sử quân đội ta... Đánh thắng ở Điện Biên Phủ, chúng ta sẽ phá tan kế hoạch Nava, giáng một đòn chí tử vào âm mưu mở rộng chiến tranh của bọn đế quốc Pháp - Mỹ. Chiến dịch thắng lợi sẽ có ảnh hưởng vang dội trong nước và ngoài nước, sẽ là một cống hiến xứng đáng vào phong trào hòa bình thế giới đòi chấm dứt chiến tranh ở Việt - Miên - Lào... Giờ ra trận đã đến! Tất cả các cán bộ và chiến sĩ, tất cả các đơn vị, tất cả các binh chủng hãy dũng cảm tiến lên, thi đua lập công, giật lá cờ "Quyết chiến Quyết thắng" của Hồ Chủ tịch".
      Chiến dịch diễn ra trong 56 ngày đêm nhưng các trận đánh không diễn ra liên tục, vì QĐNDVN có khó khăn trong hậu cần nên không thể tiến công liên tục mà chia thành các đợt tiến công. Sau mỗi đợt lại tổ chức lại quân số, bổ sung hậu cần.

Lúc 17 giờ 05 phút chiều ngày 13 tháng 3 năm 1954, lực lượng QĐNDVN chính thức nổ súng...
Chiến dịch được tiến hành làm ba đợt.

      Đợt 1 từ 13 tháng 3 đến 17 tháng 3, QĐNDVN tiêu diệt phân khu Bắc của tập đoàn cứ điểm.
Các đơn vị được bố trí như sau: Đại đoàn 312 (thiếu trung đoàn 165) tiến công tiêu diệt trung tâm đề kháng Him Lam. Trung đoàn 165 (312) và trung đoàn 88 (đại đoàn 308) tiêu diệt trung tâm đề kháng đồi Độc Lập. Trung đoàn 36 (308) tiêu diệt trung tâm đề kháng Bản Kéo. Trung đoàn 57 (đại đoàn 304) kiềm chế pháo binh đối phương ở Hồng Cúm.
         Để bảo đảm nguyên tắc "trận đầu phải thắng", tham mưu đã bố trí một lực lượng mạnh hơn quân Pháp gấp 3 lần, nếu kể cả lực lượng dự phòng, gấp 5 lần, có kế hoạch phòng pháo, phòng không, chống phản kích, dự kiến các tình huống cơ bản và cách xử lý trong quá trình diễn biến chiến đấu. Công tác kiểm tra được thực hiện tỉ mỉ.
       Chỉ sau năm ngày chiến đấu, cánh cửa phía bắc của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ đã mở toang. Lực lượng phản kích Pháp không thể giành lại những vị trí đã mất, đặc biệt chỗ dựa của tập đoàn cứ điểm là sân bay đã bị uy hiếp nghiêm trọng. Ngày 20/3/1954, Tổng tham mưu trưởng Pháp - Ely, được phái sang Mỹ cầu viện. Ely phát biểu công khai: "Pháp không thể thắng được với phương tiện hiện có trong tay" và yêu cầu Mỹ tăng cường giúp đỡ vũ khí, đặc biệt là máy bay ném bom B-26, và nếu cần thì can thiệp bằng không quân.
       Mới chưa hết ba ngày chiến đấu, quân Pháp ở Điện Biên Phủ đã tiêu thụ một số lượng đạn dược khổng lồ: 12.600 viên đại bác 105 ly, 10.000 viên đạn cối 120 ly, 3.000 viên đạn trọng pháo 155 ly, chiếm gần nửa số lượng dự trữ. 11 khẩu súng cối 120 ly bị phá hủy hoàn toàn, và 4 khẩu đại bác 105, 155 ly hỏng cần được thay thế. Nhưng con nhím Điện Biên Phủ lúc này không chỉ cần có đạn dược và lương thực. Pháp cần vận chuyển cho binh đoàn đồn trú những thứ tối cần thiết không thể thả bằng dù, và di tản thương binh đã làm cho những căn hầm cứu chữa dưới lòng đất bên bờ sông Nậm Rốm trở nên ngột ngạt. Nhưng do chiến hào của QĐNDVN đã vào gần, đặc biệt là sự tiếp cận của súng máy phòng không, những cuộc hạ cánh ban đêm trở nên hết sức khó khăn. Pháo cao xạ đã trở thành nỗi kinh hoàng đối với những viên phi công Pháp và Mỹ. Các loại máy bay chiến đấu vận tải, kể cả pháo đài bay B-24 Liberator của Hoa Kỳ, liên tiếp bị bắn rơi trên bầu trời Điện Biên Phủ.

                               
            Cột khói bốc lên sau trận đánh mở màn trên đồi Him Lam, ngày 13/3/1954. Ảnh:Tư liệu

      Tổng kết đợt 1, QĐNDVN đã tiêu diệt hoàn toàn 2 tiểu đoàn tinh nhuệ, 1 tiểu đoàn và 3 đại đội quân Quốc gia Việt Nam bị bắt, tổng cộng 2.000 lính đã bị loại khỏi vòng chiến đấu, 12 máy bay bị bắn rơi. Báo cáo kết luận tại Hội nghị sơ kết đợt 1 chiến dịch đã kết luận phải tiếp tục "nắm vững phương châm và chủ trương tác chiến, tích cực hoàn thành nhiệm vụ của giai đoạn 2".

        Chủ trương của Đảng ủy Mặt trận trong đợt 2 là tập trung ưu thế binh hỏa lực đánh chiếm đồng thời các cao điểm phía đông. Trong số này, có 5 cao điểm quan trọng. Đó là các cao điểm E, D1 thuộc trung tâm đề kháng Dominique, và các cao điểm C1, C2, A1 thuộc trung tâm đề kháng Eliane.
      18 giờ ngày 30 tháng 3 năm 1954, đợt tiến công thứ hai vào tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ bắt đầu.
       Tại cao điểm C1 (Eliane 1), QĐNDVN lần đầu mở rào bằng đạn phóng bộc lôi. Sau 5 phút tiểu đoàn 215 của Trung đoàn 98 đã dọn xong cửa mở qua bảy lần rào dây thép gai, sau đó xung phong. Được sự hỗ trợ của pháo binh, trong 10 phút, đại đội 38 đã chiếm được chiếc lô cốt nằm trên mỏm đất cao nhất nhô lên trên đỉnh đồi, được gọi là mỏm Cột Cờ, và cắm lá cờ Quyết chiến Quyết thắng lên nóc sở chỉ huy. Quân Pháp dồn về những lô cốt ở khu vực phía tây, gọi pháo bắn vào trận địa. Các chiến sĩ QĐNDVN xung kích dùng lưỡi lê, lựu đạn lao lên đánh giáp lá cà. Trận đánh diễn ra đúng 45 phút. Toàn bộ một đại đội 140 lính thuộc tiểu đoàn I/4e RTM bị tiêu diệt hoặc bắt sống. Số thương vong của QĐNDVN là 10 người.

        Đồi C2 (Eliane 4) kế tiếp C1 bởi một dải đất hình yên ngựa. 23 giờ, một trung đội của đại đội 35 đột nhập được một đoạn hào của C2, chiếm liên tiếp 11 lô cốt và ụ súng. Tuy nhiên lực lượng phía sau qua nhiều lần xung phong đều bị hỏa lực rất mạnh của Pháp cản lại. Tiểu đoàn 215 quyết định lui về C1 tiếp tục chuẩn bị tạo điều kiện tiến công C2 ban ngày.
      Tại cao điểm D1 (Dominique 2), Trung đoàn 209 sử dụng hai tiểu đoàn 166 và 154, thời gian mở cửa đột phá cũng diễn ra nhanh. Chỉ sau 5 phút, ở hướng chính, tiểu đoàn 166 đã phá xong ba lượt hàng rào và xung phong vào căn cứ, thọc sâu chia cắt đội hình Pháp ra từng mảng để tiêu diệt. Tuy nhiên, ở hướng phụ, giao thông hào đã bị Pháp lấp mất 50 mét, tiểu đoàn 154 tiến vào gặp lầy, mở cửa chậm bị hỏa lực trong đồn khống chế, phải mất gần một giờ mới lọt vào trong đồn. Viên đại úy Garandeau, chỉ huy tiểu đoàn III/3e RTA, bị pháo vùi chết trong hầm của sở chỉ huy. Sau hai giờ chiến đấu, QĐNDVN chiếm toàn bộ đồi D1.

Ngày 27/3/1954: Sân bay Mường Thanh hoàn toàn bị tê liệt

  Bộ đội Việt Nam tấn công những cứ điểm của Pháp tại sân bay Mường Thanh trong chiến dịch Điện Biên Phủ

                                   

           Đại tướng Võ Nguyên Giáp (áo đen) cùng các tướng lĩnh quân đội Việt Nam hoạch định kế hoạch tấn công Điện Biên Phủ tháng 3/1954. Đợt tấn công đầu tiên của bộ đội Việt Nam nhắm vào các điểm chốt Him Lam, Độc Lập và Bản Kéo của quân đội thực dân Pháp diễn ra từ ngày 13/3 đến 17/3.

 

       Tại cao điểm E (Dominique 1), pháo nổ đúng lúc diễn ra cuộc thay quân giữa một đại đội của tiểu đoàn III/3e RTA với đại đội của tiểu đoàn 5e BPVN tới thay thế đang tập trung dọc giao thông hào không có hầm trú ẩn. Toàn bộ quân số của 2 đại đội với đầy đủ trang bị, cùng đại đội súng cối hạng nặng nằm giữa vị trí bị pháo bắn tiêu diệt. Hai mũi tiến công của tiểu đoàn 16 và tiểu đoàn 428 (trung đoàn 141) mở cửa qua hàng rào dây kẽm gai và bãi mìn và chiếm toàn bộ cứ điểm vào lúc 19 giờ 45 phút. Đại đoàn tiếp tục điều tiểu đoàn 130 tiến công sang D2, các đơn vị vừa chiếm được đồi E phát triển vào các ngọn đồi ở phía trong. Cuộc chiến đấu kéo dài cho đến khi trời sáng.
        Tại đồi A1 (Eliane 2), trung đoàn trưởng Nguyễn Hữu An chủ động ra lệnh cho hỏa lực của trung đoàn bắn vào cứ điểm yểm hộ cho xung kích mở cửa trong nửa giờ. Tuy nhiên, pháo binh Pháp lúc này đã kịp phản pháo, bắn dữ dội vào cửa mở. Mất hơn nửa giờ, hai mũi tiến công của các tiểu đoàn 251 và 249 mới vượt qua 100 mét rào và bãi mìn lọt vào đồn. Pháp đã dựa vào địa thế tự nhiên của quả đồi, bố trí công trình phòng thủ thành ba tuyến. Bên ngoài, ở tiền duyên là tuyến chống cự chủ yếu. Tuyến trung gian có đặt trận địa hỏa lực. Trên đỉnh đồi là tuyến cố thủ và sở chỉ huy. Trong cứ điểm có nhiều tuyến chiến hào và giao thông hào liên hoàn. Tất cả các lô cốt và hầm trú ẩn đều có nắp đậy, chịu được đạn súng cối và pháo. Lực lượng QĐNDVN bị tổn thất nhiều khi vượt qua cửa mở.
     Lúc này cuộc chiến đấu trên những cao điểm khác đã kết thúc, Pháp dồn tất cả hỏa lực đại bác và súng cối vào A1 mong cứu vãn tình hình. Các đợt xung phong của tiểu đoàn 255 cũng không vượt qua hàng rào lửa đại bác. Quá nửa đêm, cuộc chiến đấu tại A1 diễn ra giằng co. Mỗi bên giữ được nửa đồi.
        Sở chỉ huy nhận định: Bộ đội đã hoàn thành phần quan trọng nhiệm vụ đợt 2, nhưng vẫn chưa chiếm được cao điểm phòng ngự then chốt A1. Trung đoàn 174 đã sử dụng cả lực lượng dự bị, không còn khả năng giải quyết A1, trung đoàn 98 đánh xuống C2 không thành công, đã bị tiêu hao, cần điều một đơn vị khác tiếp tục hoàn thành nhiệm vụ tiêu diệt A1, và phòng ngự ở C1 ban ngày. Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định: Các đơn vị khẩn trương tổ chức trận địa phòng ngự trên các cao điểm C1, D1, E, chuẩn bị đánh địch phản kích ban ngày, quyết không để địch chiếm lại. Đại đoàn 308 đưa trung đoàn 102 từ phía tây sang phía đông, tiếp tục tiến công tiêu diệt A1 và phòng ngự tại C1.

       Các mỏm đồi có tính sống còn đối với tập đoàn cứ điểm, đặc biệt là các đồi A1 (Eliane 2), C1 (Eliane 1), D1 (Dominique 2). Một mặt, Pháp dựa vào hầm ngầm, lô cốt để cố thủ và đưa quân từ các điểm khác dùng xe tăng và lính dù, lính lê dương (légionnaire) phản kích các cứ điểm này vì có tính sống còn với quân Pháp.

       Ngày 31 tháng 3, Tiểu đoàn 8e BPC lợi dụng màn khói đại bác tiến lên bò lên Dominique 2. Lúc này lực lượng cảnh giới của QĐNDVN đã tử thương khi pháo Pháp bắn phá. Sau 25 phút, Pháp chiếm lại gần hết đồi D1, dồn đại đội phòng ngự vào một góc. Bộ đội Việt Nam dùng lựu đạn, lưỡi lê đánh lui những đợt phản kích của Pháp, quyết tử giữ mảnh đồi còn lại. Tuy đường dây điện thoại đã đứt, nhưng đài quan sát trung đoàn phát hiện kịp thời sự có mặt của quân Pháp trên D1, lập tức dùng pháo bắn chặn và điều lực lượng lên tăng viện. Hai đại đội chi viện đã đảo lộn thế trận. Đại úy Pichelin, chỉ huy đại đội dù xung kích, tử trận. Thấy tình thế bất lợi, Tiểu đoàn trưởng Tourret yêu cầu thiếu tá Bigeard tiếp viện thêm lực lượng. Bigeard đáp: "Tôi không còn gì trong tay. Nếu không giữ được nữa thì biến!" Sau 1 giờ chiến đấu, quân Pháp rút về Mường Thanh. Bigeard đã không chiếm lại được Dominique 2 mà còn phải bỏ luôn cả Dominique 5 (D3) do một đại đội Thái bảo vệ và rút trận địa pháo tại Dominique 5 (210), vì biết những cao điểm này không thể đứng vững nếu đã mất Dominique 2.
      1 giờ 30 chiều cùng ngày, Bigeard trực tiếp chỉ huy hai tiểu đoàn dù 6e BPC và 5e BPVN tiến lên Eliane 1. Đại đội 273 của trung đoàn 102 đã có mặt trên cao điểm từ buổi sáng cùng với bộ phận còn lại của đại đội 35 trung đoàn 98 đánh trả. Lần này Pháp chiếm được điểm cao Cột Cờ, đẩy những chiến sĩ phòng ngự vào thế bất lợi. Pháo binh không thể tiếp tục yểm hộ vì không phân biệt được vị trí 2 bên. Các chiến sĩ đã lấy vải dù trắng buộc lên đầu súng làm chuẩn cho pháo binh. Trong lúc pháo nổ dồn dập, trung đoàn đưa một bộ phận tăng viện theo đường hào mới đào phía đồi D, cùng với những người phòng ngự đánh bật quân Pháp khỏi Cột Cờ, khôi phục lại trận địa. 16 giờ, Bigeard buộc phải ra lệnh rút lui, để lại trận địa gần 100 lính Pháp tử trận.
       Những cuộc phản kích của Pháp ngày 31 tháng 3 đã hoàn toàn thất bại. 10 giờ tối, Chỉ huy trưởng Phân khu Trung tâm Langlais gọi điện thoại cho Bigeard, hỏi có thể giữ được những gì còn lại trong đêm nay không! Bigeard trả lời: "Thưa Đại tá, chừng nào còn một người sống sót, tôi sẽ không bỏ Eliane (A1)". A1 đã trở thành "thành luỹ cuối cùng" (dernier rempart) của tập đoàn cứ điểm.
Để chống lại các cứ điểm phòng ngự kiên cố của quân Pháp, phía QĐNDVN đã áp dụng chiến thuật "vây lấn" rất có hiệu quả bằng việc đào các giao thông hào dần dần bao vây và siết chặt, tiếp cận dần vào các vị trí của Pháp.
        Những tuyến chiến hào dài khoảng hơn 100 km và việc đào công sự được thực hiện liên tục thường xuyên. Dựa trên những yêu cầu về chiến thuật, QĐNDVN đã xây dựng hai loại đường hào: đường hào trục dùng cho việc cơ động pháo, vận chuyển thương binh, điều động bộ đội với số lượng lớn và đường hào tiếp cận địch của bộ binh.

  • Loại đường hào thứ nhất chạy một vòng rộng bao quanh toàn bộ trận địa địch ở phân khu trung tâm.
  • Loại đường hào thứ hai chạy từ những vị trí trú quân của đơn vị trong rừng đổ ra cánh đồng cắt ngang đường hào trục, tiến vào vị trí sẽ tiêu diệt.

      Để chống lại các cứ điểm phòng ngự kiên cố của quân Pháp, phía QĐNDVN đã áp dụng chiến thuật "vây lấn" rất có hiệu quả bằng việc đào các giao thông hào dần dần bao vây và siết chặt, tiếp cận dần vào các vị trí của Pháp.
       Những tuyến chiến hào dài khoảng hơn 100 km và việc đào công sự được thực hiện liên tục thường xuyên. Dựa trên những yêu cầu về chiến thuật, QĐNDVN đã xây dựng hai loại đường hào: đường hào trục dùng cho việc cơ động pháo, vận chuyển thương binh, điều động bộ đội với số lượng lớn và đường hào tiếp cận địch của bộ binh.

  • Loại đường hào thứ nhất chạy một vòng rộng bao quanh toàn bộ trận địa địch ở phân khu trung tâm.
  • Loại đường hào thứ hai chạy từ những vị trí trú quân của đơn vị trong rừng đổ ra cánh đồng cắt ngang đường hào trục, tiến vào vị trí sẽ tiêu diệt.

                                                    Tổng tư lệnh Gilles trong giờ giải lao. Gilles là một viên tướng chỉ huy sắt đá khi đó đã ngoài 50 tuổi, từng được phong tặng huân chương chiến sĩ về nhảy dù ở tuổi 44. Gilles chỉ huy hàng ngàn tay lính ở khu vực Đông Dương và là một sĩ quan cao cấp trong chiến dịch Điện Biên Phủ.

Tổng tư lệnh Gilles trong giờ giải lao. Gilles là một viên tướng chỉ huy sắt đá khi đó đã ngoài 50 tuổi, từng được phong tặng huân chương chiến sĩ về nhảy dù ở tuổi 44. Gilles chỉ huy hàng ngàn tay lính ở khu vực Đông Dương và là một sĩ quan cao cấp trong chiến dịch Điện Biên Phủ.

                                     

                                                             Khu vực phía bắc đồi A1.

                                 
                                                    Các tay lính nhảy dù của quân đội Pháp. 
                                 
                                                      Những viên lính nhảy dù  thành công.
                    Khu vực bãi nhảy dù của sĩ quan Natasha.
Những người Thái được yêu cầu thu gấp dù cho binh lính Pháp.
Đào hào.
Trung sĩ cấp cao Alibert (đứng) và Hạ sĩ Durrafour (ngồi).
Khu vực chiếm đóng phía sông Nậm Rốn.
Khu vực đặt bom tự động. 
                
Các sĩ quan Pháp trong giờ nghỉ, Hạ sĩ Andreucci (trái) và Hạ sĩ Missy (ngoài cùng).
Tướng Gilles.
Khu vực không quân đầu tiên tại Điện Biên Phủ.
                       Lính lê dương tham chiến. Người đứng ngoài cùng bên phải là viên sĩ quan Sergeant Boutin.
Lính lê dương tham chiến. Người đứng ngoài cùng bên phải là viên sĩ quan Sergeant Boutin.
            
Nữ sĩ quan hiếm hoi của quân đội Pháp Brigitte Friand.
Lính Pháp nhảy dù trong trận Điện Biên Phủ.
               
Lính Pháp sử dụng xe tăng M24 Chaffee của Mỹ trong chiến dịch Điện Biên Phủ.
Quân đội Pháp chiến đấu trong giao thông hào.
                     
Pháp sử dụng một lượng nhỏ xe tăng M24 Chaffee của Mỹ nhằm đẩy nhanh cuộc tấn công
                                             
Thiếu tướng Văn Tiến Dũng tại hội nghị Trung Giã, tháng 7-1954. Trung Giã là một địa điểm cách Hà Nội 40 km về phía Bắc, trên quốc lộ 3 từ Hà Nội đi Thái Nguyên. Tại đây, vào ngày 10-7-1954 đã diễn ra hội nghị quân sự Việt-Pháp thảo luận các vấn đề trong đó có quy trình Pháp rút khỏi Hà Nội. (nguồn manhhai).
                                    
Lính gác của Việt Minh (phải) và lính Pháp (trái) tại Hội nghị Trung Giã. (nguồn.manhhai).
                 
Xe jeep của phía Pháp bị quân đội Việt Minh bắt giữ, tháng 7-1954 (nguồn.manhhai).

                                

                                

                                

           
Hình ảnh được một nhiếp ảnh gia người Liên Xô chụp khi trận chiến kết thúc.

                                                                     Những tấm ảnh màu hiếm hoi về trận chiến tại Điện Biên Phủ

       Quân Pháp sống trong những điều kiện cực kỳ khủng khiếp. Trên diện tích 1 km vuông, một khoảng rộng bên bờ sông phải dành cho bệnh viện và cái "hố chung". Nếu tập đoàn cứ điểm không ngừng thu hẹp thì khu vực dành cho thương binh và người chết cũng không ngừng phát triển. Công binh Pháp ra sức đào thêm những nhánh hào mới để mở rộng bệnh viện nhưng vẫn không đủ chỗ cho thương binh. Nhiều thương binh phải nằm ngay tại cứ điểm. Chiếc máy xúc duy nhất còn lại chỉ chuyên vào việc đào hố chôn người chết. Danh mục đồ tiếp tế cho Điện Biên Phủ có thêm một yêu cầu khẩn cấp, đó là thuốc sát trùng và thuốc diệt côn trùng DDT. Ruồi nhặng kéo tới đẻ trứng trên những vết thương. Thương binh nặng nằm trên những chiếc giường ba tầng, sáu người trong một căn hầm nhỏ. Nhiều người bị thương sọ não và mắc chứng hoại thư. Máu mủ của những người nằm bên trên nhảy xuống những người nằm bên dưới. Những cẳng tay, cẳng chân, những ống tiêm chôn ngay trong đường hầm, khi trời mưa, nước bên ngoài chảy vào, tất cả lại lềnh bềnh nổi lên. Phần lớn những bộ phận lọc nước đã bị hỏng. Những viên chỉ huy ra lệnh cho binh lính đào giếng nhưng chỉ thấy một thứ nước váng dầu đục ngầu. Rời công sự đi lượm dù hoặc lấy nước là làm mồi cho lính bắn tỉa, khó trở về an toàn. Điện Biên Phủ khẩn thiết yêu cầu gửi thật nhiều ống nhòm ngầm (kính tiềm vọng) vì nhô đầu lên khỏi chiến hào để quan sát đã trở thành mạo hiểm.
       Một trung đoàn QĐNDVN trong một tuần đã thu được 776 dù với đủ cả đạn, gạo, đồ hộp, sữa, dầu hỏa... Số hàng này Pháp đã phải dùng khoảng 30 chuyến Đakôta để chuyên chở lên đây. Đại đoàn 304 thu được 600 viên đạn pháo 105 ly, 3.000 viên đạn cối 120 ly và 81 ly, hàng tấn đạn các cỡ khác, hàng chục tấn lương thực, thuốc men. Tổng số đạn pháo thu được là hơn 5.500 viên, tương đương 1/3 kho đạn của QĐNDVN, đã bổ sung đáng kể tình trạng thiếu đạn vào cuối chiến dịch.
      Cuốn "Nhật ký chiến sự" của Jean Pouget ghi nhận: "Có tới 50% kiện hàng rơi ngoài bãi thả. Ngày 1-4, hơn một nửa số hàng thả rơi ngoài vị trí. Ngày 6-4, hơn mười khẩu pháo không giật 75mm thả xuống Điện Biên, lính Pháp chỉ thu được hai khẩu, số còn lại coi như làm quà cho Việt Minh. Ngày 9-4, trong tổng số 195 tấn hàng tiếp tế đã thả chỉ thu được... 6 tấn. Ngày 13-4, máy bay C-119 của Mỹ đã "trút toàn bộ số đạn pháo 105mm xuống trận địa Việt Minh, coi như tiếp tế đạn cho đối phương!". Ngày 18-4, hơn 30 tấn hàng "rơi lạc" sang trận địa Việt Minh. Ngày 27-4, có tới 70% số dù hàng rơi lạc mục tiêu. Ngày 5-5, hầu hết số hàng do C-119 thả xuống đều rơi xuống trận địa Việt Minh"
      Để động viên tinh thần cho lính Pháp ở Điện Biên Phủ, tháng 4 năm 1954, chính phủ Pháp đã thăng quân hàm trước thời hạn cho de Castries, từ Đại tá lên Chuẩn tướng (nhiều tài liệu tiếng Việt ghi là Thiếu tướng). Ngày 15 tháng 4, lúc 16 giờ, một chiếc C-119 bay đến lượn mấy vòng rồi thả xuống một loạt dù, trong đó có một chiếc dù đỏ rơi gần trận địa QĐNDVN. Nó được đưa về trụ sở trung đoàn. Trong hòm toàn những gói quà gồm thuốc lá, rượu, xúc xích, áo may ô, lưỡi dao cạo râu, và một lá thư màu hồng của vợ Castries gửi cho chồng nhân dịp được thăng lên tướng. Số hàng này được giữ lại và trao cho de Castries 1 tháng sau, khi ông ta đã trở thành tù binh.
        Cuộc chiến đấu tại Điện Biên Phủ càng ngày càng yếu thế cho phía Pháp. Tình cảnh của quân Pháp ngày càng bi đát và đi đến cùng cực. Điện Biên Phủ cho thấy khi bị bao vây cô lập thì một tiền đồn dù mạnh đến đâu rồi cũng sẽ bị tiêu diệt.
       Ngày 20-3, tướng Ely, tổng tham mưu trưởng Pháp bay sang Washington nhờ Mỹ chi viện. Tổng thống Hoa Kỳ Eisenhower đã mắc nợ với cử tri Mỹ lời 1 hứa khi tranh cử là sẽ tạo một không khí hòa dịu trong tình hình quốc tế đang bị đầu độc vì chiến tranh Lạnh giữa Tây và Đông. Nhưng ông ta không thể giữ thái độ thờ ơ trước lời kêu cứu của nhà cầm quyền Pháp. Trong hồi ký "Không có thêm những Việt Nam mới" (No more Vietnams), Tổng thống Nixon viết: "Đô đốc Radford, chủ tịch Hội đồng Tham mưu trương liên quân, đề nghị chúng ta dùng 60 máy bay ném bom B-29 ở Philippines mở các cuộc đột kích vào ban đêm để tiêu diệt các vị trí của Việt Minh. Và đặt ra kế hoạch mang tên "Cuộc hành binh Chim kền kền" (Opération Vautour) nhằm đạt cùng mục tiêu với ba quả bom nguyên tử chiến thuật nhỏ".
        Những phe phái "diều hâu" ở Washington cũng xúc tiến kế hoạch. Ngày 3 tháng 4 năm 1954, Ngoại trưởng Mỹ John Dulles và đô đốc Arthur Radford họp với 8 nghị sĩ có thế lực trong Quốc hội, thuộc hai đảng Dân chủ và Cộng hòa, phổ biến ý định của Tổng thống muốn có một nghị quyết cho phép sử dụng lực lượng không quân và hải quân Mỹ ở Đông Dương. Dulles nhấn mạnh Đông Dương sụp đổ có thể dẫn tới mất toàn bộ Đông Nam Á, Hoa Kỳ cuối cùng sẽ bị đẩy về quần đảo Hawaii. Nếu Mỹ không giúp Pháp thì hậu quả sẽ là Pháp phải từ bỏ chiến tranh Đông Dương.

    Ngày 9 tháng 4, tại Washington, Eisenhower họp với Radford, các tham mưu trưởng ba quân chủng và nhiều sĩ quan cao cấp khác xem xét lần cuối mọi mặt tình hình. Rát pho là người duy nhất ủng hộ một cuộc can thiệp của Mỹ dù là đơn phương để tránh sự thất trận ở Điện Biên Phủ. Các Tham mưu trưởng Hải quân, Không quân tỏ vẻ không mặn mà. Riêng Tham mưu trưởng Lục quân Matthew Ridgway phản đối quyết liệt. Ridgway viện dẫn sự thất bại thảm hại từ cuộc hành binh "Bóp nghẹt" (Strangle) của Mỹ ở Triều Tiên, nhằm tiêu diệt con đường tiếp tế, để chứng minh sự hạn chế của những hành động bằng không quân trong loại chiến tranh này. Ridgway cho rằng những cuộc ném bom sẽ dẫn Hoa Kỳ vào một cuộc chiến tranh mới bằng bộ binh tốn kém với lối thoát không rõ ràng ở lục địa châu Á.
     Ý kiến của Ridgway được nhiều người tán đồng và kế hoạch Chim kền kền bị đình chỉ. Nhưng mười năm sau, cũng tại Việt Nam, nhà cầm quyền Mỹ đã quên những kinh nghiệm này.
       Đợt 3 từ 1 tháng 5 đến 7 tháng 5, QĐNDVN đánh dứt điểm dẫy đồi phía đông và tổng tiến công tiêu diệt các vị trí còn lại. Sau khi lực lượng của Pháp đã trở nên tuyệt vọng, suy kiệt, bổ sung bằng dù không còn đủ để duy trì sức chiến đấu, và quân Pháp ở Bắc Bộ cũng đã hết lính dù và lính lê dương (légionnaire) có thể ném tiếp xuống Điện Biên Phủ, QĐNDVN tổ chức đợt đánh dứt điểm các quả đồi phía đông.
      Để chống lại hệ thống hầm ngầm cố thủ không thể xung phong đánh chiếm được trên đồi A1 có vị trí quyết định, công binh Việt Nam đào đường hầm từ trận địa tại A1 tới dưới hầm ngầm, đưa bộc phá với số lượng lớn vào đặt rồi cho nổ. Một đội đặc biệt gồm 25 cán bộ, chiến sĩ do Nguyễn Phú Xuyên Khung, cán bộ công binh của Bộ, trực tiếp chỉ huy, đã tiến hành công việc ngay trước mũi súng quân Pháp, trong tầm kiểm soát của lựu đạn, khắc phục thêm khó khăn: thiếu không khí, đèn, đuốc mang vào hầm đều bị tắt, số đất moi từ lòng núi ra ngày càng nhiều không được để cho quân Pháp phát hiện. Các chiến sĩ phòng ngự tại A1 đã có kế hoạch chiến đấu không cho quân Pháp tiến xuống cửa hầm, dù phải hy sinh tới người cuối cùng, để bảo vệ bí mật tuyệt đối ý đồ đào hầm. 
      Tại phía đông, trung đoàn 98 tiến công cứ điểm C1 lần thứ hai. Thiếu tá Jean Bréchignac, vẫn đặt sở chỉ huy trên Eliane 4, đã linh cảm trận đánh Eliane 1 sắp nổ ra. Ngày 1 tháng 5, Bréchignac quyết định đưa đại đội 3 của tiểu đoàn dù tiêm kích số 2 lên thay thế cho đại đội Clédic đã bị tiêu hao, đồng thời ra lệnh cho đại đội 1 sẵn sàng tham gia phản kích.
      Ngày 1-5, Đại đội 811 của QĐNDVN đã có 20 ngày đêm phòng ngự tại C1, được lệnh rời khỏi trận địa 200 mét cho hỏa pháo chuẩn bị. Sơn pháo đặt trên đồi D1 nhắm từng hỏa điểm trên C1 bắn phá. Dứt tiếng pháo, tổ bộc phá lập tức mở những hàng rào cự mã ngăn cách, đưa bộ đội xông lên phía Cột Cờ. Chỉ sau năm phút, QĐNDVN đã chiếm được Cột Cờ. Lực lượng dù xung kích của Pháp mới lên tiếp viện bắn xối xả vào khu vực Cột Cờ. Tuy nhiên, Đại đội 1480 từ phía dưới tiến lên đã kịp thời có mặt, cùng với 811 hình thành hai mũi tiến công chia cắt quân Pháp để tiêu diệt.
      Nửa đêm, toàn bộ quân Pháp bị tiêu diệt. Dây thép gai và mìn lấy từ trận địa lập tức được trải ra sườn đồi thành một bãi chướng ngại dày đặc, đề phòng quân Pháp phản kích. Sau hơn 30 ngày đêm liên tục chiến đấu, trận đánh tại C1 lúc này đã kết thúc.
      Ở phía đông sông Nậm Rốm, hai tiểu đoàn 166 và 154 của trung đoàn 209 tiến công các cứ điểm 505 và 505A (Dominique 3). Một đại đội của tiểu đoàn6e BPCvà những đơn vị lính Algérie, lính Thái tại đây, do tiểu đoàn trưởng Chenel chỉ huy, chống cự khá quyết liệt. 2 giờ sáng ngày 2 tháng 5, trung đoàn 209 tiêu diệt hoàn toàn hai cứ điểm này, chấm dứt sự tồn tại của trung tâm đề kháng Dominique.
     Trên cánh đồng phía tây, trận đánh tiêu diệt cứ điểm 811A (Huguette 5) của trung đoàn 88 diễn ra rất nhanh chóng. Với những đường hào đã đào xuyên qua hàng rào cứ điểm, bộ đội bất thần tổ chức xung phong. Toàn bộ đại đội Âu Phi vừa tới thay quân để tăng cường phòng thủ cứ điểm này, bị diệt gọn trong vòng không đầy 80 phút.
      Như vậy, ngay trong đêm đầu của đợt tiến cống thứ ba, Pháp đã mất thêm bốn cứ điểm: C1, 505, 505A ở phía đông, và 311A ở phía tây.
       Đêm ngày 4 tháng 5, trên cánh đồng phía tây, sau khi tiêu diệt 311A, đại đoàn 308 tiếp tục đánh 311B '(Huguette 4)' ở phía trong. Trung đoàn 36 tiêu diệt 1 đại đội gồm lính lê dương và lính Maroc, đưa trận địa tới gần trung tâm đề kháng Lili (Lilie, từ Claudine mới tách ra), tấm bình phong cuối cùng che chở cho sở chỉ huy Đờ Cát ở hướng này. Buổi sáng, Pháp phản kích định chiếm lại nhưng thất bại.
       Cũng trong ngày 5 tháng 5, trung đoàn 174 báo cáo đường hầm ở A1 đã hoàn thành. Trong đêm, một tấn bộc phá chia thành những gói hai mươi kg, được đưa vào đặt dưới hầm ngầm Pháp. Sáng ngày 6 tháng 5 năm 1954, tiểu đoàn 255 của 174 phòng ngự suốt 34 ngày đêm trên đồi A1 được lệnh rút qua Đồi Cháy làm lực lượng dự bị. Tiếng nổ của khối bộc phá trên đồi A1 được chọn làm hiệu lệnh xung phong cho đợt tiến công tối hôm đó.
       Trước giờ G năm phút, các chiến sĩ ở chiến hào xuất phát xung phong được lệnh quay lưng về A1, nhắm mắt, há mồm đề phòng sóng xung kích và ánh chớp của ngàn cân bộc phá. Đúng 20 giờ 30, một tiếng nổ trầm, trên đồi A1 có một đám khói lớn phụt lên. Khối bộc phá nổ cách hầm ngầm vài chục mét thổi bay chiếc lô cốt bên trên, diệt phần lớn đại đội dù 2 của Trung úy Edme (Étmơ) đóng ở đây. Nguyễn Hữu An lập tức ra lệnh cho pháo của trung đoàn nổ súng. Khối bộc phá một tấn đã tiêu diệt một phần tuyến ngang gây khó khăn cho các đơn vị đánh A1 trong đợt trước, tạo nên một cửa mở quan trọng giúp cho hai đại đội của tiểu đoàn 249 xung phong thuận lợi. Trên đỉnh đồi, lính dù dựa vào chiến hào và công sự đã được củng cố trong thời gian qua ra sức chống đỡ chờ quân viện. Quá nửa đêm, trung đoàn trưởng Nguyễn Hữu An quyết định đưa đại đội dự bị của tiểu đoàn 249 vào giải quyết trận đánh. Bộ đội chia thành từng tổ nhỏ tiêu diệt dần dần từng ụ đề kháng của quân Pháp.
      4 giờ sáng ngày 7 tháng 5 năm 1954, Đại úy Jean Pouget chỉ còn lại 34 lính dù. Quân dù đã sử dụng đến những viên đạn, quả lựu đạn cuối cùng. Pouget bị thương nặng và bị bắt. Sáng ngày 7 tháng 5 năm 1954, lá cờ "Quyết chiến Quyết thắng" tung bay trên cao điểm A1 báo hiệu giờ tàn của tập đoàn cứ điểm.
      Lính Pháp phản kích cứ điểm Độc Lập, bị bộ đội đánh trả quyết liệt phải tháo chạy
       Đến sáng ngày 7 tháng 5, QĐNDVN đã tiến công tiêu diệt cứ điểm C2, 506, 507, 310F. Các quả đồi phía đông này đã thất thủ hoàn toàn mà phía Pháp không còn lực lượng khả dĩ chiếm lại. Tại Mường Thanh, 12 giờ, Langlais triệu tập cuộc họp các chỉ huy tiểu đoàn. Lần này vắng mặt những người chỉ huy dù. Theo kế hoạch Albatross, quân Pháp sẽ mở cuộc phá vây vào 20 giờ ngày hôm nay, mồng 7 tháng 5. Nhưng con đường cách đây ba ngày còn để ngỏ phía nam Junon, đã bị ba đường hào cắt ngang. Chỉ huy các tiểu đoàn lần lượt báo cáo đơn vị mình không ở trong trạng thái thực hiện một cuộc phá vây mà họ tin là khó sống sót. Những người dự họp đều nhận thấy: dù có hy sinh phần lớn quân rút chạy, cũng khó giúp cho một nhóm người thoát khỏi thung lũng. Cuộc tiến công của những người lính kiệt sức nhắm vào những vị trí được đối phương bảo vệ vững chắc, sẽ là một hành động tự sát.
       Đúng 3 giờ chiều, các đại đoàn được lệnh: "Không cần đợi trời tối, lập tức mở cuộc tổng công kích vào Mường Thanh. Đơn vị phía đông đánh thẳng vào khu vực trung tâm, đơn vị phía tây giáp công sang, cùng tiến vào sở chỉ huy của địch. Phải đánh thật mạnh, bao vây thật chặt, không để cho Đờ Cát hoặc bất cứ tên địch nào chạy thoát".
       QĐNDVN tổng tiến công trên khắp các mặt trận. Quân Pháp đã sức tàn lực kiệt, rệu rã kéo cờ quyết định đầu hàng. Đại đội trưởng Tạ Quốc Luật lập tức dẫn đại đội 360 luồn dưới làn đạn của những khẩu trọng liên bốn nòng, băng qua cầu Mường Thanh. Nhận thấy quân Pháp hầu như không chống cự, Tạ Quốc Luật nhảy lên mặt đất, dùng một lính bảo an người Việt dẫn theo đường tắt tiến thật nhanh tới sở chỉ huy của de Castries. Các đài quan sát báo cáo về: "Quân ta từ ba phía đang đánh vào khu trung tâm, 312 từ phía đông tiến qua cầu Mường Thanh, 308 từ phía tây mở đường qua sân bay, và từ phía tây nam mở đường vào Lili, hướng về sở chỉ huy của Đờ Cát. Quân địch chỉ chống cự lẻ tẻ."
       Lúc đó, Đại đội 360 chỉ còn 5 người: Tạ Quốc Luật, Hoàng Đăng Vinh, Bùi Văn Nhỏ, Nguyễn Văn Lam và Đào Văn Hiếu. Khoảng 17 giờ, sau khi dùng thủ pháo tiêu diệt tổ bảo vệ ở phòng ngoài sát cửa ra vào, 5 chiến sĩ vượt qua gian hầm thứ 2, tiến vào gian hầm giữa khá rộng có tướng de Castries và các sĩ quan Pháp đang ở đấy. Tạ Quốc Luật nói bằng tiếng Pháp, đại ý: "Các ông hàng đi. Các ông thua rồi. Các ông phải ra lệnh cho các ổ đề kháng bỏ súng, đầu hàng và điện về Hà Nội không cho máy bay ném bom xuống Điện Biên nữa".

                                  
                                          Bộ đội ta reo mừng chiến thắng bên xác máy bay địch.
                                  
                                        Quân lính Pháp thất trận tại Điện Biên Phủ lũ lượt ra hàng.
                                    
17 giờ 40 phút ngày 7-5-1954, bộ đội ta đã cắm lá cờ “Quyết chiến quyết thắng” trên nóc hầm Tướng De Castries.

     Sau đó, nhóm chiến sĩ dẫn giải tù binh lên khỏi hầm, đi về phía cầu Mường Thanh rồi bàn giao cho Nguyễn Thăng Bình - Trung đoàn Phó Trung đoàn 209 - trực tiếp chỉ huy Tiểu đoàn Tiểu đoàn 130. 5 giờ 30 chiều, đại đoàn 312 báo cáo lên: "Toàn bộ quân địch tại khu trung tâm đã đầu hàng. Đã bắt được tướng Đờ Cát".
      Cụm phân khu Nam Hồng Cúm mưu toan chạy sang Lào nhưng bị các đơn vị QĐNDVN đuổi theo, tất cả đã bị bắt không đi thoát. Gần 12.000 quân Pháp còn lại tại Điện Biên Phủ đều bị bắt làm tù binh.
Dù quân Pháp đã phải gia tăng quân số lên đến 16.000 người, họ đã không thể nào lật ngược thế cờ. Toàn bộ quân Pháp ở Điện Biên Phủ bị tiêu diệt và bị bắt làm tù binh. Thiệt hại về phía Pháp là 1.747 tới 2.293 người chết, 5.240 tới 6.650 người bị thương, 1.729 người mất tích và 11.721 bị bắt làm tù binh. Toàn bộ 17 tiểu đoàn bộ binh và lính dù, 3 tiểu đoàn pháo binh, 10 đại đội Quân đội Quốc gia Việt Nam bị tiêu diệt. Tổng số sĩ quan và hạ sĩ quan bị diệt và bị bắt là 1.706, gồm 1 chuẩn tướng, 16 đại tá và trung tá, 353 sĩ quan từ thiếu úy đến thiếu tá. Thiệt hại về phía Mỹ là 2 phi công chết và 1 bị thương.
      Về không quân, Pháp bị tổn thất 59 phi cơ bị phá hủy (38 chiếc bị bắn rơi, 21 chiếc bị phá hủy khi đậu trên sân bay), trong đó có 3 máy bay khác bị phá hủy trước ngày 13 tháng 3 năm 1954, 2 trực thăng cũng bị phá hủy. Ngoài ra còn có 186 phi cơ khác bị trúng đạn và hư hại ở các mức độ khác nhau. Phía Mỹ có 1 phi cơ C-119 bị bắn rơi. Về trang bị nặng, Pháp mất toàn bộ trang bị vũ khí, xe tăng và pháo binh ở Điện Biên Phủ. Phía QĐNDVN thu giữ 3 xe tăng, 28 đại bác, 5.915 súng các loại, 20.000 lít xăng dầu cùng rất nhiều đạn dược, quân trang quân dụng khác.
       Thiệt hại về phía Quân đội Nhân dân Việt Nam theo hồ sơ quân y của Việt Nam là 4.020 người chết, 9.691 người bị thương, và 792 mất tích. Hiện nay tại Điện Biên Phủ, có 3 nghĩa trang liệt sĩ trận này là nghĩa trang phía gần đồi Độc Lập, nghĩa trang gần đồi Him Lam và nghĩa trang gần đồi A1, lần lượt các nghĩa trang trên có 2.432 ngôi, 896 ngôi và 648 ngôi mộ, tổng cộng là 3.976 ngôi. Do một trận lũ lớn vào năm 1954 cuốn trôi các bia mộ nên 3.972 mộ đều là liệt sĩ vô danh. Chỉ có 4 ngôi được đặt riêng biệt là mộ các anh hùng Bế Văn Đàn, Phan Đình Giót, Tô Vĩnh Diện, Trần Can là còn biết được.
Ngày hôm sau, 8 tháng 5 năm 1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư khen: "Quân ta đã giải phóng Điện Biên Phủ, Bác và Chính phủ thân ái gửi lời ngợi khen cán bộ, chiến sĩ, dân công, thanh niên xung phong và đồng bào đia phương đã làm tròn nhiệm vụ một cách vẻ vang. Thắng lợi tuy lớn nhưng mới là bắt đầu. Chúng ta không nên vì thắng mà kiêu, không nên chủ quan khinh địch. Chúng ta kiên quyết kháng chiến để tranh độc lập, thống nhất, dân chủ, hòa bình. Bất kỳ đấu tranh về quân sự hay ngoại giao cũng đều phải trường kỳ gian khổ mới đi đến thắng lợi hoàn toàn... "
       Sau đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đến gặp và chúc mừng Bộ tổng tham mưu và đại tướng Võ Nguyên Giáp. Tại đây bằng kinh nghiệm chính trị, ông đã nói một câu chúc mừng kèm dự đoán chính xác: "Chúc mừng chú (Võ Nguyên Giáp) thắng trận. Nhưng đừng chủ quan, còn phải đánh với Mỹ nữa. Sớm muộn gì chúng cũng sẽ nhảy vào Đông Dương thế chỗ Pháp" 
       Thế là, sau 55 ngày đêm "khoét núi,ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt. Máu trộn bùn non, gan không núng, chí không mòn...", cứ điểm Điện Biên Phủ đã thất thủ, toàn bộ hơn 16.000 quân Pháp bị tiêu diệt hoặc b Sau này, Bộ trưởng quốc phòng Pháp Marcel Bigeard, nguyên là trung tá phó chỉ huy của tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, sang thăm Việt Nam năm 1993, nhìn lại chiến trường cũ, đã có một câu với một nhà quay phim nước ngoài: "Nếu tôi là người Việt Nam, tôi cũng sẽ trở thành Việt Minh". Còn tướng De Castries, sau khi thất bại trở về Pháp, đã trả lời trước Ủy ban Điều tra của Bộ Quốc phòng Pháp rằng: "Người ta có thể đánh bại một quân đội, chứ không thể đánh bại được một dân tộc".
       Chỉ huy phó của Tập đoàn cứ điểm, đại tá Pierre Langlais cũng viết trong cuốn hồi ký Điện Biên Phủ của ông rằng: "Ở Điện Biên Phủ, nếu người ta muốn nhìn thẳng vào sự thật, thì ắt phải thấy rằng viện trợ cho Việt Minh chỉ là một giọt nước đặt bên cạnh dòng thác vật tư của Mỹ đổ vào cho người Pháp chúng ta". Nhà báo Pháp Giuyn Roa khẳng định: "Không phải viện trợ của Trung Quốc đã đánh bại tướng Navarre mà chính là những chiếc xe đạp Peugeot thồ 200, 300 kg hàng và đẩy bằng sức người, những con người ăn chưa đủ no và ngủ thì nằm ngay dưới đất trải tấm nilông. Cái đã đánh bại tướng Navarre không phải bởi các phương tiện mà là sự thông minh và ý chí của đối phương..."
Trận Điện Biên Phủ được coi là một trong những trận đánh được phân tích tỉ mỉ nhất trong lịch sử. Thắng lợi quyết định của lực lượng Việt Minh dưới quyền Võ Nguyên Giáp trong Chiến dịch ác liệt đánh dấu sự chấm dứt của Chiến tranh Đông Dương, chính trận chiến này đã đưa Việt Nam lên trở thành quốc gia thuộc địa đầu tiên dùng vũ lực buộc quân đội một nước phương Tây rút về nước, giành được độc lập, được xem là một đòn giáng mạnh vào nước Pháp nói riêng và thế giới phương Tây nói chung. (1940-2005) Theo cuốn The French Secret Services của sử gia Douglas Porch, thảm bại Điện Biên Phủ đã "thay đổi diễn tiến lịch sử Pháp" và sánh vai với các thất bại trước kia của Pháp dưới quyền tướng Joseph Joffre (1914) và Maurice Gamelin (1940). Được chiến thắng của người Việt Nam cổ vũ, các khu vực thuộc địa ở châu Phi cũng đồng loạt nổi dậy.
      Điện Biên Phủ là chiến thắng quân sự lớn nhất của Quân đội Nhân dân Việt Nam trong toàn bộ Kháng chiến chống Pháp. Trên phương diện quốc tế trận này có một ý nghĩa rất lớn: lần đầu tiên quân đội của một quốc gia thuộc địa,nghèo nàn và lạc hậu châu Á đánh thắng bằng quân sự một quân đội của một cường quốc hiện đại châu Âu. Trận Điện Biên Phủ đã đánh bại ý chí duy trì Đông Dương là lãnh thổ thuộc Liên hiệp Pháp của Pháp và buộc nước này ra khỏi Đông Dương.  Đại tướng Võ Nguyên Giáp tổng kết:
       "Dân tộc ta có thể tự hào rằng: Dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, chúng ta đã chứng minh một chân lý vĩ đại. Chân lý đó là trong thời đại ngày nay một dân tộc thuộc địa bị áp bức, khi đã biết đứng dậy đoàn kết đấu tranh, kiên quyết chiến đấu cho độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội thì có đầy đủ khả năng để chiến thắng quân đội xâm lược hùng mạnh của một nước đế quốc chủ nghĩa"
       Lúc này phần lớn lãnh thổ Việt Nam trong tay Việt Minh. Các vùng kiểm soát bao gồm hầu hết miền Bắc (trừ Hà Nội, Hải Phòng, Vĩnh Yên, Móng Cái,...) hầu hết Bắc Trung Bộ (trừ duyên hải nhỏ Quảng Bình đến Quảng Nam), hầu hết Trung Trung Bộ (gồm cả Quảng Ngãi, Quy Nhơn,...), Bắc Tây Nguyên, một phần nhỏ Nam Tây Nguyên, một phần cực Nam Trung Bộ và Nam Bộ (trong đó có các địa phương phía nam đồng bằng sông Hồng, bắc Tây Nguyên và một số vùng khác, cùng với một số thị xã nhỏ ở miền bắc có Việt Trì, một số thị xã nam đồng bằng sông Hồng, Công Tum, An Khê...mới giành được). Phần lớn lãnh thổ Lào (vùng núi phía đông), một phần lãnh thổ Campuchia (đông bắc, nhỏ hơn là vùng rừng núi tây và tây nam, một phần đông nam) thuộc phe cách mạng.
      Nhìn vào lịch sử, nước Pháp đã tạo ra nhiều sự kiện chấn động thế giới, cả tự hào lẫn hổ thẹn. Dân tộc Pháp đã để lại trong lịch sử sự oanh liệt, quả cảm bao nhiêu thì tầng lớp thống trị quí tộc - thực dân của nó cũng để lại sự nhục nhã, yếu hèn bấy nhiêu. Biểu hiện nhục nhã nhất của thực dân Pháp là hành động của chúng ở Đông Dương, chủ yếu là ở Việt Nam. Bị phát xít Đức thôn tính dễ dàng tại chính quốc, bị Nhật hất cẳng quá dễ dàng ở thuộc địa, phải xin xỏ, chạy chọt Đồng Minh (Anh - Mỹ) để vào Nam Bộ; ký hiệp ước thua thiệt với Tàu Tưởng để thực ra là xin xỏ vào Bắc Bộ; lật lọng hiệp ước với chính phủ Việt Minh, bước đường cùng lại phải đi xin xỏ Mỹ để rồi vẫn cứ bị Việt Minh đánh tan ở Điện Biên Phủ, đành phải “bán cái” cho Mỹ. Trận Điện Biên Phủ đã là cái mốc đánh dấu sự suy tàn không khắc phục nổi của chủ nghĩa thực dân cũ trên khắp thế giới.
Sau 9 năm kháng chiến trường kỳ, trải qua ba giai đoạn: phòng ngự, cầm cự, phản công, đi hết từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, cuối cùng, quân dân việt nam đã đánh bại quân xâm lược Pháp bằng trận tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ (7-5-1954). Đúng là:
                           “Chín năm làm một Điện Biên
                           Nên vành hoa đỏ, nên thiên sử vàng”
                                                   (Thơ Tố Hữu)
 
      Ngày 20-7-1954, Hội nghị Giơnevơ (Thụy Sĩ) về Đông Dương kết thúc. Bản Tuyên ngôn chính trị của Hội nghị và Hiệp định đình chiến ở Đông Dương được công bố. Hòa bình được lập lại trên cơ sở Pháp và các cường quốc dự Hội nghị (riêng Mỹ đã không chịu ký vào bản Tuyên bố chung) công nhận sự độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam; Lào; Cămpuchia; quân viễn chinh Pháp phải rút khỏi miền Bắc Việt Nam (lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến quân sự tạm thời); công việc nội bộ của Việt Nam, do Việt Nam tự giải quyết (sẽ thực hiện tổng tuyển cử tự do vào tháng 7-1956 để đi tới thống nhất đất nước); đến năm 1956, quân Pháp phải rút hết khỏi Đông Dương.
        Do sức ép của Trung Quốc và Liên Xô với những mưu đồ danh lợi vị kỷ, đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa  thực tâm tin vào tinh thần Quốc Tế Cộng Sản, đã đồng ý với một bản hiệp định mang lại cho họ ít hơn những gì họ đã giành được trên chiến trường. Nghĩa là thành quả đạt được là rất to lớn song chưa toàn vẹn, chưa tương xứng với thắng lợi quân sự mà nhân dân Đông Dương gặt hái được.  Tuy ba nước Lào, Campuchia và Việt Nam được tuyên bố độc lập, và điều quan trọng là sự thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam được công nhận, nhưng Việt Nam bị tạm thời chia đôi thành hai khu vực quân sự để hai bên quân đội, Việt Minh và Pháp, tập kết. Quân Pháp sẽ rút dần khỏi Việt Nam. Cuộc tổng tuyển cử đi đến thống nhất Việt Nam sẽ được thực hiện trong vòng 2 năm.
 
                                  
Năm cửa ô đón mừng đoàn quân tiến về – bộ đội tiếp quản thủ đô Hà Nội tháng 10 năm 1954
                                  
Đại tướng Võ Nguyên Giáp (trái) và cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng ra đón Bác Hồ tại Hà Nội hồi năm 1955. “

Ngày 22-7-1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi: "Đấu tranh để củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập dân chủ cũng là một cuộc đấu tranh lâu dài và gian khổ" và khẳng định: "Trung, Nam, Bắc đều là bờ cõi của nước ta, nước ta nhất định thống nhất, đồng bào cả nước nhất định được giải phóng". Cũng trong ngày này Thủ tướng Quốc gia Việt Nam Ngô Đình Diệm ra lệnh treo cờ rủ toàn Miền Nam từ vĩ tuyến 17 trở vào để bày tỏ quan điểm phản đối sự chia đôi đất nước. Tuy nhiên, trưởng đoàn đại biểu Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã lên tiếng: "Những ai yêu nước Việt Nam, những ai yêu sự thống nhất Việt Nam thì không cần phải khóc hôm nay. Hãy thực hiện tốt những gì đã ký kết hôm nay, thì 2 năm nữa sẽ có một nước Việt Nam thống nhất, độc lập, hoà bình và giàu mạnh. Những gì Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà làm trong những năm qua chính là vì mục đích đó. Nước mắt của chúng tôi đổ ra trong cuộc đấu tranh cho sự nghiệp đó nhiều hơn rất nhiều so với những giọt lệ mà quý vị (Quốc gia Việt Nam) nhỏ ra ở đây". Ngày 20-7-1954, Hội nghị Giơnevơ (Thụy Sĩ) về Đông Dương kết thúc. Bản Tuyên ngôn chính trị của Hội nghị và Hiệp định đình chiến ở Đông Dương được công bố. Hòa bình được lập lại trên cơ sở Pháp và các cường quốc dự Hội nghị (riêng Mỹ đã không chịu ký vào bản Tuyên bố chung) công nhận sự độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam; Lào; Cămpuchia; quân viễn chinh Pháp phải rút khỏi miền Bắc Việt Nam (lấy vĩ tuyến 17 làm giới tuyến quân sự tạm thời); công việc nội bộ của Việt Nam, do Việt Nam tự giải quyết (sẽ thực hiện tổng tuyển cử tự do vào tháng 7-1956 để đi tới thống nhất đất nước); đến năm 1956, quân Pháp phải rút hết khỏi Đông Dương. Hiệp định Giơnevơ là thành quả của cuộc đấu tranh lâu dài, đầy gian khổ nhưng rất vẻ vang của nhân dân Đông Dương, trong đó, cuộc đấu tranh vũ trang chống thực dân Pháp của quân dân Việt Nam mang tính vừa là nền tảng vừa là xung kích và có ý nghĩa quyết định. Dân tộc Việt  có quyền tự hào về tinh thần quốc tế trong sáng của mình và cũng hoàn toàn có quyền tự hào về tinh thần “đem sức ta mà giải phóng cho ta” (lời Hồ Chí Minh).
         Trong cuộc xâm lược của thực dân Pháp này, thương vong của Pháp là 140.992, trong đó có 75.867 chết và mất tích, 65.125 bị thương. Quân bản xứ ở Đông Dương có 419.000 chết, bị thương hoặc bị bắt. Về vũ khí, Pháp mất 435 máy bay, 603 tàu chiến và ca nô, 9.283 xe quân sự, 255 pháo, 504 xe quân sự và 130 nghìn súng các loại. Số thương vong của Việt Minh được Pháp ước tính khoảng 175.000 - 300.000 chết và 300.000 - 500.000 bị thương (hiện vẫn chưa có số liệu kiểm chứng từ phía Việt Nam). Khoảng 125.000–400.000 dân thường thiệt mạng.
Cuộc chiến đã góp phần làm nước Pháp suy sụp và phân hóa. Càng về cuối cuộc chiến, sự phản đối chiến tranh trong lòng nước Pháp ngày càng dữ dội hơn. Đại tướng Pháp Henry Navare viết:

       Chi phí cho cuộc xâm lược của Pháp tăng hàng năm theo cấp số nhân. Năm 1945: 3 tỷ Franc; năm 1946: 27 tỷ Franc; năm 1947: 53 tỷ Franc; năm 1948: 89 tỷ Franc; năm 1949: 130 tỷ Franc; năm 1950: 201 tỷ Franc; năm 1951: 308 tỷ Franc; năm 1952: 535 tỷ Franc. Tổng cộng trong toàn bộ cuộc chiến, nước Pháp đã chi phí 3.370 tỷ Franc (vượt dự kiến 2.385 tỷ Franc), tương đương gần 60 tỷ USD theo thời giá 2008, (trung bình là 1 tỉ Franc/ngày), bằng 28% giá trị GDP của Pháp năm 1953. Chính phủ Pháp thay đổi 20 lần, trung bình mỗi chính phủ chỉ tồn tại 7 tháng (có chính phủ chỉ tồn tại trong 7 ngày). 7 lần cao uỷ Pháp bị triệu hồi, 8 tổng chỉ huy quân đội Pháp kế tiếp nhau bị thua trận.  
16 giờ ngày 9-10-1954, tốp lính Pháp cuối cùng rút khỏi cầu Long Biên sang phía Gia Lâm. Nếu tính từ năm 1873 (Hà Thành thất thủ lần thứ nhất) thì sau đúng 81 năm bị xâm lăng, Hà Nội mới sạch bóng quân xâm lược Pháp. Nhiều phóng viên phương Tây chứng kiến quang cảnh lễ hạ cờ cuối cùng của quân viễn chinh Pháp đã mô tả: “Từng phân đội lính Âu Phi mệt mỏi, ngán ngẩm trong những bộ quần áo ướt sũng nước mưa đứng trước cột cờ sơn trắng. Sau bài kèn, cờ từ từ hạ. Tướng Pháp là Mátxông đỡ lấy lá cờ 3 sắc ướt nhẽo, gập lại, buồn bã bước ra giao cho quan năm Đăcrăngsơ - một sĩ quan chuyên coi đám lính gác thành từ ngày quân Pháp gây chiến tại Hà Nội - nói vài câu với giọng trầm buồn… Khi đội kèn lại nổi lên, với một điệu rầu rĩ rồi kết thúc… thì mặt nhiều sĩ quan của Pháp ướt đẫm những nước… những giọt nước mắt hòa lẫn nước mưa…”
Sáng ngày 10-10-1954, sư đoàn 308 với đầy đủ các đơn vị bộ binh, pháo binh, cao xạ, cơ giới… , đại diện cho quân đội nhân dân Việt Nam, mở cuộc hành quân khải hoàn từ 5 cửa ô tiến vào Hà Nội. Đi đầu đoàn quân ấy là Trung đoàn Thủ Đô, lực lượng đã đánh những trận quyết tử kìm chân Pháp tại Hà Nội trong những ngày đầu Toàn quốc Kháng chiến. Chúng ta có thể chiêm ngưỡng quang cảnh đó trong những câu hát sau đây:
                           “Trùng trùng say trong câu hát
                           Lớp lớp đoàn quân tiến về
                           Chúng ta đi reo vang
                           Lúc quân thù đầu hàng
                           Cờ Hà Nội tung bay trên phố.
                           Trùng trùng quân đi như sóng
                           Lấp lánh lưỡi lê sáng ngời
                           Chúng ta đem vinh quang
                           Sức dân tộc trở về
                           Người Hà Nội tươi vui từ đây.
                           Năm cửa ô đón chào đoàn quân tiến về
                           Như đài hoa đón ngày mở năm cánh đào
                           Nhỏ giọt sương xuống long lanh
                          
                           Trùng trùng…”
Chiều ngày 10-10-1954, vào lúc 15 giờ, hàng vạn nhân dân Hà Nội dự lễ chào cờ Chiến Thắng. Cờ đỏ sao vàng, tượng trưng thiêng liêng của Tổ quốc Việt Nam thống nhất độc lập và tự do phần phật trên đỉnh Cột Cờ như phượng múa, rồng bay giữa bầu trời thu gió lộng.
Tuy nhiên cuộc chiến đấu giành quyền sống cơ bản của Dân tộc Việt vẫn chưa kết thúc. Chỉ mới có một nửa đất nước được hoàn toàn giải phóng, còn nửa kia, phần phía Nam từ vĩ tuyến 17, từ bên kia bờ sông Hiền Lương trở xuống đến Mũi Cà mau còn phải chờ đợi thêm hai năm nữa để thực hiện hiệp thương tổng tuyển cử theo như qui định của Hiệp định Giơnevơ.
Trong khi Việt nam tôn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh Hiệp định, chờ ngày thống nhất, Bắc và Nam xum họp một nhà (ai mà không thấy kết quả tổng tuyển cử tự do nếu xảy ra thì cũng chỉ là thủ tục, hình thức vì ý chí thống nhất của Dân tộc Việt đã quá rõ ràng) thì Đế quốc Mỹ lại ra sức phá bỏ Hiệp định đó, dựng nên chính quyền tay sai ở Miền Nam.
Sống trên một dải đất trù phú chim trời cá nước, rừng vàng biển bạc, nhưng cũng gặp biết bao nhiêu gian lao, tình thế hiểm nghèo, Dân tộc Việt đã được hun đúc nên những đức tính hiếm có: chan hòa, vị tha, thông minh, bất khuất, mã thượng, tin người. Cũng vì mã thượng mà Dân tộc ấy đã thực hiện theo đúng tinh thần của Hiệp định Giơnevơ. Cũng vì tin người mà Dân tộc ấy đã không ngờ lại phải lên đường chiến đấu với kẻ xâm lược mới là Đế quốc Mỹ - cường quốc số một thế giới và không kém phát xít Đức về sự tàn bạo, trong suốt 20 năm ròng rã nữa. Cũng vì thông minh, bất khuất mà Dân tộc ấy đã làm cho cuộc chiến tranh vệ quốc của mình trở thành cuộc kháng chiến thần thánh, được toàn thể nhân loại ngưỡng mộ, cảm phục. Cũng vì chan hòa, vị tha mà sau khi đánh cho “Mỹ cút, ngụy nhào”, Dân tộc ấy lại chủ động bắt tay với chính quyền Mỹ, xóa đi mọi hiềm khích để cùng nhau gác lại quá khứ, hướng tới một tương lai vì lợi ích của hai dân tộc Việt - Mỹ và cũng đồng thời vì lợi ích của cả nhân loại.
Mỹ nhòm ngó Đông Dương từ lúc nào? Không thể biết đích xác được! Vì sao? Vì lịch sử là quan niệm có chứng thực của nhà khảo cổ trước di tích; là sự lược thuật tóm tắt theo quan niệm của người chép sử đương thời; là quan niệm lại, là suy tư lại của các nhà viết sử hậu thế trước lịch sử đã qua cùng với những phát hiện mới. Nói gọn lại, lịch sử là biên niên, lược thuật, đánh giá theo quan niệm của nhà sử học về một hiện thực đã lùi vào quá khứ. Chính vì phụ thuộc vào quan niệm của con người chép sử mà một hiện thực đã qua có nhiều lịch sử về nó và những lịch sử đó thường là không đầy đủ sự kiện, phiến diện và kém xác thực. Tuy nhiên một lịch sử được viết nên từ quan sát, từ suy tư trên quan niệm của Đức Huyền Diệu, nghĩa là lấy tình yêu thương đồng loại, yêu thương cuộc sống làm nền tảng lý luận thì bao giờ cũng có độ tin cậy cao nhất.
                              
              Edward Lansdale (ngày 6 tháng 2 năm 1908 - ngày 23 tháng 2 năm 1987)
                                   
Người biểu tình phản chiến Mỹ với sự châm biếm "Con rối Sài Gòn"
 
Theo biên niên sử thì ngay từ năm 1819, tức là chỉ 36 năm sau khi nước Mỹ giành được độc lập, người ta đã thấy những chiến thuyền Mỹ tới Việt Nam, dò theo sông Đồng Nai lên Sài Gòn. Năm 1832, thuyền buôn Mỹ xuất hiện ở vùng biển Trung Bộ và bỏ neo ở Vũng Lâm, Phú Yên. Năm 1836, chiến thuyền Mỹ xuất hiện và bỏ neo ở Vịnh Sơn Trà, Đà Nẵng. Dù có mon men đến bờ Tây - Thái Bình Dương như thế thì một nước Mỹ tư bản non trẻ cũng không thể chen chân vào được trước những nước tư bản “gạo cội” như Anh, Pháp, Hà Lan, Tây Ban Nha… (đã chiếm những vùng béo bở nhất). Nước Mỹ chỉ còn cách xây dựng thế lực của mình và chờ đợi.
Chiến tranh lần thứ nhất kết thúc đã tạo ra cơ hội bành trướng thế lực cho Mỹ. Sau chiến tranh, các nước tư bản nói chung “nghèo đi” bởi bị tàn phá thì Mỹ lại giàu lên và nhanh chóng trở thành cường quốc tư bản số một. Tại hội nghị “chia phần” của các nước tư bản thắng trận họp ở Pari, tổng thống Mỹ lúc đó là Uynsơn đã tung ra chương trình “14 điểm” nhằm khẳng định vị thế của Mỹ trong các cường quốc tư bản thế giới. Tại Hội nghị ở Oasinhtơn năm 1921, đế quốc Mỹ bắt đầu lớn tiếng mặc cả thị trường đối với các cường quốc tư bản khác, đòi quyền lợi ở vùng Viễn Đông và Tây - Thái Bình Dương. Cũng năm 1921, tại Nữu Ước (Mỹ), đã thành lập Ban nghiên cứu thuộc địa Pháp - Mỹ nhằm tìm cách đầu tư tư bản Mỹ vào các thuộc địa của Pháp. Tại buổi chiêu đãi do Ban này tổ chức, Anbe Xarô, Bộ trưởng Bộ thuộc địa và Quyền trưởng phái đoàn Pháp tại Hội nghị Oasinhtơn đã đọc diễn văn ngỏ ý mời các công ty tư bản Mỹ đầu tư vào Đông Dương. Do có sự phản ứng mạnh của giới kinh doanh Pháp có nhiều quyền lợi ở hải ngoại mà tư bản Mỹ chưa giám đầu tư vốn nhiều vào Đông Dương mà chỉ đứng lại ở quan hệ buôn bán. Nếu như trong những năm 1925 - 1929, hàng nhập khẩu từ Đông Dương chỉ chiếm 2,6% tổng số hàng nhập khẩu vào Mỹ thì đến những năm 1935 - 1939 đã tăng lên đến 6,6% (riêng cao su là 94% , thiếc là 3% trong tổng giá trị hàng mà Mỹ mua của Đông Dương).
Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ lại tạo ra cơ hội mới đầy thuận lợi cho Mỹ dấn sâu vào Đông Dương. Tại Hội nghị Cairô (Ai Cập) năm 1943, tổng thống Mỹ là F. Rudơven đã đề ra ba giải pháp cho Đông Dương khi chiến tranh kết thúc:
1- Trả lại cho Pháp
2- Trao cho Tưởng Giới Thạch như là một món chiến lợi phẩm
3- Cho Đông Dương độc lập nhưng trước đó phải đặt dưới sự công quản quốc tế một thời gian.
Đến tháng 1-1944, Rudơven gạt hai giải pháp đầu, chọn giải pháp thứ ba và xác định rõ Mỹ phải có chân trong ban quản trị quốc tế ấy. Ngày 24-1-1944, trong một ghi chép, Rudơven có viết: “Nước Pháp đã chiếm một nước 30 triệu dân, trong gần 100 năm và nhân dân trở nên tồi tệ hơn lúc họ mới đến… Nước Pháp đã vắt kiệt họ trong 100 năm. Nhân dân Đông Dương có quyền được hưởng những gì tốt đẹp hơn thế”. Tại cuộc họp báo trên tàu Quiney Adamn của Mỹ ngày 23-2-1945, Rudơven tiết lộ rằng Đông Dương sẽ được lãnh đạo bởi một ban quản trị gồm “1 người Pháp, 1 hoặc 2 người Đông Dương, 1 người Trung Quốc, 1 người Nga và vì họ ở trên bờ biển nên cũng có 1 người Mỹ và có thể có 1 người Philippin”
Rudơven có thể là một nhà lãnh đạo lỗi lạc của nước Mỹ, nhưng trong việc đề ra giải pháp giải quyết vấn đề Đông Dương thì vẫn bị cái bản chất kẻ cả, ích kỷ của thực dân - đế quốc làm cho mù quáng, thiển cận. Tại sao không để cho nhân dân Đông Dương tự quyết vận mạng của mình? Tại sao nhân dân Đông Dương lại không được cái quyền cơ bản như nhân dân Mỹ, đã ghi trong hiến pháp Mỹ là “mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc”? Rudơven “chê” thực dân Pháp là vì “thương” nhân dân Đông Dương thực sự như đã nói hay là vì mục đích nào khác? Muốn trả lời những câu hỏi ấy, phải nhìn vào hành động thực tế của Mỹ ở Đông Dương.
Cuối năm 1944, một máy bay Mỹ bay trên bầu trời Cao Bằng bị hỏng máy. Phi công phải nhảy dù vùng núi gần tỉnh lỵ Cao Bằng. Quân Nhật lùng sục nhưng không bắt được viên phi công vì người này đã được Việt Minh cứu, đưa về cơ sở cách mạng. Sô (Shaw), tên người phi công Mỹ, được Việt Minh tổ chức đưa về Côn Minh (Trung Quốc), nơi đóng của một lực lượng không quân Mỹ. Đến biên giới Việt - Trung, Sô được gặp Hồ Chí Minh. Trong cuộc nói chuyện, Sô đã đề nghị Hồ Chí Minh cùng đến Côn Minh. Nhân tiện, cũng cần gặp một số cán bộ Việt Minh ở đó nên Hồ Chí Minh đã nhận lời. Những người Mỹ ở Côn Minh (đang giúp Tưởng chống Nhật) đã cảm ơn Hồ Chí Minh sự giúp đỡ cho Sô và tặng Việt Minh một số tiền và thuốc men. Hồ Chí Minh chỉ nhận thuốc men, không nhận tiền. Khi Tổng tư lệnh không quân Mỹ ở Trung Quốc, tướng Sênôn (Chenault) hỏi Hồ Chí Minh rằng Việt Minh có vui lòng giúp đỡ, tổ chức cứu những phi công Đồng Minh bị rơi ở Đông Dương không, thì ông đáp rằng bổn phận của những người cách mạng Việt Nam là giúp đỡ Đồng Minh để cùng nhau chống phát xít.
Đây là một cơ hội tốt để Mỹ thực hiện ý đồ của Rudơven về Đông Dương. Vì vậy, ngày 16-7-1945, một nhóm sĩ quan tình báo Mỹ (OSS) đã nhảy dù xuống căn cứ địa Việt Bắc trên danh nghĩa tổ chức cứu giúp phi công Đồng Minh và giúp đỡ Việt Minh (chia làm 2 toán, nhảy dù làm 2 đợt).
Hồ Chí Minh đã chỉ thị chọn người trong các đơn vị Giải phóng quân để cùng với những người Mỹ này tổ chức thành một đơn vị gọi là “Bộ đội Việt - Mỹ” với quân số gần 200 người do Đàm Quang Trung chỉ huy và thiếu tá Mỹ là Tômát đóng vai trò là tham mưu trưởng đại đội. Trong gần một tháng ở chiến khu Việt Bắc, đơn vị này tập trung vào việc huấn luyện quân sự, về chiến thuật du kích, sử dụng vũ khí mới… Máy bay Mỹ có thả dù tiếp tế cho Bộ đội Việt - Mỹ một số vũ khí.
Ngày 16-8-1945, một đơn vị chủ lực của Việt Nam Giải phóng quân, xuất phát từ Tân Trào (Tuyên Quang) tiến đánh quân Nhật và tay sai ở thị xã Thái Nguyên. Đại đội Việt - Mỹ cũng được lệnh hành quân tham gia trong cuộc tiến công này.
Ngày 20-8-1945, 400 binh lính bảo an do quản Khiêm chỉ huy đã đầu hàng quân cách mạng. Với số vũ khí mới thu được gồm 600 súng trường và một số súng máy, Quân giải phóng tổ chức thêm hai chi đội vũ trang mới. Đại đội Việt - Mỹ được bổ sung quân số để trở thành chi đội 4 do Đàm Quang Trung làm chi đội trưởng và thiếu tá Tômát vẫn đóng vai trò tham mưu trưởng chi đội.
Chi đội 4 vừa thành lập xong thì được lệnh đưa một trung đội quay lại Tân Trào đón Hồ Chí Minh cùng 2 đại đội cấp tốc hành quân về Hà Nội, một đại đội ở lại tiếp tục đánh Nhật ở Thái Nguyên. Trong bộ phận về Hà Nội có những người Mỹ. Ngày 9-9-1945, Thiếu tá Tômát cùng nhóm quân nhân, tình báo người Mỹ này chấm dứt nhiệm vụ và trở về nước.
Sự kiện chớp thời cơ, nhanh chóng thành công của Cách mạng Tháng Tám và nhanh chóng tuyên bố Việt Nam độc lập của chính phủ lâm thời do Hồ Chí Minh đứng đầu, ngoài mọi tiên liệu của các lực lượng Đồng Minh đã làm cho kế hoạch của Rudơven về Đông Dương phá sản.
        Theo chính phủ Mỹ, một mặt Mỹ ủng hộ khái niệm quyền dân tộc tự quyết, mặt khác nước này cũng có quan hệ chặt chẽ với các đồng minh châu Âu của mình, những nước đã có những tuyên bố đế quốc đối với những thuộc địa cũ của họ. Chiến tranh Lạnh chỉ làm phức tạp thêm vị trí của Mỹ, việc Mỹ ủng hộ quá trình phi thực dân hóa gặp xung đột với mối quan tâm của Mỹ đối với sự lan rộng của chủ nghĩa cộng sản và những tham vọng chiến lược của Liên Xô tại châu Âu. Một số đồng minh NATO khẳng định rằng thuộc địa cung cấp cho họ sức mạnh kinh tế và quân sự mà nếu không có nó thì liên minh phương Tây sẽ tan rã. Gần như tất cả các đồng minh châu Âu của Mỹ đều tin rằng thuộc địa sẽ cung cấp sự kết hợp giữa nguyên liệu và thị trường được bảo vệ đối với hàng hóa thành phẩm, từ đó sẽ gắn kết các thuộc địa với châu Âu..
      Hoa Kỳ cần có quan hệ đồng minh với Pháp để thiết lập sự cân bằng với sức mạnh của Xô Viết ở châu Âu sau chiến tranh thế giới thứ II. Từ tháng 9 năm 1945, Washington đã có một số hành động ở Đông Nam Á. Hồ Chí Minh nhận thấy Hoa Kỳ đang muốn đóng vai trò lớn hơn ở khu vực Thái Bình Dương, ông đã làm tất cả để thiếp lập mối quan hệ với Hoa Kỳ thông qua việc giải cứu các phi công gặp nạn trong chiến tranh với Nhật Bản. Đổi lại, cơ quan tình báo Hoa Kỳ OSS (U.S Office of Strategic Services) giúp đỡ y tế, cố vấn và huấn luyện quân đội quy mô nhỏ cho Việt Minh.
Công thức Pôtxđam chia Đông Dương thành hai khu vực giải giáp của Đồng Minh qua vĩ tuyến 16 đã tạo ra khả năng Pháp được quân Anh ủng hộ và sự “thỏa hiệp” của Tưởng, độc chiếm Đông Dương lần thứ hai.
      Ngày 16-9-1945, tức 12 ngày sau khi Hồ Chí Minh đọc bản “Tuyên ngôn độc lập” tại quảng trường Ba Đình, tướng Mỹ là Galêgiơ (Gallaghet) đã bay đến Hà Nội để tìm hiểu xu hướng chính trị của chính phủ Việt Minh và đề nghị để Mỹ đảm nhiệm khôi phục hệ thống giao thông, đường sắt và sân bay. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dứt khoát khước từ. Ngày 20-9-1945, Galêgiơ báo cáo về Mỹ: “Đảng Việt Nam, Việt Minh do Hồ Chí Minh lãnh đạo, rõ ràng đang ngồi trên lưng ngựa. Hồ Chí Minh này là một nhà hoạt động cách mạng lão thành và là tù nhân chính trị nhiều năm, là sản phẩm của Mátxcơva, một người cộng sản… Bây giờ họ đã tuyên bố nền độc lập của họ…”
      Từ năm 1949, sau khi Nội chiến Trung Quốc kết thúc, tiếp đó là chiến tranh Triều Tiên bùng nổ, khuynh hướng thân Liên Xô tại nhiều nước Ả Rập, giới chính khách Mỹ cảm thấy lo sợ về làn sóng đi theo chủ nghĩa Cộng sản tại các nước thế giới thứ ba. Trong điện tín số 831 ngày 3/2/1947 gửi cho Đại sứ quán Mỹ tại Paris, bộ trưởng Ngoại giao Mỹ George Marshall nhận định "chúng ta không thấy có lợi ích gì trong việc nền cai trị đế quốc thực dân lại được thay thế bởi nền triết lý và các tổ chức chính trị bắt nguồn từ Kremlin và do Kremlin kiểm soát". Chính phủ Mỹ đưa ra Thuyết domino, theo đó Mỹ tin rằng nếu một quốc gia đi theo Chủ nghĩa cộng sản, các quốc gia thân phương Tây lân cận sẽ bị đe dọa. Bởi vậy, Mỹ bắt đầu viện trợ cho Pháp trong cuộc chiến chống lại Việt Minh (chỉ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa), một tổ chức/chính quyền họ cho là có liên hệ với Liên Xô và Trung Quốc. Tháng 5-1949, Ngoại trưởng Mỹ Dean Acheson, dù chẳng có chứng cớ nào về các mối liên lạc giữa Hồ Chí Minh với Kremlin, đã chỉ thị cho đại diện Mỹ tại Hà Nội cảnh báo những người quốc gia Việt Nam có ý định liên minh với Việt Minh, bằng những lời lẽ sau đây: "Qua hiểu biết về quá trình đào tạo của ông Hồ, không thể có nhận định nào khác hơn ông Hồ là một tên Cộng sản quốc tế thực thụ vì rõ ràng ông Hồ đã không thể chối cãi được các mối liên hệ với Moscow và chủ nghĩa cộng sản quốc tế và là một người châu Á được đề cao trong báo chí quốc tế cộng sản và được họ ủng hộ. Hơn nữa Mỹ đã không hề bị xúc động bởi tính chất dân tộc chủ nghĩa của lá cờ đỏ với ngôi sao vàng."
     Mỹ tuyên bố "ủng hộ nguyện vọng độc lập dân tộc tại Đông Nam Á" trong đó có Việt Nam, nhưng với điều kiện "lãnh đạo của những nhà nước mới không phải là người cộng sản", họ đặc biệt ủng hộ việc thành lập các "nhà nước phi cộng sản" ổn định trong khu vực tiếp giáp Trung Quốc. Theo thuyết Domino, Mỹ hỗ trợ các đồng minh tại Đông Nam Á để chống lại các phong trào mà họ cho là "lực lượng cộng sản muốn thống trị châu Á dưới chiêu bài dân tộc". Mỹ thúc giục Pháp nhượng bộ chủ nghĩa dân tộc tại Việt Nam, nhưng mặt khác họ không thể cắt viện trợ cho Pháp vì sẽ mất đi đồng minh trước những mối đe dọa lo lớn hơn tại châu Âu. Tóm lại, chính sách của Mỹ gồm 2 mặt không tương thích: một mặt hỗ trợ người Pháp chiến thắng trong cuộc chiến chống Việt Minh - tốt nhất là dưới sự chỉ đạo của Mỹ, mặt khác Mỹ dự kiến, người Pháp sau khi chiến thắng sẽ - "một cách cao cả" - rút khỏi Đông Dương.            
Bắt đầu từ đó, đế quốc Mỹ tích cực hoạt động theo hướng tạo ra một chính phủ đối lập với chính phủ Hồ Chí Minh. Những chuyến đi công cán ngoại giao của Uyliam Bulít, cựu Đại sứ Mỹ tại Pháp, cố vấn tối cao của tổng thống Mỹ khi đó là Truman, đã chứng minh cho nhận định trên.
       Theo Félix Green, mục tiêu của Mỹ không phải chỉ có Việt Nam và Đông Dương, mà là toàn bộ vùng Đông Nam Á. Vì đây là "một trong những khu vực giàu có nhất thế giới, đã mở ra cho kẻ nào thắng trận ở Đông Dương. Đó là lý do giải thích vì sao Mỹ ngày càng quan tâm đến vấn đề Việt Nam... Đối với Mỹ đó là một khu vực phải nắm lấy bằng bất kỳ giá nào". Một số khác cho rằng mục tiêu cơ bản và lâu dài của Mỹ là muốn bảo vệ sự tồn tại của các chính phủ thân Mỹ tại Đông Nam Á, không chỉ nhằm làm "tiền đồn chống Chủ nghĩa Cộng sản", mà qua đó còn duy trì ảnh hưởng lâu dài của "Quyền lực tư bản" Mỹ lên thị trường vùng Đông Nam Á.
Trước hết, Mỹ muốn Đông Dương là một vùng tự trị, không chịu ảnh hưởng cộng sản mà liên kết với phương Tây, trước hết là Pháp.
           Hội nghị Đông Dương ở Genève, 1954
                           Hội nghị Đông Dương ở Genève, 1954
      Để phù hợp với “nguyện vọng” của Mỹ, Pháp đã vực dậy ông vua cuối cùng của triều Nguyễn và “đã chết” là Bảo Đại làm con bài. Sợ Bảo Đại, kẻ nhu nhược, bốc đồng và trác táng có thể quan hệ bí mật với chính phủ Hồ Chí Minh, Pháp đưa ra phương án giải tán “nước Nam Kỳ tự trị” để thành lập một chính quyền Việt Nam “tự trị” do Pháp đỡ đầu về quốc phòng và ngoại giao (thực chất thì cũng như chính sách bảo hộ hồi thế kỷ XIX). Vài “chính khách” Việt Nam do Pháp nặn ra, kéo đến Hồng Công thuyết phục Bảo Đại và ngày 7-12-1947, tại Vịnh Hạ Long, ký thỏa thuận với Pháp. Theo đó Pháp “cho” Việt Nam độc lập nhưng kiểm soát quân đội, tài chính và ngoại giao. Ngày 8-3-1949, Bảo Đại ký thỏa ước của thỏa thuận vịnh Hạ Long: Pháp “giữ hộ” Việt Nam vấn đề quốc phòng, tài chính, ngoại giao.

                    
                                                                        Bảo Đại
Năm 1946, ngày 25-5, Tại Sài Gòn, Chủ tịch Hội đồng Tư vấn Nam Kỳ là luật sư Béziat gửi cho Cao Ủy Pháp một bức thư chính thức xin thành lập một chính phủ lâm thời của nước Cọng Hòa Nam Kỳ.  Ngày 27-5, Cao ủy Pháp trả lời tạm thời chấp thuận việc thành lập chính phủ đó.  Tuy nhiên cũng lưu ý rằng “Nam Kỳ là một mãnh đất thuộc di sản Quốc gia Pháp” cho nên cần phải được Quốc hội Pháp thông qua (Hsltr/Quốc gia Pháp).
*( Nam Kỳ là đất bị quân Pháp đánh chiếm rồi bắt vua Tự Đức phải bán cho họ vào năm 1874 với giá do họ ấn định.  Từ đó nước Việt Nam có hai nước là nước An Nam của nhà Nguyễn và nước Nam Kỳ của Pháp.  Tháng 3 năm 1945 Nhật chiếm Nam Kỳ của Pháp rồi tháng 6 năm 1945 giao lại cho Bảo Đại, nhập trở lại nước Việt Nam.  Giờ đây Pháp thành lập nước Nam Kỳ tự trị để tách ra Nam Kỳ khỏi Việt Nam như trước.

     
Năm 1950, sau khi đánh bật được tập đoàn cờ bạc Ma Cao, thế lực của Bảo Đại đã hoàn toàn độc chiếm trung tâm cờ bạc Đại Thế Giới ở Sài Gòn.
Năm 1950, Truman chủ trương không chỉ “giữ chân” cộng sản ở Châu Âu mà còn phải tích cực ngăn chặn cộng sản ở Châu Á. Ngay lập tức, Dean Rush (1909 – 1994, là Ngoại trưởng Hoa Kỳ từ năm 1961 đến 1969 dưới thời các tổng thống John F. Kennedy và Lyndon B. Johnson. Rusk là vị ngoại trưởng tại vị lâu thứ nhì trong các đời Ngoại trưởng Hoa Kỳ, chỉ sau Cordell Hull) thông báo: “Các tài nguyên của Mỹ phải được triển khai để ngăn Cộng sản chiếm Đông Dương và Đông nam Á”. Đến đây, Mỹ đã tỏ ra quyết tâm giữ Đông Dương hơn cả Pháp.
(Nhưng tại sao đế quốc Mỹ nói riêng và cả thế giới tư bản nói chung lại căm ghét, lo lắng và chống cộng điên cuồng như vậy? Nguyên nhân là, những người theo chủ nghĩa Cộng sản cho rằng muốn xây dựng một xã hội tươi đẹp, không còn cảnh người bóc lột người thì phải làm cuộc cách mạng vô sản và mục tiêu của cuộc cách mạng ấy là đập tan chính quyền tư sản, xóa bỏ triệt để chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Mục tiêu đó của cuộc cách mạng vô sản rõ ràng là cực đoan, duy ý chí và mù quáng bởi vì chỉ có thể cố gắng cải tạo mặt trái xấu xa của nhân tính, cái tàn dư tàn bạo, độc ác của xã hội phong kiến, chứ không thể tiêu diệt được một phương thức kinh tế - xã hội xuất hiện một cách tự nhiên theo trình độ của tiến trình xã hội phù hợp với đạo lý. Hay có thể nói, trong thời đại ngày nay, hành động xóa bỏ nền sản xuất tư bản là trái đạo lý tự nhiên. Loài người tồn tại được là vừa nhờ có những con người độc lập, tự do, vừa chịu sự ràng buộc. Độc lập, tự do tương đối là điều kiện cho con người tồn tại và phát triển. Dù là nô lệ đi chăng nữa thì cũng không thể mất hết độc lập, tự do nếu còn tồn tại. Độc lập, tự do làm xuất hiện ý chí sáng tạo ở mỗi con người và khi tư hữu (về tư liệu sản xuất) vẫn còn là quyền lợi thì không thể xóa bỏ được ý chí tư hữu.

        Tiếp theo, nguyên nhân để cách mạng vô sản đề ra cái mục tiêu ấy của nó chính là quan niệm thiếu biện chứng của học thuyết Mác về sự phân tầng xã hội dưới luận đề “Giai cấp và đấu tranh giai cấp”. Sự phân tầng xã hội là hiện tượng có thực và nó luôn vận động, chuyển hóa, biến đổi theo điều kiện, hoàn cảnh cũng luôn biến đổi trong từng thời gian, từng giai đoạn vận động xã hội. Chúng ta quan niệm rằng chỉ khi hai tầng lớp dân cư xã hội do có hiện tượng bóc lột mà phát sinh mâu thuẫn gay gắt, đối kháng nhau về mưu cầu sống còn thì lúc đó mới được gọi là phân tầng giai cấp và như thế trong xã hội, nếu xuất hiện giai cấp thì chỉ có thể là hai giai cấp thống trị và giai cấp bị trị, mà biểu hiện phổ biến để phân biệt giữa hai giai cấp ấy là hữu sản - vô sản, là giàu - nghèo, tạm thời có quyền lực - không có quyền lực… Vậy thì bản thân những biểu hiện tương phản hữu sản - vô sản, giàu - nghèo chưa hẳn là thực sự phân tầng giai cấp.
Theo Mác thì: “Sự tồn tại của các giai cấp chỉ gắn liền với những giai đoạn phát triển lịch sử nhất định của sản xuất”. Đó là câu nói theo ý kiến chúng ta là vừa đúng vừa không đúng và nếu bỏ “của sản xuất” đi thì đúng hơn.
Theo Lê Nin định nghĩa thì đấu tranh giai cấp là “Cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước hết quyền, bị áp bức và lao động, chống bọn có đặc quyền, đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn bám, cuộc đấu tranh của những công nhân làm thuê hay những người vô sản chống những người hữu sản hay giai cấp tư sản”. Định nghĩa như vậy là chưa rõ ràng và dễ gây ngộ nhận. Cách định nghĩa sau đây trong giáo trình “Triết học Mác - Lê Nin” (NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2004) là đúng hơn:
“Thực chất của đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn về mặt lợi ích giữa quần chúng bị áp bức, vô sản đi làm thuê chống lại giai cấp thống trị, chống lại bọn đặc quyền đặc lợi, những kẻ đi áp bức bóc lột”.
Theo chúng ta, cách mạng vô sản là cuộc đi đòi lại quyền lợi chính đáng của quần chúng đã bị giai cấp thống trị chiếm đoạt một cách không chính đáng, xóa bỏ chính quyền đã trở nên phản động, tàn bạo để xây dựng một chính quyền mới do dân và vì dân.

                                               
     Karl Marx, triết gia cho rằng đấu tranh giai cấp là động lực phát triển xã hội.        
      Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập, cao trào cách mạng 1930 – 1931 mà tiêu biểu là phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh bùng lên mạnh mẽ. Đây là cuộc tổng diễn tập đầu tiên của Đảng và giai cấp công nhân, nhân dân lao động chuẩn bị cho cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Cải cách ruộng đất tại miền Bắc Việt Nam là chương trình nhằm phân chia lại ruộng đất nông thôn, xóa bỏ văn hóa phong kiến, tiêu diệt các thành phần phản quốc (theo Pháp, chống đất nước), phản động (chống chính quyền) như địa chủ phản cách mạng, Việt gian, cường hào cộng tác với Pháp... được Đảng Lao động Việt Nam và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thực hiện vào những năm 1953–1956. Theo Luật Cải cách ruộng đất thì Cải cách ruộng đất có mục tiêu "thủ tiêu quyền chiếm hữu ruộng đất của thực dân Pháp và của đế quốc xâm lược khác ở Việt Nam, xoá bỏ chế độ phong kiến chiếm hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ, thực hiện chế độ sở hữu ruộng đất của nông dân, giải phóng sức sản xuất ở nông thôn, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp và mở đường cho công thương nghiệp phát triển, cải thiện đời sống của nông dân, bồi dưỡng lực lượng của nhân dân, lực lượng của kháng chiến, đẩy mạnh kháng chiến, hoàn thành giải phóng dân tộc, củng cố chế độ dân chủ nhân dân, phát triển công cuộc kiến quốc" (Hệ thống thông tin VBQPPL).
Đây là một trong những phương cách chính yếu mà những người theo chủ nghĩa cộng sản nghĩ rằng phải thực hiện để lập lại công bằng xã hội, đồng thời thiết lập nền chuyên chính vô sản nhằm tiến lên chủ nghĩa xã hội một cách nhanh chóng. Trong bản Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (Manifesto), Karl Marx đã tuyên bố: "cách mạng ruộng đất là điều kiện để giải phóng dân tộc". Dựa theo mô hình "thổ địa cải cách" của Trung Quốc (1946–1949), cuộc cải cách ruộng đất ở miền Bắc được tổ chức với tinh thần đấu tranh giai cấp triệt để với sự cố vấn trực tiếp của các cán bộ đến từ Trung Quốc.
Sau 3 năm tiến hành, cuộc cải cách đã phân chia lại ruộng đất công bằng cho đa số nông dân miền Bắc, xóa bỏ giai cấp địa chủ phong kiến. Trong giai đoạn đầu, cuộc cải cách thu được kết quả tốt, góp phần thúc đẩy mạnh mẽ tinh thần của quân dân, khiến họ phấn chấn và tích cực chi viện cho kháng chiến chống Pháp Tuy nhiên, trong giai đoạn sau, từ giữa 1955, do vội vã nhân rộng cải cách tới nhiều địa phương, trong khi trình độ dân trí lại thấp đã khiến việc thi hành bị mất kiểm soát, gây ra nhiều phương hại và tổn thất, nhất là trong việc nông dân quá khích ở các địa phương đã lạm dụng việc xét xử địa chủ để trả thù cá nhân, thậm chí xảy ra việc dân chúng vu oan và tấn công cả những đảng viên, cán bộ chính quyền. Sự quá khích này đã gây ra không khí căng thẳng tại nông thôn miền Bắc lúc ấy, gây phương hại đến sự đoàn kết của người dân, ảnh hưởng tới niềm tin của một số tầng lớp nhân dân với Đảng Lao động Việt Nam. Đến đầu năm 1956, cải cách bị đình chỉ, và suốt 1 năm sau đó, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã phải tổ chức chiến dịch nhận khuyết điểm và sửa sai, phục hồi danh dự và tài sản cho các trường hợp oan sai, cũng như cách chức nhiều cán bộ cấp cao chịu trách nhiệm về những sai lầm này.
Theo chúng ta, những sai lầm này chính là biểu hiện cách hiểu có phần sai lạc, cực đoan về giai cấp và đấu tranh giai cấp trong triết học Mác, dẫn đến hậu quả tai hại.
 
                               
                               Địa chủ phải quỳ
                                       xuống đất, bị trói 2 tay ra sau lưng nghe kể tội.
Sau khi nghe kể tội sẽ bị xử bắn công khai.
              
 Bà Cát Hạnh Long, một ân nhân của “cách mạng” thời kỳ kháng chiến chống Pháp.
FB Nguyễn Thông: “Bắn một người đã góp cho cách mạng gần 1.000 lượng vàng, đã cưu mang chính mình và hàng nghìn đồng chí mình khi khó khăn, người có 2 con trai thì cả hai con lúc ấy đang là sĩ quan cấp trung đoàn, bắn xong biết sai nhưng không hề công khai xin lỗi, bồi thường danh dự và vật chất
 “Tám trăm triệu người, không đấu đá là không được” –  Mao Trạch Đông
cải cách ruộng đất
Cải cách ruộng đất năm 1953 ở Trung Quốc. (Ảnh: internet)
nh những công dân hạng hai.
Phú nông và địa chủ bị chôn sống trong cải cách ruộng đất. (Ảnh: internet)
Phú nông và địa chủ bị chôn sống trong cải cách ruộng đất. (Ảnh: internet)
Cuối cùng, cách hiểu máy móc, thiếu biện chứng về sự phân tầng xã hội của chủ nghĩa Mác dẫn đến mục tiêu có phần cực đoan, thái quá của cách mạng vô sản, là có nguyên nhân từ thực tại xã hội đương thời đó, có thể là phù hợp với thời đại hình thành hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa, khi mà tích lũy tư bản là một quá trình chất chồng tội ác, tràn ngập máu và nước mắt, khi mà mặt trái tàn bạo của nhân tính nổi trội đến mức gắn liền thành như bản chất của chủ nghĩa tư bản.
Ngày nay, loài người đã sáng tỏ được nhiều điều. Các chế độ xã hội, dù có mang nhãn mác nào đi chăng nữa, dù hình thức có khác nhau thế nào chăng nữa thì cũng không thể bài trừ nhau, do đó xử sự tốt nhất là thay cho đối đầu, nên đối thoại và chung sống hòa bình, hướng sự xâu xé nhau trong nội bộ giống loài ra “bên ngoài”: Đồng lòng đi cải biến tự nhiên vì quyền lợi sống còn của chung loài người.
Đấu tranh giải phóng dân tộc khỏi sự xâm lăng, ách đô hộ của thực dân - đế quốc và đấu tranh giai cấp của giai cấp bị trị chống lại giai cấp thống trị là hai cuộc đấu tranh khác nhau nhưng tương tự nhau. Xét trên khía cạnh phụng sự Đức Huyền Diệu, đảm bảo sự tồn tại của loài người thì hai cuộc đấu tranh đó có mục đích như nhau và không phải là đi tiêu diệt tư hữu.)

                                                               ***
Cuối tháng 1-1950, khi thực dân Pháp hợp pháp hóa chính quyền Bảo Đại thì lập tức ngày 7-2-1950, Mỹ liền công nhận chính phủ bù nhìn đó để nhằm hợp thức hóa việc viện trợ quân sự cho bọn tay sai không qua tay Pháp. Ngày 7-9-1951, “Hội nghị hợp tác kinh tế” giữa Mỹ và chính quyền bù nhìn Việt Nam đã đi đến ký kết văn bản qui định việc Mỹ sẽ viện trợ kinh tế và kỹ thuật cho Việt gian. Từ đó viện trợ Mỹ không ngừng tăng: nếu như năm 1950 - 1951 Mỹ chi 13% cho tổng chi phí chiến tranh thì năm 1952 lên 38%, năm 1953 lên 45%; năm 1954 lên 80%. Viện trợ này thực chất cũng là cho Pháp. Ngay từ 29-6-1950, 8 chiếc C-47 đã bắt đầu chở hàng viện trợ đến Đông Dương và sau 4 năm, Mỹ đã viện trợ cho cuộc chiến tranh của Pháp và tay sai trên dưới 3 tỷ đô la.
 
                                
                Máy bay C-119 của Mỹ đang thả lính dù Pháp tại trận Điện Biên Phủ năm 1954.
Trước nguy cơ Pháp thất thủ ở Điện Biên Phủ dẫn đến thua trận trong cuộc chiến tranh Đông Dương, tổng thống Mỹ lúc đó là Aixenhao đã xin quốc hội Mỹ cho toàn quyền hành động, trong đó có việc sử dụng từ 1 đến 6 quả bom nguyên tử, theo kế hoạch của Đalét.
Sự cay cú và hoảng sợ trước nỗi ám ảnh cộng sản bành trướng đã làm cho chính phủ tư sản Mỹ định giở trò côn đồ, độc ác. Sự dự tính dùng bom nguyên tử chống lại một dân tộc nhỏ bé đi đòi quyền tự quyết của mình và chưa từng hiềm khích trực tiếp đã bộc lộ ra cái nhân tính tàn bạo, tiểu nhân của những nhà lãnh đạo chóp bu cái cường quốc được cho là số 1 thế giới và tự nhận là tự do dân chủ nhất thế giới. Về vấn đề “răn đe” nguyên tử này, đại tướng Võ Nguyên Giáp, nguyên tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam, trong một lần trả lời phỏng vấn của nhà báo Cuba là Angulo (đăng trên tạp chí Bôhêmia (Cuba) số tháng 1-6 năm 1984), đã thổ lộ:
“Oasinhtơn đề nghị cung cấp cho Pari bom nguyên tử chiến thuật để đánh vào quân đội Việt Nam đang bao vây Điện Biên Phủ. Chúng tôi nhận được tin là hai chính phủ đã bàn bạc khả năng dùng vũ khí nguyên tử chống lực lượng của chúng tôi. Nhưng chúng tôi nhận thấy không có nhiều khả năng là loại vũ khí đó được sử dụng. Một mặt, sau chiến tranh thế giới thứ hai, Mỹ rơi vào thế phòng thủ và chỉ củng cố được những vị trí sẵn có. Mặt khác, Quân đội nhân dân Việt Nam không kiểm soát các thành phố lớn, mà rải rác trong một hậu phương bao la và các đơn vị tác chiến ở Điện Biên Phủ ngày một tiến sát quân thù.
Con bài vũ khí nguyên tử không dễ dàng, nhưng mặc dù vậy chúng tôi vẫn chỉ thị cho các đơn vị của chúng tôi sẵn sàng chống lại sự nhiễm xạ bằng mọi biện pháp sẵn có. Cho dù có dùng vũ khí này, họ (tức là Mỹ - Pháp) cũng sẽ không đạt được gì hết”.
Thực tế cho thấy dù thực dân Pháp tán thành nhưng cho đến cuối tháng 4-1954, kế hoạch sử dụng bom nguyên tử - còn gọi là kế hoạch Vơtua (Vantour), đã không được thực hiện.
Là một thành viên tham gia Hội nghị Giơnevơ nhưng đế quốc Mỹ đã không chịu ký vào bản tuyên ngôn chung vì đang ôm ấp những mưu đồ chống cộng điên cuồng ở Đông Dương. Mỹ đã ngang nhiên lập ra khối Đông - Nam Á (SEATO), đặt miền Nam - Việt Nam dưới sự bảo trợ của khối này, ráo riết hất cẳng Pháp để trực tiếp can thiệp vào Đông Dương.
Sau khi Pháp thua trận Điện Biên Phủ và ký Hiệp định Geneve, Quốc gia Việt Nam cùng Pháp tập kết về vùng phía Nam vĩ tuyến 17 của Việt Nam.
Ngày 10-8-1954, Mỹ điều đô đốc Xabin ra Hà Nội trực tiếp điều hành kế hoạch tuyên truyền, cưỡng ép đồng bào di cư. Từ tháng 6-1954, Mỹ đã tổ chức một cơ quan huấn luyện biệt kích, gián điệp núp dưới cái tên “Phái đoàn quân sự Sài Gòn” (S.M.M), đóng trụ sở tại Hà Nội. Sự kiện nổ mìn phá sập Chùa Một Cột ngày 10-9-1954 là có sự nhúng tay của tổ chức này.
     Theo kế hoạch, quân Pháp sẽ rút dần sau hai năm và Việt Nam sẽ tiến hành tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Tuy nhiên, báo cáo của CIA cho Tổng thống Mỹ Dwight Eisenhower thấy rằng khoảng 80% dân số Việt Nam sẽ bầu cho Hồ Chí Minh nếu cuộc tổng tuyển cử được thi hành. Không thể chấp nhận việc Hồ Chí Minh sẽ thắng cử và lập chính phủ trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, Hoa Kỳ đã hậu thuẫn Quốc gia Việt Nam để cuộc tuyển cử không thể diễn ra nhằm chia cắt Việt Nam vĩnh viễn thành 2 quốc gia. Hoa Kỳ muốn có một chính phủ chống Cộng tồn tại ở miền Nam Việt Nam, bất kể chính phủ đó có tôn trọng dân chủ hay không.
       Năm 1954, đội bán quân sự của Mỹ do tướng Edward Lansdale (sĩ quan cao cấp của Tình báo Mỹ và đã làm cố vấn cho Pháp tại Việt Nam từ 1953) đã huấn luyện các lực lượng vũ trang của Quốc gia Việt Nam; xây dựng các cơ sở hạ tầng phục vụ quân sự tại Philippines; bí mật đưa một lượng lớn vũ khí và thiết bị quân sự vào Việt Nam; giúp đỡ phát triển các kế hoạch "bình định Việt Minh và các vùng chống đối". Ngày 13-12-1954, Mỹ và Pháp ký kết văn kiện cho phép các cố vấn quân sự Mỹ thay thế dần cho sĩ quan Pháp tham gia huấn luyện quân đội Quốc gia Việt Nam ở miền Nam Việt Nam. Tháng 1/1955, Mỹ chính thức viện trợ quân sự trực tiếp cho Quốc gia Việt Nam. 
Trong những năm 1954-1956, Mỹ đã bỏ ra 414 triệu đôla giúp trang bị cho các lực lượng thường trực Quốc gia Việt Nam, gồm 170.000 quân và lực lượng cảnh sát 75.000 quân; 80% ngân sách quân sự của Quốc gia Việt Nam là do Mỹ viện trợ. Từ năm 1955 đến 1960, có tất cả 800 chuyến tàu chờ vũ khí và phương tiện quân sự của Mỹ vào miền Nam Việt Nam. Số viện trợ này giúp Quốc gia Việt Nam đủ sức duy trì bộ máy hành chính và quân đội khi không còn viện trợ của Pháp. Quân đội Quốc gia Việt Nam dần thay thế chiến thuật và vũ khí của Pháp bằng của Mỹ.
Đến lúc này lại xảy ra mâu thuẫn giữa Thủ tướng Ngô Đình Diệm với Quốc trưởng Bảo Đại (nguyên là Hoàng đế nhà Nguyễn). Năm 1955, nhờ gian lận trong một cuộc trưng cầu dân ý (mà các tài liệu ngày nay của chính phủ Việt Nam thường gọi là "trò hề trưng cầu dân ý"), thủ tướng Ngô Đình Diệm đã phế truất Quốc trưởng Bảo Đại, lên làm Tổng thống đầu tiên của chính phủ Việt Nam Cộng hoà. Sau đó, Quốc gia Việt Nam tổ chức bầu cử Quốc hội Lập hiến. Quốc hội này ban hành Hiến pháp thành lập Việt Nam Cộng hòa trên cơ sở kế thừa Quốc gia Việt Nam, thủ đô là thành phố Sài Gòn, ngày ban hành Hiến pháp 26 tháng 10 trở thành ngày Quốc khánh của Đệ Nhất Cộng hòa. Việt Nam Cộng hòa theo thể chế chính trị đa đảng, kinh tế tư bản chủ nghĩa và được Mỹ giúp đỡ, bảo vệ để chống lại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tại miền Nam.
                                                                  ***

Do âm mưu của Mỹ - Diệm, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân của cả nước chưa hoàn thành; miền Bắc hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế, tiến lên CNXH; miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà.
Miền Bắc hoàn thành cải cách ruộng đất, khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh (1954 - 1957) 
Do thực tế ở miền Bắc, yêu cầu của nông dân, củng cố khối liên minh công nông, mở rộng mặt trận thống nhất. Ủy ban cải cách ruộng đất Trung ương ra nghị quyết: “Đẩy mạnh phát động quần chúng thực hiện cải cách ruộng đất”. Trong hơn 2 năm (1954 - 1956), qua 5 đợt cải cách ruộng đất, miền Bắc đã tịch thu, trưng thu, trưng mua khoảng 81 vạn ha ruộng đất, 10 vạn trâu bò và 1,8 triệu nông cụ chia cho 2 triệu hộ nông dân lao động. Khẩu hiệu “Người cày có ruộng” đã trở thành hiện thực. Tuy việc cải cách có phạm một số sai lầm như đấu tố tràn lan cả những địa chủ kháng chiến có công với cách mạng, quy nhầm một số nông dân, cán bộ, đảng viên thành địa chủ, nhưng Đảng, Chính phủ phát hiện và kịp thời sửa chữa trong năm 1957 nên hậu quả sai lầm được hạn chế và ý nghĩa thắng lợi của cải cách ruộng đất vẫn to lớn, khối công nông liên minh được củng cố. 
               Edward Lansdale và Ngô Đình Diệm
                               Edward Lansdale và Ngô Đình Diệm
      
Nghị quyết kỳ họp thứ IV, Quốc hội khóa I nêu rõ: “Ra sức củng cố miền Bắc bằng cách đẩy mạnh và hoàn thành cải cách ruộng đất đúng theo kế hoạch, ra  sức khôi phục kinh tế và phát triển kinh tế - văn hóa”.
Về nông nghiệp: Khẩn hoang, tăng vụ, tăng thêm đàn trâu bò, sắm thêm nông cụ; xây dựng công trình thủy nông mới, mở rộng diện tích tưới và tiêu nước. Năm 1957, sản lượng lương thực đạt trên 4 triệu tấn, nạn đói kinh niên ở miền Bắc căn bản được giải quyết. Về công nghiệp: Khôi phục, mở rộng và xây dựng nhiều nhà máy, xí nghiệp mới. Cuối năm 1957, có 97 nhà máy, xí nghiệp lớn do nhà nước quản lý. Về thủ công nghiệp, thương nghiệp: Nhanh chóng khôi phục, đảm bảo cung cấp các mặt hàng thiết yếu cho nhân dân; giải quyết việc làm cho người lao động; ngoại thương tập trung trong tay nhà nước. Đến năm 1957, miền Bắc mua bán với 27 nước. Về giao thông vận tải: Khôi phục 700 km đường sắt, sửa chữa và làm mới hàng nghìn km đường ô tô, xây dựng bến cảng, đường hàng không dân dụng quốc tế…Văn hóa, giáo dục được đẩy mạnh; hệ thống giáo dục phổ thông 10 năm; xây dựng trường đại học; hơn 1 triệu người được xóa mù. Về y tế: Quan tâm xây dựng nếp sống lành mạnh, giữ gìn vệ sinh được thực hiện ở khắp mọi nơi. Từ năm 1957, Quân đội nhân dân được xây dựng một bước tiến lên chính quy hiện đại. Tổng quân số thường trực được duy trì ở mức độ thích hợp: năm 1959 có 160.000 người, năm 1963 có 170.000 người (bằng 1% số dân). Ngoài ra còn có 16.000 công nhân viên quốc phòng, 21.000 công an vũ trang, 1,2 triệu quân dự bị, 1,4 triệu dân quân tự vệ. Đầu năm 1965 miền Bắc có 195.000 bộ đội thường trực, cuối 1965 lên 400.000 người. Vũ khí trang bị được nâng cấp, nhiều quân binh chủng kỹ thuật được thành lập. Ngoài ra nhà nước còn nhiều chủ trương củng cố chính quyền dân chủ nhân dân; tăng cường khả năng phòng thủ đất nước. Mở rộng Mặt trận dân tộc thống nhất và quan hệ ngoại giao với nhiều nước trên thế giới.
Về tiếp nhận viện trợ quốc tế, với đường lối đối ngoại đúng đắn và chủ trương vận động quốc tế linh hoạt, miền Bắc đã nhận được sự ủng hộ về tinh thần rất to lớn và một khối lượng lớn vũ khí, trang bị quân sự hết sức quan trọng do các nước chi viện, chủ yếu qua đường sắt và đường thủy. Sự giúp đỡ quân sự của Trung Quốc đối với Việt Nam từ năm 1964 đến năm 1968 là rất to lớn.
Sự giúp đỡ quân sự của Liên Xô cho Việt Nam bắt đầu được đẩy mạnh từ năm 1965 khi Liên Xô đồng ý cung cấp giúp đỡ hệ thống tên lửa đất đối không, máy bay, phi công huấn luyện và đội ngũ kỹ thuật viên nhằm bảo vệ  khu vực Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố quan trọng khác.  Ngay trong năm 1965, một số máy bay MIG 15, 17 và IL 28 đã được chuyển đến Việt Nam. Tính đến năm 1967, tổng viện trợ của các nước xã hội chủ nghĩa cho Việt Nam là khoảng 1,5 tỷ Rúp (hơn 1,5 tỷ USD), trong đó sự trợ giúp của Liên Xô chiếm 36,8% (608 triệu USD). Đến cuối 1967, sự trợ giúp của Liên Xô tăng lên 50% tổng giá trị giúp đỡ của phe xã hội chủ nghĩa, trong đó sự giúp đỡ về quân sự chiếm 2/3. Năm 1968, Liên Xô đã dẫn đầu danh sánh các nước xã hội chủ nghĩa giúp đỡ Việt Nam, với tổng giá trị đạt 542 triệu Rúp (582,2 triệu USD). Ngoài ra còn có khoảng 1.500 đến 2.500 lượt chuyên gia quân sự Liên Xô, bao gồm kỹ sư, phi công, kỹ thuật viên phụ trách hệ thống ra đa, tên lửa đã phục vụ ở Việt Nam trong thời gian chiến tranh.
Từ năm 1958 đến năm 1960, miền Bắc đã cải tạo quan hệ sản xuất XHCN đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ, công thương nghiệp tư bản tư doanh, khâu chính là hợp tác hóa nông nghiệp. Khắp nơi sôi nổi phong trào vận động xây dựng hợp tác xã. Đến cuối 1960, miền Bắc có trên 85% hộ nông dân với 70% ruộng đất vào hợp tác xã nông nghiệp, hơn 87% thợ thủ công, 45% người buôn bán nhỏ vào hợp tác xã. Đối với tư sản dân tộc, ta cải tạo bằng phương pháp hòa bình, cuối 1960 có hơn 95% hộ tư sản vào công tư hợp doanh. Bước đầu  xây dựng và phát triển kinh tế, xã hội, trọng tâm là phát triển kinh tế quốc doanh. Đến năm 1960 có 172  xí nghiệp lớn do trung ương quản lý và 500 xí nghiệp do địa phương quản lý. Kinh tế phát triển nên giáo dục phổ thông phát triển. Năm 1960 số học sinh tăng 80% so với 1957; cơ sở y tế tăng 11 lần so với 1955. Tuy nhiên việc cải tạo còn có những sai lầm như đồng nhất cải tạo với xóa bỏ tư hữu và các thành phần cá thể. Thực hiện sai nguyên tắc xây dựng hợp tác xã là tự nguyện, công bằng, dân chủ nên không phát huy tính chủ động, sáng tạo trong sản xuất.
Tháng 9/1960, Đại hội lần thứ III của Đảng đã hoàn chỉnh đường lối cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới, xác định tuy cùng thực hiện một mục tiêu chung là giải phóng miền Nam, song miền Bắc và miền Nam có vai trò, vị trí riêng, trong đó cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc giữ vai trò quyết định nhất đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng Việt Nam, với việc thống nhất Tổ quốc nên phải ra sức xây dựng và bảo vệ miền Bắc, làm cho miền Bắc trở thành căn cứ địa của cả nước, hậu phương chiến lược cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam. Nhiều phong trào quần chúng thi đua xây dựng chủ nghĩa xã hội, tăng cường quốc phòng được phát động, như : “Gió Đại Phong, sóng Duyên Hải, cờ Ba nhất”, “mỗi người làm việc bằng hai vì miền Nam ruột thịt”, “toàn dân làm giao thông vận tải”, “tất cả vì tiền tuyến lớn miền Nam. 
Trong khi đó ở miền Nam, cách mạng Việt Nam chủ trương đấu tranh chống chế độ Mỹ - Diệm, giữ gìn và phát triển lực lượng cách mạng (1954 - 1959).
Giữa năm 1954, cách mạng miền Nam chuyển từ đấu tranh vũ trang sang đấu tranh chính trị, đòi thi hành Hiệp định Giơnevơ, bảo vệ hòa bình, giữ gìn và phát triển lực lượng cách mạng. Đòi hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất đất nước, đòi các quyền tự do, dân sinh, dân chủ; chống “tố cộng, diệt cộng”, “trưng cầu dân ý"....Tiêu biểu là “Phong trào hòa bình” của trí thức và nhân dân Sài Gòn - Chợ Lớn (tháng 8/1954).
Từ năm 1957 đến năm 1959, Ngô Đình Diệm ban hành chính sách “tố cộng, diệt cộng”, ra đạo luật 10/59 đặt cộng sản ra ngoài vòng pháp luật, lê máy chém khắp miền Nam làm lực lượng cách mạng bị tổn thất nặng, đòi hỏi phải có biện pháp quyết liệt để đưa cách mạng vượt qua khó khăn.

 Phong trào bị khủng bố, đàn áp nhưng vẫn dâng cao, lan rộng khắp thành thị và nông thôn, lôi cuốn mọi tầng lớp nhân dân tham gia, hình thành mặt trận chống Mỹ - Diệm và chuyển dần sang dùng bạo lực, tiến hành đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang, chuẩn bị cho cao trào cách mạng mới.

Đặc biệt là phong trào Đồng Khởi (1959 - 1960).

 Lúc đầu, phong trào nổ ra lẻ tẻ ở Vĩnh Thạnh, Bác Ái (2/1959), Trà Bồng (8/1959)…sau lan khắp miền Nam thành cao trào cách mạng, tiêu biểu là cuộc “Đồng khởi” ở Bến Tre. Ngày 17/1/1960, “Đồng khởi” nổ ra ở 3 xã Định Thy, Phước Hiệp, Bình Khánh (huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre), từ đó lan khắp huyện Mỏ Cày và tỉnh Bến Tre (huyện Giồng Trôm, Ba Tri, Châu Thành…). Quần chúng giải tán chính quyền địch, lập Ủy ban nhân dân tự quản, lập lực lượng vũ trang, tịch thu ruộng đất của địa chủ, cường hào chia cho dân cày nghèo. Phong trào lan khắp Nam Bộ, Tây Nguyên và một số nơi ở Trung Trung bộ. Cuối năm 1960, ta làm chủ 600/1.298 xã ở Nam Bộ, 3.200/5721 thôn ở Tây Nguyên, 904/3.829 thôn ở Trung Trung bộ.

Tháng 1/1959, Hội nghị Trung ương Đảng 15 xác định, cách mạng miền Nam không có con đường nào khác là sử dụng bạo lực cách mạng đánh đổ chính quyền Mỹ - Diệm. Phương hướng cơ bản là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân bằng con đường đấu tranh chính trị là chủ yếu, kết hợp với đấu tranh vũ trang. Trên cơ sở phân tích tình hình, xác định mâu thuẫn của xã hội Việt Nam và miền Nam Việt Nam từ sau Hiệp nghị Giơnevơ, Hội nghị chủ trương có một mặt trận riêng ở miền Nam. Tháng 9-1960, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng được triệu tập, đã hoàn chỉnh những nội dung cơ bản về đường lối và phương pháp cách mạng ở miền Nam. Đại hội chủ trương thành lập Trung ương Cục ở miền Nam để giúp Trung ương Đảng, Bộ Chính trị chỉ đạo phong trào cách mạng miền Nam. Để tập hợp rộng rãi lực lượng cách mạng và phát huy cao độ sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, nêu cao chủ nghĩa yêu nước, Đại hội III của Đảng cũng chủ trương phải xây dựng tổ chức Mặt trận Dân tộc thống nhất ở miền Nam.

Ngày 20-12-1960, tại vùng giải phóng ở xã Tân Lập, huyện Châu Thành (nay là huyện Tân Biên), tỉnh Tây Ninh, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập bao gồm đại biểu các tầng lớp nhân dân, các dân tộc, các tôn giáo, các nhân sĩ yêu nước ở miền Nam, không phân biệt xu hướng chính trị, với Tuyên ngôn và Chương trình hành động 10 điểm:

1. Đánh đổ chế độ thuộc địa trá hình của đế quốc Mỹ và chính quyền độc tài Ngô Đình Diệm, tay sai của Mỹ, thành lập chính quyền liên minh dân tộc, dân chủ.

2. Thực hiện chế độ dân chủ rộng rãi và tiến bộ.

3. Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, thực hiện cải thiện dân sinh.

4. Thực hiện giảm tô, tiến tới giải quyết vấn đề ruộng đất cho nông dân, giúp người cày có ruộng.

5. Xây dựng nền văn hóa giáo dục dân tộc, dân chủ.

6. Xây dựng một quân đội bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ nhân dân.

7. Thực hiện dân tộc bình đẳng, nam nữ bình quyền, bảo hộ quyền lợi chính đáng của ngoại kiều và kiều bào.

8. Thực hiện chính sách ngoại giao hòa bình, trung lập.

9. Lập lại quan hệ bình thường giữa hai miền, tiến tới hòa bình thống nhất Tổ quốc.

10. Chống chiến tranh xâm lược, tích cực bảo vệ hòa bình thế giới.

Chương trình 10 điểm của Mặt trận đã giải quyết một cách đúng đắn những vấn đề cơ bản của cách mạng miền Nam. Chính vì vậy, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã có sức thu hút mạnh mẽ các tầng lớp nhân dân trong vùng giải phóng và các đô thị lớn.

Ngày 16-2-1962 tại Tân Biên (Tây Ninh), Đại hội Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam lần thứ I đã cử ra Ủy ban Trung ương chính thức gồm 52 đại biểu. Luật sư Nguyễn Hữu Thọ được bầu làm Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.

 Phong trào đã giáng đòn nặng nề vào chính sách thực dân mới của Mỹ. Làm lung lay tận gốc chế độ tay sai Ngô Đình Diệm. Đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của cách mạng miền Nam từ thế giữ gìn lực lượng sang thế tiến công.

                                                               ***
 
Bằng việc đưa Ngô Đình Diệm từ Mỹ về thay thế ông vua Bảo Đại khét tiếng ăn chơi và hoàn toàn ngớ ngẩn về chính trị, Đế quốc Mỹ đã chính thức chấm dứt sự dính líu của Pháp ở Đông Dương. Đó cũng chính là sự “bàn giao lịch sử” giữa chủ nghĩa thực dân cũ và chủ nghĩa thực dân mới trên đất nước Việt Nam.
 Việt Nam Cộng Hòa xuất sinh từ sự lựa chọn của Mỹ và sự gian lận. Một chính quyền được xây dựng nên từ thế lực bên ngoài và bằng những mưu ma, chước quỷ. Một chính quyền được dựng nên vì mục đích danh lợi hẹp hòi, vị kỷ, chứ không vì mục đích dân tộc cao cả nào. Chính quyền đó chắc chắn không phải là chính quyền "của dân, do dân và vì dân" mà đích xác là chính quyền ngụy, phản động.
 
Vậy Ngô Đình Diệm là ai?

Ngô Đình Diệm                                 
 Ngô Đình Diệ                                                                
 
Ngô Đình Diệm sinh ngày 3 tháng 1 năm 1901 tại làng Đại Phong, huyện Lệ Thủy, Quảng Bình trong một gia đình quan lại có truyền thống theo đạo Công giáo lâu đời ở Việt Nam. Vào thế kỷ 17, các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha đã cải đạo cho dòng họ ông, nên tên thánh của ông là Gioan Baotixita (João Batista).
     Cha ông là Ngô Đình Khả và mẹ ông là Phạm Thị Thân, quê quán ở làng Đại Phong xã Phong Thủy huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình. Ngô Đình Khả từng làm võ quan từ triều Đồng Khánh, theo Nguyễn Thân một người hợp tác với chính phủ Liên bang Đông Dương (thuộc Pháp) đàn áp các phong trào chống Pháp như nhóm Văn Thân của ngự sử Phan Đình Phùng ở Nghệ An và Hà Tĩnh. Ông Khả từng làm tới Thượng thư triều đình nhà Nguyễn kiêm Phụ đạo Đại thần và cũng là cố vấn của vua Thành Thái.
                       John F. Kennedy (phía sau bên phải) trong chuyến đi thăm Việt Nam năm 1951
       John F. Kennedy (phía sau bên phải) trong chuyến đi thăm Việt Nam năm 1951
                        Robert S. McNamara và Tướng Maxwell D. Taylor gặp Kennedy sau chuyến đi thăm Nam Việt Nam của họ năm 1963.
      Robert S. McNamara và Tướng Maxwell D. Taylor gặp Kennedy sau chuyến đi thăm Nam Việt Nam của họ năm 1963.
                       Học viên trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt
                                         Học viên trường Võ Bị Quốc Gia Đà Lạt
             Ông Ngô Đình Diệm cùng Thứ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Donald Quarles tại Washington hồi năm 1957
Ông Ngô Đình Diệm cùng Thứ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Donald Quarles tại Washington hồi năm 1957
             Tổng thống Dwight D. Eisenhower chào mừng Tổng thống Ngô Đình Diệm sang thăm Hoa Kỳ trong tháng Năm 1957
Tổng thống Dwight D. Eisenhower chào mừng Tổng thống Ngô Đình Diệm sang thăm Hoa Kỳ trong tháng Năm 1957
             Tổng thống Kennedy với Dean Rusk và Robert S. McNamara
              Tổng thống Kennedy với Dean Rusk và Robert S. McNamara
              Phó Tổng thốngLyndon B. Johnson gặp Tổng thống Ngô Đình Diệm trong Dinh Độc Lập, tháng Năm 1961
Phó Tổng thốngLyndon B. Johnson gặp Tổng thống Ngô Đình Diệm trong Dinh Độc Lập, tháng Năm 1961
      Là người mộ đạo, Ngô Đình Khả dẫn gia đình ông đi lễ mỗi buổi sáng. Năm 1907, thấy chính quyền bảo hộ Pháp phế bỏ và đày vua Thành Thái sang Phi Châu, ông Ngô Đình Khả xin từ quan về quê làm ruộng để tỏ sự bất mãn. Có thuyết khác cho rằng, vì ông Khả không chịu ký vào đơn yêu cầu Thành Thái thoái vị, nên bị chính quyền bảo hộ Pháp cách chức. Dù đã từ quan nhưng ông Ngô Đình Khả vẫn đủ sức để chu cấp cho các con ông ăn học.
      Lúc nhỏ, Ngô Đình Diệm ngoài giúp cha làm ruộng còn cùng người anh Ngô Đình Thục vào học ở trường dòng Pellerin Huế. Cảm thấy cuộc sống ở trường dòng quá khắt khe, ông đã bỏ trường dòng.
Năm 1913, lúc 12 tuổi, Ngô Đình Diệm thi vào trường Collège Quốc học, học chương trình tổng hợp bằng tiếng Việt và tiếng Pháp. Trưởng giáo (tức hiệu trưởng) trường là Ngô Đình Khả, cha ông.
      Theo Moyar, cá tính độc lập quá mức của Ngô Đình Diệm không thích hợp với các khuôn phép trong nhà thờ. Ngoài ra, Ngô Đình Diệm còn thừa hưởng từ cha tinh thần chống thực dân Pháp xâm lược.Tốt nghiệp trung học với thành tích học tập xuất sắc ở trường Collège Quốc học, Ngô Đình Diệm được trao học bổng đi học ở Paris. Nhưng ông đã từ chối. Năm 1918, ông nhập học Trường Hậu bổ (trường Hành chính công và Luật) ở Hà Nội, một trường danh tiếng của Pháp đào tạo công chức người Việt. Trong lúc học ở trường Hậu bổ, Ngô Đình Diệm yêu con gái của thầy dạy học và đây là mối tình duy nhất trong cuộc đời ông. Sau khi người con gái đó quyết định vào Nữ tu viện, Ngô Đình Diệm sống độc thân suốt phần đời còn lại. Theo Nhân Hưng, mối tình đầu của Ngô Đình Diệm là với tiểu thư Trang Đài, con gái út của quan Thượng thư họ Nguyễn ở An Cựu, Huế.
       Sau khi tốt nghiệp trường Hậu bổ với vị trí đứng nhất lớp vào năm 1921, Ngô Đình Diệm nối bước anh cả Ngô Đình Khôi (lúc này đang làm việc trong Bộ Binh triều đình Huế) vào quan trường. Bắt đầu bằng chức quan thấp nhất, Ngô Đình Diệm từng bước được thăng chức. Nơi làm việc đầu tiên của ông là thư viện hoàng gia ở Huế. Trong cùng năm, ông làm tri huyện Hương Trà, Thừa Thiên.
Năm 1926, Ngô Đình Diệm làm tri phủ Hải Lăng, Quảng Trị, sau đó làm quản đạo phủ Ninh Thuận.
             Corpse of Ngô Đình Diệm in the 1963 coup.jpg 
Xác chết của Ngô Đình Diệm ở phía sau APC, đã bị xử tử trên đường đến trụ sở quân đội

     Trong suốt thời gian làm quan, Ngô Đình Diệm có tiếng là người mẫn cán, công chính, là nhà lãnh đạo Công giáo và là người theo chủ nghĩa dân tộc. Ngoài ra, chủ nghĩa dân tộc Công giáo ở Việt Nam từ thập niên 1920 đến thập niên 1930 cũng tạo điều kiện cho sự thăng tiến trong quan trường của Ngô Đình Diệm. Sự thăng tiến nhanh chóng của Ngô Đình Diệm một phần nhờ vào mối quan hệ thân thiết với Thượng thư Bộ Lại Nguyễn Hữu Bài (anh trai ông, Ngô Đình Khôi, là con rể của ông Nguyễn Hữu Bài). Nguyễn Hữu Bài (1863–1935) là một người Công giáo ủng hộ việc bản địa hóa Nhà thờ Việt Nam và tăng quyền lực hành chính cho chế độ quân chủ. Nguyễn Hữu Bài được người Pháp đánh giá cao, trở thành người bảo trợ cho Ngô Đình Diệm do mối quan hệ chặt chẽ về gia đình cũng như tôn giáo.
      Năm 1929, Ngô Đình Diệm được bổ nhiệm tỉnh trưởng tỉnh Bình Thuận. Làm quan ở Bình Thuận ông có tiếng về đạo đức làm việc. Vào các năm 1930 và 1931, Ngô Đình Diệm đã giúp người Pháp đàn áp cuộc nổi dậy đầu tiên của nông dân do những người cộng sản tổ chức. Theo Fall, Ngô Đình Diệm vùi dập cách mạng vì ông không ủng hộ cách mạng. Ông cho rằng cách mạng không thể quét sạch người Pháp, nhưng có thể sẽ đe dọa quyền cai trị của quan lại.
Ngày 8 tháng 4, năm 1933, Bảo Đại (1913-1997) đã ban hành một đạo dụ cải tổ nội các, quyết định tự mình chấp chính và sắc phong thêm 5 thượng thư mới xuất thân từ giới học giả và hành chính là Phạm Quỳnh, Thái Văn Toản, Hồ Đắc Khải, Ngô Đình Diệm và Bùi Bằng Đoàn nhằm thay thế các thượng thư già yếu hoặc kém năng lực như Nguyễn Hữu Bài, Tôn Thất Đàn, Phạm Liệu, Võ Liêm, Vương Tứ Đại. Ngô Đình Diệm nhận lời Bảo Đại làm Thượng thư Bộ Lại (Bộ Nội vụ ngày nay) theo lobby của Nguyễn Hữu Bài. Ông là vị thượng thư trẻ tuổi nhất trong triều đình nhà Nguyễn lúc bấy giờ.Thời gian này ông được bầu làm Tổng thư ký đứng đầu ủy ban cải cách hành chính. Ông đề xướng hai điểm cần tu chính với chính quyền bảo hộ Pháp: một là thống nhất Trung và Bắc Kỳ theo Hòa ước Giáp Thân 1884, hai là cho Viện Nhân dân Đại biểu Trung Kỳ được quyền tự do thảo luận các vấn đề kể cả chính trị. Việc thống nhất chủ yếu để buộc chính quyền Bảo hộ Pháp bãi bỏ khâm sứ Trung Kỳ và thống sứ Bắc Kỳ và thu về thành một viện tổng trú sứ (résident général) ở Huế mà thôi. Việc thứ hai là để canh tân lối cai trị cũ. Vì các đề xướng không được chấp nhận, ông từ chức Thượng thư Bộ Lại ngày 12 tháng 7 năm 1933, chỉ sau 3 tháng nhậm chức. Ngô Đình Diệm lên án Hoàng đế Bảo Đại "chẳng là gì mà chỉ là công cụ trong tay người Pháp", và đã vứt bỏ các huân chương, chức tước được Bảo Đại trao. Sau đó người Pháp đã dọa bắt và lưu đày Ngô Đình Diệm.
     Ngô Đình Diệm (áo dài)
Ngô Đình Diệm (áo dài)
 
  Tháng 9 năm 1933, Thượng thư Bộ lại Ngô Đình Diệm từ chức (Theo một tài liệu khác thì ông từ chức ngày 12 tháng 7 năm 1933). Tháng 12.1933 cụ Phan Bội Châu cho đăng bài thơ Vô đề (5) trên báo Tiếng Dân, sau đó cụ xác nhận là làm để tặng Ngô Đình Diệm với “cái lòng khen”; nhưng khi biết Ngô Đình Diệm muốn trở lại làm quan thì cụ Phan cho rằng, “cái quan niệm của tôi đối với ông ấy từ trước đều vứt đi”:
Ai biết trời Nam hãy có người, 
Sịch nghe tưởng ngỡ sấm bên tai.
Lông hồng coi nhẹ vàng muôn lượng,
Ngôi quý xem dường dép nửa đôi.
Phơi tỏ cùng trời gan đỏ chói,
Nhá nhem thây kệ mắt đen thui.
Ví chăng kịp lúc làm vai vế,
Sau ngựa Châu xin quất ngọn roi.

     Sau khi từ chức Thượng thư Bộ Lại, Ngô Đình Diệm trở về làm một thường dân sống ở Huế cùng gia đình ông, nhưng vẫn bị giám sát. Ông dành thời gian cho việc đọc sách, thiền định, đi lễ nhà thờ, làm vườn, đi săn, và chụp ảnh nghiệp dư. Ngoài ra, ông đẩy mạnh các hoạt động dân tộc chủ nghĩa qua việc gặp gỡ và giao lưu với các nhà lãnh đạo cách mạng Việt Nam, như Phan Bội Châu, một người bạn của ông. Phan Bội Châu là nhà hoạt động chống thực dân mà Ngô Đình Diệm kính trọng vì kiến thức Nho giáo uyên thâm của ông, và vì Phan Bội Châu lập luận rằng những lời dạy của Nho giáo có thể được áp dụng cho Việt Nam hiện đại.
       Ngô Đình Diệm ngấm ngầm ủng hộ Hoàng thân Cường Để đang sống lưu vong tại Nhật nhằm thực hiện một cuộc cách mạng lật đổ chính quyền bảo hộ Pháp. Ông bị xem là quá khích giống như Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam. Năm 1933, ông vào Sài Gòn cùng với Nguyễn Phan Long, Lê Văn Kim,... tổ chức phong trào của trí thức Nam và Trung Kỳ vận động chính giới Pháp tại Paris bãi nhiệm Toàn quyền Đông Dương Pierre Pasquier. Việc không thành, ông bị Pasquier trục xuất khỏi Huế và chỉ định cư trú tại Quảng Bình. Tuy nhiên, sau cái chết của Pasquier năm 1934, viên toàn quyền mới Eugene René Robin đã bãi bỏ chỉ định của Pasquier. Ông vào Huế dạy tại trường Thiên Hựu (Providence) do anh ông là Ngô Đình Thục làm Giám học.
Thời kỳ 1942-1944, Ngô Đình Diệm tham gia thành lập và lãnh đạo tổ chức Đại Việt Phục hưng Hội, dựa Nhật chống Pháp với thành phần nòng cốt là quan lại, linh mục, cảnh sát, và lính khố xanh bản xứ tại Trung Kỳ. Tháng 7 năm 1944, mật thám Pháp phá vỡ tổ chức này và vây bắt Ngô Đình Diệm ở tại phủ Cam. Trong thư gửi Toàn quyền Đông Dương, ông Thục kêu gọi Pháp ân xá cho em mình:
"Nếu hoạt động của hai em tôi được chứng tỏ là có hại cho quyền lợi nước Pháp thì – với tư cách của một Giám mục, của một người An-nam, và với tư cách là người con của một gia đình mà thân phụ tôi đã phục vụ nước Pháp ngay từ khi Pháp mới đến An-nam, và đã nhiều lần đưa mạng sống cho nước Pháp trong các cuộc hành quân mà cha tôi cầm đầu, dưới quyền Nguyễn Thân, chống lại các kẻ nổi loạn do Phan Đình Phùng chỉ huy, tại Nghệ An và Hà Tĩnh – tôi, tự đáy lòng, không chấp nhận
...Có thể tôi lầm, tuy nhiên, thưa Đô Đốc, tôi xin thú thực là không tin – cho đến khi được chứng minh ngược lại – rằng các em tôi đã phản lại truyền thống của gia đình chúng tôi đến như thế, một gia đình đã tự mình gắn liền với nước Pháp từ lúc ban đầu, trong khi ông cha của những quan lại bây giờ hầu hết đều chống lại Pháp và chỉ quyết định thiên về Pháp khi thấy có lợi... Tôi nêu ra điều nầy khi xét thấy rằng thân phụ tôi là Ngô Đình Khả đã từng được vinh dự phục vụ nước Pháp dù sinh mạng bị hiểm nguy, và khi xét đến quá trình lâu dài của các em tôi, một quá trình được hình thành bằng lòng tận tụy vô bờ của các em tôi đối với nước Pháp, mà không sợ phải hy sinh mạng sống của mình cho nước Pháp".
Nhờ sự giúp đỡ của hiến binh Nhật, ông thoát nạn và về trú tại lãnh sự Nhật ở Huế. Sau vài ngày, người Nhật đưa Ngô Đình Diệm vào Đà Nẵng rồi dùng máy bay quân sự chở thẳng vào Sài Gòn trú tại trụ sở hiến binh của Nhật. Ông cũng được Việt Nam Phục quốc Đồng minh Hội do hoàng thân Cường Để ủy nhiệm công việc vận động nhân sự ở Trung Kỳ để chống Pháp.

Thượng Thư Bộ Lại Ngô Đình Diệm (thứ hai từ phải). Hình bên: Tổng Thống Diệm ôm hôn tướng Dương Văn Minh, theo các nguồn thì sau này chính tướng Minh ra lệnh hạ sát anh em Tổng Thống trong cuộc đảo chánh 1963 vì tư thù.
                                  
5 vị Thượng thư từ trái qua phải Hồ Đắc Khải, Phạm Quỳnh, Thái Văn Toản, Ngô Đình Diệm, Bùi Bằng Đoàn

     Tại Sài Gòn, ông đã tham gia thành lập Ủy ban Kiến quốc với mục tiêu phò tá hoàng thân Cường Để. Tuy nhiên Nhật không ủng hộ Cường Để về nước làm vua mà ủng hộ Bảo Đại lập chính quyền thân Nhật với quốc hiệu mới là Đế quốc Việt Nam. Bảo Đại đã từng mời ông làm thủ tướng trong chính quyền mới nhưng không thành mà thay vào đó là Trần Trọng Kim.Sau khi Bảo Đại thoái vị ngày 25 tháng 8 năm 1945, Mặt trận Việt Minh giành chính quyền, Ngô Đình Diệm cùng với một số người thân trong gia đình bị Việt Minh bắt ở Tuy Hoà, Phú Yên ngoại trừ Ngô Đình Nhu và Ngô Đình Cẩn. Anh cả Ngô Đình Diệm là Ngô Đình Khôi cùng con trai mình là Ngô Đình Huân trên đường bị du kích giải ra Hà Nội thì bị lực lượng áp tải này xử bắn do nghi ngờ ông định chống lại lực lượng Việt Minh. Nguyên do là trong Cách mạng tháng 8 năm 1945, Ngô Đình Khôi khuyên hoàng đế Bảo Đại đừng thoái vị vì ông đã tích trữ được một số vũ khí, lại có thêm Ngô Đình Huân giữ vai trò liên lạc giữa triều đình Huế và Đế quốc Nhật Bản, nên có người tố cáo cha con ông Khôi có âm mưu cấu kết với Nhật chống lại Việt Minh. Thời điểm đó, một đơn vị biệt kích Pháp nhảy dù xuống miền Tây Thừa Thiên và bị Việt Minh bắt, nhóm này có nhiệm vụ liên lạc với các quan lại bản xứ để lập lại chủ quyền của Pháp ở Đông Dương. Ngô Đình Diệm bị giải ra Hà Nội. Sau đó Ngô Đình Nhu cũng bị Việt Minh bắt giam rồi được thả. Theo phim tài liệu Sứ mệnh đặc biệt của Đài Truyền hình Việt Nam nói về chuyến công tác phía nam của ông Hoàng Quốc Việt trong Cách mạng Tháng Tám, thì ông Hoàng Quốc Việt (sau khi nghe ông Hải, Bí thư Ban cán sự Đảng tỉnh Quảng Ngãi báo cáo đã bắt được Ngô Đình Diệm) đã thả ông Diệm theo chỉ thị của Hồ Chí Minh rằng các nhân sĩ trí thức phải được thả ra, và đưa ông Diệm ra Hà Nội gặp Hồ Chí Minh. Ông Ngô Đình Diệm được giao làm cố vấn cho Vĩnh Thụy, là cố vấn tối cao của Chính phủ.

Gia đình trị họ ngô:
                           
Ảnh chụp gia đình Ngô Đình vào năm 1961 ở Huế. Từ trái qua phải, đứng phía sau: ông Ngô Đình Nhu, Tổng thống Ngô Đình Diệm, Giám mục Ngô Đình Thục, một người chị em, bà Trần Lệ Xuân, ông Ngô Đình Cẩn, ông Ngô Đình Luyện, một người anh em. Nguồn ảnh: Joseph A. Mendenhall Collection.
 
Ngô Đình Diệm bị giam giữ tại tỉnh miền núi Tuyên Quang nhưng được trả tự do theo lệnh ân xá vào năm 1946. Theo tài liệu của Mỹ, tại Hà Nội, Ngô Đình Diệm gặp Hồ Chí Minh. Ngô Đình Diệm hỏi chủ tịch Hồ Chí Minh lý do giết anh của ông thì được Hồ Chí Minh giải thích rằng đó là một hành động tự phát của du kích địa phương do đất nước đang rơi vào tình trạng hỗn loạn. Sau đó, cũng theo tài liệu của Mỹ, Hồ Chí Minh mời Ngô Đình Diệm giữ chức thủ tướng vì cho rằng ông có tài lãnh đạo. Ngô Đình Diệm trả lời rằng ông chỉ đồng ý lời mời đó với điều kiện ông được Việt Minh thông báo về tất cả mọi hành động và biết riêng mọi quyết định của họ. Chủ tịch Hồ Chí Minh từ chối yêu cầu này, và do đó Ngô Đình Diệm từ chối hợp tác với Hồ Chí Minh.Sau khi được Việt Minh phóng thích, Ngô Đình Diệm duy trì các mối liên lạc với một số lãnh đạo Việt Minh với hy vọng có thể thuyết phục họ bỏ Hồ Chí Minh và quay sang ủng hộ ông. Những cuộc trao đổi này khơi dậy những quan tâm đáng kể trong hàng ngũ lãnh đạo Việt Minh ở Nam Bộ trong năm 1947-1948. Nhiều quan chức Việt Minh ngưỡng mộ Ngô Đình Diệm và Ngô Ðình Thục, thậm chí còn có tin đồn Ngô Đình Diệm đã lôi kéo được tướng Nguyễn Bình, chỉ huy quân sự cao nhất của Việt Minh ở Nam Bộ, đào ngũ (về sau tin đồn này được xác định là không đúng). Ông cũng tìm cách liên minh với các lãnh đạo các đảng phái quốc gia. Giữa năm 1947, ông liên minh với Nguyễn Tôn Hoàn, một lãnh đạo Công giáo ở Nam Bộ và là thành viên sáng lập Ðại Việt Quốc dân Ðảng.
Tháng 2 năm 1948, Ngô Đình Diệm và các lãnh đạo phe quốc gia gặp nhau tại Sài Gòn để thảo ra một kế hoạch đàm phán với Pháp về vấn đề độc lập của Việt Nam. Năm 1948, khi cựu hoàng Bảo Đại sống lưu vong ở Hồng Kông đang điều đình với Pháp để ký hiệp định Pháp-Việt, Ngô Đình Diệm sang Hồng Kông thuyết phục Bảo Đại kiên định trong "vấn đề độc lập dân tộc". Ông cũng vận động các quan chức Pháp nhượng bộ thêm về phạm vi chủ quyền của Việt Nam. Sau đó khi Bảo Đại ký hiệp định với Pháp ở Hạ Long cho Việt Nam một nền độc lập hạn chế, Ngô Đình Diệm tỏ ra thất vọng. Ông từ chối lời mời làm Thủ tướng Quốc gia Việt Nam của Bảo Đại với lý do "không tin người Pháp, càng không tin vào nền độc lập nửa vời mà Pháp vẽ ra", và quay về Huế sống với Ngô Đình Cẩn và có thời gian Ngô Đình Diệm lên sống với vợ chồng Ngô Đình Nhu ở Đà Lạt.
Miller thấy rằng những tài liệu giải mật của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ chỉ nói lên được một hiểu biết mơ hồ về Diệm cho đến tháng 5/1954. Theo Miller, Bảo Đại quyết định chọn Diệm vào chức vụ Thủ tướng là bởi ông hoàng này công nhận rằng Diệm “là một người tốt nhất cho công việc, bởi vì sự không khoan nhượng và sự cuồng tín của mình, ông ấy có đủ năng lực để chống lại chủ nghĩa cộng sản… Ông ấy thực sự là một người rất thích hợp với hoàn cảnh hiện tại”.

Diệm đã chứng minh lời của quốc trưởng nhận xét về năng lực của mình là không sai. Trong thời kỳ hậu hiệp định Geneva, phớt lờ chiến lược hòa giải và cải tổ của Hoa Kỳ, Diệm đã trấn áp và dẹp tan những đối thủ chính trị của Diệm mà không có bất kỳ một sự thỏa hiệp nào để kiểm soát thành công quân đội quốc gia, giành lấy quyền lực từ những viên tướng thân Pháp, thực hiện chương trình kiến quốc của ông.

Những kiến giải của Miller về thời kỳ này không những đưa ra một sự hiểu biết mới về Diệm, mà còn thách thức các nhà sử học nhận thức lại lịch sử quan hệ Mỹ-Diệm ngay từ buổi đầu.
Sự bất đồng tư tưởng này đã khuấy đục liên minh Mỹ-Diệm trong quá trình triển khai một trong những chương trình kiến quốc quan trọng nhất: phát triển kinh tế xã hội ở nông thôn, với mấu chốt của vấn đề là giải quyết tình trạng dư thừa dân số bằng cách di dân.
Trên bình diện quốc gia, Diệm khởi động chương trình tự cung tự cấp như là một đặc trưng trong viễn kiến của Diệm về phát triển cộng đồng để phát động sự tham gia tự giác và đóng góp của toàn dân vào những mục tiêu công ích của nhà nước.
Kế hoạch dinh điền của Diệm không tránh khỏi sự phàn nàn từ phía Mỹ.
 

Miller đã phân tích rất sâu sắc sự khác biệt của hai trường phái kiến quốc của Mỹ sau thế chiến thứ II bao gồm chủ nghĩa tân thời cao cấp, nhấn mạnh đến tầm quan trọng của khoa học và kỹ thuật, và chủ nghĩa tân thời bậc thấp chú trọng vào các chương trình phát triển ở phạm vi hẹp mang tính địa phương.
Cả hai trường phái này đều không phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam, bởi vì Hoa Kỳ không thể Tây hóa lối sống và điều kiện kinh tế xã hội của người Việt.
 

Do vậy, dù đồng ý với quan điểm của Hoa Kỳ là cần cung cấp nguyên liệu sản xuất cho dân tái định cư, nhưng Diệm bảo lưu quan điểm của mình, rằng việc cung cấp tư liệu sản xuất không quan trọng bằng nghĩa vụ và bổn phận tự lập của cộng đồng.
Do đó ông sẵn sàng tiếp tục thực hiện kế hoạch mà không cần sự trợ giúp của Mỹ. Mối bất hòa về chương trình dinh điền, phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn đã đẩy Washington và Saigon vào một tình trạng tồi tệ mới.
Chiến lược gìn giữ an ninh nội địa tập trung vào công cuộc chống nổi dậy ở vùng nông thôn nhằm ngăn chặn sự thâm nhập của cộng sản luôn là mối bận tâm của chính quyền Diệm. 
Miller chứng minh rằng không phải mọi hoạt động quân sự của Diệm đều do Mỹ điều khiển hoàn toàn, thậm chí còn xảy ra những bất đồng trong nội bộ Mỹ.

Về xây dựng lực lượng, ví dụ, phái bộ cố vấn của đại học Michigan (MSUG) muốn phát triển Lực lượng Bảo an như là một lực lượng cảnh sát dân sự, trong khi đó các cố vấn quân sự Mỹ (MAAG) lại muốn lực lượng này là một mô hình bán quân sự hoạt động như một đội quân phụ trợ.
Còn với Diệm, Bảo an là một lực lượng lai ghép, kết hợp quyền lực của cảnh sát như quyền giám sát, giam cầm, và phản gián với năng lực quân sự.

Chỉ trích các giải pháp của cố vấn Mỹ không phù hợp với quan điểm của mình, cũng như hoàn cảnh an ninh của miền Nam Việt Nam, Diệm tiếp tục củng cố và phát triển lực lượng Bảo an như một nhân tố chính trong cuộc chiến chống lại chiến tranh du kích. Là một cựu quan chức có nhiều trải nghiệm về cách trị dân, hơn ai hết, Diệm hiểu rằng: để cai quản vùng nông thôn cần kết hợp các giải pháp chính trị, quân sự, xã hội và kinh tế

Ngược lại, Diệm không bao giờ có quan điểm Dân chủ là một sự cạnh tranh mang tính đa nguyên giữa các đối thủ, đảng phái, và tư tưởng.

Thay vì vậy, Diệm cho rằng nền móng dân chủ của ấp chiến lược là huy động sức mạnh toàn thể dân chúng tham gia vào cuộc chiến chống lại kẻ thù của chế độ.

Miller không thể không thừa nhận rằng dù có nhiều khiếm khuyết và bất cập, nhưng Ấp Chiến Lược là một chương trình thành công, tạo nên một bước ngoặt đáng ghi nhận trong cuộc chiến chống lại Cộng sản ở miền Nam, mang lại hy vọng cho một chiến thắng chung cuộc. Trận Ấp Bắc vào tháng 1/1963 vẫn không dập tắt sự lạc quan của Diệm, vì vậy họ Ngô đã ra lệnh cho Phủ Đặc Ủy Công Dân Vụ chuẩn bị kế hoạch Bắc tiến, chiếm lại miền Bắc Việt Nam.
Và cuối cùng, Diệm muốn Mỹ viện trợ vũ khí và các nguyên vật liệu khác nhưng không chấp nhận sự việc các cố vấn Mỹ can thiệp vào nội bộ miền Nam Việt Nam.
 
 
Ngày 16 tháng 6 năm 1949, Ngô Đình Diệm cho đăng một tuyên bố hoàn toàn phủ nhận Hiệp ước Elysée bằng cách đòi hỏi quyền tự trị lãnh thổ cho Việt Nam. Ðồng thời, ông cũng thông báo không có ý định hợp tác với Việt Minh và kêu gọi một phong trào chống thực dân mới dưới sự lãnh đạo của “những thành viên đã có những cống hiến xứng đáng cho Tổ quốc” và đặc biệt là “những người kháng chiến” với ý định thách thức Việt Minh bằng cách lôi kéo một số người muốn bỏ Việt Minh để ủng hộ ông. Ngô Đình Diệm cũng tuyên bố viễn kiến về một cuộc cách mạng xã hội ngang với những cương lĩnh chính trị từ các đối thủ của ông: “... nên biết rằng cuộc tranh đấu hiện tại không phải chỉ là một cuộc chiến đấu cho độc lập Tổ quốc về phương diện chính trị mà thôi, mà còn là một cách mạng xã hội để đem lại độc lập cho nông dân và thợ thuyền Việt Nam. Ðể cho tất cả mọi người trong nước Việt Nam mới có đủ phương tiện để sống xứng đáng với phẩm cách con người, con người tự do thực sự, tôi chủ trương những sự cải cách xã hội hết sức tân tiến và mạnh bạo, miễn là phẩm cách con người vẫn luôn luôn được tôn trọng và được tự do nẩy nở.” Tuyên bố của ông được nhiều người đọc và được chú ý trên khắp Việt Nam, nhưng nó không thu hút được sự ủng hộ của quần chúng dành cho Ngô Đình Diệm, cũng không gây tác hại gì cho “giải pháp Bảo Ðại”. Trên thực tế, hiệu quả của nó là chấm dứt sự kiên nhẫn của cả Pháp lẫn Việt Minh trong việc tìm cách lôi kéo ông khiến ông buộc phải cân nhắc những chiến lược khác và đi tìm những đồng minh mới.
 
                                               Hà Minh Trí bị bắt sau khi ám sát hụt Ngô Đình Diệm tại Buôn Mê Thuột.
Hà Minh Trí bị bắt sau khi ám sát hụt Ngô Đình Diệm tại Buôn Mê Thuột.
      
 Sau đó, ông cùng anh mình là Giám mục Ngô Đình Thục và người em Ngô Đình Nhu thành lập Đảng Xã hội Thiên Chúa giáo. Ngô Đình Diệm muốn xây dựng một phong trào mới có thể áp đảo cả Pháp và Việt Minh. Ông chọn một vị trí trung lập bề ngoài trong cuộc xung đột, cố gắng xây dựng và duy trì quan hệ với cả hai phía. Ngô Đình Diệm hy vọng có thể có thêm thời gian để mở rộng nhóm ủng hộ mình và gây thiệt hại cho cả hai đối thủ.
       Năm 1950, Việt Minh cố gắng giết Ngô Đình Diệm trên đường ông đi thăm anh là Giám mục Ngô Đình Thục tại Vĩnh Long. Ông theo anh là Giám mục Ngô Đình Thục đi Vatican, rồi sau đó sang Nhật gặp hoàng thân Cường Để đang sống ở đây.
        Trong thời gian ở Nhật, ông gặp tướng Douglas MacArthur chỉ huy quân Mỹ tại Nhật để thuyết phục Mỹ ủng hộ nền độc lập của Việt Nam, nhưng tướng Douglas MacArthur tiếp kiến ông và Giám mục Ngô Đình Thục rất lạnh nhạt, không có biểu hiện gì cho thấy tướng Douglas MacArthur sẽ ủng hộ Việt Nam. Theo lời khuyên của Wesley Fishel, giáo sư chính trị Đại học Michigan, ông Diệm sang Hoa Kỳ để thuyết phục Tổng thống Mỹ Eisenhower ủng hộ Việt Nam độc lập. Tháng 9 năm 1950, Ngô Đình Diệm đến Washington gặp các viên chức Bộ Ngoại giao Mỹ nhưng ông không gây được ấn tượng với họ. Sau khi gặp, một quan chức Bộ Ngoại giao Mỹ nhận xét Ngô Đình Diệm “quan tâm ngang bằng nếu không nói là hơn… đến việc thực hiện các tham vọng cá nhân, thay vì giải quyết những vấn đề phức tạp mà đất nước của ông đang đối mặt ngày hôm nay”. Tháng 10 năm 1950, Ngô Đình Diệm sang Vatican gặp Giáo hoàng rồi đến Paris gặp các quan chức Việt và Pháp đồng thời đề nghị Bảo Ðại bổ nhiệm ông làm thủ tướng Quốc gia Việt Nam với điều kiện ông có đủ thẩm quyền để chỉ đạo các cơ quan hành chính tại Việt Nam nhưng Bảo Đại chỉ trả lời chung chung.

                                   image
Cố vấn Ngô Đình Nhu có 4 người con: Ngô-Đình Trác, Ngô-Đình Quỳnh, Ngô-Đình Lệ Thuỷ và Ngô-Đình Lệ Quyên. Kể từ sau khi hai anh em Ngô-Đình Diệm và Ngô-Đình Nhu bị sát hại, dòng họ Ngô-Đình cũng trải qua nhiều biến cố.
Hai người con gái của Ngô-Đình Nhu và Trần Lệ Xuân là Ngô-Đình Lệ Thủy và Ngô-Đình Lệ Quyên lần lượt qua đời vào năm 1967 và 2012 vì tai nạn giao thông.
image
Theo Luật sư Lâm Lễ Trinh trong một cuộc phỏng vấn, ông Ngô-Đình Diệm là Tổng Thống, nhưng khai sinh chế độ Việt Nam Cộng Hoà công lớn là của ông Ngô-Đình Nhu. Ông Ngô-Đình Quỳnh nhớ về Cha như là một người kín đáo và tận tuỵ cho đất nước.
   
    Thời gian hai năm kế tiếp Ngô Đình Diệm sang Mỹ phần lớn lưu trú tại các trường dòng Lakewood ở New Jersey và trường dòng Ossining ở New York. Ông dùng đủ mọi cách để tranh thủ sự ủng hộ của chính quyền Eisenhower nhưng cũng không thành công vì Mỹ đang bận tham chiến tại Triều Tiên và Mỹ không muốn làm mất lòng người Pháp. Đây cũng là thời kỳ Ngô Đình Diệm gặp Hồng y Spellman, người đồng ý làm trung gian để ông có cơ hội diện kiến với những nhân vật quan trọng trong chính quyền Hoa Kỳ. Qua trung gian của Hồng y Spellman, ông Diệm đã gặp gỡ và tranh thủ được tình cảm của dân biểu Walter H. Judd, Thượng nghị sĩ Mike Mansfield, nhất là Thượng nghị sĩ John F. Kennedy (Kennedy sau này trở thành Tổng thống Mỹ). Ngô Đình Diệm tìm kiếm sự hỗ trợ của người Mỹ cho những kế hoạch chính trị của ông cũng như thu hút những người Mỹ tin vào phát triển, hiện đại hoá và khả năng biến đổi Việt Nam dựa trên nền công nghệ Mỹ. Ðặc biệt, ông tìm cách khai thác những quan tâm chính thức mới (của Mỹ) trong việc “hỗ trợ kỹ thuật” cho nước ngoài. Cũng nhờ sự giới thiệu của Spellman và một vài nhân vật cấp cao của CIA, Ngô Đình Diệm vào ở ẩn ở các chủng viện lớn như Maryknoll, Lakewood rồi vào trường đại học Michigan tham gia một số khóa học. Có thể nói, người đã giúp đỡ ông Diệm rất nhiều khi ở Mỹ là Hồng y Spellman. Nhà sử học John Cooney đã viết:
"Tuy rằng không có mấy người biết điều này, Hồng y Spellman đã đóng một vai trò rất quan trọng trong việc tạo nên sự nghiệp chính trị của một người đã ở trong một Trường Dòng ở New York trước đây, vừa trở thành Thủ tướng của miền Nam Việt Nam: Ngô Đình Diệm. Ở Diệm, Spellman nhìn thấy những đặc điểm mà ông ta muốn có trong mọi chính khách: Công giáo nồng nhiệt và chống Cộng điên cuồng."
       Năm 1954, Ngô Đình Diệm từ Bỉ trở lại Paris sống tại nhà ông Tôn Thất Cẩn (con trai của cụ Thân thần phụ chính Tôn Thất Hân). Tại đây, với sự yểm trợ của Ngô Đình Luyện, Diệm bắt đầu vận động trong giới chính khách Việt sống lưu vong.
        Tại cuộc họp do Hội "American Friends of Vietnam", một tổ chức vận động ủng hộ Ngô Đình Diệm ở Washington D.C. ngày 1/6/1956, John F. Kennedy (về sau là Tổng thống Mỹ) tuyên bố:
“Nếu chúng ta không phải là cha mẹ của nước Việt Nam bé nhỏ [chỉ Việt Nam Cộng hòa] thì chắc chắn chúng ta cũng là cha mẹ đỡ đầu của nó. Chúng ta là chủ tọa khi nó ra đời, chúng ta viện trợ để nó sống, chúng ta giúp định hình tương lai của nó (…). Đó là con đẻ của chúng ta - chúng ta không thể bỏ rơi nó, chúng ta không thể không biết tới những nhu cầu của nó”.
        Sau 4 năm Hiệp định Elysée được ký kết, lãnh đạo các đảng phái quốc gia đang mất hết kiên nhẫn với Bảo Đại và chiến lược giành độc lập từng bước trong Liên hiệp Pháp của Bảo Ðại. Pháp rất ít khi nhượng bộ chủ nghĩa dân tộc tại Việt Nam. Quốc gia Việt Nam chỉ độc lập trên danh nghĩa. Đa số lãnh đạo phe quốc gia thất vọng với thủ tướng Nguyễn Văn Tâm, nổi tiếng thân Pháp và chuyên quyền. Họ cũng nổi giận vì quyết định đơn phương của Paris trong việc phá giá đồng bạc Đông Dương vào đầu tháng 5 năm 1953, vi phạm những thoả thuận trước đó với các quốc gia thuộc Liên hiệp Pháp, đồng thời làm gia tăng lạm phát và khó khăn ở Đông Dương. Lợi dụng tình thế này Ngô Đình Nhu khéo léo kích động sự bất mãn và gợi ý triệu tập Đại hội Đoàn kết các đảng phái quốc gia tại Sài Gòn vào đầu tháng 9, sau khi Bảo Đại rời Việt Nam đi Pháp. Đại hội Đoàn kết diễn ra ngày 5, 6 tháng 9 năm 1953 không xây dựng được liên minh nào và cũng không đưa ra lập trường chính trị chính thức nào.

     Tháng 10 năm 1953, các đảng phái quốc gia lại nhóm họp và phê chuẩn quyết định bác bỏ sự tham dự của Việt Nam vào Liên hiệp Pháp và ủng hộ việc độc lập hoàn toàn. Đứng trước sự bất mãn tăng cao của các lãnh đạo đảng phái, tôn giáo, Bảo Đại phải thân thiện hơn với Ngô Đình Diệm và cân nhắc lại khả năng bổ nhiệm ông vào chức thủ tướng. Ngày 26 tháng 10, Bảo Ðại gặp Ngô Đình Diệm ở Cannes để thăm dò lòng trung thành của ông này với Bảo Đại và khả năng bổ nhiệm ông vào chức thủ tướng. Tháng 12, 1953, Bảo Đại cách chức Thủ tướng Nguyễn Văn Tâm và bổ nhiệm Nguyễn Phúc Bửu Lộc, một thành viên của hoàng tộc, làm thủ tướng. Đầu tháng 3 năm 1954, sau khi Bảo Đại chấp thuận trên nguyên tắc việc thành lập Quốc hội mới, Ngô Đình Nhu và những đồng minh của ông xuất bản một bài viết ở Sài Gòn thúc ép Bảo Đại nhượng bộ thêm.
        Đầu năm 1954, trong khi Pháp đang gặp khó khăn tại trận Điện Biên Phủ, Bảo Đại liên tục nhờ người chuyển lời với ông Diệm đang ở Hoa Kỳ, yêu cầu ông trở về nước thành lập chính phủ mới. Ông Diệm tiếp tục từ chối lời mời của Bảo Đại với lý do không tin tưởng vào người Pháp. Sau khi thất bại tại Điện Biên Phủ, Pháp đàm phán hiệp ước trao trả hoàn toàn độc lập cho Việt Nam. Ngày 16/6/1954, Quốc trưởng Bảo Đại gặp Ngô Đình Diệm tại Pháp. Ông Diệm đồng ý trở về nước làm Thủ tướng theo lời mời của Bảo Đại với điều kiện Bảo Đại phải đồng ý để chính phủ do ông thành lập được toàn quyền về chính trị và quân sự. Bảo Đại đồng ý với yêu cầu này, sau đó ông Diệm về nước và chính thức được bổ nhiệm làm thủ tướng. Ngày 7/7/1954, Ngô Đình Diệm thành lập chính phủ mới với nội các gồm 18 người. Sau này Bảo Đại viết trong hồi ký của mình:
      “Từ những gì tôi biết về ông, tôi biết rằng ông Diệm là một người khó tính. Tôi cũng biết về sự cuồng tín và xu hướng thiên về Thiên Chúa của ông. Nhưng, trong hoàn cảnh hiện tại, không có một lựa chọn nào tốt hơn. Ông được người Mỹ biết đến, và họ đánh giá cao tính không khoan nhượng của ông. Trong mắt họ, ông là người xứng đáng với chức vụ đó nhất, và Washington sẽ không dè xẻn trong việc ủng hộ ông. Bởi vì quá khứ [của ông Diệm] và bởi vì sự hiện diện của người em ông ở vị trí hàng đầu của “Phong trào Công đoàn Quốc gia”, ông sẽ có được sự cộng tác của những người quốc gia thế lực nhất, những người đã hạ bệ ông Tâm và ông Bửu-Lộc. Cuối cùng, cũng vì tính không khoan nhượng và sự cuồng tín của mình, ông là người ta có thể trông cậy được trong việc chống lại chủ nghĩa cộng sản. Đúng, ông chính là người cần thiết cho hoàn cảnh như vậy.” Kế hoạch của Mỹ là viện trợ cho chính phủ Ngô Đình Diệm để giúp miền Nam Việt Nam hoàn toàn độc lập với Pháp (đó là cách duy nhất để lôi kéo những người dân tộc chủ nghĩa rời xa Việt Minh và ủng hộ Quốc gia Việt Nam); Mỹ cũng thúc đẩy Ngô Đình Diệm thành lập một chính quyền đoàn kết quốc gia đại diện cho những xu hướng chính trị chính tại Việt Nam, ổn định miền Nam Việt Nam, bầu ra Quốc hội, soạn thảo Hiến pháp rồi sau đó phế truất Quốc trưởng Bảo Đại một cách hợp pháp; cuối cùng do Ngô Đình Diệm là một người quốc gia không có liên hệ gì trong quá khứ với Việt Minh và Pháp do đó miền Nam Việt Nam sẽ trở nên chống Cộng mạnh mẽ. Công thức này đòi hỏi một sự hợp tác từ cả Pháp và Mỹ để hỗ trợ Ngô Đình Diệm. Tuy nhiên, Pháp không có thiện cảm với Ngô Đình Diệm, Ngoại trưởng Pháp Edgar Faure (sau này là thủ tướng Pháp) cho rằng Diệm "không chỉ không có khả năng mà còn bị điên... Pháp không thể chấp nhận rủi ro với ông ta", hơn nữa Pháp đang bị chia rẽ chính trị nội bộ và gặp khó khăn tại Algérie nên rất miễn cưỡng trong việc giúp đỡ Quốc gia Việt Nam do đó Mỹ đã tiến hành kế hoạch một mình mà không có Pháp trợ giúp.
Ngày 23/10/1954, tổng thống Hoa Kỳ - Eisenhower gửi công hàm chính thức cho Thủ tướng Ngô Đình Diệm cho biết từ đây chính phủ Quốc gia Việt Nam sẽ nhận viện trợ trực tiếp của chính phủ Hoa Kỳ chứ không qua nhà đương cục Pháp như trước.
       Theo ông cơ hội duy nhất cho chính phủ quốc gia Việt Nam đứng vững được là phải thoát khỏi những ảnh hưởng còn sót lại của Pháp, và ông quyết định phải thực hiện mục tiêu đó. Quan điểm của Ngô Đình Diệm là "Muốn thuyết phục được nhân dân Việt Nam là chính quyền này độc lập thì cần thiết về mặt chính trị phải tỏ ra là chống thực dân và đặc biệt là chống Pháp".Chỉ sau vài tháng nắm quyền thủ tướng, tháng 12 năm 1954 ông bãi bỏ quyền phát hành giấy bạc của Ngân hàng Đông Dương (một cơ quan do Pháp thành lập), từ nay giấy bạc lưu hành trên lãnh thổ miền Nam sẽ do Ngân hàng Quốc gia Việt Nam mới thành lập phát hành và cục hối đoái giao cho chính phủ Quốc gia Việt Nam quản lý. Tiếp đó ông yêu cầu chính phủ Pháp trong vòng năm tháng thực hiện chuyển giao cho Quốc gia Việt Nam mọi công tác của Quân đội Quốc gia Việt Nam còn phụ thuộc vào bộ chỉ huy Liên hiệp Pháp. 
Phản ứng lại hành động của Thủ tướng Ngô Đình Diệm đang từng bước loại bỏ ảnh hưởng của Pháp tại Việt Nam, Pháp muốn duy trì ảnh hưởng tại miền Nam nhưng lại gặp phải một Thủ tướng có tinh thần dân tộc nên họ tìm mọi cách loại bỏ để thay thế bằng một người lãnh đạo thân Pháp. Thông qua một số nhân vật ngoại giao như đại sứ Mỹ Donald R. Heath tại Sài Gòn, đại sứ Mỹ Douglas Dillon tại Paris, Pháp tìm cách thuyết phục Mỹ đồng ý loại trừ ông Diệm bằng cách chỉ trích ông thiếu năng lực và không có khả năng đại diện nhân dân vì không có được sự cộng tác và ủng hộ của các phe phái tại Miền Nam do đó không có khả năng thắng trong cuộc Tổng tuyển cử dự tính được tổ chức năm 1956. Tài liệu mật số 1691/5 (ngày 15 tháng 4 năm 1955) của Bộ Quốc phòng Mỹ ghi nhận Pháp muốn giữ vai trò lịch sử lâu dài của mình tại Việt Nam và bảo vệ những đầu tư kinh tế, tài chính của Pháp tại đây.

Viên sĩ quan dù cao cấp về sau trở thành tướng nổi loạn Nguyễn Chánh Thi đã nhận xét về sự lộng hành của một số linh mục thời Diệm – Nhu: “Cứ hầu như mỗi một tỉnh của miền Nam, nhất là tại miền Trung, có một linh mục có quyền sinh sát trong tay mà chả ai đả động đến, vì đằng sau họ là sức mạnh chính quyền. Họ còn lộng hành hơn là nhận đơn kiện cáo của con chiên, rồi phê vào đơn, đưa đến tỉnh trưởng hay quận trưởng, bảo phải xử theo ý của linh mục A, linh mục B, không thì mất chức. Một số linh mục dưới chế độ Ngô Đình Diệm, họ sống như các ông vua của một xứ xưa kia!..”.
img0000356A
 
Cũng theo linh mục Trần Tam Tỉnh, đáp lại các lời chỉ trích, giám mục Thục nói với ICI, tạp chí Công giáo số 15/4/1963, rằng “Trên bàn giấy của tôi chồng chất cả lô đơn xin tôi can thiệp cho họ ơn này, ơn nọ, khổ thay thường chỉ là thế tục. Tôi không thể dửng dưng được trước lời kêu gọi của họ! ở vào địa vị của tôi các ông sẽ xử sự như thế nào?”. Giả dối đến thế là cùng!
        Lúc đó, Quốc trưởng Bảo Đại vẫn còn ở Cannes, quân đội Việt Nam còn nằm trong Liên Hiệp Pháp, và Tổng Tham mưu Trưởng quân đội, tướng Nguyễn Văn Hinh (con trai cựu thủ tướng Nguyễn Văn Tâm, người nổi tiếng thân Pháp) là một sĩ quan cũ trong Không quân Pháp, có vợ là người Pháp. Cảnh sát do lực lượng Bình Xuyên nắm giữ (thủ lĩnh là tướng Lê Văn Viễn), ngay cả lực lượng an ninh văn phòng phủ Thủ tướng Ngô Đình Diệm cũng do cảnh sát gửi đến. Chính vì thế Pháp tìm cách loại trừ Ngô Đình Diệm hoặc bằng một cuộc đảo chính, hoặc bằng cách thuyết phục Bảo Đại cách chức ông Diệm và bất hợp tác với Mỹ trong việc huấn luyện quân đội Quốc gia Việt Nam. Pháp tổ chức một cuộc họp chính trị có sự tham dự của tướng Nguyễn Văn Hinh, lãnh đạo các giáo phái, một số quan chức Pháp và đại sứ Mỹ Donald R. Heath tại Sài Gòn để đề nghị mọi người đồng ý thay thế chính phủ Diệm.
Tướng Nguyễn Văn Hinh có tham vọng làm Thủ tướng Quốc gia Việt Nam bắt đầu công khai chống lại Thủ tướng Diệm và còn khoe "Tôi chỉ cần nhấc cái ống điện thoại lên là có thể dẹp được Diệm rồi.". Ngô Đình Diệm đối phó bằng cách ra lệnh cho Tướng Nguyễn Văn Hinh đi nghỉ để nghiên cứu trong sáu tuần và phải xuất ngoại trong 24 giờ. Tướng Nguyễn Văn Hinh bất tuân thượng lệnh. Một tuần sau, ông cho phổ biến tuyên bố về việc ông không tuân lệnh ông Diệm và một điện tín ông đã gửi thẳng cho Quốc trưởng Bảo Đại yêu cầu can thiệp. Cùng ngày, Ngô Đình Diệm tuyên bố tướng Hinh nổi loạn. Tướng Hinh cho xe thiết giáp bảo vệ tư dinh của mình, đồng thời phái một lực lượng bao vây Dinh Độc Lập. Trong thời gian 6 tuần tiếp theo, tình hình đi tới chỗ bế tắc. Ngày 20 tháng 9 năm 1954, 15 bộ Trưởng trong nội các Ngô Đình Diệm đồng loạt từ chức. Quân đội dưới quyền tướng Nguyễn Văn Hinh cũng đã sẵn sàng chờ lệnh để tấn công.
 
    Gươm đàn nửa gánh quẩy sang sông
Hỏi bến: thuyền không lái cũng không!
Xe muối nặng nề thân vó Ký
Đường mây rộng rãi tiếc chim Hồng
Vá trời lấp biển người đâu tá?
Bán lợi mua danh chợ vẫn đông!
Lần lữa nắng mưa theo cuộc thế
Cắm sào đợi khách thuở nào trong?
 

----------------------------------------------------
Gian thời lận thế lén sang sông
Mạo danh "chí sĩ", đóng vai hùng
Thân thế lam nham đòi gánh nước
Sự nghiệp tày quày muốn kiếm cung
Hám lợi cầu danh, cùng một duộc
Mà làm như vẻ nợ non sông
Lập bè kết đảng, chơi dao sắc
Thì đành mạng vong, xác bít bùng!
 
     Trước tình thế đó, Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ gửi công điện cho Đại sứ Donald R. Heath và tướng John W. O'Daniel chỉ thị phải "nói không úp mở (với Pháp và Tướng Hinh) rằng Hoa Kỳ sẽ không dự trù hoặc triển hạn những viện trợ lâu dài cho quân đội Việt Nam nếu còn một chút nghi ngờ gì về sự trung thành của vị tổng tham mưu trưởng và các sĩ quan cao cấp."
Cố vấn quân sự Mỹ là Edward Lansdale, người chịu trách nhiệm hỗ trợ chính phủ Ngô Đình Diệm, đàm phán với tướng Trình Minh Thế về việc sử dụng lực lượng vũ trang của ông ta để hỗ trợ cho Thủ tướng Ngô Đình Diệm và Quân đội Việt Nam Cộng hòa.
        Sau khi Ngô Đình Nhu và Edward Lansdale phát hiện được âm mưu đảo chính của tướng Nguyễn Văn Hinh, Edward Lansdale đã mua chuộc được các sĩ quan cấp dưới của tướng Nguyễn Văn Hinh đi nghỉ mát. Thiếu những thuộc hạ cốt cán này, cuộc đảo chính đã không thể tiến hành được.
Ngô Đình Diệm đã buộc tướng Nguyễn Văn Hinh từ chức, giao quyền lại cho tướng Nguyễn Văn Vỹ. Nguyễn Văn Hinh chạy đến Paris vào ngày 13 tháng 11 năm 1954. Ngô Đình Diệm đồng thời cương quyết từ chối cho thủ lĩnh Lực lượng Bình Xuyên là tướng Bảy Viễn (tức Lê Văn Viễn) tham gia chính quyền dù Bảy Viễn đe dọa "tắm máu" Sài Gòn nếu yêu cầu của mình không được đáp ứng.
Tháng 12 năm 1955, Thủ tướng Ngô Đình Diệm xóa bỏ tất cả các hiệp ước kinh tế, tài chính ký kết với Pháp trước đó, yêu cầu Pháp hủy bỏ Hiệp định Geneve và cắt đứt quan hệ ngoại giao với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sau đó Ngô Đình Diệm rút đại diện của Quốc gia Việt Nam ra khỏi Liên hiệp Pháp. Ngày 22 tháng 3 năm 1956, Pháp thỏa thuận với Quốc gia Việt Nam rút toàn bộ quân đội Pháp ra khỏi Việt Nam. Ngày 26 tháng 4 năm 1956, Pháp giải thể Bộ chỉ huy quân sự Pháp tại Sài Gòn.
        Ngoài ra Thủ tướng Ngô Đình Diệm trực tiếp đối đầu với Quốc trưởng Bảo Đại khi ông thông qua Dụ số 21 ngày 11 tháng 3 năm 1955 chính thức sát nhập vùng đất Hoàng triều Cương thổ lại vào Trung phần chấm dứt đặc quyền của người Pháp và Cựu hoàng Bảo Đại trên vùng Thượng và danh xưng Cao nguyên Trung phần được dùng lại. Ông còn tổ chức những chiến dịch tuyên truyền chống lại Quốc trưởng Bảo Đại.
        Quốc trưởng Bảo Đại thấy không điều khiển được Ngô Đình Diệm cũng tán thành theo người Pháp, gây áp lực đòi Mỹ rút lại mọi ủng hộ cho chính phủ Ngô Đình Diệm và gây sức ép buộc ông này từ chức. Bảo Đại muốn đưa Nguyễn Văn Xuân lên làm Thủ tướng, hoặc Phó thủ tướng, Nguyễn Văn Hinh làm Tổng Tham mưu trưởng còn tướng Bình Xuyên, Bảy Viễn làm Bộ trưởng Bộ Nội vụ. Các giáo phái lớn tại miền Nam không quyết định hoàn toàn ủng hộ bên nào. 
 
 
 Ông Ngô Đình Khả, 5 người con trai Thục-Diệm-Nhu-Luyện-Cẩn và con dâu Trần Lệ Xuân.
 
      Ngày 18 tháng 10 năm 1955, Quốc trưởng Bảo Đại ra thông cáo từ văn phòng của ông ở Paris tuyên bố cách chức Thủ tướng Quốc gia Việt Nam Ngô Đình Diệm với lý do "việc dùng các biện pháp công an trị và chế độ độc tài cá nhân phải kết thúc, tôi không thể tiếp tục để tên tuổi và quyền lực của mình vào tay một người sẽ khiến cả nước rơi vào đổ nát, đói kém và chiến tranh.". Tuy nhiên Ngô Đình Diệm đã chặn được thông điệp này khiến nó không đến được với dân chúng.Sau đó, Tổng thống Mỹ, Eisenhower cử ông Joseph Lawton Collins thay thế Donald R. Heath làm đại sứ tại Việt Nam. Tướng Pháp Paul Ély thuyết phục Collins chống Ngô Đình Diệm. Collins chỉ trích Ngô Đình Diệm yếu kém và đề nghị Mỹ tìm cách thay thế Ngô Đình Diệm. Collins quay về Mỹ vài lần, thuyết phục chính phủ Mỹ gây sức ép buộc Ngô Đình Diệm từ chức. Thời điểm này, chính phủ của Ngô Đình Diệm cũng như bản thân ông tồn tại được thực chất là nhờ những tác động hết sức cần thiết của những người bạn là dân biểu và thượng nghị sĩ Mỹ mà ông đã tranh thủ được khi sang Mỹ vận động vào năm 1950. Khi Collins yêu cầu Washington phải thay thế Ngô Đình Diệm, Ngoại trưởng Hoa Kỳ, Dulles tham vấn Thượng nghị sĩ Mike Mansfield. Thượng nghị sĩ Mike Mansfield khen ngợi Ngô Đình Diệm hết lời nên Ngoại trưởng Dulles chỉ thị Collins tiếp tục ủng hộ ông.
      Khi Collins trở về Mỹ, ngày 22 tháng 4 năm 1955, ông dùng bữa trưa với Tổng thống Eisenhower. Sau đó ông gặp Ngoại trưởng Dulles cùng với các đại diện Bộ Quốc phòng và Trung ương Tình báo để thuyết phục các quan chức Mỹ khác đồng ý thay thế Ngô Đình Diệm và phải có kế hoạch hành động ngay tức khắc. Collins đề nghị ông Phan Huy Quát thay thế Ngô Đình Diệm. Ngày 27 tháng 4 năm 1955, Ngoại trưởng Mỹ Dulles gửi điện cho Collins rằng "Tướng Collins và Ely phải thông báo cho ông Diệm biết rằng vì lý do ông không thành lập được một chính phủ liên hiệp có cơ sở rộng rãi và ông bị người Việt chống đối, chính phủ Hoa kỳ và Pháp không còn đủ tư thế để ngăn ngừa việc ông phải từ chức. Những đức tính yêu nước của ông vẫn có giá trị tiềm năng lớn đối với Việt Nam, và chúng ta hy vọng rằng ông sẽ hợp tác với bất kỳ chính phủ mới nào được chỉ định..."
      Mật điện này lọt ra ngoài, Thủ tướng Diệm biết được nên đã ra lệnh tấn công quân Bình Xuyên trong lúc ông Collins còn đang trên đường về Sài Gòn, điều này khiến Mỹ không thể hỗ trợ lực lượng nào tại Việt Nam gây sức ép buộc Diệm từ chức. Sau đó Bộ ngoại giao Mỹ tiếp tục sẵn sàng xem xét các đề nghị thay thế Ngô Đình Diệm nhưng không tìm thấy chính trị gia nào có thể cạnh tranh với Diệm.
Thủ tướng Quốc gia Việt Nam Ngô Đình Diệm tuyên bố "Chúng tôi không từ chối nguyên tắc tuyển cử tự do để thống nhất đất nước một cách hoà bình và dân chủ", "thống nhất đất nước trong tự do chứ không phải trong nô lệ" nhưng ông bác bỏ cuộc tổng tuyển cử thống nhất Việt Nam vốn được dự kiến diễn ra vào tháng 7 năm 1956 theo Tuyên bố cuối cùng của Hiệp định Genève với lý do không thể đảm bảo những điều kiện của cuộc bầu cử tự do ở miền Bắc. và bác bỏ ngay cả những thảo luận sơ khởi với Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về vấn đề tuyển cử thống nhất Việt Nam. Hành động này khiến Ngô Đình Diệm bẽ mặt ở phương Tây.

                                                     Máy chém, Guillotine, thời Ngô Đình Diệm
                                                      Máy chém (Guillotine) thời Ngô Đình Diệm
                                                    được sử dụng tại miền Nam để chặt đầu
                                                     nhân dân yêu nước, hiện được
                                                     trưng bày tại Bảo tàng Chứng tích
                                                     Tội ác Chiến tranh, Sài Gòn

     Theo Mortimer T. Cohen thì Ngô Đình Diệm không chấp nhận tổng tuyển cử, vì ông biết rằng mình sẽ thua. Không ai có thể thắng cử trước Hồ Chí Minh, vì ông là một George Washington của Việt Nam. Báo cáo của CIA gửi Tổng thống Mỹ Eisenhower cũng cho rằng khoảng 80% dân số Việt Nam sẽ bầu cho Hồ Chí Minh nếu mở cuộc tổng tuyển cử. Do vậy Hoa Kỳ đã hậu thuẫn cho Ngô Đình Diệm thành lập một chính thể riêng biệt ở phía Nam vỹ tuyến 17 để không thực hiện tổng tuyển cử thống nhất Việt Nam. Cuộc tổng tuyển cử tự do cho việc thống nhất Việt Nam vì vậy đã không bao giờ được tổ chức.
Năm 1956, Ngoại trưởng Allen Dulles đệ trình lên Tổng thống Mỹ Eisenhower báo cáo tiên đoán nếu bầu cử diễn ra thì "thắng lợi của Hồ Chí Minh sẽ như nước triều dâng không thể cản nổi". Trong tình thế này, Ngô Đình Diệm chỉ có một lối thoát là tuyên bố không thi hành Hiệp định Genève. Được Mỹ khuyến khích, Ngô Đình Diệm kiên quyết từ chối tuyển cử. Theo Cecil B. Currey, Mỹ muốn có một chính phủ chống Cộng tồn tại ở miền Nam Việt Nam, bất kể chính phủ đó có tôn trọng nền dân chủ hay không.
Báo Độc Lập của Đảng Dân chủ Việt Nam có viết: "Cho nên mới tháng 9 năm 1954 nghĩa là hai tháng sau ngày ký Hiệp định đình chiến thì chúng đã nghĩ ra "sáng kiến" là làm thử tổng tuyển cử vài nơi ở miền Nam. Ở Vĩnh Trà (Nam Bộ), tay sai của Ngô Đình Diệm tìm cách mua chuộc nhân dân bằng cách đưa vải về một làng, phát cho dân rồi tuyên truyền cho Bảo Đại, phát phiếu cho dân làng bầu. Kết quả mà chúng lo sợ đã đến: chúng đã không mua chuộc nổi: 95% số phiếu dồn cho Hồ Chủ tịch, Bảo Đại chỉ được 5%. Chúng uất đến tận cổ. Báo cáo kết quả lên "thượng cấp" thì lại bị chỉnh một mẻ nên thân. "Thượng cấp" cho là chúng không tích cực tuyên truyền vận động, và bắt chúng phải làm lại. Chúng lại tìm cách mua chuộc một lần nữa. Một số vải, gạo, thuốc men, đưa về để phát cho dân, kèm theo một đợt tuyên truyền thứ hai. Nhưng cũng như lần trước, không ai chịu để chúng mua chuộc. Kết quả cuộc bỏ phiếu thứ hai là 100% bầu Hồ Chủ tịch. Ở cực Nam Liên khu V cũng diễn ra trò hề tương tự, và cũng thất bại không kém chua cay".

 
      Khi Quốc trưởng Bảo Đại ra lệnh cho Ngô Đình Diệm sang Pháp để tường trình về việc trấn áp Bình Xuyên thì ông đã sửa soạn ra đi nhưng những người ủng hộ ông can ngăn. Theo tướng Trần Văn Đôn thì Bảo Đại dự định khi Ngô Đình Diệm ra khỏi nước sẽ cách chức liền, đưa Lê Văn Viễn, Tư lệnh Bình Xuyên lên làm Thủ tướng.
Tại miền Nam, từ 1954-1955, với cương vị thủ tướng, ông đã dẹp yên và thu phục lực lượng Bình Xuyên, lực lượng vũ trang của các giáo phái Hoà Hảo, Cao Đài được Pháp đứng sau hỗ trợ nhằm chống lại ông. Trong nước, ông được Ủy ban Cách mạng Quốc gia gồm nhiều đoàn thể, đảng phái ủng hộ. Ông cũng được gần một triệu người di cư hậu thuẫn mạnh mẽ. Ngoài nước, Ngô Đình Diệm đã cương quyết chống trả kế hoạch lật đổ ông của hai tướng Ély-Collins nên bây giờ được Washington ủng hộ.
Quốc gia Việt Nam tổ chức cuộc trưng cầu dân ý miền Nam Việt Nam, 1955 đã phế truất Quốc trưởng Bảo Đại, đưa thủ tướng Ngô Đình Diệm trở thành Quốc trưởng. Cuộc trưng cầu dân ý bị tố cáo là gian lận như tại Sài Gòn, Ngô Đình Diệm chiếm được 605.025 lá phiếu trong khi khu vực này chỉ có 450.000 cử tri ghi tên.
Sau đó Quốc trưởng Ngô Đình Diệm tổ chức bầu Quốc hội Lập hiến cho Quốc gia Việt Nam. Quốc hội này ban hành Hiến pháp đổi tên Quốc gia Việt Nam thành Việt Nam Cộng hòa. Chính thể mới Việt Nam Cộng Hoà được thành lập vào ngày 26 tháng 10 năm 1955 và sau đó ông được bầu làm Tổng thống nền Đệ Nhất Cộng hòa Việt Nam. Hai năm sau, năm 1957 ông có chuyến viếng thăm chính thức Hoa Kỳ lần đầu tiên với cương vị tổng thống của Việt Nam Cộng hoà.
  
Ngày 22 tháng 10 năm 1960, Tổng thống Mỹ, Eisenhower gửi thư cho Tổng thống Ngô Đình Diệm "Chúng tôi đã chứng kiến sự can đảm và táo bạo mà Ngài và nhân dân Việt Nam đã biểu dương để đạt tới độc lập trong một tình huống nguy hiểm đến độ mà nhiều người đã coi như là vô vọng. Chúng tôi còn ngưỡng mộ khi tình trạng hỗn loạn ở Miền Nam đã nhường chỗ cho trật tự, và tiến bộ đã thay thế cho tuyệt vọng, tất cả với một tốc độ quá là nhanh chóng...".
 
      Ông Diệm là người phân biệt cá nhân theo vùng miền. Ông chỉ thích nâng đỡ người gốc Huế. Ngô Đình Diệm thường nói: "Chỉ có dân miền Trung mới có khả năng lãnh đạo quốc gia. Dân miền Bắc hợp với buôn bán, còn dân miền Nam chỉ làm tướng võ biền". Cách hành xử của ông Diệm cũng rất cao ngạo. Ông xem Việt Nam Đệ Nhất Cộng hòa là quốc gia của riêng ông và của gia đình ông. Ông ban phát ân huệ cho thuộc cấp theo ngẫu hứng, bất chấp năng lực lẫn tình hình thực tế. Không có gì là quá ngạc nhiên khi nhiều sử gia gọi Việt Nam Đệ Nhất Cộng hòa là Ngô triều. Theo nhiều hồi ký của tướng lĩnh dưới thời ông Diệm kể lại, thì khi vào cửa Tam quan ở các đền thờ vua chúa, ông Diệm thường nói: "Các ông đi cổng hai bên, vì cổng giữa chỉ có vua mới được đi. Chúng ta phải tôn trọng nguyên tắc này". Dứt câu, ông Diệm đi vào bằng cổng giữa. Nội chuyện xây dựng Dinh Độc Lập và ý định dời đô từ Sài Gòn lên cao nguyên đã khiến ông Diệm càng trở nên xa cách với giới tướng lĩnh. Ngay cả người gần gũi với gia đình ông như tướng Trần Văn Đôn còn bất mãn với sự độc đoán này của ông Diệm.
Nhà báo đương thời tại miền Nam, ông Vũ Bằng nhận xét:
 
         "Lúc ấy sau ba lần thắng Bình Xuyên và áp dụng biện pháp mạnh đối với các giáo phái, thắng lợi, Ngô Đình Diệm bắt đầu có lông có cánh, ra mặt chống Bảo Đại, không đi Pháp để trình với Quốc trưởng về các biến cố ở nước nhà, mà ở lì trong nước tập làm độc tài cỏ, đưa họ hàng lên nắm hết các chức vụ quan trọng… Nam Việt Nam lúc bấy giờ là một nhà nước cảnh sát do hai gia đình quan lại Trần Văn và Ngô Đình nắm hết quyền hành. Gia đình Trần Văn còn trung thành phần nào với tập tục cổ truyền của nhà vua Bảo Đại, chớ họ Ngô Đình thì trắng trợn ly khai với chế độ cũ và nuôi cái mộng lập một triều đại mới: triều đại Ngô Đình. Cố nhiên muốn thực hiện mộng đó, phải tàn ác diệt trừ những cá nhân, đoàn thể chống đối, mà cá nhân và đoàn thể chống đối lúc ấy là những người gốc ở miền Bắc và miền Nam chỉ muốn nhà Ngô giữ lời đã hứa là tổ chức một cuộc bầu cử để họ có thể bầu người đại diện của họ lên lo việc nước. Theo những người có tiếng là chống đối này, ông Diệm “là một lính nhảy dù do Mỹ thả từ trên trời xuống mà không có rễ ở dưới đất”.
       Báo chí cúi đầu theo răm rắp, suy tôn Ngô tổng thống. Vào chiếu bóng, rạp hát, phải chào cờ và đứng nghiêm nghe nhạc trổi bài “Toàn dân Việt Nam biết ơn Ngô tổng thống – Ngô tổng thống, Ngô tổng thống… muôn năm” cho đến khi lá cờ vàng sọc đỏ mờ dần cùng với cái hình ông Diệm lùn mập.
Báo chí không lúc nào ngưng suy tôn Ngô tổng thống. Mọi việc đều trơn tru, êm đẹp. Nếu không có Ngô tổng thống thì toàn dân chết không còn một mống. Muôn năm, muôn năm!"  
       Quyết tâm tránh các biện pháp mà Ngô Đình Diệm coi là "ăn cướp và tra tấn dã man" như phong trào Cải cách ruộng đất tại miền Bắc, Tổng thống Ngô Đình Diệm chỉ thị cho các quan chức địa phương trả tiền mua số đất vượt quá giới hạn, chứ không tịch thu. Sau đó chính phủ sẽ chia nhỏ số đất vượt giới hạn này để bán cho các nông dân chưa có ruộng, và họ được vay một khoản tiền không phải trả lãi trong kỳ hạn sáu năm để mua.

Image

     Tuy vậy, đường lối Cải cách điền địa mà Ngô Đình Diệm đề ra bị nông dân miền Nam phản đối dữ dội. Trong khi Việt Minh đã giảm thuế, xóa nợ và tịch thu ruộng đất của địa chủ chia cho nông dân nghèo, Ngô Đình Diệm đã đưa giai cấp địa chủ trở lại. Đến cuối thời Ngô Đình Diệm, 10% chủ đất đã nắm giữ 55% đất canh tác cả miền Nam. Nông dân phải trả lại đất cho địa chủ rồi phải trả tiền thuê đất và phải nộp cho quân đội. Điều này tạo ra một cơn giận dữ ở nông thôn, quân đội của Ngô Đình Diệm bị mắng chửi là "tàn nhẫn hệt như bọn Pháp". Đất của các Giáo xứ Công giáo thì còn được Ngô Đình Diệm thiên vị, cho miễn thuế và hạn mức. Kết quả là tại nông thôn, 75% người dân ủng hộ quân Giải phóng, 20% trung lập trong khi chỉ có 5% ủng hộ chế độ Ngô Đình Diệm.
Sau khi lên làm tổng thống, ông giữ mọi quyền cai quản đất nước với người em Ngô Đình Nhu làm cố vấn và cả hai người đều sử dụng các phương pháp cứng rắn để chống lại những người kháng chiến Việt Minh được sự hỗ trợ của chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ở miền Bắc. Trong khi nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được xây dựng trên học thuyết xã hội chủ nghĩa thì hai anh em xây dựng Chủ nghĩa nhân vị như là một học thuyết làm nền tảng ý thức hệ cho nhà nước ở miền Nam Việt Nam với chính đảng Cần lao Nhân vị.
Theo Hiệp định Genève, lực lượng quân sự của mỗi bên tham gia cuộc chiến Đông Dương (1945-1955) sẽ rút khỏi lãnh thổ của phía bên kia. Lực lượng Quân đội Nhân dân ở miền Nam phải di chuyển về phía Bắc vĩ tuyến 17. Nhưng theo ước tính của Mỹ, vẫn còn 100.000 cán bộ, đảng viên các ngành vẫn được bố trí ở lại. Đồng thời một số cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang dày dạn kinh nghiệm được chọn lọc làm nhiệm vụ bảo vệ lãnh đạo Đảng, thâm nhập vào tổ chức quân sự và dân sự của đối phương hoặc nắm lực lượng vũ trang giáo phái để dự phòng cho việc phải chiến đấu vũ trang trở lại. Việt Minh cũng chôn giấu một số vũ khí và đạn dược tốt để sử dụng khi cần. Bên cạnh đó Trung ương Đảng đã cử nhiều cán bộ có kinh nghiệm, am hiểu chiến trường về miền Nam lãnh đạo phong trào hoặc hoạt động trong hàng ngũ đối phương.

                                  
Những cảnh thảm sát của lính Việt Nam Cộng hòa dưới thời Ngô Đình Diệm
 
                                  
Sự độc ác này chỉ có thể gây ra từ những tên chó săn lòng lang dạ thú VNCH

Điều 7 Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa 1956 quy định "Những hành vi có mục đích phổ biến hoặc thực hiện một cách trực tiếp hay gián tiếp chủ nghĩa cộng sản dưới mọi hình thái đều trái với các nguyên tắc ghi trong Hiến pháp". Việt Nam Cộng hòa "kêu gọi" những người cộng sản đang hoạt động bí mật ly khai tổ chức, ra "hợp tác" với chế độ mới đồng thời cưỡng ép những người bị bắt từ bỏ chủ nghĩa cộng sản. Dù vậy hệ thống tổ chức bí mật của Việt Minh vẫn tiếp tục tồn tại và phản kháng bằng cách tuyên truyền chống chính phủ, tổ chức những cuộc biểu tình chính trị gây sức ép lên chính phủ Việt Nam Cộng hòa.

     Điều 7 Hiến pháp Việt Nam Cộng hòa 1956 quy định "Những hành vi có mục đích phổ biến hoặc thực hiện một cách trực tiếp hay gián tiếp chủ nghĩa cộng sản dưới mọi hình thái đều trái với các nguyên tắc ghi trong Hiến pháp". Việt Nam Cộng hòa "kêu gọi" những người cộng sản đang hoạt động bí mật ly khai tổ chức, ra "hợp tác" với chế độ mới đồng thời cưỡng ép những người bị bắt từ bỏ chủ nghĩa cộng sản. Dù vậy hệ thống tổ chức bí mật của Việt Minh vẫn tiếp tục tồn tại và phản kháng bằng cách tuyên truyền chống chính phủ, tổ chức những cuộc biểu tình chính trị gây sức ép lên chính phủ Việt Nam Cộng hòa.

    Chính quyền Ngô Đình Diệm đối phó với những cuộc đấu tranh chính trị bằng cách thực hiện chiến dịch tố cáo cộng sản nằm vùng nhằm loại bỏ những cán bộ Việt Minh hoạt động bí mật. Chính quyền của Ngô Đình Diệm luôn luôn quan niệm cộng sản là kẻ thù chính, nhiệm vụ phản công là tối ưu, phải đẩy mạnh nhiệm vụ chống cộng. Ông Ngô Đình Diệm rất nổi tiếng với các khẩu hiệu: "đồng tâm diệt cộng", "tiêu diệt cán bộ nằm vùng", "tiêu diệt cộng sản tận gốc", "giết nhầm còn hơn bỏ sót"; thể hiện quyết tâm chống Chủ nghĩa Cộng sản tới cùng của ông. Để thể hiện lập trường sẽ tận diệt cán bộ Việt Minh, Ngô Đình Diệm đã tuyên bố công khai:"Thấy cộng sản ở đâu là phải bắn bỏ ngay, thấy ai tuyên truyền cho cộng sản cũng bắn bỏ ngay".

Theo báo Nhân dân, ngay từ cuối năm 1954, theo lệnh Mỹ, chính quyền Ngô Đình Diệm đã gây ra những vụ tàn sát đẫm máu ở Ngân Sơn, Chí Thạnh, Chợ Được, Mỏ Cày, Củ Chi, Bình Thành,v.v. Từ tháng 5-1955 đến tháng 5-1956, Ngô Đình Diệm phát động "chiến dịch tố cộng" giai đoạn 1 trên quy mô toàn miền Nam; tháng 6-1955, mở chiến dịch Thoại Ngọc Hầu càn quét những khu từng là căn cứ kháng chiến chống Pháp của Việt Minh. Chính phủ Việt Nam Cộng hòa tiến hành các chiến dịch tố cộng, diệt cộng, liên gia phòng vệ, dồn dân lập ấp chiến lược... một cách quyết liệt không tính đến các đặc điểm tâm lý và quyền lợi của dân chúng cũng như hoàn cảnh lịch sử Việt Nam. Những biện pháp cứng rắn nhất được áp dụng, ví dụ ngày 16-8-1954, quân Việt Nam Cộng hoà đã nổ súng trấn áp đoàn biểu tình ở thị xã Gò Công, bắn chết 8 người và 162 người bị thương.
Trong thời gian từ 1955 đến 1960, theo số liệu của Việt Nam Cộng hoà có 48.250 người bị tống giam, theo một nguồn khác có khoảng 24.000 người bị thương, 80.000 bị hành quyết hay bị ám sát, 275.000 người bị cầm tù, thẩm vấn hoặc với tra tấn hoặc không, và khoảng 500.000 bị đưa đi các trại tập trung. Điều này đã làm biến dạng mô hình xã hội, suy giảm niềm tin của dân chúng vào chính phủ Ngô Đình Diệm và đẩy những người kháng chiến (Việt Minh) vào rừng lập chiến khu. Việt Minh đáp trả bằng những cuộc biểu tình đòi thả cán bộ của họ hoặc tổ chức các cuộc diệt ác trừ gian - tiêu diệt nhân viên và cộng tác viên của chính quyền Ngô Đình Diệm được gọi là "bọn ác ôn và bọn do thám chỉ điểm".

Giáo sư sử học James P. Harrison cũng viết trong cuốn The Endless War:  Vietnam Struggle For Independence, Columbia University Press, 1989, trang 149:
“Tuy nhiên, những cuộc nghiên cứu kỹ về sau đã ước tính là con số những người bị giết trong cuộc cải cách ruộng đất ở ngoài Bắc là vào khoảng 1500 cộng với 1500 bị cầm tù, theo một tác giả,  hoặc có thể lên tới 15000 theo một tác giả khác, và do đó hầu hết những con số tuyên truyền của Saigon về vấn đề này là những con số phóng đại nếu không phải là hoàn toàn dựng đứng.”
(Careful later studies, however, have estimated that the true figures for those executed in the noerthern land reform may have been more like 1500 plus 1500 jailed according to one, or possibly up to 15000 killed according to another, and therefore that most of Saigon’s propaganda on the subject was exaggerated if not a “total fabrication”.)
Đưa ra những tài liệu phản biện như trên không có nghĩa là tôi biện hộ cho chiến dịch Cải Cách Ruộng Đất của Việt Minh mà chỉ là đối với tôi, những tài liệu ngụy tạo để chống Cộng như trên có thể thích hợp trong thời chiến, nhưng nay viết lại lịch sử thì phải viết cho đúng với sự thật, bất kể sự thật đó là như thế nào.  Mặt khác, nếu số người  bị giết trong cuộc Cải Cách Ruộng Đất như trên mà gọi là “genocide” thì số 300000 (3 trăm ngàn) người chết oan trong chiến dịch tố Cộng của Ngô Đình Diệm thì gọi là gì?
 

Trên đây là một số trong những hình ảnh trong chính sách Tố Cộng tàn nhẫn của chính quyền miền Nam.

     Để tăng tính uy hiếp, Việt Nam Cộng hòa sử dụng cả máy chém để hành quyết phạm nhân. Nhiều vụ xử chém của Việt Nam Cộng hòa được diễn ra công khai trước dân chúng, đầu phạm nhân được đem bêu để cảnh cáo. Báo The Straits Times (Singapore) ngày 24 tháng 7 năm 1959 có bài viết tường thuật cảnh 1.000 người dân xem xử chém ở Sài Gòn. Báo Buổi sáng (Sài Gòn) ngày 15-10-1959 có viết: “Theo một phán quyết của phiên xử vắng mặt của Tòa án Quân sự Đặc biệt ngày 02 tháng 10, Nguyễn Văn Lép, tức Tư Út Lép, một Việt Cộng, đã bị tuyên án tử hình. Cách đây một tuần, Lép đã bị sa vào lưới của Cảnh sát trong một khu rừng ở Tây Ninh. Bản án tử hình đã được thi hành … Hiện đầu và gan của tên tử tù đã được Hội đồng xã Hào Đước cho đem bêu trước dân chúng".
Ngày 6/5/1959, Quốc hội Việt Nam Cộng Hoà thông qua luật số 91 mang tên Luật 10-59, sau đó được tổng thống Việt Nam Cộng hòa là Ngô Đình Diệm ký ban hành. Luật này quy định việc tổ chức các Tòa án quân sự đặc biệt với lý do "xét xử các tội ác chiến tranh chống lại Việt Nam Cộng Hòa", mục đích nhằm tiến hành thanh trừ những người cộng sản ở miền Nam Việt Nam. Theo luật 10-59, bị can có thể được đưa thẳng ra xét xử mà không cần mở cuộc điều tra, án phạt chỉ có hai mức: tử hình hoặc tù khổ sai, xét xử kéo dài 3 ngày là tối đa, không có ân xá hoặc kháng án; dụng cụ tử hình có cả máy chém. Sau khi luật này được ban hành, lực lượng cách mạng miền Nam bị chính quyền Diệm đẩy mạnh truy quét, bắt bớ, khủng bố, đặc biệt là các đảng viên Đảng cộng sản nên lực lượng bị thiệt hại nặng nề.
Như vậy, có thể thấy, được sự hà hơi tiếp sức của Mỹ và sau khi thu tóm quyền lực, củng cố cái chính thể phản bội quyền lợi của Dân tộc Việt có tên gọi là Việt Nam Cộng Hòa, Ngô Đình Diệm quay sang ra sức triệt phá các cơ sở cách mạng, lùng sục ráo riết, bắt bớ và giết chóc hàng loạt những người từng tham gia cách mạng, tham gia kháng chiến chống Pháp mà chúng gọi là Việt Cộng và người kháng chiến cũ. Sự đàn áp khốc liệt đó với cao trào là luật 10/59 lê máy chém đi khắp miền Nam - Việt Nam đã gây ra biết bao nhiêu đau thương, tang tóc cho đồng bào miền Nam, và đặc biệt nghiêm trọng là nó đã chà đạp tan nát Hiệp định Giơnevơ, làm cho sự chờ đợi 2 năm xum họp nước nhà của toàn thể nhân dân Việt Nam trở thành vô vọng.

Bài thơ “Ngô Thuốc Độc Ngợi Ca máy Chém” (trích từ “Chế Lan Viên Toàn tập”) và những tài liệu Việt Mỹ dưới đây (kể cả tài liệu của Việt Nam Cọng hòa) đã chứng minh Đạo Luật 10/59 và chiếc máy chém do Pháp để lại đã từng là nỗi hãi hùng của nhân dân miền Nam dưới thời Ngô Đình Diệm. Biết bao người dân vô tội cũng đã bị chết oan vì bọn Mật vụ Cần Lao Công giáo ác ôn vu oan giá họa vì tư thù … Chế độ Diệm nhờ hai đế quốc Mỹ và Vatican mà thành hình, chế độ nầy được cho là thay Pháp nhưng lại vẫn duy trì hai di sản của Thực dân Pháp để lại: Đó là Đạo dụ số 10 để đạp các tôn giáo khác xuống bùn cho Công giáo được đặc quyền đặc lợi, và chiếc máy chém hãi hùng chặt đầu những ngưòi yêu nước.  - NG
Ngô thuốc độc ngợi ca máy chém
Tiếng vọng trong gió:
Xứ "ông" Diệm cộng hoà
Việt gian thành chí sĩ
Chúng nó mua máy Mỹ
Về cắt đầu dân ta...

Tiếng Ngô thuốc độc:
Ngô bảo: giết người là trọng đại
Việc máu Ngô xem như việc nhà
Huống nữa nay làm nên Tống thống
Giết người, không thể giết qua loa

Lối chém Nam Triều khá hủ hậu
Nhiều gươm mà ít kiếm ra máu
Nước mình tiếng thế nhưng đông dân
Giết người, máu phải cho đầy chậu

Quan Mỹ ngày nay vốn đại tài
Xoẹt qua một lúc, chục đầu rơi
Tính xem! Mười máy kia cùng chém
Ngô có ngay một trăm nụ cười

Đã chém còn bày lắm khó khăn
Pháp trường với không phải pháp trường!
Đâu là Tổ quốc, đấy, Ngô chém
Nơi nào chẳng kiếm được đầu dân!

Chém kiểu Ngô đây quả rất tiện
(Ưu tiên cho những đầu kháng chiến)
Ngô thề có trời, Ngô thương dân
Máy đến tận nhà dân để chém

Máy dong miền Đông, dong miền Tây
Chỉ huy đã có ông quan thầy
Nghề chém như nghề Ngô Tổng thống
Nơi nào có máu thì đi ngay

Lối chém ngày xưa cũng lắm tuồng
Chém chui chém nhủi chả ra hồn
Như sợ mặt trời uống mất máu
Chém người phải trốn giữa mù sương

Ngô chém bây giờ rất hãnh diện
Thầy Mỹ về trông, quan khách đến
Máu người, Ngô để cho người xem
Không có mặt trời thì bật điện

Lũ báo nhà Ngô văn viết... mau
Bút ngâm trong máu đỏ đồng bào
Tâu rằng: Ngô chém rất... nhân vị
Toàn rặt sọ dừa dân... cần lao

Máy Ngô đi trước, mồm theo sau
Mồm phun đỏ máu câu từng câu
Khen: Ngô yêu nước như yêu máu
Máu rơi một sắc, văn trăm màu

Lại ca: thầy Mỹ xưa cho bom
Giờ cho máu chém siêu linh hồn
Xương người vây trắng dinh Ngô ở
Máu người thắp đỏ phố U-ôn

Tiếng vọng trong gió:
Xứ "ông" Diệm cộng hoà
Trăm sự đều của Mỹ
Máy chém thì... nhân vị
Sơn màu U.S.A.
 

Nguồn: Chế Lan Viên toàn tập, Nxb Văn học, 2002 (Vũ Thị Thường sưu tầm và biên soạn)


Máy chém (Guillotine) thời Ngô Đình Diệm được sử dụng tại
miền Nam để chặt đầu nhân dân yêu nước, hiện được trưng bày
tại Bảo tàng Chứng tích Tội ác Chiến tranh, Sài Gòn
 
      Có những thông tin khác nhau về việc Ngô Đình Diệm muốn Hoa Kỳ (và cả Trung Hoa Dân Quốc) đưa quân vào tham chiến trực tiếp tại Việt Nam hay không.
Ngày 11 tháng 11 năm 1960, Ngô Đình Diệm nhờ Linh mục Raymond de Jaegher, người Bỉ quốc tịch Mỹ, xin với Đại sứ Mỹ Elbridge Durbrow cho Thủy quân lục chiến Mỹ đổ bộ vào Sài gòn với lý do bảo vệ công dân Mỹ và kiểm soát phi trường Tân Sơn Nhất.
  
       Có chuyện: Trần Lệ Xuân, vợ Ngô Đình Nhu, được co là đệ nhất phu nhân của Đệ Nhất Cộng hòa Việt Nam, từng cho xây dựng tượng Hai Bà Trưng, tượng này có khuôn mặt giống hệt hai mẹ con bà: Trần Lệ Xuân - Ngô Đình Lệ Thủy. Nhiều người cho rằng bà cố tình cho tạc tượng Trưng Trắc có khuôn mặt giống với bà và Trưng Nhị có khuôn mặt giống với con gái của bà là Lệ Thuỷ. Thời điểm ấy, nhà thơ Đông Hồ có bài thơ châm biếm “Tượng ai đâu phải tượng bà Trưng” như sau :
"Tóc uốn lưng eo kiểu lố lăng
Đón gió lại qua người ưỡn ẹo
Chờ chim Nam Bắc dáng tung tăng
Khuynh thành mặt đó y con ả
Điêu khắc tay ai khéo cái thằng!
Chót vót đứng cao càng ngã nặng
Có ngày gãy cổ đứt ngang lưng...
Đây một hình xưa nhục nước non
Thay hai hình mới đứng thon von
Mình ni lông xát lưng eo thắt
Ngực xu chiêng nâng vú nở tròn
Tưởng đứng hiên ngang em với chị
Hóa ra dìu dắt mẹ cùng con
Dòng sông Bến Nghé, dòng sông Hát
Lưu xú lưu phương tiếng để còn"
       Theo sử gia Joseph Buttinger thì “Nhu và vợ là hai người bị thù ghét nhất Nam Việt Nam”. Do đó sau này, ngày 2–11–1963, khi họ Ngô vừa bị đảo chính, nhiều người dân Sài Gòn đã kéo nhau dùng một dây sắt nối với một tàu thủy để kéo sập tượng đài này, và chở trên xe xích lô máy đi diễu khắp Sài Gòn chiếc đầu tượng mang gương mặt bà.

                                                                           *** 
     Ngày 20 tháng 10 năm 1961, tướng Mỹ Maxwell D. Taylor hội thảo với Ngô Đình Diệm lần đầu tiên, Ngô Đình Diệm đề nghị một hiệp ước hỗ trợ quân sự, gia tăng quân số Việt Nam Cộng Hòa và yểm trợ không quân của Mỹ. Ngày 27 tháng 10 năm 1961, Taylor hội thảo với Ngô Đình Diệm lần thứ hai và đề nghị đưa bộ binh Mỹ vào miền Nam Việt Nam với nhiệm vụ chính thức là cứu lụt, Diệm rất tán thành. Tư liệu trong kho Cambodge-Laos-Vietnam ghi nhận Ngô Đình Diệm "không những muốn đón nhận quân chiến đấu Mỹ và các nước đồng minh, mà còn tuyên bố đại đa số dân miền Nam chào đón (welcome) việc này."
         Trong buổi họp ngày 13 tháng 10 năm 1961, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Đình Thuần đã đề nghị Mỹ hãy duyệt gấp những yêu cầu của Tổng thống Diệm, trong đó đó đề nghị Mỹ và Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) gửi quân đến Việt Nam, cụ thể:
  • Gửi thêm các phi đoàn khu trục cơ AD-6 và các phi công dân sự Mỹ để điều khiển máy bay.
  • Gửi quân Mỹ tác chiến hoặc quân Mỹ “cố vấn tác chiến” cho quân Việt Nam Cộng Hòa. Một phần quân số này sẽ đóng gần vĩ tuyến 17 để Việt Nam Cộng Hòa rảnh tay chống quân du kích dân tộc thiểu số ở Tây nguyên.
  • Xin được biết phản ứng của Mỹ đối với đề nghị (của ông Diệm) xin Trung Hoa Dân Quốc gửi một sư đoàn quân tác chiến vào khu vực hành quân ở vùng Tây Nam.
       Còn theo lời Bùi Kiến Thành, cộng sự thân cận với Tổng thống Ngô Đình Diệm thì đến năm 1962, Ngô Đình Diệm không muốn Mỹ đưa quân vào Việt Nam mà muốn đàm phán với chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, chính vì điều này mà người Mỹ đã chỉ đạo các tướng lĩnh Việt Nam Cộng hòa khởi động cuộc đảo chính lật đổ Ngô Đình Diệm: "... Khi Mỹ muốn vào Việt Nam năm 1962 ông Diệm nói với người Mỹ rằng các ông nên nhớ trên đất nước tôi trong 4.000 năm lịch sử không có một chế độ nào đi theo quân đội nước ngoài mà có thể được nhân dân ủng hộ. Vì vậy ngày nào quân đội Mỹ đặt chân lên đất nước này chúng tôi sẽ mất chính nghĩa, mà khi mất chính nghĩa thì các ông không thể nào thắng được và chúng tôi (Việt Nam Cộng Hòa) cũng phải thua theo. Vì vậy ngày nào quân Mỹ đổ bộ lên đất nước này thì kể như ngày đó chính nghĩa Việt Nam đã mất rồi, chúng tôi không thể chấp nhận được... Khi chính phủ Ngô Đình Diệm thấy cái nguy cơ lính Mỹ đổ bộ lên Việt Nam rồi mà không rút ra được thì chiến tranh sẽ tràn lan, dù cho quân đội Mỹ có đánh thẳng tới Hà Nội đi nữa thì chúng ta vẫn sẽ thua như thường tại vì quân đội Trung Quốc nó sẽ vào vì nó không để cho mình tiến qua biên giới của nó. Vì vậy Miền Bắc sẽ chiến đấu đến cùng để không cho quân của Trung Quốc qua chiếm đóng Việt Nam... Qua sự trung gian của đại sứ Ấn Độ trong Ủy ban Đình chiến, và Đại sứ Pháp… qua các cuộc đi săn bắn của ông Nhu trên vùng biên giới hai bên đã có những cuộc chia sẻ, chưa hẳn là thương thảo nhưng đã liên lạc được với nhau rồi. Khi Mỹ nghe như thế thì họ nói chính phủ Ngô Đình Diệm phản thùng và họ đưa việc này ra cho mấy ông tướng lãnh Việt Nam Cộng Hòa bảo là ông Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu "bán nước cho cộng sản", vì vậy các anh phải lật đổ Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Diệm đi để “cứu nước” không thì họ theo cộng sản, “bán đứng” các anh cho cộng sản... Tháng 9 năm 1963 Tổng thống Kennedy đã quyết định rút quân ra khỏi Việt Nam rồi nhưng do cuộc bầu cử năm 1964 nên không thể làm được cho nên chờ tới năm 1964 sau khi bầu xong thì sẽ làm, nhưng rất tiếc vận hạn của nước ta và nước Mỹ là Kennedy bị bắn chết, Ngô Đình Diệm bị lật đổ, Việt Nam đi vào cuộc chiến tranh tàn khốc do sự thiếu hiểu biết của một số người nông cạn của phía Mỹ cũng như Việt Nam Cộng Hòa... Người Mỹ không chấp nhận cái lý luận của ông Ngô Đình Diệm nên họ tìm cách lật đổ ông Diệm đi, đó là vấn đề cốt lõi chứ không phải do bà Nhu thế này thế khác... Việc đảo chánh Ngô Đình Diệm không phải là chuyện của Dương Văn Minh, ông ta chỉ là một con cờ thôi, cũng như Trần Văn Đỗ cũng như mấy ông kia cũng chỉ là con cờ, còn người chỉ huy, đưa ra tất cả những chiến thuật chiến lược để làm việc này là người Mỹ, mà người đại diện cho Mỹ làm việc này là đại tá tình báo Lucien Conein, ngồi thường trực tại Bộ Tổng tham mưu để điều khiển mấy ông tướng kia, thành ra tất cả bộ tham mưu lúc đó nghe theo lời của một anh đại tá mật vụ của Mỹ, nghe có cay đắng không?".
      Từ năm 1957 đến năm 1962 Tổng thống Ngô Đình Diệm bị ám sát hai lần nhưng ông may mắn thoát chết. Lần đầu tiên do Hà Minh Trí, một người cộng sản dưới lốt thành viên Cao Đài thực hiện ngày 22 tháng 2 năm 1957 tại "Hội chợ Kinh tế Cao nguyên" ở Buôn Ma Thuột, lần thứ hai do hai phi công thuộc Quân lực Việt Nam Cộng hòa là Nguyễn Văn Cử và Phạm Phú Quốc, vốn là đảng viên Đại Việt Quốc dân Đảng, ném bom vào dinh Tổng thống ngày 27 tháng 2 năm 1962
Đảo chính tại Việt Nam Cộng hòa năm 1960 là cuộc đảo chính quân sự đầu tiên tại Việt Nam Cộng hòa, do đại tá Nguyễn Chánh Thi và trung tá Vương Văn Đông cầm đầu. Mục đích cuộc đảo chính nhằm lật đổ Tổng thống Ngô Đình Diệm. Ban đầu, quân đảo chính kiểm soát được một số vị trí quan trọng tại Sài Gòn do yếu tố bất ngờ, tuy nhiên nhanh chóng thất bại khi các thủ lĩnh quân sự không kiên quyết cũng như không có được sự ủng hộ quần chúng.
     Kế hoạch đảo chính đã được Vương Văn Đông và các quan chức bất bình với chế độ Ngô Đình Diệm, trong đó có Đại tá Nguyễn Chánh Thi, chuẩn bị trong một năm. Vương Văn Đông đã cấu kết được với một trung đoàn xe thiết giáp, một đơn vị hải quân và ba tiểu đoàn quân nhảy dù.
                                                    
     Sau cuộc chiến là một cuộc đàn áp của Ngô Đình Diệm với những người chỉ trích và nhiều bộ trưởng nội các bị bỏ tù. Một số sĩ quan quân đội và chính khách đối lập liên quan đến cuộc đảo chính bị chính quyền Ngô Đình Diệm thanh trừng và đưa ra xét xử, tiêu biểu như vụ án nhà văn Nguyễn Tường Tam.Các mối quan hệ của chế độ Ngô Đình Diệm với Hoa Kỳ đã trở nên tồi tệ hơn trong năm 1963, do sự bất mãn ngày một tăng trong phần lớn Phật tử ở miền Nam Việt Nam. Tháng 5 năm 1963, ở Huế một thành phố trung tâm của đạo Phật, theo Topmiller, người anh của Ngô Đình Diệm là tổng Giám mục Ngô Đình Thục đã cấm phật tử và nhà chùa treo cờ nhà Phật trong lễ Phật đản căn cứ trên quy định cấm treo các loại cờ tôn giáo ở nơi công cộng. Còn theo tác giả Nguyễn Hiền Đức, Ngô Đình Cẩn chỉ thị cho Tỉnh trưởng yêu cầu ban Tổ chức lễ Phật Đản chỉ cần thông báo cho toàn thể tín đồ Phật giáo đừng treo cờ Phật giáo trong ngày lễ, Phật tử nào đã treo cờ rồi thì cứ để cho treo hết lễ.

Tường thuật đầy đủ về vụ đàn áp Phật giáo tại Huế năm 1963:

 Ngày 8/5/1963, lực lượng quân đội và an ninh của chính quyền Ngô Đình Diệm đã xả súng và ném lựu đạn vào đám đông Phật tử đang biểu tình ôn hòa phản đối lệnh cấm treo cờ Phật giáo trong ngày lễ Phật Đản, khiến 8 Phật tử không vũ trang tử vong tại Huế. Sau vụ việc này, một loạt phong trào Phật giáo đã nổ ra nhằm chống lại sự đàn áp, phân biệt tôn giáo của chính quyền Ngô Đình Diệm, kéo theo các phong trào bất tuân dân sự lan rộng khắp miền Nam Việt Nam, góp phần dẫn đến cuộc đảo chính lật đổ chế độ Diệm vào ngày 01/11/1963. Tạp chí Phương Đông giới thiệu với bạn đọc bài viết đăng trên Tạp chí Phổ Thông số 116 ra ngày 1/12/1963, trong đó tác giả Nguyễn Vạn Hồng, một sinh viên Phật tử và là nhân chứng vụ việc ngày 8/5, tường thuật đầy đủ vụ xả súng vào Phật tử tại Huế.

Sở dĩ cuộc tranh đấu của Phật giáo được lan rộng một cách mau chóng và được sự ủng hộ nhiệt liệt của toàn dân Việt Nam nói chung, và Phật tử nói riêng là nhờ ở mục phiêu[1] của cuộc tranh đấu đó có một ý nghĩa chân chính và thiêng liêng: Vấn đề triệt hạ lá cờ Phật giáo trong dịp đại lễ Đản sinh Đức Giáo chủ Thích Ca Mâu Ni. Dĩ nhiên, là tín đồ chẳng ai bằng lòng điều đó. Ấy là nguyên nhân khơi nguồn cho cuộc tranh đấu kéo dài gần sáu tháng nay và kết thúc bằng cuộc giải phóng do các Tướng lãnh đạo, lật đổ chế độ gia đình trị họ Ngô.

Như hàng năm đại lễ Phật đản năm nay sẽ được tổ chức tại Huế cũng như hầu hết các nơi khác một cách đơn sơ mà long trọng, ít tốn kém mà trang nghiêm, bởi trước đó có chỉ thị của Tổng hội Phật giáo Việt Nam xét rằng phải tiết kiệm ngân quỹ tổ chức để dành tiền ấy cứu trợ nạn hỏa hoạn ở Vĩnh Hội (xảy ra mấy tháng trước đó). Trong tinh thần tôn trọng thông tư ấy, Phật giáo đồ tại Huế hoan hỉ tổ chức lễ Phật Đản khắp mọi nhà, mọi nẻo đường trong thành phố đều có treo cờ, đèn lồng, bày hương án, bái vọng và những khải hoàn môn nhỏ. Đùng một cái hồi 17 giờ 30 ngày 14 tháng 4 âm lịch (7/5/1963), Cảnh sát Thành phố Huế thừa khẩn lệnh thượng cấp đã bắt buộc dân chúng và tín đồ Phật giáo phải triệt hạ hết cờ Phật giáo xuống (mật khẩn lệnh này phát đi từ Tổng thống phủ, Sài Gòn). Đây chính là nguyên nhân của rất nhiều chuyện đáng tiếc liên tiếp xảy ra sau này.

– Phải lấy hết cờ Phật giáo xuống? Tại sao? Ai ai cũng đặt ra câu hỏi với vẻ mặt đầy ngạc nhiên trước hiện trạng được xem gần như lạ lùng đó. Bấy giờ có một số tuân theo lệnh lấy xuống, bởi người ta sợ tội vạ lôi thôi sau này phiền phức lắm, nhưng đa số tỏ vẻ cương quyết và gan lì hơn vẫn để cờ Phật giáo bay phất phới trước hiên nhà. Trong tình trạng giằng co chưa được ổn định đó thì Hòa thượng Thích Tịnh Khiết, Hội chủ Tổng hội Phật giáo Việt Nam, cùng với Hòa thượng Pháp chủ Tăng già Thích Thuyền Tôn và một số quý Thượng tọa khác có chân trong ban tổ chức lễ Phật đản, mà những người tiêu biểu như Thượng tọa Thích Trí Quang, Thượng tọa Thích Mật Hiển, Thích Thanh Trí cùng với quí vị đại diện của Hội Tăng già Trung Việt, quý vị Tăng già thuộc Hội Phật giáo nguyên thủy (Tiểu thừa) đã đến tại tỉnh đường Thừa Thiên để yết kiến ông Nguyễn Văn Đăng, Thị trưởng Thành phố Huế kiêm Tỉnh trưởng tỉnh Thừa Thiên.

                          
Hàng ngàn người mang theo quốc kỳ và cờ Phật giáo, ngày 21/5/1963, trên đường đếnchùa Từ Đàm,
Huế, để tham dự nghi lễ tưởng niệm những người tử đạo trong biến cố ngày 8/5/1963. Ảnh: AP

       Vài ngày trước đó thì người Công giáo lại được phép treo cờ trong các lễ kỷ niệm của họ. Tuy nhiên, sau đó Phật giáo và chính quyền thành phố Huế đã đạt được thỏa thuận cho phép dân chúng treo cờ Phật giáo. 
Nhưng thượng tọa Thích Trí Quang vẫn quyết định tiếp tục đấu tranh nhằm chống lại quy định của chính quyền. Trong lúc Phật tử tụ tập trước đài phát thanh Huế chờ nghe bài diễn văn của Thượng tọa Thích Trí Quang đã xảy ra vụ nổ giết chết 9 thường dân không vũ trang. Mặc dù tỉnh trưởng bày tỏ sự cảm thông và chia buồn sâu sắc đối với thân nhân những người chết và đề xuất bồi thường cho gia đình nạn nhân, nhưng tỉnh trưởng vẫn nhất quyết phủ nhận lực lượng của chính phủ đàn áp giết chết người biểu tình, đồng thời cho rằng Việt Cộng là thủ phạm. Theo Karnow, lực lượng an ninh quân đội Việt Nam Cộng hòa đã đàn áp cuộc biểu tình của Phật giáo. Ngô Đình Diệm và những người cùng phe cáo buộc Việt Cộng phải chịu trách nhiệm về những cái chết của thường dân và tuyên bố những người biểu tình phải chịu trách nhiệm về tình trạng bạo lực. Các tổ chức Phật giáo đã đưa ra một bản Tuyên ngôn gồm 5 điểm: tự do treo cờ tôn giáo, chấm dứt bắt bớ bừa bãi, bồi thường cho các nạn nhân Huế, các quan chức chịu trách nhiệm về vụ đàn áp phải bị xử lý và bình đẳng tôn giáo.

                                    
                         Quần chúng Phật giáo Miền Trung và Thừa Thiên-Huế xuống đường năm 1966
                                                     phatgiaovietnam1963-60
Tăng Ni, Phật tử, sinh viên và đồng bào các giới, biểu tình đòi bình đẳng tôn giáo & công bằng xã hội, 1963.

 Chính quyền cấm các cuộc biểu tình, ra lệnh cho quân đội cảnh sát bắt giữ những người tham gia vào các cuộc tuần hành biểu tình. Ngày 3 tháng 6 năm 1963, người biểu tình cố gắng diễu hành qua chùa Từ Đàm. Quân lực Việt Nam Cộng hòa sử dụng hơi cay và chó nghiệp vụ tấn công người biểu tình 6 lần để giải tán đám đông nhưng bất thành, cuối cùng quân đội sử dụng hóa chất lỏng màu nâu đỏ để tưới vào đám đông người biểu tình đang cầu nguyện, kết quả là 67 người phải nhập viện vì nhiễm độc. Lệnh giới nghiêm sau đó đã được chính quyền Diệm ban hành.
Để xoa dịu Phật giáo, ngày 4 tháng 6 năm 1963, Chính phủ Ngô Đình Diệm thành lập Ủy ban Liên bộ để nghiên cứu giải quyết những nguyện vọng của Phật giáo, do Phó Tổng thống Nguyễn Ngọc Thơ đứng đầu. Một phái đoàn hỗn hợp của hai bên được gửi ra Huế để giải tỏa các chùa Từ Đàm, Linh Quang, Báo Quốc, và Chùa Diệu Đế, đồng thời kêu gọi Phật tử trở về sinh hoạt bình thường, kiên nhẫn chờ đợi hành động của chính quyền.
Bước ngoặt của cuộc khủng khoảng Phật giáo năm 1963 đến vào tháng 6, khi hòa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu giữa một ngã tư đông đúc ở Sài Gòn để phản đối các chính sách của Diệm; bức ảnh chụp lại cảnh tượng này đã nhanh chóng phổ biến trên khắp thế giới, và đối với nhiều người những hình ảnh này đã chứng minh cho sự thất bại của chính phủ Việt Nam Cộng hòa. Một số nhà sư khác đã tự thiêu, noi gương theo hòa thượng Thích Quảng Đức.
       Trước tình hình đó, Ủy ban Liên bộ của chính quyền Việt Nam Cộng hòa và Ủy ban Liên phái của Phật giáo sau khi thảo luận đã ra bản Thông cáo chung với nội dung cho phép treo cờ Phật giáo nơi công cộng nhưng phải kèm theo cờ quốc gia, chính phủ hứa sẽ thay thế dụ số 10 bằng một đạo luật mới do Quốc hội ban hành, lập Ban điều tra để xem xét tất cả các đơn khiếu nại của Phật giáo, phóng thích những người liên quan đến cuộc đấu tranh của Phật giáo, những sinh hoạt tôn giáo thuần túy và thường xuyên không diễn ra nơi công cộng không cần xin phép, tạo điều kiện cho Phật giáo xây chùa, trừng phạt các cán bộ có trách nhiệm trong sự kiện Phật đản ngày 8 tháng 5 năm 1963 nếu thật sự họ có lỗi, trợ giúp các nạn nhân trong sự kiện Phật đản.
Sau khi bản Thông cáo chung được công bố, phía Phật giáo cho rằng các chính quyền địa phương đang ngầm chống lại việc thực thi Thông cáo chung nên tiếp tục đấu tranh. Cuộc đấu tranh của Phật giáo khiến chính quyền Việt Nam Cộng hòa do Tổng thống Ngô Đình Diệm lãnh đạo mất uy tín cả trong lẫn ngoài nước. Điều này buộc Tổng thống Ngô Đình Diệm ra thông điệp kêu gọi hòa giải giữa chính phủ Việt Nam Cộng hòa và Phật giáo. Tuy nhiên Phật giáo không chấp nhận hòa giải mà vẫn tiếp tục đấu tranh.

                                             

                                        Sài Gòn năm 1963 và vụ tự thiêu của Hòa Thượng Thích Quảng Đức

                                                            
                                                           Trái tim bất diệt của Bồ tát Thích Quảng Đức
 
       Chính phủ Hoa Kỳ ngày càng thất vọng với những hình ảnh công bố các nhà lãnh đạo không được ưa chuộng cả ở Việt Nam và Hoa Kỳ. Ngô Đình Diệm sử dụng lý lẽ chống cộng truyền thống của mình, buộc tội những người chống đối là cộng sản. Khi các cuộc biểu tình chống chính phủ của Ngô Đình Diệm vẫn tiếp tục trong suốt mùa hè năm 1963, thì các lực lượng đặc biệt trung thành với chính phủ đã tiến hành một cuộc đột kích tàn bạo vào chùa Xá Lợi ở Sài Gòn vào tháng 8 cùng năm. Chùa bị phá hoại, các nhà sư bị đánh đập, hài cốt hỏa táng của hòa thượng Thích Quảng Đức, bao gồm cả trái tim của ông được những phật tử coi là một di tích tôn giáo, cũng bị lực lượng an ninh tịch thu.
      Các cuộc tấn công đồng thời được thực hiện trên toàn Việt Nam Cộng hòa, chùa Từ Đàm ở Huế bị cướp phá, tượng phật Tất-đạt-đa Cồ-đàm bị phá hủy và di thể một nhà sư đã tạ thế cũng bị đưa đi. Khi dân chúng đến để bảo vệ các nhà sư đã đụng độ với quân đội và cảnh sát, dẫn đến 30 thường dân thiệt mạng và 200 người khác bị thương. Tổng cộng đã có 1.400 nhà sư bị bắt, khoảng 30 nhà sư bị thương trên toàn lãnh thổ Việt Nam Cộng hòa. Hoa Kỳ đã cho thấy quan điểm không tán thành chính quyền của Diệm khi đại sứ Hoa Kỳ là Henry Cabot Lodge, Jr. tới thăm một ngôi chùa. Không có thêm các cuộc biểu tình của Phật tử xảy ra trong thời gian nắm quyền còn lại của Ngô Đình Diệm (khoảng 5 tháng).
       Trong thời gian này, em dâu của Ngô Đình Diệm là Trần Lệ Xuân, một người từng theo đạo Phật và sau cải đạo sang Công giáo, có thể coi Trần Lệ Xuân là đệ nhất phu nhân de facto (trên thực tế) do Ngô Đình Diệm không lập gia đình; Trần Lệ Xuân đã đổ thêm dầu vào lửa khi chế giễu các vụ tự thiêu của các nhà sư, coi họ là "thịt nướng" (barbecues), và tuyên bố "Nếu các phật tử muốn có thêm thịt nướng, Tôi sẽ vui mừng cung cấp xăng cho họ" (nguyên văn: If the Buddhists want to have another barbecue, I will be glad to supply the gasoline). Các cuộc tấn công vào chùa chiền đã làm dấy lên băn khoăn lo lắng lan rộng trong công chúng ở Sài Gòn. Sinh viên đại học Sài Gòn đã bãi khóa và tổ chức các cuộc bạo động, dẫn đến việc bắt giữ, bỏ tù và đóng cửa các trường đại học; điều này đã lặp lại tại Đại học Huế. Khi học sinh trung học diễu hành biểu tình, Ngô Đình Diệm cũng đã bắt học sinh; trên 1.000 học sinh từ các trường trung học ở Sài Gòn, hầu hết là con em các công chức dân sự Sài Gòn, đã bị gửi tới các trại cải tạo, theo báo cáo bao gồm cả trẻ em lên năm, bị buộc tội vẽ và viết các câu, hình vẽ chống chính phủ. Bộ trưởng ngoại giao của Diệm là Vũ Văn Mẫu đã từ chức, cạo đầu giống như một nhà sư để phản đối. Khi ông cố gắng rời Việt Nam Cộng hòa để tham gia một cuộc hành hương đến đất phật Ấn Độ, thì bị bắt và bị quản thúc.
     Ngày 20 tháng 8 năm 1963, Ngô Đình Nhu chỉ đạo lực lượng an ninh của đại tá Lê Quang Tung phát động chiến dịch Nước Lũ ào ạt tấn công chùa Xá Lợi, Giác Minh, Ấn Quang, Từ Quang, Therevada ở Sài Gòn và chùa chiền khắp toàn quốc. Họ mặc đồng phục của quân đội trong khi đột kích để cho mọi người thấy rằng Quân đội chính phủ đứng sau lưng họ trong cuộc đàn áp này. Lực lượng của Ngô Đình Nhu đã bắt hơn 400 nhà sư đang ngồi trước tượng Đức Phật. Hàng ngàn phật tử khác cũng bị bắt giữ trên cả nước (riêng tại Sài Gòn là 1.400 người) với lý do "Phật giáo là tay sai của Việt cộng". Hệ quả tức thời của chiến dịch Nước Lũ là toàn bộ thành phần lãnh đạo Phật giáo bị bắt giữ, phong trào đấu tranh của Phật giáo gần như bị tê liệt.

        
      Đoàn biểu tình bị cản lại bởi những lớp rào kẽm gai; lớp cảnh sát, công an, mật vụ võ trang; lớp xe cứu hỏa và xe cộ khác... Họ đã cố gắng mấy lần phá vỡ được những hàng rào dây kẽm gai để tiến tới, nhưng phần vì lớp kẽm gai quá kiên cố được thiết lập dàn ra phía sau những chiếc xe cứu hỏa, với lực lượng cảnh sát, mật vụ được huy động đến quá đông đảo được trang bị đầy đủ, đằng đằng sát khí; phần nữa vì tôn trọng tinh thần "bất bạo động" của thông bạch và các lãnh đạo Phật Giáo, nên họ đã dừng lại theo lời đề nghị của Đại Đức Thích Quảng Độ - người điều động cuộc tuần hành - yên tỉnh ngồi xuống mặt đường đồng thanh niệm Phật. Đoàn người lúc bấy giờ chỉ mới cách chùa Giác Minh 500m.
 
 
      Trong lúc này các toán võ trang luôn lợi dụng sự hiền hòa của đoàn người, thừa cơ hoặc hành hung; hoặc dùng xe ủi một tu sĩ; hoặc uy hiếp, cướp máy chụp hình, máy quay phim của các Tu Sĩ, Phật Tử và Thông Tín Viên.
      Sau nửa giờ niệm Phật, quần chúng Phật Tử lặng yên nghe Đại Đức Thích Quảng Độ, hướng dẫn tinh thần cuộc biểu tình, đứng lên giải thích rõ ràng về cuộc vận động của Phật Giáo. Dùng loa phóng thanh, Đại Đức chậm rãi nói về chính nghĩa của cuộc tranh đấu cũng như cuộc tuyệt thực đợt 2 của Tăng Ni và Tín Đồ toàn quốc. Từ hai đầu đường Phan Thanh Giản và các đường phố lân cận như Nguyễn Thiện Thuật... quần chúng đều đứng lại lắng nghe. Cửa sổ trên những tầng lầu đều được mở ra, đồng bào xuất hiện trên sân thượng các nhà hai bên khu phố để nghe Đại Đức thuyết trình. Lực lượng cảnh sát dùng loa microphone hòng che lấp lời giải thích, nhưng chùa Giác Minh đã dùng máy khuyếch đại thanh khá mạnh đáp trả hữu hiệu, lời giải thích của Đại Đức Quảng Độ vẫn nghe rất rõ.
       Đúng 10 giờ, hàng dây kẽm gai mở ra, Đại Đức Thích Quảng Liên được một xe chở tới yêu cầu giải tán. Song quần chúng Phật Tử kiên trì giữ vững lập trường, cam chịu mọi sự đàn áp nếu nguyện vọng của họ không thành tựu.
 
      
       10g15', tiếng niệm Phật vẫn đều đều, nhưng vào 10g30', cuộc đàn áp thật sự bắt đầu. Từng lớp người võ trang xô vào cướp giật biểu ngữ, xô đẩy, hành hung đoàn biểu tình yếu thế. Tăng Ni và những người điều động cuộc tuần hành bị tấn công bằng báng súng và gậy gộc trước sự chứng kiến của giới báo chí, thông tín viên, quan sát viên quốc nội và quốc tế cùng hằng ngàn Phật Tử, dân chúng bên đường. Tiếng la hét của phụ nữ và trẻ em vang dậy. Nhiều vị Tăng, Ni bị đánh ngã quỵ. Nhiều vị khác bị bắt liệng lên xe cảnh sát chở đi.
 
       
Bị đàn áp quá dữ dội, đoàn biểu tình mất bình tỉnh không chịu nổi đã từ từ rút lui về chùa Giác Minh và chùa Từ Quang sát cạnh không kháng cự. Cảnh sát đuổi theo sát họ đến cổng chùa Giác Minh. Và khi Phật Giáo Đồ vừa yên lặng trong chùa, một hàng rào kẽm gai lập tức được thiết lập chắn kín cổng chùa Giác Minh và Từ Quang, mở đầu cho cuộc phong tỏa trên 600 Tăng Ni, Phật Tử bị cô lập trong chùa 54 giờ đồng hồ với bao sự đe dọa và thiếu thốn nhu cầu sinh hoạt thử thách ý chí, tinh thần bảo vệ đạo pháp của họ.
 

      Cũng vào sáng ngày 17.7.1963, đúng 8g15', gần 400 Tăng Ni tập họp tại chánh điện chùa Xá Lợi. Sau khi lễ Phật và mặc niệm trước bảo điện, vị đại diện Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo ngõ lời ngắn gọn rồi đoàn Tăng Ni sắp hàng tuần tự tiến ra đường Bà Huyện Thanh Quan, qua đường Lê Văn Thạch, rẽ lên đường Nguyễn Thông, Ngô Thời Nhiệm, Lê Văn Duyệt, và thẳng hướng về Chợ Bến Thành.
Trên lộ trình, đoàn diễn hành gặp nhiều trở ngại như hàng rào kẽm gai, các đội công lực tìm đủ mọi biện pháp đẩy lui, nhưng họ vẫn cố gắng vượt qua trở ngại tiến được về tập hợp gần đông đủ tại vườn hoa trước cửa Nam chợ Bến Thành, chỉ trừ khoảng trên 10 vị chạy sau bị nhân viên công lực bắt lại.
      Cuộc diễn hành này, nhờ yếu tố tốc hành bất ngờ, đã làm cho các lực lượng cảnh sát đối phó không kịp trong bước đầu. Đến khi các lực lượng võ trang được huy động đầy đủ, thì đa số chư Tăng Ni đã đến được địa điểm định trước là chợ Bến Thành. Tại đây, một biểu ngữ được quý Tăng Ni trương lên: “Yêu cầu Chánh Phủ thực thi bản Thông Cáo Chung”. Lập tức vòng đai cảnh sát chiến đấu xiết chặt, buộc chư Tăng Ni hạ cờ Phật Giáo và biểu ngữ xuống, nhưng Tăng Ni không ai tuân lệnh, họ cương quyết không hạ
 
    
       Lúc này các lực lượng cảnh sát chiến đấu đã bao vây quanh đám biểu tình dưới quyền chỉ huy của ông Trần Văn Tư - Giám Đốc Nha Cảnh Sát Quốc Gia. Vị đại diện Tăng Ni đứng lên yêu cầu được nói về mục đích của cuộc biểu tình diễn hành. Ông Trần Văn Tư ra lệnh cho vị đại diện chỉ được nói trong ba phút, ông nói: “Mau lên để chúng tôi còn thi hành nhiệm vụ”.
Vị đại diện Tăng Ni tuyên bố:
“Chúng tôi đến đây để tỏ cùng quốc dân đồng bào biết rằng: Bản Thông Cáo Chung đã ký kết hơn tháng nay nhưng Chính Phủ đã không thực thi nghiêm chỉnh mà còn dùng đủ mọi cách để khủng bố, bao vây, bắt bớ, xuyên tạc Phật Giáo Đồ”.
      Lúc này, đồng bào trong chợ đã đổ xô ra rất đông, và từ các ngả đường quần chúng cũng kéo tới chật ních. Tuyên bố xong, vị đại diện yêu cầu nhân viên công lực giải tỏa để cho Tăng Ni được tự do đi về chùa Xá Lợi trong trật tự, nhưng viên Giám Đốc Cảnh Sát nhất quyết từ chối, và ra lệnh cho thuộc cấp thi hành cái gọi là "dùng biện pháp thích nghi” để ngăn chặn cuộc diễn hành trở về chùa Xá Lợi, mà ông biết là sẽ vô cùng đông đảo.
    Trong khi chờ đợi sự giải tỏa của cảnh sát, các vị Tăng Ni ngồi xuống đất bắt đầu niệm Phật. Do dự vài giây trước đoàn người tay không thản nhiên ngồi chắp tay tuyên Phật hiệu, cuộc đàn áp bắt đầu... Nhân viên công lực võ trang xông ập vào đánh đập, đấm đá, và cứ 2, 3 người tóm 1 nhà tu liệng lên xe bịt bùng trong khi chư Tăng, Ni chống cự lại bằng cách quàng lấy tay nhau từng chuỗi dài để bảo vệ nhau. Tình thế trở nên hỗn loạn!
 
       
      Sau những phút đầu bất lực và nhận thấy cuộc đàn áp xảy ra trước mặt quần chúng đông đảo như vậy là không hay, viên Giám Đốc Cảnh Sát thay đổi sách lược. Ông ra lệnh ngừng sự bắt ép rồi đích thân tới bắt tay vị đại diện Tăng Ni điều đình: "Tôi lấy danh dự cá nhân và tư cách đại diện chính phủ, xin thề với ông rằng: Chúng tôi sẽ đưa các ông về chùa Xá Lợi".
    Thấy cuộc biểu tình đã đạt được kết quả và chư Tăng Ni nhiều người đã bị mất sức; thêm nữa tuy sẵn lòng tin thì ít, nhưng thấy vị Giám Đốc Nha Cảnh Sát, nhân viên cao cấp của chính phủ, một người biểu hiện cho đức "thành tín" đối với quốc gia, đã lấy danh dự mà hứa sẽ chở chư Tăng Ni về chùa bằng xe cảnh sát, vị đại diện bằng lòng và Tăng Ni lần lượt lên xe.
       Đoàn xe chuyển hướng chạy về đường Trần Hưng Đạo, Đồng Khánh trước hằng vạn con mắt của đồng bào ngơ ngác nhìn theo. Tăng Ni trên xe hoài nghi kêu cứu ầm ĩ, song vẫn hy vọng ngã đường này vẫn còn có thể về chùa Xá Lợi. Nhưng những chiếc xe này khi đến ngã tư Tổng Đốc Phương, thay vì chạy về chùa Xá Lợi, lại rẽ hướng về Lục Tỉnh. Đến đây Tăng Ni biết mình đã bị lừa gạt, tập trung đập cửa xe rầm rầm; các vị ngồi trước người lấy chân đạp thắng xe, người gạt tay lái cho xe đâm vào lề đường; nhiều vị mở cửa xe lao mình xuống đường khi xe đang chạy với tốc độ rất nhanh. Thấy vậy, các xe cây của cảnh sát buộc phải ngừng lại. Tất cả Tăng Ni nhào xuống xe tập hợp lại thành một khối giữa công lộ.
      Bấy giờ, cảnh sát, kẽm gai, xe cây lại bao vây họ chặt chẽ hơn trước. Hai vị Cảnh Sát Trưởng đến gần chư Tăng Ni, tự xưng là đại diện ông Giám Đốc Cảnh Sát, hứa lần này "Chúng tôi sẽ lấy xe công lực chở quý ông về chùa Xá Lợi". Sợ sẽ bị lừa gạt lần nữa như vừa rồi, Tăng Ni nhất quyết từ chối, chỉ yêu cầu được tự do đi bộ về chùa. Họ ngồi xuống đất để đòi hỏi sự giải tỏa của lực lượng cảnh sát. Nhưng cảnh sát không giải tán. Vài lời dằng co qua lại giữa viên đại diện chính quyền và vị đại diện Tăng Ni chưa đi đến đâu thì bổng nhiên cảnh sát chiến đấu được lệnh xông vào đàn áp.
Cuộc đàn áp lần này xảy ra khốc liệt gấp mấy lần trước nhiều: Chư Tăng Ni bị đánh đập, đấm đá, bóp họng, thoi túi bụi vào chỗ hiểm... Quần chúng ở đây không đông đảo như ở chợ Bến Thành và giới báo chí không có mặt, vì vậy chư Tăng, Ni bị hành hung một cách tàn nhẫn và quăng ném lên xe như những con thú vật.
      Trong lúc Tăng Ni đang bối rối thì đoàn xe đã phóng nhanh về hướng ngoại thành... 
 
     

       Trong ba tháng sau chiến dịch Nước Lũ, nhiều vị lãnh đạo trên thế giới, kể cả Giáo hoàng Phaolô VI và các tổ chức Công giáo, đã lên án Ngô Đình Diệm. Ngô Đình Thục đến Vatican nhưng không được Giáo hoàng tiếp, Trần Lệ Xuân dẫn phái đoàn Quốc hội đi nước ngoài bị chống đối. Cuối tháng 9/1963, Tổ chức Liên Hiệp Quốc quyết định gửi phái đoàn đến Việt Nam để điều tra tình hình đàn áp Phật giáo.
Từ năm 1960 khi Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam với sự hậu thuẫn của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời tiến hành đấu tranh vũ trang đã làm cho tình hình an ninh ở miền Nam bị xáo trộn. Lực lượng Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đã kiểm soát được phần lớn vùng nông thôn bất chấp các kế hoạch quốc sách như Ấp Chiến lược và Khu Trù mật của Ngô Đình Diệm.
Việc tập trung quyền lực vào gia đình, đảo ngược các chính sách cải cách ruộng đất của Việt Minh trước đây cũng như chính sách cai trị đất nước bị coi là thiên vị với thiểu số người Công giáo tạo ra những mầm mống xung đột giữa Công giáo và Phật giáo cũng như sự bất mãn trong đội ngũ tướng lĩnh quan chức, sự chống đối của đông đảo người theo đạo Cao Đài, Phật giáo Hòa Hảo, người Thượng, trí thức và nông dân. Hơn nữa Ngô Đình Diệm còn bị các chính trị gia đối lập chỉ trích là độc tài, gia đình trị, bất lực trong việc ổn định xã hội và chống Cộng thiếu hiệu quả.

                                                  Thiếu tá điệp viên CIA Lucien Conein, Nguồn: OntheNet
                                           Thiếu tá điệp viên CIA Lucien Conein, Nguồn: OntheNet
 
     Anh em Ngô Đình Diệm - Ngô Đình Nhu nảy sinh bất đồng từ đầu năm 1963. Vì trận thua nặng của quân đội Việt Nam cộng hòa tại trận Ấp Bắc, khi đó tại Nam Việt Nam đã có 12.000 cố vấn quân sự Mỹ khiến giới quân sự Mỹ liên tục chê bai khả năng quân sự của các tướng Việt Nam Cộng Hòa và đòi để các tướng Mỹ nắm quyền chỉ huy. Ngô Đình Nhu tỏ ra bất mãn về việc chính quyền Việt Nam Cộng hòa phải nghe theo những khuyến cáo quân sự của người Mỹ nên quyết định tìm hướng đi mới, tỏ ý định yêu cầu Mỹ rút bớt cố vấn quân sự về nước và tìm cách tiếp xúc với những người cộng sản ở Hà Nội. Người ta đánh giá rằng việc này là quyết định riêng của Ngô Đình Nhu, còn Ngô Đình Diệm không có được sự uyển chuyển về chính trị như vậy. Do những ý định mới của Ngô Đình Nhu, người Mỹ bắt đầu tìm cách thay thế Ngô Đình Diệm, cắt một nửa viện trợ cho chính quyền Sài Gòn. Tháng 7 năm 1963, đại sứ Mỹ Frederick Nolting, người bị xem là quá bao che cho chính quyền họ Ngô, bị thay thế. Cùng lúc đó nổ ra biến cố Phật giáo, 1963 làm chính quyền Sài Gòn càng lung lay. Theo tướng Pháp Paul Ély thì vào giữa năm 1963, quyền lực của Ngô Đình Diệm chỉ còn giới hạn trong phạm vi Sài Gòn.
                                 Ông Ngô Đình Cẩn tại tòa án quân sự (Saigon  /4/1964). Nguồn UPI
                         Ông Ngô Đình Cẩn tại tòa án quân sự  (Saigon 22/4/1964). Nguồn UPI

      Gia đình Ngô Đình Khả có 8 người con, gồm 6 trai 2 gái. Trong 6 người cháu thì có Ngô Đình Huân (con Khôi) bị bắn chết, và Lệ Thủy (con Nhu – Xuân) bị chết vì tại nạn xe hơi. Còn 1 người thì bị chết vì khủng hoảng tinh thần là Ngô Đình Thục rồi tới bố mẹ ruột Lệ Xuân là Trần Văn Chương cũng bị bắn chết vì đứa em của Lệ Xuân. Xem như vậy là gia đình nhà Ngô và họ Trần tuy có lên đến tột đỉnh danh vọng, nhưng lại kết thúc bằng những cái chết thảm khốc. Âu cũng là ân oán phải trả, vì chính mấy người bị giết chết như Diệm, Nhu, Cẩn, Huân, khi còn quyền hành trong tay đã tàn sát nhiều người vô tội, oán thù chồng chất.
 
       Cùng với việc chống Cộng không đạt được kết quả và không xoa dịu được cuộc đấu tranh của Phật giáo được xem là nguyên nhân dẫn tới sự mất uy tín trầm trọng của chính quyền Ngô Đình Diệm trước các lực lượng chính trị hợp pháp khác tại miền Nam và trước chính quyền Hoa Kỳ. Sự kiện Phật Đản, 1963 xảy ra là giọt nước tràn ly dẫn tới hành động đảo chính của một nhóm tướng lĩnh vốn bất mãn với cách điều hành đất nước của Tổng thống Ngô Đình Diệm. Chính phủ Mỹ đề nghị Ngô Đình Diệm bớt đàn áp tàn bạo đối với Phật giáo và sinh viên để lấy lại hình ảnh dân chủ hơn của chính quyền, nhưng Ngô Đình Diệm không nghe theo. Đứng trước tình thế đó, chính phủ Kennedy buộc phải gây sức ép đối với chính quyền của Ngô Đình Diệm. Căng thẳng với người Mỹ ngày càng tăng, nhưng Ngô Đình Diệm không nghe theo vì ông vẫn tự tin cho rằng người Mỹ không thể tìm ra người thay thế tốt hơn mình ở vị trí Tổng thống Việt Nam Cộng hòa. Vì thế chính phủ Mỹ cuối cùng quyết định bỏ rơi ông.
      Henry Cabot Lodge, Jr. đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam Cộng hòa sau khi biết về âm mưu đảo chính được lên kế hoạch bởi các tướng lĩnh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, do tướng Dương Văn Minh cầm đầu đã báo cáo cho Tổng thống Mỹ John F. Kennedy xin ý kiến. Biên bản cuộc họp ngày 29 tháng 10 năm 1963 giữa Kennedy và các cố vấn cho thấy Kennedy sau khi họp với 15 cố vấn ngoại giao cao cấp và chuyên gia an ninh quốc gia không đưa ra được ý kiến thống nhất về vấn đề này mà để cho đại sứ Mỹ Henry Cabot Lodge, Jr. tùy cơ ứng biến. Tại Washington, ngoại trưởng Dean Rusk truyền đạt quyết định đến Đại sứ Lodge ở Sài Gòn. Lodge báo tin cho nhân viên CIA Lucien Conein.
Lucien Conein, đặc vụ của CIA, trở thành đầu mối liên lạc giữa Đại sứ quán Hoa Kỳ với các tướng lĩnh đảo chính, do Trần Văn Đôn đứng đầu.
  Ngày 3 tháng 10 năm 1963, Conein gặp tướng Minh là người nói cho ông biết ý định đảo chính và yêu cầu người Mỹ hỗ trợ nếu nó thành công. Trong phim tài liệu Việt Nam: Cuộc chiến 10.000 ngày của đạo diễn Michael Maclear, nhân viên CIA Lucien Conein kể lại rằng khi được thông báo về ý định đảo chính ông ta nói: "Lệnh mà tôi nhận là thế này: Tôi phải cho Tướng Minh biết rằng chính phủ Hoa Kỳ sẽ không cản trở cuộc đảo chính của họ, và tôi đã truyền đạt điều này.". Sau đó Conein bí mật gặp tướng Trần Văn Đôn để nói với ông này rằng Hoa Kỳ phản đối bất cứ hành động ám sát nào. Tướng Trần Văn Đôn trả lời "Được rồi, nếu anh không thích điều đó chúng ta sẽ không nói về nó nữa.". Theo một nguồn khác, Conein cung cấp cho nhóm tướng lĩnh Việt Nam Cộng hòa một số tiền mặt lên tới 40.000 USD để hỗ trợ cho việc thực hiện đảo chính với lời hứa rằng Hoa Kỳ sẽ không làm bất cứ điều gì để bảo vệ Ngô Đình Diệm. 
 
                                  

                               Cảnh sát giữ an ninh tại chùa Ấn Quang sau khi sư sãi bị bắt 9-1963.
 

                                          Cảnh sát dã chiến hốt biểu tình lên xe cây 9-1963.
 
                                

                                                 Cảnh sát hốt biểu tình lên xe 9-1963.

                                

        Học sinh trường Võ Trường Toản, cạnh bên trường Trưng Vương, gần Sở Thú Saigon biểu tình 8-1963.

                               

Sinh viên Y khoa chào mừng GS Phạm Biểu Tâm, khoa trưởng Đại Học Y Khoa Saigon, được trả tự do.

                               

                                             Cảnh sát dã chiến trên đường đi giữ an ninh.

                               

                                                   Sư sãi xếp dọn chùa Xá Lợi 9-1963.

                               

                       Sinh viên Đại Học Khoa Học sửa soạn biểu tình chống chính phủ 8-1963.
                               

                                                12-1963 Minh Cồ và Henry Cobot Lodge Jr.
 
                                

                                12-1963 Minh Cồ , Henry Cobot Lodge Jr. và Robert McNamara. 

                                

                        12-1963 Họp báo Minh Cồ, Henry Cobot Lodge Jr. và Robert McNamara. 

                                     

                                                                  12-1962  Minh Cồ

                                

               Dinh Gia Long, nơi TT Ngô Đình Diệm và ông cố vấn Ngô Đình Nhu cư ngụ khi đhánh diễn biến trưa ngày 1-11-1963

                               

                         11-1963 dân chúng Sài Gòn ăn mừng sau ngày đảo chánh tại phòng trà.

                              

                                                11-1963 Sư ăn mừng sau ngày đảo chánh.

                              

                                        11-1963 Tượng đài Hai Bà Trưng sau ngày đảo chánh.

                                            

                                               11-1963 Chùa Xá Lợi sau ngày đảo chánh.

                              

                                             11-1963 Dinh Gia Long sau ngày đảo chánh.
                              

                                          11-1963 Thành Cộng Hòa sau ngày đảo chánh.

                                          

                                              11-1963 Tôn Thất Đính sau ngày đảo chánh.

                             

                                             11-1963 Tôn Thất Đính sau ngày đảo chánh.

                             

                                11-1963 Tôn Thất Đính sau ngày đảo chánh tại Câu Lạc Bộ.

                            

                                     11-1963 Minh Cồ trả lời báo chí sau ngày đảo chánh.

                            

                    11-1963 Trần Văn Đôn bí danh "Đôn lầm" trên Đại Lộ Thống Nhất sau ngày đảo chánh. 

                           

                                Các binh sĩ thiết giáp tham gia cuộc đảo chánh 1-11-1963.
                           

                                                9-1963 Nơi tạm giam sư sãi biểu tình. 

                           

9-1963 Tôn Thất Đính và Nguyễn Văn Là họp báo sau khi ban hành thiết quân luật để bảo vệ chính phủ N Đ Diệm.

                           

                               9-1963 Robert S. McNamara & Trung Tướng Đỗ Cao Trí.
 
  Ngày 30 tháng 10 năm 1963, phụ tá Ngoại trưởng Mỹ Roger Hilsman gửi đến Đại sứ Mỹ tại Sài Gòn một bức mật thư mà ông này gọi đó là "Hoàng hôn của các thần linh". Trong bức mật thư này có đoạn:
"Chúng ta cần khuyến khích nhóm đảo chính chiến đấu đến cùng và phá tan Dinh Độc Lập (nếu cần) để đạt được thắng lợi. Điều kiện cho gia đình họ Ngô là đầu hàng vô điều kiện, vì nếu không họ sẽ tìm cách gạt bỏ được lực lượng đảo chính lẫn sự ảnh hưởng của Hoa Kỳ. Nếu gia đình họ Ngô bị bắt sống, vợ chồng ông Nhu phải nhanh chóng bị tống xuất sang Pháp hay bất cứ nước nào muốn nhận họ. Riêng ông Diệm, tùy thuộc vào ý muốn của các tướng lĩnh tham gia đảo chính".
Tướng Dương Văn Minh và các đồng mưu lên kế hoạch lật đổ chính phủ của Ngô Đình Diệm vào ngày 1 tháng 11 năm 1963 bằng một cuộc đảo chính nhanh gọn chóng vánh. Ngày 1 tháng 11 năm 1963, lực lượng đảo chính đưa quân đội tới chiếm đóng tất cả các vị trí trọng yếu ở Sài Gòn, chặn mọi cửa ngõ ra vào nội đô. Tại dinh tổng thống, chỉ có một lực lượng nhỏ trung thành bảo vệ cho Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu, các tướng lĩnh đảo chính kêu gọi Ngô Đình Diệm đầu hàng và Ngô Đình Diệm sẽ được ra nước ngoài sống lưu vong nếu đầu hàng. Tuy nhiên tối hôm đó, Ngô Đình Diệm và đoàn tùy tùng đã trốn thoát khỏi dinh tổng thống bằng một đường hầm tới Chợ Lớn, về lánh nạn tại nhà thờ Cha Tam - Chợ Lớn. Sáng sớm ngày 2 tháng 11, Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu bị lực lượng đảo chính bắt, cuộc đảo chính tới đây là kết thúc, phe đảo chính chỉ còn việc thành lập chính phủ mới. Hành động đảo chính đã đưa Việt Nam Cộng hòa đến tình trạng khủng hoảng lãnh đạo trong một thời gian cho đến khi Nguyễn Văn Thiệu trở thành Tổng thống Việt Nam Cộng hòa.
Sáng ngày hôm sau Ngô Đình Diệm cùng với Ngô Đình Nhu gọi điện và ra hàng lực lượng đảo chính. Hai anh em Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu bị đại úy Nguyễn Văn Nhung giết bằng lưỡi lê và súng lục trong chiếc xe bọc thép M-113, theo lệnh của tướng Dương Văn Minh, khi chiếc xe đang trên đường tới Bộ Tổng tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Theo chứng nhận của bác sĩ Huỳnh Văn Hưỡn, là người đã tiến hành vụ khám nghiệm thì anh em Ngô Đình Diệm - Ngô Đình Nhu bị bắn từ sau gáy ra phía trước. Xác Ngô Đình Diệm có nhiều vết bầm, chứng tỏ đã bị hành hung trước khi bị bắn. Xác Ngô Đình Nhu thì bị đâm nhiều nhát, áo rách nát và đầy máu.
 Sau khi biết tin Ngô Đình Diệm bị lật đổ và ám sát, phát biểu của Hồ Chí Minh được thuật lại như sau "Tôi không thể nào tin người Mỹ lại ngu ngốc đến vậy". Bộ Chính trị Đảng Lao động Việt Nam nói rõ hơn:
"Hậu quả của cuộc đảo chính ngày 1 tháng 11 sẽ trái với những tính toán của đế quốc Mỹ... Diệm là một trong số những nhân vật mạnh nhất chống lại nhân dân và Chủ nghĩa cộng sản. Tất cả những gì có thể làm nhằm cố gắng đè bẹp cách mạng đã được Diệm thực hiện. Diệm là một trong những tay sai có tài nhất của đế quốc Mỹ  ... Trong số những người chống cộng ở miền Nam Việt Nam hoặc đang lưu vong ở nước ngoài, không ai có đủ tài lực chính trị và khả năng làm người khác tuân phục. Do đó, chính quyền tay sai sẽ không thể vững bền. Cuộc đảo chính ngày 1 tháng 11 năm 1963 sẽ không phải là cuộc đảo chính cuối cùng." Khi biết Tổng thống Ngô Đình Diệm đã bị đảo chính và giết chết, Tổng thống Mỹ John F. Kennedy bị choáng váng và ưu tư thoáng buồn. Bốn giờ chiều ngày 2 tháng 11 năm 1963, khi được thông báo anh em Ngô Đình Diệm - Ngô Đình Nhu đã bị giết, Đại sứ Hoa Kỳ Cabot Lodge, đã vui vẻ thốt lên bằng tiếng Pháp: "C’est formidable! C’est formidable!" (Thật là tuyệt diệu. Thật là tuyệt diệu).
Các cơ quan do Ngô Đình Diệm lập ra như Đảng Cần Lao, Sở Nghiên cứu Chính trị Xã hội, Lực lượng Đặc biệt, 4 cơ quan Mật vụ Công an, Phong trào Cách mạng Quốc gia, Thanh Niên Cộng hòa, Phụ nữ Liên đới, các xóm Đạo võ trang,… tất cả đều tê liệt rồi tan rã không một phản ứng. Cả cấu trúc chính trị mà họ Ngô xây dựng trong 9 năm đã sụp đổ trong 24 tiếng đồng hồ.
 

                                              Người bắn hạ anh em Ngô Đình Diệm nói gì?

Nhà sử học Nguyễn Hiến Lê, khi đó đang sống ở Sài Gòn, đã ghi lại không khí vui mừng của người dân ở thời điểm đó:
"Từ 7 giờ sáng ngày 2 tháng 11 năm 1963, khi đài phát thanh Sài Gòn báo tin dinh Gia Long bị quân đội chiếm thì già trẻ lớn bé lũ lượt kéo nhau đi xem. Lời hò reo, tiếng cười vang với sắc diện tươi vui của mọi người chứng tỏ sự giải thoát gông cùm kềm kẹp của độc tài đã bóp nghẹt lòng dân trong chín năm trời đăng đẳng” - Bác sĩ Dương Tấn Tươi. Còn thi sĩ Đông Hồ thì: “Nỗi ức hiếp, nỗi căm hờn bị đè nén, bị vùi dập một cách tàn nhẫn bất công trong 9 năm trời, một sớm được giải thoát, được cởi mở, mà phản ứng chỉ có chứng ấy thì cho thấy quần chúng Việt Nam năm 1963 này cũng đã tỏ ra hiền lành nhiều lắm, và cũng đã biết tự kiềm hãm sức giận dữ hung hãn của mình rồi đó.”
Nhà báo đương thời tại miền Nam, ông Vũ Bằng ghi lại không khí của người dân miền Nam lúc đó khi nghe tin vụ đảo chính và việc anh em Ngô Đình Diệm - Ngô Đình Nhu bị giết:

     "Lúc ấy, tôi đang làm cho tờ “Dân Chúng”. Tôi còn nhớ bầu không khí nẩy lửa đó, ai cũng hăng say muốn thấy Ngô Đình Diệm và bộ sậu, bị chết đâm chết chém… có một điều chắc chắn là tình thế lúc đó đã chín mùi và dân chúng đã thấy cách gì cũng phải hạ ngay Ngô Đình Diệm. Người ta muốn biết ai đã giết Diệm - Nhu, nhưng không ai biết đích xác; dù sao Diệm - Nhu chết đi thì đại đa số dân chúng cũng mừng. Có người mổ heo cúng tế; có người lập bàn thờ cảm tạ trời đất; còn thì hầu hết nhà nào cũng làm tiệc, rủ bè bạn, thân thích đến để nhậu nhẹt cho “phỉ chí tang bồng”.

Cái chết của anh em Ngô Đình Diệm cũng khiến cho các lãnh đạo Á Châu là đồng minh của Mỹ phải cảm thấy lo ngại cho mình. Về sau, Tổng thống (Pakistan), Ayub Khan, đã nói với Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon:
"Cuộc thảm sát gia đình Ngô Đình Diệm đã khiến các lãnh tụ Á Châu chúng tôi rút ra được một bài học khá chua chát: Làm đồng minh với Mỹ thật nguy hiểm! Có lợi hơn nên đứng thế trung lập. Và có lẽ hữu ích hơn nữa là nên làm kẻ thù của Hoa Kỳ."
          Tài liệu của phía Hoa Kỳ cho biết Ngô Đình Diệm và Ngô Đình Nhu được chôn trong những ngôi mộ không tên trong một nghĩa trang bên cạnh ngôi nhà của đại sứ Hoa Kỳ. Sau này tìm hiểu, thì ông Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu được chôn ở nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi. Áo quan của Ngô Đình Diệm hình hộp, áo quan của Ngô Đình Nhu có nắp tròn. Một nhân chứng thời kỳ này giải thích vì người thân của hai ông đi mua vội quan tài nên chỉ mua được một chiếc hạng tốt dành cho ông Ngô Đình Diệm, còn chiếc hạng vừa dành cho ông Ngô Đình Nhu. Trong khoảng thập niên 1980, do nhu cầu phát triển đô thị trong nội đô Sài Gòn, nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi được di dời về nghĩa trang Lái Thiêu (Nghĩa trang Nhân dân số 6B) ngày nay. Hiện tại, mộ ông Ngô Đình Diệm và ông Ngô Đình Nhu chính thức đặt tại nghĩa trang Lái Thiêu. Mộ hai ông nằm hai bên mộ mẹ - bà Phạm Thị Thân. Ngoài ra, mộ ông Ngô Đình Cẩn cũng được dời về gần đó. Mộ hai ông ban đầu không có tên mà chỉ ghi tên thánh và "Huynh" (chỉ ông Ngô Đình Diệm) hoặc "Đệ" (ông Ngô Đình Nhu), sau đó, theo đề nghị của một số người, mộ đã được đề đích danh
          Cuộc đời ngắn ngủi của Ngô Đình Diệm, không thể nói khác được, là cuộc đời mang nhiều tội lỗi đối với dân tộc Việt Nam. Do thiển cận về chính trị, hận thù cộng sản đến điên cuồng và đam mê quyền lực ích kỷ đến mù quáng, mà đã phản bội Bảo Đại, lập chính phủ gia đình trị, phá vỡ Hiệp định Genève, đàn áp tôn giáo, tàn sát dã man những người cộng sản, gây ra cảnh chia cắt đất nước thành hai miền với miền Nam đầu rơi máu chảy.
          Tình hình đó buộc nhân dân miền Nam nói riêng và cả nước Việt Nam nói chung lại phải cầm súng đứng lên tiếp tục đấu tranh vũ trang chống thù trong giặc ngoài.

                                                                    ***
         Để phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện mới, và tranh thủ sự ủng hộ của các tầng lớp tiến bộ trên thế giới, Cách mạng Việt Nam đã thành lập một tổ chức tại Miền Nam, lấy tên gọi “Mặt trận dân tộc giải phóng Miền Nam - Việt Nam” với vị chủ tịch được bầu lên là luật sư Nguyễn Hữu Thọ, có lực lượng vũ trang gọi là “Quân giải phóng”. 
          Ngày 20-12-1960, tại xã Tân Lập, huyện Châu Thành (nay là huyện Tân Biên), tỉnh Tây Ninh, đại biểu các giai cấp, các dân tộc, các tôn giáo và các đảng phái đã họp và quyết định thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Đại hội đã đề ra Tuyên ngôn và Chương trình hành động gồm 10 điểm nhằm giải quyết một cách đúng đắn những vấn đề cơ bản của cách mạng miền Nam. 
 
                       Ngày 20-12-1960: Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam chính thức được thành lập 
Ngày 20-12-1960, các thành viên của Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tuyên thệ trong Lễ thành lập Mặt trận. Ảnh: dangcongsan.vn 

         Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam là ngọn cờ công khai đoàn kết, tập hợp, tổ chức, lãnh đạo các hoạt động đấu tranh trên cả ba mặt trận: Quân sự, chính trị, ngoại giao. Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đã góp phần quan trọng cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thực hiện thắng lợi sự nghiệp đấu tranh giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam không những có uy tín trong nước mà còn có vị thế trên trường quốc tế.

         Từ đây Cuộc chiến tranh vệ quốc thần thánh của Dân tộc Việt bước vào giai đoạn khốc liệt nhất mà vẻ vang nhất, suốt 15 năm ròng rã. Cũng từ đây, Miền Nam trở thành Tiền tuyến lớn, Miền bắc trở thành Hậu phương lớn. Tiền tuyến lớn nêu cao tinh thần bất khuất vô song, càng đánh càng mạnh, càng ghi được những chiến công hiển hách trước cường quốc số 1 thế giới về sự giàu có và tàn bạo. Hậu phương lớn đã đem hết “tinh thần và lực lượng”, chi viện tiếp tế đến tận cùng khả năng sức người, sức của của mình và cả những ủng hộ, đóng góp qúi báu của anh em bầu bạn trên thế giới cho Tiền tuyến lớn bằng mọi phương tiện, mọi ngả đường có thể, trong đó chủ yếu, có tính quyết định và đã lừng danh trong lịch sử là “đường mòn Hồ Chí Minh” trên biển Đông với những con tàu không số, và nhất là “đường mòn Hồ Chí Minh” trên dãy Trường Sơn với những “đoàn xe chạy đêm, chạy ngày” bất kể mưa bom bão đạn. Tất cả đã trở thành huyền thoại có tựa đề: “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước, mà lòng phơi phới dậy tương lai”.

                       
                                 Lá cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam,
                                 sau là quốc kỳ của Cộng hòa miền Nam Việt Nam
  

      Chiến tranh Việt Nam (1955–1975) là giai đoạn thứ hai và là giai đoạn khốc liệt nhất của Chiến tranh trên chiến trường Đông Dương (1945–1979). Đây là cuộc chiến giữa hai bên, một bên là Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng hòa ở miền Nam Việt Nam cùng một số đồng minh khác của Hoa Kỳ như Úc, New Zealand, Hàn Quốc, Thái Lan và Philippines tham chiến trực tiếp; một bên là Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, Cộng hòa Miền Nam Việt Nam tại miền Nam Việt Nam phối hợp cùng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, được sự viện trợ vũ khí và chuyên gia từ các nước xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là của Liên Xô và Trung Quốc. Tại Việt Nam, truyền thông đại chúng dùng tên Kháng chiến chống Mỹ hoặc Kháng chiến chống Mỹ cứu nước để chỉ cuộc chiến tranh này, cũng là để phân biệt với các cuộc kháng chiến khác đã xảy ra ở Việt Nam như chống Pháp, chống Nhật, chống Mông Cổ, chống Trung Quốc. Truyền thông và sách vở chính thống của Việt Nam khẳng định rằng bản chất của cuộc chiến là kháng chiến của dân tộc Việt Nam chống lại sự xâm lược của Hoa Kỳ cũng như mô tả chính quyền Việt Nam Cộng hòa như một chính thể tay sai của các thế lực ngoại bang.Các nguồn tài liệu chính thống còn khẳng định rằng đó không phải là một cuộc nội chiến hay chiến tranh ủy nhiệm hoặc là chiến tranh vì ý thức hệ mà là kháng chiến giải phóng dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng tuyên bố: 
      "Chúng tôi bắt buộc phải kháng cự lại lũ xâm lăng ấy để bảo vệ gia đình, Tổ quốc chúng tôi..Miền Nam là máu của máu Việt Nam, là thịt của thịt Việt Nam...Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn núi có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi” 
Ngoại trưởng Xuân Thủy, trưởng phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại Hội nghị Paris về Việt Nam tuyên bố:
      "Sự can thiệp đơn phương của Hoa Kỳ tại Việt Nam đã vi phạm Hiến chương Liên hợp quốc; sự có mặt của Quân đội Hoa Kỳ tại Việt Nam đã vi phạm Hiệp định Genève 1954; cường độ và tính chất tàn phá của cuộc chiến tranh của Hoa Kỳ tại Việt Nam là trái với luật pháp quốc tế; những hành động của Hoa Kỳ tại Việt Nam đã vi phạm cả Hiến pháp của Hoa Kỳ...Nước Việt Nam là của người Việt Nam, Hoa Kỳ không có quyền đem quân đội tới và lại càng không có quyền bắt buộc người dân Việt Nam phải trả một cái giá nào đó cho việc triệt thoái hoàn toàn quân đội Hoa Kỳ". 
     Tên gọi ít được sử dụng hơn là Chiến tranh Đông Dương lần 2, được dùng để phân biệt với Chiến tranh Đông Dương lần 1 (1945-1955), Chiến tranh Đông Dương lần 3 (1975-1989, gồm 3 cuộc xung đột ở Campuchia và biên giới
       Cuộc chiến tranh này được nhiều người phân đoạn theo các cách khác nhau: Người Mỹ thường quan niệm "Chiến tranh Việt Nam" được tính từ khi họ trực tiếp tham chiến trên bộ đến khi chính quyền Việt Nam Cộng hòa đầu hàng (từ 1965 đến 1975). Nhưng quan điểm chung và chính thống hiện nay của chính phủ Việt Nam vẫn coi Chiến tranh Việt Nam được tính từ 1954 hoặc 1955 đến 1975, vì theo họ nguồn gốc của chiến tranh bắt nguồn từ các kế hoạch can thiệp của Hoa Kỳ vào Việt Nam, vốn bắt đầu diễn ra ngay từ năm 1954 (ngày chiến thắng Điện Biên Phủ, năm kết thúc chiến tranh Đông Dương). Theo tài liệu của Bộ Quốc phòng Mỹ, Chiến tranh Việt Nam được Mỹ coi là bắt đầu từ ngày 1/11/1955 khi Nhóm chuyên gia hỗ trợ quân sự Mỹ (U.S. Military Assistance Advisory Group - MAAG) tại Việt Nam được thành lập.
Từ năm 1943, Washington đã có một số hành động ở Đông Nam Á nhằm chống lại quân Nhật đóng ở đây. Hồ Chí Minh nhận thấy Hoa Kỳ đang muốn đóng vai trò lớn hơn ở khu vực Thái Bình Dương, ông đã làm tất cả để thiết lập mối quan hệ với Hoa Kỳ thông qua việc giải cứu các phi công gặp nạn trong chiến tranh với Nhật Bản, cung cấp các tin tức tình báo cho Hoa Kỳ, tuyên truyền chống Nhật. Đổi lại, cơ quan tình báo Hoa Kỳ OSS (U.S Office of Strategic Services) giúp đỡ y tế, cung cấp vũ khí, phương tiện liên lạc, cố vấn và huấn luyện quân đội quy mô nhỏ cho Việt Minh.
       Ngày 28 tháng 2 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi thư cho Tổng thống Mỹ Harry Truman kêu gọi Mỹ can thiệp khẩn cấp để ủng hộ nền độc lập non trẻ của Việt Nam, nhưng không được hồi đáp vì Mỹ xem Hồ Chí Minh là "tay sai của Quốc tế cộng sản" nên phớt lờ lời kêu gọi hỗ trợ nền độc lập của Việt Nam. Cuối tháng 9 năm 1946, Mỹ rút tất cả các nhân viên tình báo tại Việt Nam về nước, chấm dứt liên hệ với chính phủ Hồ Chí Minh. Thật là cuộc bỏ lỡ hòa bình vô cùng đáng tiếc của Mỹ!
         Để thi hành chính sách chống Cộng, Hoa Kỳ lập ra nhiều tổ chức quân sự liên quốc gia như (NATO, CENTO, SEATO), các tổ chức và hiệp ước phòng thủ song phương và khu vực. Bên cạnh đó là một hệ thống căn cứ quân sự dày đặc để bao vây các nước Xã hội chủ nghĩa. Tại những khu vực có tính địa chiến lược cao, Hoa Kỳ sẵn sàng sử dụng biện pháp quân sự, thâm chí khi chưa có sự đồng ý của Liên hợp quốc như Việt Nam, Lào, Campuchia (1954-1975), Cuba (1961), Dominica (1965). Mặc dù thất bại tại nhiều nơi đặc biệt là ở Việt Nam, Lào, Cuba nhưng Hoa Kỳ vẫn tiếp tục thực hiện chính sách này nhưng với những hình thức khác. Từ thập niên 1980, Hoa Kỳ chuyển sang chính sách "Vượt lên ngăn chặn", có nghĩa là can thiệp trực tiếp vào nội bộ các nước Xã hội chủ nghĩa.
       Năm 1953, mỗi tháng, Mỹ viện trợ cho Pháp 20.000 tấn vũ khí và quân nhu mỗi tháng, sau đó Mỹ đồng ý tăng lên 100.000 tấn/tháng, đổi lại chính phủ Mỹ yêu cầu Pháp phải có kết quả cụ thể. Khi chiến tranh chấm dứt vào năm 1954, Mỹ đã trả 78% chiến phí cho Pháp, thậm chí phi công Mỹ cũng tham gia chiến đấu cùng Pháp trong trận Điện Biên Phủ. Thời gian này ở tất cả các cấp bộ trong quân đội viễn chinh Pháp đều có cố vấn Mỹ. Người Mỹ có thể đến bất cứ đâu kiểm tra tình hình không cần sự chấp thuận của tổng chỉ huy Pháp. Việc Mỹ trực tiếp tham chiến tại chiến tranh Đông Dương chỉ còn là vấn đề thời gian 1-2 năm. Thậm chí khi Điện Biên Phủ nguy cấp, Mỹ đã tính tới chuyện dùng bom nguyên tử để cứu nguy cho Pháp.
      Tuy nhiên công thức "Viện trợ Mỹ, viễn chinh Pháp, quân bản xứ" vẫn không cứu vãn được thất bại. Sau khi thất bại tại Điện Biên Phủ, Pháp đã mất hẳn ý chí tiếp tục chiến đấu tại Đông Dương.
       Trước khi Hiệp ước Genève được ký kết 6 tuần, ngày 4/6/1954, Pháp đã đàm phán với Quốc gia Việt Nam bản dự thảo Hiệp ước Matignon (1954), nếu được ký chính thức thì Quốc gia Việt Nam sẽ hoàn toàn độc lập khỏi Liên hiệp Pháp. Chính phủ này sẽ không còn bị ràng buộc bởi những hiệp ước do Pháp ký kết. Tuy nhiên, Hiệp ước Matignon (1954) chưa được Quốc hội Pháp và Tổng thống Pháp phê chuẩn. Bên cạnh đó, cũng có những lập luận cho rằng Quốc gia Việt Nam vẫn bị ràng buộc bởi Hiệp định Geneva, bởi vì chính phủ này chỉ sở hữu một vài thuộc tính của một chủ quyền đầy đủ, và đặc biệt là nó phụ thuộc vào Pháp về quốc phòng, tài chính, thương mại, kinh tế. Tuy nhiên, Hiệp ước Genève đã diễn tiến quá nhanh. Sau khi Hiệp định Geneva được ký, Hiệp ước Matignon đã trở nên không bao giờ được hoàn thành. Quốc gia Việt Nam vẫn là một thành viên của Liên hiệp Pháp và do đó vẫn phải tuân thủ những Hiệp định do Liên hiệp Pháp ký kết.
        Tuy nhiên, phái đoàn Quốc gia Việt Nam đã từ chối ký và không công nhận Hiệp định Genève, đồng thời ra Tuyên bố Hiệp định Genève chứa "những điều khoản gây nguy hại nặng nề cho tương lai chính trị của Quốc gia Việt Nam" và "không tôn trọng nguyện vọng sâu xa của dân Việt", bởi Bộ Tư lệnh Pháp đã "nhường cho Việt Minh những vùng mà quân đội quốc gia còn đóng quân và tước mất của Việt Nam quyền tổ chức phòng thủ" và "tự ấn định ngày tổ chức tuyển cử mà không có sự thỏa thuận với phái đoàn quốc gia Việt Nam". Tuyên bố cũng cho biết Quốc gia Việt Nam sẽ "tự dành cho mình quyền hoàn toàn tự do hành động để bảo vệ quyền thiêng liêng của dân tộc Việt Nam trong công cuộc thực hiện Thống nhất, Độc lập, và Tự do cho xứ sở". Tuy nhiên, nhiều người cho rằng tuyên bố của Quốc gia Việt Nam là vô giá trị vì họ vẫn là một phần của Liên hiệp Pháp. Phái đoàn Hoa Kỳ cũng từ chối ký Hiệp định và tuyên bố không bị ràng buộc vào những quy định ấy, nhưng nói thêm nước này "sẽ coi mọi sự tái diễn của các hành động bạo lực vi phạm hiệp định là điều đáng lo ngại và là mối đe dọa nghiêm trọng đối với hòa bình và an ninh quốc tế". Trong Tuyên bố của mình, đối với vấn đề tổng tuyển cử thống nhất Việt Nam, chính phủ Mỹ nêu rõ quan điểm "tiếp tục cố gắng đạt được sự thống nhất thông qua những cuộc tuyển cử tự do được giám sát bởi Liên Hiệp Quốc để bảo đảm chúng diễn ra công bằng". Theo Hồ Chí Minh, do Quốc gia Việt Nam vẫn chưa độc lập khỏi Liên hiệp Pháp nên không thể tham gia Hội nghị và ký kết Hiệp định với tư cách một quốc gia và Quốc gia Việt Nam vẫn phải chịu ràng buộc bởi những thỏa thuận giữa Việt Minh và Pháp.
Ngay sau khi Hiệp định Geneva được ký kết chỉ vài ngày, trả lời Thông tấn xã Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiên đoán trước Mỹ sẽ tìm cách phá bỏ Hiệp định để chia cắt Việt Nam: "Theo đúng lập trường của ta từ trước đến nay, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà sẽ tiếp tục cố gắng đấu tranh cho hoà bình, độc lập, thống nhất, dân chủ của Tổ quốc. Đồng thời, chúng ta phải có tinh thần cảnh giác rất cao đối với âm mưu của đế quốc Mỹ định cản trở hai bên đi đến hiệp định đình chiến và mưu mô lập khối liên minh quân sự có tính chất xâm lược, chia châu Á thành những tập đoàn đối lập để dễ xâm lược và khống chế Đông Dương cùng Đông Nam Á.".
         Kết quả Hiệp định: Quân đội Nhân dân Việt Nam, lực lượng đã giành thắng lợi sau cuộc chiến, tập kết về miền Bắc. Lực lượng Quốc gia Việt Nam cùng với quân đội Pháp tập kết về miền Nam, tập kết dân sự và chính trị theo nguyên tắc tự nguyện. Theo thống kê của Ủy ban Quốc tế Giám sát Đình chiến có 892.876 dân thường di cư từ miền Bắc vào miền Nam Việt Nam, trong khi 140.000 người khác từ miền Nam tập kết ra Bắc. Quân đội Pháp dần dần rút khỏi miền Nam và trao quyền lực cho chính quyền Quốc gia Việt Nam.
         Chính quyền Quốc gia Việt Nam (tiền thân của Việt Nam Cộng hòa) từ chối hiệp thương tổng tuyển cử tự do với lý do mà Thủ tướng Ngô Đình Diệm đưa ra là "Chúng tôi không từ chối nguyên tắc tuyển cử tự do để thống nhất đất nước một cách hoà bình và dân chủ", "thống nhất đất nước trong tự do chứ không phải trong nô lệ" nhưng ông "nghi ngờ về việc có thể đảm bảo những điều kiện của cuộc bầu cử tự do ở miền Bắc". Khi trở thành Tổng thống Việt Nam Cộng hòa, Ngô Đình Diệm còn ra nhiều tuyên bố công kích chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đáp lại những cáo buộc này, Hồ Chí Minh đã trả lời với các nhà báo Mỹ ở hãng U.P rằng: "Đó là lời vu khống của những người không muốn thống nhất Việt Nam bằng tổng tuyển cử tự do. Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà bảo đảm tổng tuyển cử sẽ được hoàn toàn tự do ở miền Bắc Việt Nam.".
       Ngay từ tháng 3/1961, khi Chủ tịch Quốc hội Pháp Jacques Chaban-Delmas có chuyến sang Mỹ, Thống chế Pháp Charles de Gaulle nhờ ông này nhắn lại với Tổng thống Mỹ “đừng để sa lầy trong vấn đề Việt Nam, ở đó Mỹ có thể mất cả lực lượng lẫn linh hồn của mình”. Ngày 31/5/1961, tiếp Tổng thống Mỹ John F. Kennedy tại Paris, Thống chế Pháp Charles de Gaulle cảnh báo:
        “Người Pháp chúng tôi có kinh nghiệm về chuyện đó. Người Mỹ các ông trước đây [chỉ các tổng thống Mỹ tiền nhiệm] từng muốn thay chỗ chúng tôi ở Đông Dương. Và hôm nay ông muốn nối gót chúng tôi để nhen lại ngọn lửa chiến tranh mà chúng tôi đã kết thúc. Tôi xin báo trước cho ông biết: các ông sẽ từ từ sa vào vũng lầy quân sự và chính trị không đáy, bất chấp những tổn thất [nhân mạng] và chi tiêu [tiền của] mà các ông có thể phung phí ở đó".
Tháng 6-1961, Kennơđy nhận định: “Mỹ phải chứng tỏ quyền lực của chúng ta là đáng tin cậy và Việt Nam là chỗ thích hợp”. Khi G. Ball báo trước là ở Việt Nam có thể phải cần đến sự hiện diện của 300 ngàn quân Mỹ, Kennơđy cười mũi và nói thẳng: “Chuyện đó chẳng bao giờ xảy ra”. Một năm sau, số quân Mỹ đã là 23 ngàn người và vẫn tiếp tục tăng!
Chính thể Việt Nam Cộng Hòa là một quái thai của mẹ Pháp, bố Mỹ và mang hồn ma triều đình Huế, được dựng nên một cách khiên cưỡng chỉ nhằm chống lại chính quyền nhân dân của Hồ Chí Minh, tức là nhằm chống lại sự lan tràn của chủ nghĩa Cộng sản trên thế giới. Chính khách Việt Nam Cộng Hòa là một đám vụ lợi tầm thường thích xa lông, thèm xôi thịt. Tướng lĩnh Việt Nam Cộng Hòa là một lũ đầu gấu tứ xứ mò về, coi nghiệp binh là một nghề kiếm chác danh lợi từ bảo kê, trộm cướp đến buôn lậu, chống cộng chỉ vì bổng lộc cho nên luôn xâu xé nhau, luôn tranh quyền đoạt lợi của nhau và sẵn sàng lật thầy, phản chủ.
       Ngô Đình Diệm, kẻ trong vai tổng thống của chính thể Việt Nam Cộng Hòa, là một kẻ mù quáng về chính trị, có tham vọng danh lợi đầy vị kỷ, sẵn sàng hy sinh quyền lợi Dân tộc để hòng đạt được mục đích danh lợi ấy. Là con đẻ của bố Mỹ, sống được là nhờ bố Mỹ nhưng Ngô Đình Diệm “càng lớn” càng tỏ ra bướng bỉnh, ngỗ ngược, không chịu vâng lời bố, ngửa tay nhận viện trợ Mỹ để sống nhưng lại khờ khạo muốn làm “chí sĩ”, đòi cái “gia đình trị” của mình được độc lập, tự do. Thế là Mỹ bật đèn xanh cho đám lau nhau “Hội đồng tướng lĩnh” ngụy lật đổ. Sẵn máu côn đồ, chúng giết luôn Diệm và Nhu (Ngô Đình Nhu, em ruột Diệm, đóng vai “cố vấn” nhưng có quyền lực át cả Diệm) bằng đâm dao và bắn súng nát bấy thân thể một cách đê hèn, không qua xét xử. Riêng “lãnh chúa miền Trung” Ngô Đình Cẩn (em ruột Diệm - Nhu) thì “được” xử bắn và  nghe nói không chịu nhả 6 triệu đôla gửi tại ngân hàng Thụy Sĩ để đổi lấy chuyến bay Dakota thoát thân sang Singapo (khi nghe đến người ra giá này, Cẩn đã thốt lên: “Chết tao rồi!”).
 
          Tóm tắt chiến lược Chiến tranh đặc biệt của Mỹ 1961-1965:
Chính quyền Sài Gòn thời hậu Diệm - Nhu, bị giới quân sự khống chế, lũng đoạn. Các tướng lĩnh gài bẫy đạp đá nhau liên miên để tranh giành chức quyền với mục đích duy nhất là đục khoét, trộm cướp, kiếm chác càng nhiều danh lợi cho bản thân càng tốt Với một chính quyền như vậy thì lực lượng vũ trang của nó cũng chẳng ra gì.
 Cuối 1960, hình thức cai trị của chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm bị thất bại, Hoa Kỳ bắt buộc phải chuyển hướng qua áp dụng chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” (1961 – 1965). Là hình thức chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới, được tiến hành bằng quân đội Sài Gòn, dưới sự chỉ huy của hệ thống “cố vấn” Mỹ, dựa vào vũ khí, trang bị kỹ thuật, phương tiện chiến tranh của Mỹ, nhằm chống lại phong trào cách mạng của nhân dân ta.
Đề ra kế hoạch Xtalây – Taylo, bình định miền Nam trong vòng 18 tháng bằng việc tăng viện trợ quân sự cho Diệm, tăng cường cố vấn Hoa Kỳ và lực lượng quân đội Sài Gòn. Tiến hành dồn lực “Vũ khí, trang bị hiện đại, áp dụng rộng rãi những chiến thuật mới như” Trực thăng vận “và” thiết xa vận “.(Ấp chiến lược “được Hoa Kỳ và Nguy xem như nền tảng của” Chiến tranh Việt Nam “). Thành lập Bộ chỉ huy quân sự Mỹ ở miền Nam (MACV) , đồng thời hướng dẫn, huấn luyện quân đội Sài Gòn. Mở các chiến dịch hành quân càn quét nhằm triệt hạ thế lực cộng sản và tiến hành những hoạt động chống phá miền Bắc, kiểm soát cửa khẩu, biên giới để chặn đứng nguồn tiếp tế của miền Bắc vào miền Nam.
Đến cuối năm 1964, đầu năm 1965, lực lượng của ta trên chiến trường miền Nam đã khá lớn mạnh. Trên chiến trường lúc này có cả bộ đội chủ lực được xây dựng từ lực lượng tại chỗ, cả bộ đội chủ lực cơ động từ miền Bắc vào. Lực lượng dân quân du kích cũng phát triển mạnh và đã được tôi luyện qua thực tiễn chiến đấu nên rất gan dạ, dũng cảm, chiến đấu mưu trí, chủ động kéo giãn chủ lực địch ra khắp chiến trường để tiêu diệt. Nhân dân miền Nam sau những năm tháng sống dưới ách kìm kẹp của Mỹ-ngụy đã nhận rõ bộ mặt thật của chính quyền Việt Nam Cộng hòa khiến mối bất đồng ngày càng sâu sắc. Nhân dân khắp miền Nam liên tục tham gia đấu tranh trực diện với địch, phá ấp chiến lược, phản đối các chính sách kìm kẹp của Mỹ-ngụy, tích cực ủng hộ cách mạng.
Về phía địch, tuy được sự hậu thuẫn tích cực của đế quốc Mỹ cả về người và vũ khí, nhưng chúng ỷ lại vào vũ khí và mất ổn định nghiêm trọng về chính trị do những cuộc đấu đá, tranh giành quyền lực từ tầng lớp chóp bu. Các cuộc hành quân, các chiến thuật của địch phần lớn bị ta đánh bại, điển hình trong thời kỳ này là chiến thuật “trực thăng vận, thiết xa vận”. Các chính sách địch đem ra áp dụng đều bị nhân dân phản đối, nên không hiệu quả, dẫn đến bị động cả về chiến thuật và chiến lược. Đến cuối năm 1964, đầu năm 1965, ta mở một số chiến dịch cấp trung đoàn, đánh tiêu diệt cấp tiểu đoàn địch và đã giành thắng lợi như: Chiến dịch Bình Giã, Ba Gia, Đồng Xoài. Trên các địa bàn khác như: Gia Lai, Kon Tum, Phú Yên, Khánh Hòa v.v.. cũng mở hàng trăm trận đánh lớn, nhỏ nhằm vào quân ngụy và cố vấn quân sự Mỹ khiến địch càng thêm lúng túng. Sau Chiến dịch Bình Giã, Trung ương Đảng nhận định: “Sau trận Ấp Bắc (1-1963), Mỹ đã nhận thấy không thể thắng được ta. Sau Chiến dịch Bình Giã, Mỹ lại nhận thấy có thể thua ta…”. Đây là một nhận định hoàn toàn chính xác, bởi ở thời điểm đó, ta đã giải phóng hàng triệu dân, có nhiều huyện được giải phóng toàn bộ, hàng nghìn “ấp chiến lược” của địch bị phá hoàn toàn. Sau này, khi công bố tài liệu mật về cuộc chiến tranh Việt Nam, đế quốc Mỹ cũng thừa nhận về thời kỳ 1964-1965 tình trạng của Mỹ-ngụy như sau: “…đang chơi một ván bài thua” ở Việt Nam vì “Việt Cộng chiếm được nhiều quá đến nỗi một lần nữa chúng ta lại đứng trước nguy cơ nước này bị cắt ra làm đôi bởi một mũi dùi của Việt Cộng thọc ra đến tận biển”.
 Thực tế chiến trường cho thấy cái chiến lược “chiến tranh đặc biệt”: bộ binh ngụy + cố vấn và hỏa lực Mỹ đã nhanh chóng phá sản vì không đương đầu nổi với Quân giải phóng. Mỹ buộc phải chuyển sang chiến lược Chiến tranh cục bộ (nghĩa là thừa nhận sự thất bại của chiến lược Chiến tranh đặc biệt)
Ba tuần sau cái chết của Diệm, tổng thống Mỹ lúc bấy giờ là Kennơđy cũng bị bắn chết kiểu găngxtơ. Việc điều hành chiến tranh ở Việt Nam chuyển sang tay Giônsơn (Johnson). Giônsơn thổ lộ: “Mất cái xã hội vĩ đại là một ý nghĩ đáng sợ, nhưng còn chưa đáng sợ bằng ý nghĩ phải chịu trách nhiệm về sự thất bại của cuộc chiến tranh với cộng sản, không còn gì tồi tệ hơn điều đó”.
Mắc Namara được cử đến Sài Gòn để nhận định tình hình tại chỗ, quan sát thấy sự bệ rạc của chính quyền Sài Gòn, đã báo cáo với Giônsơn: “Không lật ngược được tình hình, cừ đà này thì hai ba tháng tới, khá lắm cũng sẽ là chính phủ trung lập, điều chắc chắn hơn là một quốc gia do cộng sản kiểm soát ở Sài Gòn”. Hội đồng tham mưu trưởng liên quân Mỹ đòi phải dùng biện pháp mạnh, đột kích bằng không quân ra miền Bắc - Việt Nam, trinh sát cả Lào và Cămpuchia, Mỹ cần phải nắm lấy quyền chủ động điều hành cuộc chiến tranh. Đây chính là bước đi khởi đầu của chiến lược “chiến tranh cục bộ” - quân Mỹ trực tiếp tham chiến trên chiến trường Việt Nam. Trong bài “Lực lượng đặc nhiệm trong hành động ở ngoài khơi Việt Nam”, W.Cagle viết: “Để gìn giữ Việt Nam, chiến lược quân sự của Mỹ có hai mục tiêu liên kết với nhau: tiến hành một chiến lược bằng bộ binh và không quân đánh bại đối phương ngay ở Nam - Việt Nam hoặc buộc họ phải rút quân, còn ở bên ngoài thì dùng không quân và hải quân tiến công Bắc - Việt Nam để buộc họ phải đình chỉ xâm lược”
Thực tế cho thấy Nhà Trắng đã quyết tâm để theo hướng này vì sau khi đã tạo ra cái cớ “Vịnh Bắc Bộ” và ra đòn trả đũa ngày 5-8-1964, thì ngày 7-2-1965, Tổng thống Giônsơn đã quyết định bắt đầu chiến dịch “Sấm rền”, ném bom bắn phá Bắc - Việt Nam kéo dài suốt 37 tháng, theo kiểu leo thang.
       Theo Stanley Karnow, nhà báo Mỹ, có mặt tại Việt nam từ năm 1959, thì vào tháng 6-1964, Mỹ đã có dự thảo nghị quyết “Vịnh Bắc Bộ”. Sự kiện “Vịnh Bắc Bộ” là do Mỹ cố tạo dựng nên, lừa dối dư luận Mỹ (rằng là ngày 2-8-1964 xảy ra đụng độ giữa 3 tàu phóng lôi Bắc  - Việt Nam và tàu chiến Maddox của Mỹ; 8 giờ tối 4-8, thuyền trưởng Kerrick có cảm giác (!) là tàu mình lại bị tiến công nhưng không quan sát thấy gì…), để có cớ phát động cuộc bắn phá miền Bắc - Việt Nam bằng không quân. Trong khi Herrick còn chưa biết “mô, tê” ra sao thì cũng là đủ cho phát ngôn viên Lầu Năm Góc khẳng định về “một cuộc tiến công có dự liệu đã xảy ra” và ở Mỹ, trước nửa đêm 4-8-1964, Giônsơn đã trịnh trọng thông báo trước ống kính truyền hình là “đòn trả miếng đang xảy ra trong lúc tôi đang nói với người Mỹ”. Ở Bắc - Việt Nam trong ngày 5-8-1964 đã có 64 lần chiếc máy bay Mỹ xuất kích đánh vào 4 căn cứ hải quân và 1 kho dầu.
            Sự thật về sự kiện Vịnh Bắc Bộ và chiến dịch Mũi Tên Xuyên (Pierce Arrow):
          Cuối năm 2004, tại Mỹ phát hành cuốn sách “Tonkin Gulf and the Escalation of the Vietnam War” (tạm dịch: Vịnh Bắc Bộ và sự leo thang chiến tranh ở Việt Nam) của tác giả Edwin E. Moïse mô tả chi tiết các sự kiện diễn ra từ đêm ngày 4-8-1964 khi tàu khu trục Maddox và Turner Joy của Mỹ loan tin bị ngư lôi của Bắc Việt tấn công tại Vịnh Bắc Bộ (Tonkin Gulf). Khai thác thông tin từ các hồ sơ đã được Chính phủ Mỹ giải mật và dựa trên phỏng vấn với những người trong cuộc, tác giả Edwin E. Moïse đi đến kết luận không hề có có cuộc tấn công của Bắc Việt Nam, tất cả các báo cáo gửi về cho Nhà Trắng đều mang tính bịa đặt hay đó chỉ là "thuyết âm mưu" mà Chính phủ Mỹ cần để lấy cớ tấn công miền Bắc Việt Nam và ủng hộ chính quyền thân Mỹ tại miền Nam Việt Nam, đi ngược lại tôn chỉ mục đích của Hiệp định Geneva 1954.
       Năm 2014, tại Mỹ lại tiếp tục xuất bản cuốn “The Gulf of Tonkin Event-Fifty Years Later: A Footnote to the History of the Vietnam War” (tạm dịch: Sự kiện Vịnh Bắc Bộ 50 năm sau: Đính chính lịch sử Chiến tranh Việt Nam) của tác giả John White. Theo cuốn sách này, sự kiện Vịnh Bắc Bộ đã khiến  Quốc hội Mỹ hiểu sai tình hình, tiếp tục cho phép Tổng thống Lyndon Johnson (và sau là  Richard Nixon) tăng cường quân sự và phát động chiến tranh không chỉ ở Việt Nam mà còn lan rộng ra cả khu vực Đông Nam Á.
        Một hồ sơ quan trọng khác cũng đã được chính Chính phủ Mỹ cho giải mật có tên “Gulf of Tonkin Resolution” (Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ) của tác giả John Galloway. Nội dung cuốn sách cho thấy đã có những báo cáo sai về các cuộc tấn công của hải quân Bắc Việt Nam đối với hai tàu khu trục của Mỹ tại Vịnh Bắc Bộ những ngày đầu tháng 8-1964 nhưng Quốc hội Mỹ vẫn cứ thông qua Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ vào ngày 7-8-1964 cho phép tăng cường lính Mỹ tới miền Nam Việt Nam, đồng thời phát động cuộc chiến không quân và hải quân chống lại Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa.
        Sự việc bắt đầu vào ngày 2-8-1964, tàu khu trục USS Maddox trong khi thực hiện một cuộc tuần tra tình báo trong khuôn khổ chiến dịch Desoto đã đụng độ với ba tàu phóng ngư lôi của Hải quân nhân dân Việt Nam (gồm tàu 333, 336 và 339) thuộc Đoàn tàu phóng ngư lôi 135. Một trận hải chiến xảy ra khiến 1 máy bay Mỹ bị hư hỏng, tàu khu trục bị một vết đạn 14,5 mm; ba tàu ngư lôi của Bắc Việt bị hư hỏng, bốn thủy thủ Bắc Việt Nam hy sinh và 6 người bị thương, phía Mỹ không có thương vong. Thực tế tàu khu trục USS Maddox đã xâm phạm lãnh hải của Việt Nam Dân chủ cộng hòa tại khu vực Hòn Mê và Lạch Trường vào lúc 14 giờ 52 ngày 2-8. Cụ thể hơn, ngày 2-8, tàu USS Maddox chỉ cách bờ biển Thanh Hóa 6 hải lý (9 km) nằm trong lãnh hải của Việt Nam. Phía Hải quân nhân dân Việt Nam thông báo hai tàu 333 và 336 bị hư hại một số thiết bị trên boong nhưng vẫn tiếp tục đánh trả máy bay của Mỹ, bắn rơi 1 chiếc, bắn hư hại 1 chiếc khác.
 
                                               USS Maddox (DD-731)
                         Tàu khu trục USS Maddox (DD-731) ngoài biển khơi, vào những năm 1960
 
         Sự kiện Vịnh Bắc Bộ lần 2 được Cơ quan An ninh quốc gia Mỹ (NSA) công bố xảy ra vào ngày 4-8-1964 như là một trận hải chiến riêng biệt. Nhưng thực sự không có tàu ngư lôi nào của Việt Nam tấn công tàu chiến Mỹ trong ngày hôm đó. Trong một cuốn băng ghi âm được giải mật năm 2001, Tổng thống Lyndon B. Johnson thừa nhận rằng vụ thứ hai trong sự kiện Vịnh Bắc Bộ chưa hề xảy ra. Một báo cáo được tiết lộ năm 2005 của NSA cũng khẳng định cuộc tấn công thứ hai đã không xảy ra. NSA cho rằng đó là do "Bóng ma tại Vịnh Bắc Bộ", tức là các tín hiệu radar bị lỗi. Đầu tháng 1- 2008, Hiệp hội các nhà khoa học Mỹ (FAS) cho biết NSA đã giải mật bản báo cáo “Spartans in Darkness” trong đó khẳng định Hải quân nhân dân Việt Nam không hề tấn công tàu chiến Mỹ trong đêm 4-8-1964.

          Trong tài liệu công bố năm 2003 mang tên “The Fog of War” (Màn sương mờ Chiến tranh), cựu Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert S. McNamara thú nhận, cuộc tấn công USS Maddox vào ngày 2-8 đã xảy ra mà không có phản ứng của Bộ Quốc phòng, nhưng vụ tấn công ngày 4-8 thì không bao giờ xảy ra. Năm 1995, cựu Bộ trưởng Quốc phòng McNamara đã gặp Đại tướng Võ Nguyên Giáp để hỏi điều gì đã xảy ra vào ngày 4-8-1964 tại Vịnh Bắc Bộ, Tướng Giáp cho biết phía Hải quân Việt Nam không làm bất cứ điều gì. "Hoàn toàn không có gì, cuộc tấn công này chỉ là tưởng tượng", Đại tướng Võ Nguyên Giáp trả lời trước người đồng cấp.

         Mặc dù chỉ là tưởng tượng song từ cái cớ nói trên ngày 5-8-1964, Hải quân Mỹ đã ném bom một số cửa biển quan trọng ở miền Bắc Việt Nam, mở đầu cuộc chiến tranh phá hoại tàn khốc trong suốt 9 năm liền bằng không quân và hải quân quy mô lớn đối với toàn bộ miền Bắc Việt Nam. 

Chiến dịch Mũi Tên Xuyên (tiếng Anh: Operation Pierce Arrow) là chiến dịch không kích trong Chiến tranh Việt Nam do Hải quân Mỹ thực hiện vào ngày 5 tháng 8 năm 1964 nhằm trả đũa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa về sự kiện Vịnh Bắc Bộ xảy ra vào các ngày 2 và 4 tháng 8 năm 1964.

Các máy bay F-8 Crusader, A-1 Skyraider, và A-4 Skyhawk, từ các hàng không mẫu hạm USS Ticonderoga và USS Constellation trên Biển Đông, đã bay 64 lượt đánh phá các mục tiêu định sẵn tại các vùng phụ cận Vinh - Bến Thủy (Nghệ An), vùng phụ cận thị xã Hòn Gai (Quảng Ninh), cửa Lạch Trường (Thanh Hoá) và cửa Gianh (Quảng Bình)... Máy bay Mỹ đã phá hủy hoặc gây thiệt hại 25 tàu tuần tiễu (PT boat) của Hải quân Nhân dân Việt Nam (các quan chức Mỹ cho rằng đây là một nửa số tàu của Hải quân Nhân dân Việt Nam); phá hủy 7 hệ thống phòng không tại Vinh; và làm thiệt hại nặng một kho xăng dầu tại Vinh.

Hai máy bay Hoa Kỳ bị bắn rơi. Một phi công thiệt mạng. Máy bay do trung úy phi công Everett Alvarez lái bị rơi lúc 14h43, do đạn súng máy phòng không 14,5mm của Đại đội 141 do Trung đội phó Trương Thanh Luyện chỉ huy. Everett Alvarez, nhảy dù xuống Hòn Gai và bị bắt làm tù binh. Ông là người đầu tiên trong số khoảng 600 phi công Mỹ bị bắt trong chiến tranh Việt Nam và được trao trả sau khi hiệp định ngừng bắn được ký vào năm 1973.

Tiếp theo chiến dịch Mũi Tên Xuyên là các chiến dịch ném bom khác: Chiến dịch Flaming Dart (7 đến 11 tháng 2 năm 1965); Chiến dịch Sấm Rền (2 tháng 3 năm 1965 đến 31 tháng 10 năm 1968); Chiến dịch Linebacker (9 tháng 5 đến 22 tháng 10 năm 1972); và Chiến dịch Linebacker II (18 đến 29 tháng 12 năm 1972).

Tại Việt Nam ngày nay, ngày 5 tháng 8 năm 1964 được kỷ niệm như "ngày đánh thắng trận đầu" của Hải quân nhân dân và Bộ đội Phòng không Việt Nam, và được chọn làm ngày truyền thống của Hải quân Nhân dân Việt Nam.  
 
                                  
                                                               Mục tiêu của Mũi Tên Xuyên
     

Chiến dịch Sấm Rền (tiếng Anh: Operation Rolling Thunder) hay Chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất (theo cách gọi của chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày nay) là chiến dịch ném bom trong Chiến tranh Việt Nam do Sư đoàn 2 Không quân Mỹ (sau là Lực lượng Không quân số 7), Hải quân Mỹ và Không lực Việt Nam Cộng hòa chống lại Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Chiến dịch này kéo dài từ ngày 2 tháng 3 năm 1965 đến ngày 1 tháng 11 năm 1968.

Bốn mục tiêu của chiến dịch (phát triển theo thời gian) là:

  • Cứu vãn tinh thần đang sa sút của chính phủ Việt Nam Cộng hòa;
  • Ép Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngừng hỗ trợ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam;
  • Phá hủy hệ thống giao thông, các cơ sở công nghiệp, các lực lượng phòng không của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa;
  • Ngăn chặn dòng quân và hàng hóa chảy vào miền Nam Việt Nam.

Việc đạt được các mục tiêu này trở nên khó khăn bởi những hạn chế áp đặt lên Hoa Kỳ và các đồng minh trong Chiến tranh Lạnh và bởi viện trợ quân sự và sự trợ giúp mà Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhận được từ các đồng minh khối phía Đông là Liên Xô, Trung Quốc và Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên.

Chiến dịch này trở thành trận chiến không quân dữ dội nhất diễn ra trong Chiến tranh Lạnh và là trận chiến khó khăn nhất của không quân Hoa Kỳ kể từ khi Hoa Kỳ thả bom xuống Đức trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Các đồng minh thuộc khối phía Đông viện trợ cho Quân đội nhân dân Việt Nam các loại vũ khí không đối không và đất đối không và Việt Nam bố trí những vũ khí này thành một hệ thống phòng không hiệu quả nhất mà các phi công quân sự Mỹ phải đối mặt.

      Chiến dịch Sấm Rền đầu năm 1965 đánh phá các tỉnh từ Thanh Hóa trở vào, sau đó chiến tranh không quân lan rộng ra toàn miền Bắc Việt Nam. Để đề phòng các phản ứng của quốc tế, Không quân Mỹ chỉ chừa lại nội thành hai thành phố Hà Nội và Hải Phòng. Chiến tranh không quân nhắm vào hệ thống đường xá giao thông và các mục tiêu công nghiệp, quân sự. Thậm chí các trạm biến thế điện nhỏ, các nhánh đường sắt phụ cũng bị đánh. Bị đánh phá nặng nhất là tại khu vực hai tỉnh Hà Tĩnh, Quảng Bình, là cuống họng tiếp tế vào Nam, và tại khu vực Vĩnh Linh giáp sông Bến Hải - nơi dân chúng phải sống trong địa đạo.
       Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thỏa thuận với Trung Quốc đưa một bộ phận quân đội Trung Quốc vào miền Bắc Việt Nam đóng ở một số vị trí quan trọng như tỉnh Quảng Ninh, Thái Nguyên và dọc đường Quốc lộ 1, nhưng không được vượt quá phía nam Hà Nội. Sau đó một số lượng đáng kể nhân viên quân sự Trung Quốc được gửi sang miền Bắc, bắt đầu từ tháng 6 năm 1965. Tổng số quân Trung Quốc đã có mặt tại miền Bắc từ tháng 6-1965 đến tháng 3-1973 là gần 320.000 người. Tại thời điểm đông nhất có khoảng 130.000 người, bao gồm các đơn vị tên lửa đất đối không, pháo phòng không, các đơn vị công binh làm đường, dò mìn, và vận tải. Lực lượng này không được phép tham chiến mà chỉ để giúp Việt Nam sửa chữa cầu, đường bị bom Mỹ phá. 
        Ông Lưu Đoàn Huynh, cố vấn ngoại giao Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, giải thích quân Trung Quốc sang Việt Nam do lo ngại việc Mỹ có thể đưa quân ra miền Bắc Việt Nam. Ông Barry Zorthian, phát ngôn viên sứ quán Mỹ tại Sài Gòn, cho biết Mỹ không mở rộng chiến tranh ra miền Bắc Việt Nam vì sợ Trung Quốc sẽ tham chiến. Sách "Sự thật quan hệ Việt Nam - Trung Quốc" thì khẳng định mục tiêu của Trung Quốc "thâm hiểm" hơn: đó là tạo tiếng tốt "viện trợ Việt Nam", tập họp lực lượng ở châu Á, châu Phi, châu Mỹ latinh, đẩy mạnh chiến dịch chống Liên Xô; cũng là để gây khó khăn cho việc vận chuyển hàng viện trợ khối xã hội chủ nghĩa quá cảnh Trung Quốc nhằm hạn chế khả năng đánh lớn của nhân dân Việt Nam, qua đó khiến Việt Nam buộc phải lệ thuộc vào Trung Quốc. 
        Trung Quốc ngoài mặt muốn giúp Việt Nam tu sửa thiệt hại do không quân Mỹ, nhưng năm 1968 họ lại khuyến khích Mỹ tăng cường ném bom miền bắc Việt Nam. Bên cạnh đó, trong giai đoạn đầu (năm 1965) còn có sự tham chiến của các binh lính, sĩ quan tên lửa Liên Xô trực tiếp tác chiến đồng thời huấn luyện binh sĩ Việt Nam nắm bắt việc sử dụng tên lửa phòng không và đội đặc nhiệm GRU thuộc Tổng cục Tình báo quân sự, Bộ Tổng tham mưu các lực lượng vũ trang Liên Xô huấn luyện lực lượng đặc nhiệm Việt Nam và tham gia thực hiện các vụ đột kích vào căn cứ quân sự của đối phương.
 
          Để thực hiện chiến dịch này, quân Mỹ đã huy động lực lượng không quân đánh phá quy mô lớn và liên tục trên miền Bắc Việt Nam. Quân đội Mỹ sử dụng khoảng 100-160 (lúc cao nhất là 250) lần chiếc máy bay/ngày đánh phá các đầu mối giao thông, kho tàng, khu dân cư từ Vĩnh Linh đến Thanh Hóa; từ tháng 6-1965 mở rộng chiến tranh lên Bắc vĩ tuyến 20, đánh phá hệ thống đường bộ, đường sắt Nam và Bắc sông Hồng...

 Năm 1966, Mỹ tăng cường độ đánh phá lên gấp đôi, với 200-250 (lúc cao nhất 400) lần chiếc máy bay/ngày (từ tháng 4-1966 sử dụng cả B-52) đánh phá các kho xăng dầu, cơ sở công nghiệp... ở ngoại vi Hà Nội, Hải Phòng và nhiều nơi khác; năm 1967 tập trung vào các khu công nghiệp (Thái Nguyên, Việt Trì...), mở nhiều đợt đánh lớn vào Hà Nội, Hải Phòng, rải mìn phong tỏa các cửa sông, bến cảng.

       Một nghiên cứu của Mỹ đã xem chiến dịch này như là "một công thức cho thất bại". Sau một trong những chiến dịch trên không dài nhất trong lịch sử của bất cứ quốc gia nào, nhiều chuyên gia quân sự Mỹ đã kết luận rằng chiến dịch Sấm Rền là một thất bại do nó không đạt được bất kỳ một mục tiêu nào trong các mục tiêu đã đặt ra. 

                                      undefined 

            Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ Robert S. McNamara trình bày kế hoạch "Sấm rền" - 1965

                                     
Tổng hợp các cuộc không kích của Lực lượng Không quân Hoa Kỳ và Hải quân Hoa Kỳ trong suốt chiến dịch.

        Mặc dù chiến dịch này đã gây thiệt hại cho các cố gắng của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa để chi viện cho Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, dòng người và hàng chảy tới các chiến khu vẫn tăng đáng kể. Tuy nhiên, các kinh nghiệm thu được trong chiến dịch đã chỉ ra cho các nhà lập kế hoạch quân sự Mỹ cách tránh tiến hành một chiến dịch không quân. Các bài học thu được trong thập niên 1960 đã dẫn tới các thay đổi quan trọng trong huấn luyện và trang bị cho quân đội Mỹ trong các thập niên 1980 và 1990. 

        Sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 của quân và dân miền Nam, ngày 31-3-1968, Mỹ ngừng ném bom từ vĩ tuyến 20 trở ra, đồng thời tập trung đánh phá ác liệt các tỉnh từ Thanh Hóa trở vào với số trận đánh tăng 2,6 lần, mật độ bom đạn gấp 20 lần. Bị thất bại nặng (hơn 3.200 máy bay bị bắn rơi) mà không đạt mục đích, ngày 31-10-1968, chiến dịch Sấm Rền kết thúc. Ngày 1-11-1968, Tổng thống Mỹ B. Johnson buộc phải tuyên bố chấm dứt ném bom, bắn phá miền Bắc Việt Nam.

         Tổng kết chiến dịch, một số nghiên cứu của Mỹ đã xem chiến dịch này như là một công thức cho thất bại, khẳng định Việt Nam đã sáng tạo các chiến thuật mới nên đã tự vệ hiệu quả bằng các vũ khí không-đối-không và đất-đối-không tinh vi, nhiều tầng nhiều lớp đan xen, tạo nên một trong những khu vực phòng không hữu hiệu nhất mà các phi công quân sự Mỹ từng đối mặt trong các cuộc chiến.

          Chiến dịch Sấm Rền khởi đầu là một chiến dịch mang tính chất chiến lược và tâm lý, nhưng nó đã nhanh chóng chuyển thành hoạt động ngăn chặn-một nhiệm vụ chiến lược và sự thất bại chung cuộc. Cho đến nay, lịch sử chiến tranh thế giới ghi nhận, chỉ duy nhất lực lượng phòng không và không quân Việt Nam là dám đối đầu và đã chiến thắng không quân Mỹ.

                                                                           ***

        Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của dân tộc Việt Nam, phụ nữ đóng một vai trò quan trọng đem lại thành công cho những cuộc chiến thần thánh. Đã có biết bao phụ nữ tham gia kháng chiến với câu khẩu hiệu đã trở nên rất quen thuộc trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam: “Giặc đến nhà, đàn bà cũng đánh”, “đánh cho để dài tóc, đánh cho để đen răng”, hay “còn cái lai quần cũng đánh”.
         Phụ nữ đã tham gia chiến đấu trong tất cả những cuộc chiến giành độc lập của Việt Nam. Rất nhiều những cuốn sách đã từng được các tác giả người nước ngoài viết, trong đó phân tích về những chiến tranh tại Việt Nam, lý do tại sao một dân tộc bé nhỏ lại có thể chiến thắng một cường quốc lớn trên thế giới. Trong đó, cuốn sách Vietnamese Women At War của tác giả Sandra Taylor đã khai thác cuộc chiến từ một khía cạnh rất khác. Bà sang Việt Nam, thực hiện những cuộc phỏng vấn với các nữ du kích, nữ thanh niên xung phong, nữ tình báo… để có thể lý giải được nguồn động lực to lớn nào đã đem lại cho họ sức mạnh kỳ diệu tới vậy, những trải nghiệm của về cuộc chiến ra sao. Có thể nói chưa một đất nước dân tộc nào có lối đánh du kích tài tình như Việt Nam và mỗi người dân đều có thể trở thành chiến sĩ.
          Việt Nam đã phải trải qua những cuộc chiến tranh kéo dài hàng chục năm nên trong nhiều gia đình, đàn ông luôn vắng bóng vì họ phải ra chiến trường chiến đấu còn phụ nữ ở nhà cũng tham gia vào những đội du kích, tự vệ địa phương, có những người tham gia vào lực lượng thanh niên xung phong ngoài mặt trận thậm chí tham gia vào lực lượng tình báo, biệt kích. Bằng mọi cách phụ nữ đã đóng góp sức mình cho cuộc chiến thần thánh của dân tộc.
 
                                                  
                                                            O du kích nhỏ và tên giặc lái Mỹ

        William J. Duiker, tác giả của cuốn sách Sacred War: Nationalism and Revolution in a Divided Vietnam (Tạm dịch: Cuộc chiến thần thánh - Chủ nghĩa dân tộc và cuộc cách mạng ở hai miền Việt Nam) từng nói ông vô cùng ấn tượng với những người phụ nữ Việt Nam, họ là những người đã góp phần xây dựng nên trận địa pháo Điện Biên Phủ, đào nên địa đạo Củ Chi, họ là những anh hùng thầm lặng trong cuộc chiến giành độc lập dân tộc. 
        Robert Olen Butler, tác giả cuốn sách tổng hợp các truyện ngắn viết về người Việt Nam di cư từng giành giải Pulitzer - A Good Scent from a Strange Mountain (Tạm dịch: Mùi hương trên núi lạ) chia sẻ: “Tất cả lính Mỹ đều có nhận định rằng phụ nữ ở Việt Nam trong chiến đấu dũng cảm và ngoan cường không kém gì nam giới. Trong những nguyên nhân chính làm nên chiến thắng thần thánh của Việt Nam trước một lực lượng quân đội hùng mạnh như Mỹ, có một mảnh ghép vô cùng quan trọng, đó là nhờ có sự tham gia của phụ nữ. Họ là một trong những nhân tố quan trọng không thể bỏ qua”.
        Le Ly Hayslip, một nữ nhà văn gốc Việt nhận định: “Phụ nữ Việt Nam không phải là những nạn nhân chiến tranh mà vượt lên trên hoàn cảnh, họ đã tham gia trực tiếp và chủ động vào cuộc chiến, trở thành những người chiến thắng và viết tiếp những trang sử về truyền thống yêu nước và lòng dũng cảm, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ độc lập dân tộc.”
         Cuộc sống của người dân miền Bắc ngày càng khó khăn và căng thẳng, ngay cả bộ đội cũng bị thiếu ăn. Ở thành thị, dân chúng tản cư về nông thôn để tránh bom, nhu yếu phẩm cho thị dân được bán theo chế độ tem phiếu rất nghiêm ngặt. Nông thôn vắng bóng nam thanh niên. Nữ thanh niên vừa lao động sản xuất vừa được điều động tham gia vào lực lượng dân quân tự vệ bảo vệ trật tự và tham gia huấn luyện quân sự, bắn máy bay. Chính phủ huy động hàng vạn nữ thanh niên đi Thanh niên xung phong vào tuyến lửa tại các tỉnh bị đánh phá nặng nề nhất như Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, và vào tuyến đường Trường Sơn, sang Lào để làm nhiệm vụ hậu cần, làm đường và đảm bảo giao thông. Tỷ lệ thương vong khá lớn vì bom đạn và bệnh tật.
     Nhà nước tìm mọi cách nâng cao tinh thần của dân chúng cho kháng chiến. Tất cả mọi người đều tham gia các tổ chức quần chúng của Đảng Lao động Việt Nam. Các tổ chức quần chúng trên có vai trò nhất định trong việc giữ vững tinh thần và niềm tin trong dân chúng và thi hành các đường lối chính sách của Đảng trong dân. Những tin tức ác liệt của chiến trường, số thương vong nặng nề ở miền Nam và chết bom ở miền Bắc không được công bố hoặc với số lượng giảm đi rất nhiều, chủ yếu trên thông tin báo đài là các tin chiến thắng lẫy lừng. Nhiều bài hát được các nhạc sĩ sáng tác ca ngợi mục tiêu giải phóng miền Nam, ca ngợi người lính, cổ vũ thanh niên nhập ngũ. Các nhà báo Pháp nhận xét: "Mọi lối sống cá nhân đều biến mất để cùng xây dựng một cố gắng tập thể tuyệt vời, điều hành bởi một bộ máy thống nhất và quy củ". Nói chung, tinh thần của người dân miền Bắc rất cao, họ vẫn có thể chấp nhận hy sinh cao hơn nữa để giành được thắng lợi cuối cùng.

         Sau gần hai năm đối phó với chiến tranh đặc biệt, Quân Giải phóng miền Nam đã đúc kết kinh nghiệm đối phó với chiến thuật trực thăng vận và thiết xa vận của quân đội Việt Nam Cộng hòa. Điều này đã tạo ra thắng lợi cho họ trong trận Ấp Bắc (ngày 2 tháng 1 năm 1963 tại tỉnh Tiền Giang). Ngoài ra những người cộng sản cũng tiếp tục đánh phá cơ cấu hành chính của Việt Nam Cộng hòa. Tính đến năm 1963 lực lượng du kích đã ám sát 6.700 người và thực hiện 18.200 vụ bắt cóc. Quân đội Việt Nam Cộng hòa trở nên yếu thế buộc phải lui về thế thủ gần các thành phố lớn. 
        Trong các năm 1963 và 1964 Quân Giải phóng miền Nam thắng thế tiến công trên toàn chiến trường và đến tháng 12 năm 1964 họ tiến hành chiến dịch Bình Giã tại tỉnh Bà Rịa làm thiệt hại các chiến đoàn thiết giáp cơ động và các đơn vị dự bị chiến lược của quân đội Việt Nam Cộng hòa. Rất nhiều chiến thắng tại các địa bàn khác: Ba Gia, An Lão, Võ Su... Một số nghị sĩ Mỹ khuyên Giônsơn: “Sớm tìm đường ra khỏi Việt Nam, nơi đáng lẽ chúng ta không nên có mặt”. Nhưng giữa trưa ngày 28-7-1965, Giônsơn phát biểu trên đài truyền hình: “Chúng ta sẽ thỏa mãn yêu cầu của Óetmolen (Westmoreland). Chúng ta không thể bị đánh bại bằng vũ khí. Chúng ta sẽ trụ lại ở Việt Nam”. Cùng ngày hôm đó, Giônsơn đã thông báo quyết định tăng thêm 44 tiểu đoàn chiến đấu ở Việt Nam.

     Giai đoạn 1965-1968 là giai đoạn ác liệt nhất của Chiến tranh Việt Nam, được gọi với cái tên Chiến tranh cục bộ. Ngay tên gọi "chiến tranh cục bộ" đã cho thấy tính phức tạp rất dễ bùng nổ của tình hình mà Tổng thống Lyndon B. Johnson phải giải quyết. Một mặt quân đội Hoa Kỳ phải can thiệp vũ trang nhằm quét sạch lực lượng Quân Giải phóng; mặt khác, họ phải kiềm chế chiến tranh trong phạm vi Việt Nam, không để nó lan ra ngoài vòng kiểm soát, đụng chạm đến khối Xã hội Chủ nghĩa để có thể dẫn đến một cuộc chiến tranh như Chiến tranh Triều Tiên. Chính phủ Hoa Kỳ đã thành công trong việc kiềm chế, nhưng họ đã thất bại trong mục tiêu đánh bại lực lượng Quân Giải phóng. Các đồng minh lớn của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là Liên Xô, Trung Quốc cũng quyết tâm viện trợ giúp nước này chiến đấu chống Hoa Kỳ. Họ thấy đây là cơ hội rất tốt để làm Hoa Kỳ sa lầy tại Việt Nam để các cường quốc này vươn lên giành vị thế đứng đầu thế giới.

Chiến lược này được áp dụng sau khi chiến lược chiến tranh đặc biệt thất bại, là một chiến lược quân sự của Mỹ trong Chiến tranh Việt Nam (giai đoạn 1965 - 1968). Chiến lược quân sự này được tiến hành bằng lực lượng quân đội Mỹ, quân đồng minh và quân đội Sài Gòn - lúc cao nhất vào năm 1969 lên tới gần 1,5 triệu quân, hòng đánh bại cách mạng miền Nam trong vòng 25 - 30 tháng (từ giữa 1965 đến 1967). Chiến lược này được sử dụng để thay thế "Chiến tranh đặc biệt" sau khi Mỹ thất bại tại chiến trường Việt Nam. Quân đội Mỹ thực hiện chiến lược này bằng cách sử dụng tất cả mọi ưu thế của chúng. Đó là ưu thế về hỏa lực, công nghệ và quân số của lực lượng viễn chinh Mỹ từ đó, tiêu diệt Quân Giải phóng miền Nam, đồng thời thiết lập ảnh hưởng lâu dài của Mỹ lên miền Nam Việt Nam bằng cách xây dựng chế độ Việt Nam Cộng hòa - vốn là tay sai của Mỹ. Đây được đánh giá là giai đoạn khốc liệt nhất của cuộc chiến. 

     Theo tuyên bố của chính phủ Mỹ, Việt Nam Cộng hòa bị Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tấn công quân sự là trái với Hiệp định Genève, và chính phủ Mỹ tuyên bố lý do việc quân đội Mỹ tham chiến tại miền Nam Việt Nam là để bảo vệ Việt Nam Cộng hòa theo những điều khoản của Hiệp ước SEATO do Việt Nam Cộng hòa được đặt dưới sự bảo hộ quân sự của SEATO. Tổng thống Mỹ có quyền đưa quân trợ giúp Việt Nam Cộng hòa theo quy định của Hiến pháp Mỹ và theo Hiệp ước SEATO đã được Thượng viện Mỹ chấp thuận. Hơn nữa Quốc hội Mỹ đã ban hành nghị quyết ngày 10/8/1964 cho phép quân đội Mỹ được hoạt động tại Việt Nam và ủng hộ những hành động của Tổng thống Mỹ đối với Việt Nam. Chính vì thế Tổng thống Mỹ có quyền điều quân đến Việt Nam mà không cần tuyên bố chiến tranh của Quốc hội Mỹ. (sau này, để tránh việc tổng thống Mỹ lạm dụng đưa quân ra nước ngoài theo ý bản thân, luật này được sửa lại và việc đưa quân nhất thiết phải được Quốc hội Mỹ thông qua).

       Do vậy, nhiều nhà sử học coi 2 cuộc chiến thực chất chỉ là 1 và gọi đó là "Cuộc chiến mười ngàn ngày", giai đoạn hòa bình 1955-1959 thực chất chỉ là chặng nghỉ tạm thời. Theo Daniel Ellsberg, ngay từ đầu nó đã là một cuộc chiến của Mỹ: Ban đầu là Pháp và Mỹ, sau đó Mỹ nắm hoàn toàn. Trong cả hai trường hợp, nó là một cuộc đấu tranh của người Việt Nam - dù không phải là tất cả người Việt - nhưng cũng đủ để duy trì cuộc chiến đấu chống lại vũ khí, cố vấn cho tới quân viễn chinh của Mỹ. Theo Alfred McCoy, nhìn lại những chính sách của Mỹ sau khi Hiệp định Geneva được ký kết, những tài liệu Ngũ Giác Đài đã kết luận rằng "Nam Việt Nam về cơ bản là một sáng tạo của Hoa Kỳ": "Không có Mỹ hỗ trợ thì Diệm hầu như chắc chắn không thể củng cố quyền lực ở miền Nam Việt Nam trong thời kỳ 1955-1956. Không có Mỹ đe dọa can thiệp, Nam Việt Nam không thể từ chối thậm chí cả việc thảo luận về cuộc Tổng tuyển cử năm 1956 theo Hiệp định Geneva mà không bị lực lượng vũ trang của Việt Minh lật đổ. Không có viện trợ Mỹ trong những năm tiếp theo thì chế độ Diệm và nền độc lập của Nam Việt Nam hầu như cũng không thể nào tồn tại được.".  
         Tháng 9 năm 1960, sau khi đấu tranh chính trị hoà bình để thống nhất đất nước theo tinh thần của Bản Tuyên bố cuối cùng tại Hội nghị Genève không có kết quả, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chính thức ủng hộ các hoạt động đấu tranh vũ trang và chính trị của lực lượng Việt Minh miền Nam. Đến thời điểm này, sự căng thẳng của lực lượng Việt Minh ở miền Nam đã lên đến mức mà Việt Nam Dân chủ Cộng hòa phải ủng hộ đấu tranh vũ trang ở phía Nam vĩ tuyến 17. Hội nghị Trung ương Đảng Lao động lần thứ 15 (tháng 1-1959) quyết định: "Phải qua con đường đấu tranh cách mạng bằng bạo lực, mà cụ thể là dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ trang để đánh đổ ách thống trị thực dân kiểu mới của Mỹ và tập đoàn quân sự tay sai của Mỹ.".
Như vậy năm 1960 trở thành một năm có biến động lớn, mở ra một giai đoạn mới của Chiến tranh Việt Nam. Các nỗ lực đàm phán chính trị nhằm thống nhất Việt Nam đã không có kết quả, từ nay đấu tranh vũ trang sẽ là phương hướng chủ yếu. 
    Tại miền Bắc, Việc hiện đại hóa quân đội được tiến hành nhưng chậm và không đồng bộ, nhiều sư đoàn bộ binh được thành lập thêm nhưng vẫn mang tính bộ binh đơn thuần, hỏa lực hạng nặng thiếu và chắp vá. Quân đội chưa có các quân binh chủng kỹ thuật cao như không quân, radar, hải quân, tăng thiết giáp... còn đang trong quá trình sơ khai; phương tiện vận tải, thông tin liên lạc còn yếu kém. Nguyên nhân là do nền công nghiệp của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chưa lớn mạnh, đồng thời dựa nhiều nguồn viện trợ từ Liên Xô, Trung Quốc có phần hạn chế trong giai đoạn này. Vào cuối năm 1959, miền Bắc đã bí mật cho tiến hành thăm dò, phát triển tuyến đường tiếp vận chiến lược: Đường Trường Sơn – còn được gọi là Đường mòn Hồ Chí Minh. Đây sẽ là một tuyến vận chuyển chiến lược đảm bảo nhu cầu chiến tranh sẽ được mở rộng tại miền Nam sau này. Mặc dù vào lúc đó, tuyến đường này vẫn chỉ là các lối mòn trong rừng cho giao liên và các toán cán bộ vào Nam.
       Mỹ cho rằng Hiệp định Genève, 1954 là một tai họa đối với "thế giới tự do" vì nó mang lại cho Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa căn cứ để khai thác tại Đông Nam Á. Mỹ muốn ngăn chặn điều này bằng cách ký kết Hiệp ước SEATO ngày 8/9/1954 và mong muốn biến miền Nam Việt Nam thành một pháo đài chống cộng. Để làm được điều này Mỹ cần sự ủng hộ của Quốc gia Việt Nam. Kế hoạch của Mỹ là viện trợ cho chính phủ Ngô Đình Diệm để giúp miền Nam Việt Nam hoàn toàn độc lập với Pháp (đó là cách duy nhất để lôi kéo những người dân tộc chủ nghĩa rời xa Việt Minh và ủng hộ Quốc gia Việt Nam); Mỹ cũng thúc đẩy Ngô Đình Diệm thành lập một chính quyền đoàn kết đảng phái đại diện cho những xu hướng chính trị chính tại Việt Nam, ổn định miền Nam Việt Nam, bầu ra Quốc hội, soạn thảo Hiến pháp rồi sau đó phế truất Quốc trưởng Bảo Đại một cách hợp pháp; cuối cùng do Ngô Đình Diệm là một người quốc gia không có liên hệ gì trong quá khứ với Việt Minh và Pháp do đó miền Nam Việt Nam sẽ trở nên chống Cộng mạnh mẽ.

           Chính phủ Ngô Đình Diệm nhanh chóng thanh lọc bộ máy cầm quyền, đưa những người trung thành với ông vào các vị trí quan trọng. Nhà nước Việt Nam Cộng hòa, lúc đó mang biểu hiện của hình thức tập quyền, chính trị của quốc gia phụ thuộc rất nhiều vào các đặc tính cá nhân của Ngô Đình Diệm và gia đình ông. Quân đội Việt Nam Cộng hòa được cấp tốc trang bị và huấn luyện với sự giúp đỡ của các cố vấn Hoa Kỳ. Quân lực Việt Nam Cộng hòa, vào thời điểm đó xét về trang bị được xem là đứng đầu khu vực Đông Nam Á, vượt trội hơn Quân đội Nhân dân Việt Nam - đang là đối thủ tiềm tàng ở miền Bắc.
         Đánh giá về chế độ Việt Nam Cộng hòa, giáo sư Mỹ Noam Chomsky đã nói rằng: "Chính phủ Nam Việt Nam đã trở thành nơi ẩn nấp của những người Việt Nam từng đi theo Pháp trong cuộc chiến đấu chống lại nền độc lập của đất nước họ. Chính phủ Nam Việt Nam không có cơ sở thành trì trong nhân dân. Nó đi theo hướng bóc lột dân chúng nông thôn và tầng lớp dưới ở thành thị, trên thực tế nó là sự tiếp tục chế độ thuộc địa của Pháp". Ngay cả Lầu Năm Góc cũng nhận xét: "Không có Mỹ giúp đỡ thì Diệm hầu như chắc chắn không thể củng cố quyền lực ở miền Nam Việt Nam trong thời kỳ 1955-1956... Nam Việt Nam về bản chất là một sáng tạo của Hoa Kỳ".

         Đầu năm 1961, Tổng thống Mỹ John F Kennedy ký lệnh triển khai “chiến dịch chiến tranh bí mật phá hoại miền Bắc Việt Nam”, với mục đích phá hoại miền Bắc Việt Nam. Chiến dịch này nằm dưới sự chỉ đạo của CIA, sau được Lầu Năm Góc tiếp quản năm 1964, đã đề ra các biện pháp chủ yếu là sử dụng lực lượng đặc biệt của Việt Nam Cộng hòa (gián điệp biệt kích) còn gọi là “Liên đội quan sát số 1”, gồm phần đông là lính Việt Nam Cộng hòa có gốc là dân miền Bắc di cư. CIA và lực lượng đặc biệt Mỹ trực tiếp chỉ đạo, huấn luyện, trang bị để các nhóm biệt kích này đột nhập vào phá hoại miền Bắc, hình thức chủ yếu là sử dụng các tiểu đội biệt kích dù.

        Trước tình hình leo thang chiến tranh của địch và những khó khăn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Trung ương Đảng họp các hội nghị lần thứ 11 (3-1965), lần thứ 12 (12-1965), trên cơ sở phân tích một cách khoa học so sánh lực lượng giữa ta và địch, Trung ương khẳng định sự thất bại không tránh khỏi của đế quốc Mỹ và hạ quyết tâm động viên lực lượng cả nước giữ vững chiến lược tiến công, nêu cao ý chí tự lực, tự cường, phát huy sức mạnh của toàn dân tộc, tranh thủ sự giúp đỡ của quốc tế, kiên quyết đánh thắng hoàn toàn giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Ngày 17-7-1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi lịch sử, kêu gọi toàn dân đoàn kết một lòng, quyết tâm chống Mỹ, cứu nước. Người khẳng định: "Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập tự do. Đến ngày thắng lợi nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn". Trên chiến trường miền Nam, các phong trào "Dũng sĩ diệt Mỹ", "tìm Mỹ mà đánh, tìm ngụy mà diệt", "Bám thắt lưng địch mà đánh", "Căng địch ra mà đánh, vây chúng lại mà diệt", dấy lên khắp các chiến trường và các địa phương miền Nam. Tiêu biểu là chiến thắng mở đầu tại Vạn Tường (18-19/8/1965). Cụ thể là vào mờ sáng 18/8/1965, Mỹ huy động 9000 quân, 105 xe tăng và xe bọc thép, 100 máy bay lên thẳng và 70 máy bay phản lực chiến đấu, 6 tàu chiến, mở cuộc hành quân vào thôn Vạn Tường. Sau một ngày chiến đấu, một trung đoàn chủ lực của ta cùng với quân du kích và nhân dân địa phương đã đẩy lùi được cuộc hành quân của dịch, loại khỏi vòng chiến đấu 900 địch, bắn cháy 22 xe tăng và xe bọc thép, hạ 13 máy bay. Vạn Tường đã mở đầu cao trào "Tìm Mỹ mà đánh, lùng ngụy mà diệt" trên khắp miền Nam. Sau trận Vạn Tường, khả năng chiến thắng Mỹ trong chiến lược "Chiến tranh cục bộ" của quân dân ta tiếp tục được chứng minh trong hai mùa khô. Bước vào mùa khô thứ nhất (đông - xuân 1965 - 1969), với 720.000 quân, trong đó có 220.000 quân Mỹ, địch mở đợt phản công với 5 cuộc hành quân "tìm diệt" lớn nhằm vào hai hướng chiến lược chính ở Đông Nam Bộ và Khu V, với mục tiêu đánh bại chủ lực quân giải phóng.
         Đến năm 1968 thì các chiến dịch này dừng lại do đã thất bại nặng nề: gần 500 lính biệt kích bị tử trận, bị bắt hoặc trở thành điệp viên hai mang, trong khi gần như không gây thiệt hại được gì cho đối phương. Riêng ngành công an Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa với 19 chuyên án đã câu nhử, bắt sống hoặc tiêu diệt được 121 lính biệt kích. Các đội biệt kích phần lớn bị bắt ngay sau khi nhảy dù, một số thoát được nhưng không bao lâu cũng bị bắt do bị dân địa phương chỉ điểm cho công an truy bắt. Cựu bộ trưởng quốc phòng Mỹ Robert S. McNamara và cựu Tư lệnh các lực lượng Mỹ tại Việt Nam, tướng William C. Westmoreland, đã bị chỉ trích nặng nề vì chiến dịch trên. Chương trình này được giữ kín suốt nhiều năm, về sau được tiết lộ trong cuốn sách của Sedgwick Tourison nhan đề "Secret Army, Secret War: Washington's Tragic Spy Operation in North Vietnam" (Naval Institute Special Warfare) viết tháng 9 năm 1995.

         Cách đây 42 năm, sáng ngày 16/3/1968, tại khu vực thôn Mỹ Lai thuộc làng Sơn Mỹ, các đơn vị lính Lục quân Hoa Kỳ đã đồng loạt nã súng vào 504 thường dân vô tội, đa số họ là phụ nữ và trẻ em: 182 phụ nữ trong đó có 17 người mang thai, 173 trẻ em, 60 người già và 89 trung niên. Vụ thảm sát là một vết đen tội ác không thể xóa mà quân đội Mỹ đã gây ra cho nhân dân Việt Nam, tạo nên làn sóng phản đối chiến tranh xâm lược Việt Nam ngay trên đất Mỹ và trên toàn thế giới. Tại buổi lễ, 504 tiếng chuông được ngân lên tưởng niệm 504 đồng bào bị thảm sát.
       Từ năm 1960, với chủ trương "Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội" của chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa, quân Giải phóng ở chiến trường miền Nam phát động liên tiếp các đợt tiến công quy mô kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang mà cao trào là phong trào Đồng khởi. Phong trào này gây cho chính phủ Việt Nam Cộng hòa thời Tổng thống Ngô Đình Diệm lúng túng trong việc lập lại trật tự, dẫn đến một phần đáng kể của nông thôn miền Nam đã thành vùng do Mặt trận Giải phóng kiểm soát (cuối năm 1960). Tới cuối năm 1960, quân Giải phóng Miền nam đã kiểm soát 600/1298 xã ở Nam Bộ, 904/3829 thôn ở đồng bằng ven biển Trung bộ và 320/5721 thôn ở Tây Nguyên. Trong 2.627 xã toàn miền Nam, quân Giải phóng đã lập chính quyền tự quản ở 1.383 xã.
       Đứng trước tình hình trên, tướng Maxwell D. Taylor được phái sang Việt Nam để hỗ trợ gấp cho Việt Nam Cộng hòa. Kế hoạch Staley-Taylor (hay chiến tranh đặc biệt) với việc sử dụng chủ yếu quân lực Việt Nam Cộng hòa đã được trang bị bằng vũ khí tối tân do Mỹ cung cấp và thực hiện các kế hoạch quân sự do cố vấn Mỹ hoạch định. Nhà nước Hoa Kỳ cũng tăng thêm nguồn viện trợ kinh tế cho chính phủ Ngô Đình Diệm nhằm tăng quân số và tiêu dùng cho các chi phí quân sự. Với khả năng cơ động cao, Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã giành được những thắng lợi nhất định. Đồng thời, chính phủ Việt Nam Cộng hòa thắt chặt chính sách Ấp chiến lược nhằm cách ly quân Giải phóng với dân chúng. 
      Ngay từ tháng 4-1961, tổng thống Mỹ lúc đó là Kennơđy đã cho chuẩn bị một chương trình toàn diện nhằm chống lại sự “thống trị” của cộng sản ở Việt Nam; đưa quân đội Việt Nam Cộng Hòa (quân Ngụy) từ 150 ngàn lên 170 ngàn người, số cố vấn Mỹ từ 700 lên 800 người. Thực tế sau đó, số cố vấn Mỹ đã tăng đến hơn 3 ngàn và phi công Mỹ đã bay chiến đấu.

                                                                            ***

Gắn liền với sự thất bại của cuộc chiến tranh cục bộ của Mỹ ở Nam  - Việt Nam là tướng tư lệnh chiến trường Oétmolen.
           Nếu đại tướng Mắcxoen Taylo, trước khi làm đại sứ Mỹ ở Sài Gòn đã từng được đánh giá là “một nhà chiến lược tầm cỡ quốc tế, thông minh, sắc sảo, có tầm mắt nhìn xa trông rộng, có quan điểm táo bạo, độc đáo” thì đại tướng Oétmolen cũng được nhận xét là “một vị chỉ huy lỗi lạc, tự tin, có tri thức quân sự, có kinh nghiệm chiến đấu, có tác phong xông xáo…”

       William C. Westmoreland sinh ngày 26 tháng 3 năm 1914 tại Saxon, Spartanburg, Nam Carolina. Ông tham gia và tốt nghiệp Học viện quân sự West Point năm 1936, sau đó phục vụ trong binh chủng pháo binh. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, ông phục vụ trong Sư đoàn 9 Bộ binh Hoa Kỳ, tham chiến trên các chiến trường từ Bắc Phi, Tunisia đến Sicilia và châu Âu. Tháng 7 năm 1944, ông được thăng quân hàm Đại tá nhiệm chức.

        Sau Thế chiến, ông lần lượt giữ nhiều chức vụ quan trọng khác nhau, trong đó có tham gia giảng dạy tại trường đào tạo sĩ quan chỉ huy và tham mưu Fort Leavenworth (1950-1951). Năm 1952-1953, ông được bổ nhiệm làm Tư lệnh Lữ đoàn 187 Dù, tham gia chiến tranh Triều Tiên. Tháng 11 năm 1952, ông được thăng hàm Chuẩn tướng nhiệm chức.

       Chiến tranh kết thúc, ông trở về làm Tổng Thư ký Bộ Tổng Tham mưu, dưới quyền tướng Maxwell D. Taylor (1955-1958). Tháng 12 năm 1956, ông được thăng Thiếu tướng nhiệm chức. Từ năm 1958-1960, ông là Tư lệnh Sư đoàn 101 Dù. Từ năm 1960-1963, ông làm Giám đốc Học viện quân sự West Point.

      Tháng 7 năm 1963, ông được thăng hàm Trung tướng nhiệm chức và cử giữ chức Tư lệnh phó Bộ chỉ huy Cố vấn Quân sự Mỹ tại miền Nam Việt Nam (MACV), dưới quyền tướng 4 sao Paul Harkins. Đến tháng 8 năm 1964, ông được cử làm Tư lệnh MACV thay tướng Paul Harkins, hàm Đại tướng nhiệm chức.

     Giai đoạn Westmoreland nắm quyền tư lệnh MACV là giai đoạn quân Mỹ tham chiến tại Việt Nam cao nhất, cao điểm lên đến hơn 50 vạn người. Ông cũng là tác giả của chiến thuật "Tìm và Diệt" (Search and Destroy), vốn bị chỉ trích nặng nề vì không thể ngăn cản được sự phát triển quân sự của Quân Giải phóng. Ngoài ra, ông cũng không tiên liệu được Biến cố Tết Mậu Thân. Chính vì vậy, tháng 7 năm 1968, Tổng thống Johnson đã cử tướng Creighton Abrams thay thế ông.

        Ông trở về Mỹ và làm Tham mưu trưởng Lục quân. Ngày 30 tháng 6 năm 1972 ông hồi hưu và tham gia chính trường. Năm 1974, ông được đảng Cộng hòa đưa ra ứng cử Thống đốc bang Nam Carolina, nhưng thất bại. Sau đó, ông cho xuất bản cuốn hồi ký có tên là "A Soldier Reports" (Tường trình của một quân nhân) nói về cuộc đời binh nghiệp của ông. Cuốn hồi ký này đã gây ra nhiều cuộc tranh luận.

      Năm 1947, ông lập gia đình với Katherine S. Van Deusen, một người Mỹ gốc Hà Lan.

      Ông mất một cách bình lặng tại nhà riêng năm 2005

Theo lời tự thuật của Oétmolen thi ông ta xuất thân từ một gia đình quí tộc Anh, di cư sang Mỹ từ thế kỷ XVII. Dòng họ Nêvin (Neville) này, sau khi đã có chân trên mảnh đất trù phú ở “Tân thế giới” và trở thành trại chủ kiêm tư sản tại bang Carôlina Nam, thì đổi tên dòng họ từ Nêvin sang Oétmolen (nghĩa đen là thêm đất ở miền Tây). Oétmolen chào đời vào năm xảy ra chiến tranh thế giới lần thứ nhất: 1914. Sau này, khi đã là một quân nhân, ông ta thường nói vui: “Tôi sinh ra dưới ánh sáng của sao Hỏa (sao tượng trưng cho Thần chiến tranh). Do đó, dù đã có thêm mảnh đất ở miền Tây để sinh cư lập nghiệp, vẫn cứ phải liên tục chinh chiến ở nhiều mảnh đất phía Đông!”

                                            undefined  
William Childs Westmoreland (26 tháng 3 năm 1914 – 18 tháng 7 năm 2005) là đại tướng của Hoa Kỳ. Ông từng giữ chức Tư lệnh Bộ chỉ huy Cố vấn Quân sự Mỹ tại miền Nam Việt Nam (Military Assistance Command Vietnam, MACV), từ năm 1964 đến năm 1968, Tham mưu trưởng Lục quân Hoa Kỳ từ 1968 đến 1972
                       
Giữa năm 1965, Mỹ ồ ạt đưa quân và phương tiện chiến tranh vào miền Nam Việt Nam, tiến hành “Chiến tranh cục bộ”
                        
Binh sĩ thuộc Lữ đoàn 9 Lực lượng Thủy quân lục chiến của Xem thêm tại: https://loigiaihay.com/chien-dau-chochien-
                 Chiến lược "Chiến tranh cục bộ" của Mĩ ở miền Nam Việt Nam - YouTube

                         Chiến lược "Chiến tranh cục bộ" của Mĩ ở miền Nam Việt Nam

                         

       Chiến đấu chống chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mĩ ở miền Nam (1965-1968)


                                      Đà Nẵng kỷ niệm 50 năm ngày Mỹ đổ quân - Hình 1
 Hình ảnh những toán lính Mỹ đầu tiền đổ bộ lên bãi biển Đà Nẵng với những khí tài hiện đại, thị uy dân chúng. Ảnh: Bảo tàng Đà Nẵng cung cấp.
                              Lính Mỹ trong trận càn Junction City trong chiến tranh Việt Nam - US soldiers in Junction City Operation in Viet Nam war

Chiến lược Tìm và Diệt cùng chiến lược bình định của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam 






















      Oétmolen tốt nghiệp Cao đẳng quân sự Xitaden bang Carôlina Nam năm 1936 khi vừa chớm 22 tuổi với quân hàm thiếu úy. Cuộc chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Trận “thử lửa” đầu tiên của Oétmolen là vào năm 1942. Lúc này Oétmolen đã là thiếu tá, chỉ huy một tiểu đoàn pháo binh trong đội lính của sư đoàn 9 Mỹ. Chính Oétmolen đã dẫn đầu tiểu đoàn của mình, hành quân cấp tốc suốt 4 ngày đêm vượt qua dãy núi Átlát trên biên giới Angiêri - Tuynidi, kịp thời bắn yểm trợ cho các đơn vị bộ binh Mỹ trong trận chiến đấu quyết liệt với đạo quân phát xít Đức do tướng Rômmen chỉ huy trên chiến trường Bắc Phi. Sau trận này Oétmolen được thăng trung tá. Tiếp tục xông pha trên chiến trường Châu Âu và khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc thì Oétmolen đã là đại tá sư đoàn trưởng, trở về nước tiếp tục bổ túc lý luận quân sự và học thêm môn nhảydù.
Giữa năm 1952, Oétmolen được điều động sang chiến trường Triều Tiên với cương vị đại tá lữ đoàn trưởng lữ dù 187. Với tác phong “năng nổ, xông xáo”, năm 1953, Oétmolen được thăng cấp thiếu tướng. Lúc này Oétmolen mới 39 tuổi và là “viên tướng trẻ nhất trong quân đội Mỹ hồi đó”. Liền sau đó, Oétmolen được cử làm sĩ quan huấn luyện rồi làm chỉ huy trưởng Học viện quân sự Oét Pôintơ - Học viện nổi tiếng nhất nước Mỹ.

Trong thời gian giữ chức Giám đốc Học viện West Point, Westmoreland đã thực hiện việc thay đổi giáo trình huấn luyện cho phù hợp với tình hình chiến tranh thời bấy giờ. Đó cũng là lý do ông được cử sang Việt Nam và nắm giữ quyền chỉ huy các lực lượng đồng minh tại Nam Việt Nam. Ông cho rằng cuộc chiến tranh Việt Nam là một cuộc chiến tranh không có chiến tuyến, vùng kiểm soát của 2 bên thường thay đổi và trộn lẫn vào nhau theo hình thái "da báo". Ông đã đưa ra chiến lược: Bảo vệ vùng duyên hải và ngăn chận đường xâm nhập của đối phương, sau đó sử dụng chiến thuật "Tìm và Diệt" (Search and Destroy) để làm tiêu hao lực lượng của đối phương trên toàn lãnh thổ miền Nam Việt Nam.

Chiến thuật "Tìm và Diệt" thực hiện trên cơ sở ưu thế tuyệt đối về hỏa lực và khả năng cơ động của quân Mỹ, có thể nhanh chóng phát hiện và cơ động đến để tiêu diệt vị trí của đối phương. Bên cạnh đó, chủ trương thường xuyên mở các cuộc hành quân thẳng vào các căn cứ địa của đối phương không nhằm mục tiêu xâm chiếm và kiểm soát lãnh thổ, mà để tiêu diệt các bộ phận sinh lực đối phương. Quân Mỹ sẽ thực hiện phương án tác chiến "Tìm thấy, Tấn công và Thanh toán" (Find, Fix, and Finish), sau đó trở về căn cứ của mình và chuẩn bị cuộc hành quân khác.

Thực hiện chiến thuật này, hàng loạt các cuộc hành quân lớn của quân Mỹ ở Việt Nam như Attelboro, Cedar Falls, Gadsden, Tucson và Junction City được thực hiện. Tuy nhiên, hoạt động của quân Mỹ được đánh giá là không hiệu quả do chủ yếu được huấn luyện và trang bị để chiến đấu ở chiến trường châu Âu, nên gặp rất nhiều khó khăn khi phải chiến đấu trong rừng rậm ở Việt Nam. Bên cạnh đó, viên tướng chỉ huy Quân Giải phóng là Nguyễn Chí Thanh cũng đưa ra những biện pháp đối phó hữu hiệu làm hạn chế sức mạnh của quân Mỹ như chiến thuật gài bẫy nhằm vô hiệu hóa sự cơ động, và đặc biệt là chiến thuật áp sát khi giao chiến (còn gọi là "Bám thắt lưng địch mà đánh") làm hạn chế rất nhiều thế mạnh về hỏa lực của quân Mỹ.

Chiến thuật "Tìm và Diệt" gặp rất nhiều sự chỉ trích của các tướng lĩnh khác vì cho rằng vai trò của quân Mỹ tại Nam Việt Nam là thiết lập một số đầu cầu và bảo vệ những đầu cầu đó, để Quân lực Việt Nam Cộng hòa mở các cuộc hành quân tấn công đối phương; hoặc là để giúp bình định và chống chiến tranh nổi dậy chứ không phải để mở những cuộc hành quân. Một số kết quả chiến trường cũng đã chứng minh được Westmoreland đã thất bại. Vì thế, ông thường yêu cầu tăng thêm quân nhưng vẫn không thể ngăn chặn được sự phát triển của đối phương.

Ngày 15-12-1963, Oétmolen được lệnh điều động sang Nam - Việt Nam. Cả Nhà Trắng và Lầu Năm Góc khi đó đều không hình dung được rằng chỉ sau một thời gian ngắn, Oétmolen sẽ là người thống lĩnh một đạo quân viễn chinh lớn nhất của nước Mỹ để tiến hành một cuộc chiến tranh kéo dài nhất, hao người tốn của nhất, thất bại chua cay nhất trong toàn bộ lịch sử nước Mỹ, cách xa nước Mỹ đúng nửa vòng trái đất.
Lúc đầu, Oétmolen mới chỉ được giao nhiệm vụ làm phó cho tướng Hakin, tư lệnh bộ chỉ huy viện trợ quân sự Mỹ ở Nam - Việt Nam. Tướng Uylơ, lúc đó là Tổng tham mưu trưởng lục quân Mỹ, đã đặt rất nhiều hy vọng vào Oétmolen. Uylơ đã khẳng định với Mắc Namara, Bộ trưởng quốc phòng Mỹ, rằng Oétmolen, với bề dày kinh nghiệm chiến đấu và huấn luyện “nhất định sẽ làm tròn nhiệm vụ đào tạo quân Nam - Việt Nam (quân Ngụy) trở thành một đạo quân chống cộng cừ khôi nhất ở Châu Á”.
Về phần mình, mặc dù được cả Nhà Trắng, Lầu Năm Góc và Tòa đại sứ Mỹ ở Sài Gòn rất tin cậy, đánh giá rất cao, nhưng Oétmolen vẫn “không hề tỏ ra chủ quan, tự phụ, ngược lại còn rất khiêm tốn”. Chính Oétmolen bộc bạch rằng trước khi sang Nam - Việt Nam “nhận công tác khó khăn phức tạp nhất trong cuộc đời hoạt động quân sự của mình”, ông ta đã bỏ ra một thời gian để nghiên cứu các tác phẩm quân sự của Tôn Tử, tìm hiểu nghệ thuật quân sự của Trần Quốc Tuấn và Nguyễn Huệ, đồng thời đọc kỹ nhiều bài viết của đại tướng Võ Nguyên Giáp, hơn nữa còn tìm gặp tướng Mắc Áctơ - Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang Mỹ ở Châu Á - Thái Bình Dương trong chiến tranh thế giới thứ hai, để “xin ý kiến về việc đàn áp phong trào nổi dậy ở Châu Á”. Áctơ đã cho Oétmolen một lời khuyên: “Cần phải liên tục tiến công và tận dụng sức mạnh hủy diệt của hỏa lực”.
 
Tháng 6-1964, Oétmolen thay Hakin làm Tư lệnh trưởng bộ chỉ huy viện trợ quân sự Mỹ ở Sài Gòn mà thực chất là Tư lệnh quân viễn chinh Mỹ ở Nam - Việt Nam. Đối với chiến dịch “Sấm rền”, Oétmolen cho rằng “sớm nhất thì cũng đến tháng 6 (năm 1965) mới thấy kết quả của chiến dịch ném bom Bắc - Việt Nam và trong khi đó, quân đội Nam - Việt Nam cần được Mỹ chi viện để bảo vệ phòng tuyến trước sức mạnh ngày càng lớn của Việt Cộng…”, và “Nếu có một cuộc phản công vào mùa hè của việt Cộng thì không chắc có sự cầm cự được lâu ở miền Nam để chờ cho việc ném bom trở nên có hiệu quả” (Tài liệu mật Lầu Năm Góc). Do đó Oétmolen đã đưa ra yêu cầu phải có ngay 200 ngàn quân Mỹ “để giữ cho khỏi bị thất bại trong một thời gian đủ cho Mỹ có thể đưa thêm quân tới” (Tài liệu mật Lầu Năm Góc).
       Như đã kể, “tháng 7-1965, Giônsơn đã chấp thuận cho Oétmolen 44 tiểu đoàn quân chiến đấu Mỹ và thông qua chiến lược “Tìm và diệt” mà “ý nghĩa cơ bản” trong chiến lược “Tìm và diệt” là muốn đưa cuộc chiến tranh đến tận xứ sở của kẻ địch, làm cho kẻ địch không thể tự do đi lại ở bất cứ nơi nào trên đất nước… và giáng cho địch những đòn thật nặng nề” (Tài liệu mật Lầu Năm Góc). Cũng theo tài liệu này thì sau đó Oétmolen còn báo cáo là ông ta cần thêm 24 tiểu đoàn Mỹ (hoặc 100 ngàn quân) nữa để phục vụ cho “giai đoạn giành thắng lợi” bắt đầu vào năm 1966.
Kế hoạch của Oétmolen chỉ rõ rằng: “có đủ lực lượng để giành thế chủ động từ tay Việt Cộng vào khoảng năm 1966. Khi bước vào thế phản công và có thêm lực lượng tăng cường thỏa đáng thì sẽ đánh bại kẻ địch vào cuối 1967”.
Thật là một kế hoạch “quá đã”! Thoạt đầu, Mắc Namara cũng phải thốt lên: “Trong lịch sử quân đội Mỹ, tôi chưa hề thấy có vị tướng cầm quân nào tài giỏi hơn thế”, để khen ngợi Oétmolen. Chính Mắc Namara đã ký giấy chuẩn chi 2 tỷ đô la để xây dựng một hàng rào điện tử mang tên ông ta, chạy suốt dọc vĩ tuyến 17 nhằm ngăn chặn quân chủ lực Bắc - Việt Nam thâm nhập vào miền Nam. Còn tổng thống Giônsơn thì gọi Oétmolen bằng cách trìu mến là “Oétxky” và trao cho ông này một tấm “ngân phiếu trắng”, muốn xin bao nhiêu quân cũng được, muốn chi bao nhiêu tiền cũng được, miễn là kết thúc chiến tranh ở Nam - Việt Nam trong năm 1967, là năm bắt đầu chiến dịch tranh cử tổng thống Hoa Kỳ.
Hầu hết các nhà bình luận quân sự ở các nước tư bản đều nhận xét, trong lịch sử quân sự Hoa kỳ, “chưa có vị tướng cầm quân nào được hỗ trợ đắc lực như tướng Oestmolen”. Để “bình định” một khu vực chỉ bằng một nửa nước Triều Tiên, Oétmolen nhanh chóng có được một đạo quân viễn chinh vượt quá cột mốc 500 ngàn quân và hơn hẳn tổng số các lực lượng Mỹ đã tham gia chiến tranh Triều Tiên trong những năm 1950 - 1953. Hơn thế nữa, tất cả những đơn vị thiện chiến nhất của nước Mỹ như lính thủy đánh bộ, sư đoàn bộ binh “Anh cả đỏ”, sư đoàn bộ binh “Tia chớp nhiệt đới”… đều được điều động tới Nam - Việt Nam. Ngoài ra, Oétmolen còn được đặc quyền sử dụng cả máy bay ném bom chiến lược cực kỳ hiện đại lúc bấy giờ gọi là “pháo đài B52” để ném bom “trải thảm” cố hủy diệt các căn cứ Việt Cộng. Chưa kể cuộc chiến tranh phá hoại của không quân và hải quân vẫn đang ráo riết tiến hành ở Bắc - Việt Nam.
      Được sự tăng viện ồ ạt từ Mỹ đủ mọi loại phương tiện chiến tranh hiện đại, kể cả bom napan, kể cả chất độc hóa học phát quang cây, rừng gọi là chất độc màu da cam hay Điôxin, Oétmolen đã có trong tay, vào cuối năm 1965, một lực lượng chiến tranh có ưu thế tuyệt đối (nhìn từ ngoài vào số lượng nổi trội!) về mọi mặt so với đối phương, tạo nên tương quan về lực lượng trên chiến trường đột ngột nghiêng về phía Mỹ - Ngụy. Nhờ thế Oétmolen đã chủ động tung ra đòn phản công chiến lược mạnh mẽ “Tìm và diệt” mùa khô năm 1965-1966 với kế hoạch 5 mũi tiến công vào 5 vùng ưu tiên tìm diệt gồm Nam - Phú Yên, Tây - Quảng Ngãi, Bắc - Bình Dương, Bắc - Củ Chi, Bến Cát thuộc Bình Dương. Chiến trường miền Nam suốt 4 tháng trời đầy bão lửa.
         Ngay sau khi quân đội Hoa Kỳ đổ bộ vào miền Nam Việt Nam, tình hình chiến sự thay đổi có lợi cho phía Mỹ và Việt Nam Cộng hòa. Quân Giải phóng miền Nam bị đẩy lui vào thế phòng thủ, bị không quân và kỵ binh bay của Mỹ truy tìm ráo riết. Các đơn vị lớn phải rời bỏ vùng đồng bằng trống trải để lui về miền nông thôn hoặc núi rừng. Ở đồng bằng, họ chỉ để lại các đơn vị nhỏ và phát động chiến tranh nhân dân đánh du kích. Cố vấn Edward Lansdale đề xuất ý kiến, cho rằng nếu như có thể chiếm được lòng dân miền Nam thì du kích sẽ không có chỗ để trốn, nhưng kế hoạch đã thất bại. 
      Tháng 11 năm 1965 đã xảy ra một trận đánh rất ác liệt tại vùng thung lũng sông Ia Drang, gần biên giới Campuchia thuộc tỉnh Kon Tum. Hai trung đoàn chính quy Quân Giải phóng miền Nam và một lữ đoàn thuộc Sư đoàn 1 Kỵ binh bay của Mỹ đã dàn quân đánh nhau để thử sức. Thực chất đây là hai trận đánh liên tiếp, trận Xray và trận Albany, diễn ra trong bốn ngày đêm. Hai bên đều bị thương vong lớn, và tuy cùng tuyên bố thắng lợi, đều biết được thực lực đối phương là đáng gờm.
        Sau trận này, quân Giải phóng đã tìm ra cách hạn chế ưu thế quân sự áp đảo của Mỹ. Phía Mỹ có ưu thế là hỏa lực cực mạnh và trang bị rất nhiều vũ khí hiện đại. Đặc biệt, quân Mỹ có yểm trợ không quân rất mạnh mà vũ khí khủng khiếp nhất của họ là máy bay B-52, bom napal và trực thăng vũ trang. Quân Giải phóng miền Nam bỏ tham vọng đánh tiêu diệt các đơn vị Mỹ cấp trung đoàn, họ tránh đánh những trận dàn quân đối đầu trực tiếp mà chỉ áp dụng chiến thuật đánh tập kích. Quân của họ luôn bám sát những toán quân Mỹ nhưng không giao chiến, chỉ khi đối phương dựng trại hoặc sơ hở thì họ tập kích hoặc phục kích, đánh xong thì nhanh chóng rời chiến trường trước khi pháo binh và máy bay địch kịp đáp trả. Một khi xung phong thì luôn áp sát đánh gần, dùng lối cận chiến "Nắm thắt lưng địch mà đánh" để không cho đối phương sử dụng pháo binh và không quân. Dù rất hiện đại nhưng quân đội Mỹ không quen chiến đấu trong địa hình rừng núi quen thuộc của đối phương, và vũ khí của họ cũng không phát huy hết tác dụng khi bị đối phương dùng lối đánh áp sát cận chiến.
Tháng 5-1966, Đại sứ Mỹ ở Sài Gòn lúc đó là Cabốt Lốt, không hiểu sao lại gửi về cho Giônsơn một bản báo cáo mà “Tài liệu mật Lầu Năm Góc” gọi là bản báo cáo gồm 7 số “0”:
1-     “0” làm hao tổn Việt Cộng.
2-     “0” tiêu diệt được đơn vị chính qui lớn nào của Việt Cộng.
3-     “0” ngăn được du kích phát triển.
4-     “0” ổn định được hậu phương.
5-     “0” giành được chủ động.
6-     “0” ngăn được đà suy sụp của quân đội Sài Gòn (ngụy quân).
7-     “0” tăng cường và bổ sung kịp được lực lượng của Mỹ.
 
      Trong khi đó, Cục tình báo trung ương Mỹ đánh giá về cuộc đánh phá Bắc - Việt Nam bằng không quân: “Ném bom đã tỏ ra ít có tác dụng đối với Bắc - Việt Nam”. Cuộc họp của 47 nhà bác học đại diện cho những phần tử ưu tú nhất của nước Mỹ thì đánh giá kết quả của chiến dịch Sấm rền là: “Tính đến tháng 7-1960, các hoạt động ném bom của Mỹ ở Bắc - Việt Nam đã không có ảnh hưởng trực tiếp đáng kể nào đến khả năng của Hà Nội trong việc tiến hành và hỗ trợ các hoạt động quân sự ở Nam - Việt Nam như mức hiện nay”.
 
          Để đánh lừa chó nghiệp vụ của Mỹ, các chiến sĩ cách mạng đã để đồ đạc của quân đội Mỹ như quần áo ở các lỗ thông gió, lối vào đường hầm... Chính vì vậy, những con chó đó không phát hiện ra khói nấu ăn và đốt củi từ dưới lòng địa đạo bốc lên.
Hầm chông gây ra nỗi khiếp đảm cho lính Mỹ
       Hầm chông bẫy cọp – GIS (lính Mỹ) đang cơ động nhẹ nhàng trên đường mòn, bất ngờ đất dưới chân anh ta sụt xuống và lính Mỹ rơi vào một cái hố đầy chông tre hoặc chông sắt sắc nhọn. Nếu như anh ta may mắn và không chết ngay, anh ta sẽ gào lên vì đau đớn, các binh sĩ còn lại sẽ xúm vào tìm cách lôi anh ta lên khỏi cái hầm chông kinh hoàng đó. Thông thường xung quanh hầm chông đó có những cửa bí mật, những hỏa điểm đáng sợ của các xạ thủ du kích bắn tỉa.
      Trong suốt thời kỳ chiến tranh chống Mỹ, địa đạo Củ Chi là một nỗi thất vọng lớn, câu hỏi khó đối với quân đội Mỹ và quân đội Việt Nam Cộng hòa. Mỹ và Australia từng cố gắng phát hiện và xâm nhập địa đạo bằng nhiều cách, song tất cả nỗ lực đều thất bại. Quân đội Mỹ thậm chí từng dùng máy ủi san bằng những khoảng rừng, ngôi làng, cánh đồng lớn và rải chất độc da cam, ném bom napal, rưới xăng để tận diệt động thực vật. Nhưng kỳ lạ thay, Việt Minh vẫn an toàn và tiếp tục sống, chiến đấu vì đất nước.
Tuy nhiên, Oétmolen vẫn tự tin. Trong thời kỳ cuối năm 1966 đến đầu năm 1967, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của ông này, quân Mỹ liên tiếp mở hàng loạt chiến dịch tiến công qui mô lớn vào khu vực chiến khu C (ở Tây Ninh), khu “tam giác sắt” Củ Chi (ở phía Bắc Sài Gòn), chiến khu Đ (ở miền Đông - Nam Bộ). Lúc này, tướng Oétmolen “khiêm tốn, thận trọng” thuở nào bắt đầu ngạo mạn, huênh hoang, tuyên bố: với chiến lược “Tìm và diệt” đánh vào tận “hang ổ Việt Cộng”, “chỉ đến giữa năm 1967 là đánh “gãy xương sống” Việt Cộng”. Tất cả các cuộc hành quân “Tìm và diệt” của Mỹ vào 5 vùng “đặc biệt ưu tiên” nói trên nhằm tiêu diệt và quét sạch Việt Cộng ở các vùng bao quanh một khu vực căn cứ quan trọng nhất là Bắc - Tây Ninh, để thực hiện một chiến dịch lớn nhất có tên là “Gianxơn Xiti” nhằm tiêu diệt cho được cơ quan đầu não chỉ đạo chiến tranh tại miền Nam - Việt Nam của Việt Cộng. Đây là một chiến dịch mà Tổng chỉ huy Oétmolen cho là quyết định cuộc chiến vào cuối năm 1967 như đã dự định. Côlơ (W. Cagle), phụ tá đặc biệt của Tổng thống Mỹ thì báo cáo cho Giônsơn sau chuyến đi thực tế ở miền Nam vào tháng 2-1967: “Tôi trở về lạc quan hơn bao giờ hết… Một cách tốn kém, đắt đỏ, nhưng hiển nhiên không cần bàn cãi, chúng ta đang thắng ở miền Nam. Chỉ có ít chương trình của chúng ta - nhân sự hoặc quân sự là đạt nhiều hiệu quả, nhưng chúng đang nghiền nát kẻ thù dưới sức nặng và số lượng tuyệt đối…”. Vào tháng 3-1967, Oétmolen điện cho Bộ chỉ huy Thái Bình Dương: “Do kết quả của việc tăng cường binh lực và do thành công của chúng ta nên chúng ta đã có thể đề ra kế hoạch và khởi xướng một cuộc tổng phản công. Hiện nay chúng ta giành được thế chủ động chiến thuật và đang tiến hành các cuộc hành quân tiến công liên tục, nhỏ bé và đôi khi với qui mô lớn để tiêu hao lực lượng địch, để phá hủy các căn cứ của địch và làm tan rã hạ tầng cơ sở của chúng, để ngăn chặn đường giao thông thủy bộ của chúng và thuyết phục chúng rằng với sức mạnh tiến công của chúng ta kèm theo các hoạt động tâm lý, chúng nhất định thất bại”.
Kết quả thực tế đã ngược hẳn với ước mơ dự tính của Oétmolen. Chiến dịch “Tìm và diệt” lớn nhất là cuộc hành quân Gianxơn Xiti đã không tìm thấy “kẻ địch”. Thế mà “kẻ địch” lại thường xuất hiện bất ngờ khắp mọi nơi khi thì lẻ tẻ, khi thì từng đơn vị nhỏ, nhưng cũng có lúc đông cỡ trung đoàn, sư đoàn giáng cho Mỹ - Ngụy những đòn thất điên bát đảo. Hơn một vạn lính Mỹ - Ngụy thương vong, gần 1.000 xe quân sự, chủ yếu là xe tăng và thiết giáp bị phá hủy, hàng trăm máy bay bị bắn rơi, hàng trăm khẩu pháo bị phá hỏng, và đặc biệt là Đài phát thanh của Mặt trận giải phóng không hề ngừng phát sóng. Đây là một thất bại vô cùng nặng nề và cũng vô cùng bất ngờ đối với quân Mỹ. Vào những tháng cuối 1967, tình trạng sa lầy, bế tắc của quân Mỹ làm cho Đin Rátxcơ, bộ trưởng ngoại giao Mỹ khi đó phải than thở: “Năm 1967 là năm đau khổ và khốc liệt đối với Mỹ trong chiến tranh Việt Nam, ngay tại nước Mỹ, tình thế thật rối bời, dư luận chia rẽ, tiến thoái lưỡng nan”.
Trong cuốn “Giải phẫu một cuộc chiến tranh”, xuất bản năm 1985 tại Nữu Ước, nhà sử học có tiếng của Mỹ là Gabrich Côncô viết: “… dù ưu thế nhân lực của Mỹ và Việt Nam Cộng Hòa cộng lại, đến năm 1967 là 4,7 trên 1 so với Cách mạng nhưng Cách mạng đã ghìm được Mỹ và đồng minh Mỹ đến mức lực lượng tiến công của Cách mạng vượt lực lượng tiến công của Mỹ và do đó, lực lượng Cách mạng nắm được chủ động về chiến thuật và cả chiến lược nữa”.
        Đến cuối năm 1967, cả chiến dịch “Sấm rền” cũng như hàng rào điện tử Mác-Namara đều coi như vô hiệu, không ngăn chặn được sự chi viện của Bắc - Việt Nam cho Tiền tuyến lớn của nó, hơn nữa, chỉ tính riêng năm 1967, dù đã bị bắn rơi 1067 máy bay và bị bắt sống 161 phi công, không lực Mỹ vẫn, theo đánh giá của các nhà phân tích cao cấp Mỹ, “không hề làm giảm sút tinh thần nhân dân miền Bắc”, “không hề làm lung lay ý chí Hà Nội”.
​      Dựa vào hệ thống đường ngầm, công sự, chiến hào, chiến sĩ và nhân dân Củ Chi đã chiến đấu vô cùng anh dũng, lập nên những chiến công thần kỳ. Quân đội Mỹ lần đầu vào đất Củ Chi gặp phải sự kháng cự quyết liệt từ các địa đạo trong vùng căn cứ hiểm yếu, đã phải thốt lên: “Làng ngầm”, “Mật khu nguy hiểm”…
      Hệ thống địa đạo chạy ngoắt ngoéo trong lòng đất, từ đường “xương sống” (đường chính) tỏa ra vô số nhánh dài ngắn, ăn thông với nhau, hoặc độc lập chấm dứt tùy theo địa hình. Chung quanh cửa hầm lên xuống được bố trí nhiều hầm chông, hố đinh, mìn trái (gọi là tử địa), có cả mìn lớn chống tăng và mâm phóng bom bi chống máy bay trực thăng đổ chụp, nhằm tiêu diệt ngăn chặn quân địch tới gần.
         Trong chiến tranh, giặc thả bom, giết chết trâu bò... khiến Củ Chi như vùng đất chết. Người cán bộ sống trong vùng địch, ban ngày náu mình dưới hầm bí mật, ban đêm mới lên khỏi mặt đất, đi hoạt động.

        Bất chấp các chiến dịch Tìm - Diệt của quân Mỹ, Mặt trận Dân tộc Giải phóng tiếp tục mở rộng vùng kiểm soát tại nông thôn. Từ 1964 đến 1965, vùng do Mặt trận kiểm soát chiếm 3/4 diện tích và 2/3 dân số miền Nam. Đầu năm 1968, Mặt trận Dân tộc Giải phóng đã quản lý 4 triệu dân sống trong vùng giải phóng, 6 triệu rưỡi dân nữa sống trong vùng có cơ sở hoạt động bí mật của Mặt trận, Mỹ và chính phủ Sài Gòn chỉ kiểm soát được khoảng 4 triệu dân sống ở vùng đô thị.
         Qua 3 năm chiến đấu trực tiếp với quân Mỹ, tuy vẫn đứng vững trên chiến trường và khiến quân Mỹ sa lầy, nhưng thương vong của quân Giải phóng cũng tăng lên, nếu cục diện này tiếp tục kéo dài thì không thể giành được thắng lợi quyết định. Để xoay chuyển tình thế tạo đột phá cho cuộc chiến tranh, Bộ chính trị Đảng Lao động Việt Nam tại Hà Nội quyết định mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân năm 1968.
     Nhân dân Mỹ chán ngán, làn sóng chống chiến tranh đối với chính phủ Mỹ ngày một dâng cao. Bản thân trong nội bộ chính quyền Mỹ cũng rạn nứt, mâu thuẫn, chia làm hai phe chủ chiến (gọi là phe Diều hâu) và chủ hòa (gọi là phe Bồ câu). Phe Bồ câu gồm Mắc Namara cùng một số cộng tác viên ở Bộ quốc phòng Mỹ, một số nhà vạch kế hoạch dân sự cấp cao, thì chủ trương giảm qui mô cuộc chiến, rút lui khỏi Việt Nam. Phe Diều hâu gồm các tướng lĩnh, đứng đầu là Chủ tịch hội đồng tham mưu trưởng liên quân, Tư lệnh Thái Bình Dương và tướng Oétmolen, Tư lệnh Chiến trường Nam - Việt Nam, thì thúc giục mở rộng chiến tranh cả trên bộ, trên không và ra cả Đông Dương.
Ngày 28 tháng 1 năm 1967, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Duy Trinh tuyên bố lập trường và điều kiện cho việc đối thoại Việt-Mỹ là:
      "Muốn nói chuyện thì trước hết phải chấm dứt không điều kiện việc ném bom và mọi hành động chiến tranh khác chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Chỉ sau khi Mỹ chấm dứt không điều kiện việc ném bom và mọi hành động chiến tranh khác chống nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thì Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mỹ mới có thể nói chuyện được".
       Giônsơn hoàn toàn bị động, lúng túng, hoang mang, không dứt khoát được, tiến cũng sợ mà lui cũng sợ, hoàn toàn bế tắc. Tuy nhiên, như một vớt vát niềm tin cuối cùng vào Oétmolen, Giônsơn đã quyết định đưa sang Nam - Việt Nam thêm 100 ngàn quân Mỹ nữa, nâng tổng số ở đó (không kể quân ngụy Sài Gòn và quân đồng minh (thực chất là chư hầu) lên 430 ngàn quân vào cuối tháng 12-1967. Trên một diện tích khu vực nhỏ hẹp chỉ có 17 vạn km vuông (diện tích Nam - Việt Nam) thì số quân Mỹ như thế đã tạo ra một mật độ chưa có cuộc chiến tranh nào đạt tới.
       Nói đến chiến tranh Việt Nam mà không nói đến hệ thống dịa đạo Củ Chi là một thiếu xót lớn.
        Kênh truyền hình Mỹ CNN vừa công bố danh sách 12 công trình ngầm hấp dẫn du khách nhất thế giới, trong đó có Địa Đạo Củ Chi của Việt Nam. Một cụm công trình ngầm đươc mệnh danh là mảnh đất thép đã đi vào lịch sử đấu tranh anh hùng của nhân dân Việt Nam như một huyền thoại của thế kỷ 20 và trở thành một địa danh nổi tiếng trên thế giới đồng thời là một lỗi khiếp đảm của quân Mỹ – Nguỵ…
          Địa đạo được đào trên một khu vực đất sét pha đá ong nên có độ bền cao, ít bị sụt lở. Nằm cách trung tâm Tp.Hồ Chí Minh khoảng 70 km về hướng đông bắc. Đây là nơi thu nhỏ trận đồ biến hóa của quân và dân Củ Chi trong cuộc kháng chiến lâu dài ác liệt suốt 30 năm chống kẻ thù xâm lược giành độc lập, tự do cho Tổ quốc, là một công trình kiến trúc độc đáo, nằm sâu trong lòng đất, có nhiều tầng, nhiều ngõ ngách như màng nhện, có nơi ăn ở, hội họp và chiến đấu với tổng chiều dài hơn 200 km…
 
Địa đạo Củ Chi (huyện Củ Chi, TP.HCM): Hệ thống  địa đạo được hình thành từ khoảng năm 1946-1948 với chiều dài 250 km. Trong thời gian chiến tranh, các đường hầm được những người lính Việt Nam sử dụng như một nơi ẩn náu, cơ sở du kích và hầm trú bom. Ảnh: Penwar. 
Địa đạo Củ Chi (huyện Củ Chi, TP.HCM): Hệ thống  địa đạo được hình thành từ khoảng năm 1946-1948 với chiều dài 250 km. Trong thời gian chiến tranh, các đường hầm được những người lính Việt Nam sử dụng như một nơi ẩn náu, cơ sở du kích và hầm trú bom.
 

Địa đạo Củ Chi là cách gọi chung của các hệ thống địa đạo khác nhau, được hình thành từ khoảng thời gian 1946-1948, trong thời kỳ chiến tranh Đông Dương. Thời gian này, quân dân hai xã Tân Phú Trung và Phước Vĩnh An đã đào những đoạn hầm ngắn, cấu trúc đơn giản dùng để ẩn nấp, cất giấu tài liệu, vũ khí. Cũng có ý kiến cho rằng việc đào địa đạo khởi đầu do dân cư khu vực này tự phát thực hiện vào năm 1948.

Cư dân khu vực đã đào các hầm, địa đạo riêng lẻ để tránh các cuộc bố ráp càn quét của quân đội Pháp và để cung cấp nơi trú ẩn cho quân Việt Minh. Mỗi làng xây một địa đạo riêng, sau đó do nhu cầu đi lại giữa địa đạo các làng xã, hệ thống địa đạo đã được nối liền nhau tạo thành một hệ thống địa đạo liên hoàn, phức tạp, về sau phát triển rộng ra nhiều nơi, nhất là 6 xã phía Bắc Củ Chi và cấu trúc các đoạn hầm, địa đạo được cải tiến trở thành nơi che giấu lực lượng, khi chiến đấu có thể liên lạc, hỗ trợ nhau.

      Trong thời gian 1961–1965, các xã phía Bắc Củ Chi đã hoàn thành tuyến địa đạo trục gọi là "xương sống", sau đó các đoàn thể, cơ quan, đơn vị phát triển địa đạo nhánh ăn thông với tuyến trục hình thành những địa đạo liên hoàn giữa các ấp, các xã và các vùng. Bên trên mặt đất, quân dân Củ Chi còn đào cả một vành đai giao thông hào chằng chịt nối kết với địa đạo, lúc này địa đạo chiến đấu cũng được đào chia thành nhiều tầng, nhiều ngõ ngách. Ngoài ra, bên trên địa đạo còn có rất nhiều ụ chiến đấu, bãi mìn, hố đinh, hầm chông... được bố trí thành các cụm liên hoàn tạo ra trận địa vững chắc trong thế trận chiến tranh du kích, gọi là xã chiến đấu. 
          Hơn 20 năm xây dựng, địa đạo Củ Chi đã được hoàn thành không phải bằng một kỹ thuật hiện đại mà là từ bàn tay của những con người đất thép quyết giữ gìn từng tấc đất quê hương. Trong đó có những đôi tay của biết bao người mẹ, người chị, người em, vốn chỉ là những con người chân chất giản dị nhưng đã viết nên những trang sử hào hùng biết bao cho dân tộc. Và từ đó, Củ Chi đã là “ngôi nhà” của biết bao lớp lớp chiến sĩ với lối đánh du kích thông minh đã bao phen làm giặc Mỹ kinh hồn bạt vía, góp phần to lớn vào công cuộc giải phóng quê hương.
        Hệ thống địa đạo được chia ra làm 3 tầng, từ đường “xương sống” toả ra vô số nhánh dài, nhánh ngắn ăn thông nhau, có nhánh trổ ra tận sông Sài Gòn. Tầng một cách mặt đất 3m, chống được đạn pháo và sức nặng của xe tăng, xe bọc thép….Tầng 2 cách mặt đất 5m, có thể chống được bom cỡ nhỏ. Còn tầng cuối cùng cách mặt đất 8-10m. Ðường lên xuống giữa các tầng hầm được bố trí bằng các nắp hầm bí mật. Bên trên nguỵ trang kín đáo, nhìn như những ụ mối đùn, dọc đường hầm có lỗ thông hơi. Liên hoàn với địa đạo có các hầm rộng để nghỉ ngơi, có nơi dự trữ vũ khí, lương thực, có giếng nước, có bếp Hoàng Cầm, có hầm chỉ huy, hầm giải phẫu… Còn có cả hầm lớn, mái lợp thoáng mát, nguỵ trang khéo léo để xem phim, văn nghệ.

Với lối vào được ngụy trang cẩn thận, ít ai ngờ địa đạo dưới lòng đất là cả một hệ thống phòng thủ đầy đủ chức năng bao gồm nhiều phòng ở, bệnh xá, nhà bếp, kho chứa, nơi làm việc. Ảnh: Innervietnam. 
Với lối vào được ngụy trang cẩn thận, ít ai ngờ địa đạo dưới lòng đất là cả một hệ thống phòng thủ đầy đủ chức năng bao gồm nhiều phòng ở, bệnh xá, nhà bếp, kho chứa, nơi làm việc. 
 
       Quân đội Mỹ và Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã liên tục tấn công vào hệ thống địa đạo bằng đủ phương tiện: bom, bơm nước vào địa đạo, hơi ngạt… nhưng do hệ thống địa đạo được thiết kế có thể cô lập từng phần nên bị hư hại không nhiều. Quân đội Mỹ đã áp dụng nhiều biện pháp để phát hiện các cửa vào (được ngụy trang) và phát hiện các cửa thông gió (thường được đặt giữa các bụi cây). Biện pháp hữu hiệu nhất là sử dụng chó nghiệp vụ. Ban đầu có một số cửa vào và lỗ thông gió bị chó nghiệp vụ phát hiện do chó ngửi được hơi người. Tuy nhiên, sau đó, những người ở dưới địa đạo đã dùng xà phòng của Mỹ đặt ở cửa hầm và cửa thông gió nên chó nghiệp vụ không thể phát hiện ra.
        Trong suốt thời kỳ chiến tranh chống Mỹ, địa đạo Củ Chi là một nỗi thất vọng lớn, câu hỏi khó đối với quân đội Mỹ và quân đội Việt Nam Cộng hòa. Mỹ và Australia từng cố gắng phát hiện và xâm nhập địa đạo bằng nhiều cách, song tất cả nỗ lực đều thất bại. …. Không thể giành ưu thế bằng chiến tranh hóa học, quân đội Mỹ bắt đầu cắt cử nhiều binh lính xuống địa đạo. Những người này được gọi là “chuột đường hầm”. Họ được trang bị súng máy, dao, đèn pin. Song với sự phức tạp của hệ thống và không có đường lui, binh sĩ Mỹ hầu hết thiệt mạng.
       Một trong giải pháp tiêu diệt quân địch hiệu quả và gây lên lỗi khiếp đảm của quân địch mỗi khi chúng tiến đanh Củ Chi đó là hệ thống vũ khi thô sơ do chính quân và dân Củ Chi tự chế và nó đóng một vai trò quan trọng, nó bẻ gẫy ý chí xâm lược của kẻ thù. Chúng ta hãy xem những vũ khí tự chế – sự khiếp sợ mà người Việt Nam dành cho quân xâm lược như: Hầm Chông Bẫy Cọp, Chông Thò, Chông Hom, Chông cánh, Chông cần cối, Chông nách, Chông bồ cào, chông cánh cửa, chông tự động ….. Đó là thứ vũ khí tự tạo không đơn thuần chỉ sát thương, mà còn tạo lên những cơn ác mộng kinh hoàng cho người còn lại…
 
                                    Không có mô tả ảnh.
                                                                            Địa đạo Củ Chi 
                                 
                                    
       Chờ đợi lính Mỹ là sự chật chội đến nghẹt thở, bóng tối mù mịt, mìn, cạm bẫy, rắn độc, bò cạp, và sau đó nữa là những người du kích thiện chiến. 

        Hệ thống địa đạo 3 tầng được đào vào trong nền đất sét cứng bằng những dụng cụ nông nghiệp thô sơ của rất nhiều các tổ nhóm người của nhiều thế hệ người dân Việt Nam, mỗi tổ đào hầm có từ 3 đến 4 người. một người đào, một người kéo đất từ trong hầm ra một cái giếng sâu thẳng đứng, một người kéo thúng đất đào được lên phía trên, một người khiêng vác đi đâu đó, đổ dấu bí mật dưới những lùm cây rậm rạp hoặc đổ rải xuống sông.

                    

         Khi các tổ đào đã thông được địa đạo với nhau, giếng đào được đặt một cây tre thông xuốt làm ống thông hơi và được lấp đi, lèn chặt và ống thông hơi được ngụy trang dưới dạng tổ mối hoặc gốc cây mục hay bất cứ hình dạng nào khác….

            
                    

 Cửa hầm bí mật chỉ có người Việt Nam mới có thể chui lọt.

         Người Mỹ quyết định sử dụng chó săn để tìm kiếm những lỗ thông hơi và đường ra vào địa đạo. Các chiến sĩ du kích Củ Chi sử dụng quần áo lính Mỹ, thông thường là áo khoác M65 (người Việt hay gọi là áo Mỹ) lính mỹ thường vất đi khi bị thương hoặc băng bó vết thương.

Chó săn ngửi thấy mùi quen thuộc của Mỹ bỏ qua. Sau này du kích sử dụng hạt tiêu xay nhỏ vô hiệu hóa khứa giác của chó săn hoặc các bánh xà phòng của Mỹ, có tác dụng lâu hơn để đánh lừa chó săn của địch.

       Nhiều trường hợp các cửa hầm bí mật cũng được tìm thấy, lính Mỹ cố gắng bơm nước hoặc khí gaz CS (làm cay, chảy nước mắt) vào đường hầm. Nhưng hệ thống nhiều tầng, nhiều ngách của địa đạo với vô số cánh cửa khép kín và các đường hầm ngập nước đã vô hiệu hóa mọi nỗ lực của quân đội Mỹ, du kích Việt nam chỉ đơn giản mất đi một khúc đường hầm, đánh sập tường của đường hầm bịt kín luôn cả hai đầu và quên luôn đoạn hầm đó, họ đào một đường hầm khác đi vòng qua và mọi nỗ lực của lính Mỹ không đem lại kết quả gì được coi là có.

                     
              Đường hầm với những cửa lọc khí và cửa lọc nước, ngăn chất độc hóa học.
                   

        Địa đạo Củ Chi trong xuốt những năm chiến tranh không chỉ là công sự, là hầm chủ ẩn mà còn đóng vai công binh xưởng, cung cấp vũ khí, trang thiết bị chiến tranh thô sơ và thô sơ kết hợp với hiện đại nhằm tiêu diệt quân thù.

          Đối với du kích, sắt thép và thuốc nổ là những vật chất vô cùng quý giá, và người Mỹ cung cấp đều đặn thông qua các đợt đánh phá mưa bom bão đạn (chỉ cần có dấu hiệu nghi ngờ - ánh sáng, làn khói, tiếng động..) ngay tức khắc các thảm bom B-52 sẽ quét sạch cây cối trong khu vực, biến một vùng rộng lớn thành bề mặt của mặt trăng.

                       

Mìn chống tăng tự tạo, dàn phóng bom bi tự tạo của du kích Vành đai thép Củ Chi

Nhưng chiến sĩ du kích dũng cảm thu nhặt những quả bom lớn nhỏ - từ bom phá, bom xuyên đến bom bi, đạn pháo của địch, một số loại bom lớn được tháo kíp, cưa ra để lấy thuốc nổ, các loại nhỏ hơn dễ mang vác như đạn pháo 105, bom bi, đạn 20 ly được sử dụng làm các loại mìn tự tạo. Sắt thép được sử dụng để rèn lên các mũi chông và đinh nhọn phục vụ cạm bẫy và các vật dụng chiến trường khác.

Ngoài các công binh xưởng, trong địa đạo có đầy đủ nhà ăn tập thể, bếp tập thể Hoàng Cầm, xưởng may mặc đồ quân dụng và dân sự. Rừng rậm Việt Nam và đất thép Củ chi mang trong mình nó rất nhiều những bất ngờ nguy hiểm đối với kẻ thù, nó có thể là những quả mìn tự chế, đủ sức xuyên thủng cả xe tăng M41, hoặc cũng có thể là những chiếc bẫy thô sơ tự chế, được Holywood sử dụng trong những bộ phim chiến tranh nổi tiếng của mình. Thực tế của những vũ khí đó đang còn được trưng bày ở Viện bảo tàng Củ Chi.

        Sau khi chiến tranh kết thúc, khu di tích lịch sử này đã trở thành một khu du lịch hấp dẫn, thu hút hàng ngàn du khách trong nước và nước ngoài tham quan mỗi ngày. Ngoài việc len lỏi vào các đường hầm để cảm nhận được không khí năm xưa, khách du lịch còn được nghe giới thiệu, được xem lại những đoạn phim tư liệu về thời chiến đấu oanh liệt của du kích Củ Chi, được thưởng thức món khoai mì chấm muối mè dân dã mà ngon miệng. Bên cạnh đó, du khách còn được tham gia môn thể thao bắn súng để thử khả năng tinh nhuệ và chính xác của mình. Và chắc chắn rằng ai cũng cảm thấy thật dễ chịu khi len lỏi vào những cánh rừng trung quân lá xanh ngút ngàn, ngồi đong đưa trên những chiếc võng, hoài niệm một chút về quá khứ, để biết rằng cuộc sống thanh bình ngày hôm nay được đánh đổi biết bao sự hy sinh của những con người năm xưa trên khắp đất nước Việt Nam….
Sau cuộc phản công “tìm diệt” thất bại trong mùa khô năm 1966-1967 của Mỹ, với lực lượng được tăng cường, Oétmolen lại gấp rút chuẩn bị cuộc phản công lần thứ 3 vào vùng chiến khu C, Đ, bằng những cuộc hành quân “ngăn ngừa” ở tỉnh Phước Long, đồng thời dự kiến mở 4 cuộc hành quân mang tên chung là “York” càn quét vùng biên giới Lào ở 4 tỉnh phía Bắc nhằm lập lại quyền kiểm soát ở miền tây Trị - Thiên.
Giữa lúc Oétmolen đang ráo riết triển khai lực lượng để thực hiện ý đồ đó thì Quân giải phóng Miền Nam mở đợt hoạt động quân sự Thu - Đông nhằm tiêu diệt, tiêu hao thêm một bộ phận binh lực Mỹ - Ngụy, buộc chúng phải bị động hơn nữa về chiến lược, tranh thủ mở rộng vùng giải phóng, củng cố thế trận và quyền chủ động chiến trường, đồng thời mở ra cho Giônsơn thấy leo thang chiến tranh là phiêu lưu, giành thắng lợi quân sự trên chiến trường Việt Nam là vô vọng.
Trước cuộc tiến công dồn dập của Quân giải phóng từ Quảng Trị cho đến đồng bằng sông Cửu Long (chiến sự ác liệt nhất trong mùa mưa năm 1967 là ở Tây Nguyên và Trị Thiên), cùng lúc với tin tức tình báo cho thấy Quân giải phóng đang di chuyển những đơn vị lớn từ vùng biên giới về đồng bằng, các trung tâm dân cư, kể cả Sài Gòn, Oétmolen hốt hoảng ra lệnh hủy bỏ kế hoạch phản công lần 3, điều phối lại lực lượng chuyển sang phòng ngự bị động theo 2 hướng chính là xung quanh Sài Gòn và Trị Thiên.
        Đến đây, một thời cơ mới cho công cuộc giải phóng miền Nam của Cách mạng Việt Nam đã xuất hiện. Bộ chính trị và Ban chấp hành Đảng Lao động Việt Nam nhận định: “Chúng ta đang đứng trước những triển vọng và thời cơ chiến lược lớn, đế quốc Mỹ đang ở trong tình thế tiến thoái lưỡng nan về chiến lược”, “tình hình ấy cho phép ta chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam sang một thời kỳ mới - thời kỳ Tổng tiến công và nổi dậy để giành thắng lợi quyết định”, do đó “Nhiệm vụ trọng đại và cấp bách của ta là động viên những nỗ lực lớn nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, đưa cuộc chiến tranh cách mạng của ta lên bước phát triển cao nhất, bằng phương pháp tổng công kích - tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định” (Nghị quyết Hội nghị lần thức 14 của Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao Động Việt Nam, tháng 1-1968).
Nghị quyết cũng nhận định rằng: “Ta tiến hành tổng công kích - tổng khởi nghĩa không phải trong điều kiện kẻ địch đã kiệt quệ trong một cuộc chiến tranh thế giới (như trường hợp Cách mạng Tháng Mười Nga, hay Cách mạng Tháng Tám) mà là trong khi địch còn trên 1 triệu quân và một tiềm lực chiến tranh lớn”.
Nghị quyết còn dự kiến 3 khả năng là:
“1 - Ta giành được thắng lợi to lớn ở các chiến trường quan trọng, công kích và khởi nghĩa vùng yếu, ở các đô thị lớn và đập tan được mọi phản kích của địch, làm địch thất bại đến mức không thể gượng lại được, đè bẹp được ý chí xâm lược của địch, bắt chúng phải chịu thua, phải thương lượng đi đến kết thúc chiến tranh theo mục đích, yêu cầu của ta.
2 - Tuy ta giành được thắng lợi ở nhiều nơi nhưng địch cố gắng tập trung và tăng viện thêm lực lượng từ ngoài vào, giành lại những vị trí quan trọng, các đô thị lớn, nhất là thủ đô, và dựa vào các căn cứ để tiếp tục chiến đấu với ta.
3 - Mỹ động viên và tăng viện thêm nhiều lực lượng, mở rộng chiến tranh thêm một bước ra miền Bắc Việt Nam, sang Lào, Cămpuchia, hòng xoay cục diện chiến tranh và gỡ thế thua của chúng.”
“Chúng ta phải nỗ lực phi thường, đem hết tinh thần và lực lượng quyết tâm chiến đấu giành cho kỳ được thắng lợi cao nhất theo khả năng thứ nhất”. Dù “… khả năng thứ 3 có rất ít, nhưng chúng ta cũng phải luôn sẵn sàng chủ động đối phó mọi tình huống có thể xảy ra”.
        Bộ chính trị Trung ương Đảng kêu gọi: “Đạp bằng mọi gian khổ, hy sinh, vượt qua mọi thử thách khó khăn, dũng cảm và mưu trí tiến hành tổng công kích - tổng khởi nghĩa, giành thắng lợi hoàn toàn cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đặng hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, tiến tới thống nhất nước nhà”, đồng thời giao cho Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh quân đội nhân dân Việt Nam xây dựng phương án hành động.  Phương án hành động đó đã được Quận ủy Trung ương và Bộ tổng tư lệnh xác định cụ thể là: “Cùng với đòn thế tiến công của bộ đội chủ lực mà chiến trường chính là đường 9 - Khe Sanh nhằm thu hút, giam chân lực lượng chiến lược của địch, là đòn tiến công chiến lược đánh vào thị xã, thành phố qui mô trên toàn miền Nam kết hợp với nổi dậy của quần chúng nông thôn và đô thị, mở đầu cho tổng công kích - tổng khởi nghĩa, lấy chiến trường chính là Sài Gòn, Nam Bộ, Trị - Thiên, Huế, trọng điểm là Sài Gòn, Huế và các thành phố lớn”.
Bước ngoặt bi kịch đối với cuộc đời binh nghiệp của đại tướng Oétmolen “bắt đầu từ một thung lũng nhỏ mang tên Khe Sanh” và “kết thúc bằng cú Tết Mậu Thân năm 1968”.

Chiến dịch Đường 9 – Khe Sanh còn được gọi là "Chiến dịch Đường 9" hay "Trận Khe Sanh", là một chiến dịch chính yếu trong chiến cục năm 1968 tại Việt Nam.

Các tài liệu Hoa Kỳ thường ghi nhận trận đánh này diễn ra trong 77 ngày từ tháng 1 đến tháng 4 năm 1968, và cũng chỉ đề cập đến diễn biến trong 77 ngày này, mà theo đó kết thúc với việc Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ (TQLC) đóng ở Khe Sanh được Sư đoàn Không Kỵ số 1 cứu viện. Tuy nhiên đối với Quân đội Nhân dân Việt Nam (QĐNDVN) thì đây chỉ là giai đoạn 1 của chiến dịch, giai đoạn 2 kéo dài từ 9 tháng 4 đến 25 tháng 7 nhằm chiếm đóng Khe Sanh, cũng diễn ra rất quyết liệt. Tổng cộng 2 giai đoạn kéo dài 170 ngày, kết thúc khi lính Mỹ cuối cùng rút khỏi Khe Sanh và QĐNDVN hoàn toàn kiểm soát cứ điểm này, đánh dấu sự thất bại của hàng rào điện tử McNamara.

Hàng rào điện tử McNamara (tiếng Anh: McNamara Line electronic barrier, gọi tắt là McNamara Line) là tên gọi cho hệ thống các phương tiện điện tử phát hiện thâm nhập được quân đội Mỹ sử dụng dọc theo khu phi quân sự ở vĩ tuyến 17 và đường mòn Hồ Chí Minh như một biện pháp trinh sát mặt đất tự động nhằm phát hiện các hoạt động vận chuyển của Quân đội Nhân dân Việt Nam lưu thông qua khu vực này trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam.

(Hàng rào điện tử McNamara bao gồm hệ thống 17 căn cứ quân sự, kết hợp với hệ thống vật cản (hàng rào dây thép gai, bãi mìn,...), các thiết bị trinh sát điện tử mặt đất và trên không (radar, máy cảm ứng âm thanh, cảm ứng địa chấn...), được bố trí liên hoàn trong khu vực có chiều rộng 10–20 km, dài khoảng 100 km từ cảng Cửa Việt lên đường 9, tới biên giới Việt Nam - Lào, sang Mường Phìn, Lào. Công trình còn được đặt tên là the barrier system bởi chính bộ trưởng quốc phòng Mỹ Robert McNamara (giai đoạn từ 1961 đến 1968), và được McNamara đánh giá là một chiến thuật chủ chốt, cùng với các chiến dịch không kích, trong chiến tranh Việt Nam. Công trình tiêu tốn 2 tỉ Mỹ kim (tương đương khoảng 18.038.974.359 USD theo giá đồng USD năm 2025) dù trước khi khởi công, McNamara chỉ ước tính tốn kém khoảng 1 tỷ Mỹ kim. Công trình này đã xem như bị phá sản từ sau năm 1968, sau khi Quân đội Nhân dân Việt Nam mở cuộc Tổng tiến công Mậu Thân và cuộc tấn công căn cứ Khe Sanh).

 Khe Sanh đã trở thành nơi mà lần đầu tiên, quân đội Hoa Kỳ phải rút bỏ một căn cứ quân sự trọng yếu bởi áp lực của đối phương. Bởi vai trò chiến lược vô cùng quan trọng của trận đánh này, đây là một trong những trận chiến ác liệt và được bàn thảo nhiều nhất.
Khe Sanh nằm trên một cao nguyên, mỗi bề gần 10km, thuộc miền núi phía tây tỉnh Quảng Trị, gần chi khu quân sự Hướng Hóa, cụm cứ điểm Làng Vây và Tà Cơn. Các tướng tá Mỹ trực tiếp điều khiển chiến tranh xâm lược Việt Nam đều nhất trí cho rằng Khe Sanh là vị trí chiến lược hết sức quan trọng, vừa có thể ngăn chặn sự xâm nhập từ Bắc vào Nam qua giới tuyến quân sự tạm thời (vĩ tuyến 17), vừa có thể là tấm bình phong che chở an toàn cho khu vực phía Đông đường 9. Năm 1964, sang Nam - Việt Nam đảm nhận quyền chỉ huy lực lượng Mỹ, Oétmolen liền đi thị sát Khe Sanh và lập tực cho đó là vị trí lý tưởng để ngăn chặn Việt Cộng xâm nhập từ Bắc vào hoặc từ Lào sang theo đường 9; là “cái mỏ neo” ở phía Tây của hệ thống phòng thủ phía Nam khu phi quân sự và là bàn đạp cho các cuộc hành quân trên bộ để cắt đứt đường mòn Hồ Chí Minh. Bỏ Khe Sanh tức là bỏ mất tất cả những lợi thế đó, cũng là chấp nhận cho Việt cộng đưa chiến tranh vào vùng dân cư ven biển tỉnh Quảng Trị và tạo ra một hành lang dọc bờ biển cho Việt Cộng tiến xuống phía Nam. Bởi tầm quan trọng như thế nên Khe Sanh được Mỹ chú tâm xây dựng thành một khu vực phòng thủ cực mạnh với lực lượng đồn trú tới 6.000 quân do đại tá Đêvít Laođơ chỉ huy, có đầy đủ xe, pháo và ngoài ra còn được 16 khẩu pháo 175 mm (có hỗn danh là “Vua chiến trường”) của lục quân Mỹ đặt ở căn cứ 241 cùng 20.000 quân trên tuyến phòng thủ đường 9, đặc biệt là được một lực lượng không quân hiện đại to lớn yểm trợ, chi viện.

Mục đích chủ yếu của QĐNDVN khi tấn công Khe Sanh là nhằm "nghi binh" cho các hướng tiến công chính trong Chiến dịch Tết Mậu Thân, bởi:

  • Vị trí đặc biệt quan trọng của Khe Sanh giống như "cái mỏ neo" trong bản đồ quân sự của Mỹ, đặc biệt là uy hiếp đường Hồ Chí Minh và bảo vệ vùng I chiến thuật. Đây là trung tâm chỉ huy của Hàng rào điện tử McNamara mà Mỹ đang xây dựng nhằm cắt đứt đường Hồ Chí Minh. Phá hủy được cứ điểm này thì QĐNDVN mới nhổ được "cái gai" mà Mỹ định găm vào tuyến đường chi viện chiến lược này.
  • Tập trung đánh và bao vây nhằm thu hút 1 lực lượng lớn quân Mỹ tham chiến, khiến cả nước Mỹ hồi hộp theo dõi "Trận Điện Biên Phủ thứ 2" có thể thay đổi cục diện cuộc chiến Việt Nam.
Căn cứ quân sự của Mỹ ở Khe Sanh Ảnh: Tư liệu
Tháng 12-1967, Oétmolen nhận được tin tình báo phát hiện 2 sư đoàn bộ binh và 2 trung đoàn pháo cùng xe tăng quân Bắc - Việt Nam tập trung quanh Khe Sanh. Ông ta nhận định sắp có cuộc tiến công của Việt Cộng nhằm chiếm khu vực này và các điểm tựa khác dọc đường 9 từ Đông Hà sang Lào. Bị ám ảnh, Oétmolen còn cho rằng Việt Cộng định biến Khe Sanh thành một “Điện Biên Phủ” thứ hai, do đó đã yêu cầu nhà sử học công tác trong Bộ tư lệnh là đại tá Rimơ Ácgô nghiên cứu Điện Biên Phủ và các trận bao vây trên thế giới để so sánh với Khe Sanh nhằm kiện toàn công tác phòng ngự cho nó. Ácgô cho biết, qua nghiên cứu thì sở dĩ quân phòng ngự thất bại là do mất hết mọi thế chủ động. Theo Oétmolen thì quân Mỹ ở Khe Sanh có lợi thế hơn nhiều so với quân Pháp ở Điện Biên Phủ bởi được chi viện dồi dào bằng máy bay và pháo binh từ phía ngoài và Mỹ có đầy đủ khả năng chở quân ứng cứu kịp thời bằng đường không để giành thế chủ động đánh bại đối phương. Trước khi trận đánh xảy ra, Oétmolen còn cho chuyển toàn bộ các máy dò điện tử định dùng kéo dài hàng rào Mắc Namara sang Lào, về bố trí xung quanh Khe Sanh.
Sau khi đã dồn những nỗ lực quan trọng cho Khe Sanh với tính toán, cân nhắc kỹ lưỡng, Oétmolen “tin tưởng Khe Sanh có thể đứng vững trong lịch sử như một tấm gương cổ điển về thách thức đánh bại một lực lượng bao vây đông hơn nhiều lần bằng việc sử dụng hỏa lực có phối hợp”.
Tại Oasinhtơn, bị sự suy diễn theo chiều hướng coi Khe Sanh như một Điện Biên Phủ của các tướng lĩnh Mỹ chi phối, Giônsơn cũng quan tâm đặc biệt đến Khe Sanh, theo dõi sát sao diễn biến tình hình ở đó trên một sa bàn trận địa đặt trong tầng hầm Nhà Trắng và đòi các tướng lĩnh phải có lời cam kết bằng máu không được để mất khu vực phòng thủ đó.
Trong một cuộc họp Ban tham mưu của mình, Oétmolen tuyên bố: “Chúng ta sẽ không bị đánh bại ở Khe Sanh. Tôi sẽ không tha thứ cho ai nói hoặc suy nghĩ điều ngược lại”.
Quân giải phóng đánh chiếm các mục tiêu của địch trong Chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh 1968
                                                           Ảnh: TƯ LIỆU
                                     
Quân Giải phóng bao vây, bắn rơi máy bay vận tải C130 địch dùng để tiếp tế cho căn cứ Khe sanh. Ảnh:Tư liệu
Giữa lúc liên quân Lào - Việt đang truy quét quân địch ở Nậm Bạc thì ngày 20-1-1968, quân Giải phóng bất ngờ tiến công tập đoàn cứ điểm Khe Sanh. Sau khi làm chủ quận lỵ Hướng Hóa, đêm 31-1, quân Giải phóng tiêu diệt cứ điểm Huội San và ngày 7-2, diệt cụm cứ điểm Làng Vây, làm cho Tà Cơn bị hở sườn phía tây. Quân Giải phóng chọc thủng luôn tuyến phòng thủ tây đường 9 của địch, làm chủ đoạn đường đó từ biên giới Việt - Lào đến Cà Tu, mở rộng bàn đạp vây hãm Tà Cơn. Lính thủy đánh bộ Mỹ trong Tà Cơn phản kích ra liên tục, nhưng đều bị đánh bại, đành phải cố thủ trong công sự, chờ viện binh.
                           
                         Đường băng của căn cứ Khe Sanh bị Quân đội Nhân dân Việt Nam bắn phá.
Từ khoảng giữa tháng 2 trở đi, máy bay chiến thuật Mỹ trung bình mỗi ngày xuất kích 300 lần chiếc, ném 35.000 tấn bom, máy bay chiến lược B52 trong gần 2 tuần thả 75.000 tấn bom xuống quanh Khe Sanh. Trong những ngày Khe Sanh bị bao vây, trung bình mỗi ngày, đại bác 175 mm của lục quân Mỹ bắn đến 1.500 quả đạn. Lượng bom đạn dội xuống dày đặc đó làm cho quân tướng Mỹ - Ngụy ở Khe Sanh cũng phải kinh hoàng. Oétmolen nhìn nhận đó là “một cuộc phô trương hỏa lực khủng khiếp… một trong những trận ném bom nặng nề nhất, tập trung nhất trong lịch sử chiến tranh”. Thế nhưng quân Giải phóng vẫn anh dũng siết chặt vòng vây Tà Cơn từ hai hướng Tây và Nam. Cuối tháng 2-1968, các đường hào vây lấn của quân Giải phóng chỉ còn cách tiền duyên địch khoảng 50 m…
Mãi đến tháng 4-1968, quân Mỹ - Ngụy gồm sư đoàn kỵ binh không vận số 1, ba tiểu đoàn dù, một tiểu đoàn biệt động ngụy mới tổ chức được hai cuộc hành quân “Ngựa bay” và “Lam Sơn 207” để giải tỏa Khe Sanh. Trong những ngày này, Mỹ dùng máy bay chiến thuật ném bom chỉ cách Trung tâm Tà Cơn có 400 m, còn máy bay chiến lược B52 thì phong tỏa vòng ngoài từ 2 đến 3 km. Những cuộc giao tranh ác liệt đã diễn ra ở các khu vực: điểm cao 471, 400, 542, 479, Động Ché Riên, làng Khoai, làng Vây, xung quanh Tà Cơn. Bị đánh thiệt hại nặng nhưng Mỹ - Ngụy cũng chiếm được một số vị trí có lợi. Vòng vây Tà Cơn của quân Giải Phóng bị nới lỏng, địch thay được quân (lúc này hình thái phòng ngự của Mỹ ở Khe Sanh vẫn lấy Tà Cơn làm trung tâm và nơi đây được tăng cường lực lượng, gồm 2 trung đoàn lính thủy đánh bộ, 2 tiểu đoàn kỵ binh không vận). Tuy nhiên toàn bộ hướng Tây - Tà Cơn vẫn bị trống, Mỹ không chiếm được vị trí khống chế nào.
Sau khi mặt trận Khe Sanh được tăng cường sư đoàn 308 và trung đoàn 246, quân Giải phóng mở hàng loạt trận tiến công chiếm lại làng Cát, Động Ché Riên, cắt đường 9 đoạn từ Rào Quán đến Cu Bốc, đẩy địch ở Tà Cơn vào thế cô lập.
Ngày 1-6-1968, sư đoàn 3 lính thủy đánh bộ Mỹ mở cuộc hành quân “Xcốtlen” đánh ra khu vực Tà Ri, Tà Quan, Húc Cốc Giang, Pa Trang nhằm thu hút lực lượng quân Giải phóng đang vây hãm Tà Cơn ra đối phó, đồng thời đóng thêm các chốt bảo vệ phía Đông và Nam đường 9. Cuộc hành quân này, ngay từ đầu đã bị đánh thiệt hại nặng 1 tiểu đoàn tại Húc Cốc Giang. Ở phía Tây - Tà Cơn, trung đoàn 246 quân Giải phóng tiếp tục kiềm chế, đánh tiêu hao địch ở các điểm cao 832, 845, 689. Lực lượng vây hãm Tà Cơn ngày một siết chặt vòng vây. Một loạt các vị trí án ngữ phía Tây - Tà Cơn và dọc đường 9 bị quân Giải phóng tiến công tiêu diệt. Đường bộ bị cắt đứt, đường không bị khống chế mạnh mẽ, Tà Cơn có nguy cơ bị tiêu diệt. Trước tình hình đó, quân Mỹ phải dừng cuộc hành quân “Xcốtlen”, co lực lượng về giữ đường 9, khu Nam - Tà Cơn và điều 2 tiểu đoàn lính thủy đánh bộ về giữ Đông Hà, Cửa Việt đang bị quân Giải phóng uy hiếp.
Trước sức tiến công mạnh mẽ của quân Giải phóng trên toàn tuyến đường 9, đặc biệt là ở Tà Cơn, ngày 26-6-1968, Oétmolen tuyên bố rút khỏi Khe Sanh. Một cuộc tháo chạy hỗn loạn khỏi Tà Cơn của quân Mỹ - Ngụy đã diễn ra dưới làn đạn truy kích mãnh liệt của đối phương. Mãi đến ngày 15-7-1968, quân Mỹ - Ngụy mới rút hết được ra khỏi Khe Sanh.
Sau 170 ngày đêm tiến công, vây hãm, bám trụ kiên cường, quân Giải phóng đã cắm lá cờ Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam - Việt Nam lên trung tâm căn cứ Khe Sanh chứng tỏ ý chí, tinh thần quả cảm và nghệ thuật quân sự Việt Nam đã thắng đế quốc Mỹ. Quân Giải phóng đã tiêu diệt 17.000 địch, trong đó có 13.000 quân Mỹ, bắn rơi và phá hủy 400 máy bay các loại, giải phóng hoàn toàn huyện Hướng Hóa, đập tan một mảng lớn và trọng yếu của tuyến phòng thủ đường 9.
Cuộc chiến đấu ở Khe Sanh là một thử thách phi thường đối với quân đội nhân dân Việt Nam trước một đội quân chính qui, trang bị hiện đại bậc nhất, có ưu thế áp đảo về sức mạnh hỏa lực của cường quốc số 1 thế giới là đế quốc Mỹ, hơn nữa còn đánh cho đội quân hùng mạnh ấy phải chịu thua, rút chạy hỗn loạn, làm cho “cả thế giới như vừa chứng kiến một câu chuyện thần kỳ: Quân giải phóng miền Nam vây hãm một lực lượng lớn quân Mỹ ở Khe Sanh ròng rã 170 ngày đêm và cuối cùng thắng chúng… Hai tiếng Khe Sanh ngân cao và vang xa mãi như tiếng kèn chiến thắng hùng tráng của thời kỳ mới trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước” (Xã luận báo “Nhân dân” số ra ngày 27-6-1968).
Đối với đế quốc Mỹ, đây là lần đầu tiên những đơn vị tinh nhuệ của quân đội Mỹ bị bao vây lâu ngày nhất trong lịch sử chiến tranh và mặc dù đã dùng hết sức mạnh áp đảo của phi pháo, xe tăng để giải vây vẫn không chống cự nổi, cuối cùng để tránh bị tiêu diệt hoàn toàn đã phải tháo chạy dưới làn mưa đạn của đối phương, làm cho “uy tín nước Mỹ suy sụp, Mỹ rốt cuộc bị mất thể diện” (Tin điện hàng ngày, 28-6-1968), bởi vì: “Sự rút lui khỏi căn cứ Khe Sanh không phải đơn giản chỉ là bỏ rơi một điểm xung yếu mà là sự bỏ rơi cả một ảo tưởng và một chính sách được tất cả cố gắng chiến tranh của Mỹ dựng lên. Cái chiến lược “Tìm và diệt” cũng tan ra tro như pháo đài xi măng cốt thép ở Khe Sanh…” (Tin điện hàng ngày, 30-6-1968).
Trong cuốn hồi ký “Một quân nhân tường trình” (A soldier reports) của mình, Oétmolen có viết: “Không có sự kiện nào trên chiến trường Việt Nam gây ra nhiều điều dèm pha, phỉ báng của công chúng Mỹ đối với cách thức tiến hành cuộc chiến tranh Việt Nam bằng quyết định đứng trụ lại và chiến đấu ở Khe Sanh.”
Nghi binh chiến lược là một trong những nét đặc sắc của Nghệ thuật Quân sự Việt Nam; trong đó, Chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh là một trong những điển hình rực rỡ của nghệ thuật này. Kết quả của Chiến dịch Đường 9 – Khe Sanh đã góp phần quan trọng vào thắng lợi to lớn của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968.
Chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh Xuân Hè 1968 là đòn tiến công có ý nghĩa quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nhằm đánh chiếm khu vực, địa bàn trọng yếu, bảo vệ hành lang vận chuyển chiến lược từ Bắc vào Nam; đồng thời, là sự khởi đầu, nghi binh cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968 đầy hiệu quả. Với đòn nghi binh chiến lược có một không hai này, quân Giải phóng đã thu hút và kìm giữ một bộ phận sinh lực quan trọng cùng một khối lượng lớn bom đạn của Mỹ vào khu vực Đường 9 - Khe Sanh trong 170 ngày đêm, tạo điều kiện thuận lợi cho quân và dân miền Nam, trước hết là Mặt trận Trị - Thiên - Huế đồng loạt nổi dậy tiến công địch. Đánh giá về sự kiện này, Đại tướng Hoàng Văn Thái nhận xét: “Ở hướng này (Đường 9 - Khe Sanh) nếu chỉ nói từ Tết Mậu Thân sẽ không đủ, mà phải đánh giá từ chủ trương chiến lược rất tài giỏi của Bộ Chính trị kéo quân Mỹ ra và kìm chúng lại trên Đường số 9 từ trong năm 1966 - 1967”.
Trên cơ sở những thắng lợi đã đạt được trong hai cuộc phản công mùa khô 1965-1966 và 1966-1967 và từ những phân tích, đánh giá khách quan, khoa học tình hình chiến trường, tương quan lực lượng địch - ta, Hội nghị Bộ Chính trị (12-1967) và Hội nghị Trung ương lần thứ 14 (01-1968) đã quyết định chuyển cuộc chiến tranh cách mạng miền Nam sang một thời kỳ mới - thời kỳ giành thắng lợi quyết định. Nhiệm vụ quan trọng đặt ra lúc này là “Động viên những nỗ lực cao nhất của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ở cả hai miền, đưa cuộc chiến tranh cách mạng ở nước ta lên một bước phát triển cao nhất, bằng phương pháp tổng công kích, tổng khởi nghĩa để giành thắng lợi quyết định”. Vì thế, kế hoạch tác chiến xác định chiến trường trọng điểm là Sài Gòn - Gia Định, Đà Nẵng và Huế; hướng phối hợp chiến lược quan trọng là Đường 9 - Khe Sanh nhằm thu hút, giam chân lực lượng chiến lược của địch. 
Các nhà quân sự Mỹ cho rằng: Khe Sanh “là cái mỏ neo ở phía Tây hệ thống phòng thủ Nam khu phi quân sự, là bàn đạp cho các cuộc hành quân trên bộ của quân Mỹ và quân đội Sài Gòn để cắt đường mòn Hồ Chí Minh”. Nơi đây, có vị trí chiến lược rất quan trọng nên Mỹ đã xây dựng một thế trận khá vững chắc gồm 3 khu vực phòng ngự liên hoàn, lấy Đường 9 làm trục và tập trung binh lực khá lớn, khoảng 45.000 tên, trong đó có 28.000 lính Mỹ, gồm 10 tiểu đoàn bộ binh và lính thủy đánh bộ, 9 tiểu đoàn pháo binh, 3 tiểu đoàn và 1 đại đội cơ giới. Với việc bố trí thế trận và binh lực mạnh như vậy, Mỹ và chính quyền Sài Gòn cho rằng sẽ tạo được tuyến phòng thủ vững chắc, ngăn chặn sự xâm nhập của đối phương trên vùng giáp ranh. Nhận thấy lực lượng địch trên Đường 9 khá đông và có chiều hướng ngày càng gia tăng, nên nếu ta đánh mạnh, cắt đứt được tuyến giữa (đoạn từ Tân Lâm đi Cà Lu), Khe Sanh xem như bị cô lập hoàn toàn về đường bộ và khi bị tổn thất nhiều về lực lượng thì chắc chắn chúng sẽ tăng cường lớn quân Mỹ đến ứng cứu, khả năng thu hút quân Mỹ trên khu vực này là rất cao. Khi đó, ta sẽ thực hiện được ý định tổng tiến công vào nội đô, kéo địch ra và giam chân chúng tại Khe Sanh.
Từ nhận định đó, ngày 31-12-1967, Hội nghị Đảng ủy Bộ Tư lệnh Chiến dịch đã quyết định sử dụng lực lượng trên hai hướng: hướng Tây (Khe Sanh) do các sư đoàn 304 và 325 đảm nhiệm; hướng Đông (gồm một phần Cam Lộ và các xã phía Đông Đường 1) do Sư đoàn 320B và 3 trung đoàn của Sư đoàn 324 đảm nhiệm; trong đó, hướng Tây là hướng tiến công chủ yếu của Chiến dịch. Bộ Tư lệnh cũng dự kiến, trong quá trình diễn biến Chiến dịch tùy tình hình có thể hướng Đông sẽ thành hướng chủ yếu. Đây là nét đặc sắc trong nghệ thuật xác định khu vực tác chiến chủ yếu để tạo khả năng thực hiện đòn nghi binh chiến lược hiệu quả. Bởi lẽ, xét về tương quan lực lượng lúc đó, địch có ưu thế gần như tuyệt đối về vũ khí, phương tiện chiến tranh, nhất là về không quân và thiết giáp, nên ta đã chọn khu vực phía Tây - khu vực rừng núi (Khe Sanh) là để hạn chế  chỗ mạnh, khoét sâu chỗ yếu của địch và quan trọng hơn, đây còn là khu vực “nhạy cảm” đối với địch về chiến lược để ta có thể thu hút, kiềm chế và diệt địch. Trong khi đó, ở hướng Đông, địch không chỉ tăng cường phòng bị, mà còn thiết lập được hệ thống cứ điểm phòng ngự khá liên hoàn, vững chắc. Hơn nữa, đây cũng là hướng mà địch có khả năng phát huy được thế mạnh của chúng về xe tăng - thiết giáp, không quân, pháo binh. Vì thế, ta chọn phía Tây (Khe Sanh) làm khu vực tác chiến chủ yếu là nhằm đánh vào nơi địch yếu hơn so với khu vực khác nhưng  lại là địa bàn chiến lược hiểm yếu, quan trọng.

Thực tế chiến trường đã diễn ra đúng như nhận định của Bộ Tư lệnh Chiến dịch và khi thung lũng Khe Sanh bị bao vây đã thấp thoáng một “Điện Biên Phủ” thứ hai đối với Mỹ, dẫn đến sự thất bại của địch là không thể tránh khỏi.

Theo quy định và kế hoạch được Bộ Chính trị thông qua, “chiến dịch tiến công Đường số 9 - Khe Sanh phải nổ súng trước 15 ngày để vừa tiêu diệt địch, vừa nghi binh, kiềm chế thu hút lực lượng lớn quân Mỹ ra mặt trận này”.

Mặc dù Mỹ đã phát hiện được sự di chuyển nhiều đơn vị chủ lực hướng về khu vực Đường 9 - Khe Sanh, nhưng tướng Westmoreland - Tư lệnh Quân đội Mỹ nhận định: đối phương có thể sẽ mở một cuộc tiến công rộng lớn trên khắp Nam Việt Nam, thậm chí có thể nhằm vào cả đô thị, nhưng mục tiêu chủ yếu sẽ là chiếm căn cứ chính của quân Viễn chinh tại Khe Sanh (tây bắc Quảng Trị), sau đó chiếm giữ hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên, tạo lợi thế bước vào thương lượng. Như vậy, cho đến trước khi chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh nổ súng, địch vẫn chưa phán đoán đúng ý định chiến lược của ta.

Khi mọi sự chú ý của địch đổ dồn vào Khe Sanh, thì lực lượng vũ trang giải phóng bất ngờ mở cuộc tiến công vào hầu khắp các đô thị trên toàn miền Nam (đêm Giao thừa Tết Mậu Thân 1968), đánh thẳng vào các cơ quan đầu não của Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Chiến dịch Đường 9 - Khe Sanh đã góp phần làm lạc hướng phán đoán của địch, tạo điều kiện thuận lợi cho quân và dân ta ở các mặt trận khác áp sát tiến công địch, đặc biệt trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, đã làm đảo lộn các kế hoạch chiến tranh của chính quyền Tổng thống Giôn-xơn và gây ra sự phản ứng dữ dội trong công chúng Mỹ.

Rõ ràng đòn tiến công Khe Sanh đã tạo yếu tố bí mật, bất ngờ tuyệt đối cho cuộc Tổng tiến công Tết Mậu Thân, bịt mắt hoàn toàn các cơ quan tình báo Mỹ và Sài Gòn. Đó là một đòn nghi binh chiến lược cực kỳ xuất sắc và thành công của ta. Cuộc Tổng tiến công làm sôi động cả miền Nam và nước Mỹ, khiến cho Tổng thống Giôn-xơn và quân Mỹ trên chiến trường miền Nam “sững sờ, choáng váng”.                                                

                                                                     ***
 
       Mười ngày sau khi mở cuộc tấn công mạnh vào Khe Sanh (20-1-1968) nhằm thu hút số lớn lực lượng Mỹ - Ngụy vào vùng hẻo lánh nhưng quan trọng này, vào đêm 30 rạng sáng ngày 31-1-1967, quân dân miền Nam mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt, đánh vào 5 trong 6 thành phố lớn, 37 thị xã trong 44 tỉnh lỵ ở miền Nam và hàng trăm thị trấn, quận lỵ, căn cứ địch, giáng đòn sấm sét xuống đầu Mỹ - Ngụy. Cuộc tổng công kích này được tiến hành làm 3 đợt: đợt I diễn ra từ 30-1-1968 đến 28-3-1968, đợt II từ 5-5-1968 đến 18-6-1968, đợt III từ 17-8-1968 đến 30-8-1968.
 

Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 nổ ra đúng đêm giao thừa Tết Mậu Thân 1968 (ngày 30 và 31/1/1968) trên toàn chiến trường miền Nam, đặc biệt ở Sài Gòn, Huế. Suốt từ vĩ tuyến 17 đến Cà Mau, các lực lượng vũ trang quân Giải phóng bất ngờ tiến công rộng khắp vào 6 thành phố lớn, 44 thị xã, hàng trăm quân lỵ, chiếm một số nơi, phát động quần chúng nổi dậy, đập tan bộ máy cơ sở của chế độ Sài Gòn ở nhiều vùng nông thôn. Hiệu lệnh mở màn là bài thơ chúc Tết của chủ tịch Hồ Chí Minh: 

                                      "Xuân này hơn hẳn mấy Xuân qua,
                                       Thắng trận tin vui khắp nước nhà,
                                    Nam Bắc thi đua đánh giặc Mỹ,
                                       Tiến lên! Toàn thắng ắt về ta."

                                    Trận Bà Chiêm, Tây Ninh, ngày 2/1/1968, quân giải phóng đã tiêu diệt tểu đoàn 3, lữ 1, sư đoàn bộ binh số 1 của Mỹ. (Ảnh tư liệu TTXVN) 
Trận Bà Chiêm, Tây Ninh, ngày 2/1/1968, quân giải phóng đã tiêu diệt tểu đoàn 3, lữ 1, sư đoàn bộ binh số 1 của Mỹ. (Ảnh tư liệu TTXVN)
                                     Nữ du kích Dầu Tiếng trong những ngày Tổng tiến công và nổi dậy 1968. (Ảnh tư liệu TTXVN)  
Nữ du kích Dầu Tiếng trong những ngày Tổng tiến công và nổi dậy 1968. (Ảnh tư liệu TTXVN)
                                      Vào lúc 6 giờ 15 phút ngày 31/1/1968, lá cờ của Liên minh các lực lượng dân chủ và Hoà bình Việt Nam được kéo lên cột cờ toà Tỉnh trưởng Thừa Thiên-Huế. (Ảnh tư liệu TTXVN) 
Vào lúc 6 giờ 15 phút ngày 31/1/1968, lá cờ của Liên minh các lực lượng dân chủ và Hoà bình Việt Nam được kéo lên cột cờ toà Tỉnh trưởng Thừa Thiên-Huế. (Ảnh tư liệu TTXVN)
                                     Các chiến sỹ giải phóng quân chuẩn bị tiến vào Huế (1968). (Ảnh tư liệu TTXVN)  
Các chiến sỹ giải phóng quân chuẩn bị tiến vào Huế (1968). (Ảnh tư liệu TTXVN)
                                     Xe tăng Mỹ bị quân giải phóng đánh, chiếm những ngày đầu 1968. (Ảnh tư liệu TTXVN)  
Xe tăng Mỹ bị quân giải phóng đánh, chiếm những ngày đầu 1968. (Ảnh tư liệu TTXVN)
                                     Chiến sỹ giải phóng quân Trị Thiên, Huế nghiên cứu sa bàn chuẩn bị đánh tiểu đoàn 7 thiết giáp Nguỵ ở Tam Thai, Huế ngày 31/1/1968. (Ảnh tư liệu TTXVN)  
Chiến sỹ giải phóng quân Trị Thiên, Huế nghiên cứu sa bàn chuẩn bị đánh tiểu đoàn 7 thiết giáp Nguỵ ở Tam Thai, Huế ngày 31/1/1968. (Ảnh tư liệu TTXVN)
                                    Chiến sỹ giải phóng quân Trị Thiên, Huế nghiên cứu sa bàn chuẩn bị đánh tiểu đoàn 7 thiết giáp Nguỵ ở Tam Thai, Huế ngày 31/1/1968. (Ảnh tư liệu TTXVN)  
Chiến sỹ giải phóng quân Trị Thiên, Huế nghiên cứu sa bàn chuẩn bị đánh tiểu đoàn 7 thiết giáp Nguỵ ở Tam Thai, Huế ngày 31/1/1968. (Ảnh tư liệu TTXVN)
                                    Đồng bào huyện Châu Thành, Tây Ninh tải đạn và lương thực ra tiền tuyến (1968). (Ảnh tư liệu TTXVN)  
Đồng bào huyện Châu Thành, Tây Ninh tải đạn và lương thực ra tiền tuyến (1968). (Ảnh tư liệu TTXVN)
                                   Nữ du kích canh gác bên dòng Ô Lâu, Thừa Thiên, Huế(1968). (Ảnh tư liệu TTXVN)  
Nữ du kích canh gác bên dòng Ô Lâu, Thừa Thiên, Huế(1968). (Ảnh tư liệu TTXVN)
                                   Quân giải phóng đáng chiểm từng ngôi nhà trong thành phố Sài Gòn (1968). (Ảnh tư liệu TTXVN)  
Quân giải phóng đáng chiểm từng ngôi nhà trong thành phố Sài Gòn (1968). (Ảnh tư liệu TTXVN)
                                   Quân giải phóng truy kích địch trong trận tiến công ngày 2/1/1968 tại khu vực Bà Chiêm, Tây Ninh. (Ảnh tư liệu TTXVN)  
Quân giải phóng truy kích địch trong trận tiến công ngày 2/1/1968 tại khu vực Bà Chiêm, Tây Ninh. (Ảnh tư liệu TTXVN)
 
       Theo đánh giá của phía Mỹ, có luồng ý kiến chủ yếu là giới cầm quyền như Oétmolen, Bâncơ (Bunker), Kitxingo (Kissinger)… cho rằng “cuộc tiến công Tết là một sự thất bại to lớn về quân sự của Cộng sản, về mặt tâm lý thì là một sự đảo ngược có tính quyết định”. Họ dẫn giải: “… họ (tức Việt Cộng) đã bị tiêu hao lực lượng tinh túy nhất của họ. Sự suy thoái một cách nhanh chóng về số quân đưa vào Nam trong mùa xuân và mùa hạ cùng với các yêu cầu cấp bách về nhân lực để chống lụt ở miền Bắc là sự chứng minh cụ thể về những khó khăn mà chính quyền Hà Nội đã vướng phải sau khi mất quân năm 1968…”. Tuy nhiên số đông ý kiến nghiêng về phía nhìn nhận sự thất bại của Mỹ. Mắcxoen Taylo cho biết: “Những tin tức chính thức từ Việt Nam phát đi sau cuộc tiến công (tức là tin nói rằng Cộng sản bị thất bại về quân sự) không làm ai tin cả mà còn bị lên án như định che dấu, biện bạch cho kẻ phản bội hoặc không được để ý đến”. Leslie Gelb và Richard H. Betts cũng nói: cuộc tiến công Tết là “bước rẽ trên đường đi”, là “một đòn chí mạng đánh vào chính sách kiên trì của Hoa Kỳ, bắt buộc Giônsơn phải xem lại chính sách đó”, là “ một chiến thắng có tính chất quyết định của Cộng Sản”, “Về chính trị, đây là một đòn sấm sét, một thắng lợi vô cùng to lớn, họ đã làm sụp đổ sự tín nhiệm đối với Giônsơn”. Mc Carthy nói một cách hài hước: “nếu chiếm một phần lớn sứ quán Mỹ, một phần thành phố Huế, Đà Lạt và các tỉnh lớn khác ở Vùng 4 có nghĩa là thất bại hoàn toàn thì theo kiểu lôgic đó, tôi cho rằng nếu Việt Cộng chiếm toàn miền Nam, chính quyền sẽ tuyên bố họ (Việt Cộng) sụp đổ hoàn toàn.”.
                            
Tuy nhiên, bên cạnh những thành công, quân Giải phóng cũng mắc phải những sai lầm trong kế hoạch tác chiến. Trong việc lập kế hoạch cho cuộc tổng tiến công, họ đã có những đánh giá không đúng với thực tế tình hình và duy ý chí. Kế hoạch trên dựa trên nhận định thấp về khả năng của đối phương và đánh giá quá cao khả năng của họ, nên Quân Giải phóng đã phải chịu thương vong lớn. Một số tướng lĩnh của Hoa Kỳ dự đoán trước đó rằng cuộc tấn công của Quân Giải phóng sẽ không nhận được sự ủng hộ của người dân. Tuy nhiên, theo quan sát của giới báo chí trên chiến trường, diễn biến của các đợt tấn công đã chứng minh điều ngược lại. Trong việc lập kế hoạch tiến công Mậu Thân 1968, các cấp chỉ huy chiến đấu của Quân Giải phóng miền Nam đã không tách bạch đâu là mục tiêu chính trị thực chất của cuộc tiến công và đâu là mục tiêu được phổ biến rộng rãi trong quân để cổ vũ khí thế chiến đấu. Mục tiêu thực chất là đánh lớn gây tiếng vang hướng tới dư luận và chính giới Mỹ để buộc đối phương xuống thang, đàm phán. Còn mục tiêu được phổ biến tuyên truyền trong cán bộ binh sĩ để nâng cao sĩ khí là trận cuối cùng "đánh dứt điểm" đối phương. Các cán bộ chiến trường khi lập kế hoạch tác chiến cũng tin tưởng vào quyết tâm đánh dứt điểm của cấp trên nên họ lập kế hoạch và tiến hành đánh theo kiểu trận đánh cuối cùng. Điều sai lầm nữa cho Quân Giải phóng là họ đã không linh hoạt thay đổi tuỳ theo tình hình. Khi thấy chưa đạt được mục tiêu trong đợt tấn công đầu tiên họ đã phát động tiếp đợt 2 vào tháng 5, đợt 3 vào tháng 8 khi mà kế hoạch đã bại lộ và đối phương đã đề phòng và chuẩn bị đón đánh, làm cho thiệt hại của họ càng lớn. 
 
                                                  
                                                Bản đồ các cuộc tấn công trong sự kiện Mậu Thân.
 
                           
                1 trung đội quân chủ lực của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam năm 1968


        Nếu đánh giá thật khách quan thì, theo ý kiến chúng ta, trong chiến dịch Mậu Thân, chỉ nên thực hiện đợt I và đợt II. Vì chỉ với hai đợt tấn công đó cùng với chiến thắng Khe Xanh, Quân Giải phóng cũng đạt được những mục tiêu chính trị đề ra theo như ý Lê Duẩn. Xét riêng trên lĩnh vực quân sự thuần túy, tổng tiến công tết Mậu Thân không phải là một chiến thắng đúng nghĩa và thiếu tính nhân đạo vì nó đã được tiến hành một cách duy ý chí, không đến nơi đến chốn và nặng ảo tưởng về một cuộc nổi dậy cướp chính quyền của quần chúng cách mạng! Không khí sục sôi cách mạng của quần chúng trong những ngày của tháng 8 - 1945 đã qua lâu rồi!
      Nhưng trên bước đường đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc, sự vấp váp, phán đoán sai lầm gây nên tổn thất là chuyện thông cảm được!...
       Theo thượng tướng Trần Văn Trà (trong bài viết “Tết Mậu Thân - Chiến công hiển hách” của ông) thì trận tổng công kích ấy “là một sự kiện lịch sử lớn, là một cái mốc chiến lược quan trọng của cuộc chiến tranh thần thánh (của nhân dân Việt Nam)”, nó thực sự hiển hách dù “Rất tiếc rằng những công tác chuẩn bị theo kế hoạch này không được liên tục tiến hành trong những năm, 1966-1967 theo yêu cầu thiết thân của chiến trường vì trên cho rằng hãy tập trung lo đánh Mỹ đã. Vì vậy, đến khi có Nghị quyết Bộ chính trị quyết định tổng công kích - tổng khởi nghĩa thì chiến trường như bị bất ngờ, vội vàng giở lại kế hoạch cũ và khẩn trương duyệt lại mọi mặt, tiếp tục hoàn thành một khối lượng công tác lớn lao trong vòng 3 tháng… Lực lượng Đảng lãnh đạo và tổ chức quần chúng nội thành còn yếu, Trung ương cục phải điều động từ các tỉnh đồng bằng để tăng cường trực tiếp những nơi quan trọng… Có một trục trặc “kỹ thuật” trong việc hợp đồng chiến lược: ở chiến trường Trị Thiên và khu 5 (bao gồm Tây Nguyên) đánh trước chiến trường B2 (gồm Nam Trung Bộ và Nam Bộ) 24 tiếng đồng hồ. Sở dĩ như vậy vì B2 theo âm lịch cũ… còn khu 5 và Trị Thiên được Trung ương trực tiếp chỉ đạo thì theo âm lịch mới tại Hà Nội đã tính toán lại cho đúng hơn… Với 24 tiếng đồng hồ ấy, địch đã kịp thời thông báo đi khắp nơi để phòng bị, chống lại cuộc tiến công… trọng điểm số 1 là thủ đô Sài Gòn của Ngụy, đáng lý được giành ưu tiên đã không còn hoàn toàn, và tất nhiên có gây thêm khó khăn cho người tiến công về mặt chiến thuật. Về hợp đồng chiến lược, trong toàn miền nổ súng trước sau một ít ngày vẫn là một cuộc hợp đồng tuyệt diệu. Chúng ta đã đưa cuộc chiến tranh vào khắp hậu phương địch, vào tận hang ổ đầu não của Mỹ - Ngụy”. Cũng theo Thượng tướng Trần Văn Trà, do “lực lượng đã bị tiêu hao không bổ sung kịp thời kể cả quân số lẫn đạn dược, Trung ương cục và Bộ chỉ huy Miền đã ra lệnh kết thúc thời kỳ Tổng công kích tổng khởi nghĩa mà không tổ chức đợt IV nữa”.
                         
                              Một máy bay A-6 của Mỹ bị phá hủy tại sân bay Đà Nẵng
                                    https://upload.wikimedia.org/wikipedia/commons/4/4c/SaigonTet1968.jpg 
                                                        Một góc Sài gòn với những cột khói
                                    
 
Quang cảnh bên ngoài Đại sứ quán Hoa Kỳ khi đang bị biệt động Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam đột kích.
                                    
Súng không giật 106mm của Mỹ bắn đạn đinh có sức sát thương và phá hủy hàng loạt rất cao 
                       
          Thủy quân lục chiến Mỹ được xe tăng M48 Patton yểm trợ tấn công vào Huế
            
         Một góc thành phố Huế bị tàn phá trơ trụi. Ảnh chụp từ máy bay Mỹ
                                                 Quân Mỹ thương vong trong trận Mậu Thân
                
                              Xác quân Giải phóng trong Trận Mậu Thân
             
                       Một lính Mỹ bị thương tại Sài Gòn vào tháng 5
             
Căn cứ Khâm Đức bị quân Giải phóng tiêu diệt trong trận đánh từ ngày 10 đến 12-5

     
                         Quân Giải phóng vận động tiến công
           Một chiếc RF-4C bị phá hủy tại sân bay
 
     Tướng cảnh sát miền Nam Nguyễn Ngọc Loan (1930 - 1998) bắn chết tù binh trên đường phố
Cuộc tổng tiến công và nổi dậy đồng loạt năm 1968; bắt đầu từ Tết Mậu Thân của quân dân miền Nam đã thu được chiến quả:
- Giết, làm bị thương và bắt sống 63000 tên địch (có hơn 23000 tên Mỹ và chư hầu), làm tan rã hàng chục vạn quân Ngụy.
- Bắn rơi, phá hủy, làm khoảng 6000 máy bay các loại.
- Phá hủy, làm hỏng 13500 xe quân sự (có hơn 7000 xe tăng và xe bọc thép).
- San bằng, bức rút, bức hàng hơn 1500 đồn bốt và chi thu quân sự.
- Giành quyền làm chủ hoàn toàn nhiều xã, ấp gồm hơn 2 triệu dân (riêng miền Tây lúc đó đã giành quyền làm chủ 88 xã và gần 2000 ấp và với 1,5 triệu dân).
Đặc biệt, cuộc tổng tiến công và nổi dậy đó đã đánh gục hoàn toàn ý chí leo thang chiến tranh của chính quyền Giônsơn. Trong bức điện của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi đồng bào miền Nam ngày 4-2-1968 có đoạn: “Thắng lợi đầu xuân của quân và dân miền Nam đã đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của toàn dân ta đến một tình thế mới rất có lợi. Không có gì cứu vãn nổi sự sụp đổ hoàn toàn của giặc Mỹ và tay sai.”
Quân giải phóng miền Nam thiệt hại trong năm 1968:
 Chết 44.824
 Bị thương 61.267
 Mất tích 4.511
 Bị bắt 912
 Đi lạc 1.265
 Đầu hàng 416    
 Tổng số  113.295





     


         Sau Tổng tiến công Mậu Thân, Quân Giải phóng bị đánh bật khỏi các đô thị: Các đơn vị quân sự chịu thương vong lớn, nhiều lực lượng chính trị nằm vùng ở đô thị bị bộc lộ và bị triệt phá, thương vong cao hơn hẳn những năm trước. Thậm chí đã có ý kiến trong giới lãnh đạo Quân Giải phóng là cho giải tán các đơn vị cỡ sư đoàn, quay trở về lối đánh cấp trung đoàn trở xuống. Họ tránh giao chiến lớn tại miền Nam và rút lui về các chiến khu tại vùng nông thôn, miền núi hoặc đi ẩn náu tại bên kia biên giới Lào và Campuchia, phải tới năm 1970 lực lượng của họ mới hồi phục lại được. Tình thế chiến trường yên tĩnh hơn giúp Quân lực Việt Nam Cộng hòa có thời gian bổ sung lại những thiệt hại lớn trong năm 1968, đồng thời tiến hành các chiến dịch bình định nông thôn, đặc biệt là chiến dịch Phượng hoàng nhằm triệt phá phong trào chính trị của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam ở nông thôn và thành thị. Đó là cơ sở để giới quân sự Mỹ và Việt Nam Cộng hòa cho rằng cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân đã thất bại.
                                      
Trang bìa cuốn "Huấn thị điều hành căn bản Kế hoạch Phụng Hoàng" Tập số 3, bản kín (mật) số hiệu 2211

Tờ bướm tuyên truyền của chính quyền Việt Nam Cộng hòa về chiến dịch

       Mặt khác, Quân Giải phóng cũng có cơ sở để cho rằng Mậu Thân 1968 là một thắng lợi chiến lược trong chiến tranh của họ, bởi họ đã đánh bại ý chí xâm lược của Mỹ và buộc Mỹ ngồi vào bàn đàm phán, công nhận Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam có vị thế ngang với Việt Nam Cộng hòa (tình trạng miền Nam tồn tại song song hai chính quyền), bắt buộc Mỹ phải xuống thang và bắt đầu rút khỏi Việt Nam. Lực lượng quân Giải phóng suy yếu thì sẽ hồi phục lại, còn Mỹ một khi đã ra đi thì khó mà trở lại được.
       Cuộc tổng tiến công đã làm dư luận Mỹ thấy rằng việc đưa quân tham chiến với nỗ lực cao đã gây căng thẳng quá mức trong xã hội Mỹ, kinh tế giảm sút, gây nhiều hệ lụy xấu cho xã hội... mà vẫn không dứt điểm được đối phương. Chiến tranh kéo dài không biết đến bao giờ mới kết thúc. Điều này đưa đến kết luận là Mỹ không thể thắng được trong cuộc chiến này. Các chính trị gia trong Quốc hội Mỹ gây sức ép lên chính phủ đòi xem xét lại cam kết chiến tranh, đòi hủy bỏ ủy quyền cho chính phủ tiến hành chiến tranh không cần phê chuẩn, thúc ép giải quyết chiến tranh bằng thương lượng. 

                                  
Một phụ nữ 21 tuổi đang hấp hối sau khi bị lính Thủy quân Lục chiến Nam Triều (Hàn Quốc) cắt vú tại làng Phong Nhi, tỉnh Quảng Nam, Việt Nam ngày 12 tháng 2 năm 1968
 
Ngày 8-2-1968, R. Kenedy (em trai cố tổng thốngKennedy) đã đọc một bài diễn văn. Có đoạn: “Đối phương của chúng ta đang tự do đánh phá trên khắp miền Nam Việt Nam và cuối cùng họ đã phá vỡ chiếc mặt nạ ảo tưởng mà chúng ta đã dùng để che dấu tình hình thực sự của chúng ta, thâm chí đối với chính chúng ta”.
       Quy mô của cuộc tiến công làm dư luận Hoa Kỳ mất kiên nhẫn và sự tin tưởng với giới quân sự, họ đòi chấm dứt chiến tranh và rút quân về nước. Một mặt họ thiếu niềm tin vào hiệu quả của quân đội, mặt khác, các hành động bạo liệt mất nhân tính được trình chiếu trên TV đánh vào lương tâm công chúng. Họ đòi hỏi phải chấm dứt chiến tranh ngay lập tức. Họ coi chiến tranh là bẩn thỉu.
Nói về thất bại của Mỹ, rõ ràng hơn là trích dẫn lời nói của chính Giônsơn trong hồi ký của ông ta: “Kết thúc năm 1968, sau nhiều năm tiến hành cuộc chiến tranh gay cấn nhất ở Việt Nam, tôi thực sự không tin mình có thể sống sót nếu ở lại Nhà Trắng một nhiệm kỳ nữa, vì tình hình đen tối của chúng ta (tức Mỹ) ở Việt Nam đã làm tôi phải căng thẳng suốt 1.886 đêm, ít khi được ngủ trước 2 giờ sáng”
Cơlipphớt được Giônsơn bổ nhiệm làm Bộ trưởng quốc phòng thay Mắc Namara từ ngày 1-3-1968, kể: “Tôi sửng sốt khi nhận ra rằng chúng ta không có kế hoạch quân sự nào để thắng cuộc chiến. Chúng ta trông đợi cuối cùng địch sẽ kiệt quệ trầm trọng vì bị tiêu hao đến độ rồi họ sẽ đầu hàng. Và đấy là chính sách của chúng ta trong cuộc chiến tranh”, “thế rồi tôi trình bày quan điểm cá nhân của tôi cho tổng thống Giônsơn rằng tôi thấy rõ ràng là một đường lối mà Hoa Kỳ nên áp dụng là rút khỏi Việt Nam. Hoa Kỳ chính là kẻ thất bại thực sự”.
        Ngay các nhà lãnh đạo chính phủ Hoa Kỳ cũng chia rẽ trong quan điểm sẽ làm gì tiếp theo. Các cố vấn hàng đầu của tổng thống và ngay Tổng thống Johnson thoái chí đi đến kết luận không thể tăng quân thêm nữa theo yêu cầu của giới quân sự mà phải xuống thang, đàm phán. Johnson cách chức Bộ trưởng quốc phòng McNamara và tướng Westmoreland, tổng chỉ huy quân Mỹ tại Việt Nam, bản thân ông cũng tuyên bố sẽ không ra tranh cử nhiệm kỳ tiếp theo.
Tổng thống Giônsơn “bị kinh ngạc vì cuộc tiến công Tết của địch và bối rối vì trận Khe Sanh”, đã “tỏ ra mệt mỏi và tư thế bắt đầu chao đảo” (Một quân nhân tường trình). Còn Oétmolen, trong nỗi ám ảnh về một Điện Biên Phủ ở Khe Sanh, lại choáng váng bởi đòn tổng tấn công bất ngờ Tết Mậu Thân của Việt Cộng, đã hốt hoảng, mất bình tĩnh tới mức đòi có ngay thêm 206.000 quân trong khi các lực lượng sẵn sàng tác chiến của Mỹ đã bị “vét tận đáy” và nông nổi tới mức đề nghị sử dụng cả bom nguyên tử chiến thuật là điều không thể thực hiện được trong cuộc chiến tranh mà quân lực hai bên xen kẽ nhau, không phân rõ trận tuyến, càng không thực hiện được về mặt chính trị. Thế là Giônsơn cay đắng cách chức luôn Oétmolen, xuống thang chiến tranh và sau đó rút lui khỏi chính trường Mỹ. Báo chí Mỹ, trước kia ca ngợi Oétmolen bao nhiêu thì lúc này lại chỉ trích bấy nhiêu, chê là “một người cầm quân hữu dũng vô mưu”, “làm cả một việc rất trái khoáy” là điều  động lính thủy đánh bộ chuyên tác chiến ở vùng đồng bằng ven biển “lên tận vùng núi rừng nhiệt đới, căng nọc ra ăn đạn pháo của quân đội Bắc Việt”. Báo chí Mỹ còn nhận xét mỉa mai, đây là lần đầu tiên trong lịch sử Hoa Kỳ có một vị đại tướng “ngày 28-4-1967 vừa được Quốc hội Mỹ long trọng tuyên dương công trạng thì đến ngày 23-3-1968 đã bị cách chức tư lệnh chiến trường và phải ra điều trần trước Quốc hội”, đồng thời “một Tổng thống kiêm Tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang nước Mỹ phải “tự cách chức” giữa lúc chiến tranh đang tiếp diễn”.
Sau này, trong hồi ký của mình, Oétmolen tìm cách đổ vấy rằng vì Lầu Năm Góc và Nhà Trắng mà ông ta thua trận, và còn nói: “Tôi không có gì phải ân hận. Tôi là người mà ai cũng nhòm ngó. Cuộc chiến tranh đã làm mất lòng dân khá nhiều; không cần phải nói, rất nhiều điều của cuộc chiến đó được qui cho tôi. Là một người lính thì phải chuẩn bị đương đầu với sự gian khổ của chiến tranh. Ở cương vị tôi, tôi đã gánh lấy vết nhơ của nó”.
Ngày 8-2-1968, R. Kenedy (em trai cố tổng thốngKennedy) đã đọc một bài diễn văn. Có đoạn: “Đối phương của chúng ta đang tự do đánh phá trên khắp miền Nam Việt Nam và cuối cùng họ đã phá vỡ chiếc mặt nạ ảo tưởng mà chúng ta đã dùng để che dấu tình hình thực sự của chúng ta, thâm chí đối với chính chúng ta”.
Nói về thất bại của Mỹ, rõ ràng hơn là trích dẫn lời nói của chính Giônsơn trong hồi ký của ông ta: “Kết thúc năm 1968, sau nhiều năm tiến hành cuộc chiến tranh gay cấn nhất ở Việt Nam, tôi thực sự không tin mình có thể sống sót nếu ở lại Nhà Trắng một nhiệm kỳ nữa, vì tình hình đen tối của chúng ta (tức Mỹ) ở Việt Nam đã làm tôi phải căng thẳng suốt 1.886 đêm, ít khi được ngủ trước 2 giờ sáng”
Cơlipphớt được Giônsơn bổ nhiệm làm Bộ trưởng quốc phòng thay Mắc Namara từ ngày 1-3-1968, kể: “Tôi sửng sốt khi nhận ra rằng chúng ta không có kế hoạch quân sự nào để thắng cuộc chiến. Chúng ta trông đợi cuối cùng địch sẽ kiệt quệ trầm trọng vì bị tiêu hao đến độ rồi họ sẽ đầu hàng. Và đấy là chính sách của chúng ta trong cuộc chiến tranh”, “thế rồi tôi trình bày quan điểm cá nhân của tôi cho tổng thống Giônsơn rằng tôi thấy rõ ràng là một đường lối mà Hoa Kỳ nên áp dụng là rút khỏi Việt Nam. Hoa Kỳ chính là kẻ thất bại thực sự”.
          Kết quả là ngày 31 tháng 3 năm 1968, lần đầu tiên kể từ đầu cuộc chiến, chính phủ Hoa Kỳ buộc phải xuống thang chiến tranh. Tổng thống Lyndon B. Johnson tuyên bố chấm dứt ném bom miền Bắc Việt Nam, sẵn sàng đàm phán để chấm dứt chiến tranh, không tăng thêm quân theo yêu cầu của Bộ chỉ huy chiến trường, và từ chối tranh cử nhiệm kỳ tới. Tân tổng thống Richard M. Nixon, thắng cử vì hứa chấm dứt chiến tranh, tuyên bố sẽ dần rút quân về nước và đàm phán với Quân Giải phóng. Chiến lược Chiến tranh cục bộ được kỳ vọng sẽ đem lại chiến thắng cho Mỹ giờ bị loại bỏ. Vấn đề của Mỹ bây giờ không còn là chiến thắng cuộc chiến nữa mà là rút ra như thế nào.
Sự thật lịch sử do tác động to lớn của cuộc tổng tiến công và nổi dậy tạo ra được Trần Văn Trà tóm lược cũng trong “Tết Mậu Thân - chiến công hiển hách” như sau:
“Tiến công và nổi dậy tại chiến trường kết hợp chặt chẽ với đấu tranh ngoại giao và tất nhiên, kết quả của đấu tranh ngoại giao tùy thuộc hiệu quả chiến đấu tại chiến trường. Sau đợt I, gần 2 tháng sấm sét ở các đô thị miền Nam, tổng thống Mỹ cách chức Tư lệnh quân Mỹ Oétmolen và thay thế bằng Abram, phụ tá của Oétmolen; Chiến lược “Tìm và diệt” bị thay thế bằng chiến lược “Quét và giữ” phù hợp với chủ trương “Việt Nam hóa” và xuống thang chiến tranh. Ngày 31-3-1968, Giônsơn ra lệnh cho không quân hạn chế oanh tạc miền Bắc Việt Nam, tuyên bố: “Tôi sẽ không tìm cách và sẽ không chấp nhận việc Đảng đề cử tôi” (ra tranh cử Tổng Thống) và ngỏ ý với ta thương lượng hòa bình. Ngày 3-4, ta trả lời chấp nhận và hai bên bắt đầu trao đổi chọn địa điểm các cuộc họp cũng như thành phần các bên hòa đàm. Mỗi ngày trong chiến tranh không phải đi qua nhanh chóng và thường là cả trăm, cả ngàn người phải ngã xuống. Thế mà phải sau đợt II rồi đợt III, ngày 1-11-1968, Mỹ mới phải tuyên bố chấm dứt hoàn toàn các cuộc ném bom bắn phá miền Bắc Việt Nam và ngày 13-11, Bộ Ngoại giao Mỹ ra tuyên bố một cách lắt léo: “Hoa Kỳ tán thành họp 2 phía: Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hòa (Ngụy quyền) một bên, Bắc Việt nam với bất kỳ ai một bên”. Thật là đến lúc buộc phải ngậm bồ hòn mà nhận đối thủ còn cố tránh tiếng, nói “bất kỳ ai”, nếu ai đó không phải là người đã tung ra những đòn hiểm hóc nhớ đời. Ngày 10-12-1968, phái đoàn Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam đã đến Pari để dự cuộc đàm phán hòa bình 4 bên”.
Nói thêm về chiến dịch "Sấm rền":

Ngày 9 tháng 8 năm 1967, Ủy ban Quân vụ Thượng viện (Senate Armed Services Committee) mở cuộc điều trần về chiến dịch ném bom. Các phàn nàn của quân đội đã khơi sự chú ý của một vài trong số những người lớn tiếng nhất thuộc phe diều hâu tại Capitol Hill. Các chỉ huy quân đội trả lời các chất vấn của hội đồng, phàn nàn về bản chất từng bước của cuộc không chiến và các hạn chế do phe dân sự đặt ra. Rõ ràng, McNamara, quan chức dân sự duy nhất ra điều trần và người cuối cùng ra trả lời chất vấn của hội đồng, đã là vật tế thần. Vị Bộ trưởng quốc phòng đưa ra các phản đối của mình về một cuộc không chiến bừa bãi và đã bác bỏ thành công các lời buộc tội của các chỉ huy quân sự. Ông thẳng thắn thừa nhận rằng đã "không có cơ sở nào để tin rằng một chiến dịch ném bom nào hủy diệt Bắc Việt Nam và dân số của nó mà có thể buộc chính phủ Hồ Chí Minh khuất phục." 

Tổng thống Johnson đã thấy rõ rằng McNamara đã trở thành một trở ngại cho chính phủ. Tháng 2 năm 1968, McNamara từ chức và được thay thế bởi Clark Clifford, người đã luôn chống đối đề nghị của McNamara về việc ổn định quân số Mỹ tại Nam Việt Nam và chấm dứt chiến dịch Sấm Rền. Tuy nhiên lập trường của McNamara lại ngay lập tức được nối tiếp bởi Ngoại trưởng Dean Rusk, người mà trước đó vẫn ủng hộ chiến dịch ném bom. Rusk đề xuất giới hạn chiến dịch chỉ trong vùng cán xoong miền Trung mà không cần điều kiện tiên quyết và đợi phản ứng của Hà Nội. Trong vòng vài tháng, cả Clifford cũng bắt đầu có cách nhìn của người mà ông đã thay thế, ông đân dần trở nên tin tưởng rằng Mỹ phải rút ra khỏi một cam kết mở đối với cuộc xung đột.

               
                                                       F-4 Phantom

Thất vọng vì các thất bại chính trị trong nước và hy vọng rằng Hà Nội sẽ đi vào đàm phán, ngày 31 tháng 3 năm 1968, Tổng thống Johnson tuyên bố chấm dứt ném bom ở phía bắc vĩ tuyến 19. Kết quả của quyết định này là Không quân và Hải quân bắt đầu dồn toàn bộ hỏa lực mà trước đây họ rải khắp miền Bắc xuống khu vực giữa hai vĩ tuyến 19 và 17. Không quân tăng gấp đôi số lượt đánh phá khu vực 1, lên tới hơn 6000 lượt mỗi tháng, tập trung đánh chặn các "điểm cuống họng", cắt đường, và săn xe tải.. Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đáp lại bằng cách tăng gấp đôi số khẩu đội phòng không tại vùng cán xoong, nhưng hầu hết các khẩu đội SAM vẫn được giữ nguyên ở quanh Hà Nội và Hải Phòng.

Tuy trước đó liên tục tuyên bố rằng sẽ không đàm phán nếu vẫn bị ném bom, nhưng cuối cùng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng đồng ý gặp Mỹ tại Paris để bắt đầu đàm phán. Đáp lại, Tổng thống Johnson tuyên bố lệnh ngừng ném bom hoàn toàn miền Bắc sẽ có hiệu lực từ ngày 1 tháng 11 năm 1968, ngay trước cuộc bầu cử tổng thống Mỹ. Mặc dù việc ngừng ném bom được gắn với tiến triển của đàm phán hòa bình, Hội đồng tham mưu không tin rằng chính phủ sẽ lại mở chiến dịch ném bom do dù tình hình như thế nào. Họ đã đúng
Liên quan đến chiến dịch “Sấm rền” của Mỹ có biết bao nhiêu câu chuyện về tinh thần chiến đấu hy sinh, kiên cường bất khuất đến phi thường của quân dân miền Bắc Việt Nam. Tiêu biểu cho cái tinh thần ấy là tiếng hô dõng dạc của Nguyễn Viết Xuân trên trận địa pháo cao xạ trong chiến đấu dưới sự đánh phá của máy bay Mỹ: “Nhắm thẳng quân thù mà bắn!”; là những khẩu hiệu của một thời khói lửa: “Tiếng hát át tiếng bom”, “Đánh địch mà đi, mở đường mà tiến”… Trong vô số những câu chuyện đó, có một câu chuyện hết sức kỳ lạ: câu chuyện đứng vững một cách bền bỉ của cầu Hàm Rồng dưới mưa bom bão đạn của không lực Mỹ và đã trở thành biểu tượng của sự gan góc.
Ngay từ đầu, cầu Hàm Rồng (ở địa phận tỉnh Thanh Hóa) đã là mục tiêu quan trọng phải oanh kích của máy bay Mỹ vì đường giao thông huyết mạch 1A và đường xe lửa dọc theo biển Đông, theo hướng Bắc - Nam đều qua cây cầu thép này. Năm 1965 có 277 lần chiếc cất cánh đi đánh phá cầu Hàm Rồng, năm 1966 có 135 lần chiếc, năm 1967 là 204 lần chiếc. Hơn 1.250 tấn bom đã được thả xuống đó với 8 chiếc máy bay đã bị bắn rơi, nhưng cầu Hàm Rồng tuy có bị hư hại song vẫn cứ đứng trơ trơ ra đó và vẫn sử dụng được. Người ta có cảm giác rằng hình như đó là một mục tiêu không thể tiêu diệt nổi.
Thiếu tướng David C. Richardson, tư lệnh lực lượng đặc nhiệm 77 nói: “Đối phương từ lâu đã xây dựng nhiều đường vòng quanh cầu Hàm Rồng và chiếc cầu này đã giảm hẳn tầm quan trọng đối với nỗ lực cấm vận của Mỹ. Vì lý do đó, tôi liệt chiếc cầu này vào loại mục tiêu không được đánh và chỉ thỉnh thoảng mới thông qua những trận oanh tạc nó. Đối với các phi công của lực lượng đặc nhiệm 77 thì tầm quan trọng tâm lý của cây cầu đó đã vượt xa tầm quan trọng chiến thuật của nó. Mọi liên đội không quân Tây - Thái Bình Dương đều muốn được cái vinh dự đánh sập cầu Hàm Rồng và nó gây cho các phi công sự kích thích thực sự…!”.
Tháng 11-1966, đô đốc Richardson đồng ý cho thử lần cuối cùng đối với cầu Hàm Rồng, trước khi về nước. Người ta đã hy vọng chứa chan vào những báo cáo đầu tiên sau trận đánh về các cột khói, bụi che lấp mục tiêu đã mở ra khả năng là chiếc cầu tượng trưng của mạng lưới giao thông ở Bắc - Việt Nam cuối cùng rồi cũng bị hủy diệt. Đại tá Bill Houser đã vội vã trình cho Richardson một bản báo cáo lạc quan của phi công và kêu lên: “Chúng tôi đánh trúng cầu rồi!”. Nhưng thật không may cho ông này, những bức ảnh chụp sau đó cho thấy cầu Hàm Rồng vẫn đứng vững.
 
                                  Cầu Hàm Rồng cũ
                                                                     Cầu Hàm Rồng cũ


Tháng 1-1968, Mỹ tiến hành 5 cuộc đánh phá nữa vào chiếc cầu này. Ngày 28-1, những quả bom 900 kg đã rơi trúng cầu, mặt cầu bị 2 lỗ, trụ cầu ở đầu phía đông bị hư hại và đường lên cầu ở phía tây bị tắc. Nhưng cầu Hàm Rồng vẫn không sập và đến ngày 8-2-1968 nó lại được đưa vào sử dụng.
Theo W. Cagle thì đại tá W. B. Muncie có đưa ra một cách giải thích kỳ bí về sự bất diệt của cầu Hàm Rồng như thế này: Quả đất này gồm hai bán cầu khổng lồ hình elíp gắn với nhau bằng bản lề lò xo đâu đó ở dưới đáy vùng Nam - Đại Tây Dương, còn phía bên kia thì gài chắc bằng cầu Hàm Rồng; nếu như cầu này bị phá hủy thì thế giới sẽ bị bật mở, người và vật sẽ bị quăng cả vào đó và thế cân bằng của Vũ Trụ bị đảo lộn. Đó chính là nguyên nhân làm cho cầu Hàm Rồng trở thành một mục tiêu ở Bắc - Việt Nam mà không ai có thể tiêu diệt được…
                                                                         
                                                                       ***
Tháng 1-1969, khi tuyên thệ nhậm chức tổng thống Mỹ, Níchxơn (Nixon) đã có những lời lẽ hào nhoáng: “Tại đâu hòa bình còn mong manh, chúng ta sẽ làm cho hòa bình được củng cố. Tại đâu hòa bình chỉ tạm thời, chúng ta hãy làm cho hòa bình được vĩnh viễn!”. Nhưng đó thật ra chỉ là lời nói dối trơ tráo nhất của một con “diều hâu” khét tiếng chống cộng và đầy quỷ quyệt, có những thủ đoạn hết sức nhơ nhuốc, mà điển hình là vụ Oatơghết (đặt máy nghe trộm điện thoại đối với nhiều nhà báo và viên chức nhà nước; tổ chức lấy cắp tài liệu về kế hoạch vận động tranh cử của đối thủ; bị phát giác năm 1974).
Có lẽ cuộc tàn phá ghê sợ của không quân Mỹ ở Tôkiô và các thành phố lớn trên đất Nhật Bản bằng bom cháy và nhất là bằng 2 quả bom nguyên tử vẫn còn gây nỗi phấn khích trong tâm hồn và đồng thời cũng muốn bắt chước Aixenhao dọa dùng bom nguyên tử (đã đạt được hiệu quả) trong cuộc chiến Triều Tiên mà Níchxơn có lần đã nói với một người thân cận: “Tôi gọi nó là lý luận thằng điên… Tôi sẽ cho Bắc - Việt Nam thấy tôi có thể làm mọi thứ để kết thúc cuộc chiến tranh. Người ta sẽ rỉ vào tai Cộng sản: lạy chúa, đừng để ông ta cáu, ông ta đang nằm trên nút bấm nguyên tử… Thế là chỉ hai ngày sau, ông Hồ sẽ đến Pari thỉnh cầu hòa bình!”.
       Với lối suy nghĩ ngạo mạn kiểu “anh chị găngxtơ” như thế nên từ khi Níchxơn lên cầm quyền, chiến tranh Việt Nam vẫn tiếp tục kéo dài, thương lượng vẫn cứ dùng dằng mãi. Ở miền Nam - Việt Nam, Níchxơn chủ trương “Việt Nam hóa “ chiến tranh, nghĩa là tích cực xây dựng quân đội ngụy Sài Gòn ngày một mạnh lên để rút dần quân Mỹ, tích cực viện trợ phương tiện chiến tranh một cách dồi dào cho chính quyền Sài Gòn, mở lại cuộc đánh phá bằng không quân Mỹ ra Bắc - Việt Nam; bí mật đánh phá sang cả Camphuchia để truy quét Việt cộng (có sự thông đồng ngầm của quốc vương Sihanúc mà quốc hội Mỹ không hề hay biết!).
 
                                             
 Richard Milhous Nixon (9 tháng 1 năm 1913 – 22 tháng 4 năm 1994) là một chính trị gia và luật sư người Mỹ, từng giữ chức tổng thống Hoa Kỳ thứ 37 từ năm 1969 đến năm 1974. Chân dung chính thức, năm 1972.
 
Do sự không thiện chí của phía Mỹ mà Hội nghị 4 bên ở Pari; đến ngày 18-1-1969 mới nhóm họp được, nhưng dậm chân tại chỗ. Ngày 8-5-1969, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam - Việt Nam đưa ra sáng kiến hòa bình gồm 10 điểm để tỏ rõ thiện chí trước dư luận Mỹ và thế giới.
Ngày 4-8-1969, giữa lúc Mỹ cho rằng “Việt Nam hóa chiến tranh” đang đem lại hiệu quả, lực lượng đối phương trên chiến trường đã yếu đi, Kítxingiơ bí mật gặp Xuân Thủy và Mai Văn Bộ tại Pari, mở lời hăm dọa: “Tôi được yêu cầu nói với các ông bằng tất cả sự long trọng rằng nếu vào ngày 1-11, không có một tiến bộ nào đi đến một giải đáp thì chúng tôi buộc phải, với sự miễn cưỡng lớn, có những biện pháp có hiệu quả lớn nhất. Các ông đã gọi cuộc chiến tranh là chiến tranh của ông Níchxơn. Chúng tôi không tin rằng điều đó là có lợi cho các ông bởi vì nếu đó là cuộc chiến tranh của ông Níchxơn thì ông ta sẽ không thể để cho không thắng nó”.
 
     Mùa hè năm 1969, tại quần đảo Hawaii, Tổng thống Mỹ mới đắc cử Richard Nixon gặp Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu để bàn về việc rút quân Mỹ khỏi Việt Nam. Người Mỹ muốn gọi tiến trình đó là "Phi Mỹ hóa chiến tranh" nhưng phía Việt Nam Cộng hòa phản đối vì gọi như vậy chẳng khác gì thừa nhận rằng đây là cuộc chiến của người Mỹ. Cuối cùng hai bên đồng ý gọi việc rút quân Mỹ khỏi Việt Nam là Việt Nam hóa chiến tranh. Phó Tổng thống Việt Nam Cộng hòa, tướng Nguyễn Cao Kỳ, thừa nhận có những đơn vị quân đội Việt Nam Cộng hòa chiến đấu không tốt vì trước kia họ ỷ lại vào quân Mỹ quá lâu nhưng nếu để cho họ tự lực, họ sẽ phải chiến đấu vì sự tồn vong của họ.
     Tiến trình Việt Nam hóa chiến tranh ban đầu đã diễn ra tương đối thuận lợi. Quân lực Việt Nam Cộng hòa sau Mậu Thân được trang bị hiện đại đã tỏ ra tự tin hơn và đã nắm thế chủ động trên phần lớn chiến trường miền Nam từ năm 1969 đến tận cuối năm 1971. Nhưng điều đó chưa nói lên điều gì lớn vì Quân Giải phóng trong thời kỳ này vẫn chưa hồi phục sau Mậu Thân và không chủ trương đánh lớn. Cũng có thể Quân Giải phóng hạn chế hoạt động để việc rút quân của Mỹ diễn ra nhanh hơn. 
Ngày 3-11-1969, Níchxơn lên vô tuyến truyền hình đọc bài diễn văn đã chuẩn bị rất công phu và quan trọng nhất trong toàn bộ sự nghiệp chính trị của ông ta, trong đó có đoạn:
“Chúng ta sẽ tiếp tục chiếu đấu cho đến khi những người cộng sản đồng ý thương lượng một nền hòa bình công bằng và danh dự, hoặc cho đến khi người Nam - Việt Nam đủ khả năng tự vệ với cách riêng của mình. Điều kiện nào đến trước cũng được. Đồng thời chúng ta sẽ tiếp tục rút khỏi sự dính líu của chúng ta dựa trên những nguyên tắc của học thuyết Níchxơn: nhịp độ rút quân gắn liền với sự tiến bộ của “Việt Nam hóa”, với mức độ hoạt động của địch và với những phát triển trên mặt trận thương lượng”.
Chính Níchxơn đã ghi trong sổ tay là: “Việt cộng sẵn sàng hy sinh để chiến thắng còn bọn Nam - Việt Nam (tức quân ngụy) thì không muốn trả giá để khỏi bị thua”. Chỉ với riêng điều này thôi, ông ta làm sao mà tiếp tục đánh, tiếp tục rút quân, tiếp tục thương lượng một cách đồng thời được?
Thế là suốt 3 năm: 1969, 1970, 1971, Hội nghị Pari cứ nhùng nhằng không đạt được một giải pháp nào về Việt Nam. Trên chiến trường, cả hai phía đều nỗ lực chiến đấu, tiêu diệt nhau để giành ưu thế.
           Tình hình miền Nam tương đối yên lặng trong các năm 1969–1971. Quân Giải phóng tích cực dự trữ lương thực, đạn dược tại các căn cứ ở Lào, Campuchia và các vùng rừng núi mà quân Mỹ và Việt Nam Cộng hòa chưa với tới được. Quân Giải phóng sử dụng vùng biên giới Lào và Campuchia, được xem là vùng trung lập, làm bàn đạp tấn công vào lực lượng Mỹ-Việt Nam Cộng hòa, sau đó rút lui trở lại bên kia biên giới. Tổng thống Mỹ Nixon ra lệnh mở Chiến dịch Campuchia để chấm dứt tình trạng đó.
           Sự yên tĩnh trên chiến trường tạo điều kiện thuận lợi cho việc rút quân Mỹ mà không gây ra một sự xấu đi trầm trọng nào. Tranh thủ thời gian yên tĩnh, Việt Nam Cộng hòa đổ công sức tiến hành bình định nông thôn. Rút kinh nghiệm từ năm 1968, lãnh đạo Mỹ và Việt Nam Cộng hòa đã hiểu rõ tầm quan trọng của việc chống lại cơ cấu đấu tranh chính trị của quân Giải phóng ở vùng nông thôn. Một chương trình lớn tái thiết nông thôn được thi hành với viện trợ kinh tế lớn của Hoa Kỳ. Theo tuyên bố của Mỹ, trong thời kỳ này, chỉ riêng năm 1969, khoảng 6.000 người đã chết và 15.000 người bị thương bởi hoạt động của lực lượng du kích. Trong số những người thiệt mạng có 90 quan chức xã và xã trưởng, 240 quan chức ấp và ấp trưởng, 229 người tản cư và 4.350 thường dân. Với lý do "bảo vệ dân thường chống lại những hoạt động đe dọa và khủng bố của cộng sản", Chiến dịch Phượng hoàng với sự giúp đỡ của CIA, đã được triển khai nhằm tróc rễ các cơ sở bí mật nằm vùng của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Tính tới năm 1972, Hoa Kỳ tuyên bố đã "loại bỏ" 81.740 người ủng hộ quân Giải phóng, trong đó 26.000 tới 41.000 đã bị giết.
      Các nỗ lực của chiến dịch Phượng hoàng chủ yếu diễn ra bằng các biện pháp khủng bố, ám sát, thủ tiêu. Các toán nhân viên Phượng hoàng áo đen được tình báo Mỹ huấn luyện và được phái xuống các xóm ấp, họ ở cùng trong dân nghe ngóng thu thập tình báo, bắt các phần tử nghi ngờ là cộng sản hoặc thân cộng sản, tra khảo để phanh ra tổ chức, nếu không khai thác được và vẫn nghi là Cộng sản thì thủ tiêu. Những người cộng sản hoặc thân cộng sản nếu không tiện bắt thì ám sát. Số người bị thủ tiêu lên đến hàng ngàn người. Trong ngắn hạn, các biện pháp này đã có hiệu quả tốt về an ninh, tình hình nông thôn trở nên an toàn hơn rõ rệt cho phía chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Tuy nhiên về dài hạn, những vụ xử tử, ám sát dân thường lại khiến chính quyền Việt Nam Cộng hòa càng bị người dân xa lánh, khiến chương trình bình định dần dần bị chặn lại.
Tuy nhiên từ năm 1970, “Việt Nam hóa chiến tranh” nói riêng và “Đông Dương hóa chiến tranh” nói chung đã bộc lộ ra những điểm yếu không thể khắc phục được và bắt đầu nếm mùi thất bại. Năm 1971, cả quân ngụy Nam - Việt Nam, quân ngụy Campuchia và quân ngụy Lào đều phải chịu những thất bại to lớn.
Để duy trì được cái học thuyết “thằng điên” đầy mâu thuẫn ấy, Níchxơn đã phải huy động một cách điên cuồng sức mạnh không quân Mỹ. Trong hai năm 1970-1971, đã có trên dưới10.000 phi vụ đánh phá một tháng ở Campuchia, 25.000 phi vụ một tháng ở Lào. Trong 2 năm ấy, Mỹ đã dội gần 1,7 triệu tấn bom xuống các vùng ở Đông Dương. Riêng 5 tháng đầu năm 1970, không quân Mỹ đã thả 100.000 tấn bom xuống Việt Nam. Con số này vượt xa số bom thả xuống Nhật trong chiến tranh thế giới thứ hai.
Mục tiêu đánh phá quan trọng nhất của không quân Mỹ vẫn là Bắc - Việt Nam. Năm 1970, Níchxơn đã hủy bỏ hoàn toàn các hạn chế ném bom ở khu phi quân sự và gọi các cuộc ném bom mới vào Bắc - Việt Nam là “phản ứng tự vệ tăng cường”. Những cuộc tiến công bằng không quân này nói chung là rất ào ạt, điển hình là trong tháng 5, tháng 11-1970; tháng 2, tháng 3, tháng 9 và tháng 12-1971. Một loạt cuộc oanh tạc trong vòng 5 ngày từ ngày 26 đến 30-12-1971, đã được tiến hành một cách ác liệt nhất với khoảng 1.000 lượt xuất kích đánh vào thành phố Vinh và Nghệ An (trận này quân Bắc - Việt Nam bắn rơi 5 chiếc máy bay, 2 chiếc rơi tại chỗ, 2 phi công Mỹ bị bắt sống). Nhưng bất chấp những cuộc đánh phá ghê gớm ấy, Bắc - Việt Nam vẫn đứng vững, không những chiến đấu ngoan cường, bắn rơi nhiều máy bay Mỹ, bảo vệ được mình mà còn chi viện đều đặn sức người sức của cho cuộc chiến đấu ở Nam - Việt Nam.
 
       Trong thời kỳ này, viện trợ của Hoa Kỳ dồi dào nên đời sống của dân chúng trong các thành phố lớn trở nên tốt hơn và nó làm cho dân nông thôn đổ về thành phố để kiếm sống dễ hơn. Tuy nhiên, viện trợ dồi dào khiến tình trạng tham nhũng trong chính quyền và quân đội lên cao. Trong quân đội rất phổ biến kiểu "lính ma": khai khống quân số đơn vị để sĩ quan lĩnh phần lương dôi ra nhưng thực tế không có quân chiến đấu. Đây là giai đoạn mà nạn tham nhũng hoành hành trong giới lãnh đạo quân đội Việt Nam Cộng hòa với những tai tiếng về buôn lậu, ăn cắp quân nhu và tiền viện trợ quân sự. Sau hàng loạt cuộc điều tra tham nhũng, mà đặc biệt là cuộc điều tra tại Quỹ tiết kiệm Quân đội do tướng Nguyễn Văn Hiếu thực hiện trong 5 tháng và được công bố trên truyền hình ngày 14/7/1972, hàng loạt sĩ quan, trong đó có 2 tướng lĩnh là Tổng trưởng Quốc phòng Trung tướng Nguyễn Văn Vỹ và Trung tướng Lê Văn Kim cùng với 7 đại tá bị cách chức. Quỹ tiết kiệm Quân đội bị buộc phải giải tán. Vì vụ án này, ông Hiếu đã làm mếch lòng các tướng lĩnh tham nhũng, tổng thống Thiệu cũng ra lệnh hạn chế điều tra khiến ông Hiếu nản lòng và xin chuyển sang công tác chỉ huy tác chiến. Nhiều người cũng cho rằng đây là lý do cái chết bí ẩn của tướng Hiếu vào tháng 4/1975.
       Những điều trên đã gây ảnh hưởng lớn đến sức chiến đấu của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu bị nhiều người chỉ trích vì không thể kiểm soát nổi tình trạng tham nhũng và lạm quyền kinh tế. Tình trạng tham nhũng trong quân đội phổ biến đến nỗi các sĩ quan, binh lính còn đem cả quân trang quân dụng, vũ khí và lương thực bán cho Quân Giải phóng, và thậm chí "tặng" luôn cả xe tải cho "đối tác" sau mỗi lần giao dịch.
        Một vấn đề lớn nữa của Việt Nam hóa chiến tranh là khi Quân lực Việt Nam Cộng hòa nhất nhất theo các tiêu chuẩn Mỹ thì họ cũng quen kiểu đánh nhau tốn tiền như quân Mỹ, và sức chiến đấu của quân đội phụ thuộc lớn vào viện trợ của Mỹ. Viện trợ mà giảm thì ảnh hưởng rõ rệt đến sức chiến đấu của quân đội, điều này góp phần giải thích tại sao quân đội này mau chóng sụp đổ trong năm cuối cùng của cuộc chiến.
          Sau khi quân đội Mỹ và Việt Nam Cộng hòa thất bại trong việc đánh phá căn cứ của Quân Giải phóng tại biên giới Việt Nam - Campuchia, tiếp tế từ miền Bắc đã nối thông từ Lào đến Đông Bắc Campuchia và đổ vào các khu căn cứ Tây Ninh. Do đó, nếu không tiêu diệt được đầu não Quân Giải phóng đã ở sâu trong nội địa Campuchia thì phải tìm cách cắt tiếp tế từ Lào. Tháng 2 năm 1971, 21.000 binh lính Quân lực Việt Nam Cộng hòa, dưới sự yểm trợ của 10.000 lính Mỹ và không quân Hoa Kỳ, tiến hành chiến dịch Lam Sơn 719: đánh từ căn cứ Khe Sanh, Quảng Trị cắt ngang sang Hạ Lào nhằm phá hủy hệ thống kho tàng của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam. 
      Kết quả cuộc hành quân bị thiệt hại nặng nề, hơn nữa các lực lượng bị tiêu diệt là các đơn vị dự bị chiến lược tốt nhất của Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Cuộc hành quân còn thất bại ở chỗ tuy có phá được một số kho tàng hậu cần nhưng về cơ bản đã không làm hại gì được cho hệ thống tiếp tế của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cho Quân Giải phóng miền Nam. Tướng Đồng Sĩ Nguyên, Tư lệnh Binh đoàn Trường Sơn, nhận định quân lực Việt Nam Cộng hòa đã đánh vào điểm mạnh nhất của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tại miền Nam. Theo tướng Alexander Haig, lãnh đạo Hội đồng An ninh Quốc gia Hoa Kỳ, đó là một thảm họa do đánh giá sai lầm đối phương. Vào thời điểm đó quá trình Việt Nam hóa chiến tranh đang diễn ra thuận lợi nên người Mỹ ép Quân lực Việt Nam Cộng hòa phải ra trận để cắt đứt đường mòn Hồ Chí Minh mà thiếu sự yểm trợ không quân của Hoa Kỳ. Người Mỹ "đã ném Quân lực Việt Nam Cộng hòa xuống nước lạnh và họ đã chết chìm ở đó". Đáng lẽ phải khắc phục sai lầm thì người Mỹ tiếp tục rút quân do sức ép chính trị mà Tổng thống Nixon chịu đựng quá lớn.
       Sau các cuộc hành quân bất thành của Quân lực Việt Nam Cộng hòa đánh vào Campuchia và Hạ Lào, đến đầu năm 1972, Quân Giải phóng đã hồi phục sau Mậu Thân và lại tung ra một đợt tổng tiến công lớn nữa.
       Bước sang năm 1972, quân Giải phóng Miền Nam giành thế chủ động tiến công trên chiến trường, Cách mạng Việt Nam có nhiều triển vọng sáng sủa trên cả hai mặt trận: quân sự và ngoại giao.
         Tháng 3 năm 1972 quân Giải phóng đã tung ra một cuộc tổng tiến công và nổi dậy chiến lược mùa xuân năm 1972. Đây là đòn đánh để kết hợp với nỗ lực ngoại giao, nhằm làm thoái chí Hoa Kỳ, buộc họ rút hẳn ra khỏi cuộc chiến. Tuy rằng tên và kế hoạch như vậy nhưng rút kinh nghiệm từ năm 1968, quân du kích và cán bộ nằm vùng sẽ không "nổi dậy" tại vùng địch hậu mà chỉ đóng vai trò chỉ đường và tải đạn, họ sẽ chỉ ra mặt tại những nơi chủ lực Quân Giải phóng đã kiểm soát vững chắc.
      Đây là cuộc tiến công chiến lược gồm các chiến dịch tiến công quy mô lớn, hiệp đồng binh chủng, tiến công sâu vào hệ thống phòng ngự của Việt Nam Cộng hòa trên ba hướng chiến lược quan trọng: Trị Thiên, Bắc Tây Nguyên, miền Đông Nam Bộ. Trong suốt quá trình diễn ra cuộc chiến tranh, chưa bao giờ quân Giải phóng lại phát động một cuộc tiến công ồ ạt dưới sự hỗ trợ của các lực lượng được trang bị tốt đến như vậy, cuộc tiến công này mạnh hơn bất cứ những gì mà Việt Nam Cộng hòa có thể tập trung lại được vào mùa xuân năm 1972.
Năm 1972 là năm bầu cử lại tổng thống Mỹ. Níchxơn muốn thắng cử tuyệt đối, ngồi lại Nhà Trắng thêm một nhiệm kỳ nữa để kiếm được cái hào quang là vị tổng thống chủ trì lễ kỷ niệm 200 năm ngày thành lập nước Mỹ (1776-1976) và đi vào lịch sử như một người chấm dứt sự dính líu của Mỹ vào Việt Nam trong danh dự. Sự thèm khát thái quá đó đã làm cho Níchxơn mê cuồng đến mức gây ra vụ Oatơghết vô cùng xấu xa bỉ ổi và lừa dối nhân dân Mỹ một cách đáng hổ thẹn nhất về vấn đề giải quyết chiến tranh Việt Nam, Níchxơn không thể ngờ rằng ông ta cũng đi vào lịch sử nhưng không phải như một vĩ nhân mà như một “thằng điên” đểu cáng và mạt hạng nhất.
Khi cuộc chạy đua vào Nhà Trắng diễn ra quyết liệt thì vấn đề chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, rút quân Mỹ về nước trở thành vấn đề chính trị hàng đầu của nước Mỹ. Lúc này Níchxơn lại nói đến hòa bình, thề thốt sẽ làm hết sức mình để chấm dứt chiến tranh. Ngay từ tháng 8-1972, Níchxơn đã chủ trương có được một thỏa thuận nào đó ở Hội nghị Pari để phục vụ việc tuyên truyền tranh cử nhưng không vội ký mà để sau bầu cử sẽ rảnh tay điều chỉnh nó trên thế mạnh.
Nắm vững tình hình, uyển chuyển và khéo léo, ngày 8-10-1972, phía Bắc - Việt Nam và Mặt trận (thực chất là Cách mạng Việt Nam duy nhất) đã chủ động đưa ra bản dự thảo hiệp định 9 điểm với những đề nghị hợp tình, hợp lý mà cơ bản là: Mỹ phải cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam: độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; giải quyết vấn đề trọng tâm là vấn đề quân sự - ngừng bắn tại chỗ, rút hết quân Mỹ và chư hầu ra khỏi miền Nam (còn lực lượng Bắc - Việt vẫn ở lại), hai bên thả tù binh và dân thường bị bắt, sau đó đến vấn đề chính trị là công nhận quyền tự quyết của nhân dân miền Nam, thành lập một cơ cấu chính quyền là Hội đồng hòa hợp dân tộc ba thành phần có nhiệm vụ đôn đốc việc thi hành Hiệp định, bảo đảm tự do dân chủ, tổ chức tổng tuyển cử tự do.
Như vậy bản dự thảo hiệp định này đã không còn đối lập chính phủ nữa mà thành lập Hội đồng, nhưng thực chất và điều quan trọng là nếu như vậy, ở miền Nam dù có hai quân đội, hai chính quyền thì vẫn có ba lực lượng chính trị. Trong trường hợp nào, Hiệp định được thi hành hay bị vi phạm, thì sau khi quân Mỹ đã rút đi khỏi, so sánh lực lượng tại miền Nam cũng thay đổi cơ bản: đứng trước nhân dân và quân đội cách mạng cả nước, chỉ còn có quân ngụy và chính quyền ngụy. Đối đầu với một chính thể gồm hầu hết là những con người võ biền, chẳng có một chút lý tưởng gì, chỉ biết tham lam, vụ lợi cá nhân ích kỷ, cùng với một đạo quân hoàn toàn xa rời nhân dân, gượng ép đánh thuê mà có lần Kítxinhgiơ đã bĩu môi nhận xét: “Hành quân còn xa mới đạt ý định của Mỹ vì kế hoạch thì cận thị, thực hiện thì tồi, điều khiển thì vênh váo”, Cách mạng Việt Nam giành thắng lợi cuối cùng là điều hiển nhiên. Mỹ đã “cút” thì ngụy phải “nhào”, đó là tất yếu.
      Cuộc tấn công năm 1972 của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã không nhận được sự ủng hộ từ 2 đồng minh chủ chốt là Trung Quốc và Liên Xô do 2 quốc gia chỉ mong muốn kết thúc nhanh 1 thỏa ước hòa bình với Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa tại Paris. Liên Xô đã cắt giảm viện trợ, còn Trung Quốc thì thậm chí còn gây sức ép lên Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam để buộc họ ngừng chiến đấu. Tuy thế các lãnh đạo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam vẫn quyết tâm khởi động một chiến dịch quy mô nhằm đánh bại triệt để Việt Nam hóa chiến tranh, giành lợi thế trên bàn đàm phán ở Paris.
        Trong 2 tháng đầu, quân Giải phóng liên tiếp chọc thủng cả ba tuyến phòng ngự, tiêu diệt hoặc làm tan rã nhiều sinh lực đối phương, gây kinh ngạc cho cả Hoa Kỳ lẫn Việt Nam Cộng hòa. Hoa Kỳ phải gấp rút điều động lực lượng không quân và hải quân tới chi viện để ngăn đà tiến của quân Giải phóng, đồng thời viện trợ khẩn cấp nhiều vũ khí cho Việt Nam Cộng hòa để bổ sung cho thiệt hại trước đó.
        Tại Bắc Tây Nguyên, sau các thắng lợi ban đầu của Quân Giải phóng tại trận Đắc Tô - Tân Cảnh, chiến sự mau chóng êm dịu trở lại sau khi đội quân này bị chặn lại trong Trận Kon Tum.
       Tại Đông Nam Bộ, ở tỉnh Bình Long sau khi thắng lợi tại trận Lộc Ninh, Quân Giải phóng tiến công theo đường 13 để đánh chiếm thị xã An Lộc .
        Trận An Lộc là trận chiến tại An Lộc. Đây là một trận chiến mà phía Việt Nam Cộng hòa xem là đợt 2 trong Chiến dịch Hè 1972 hay "Mùa Hè Đỏ Lửa" trong Chiến tranh Việt Nam. Về phía Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, thì đây là một trận đánh hiệp đồng binh chủng trong đợt 1 của Chiến dịch Nguyễn Huệ (1 tháng 4 năm 1972 - 19 tháng 1 năm 1973).

       An Lộc là địa bàn quân sự chiến lược tối quan trọng đối với Quân lực Việt Nam Cộng hòa vì đây là cửa ngõ Tây Bắc ngăn Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tiến về thủ đô Sài Gòn sau khi quận lỵ Lộc Ninh rơi vào tay họ ngày 7 tháng 4 năm 1972.

       Phía Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tấn công trực tiếp thị trấn An Lộc gồm có Sư đoàn 9, 2 trung đoàn pháo binh 28 và 42, 4 tiểu đoàn pháo phòng không và tiểu đoàn tăng thiết giáp 20, về sau tăng cường thêm tiểu đoàn tăng thiết giáp 21. Tham chiến ở vòng ngoài là Sư đoàn 5, 7 và Đoàn C30B.

       Phòng thủ thị trấn An Lộc, phía Quân lực Việt Nam Cộng hòa có Sư đoàn 5 Bộ binh, Liên đoàn 3 Biệt động quân cùng lực lượng Dân vệ và Địa phương quân tỉnh Bình Long. Trong quá trình diễn ra trận đánh, Không lực Hoa Kỳ dùng trực thăng chở thêm hàng ngàn quân Việt Nam Cộng hòa vào An Lộc, đồng thời huy động gần 20.000 quân tìm cách giải vây bằng cách đánh theo Đường 13. Ngoài ra, Không lực Hoa Kỳ yểm trợ bằng gần 1.000 phi cơ và trực thăng các loại, từ ném bom, vận tải tới chuyển thương.

       Trong trận An Lộc, dùng xe tăng và pháo binh tấn công dữ dội. Quân lực Việt Nam Cộng hòa quyết tâm cố thủ thị xã và đưa quân lên ứng cứu. Không quân Mỹ dùng B-52 đánh phá ác liệt các khu vực tập kết của Quân Giải phóng và gây thiệt hại lớn. Chiến trận xảy ra rất dữ dội tại thị xã, thương vong của hai bên và của dân chúng rất cao. Cuối cùng, Quân Giải phóng không thể lấy nổi thị xã phải rút đi và sau 3 tháng chiến sự đi vào ổn định. Lần đầu tiên tại vùng Đông Nam Bộ, xe tăng T-54 và PT-76 của Quân Giải phóng đã xuất hiện, cho thấy hệ thống tiếp tế của Quân Giải phóng đã hoàn chỉnh vì đã có thể đưa được xe tăng vào đến tận chiến trường phía nam.

Xe tăng T-54 của lực lượng Giải phóng bị phá hủy sau khi dính bom B-52 của Mỹ ở An Lộc.

Lính VNCH cáng đồng đội bị thương trong trận An Lộc, 1972.

Lính VNCH bị thương trong trận An Lộc được đưa về tuyến sau.

Xác binh sĩ Sài Gòn được đưa từ An Lộc về căn cứ Lai Khê.

Lính Sài Gòn cáng đồng đội ngang qua xác một chiếc T-54 được “trang trí” bằng sọ người ở An Lộc.

Một chiếc T-54 bị vùi lấp trong hố bom ở An Lộc.

 

       Chiến trường chính của năm 1972 là tại tỉnh Quảng Trị. Tại đây có tập đoàn phòng ngự dày đặc của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, nơi tuyến đầu giáp với miền Bắc. Cuộc tiến công của Quân Giải phóng tại Quảng Trị đã thành công to lớn, 40.000 quân Việt Nam Cộng hòa phòng ngự tại đây đã hoảng loạn và tan vỡ, thậm chí Trung đoàn 56 của Sư đoàn 3 đã đầu hàng mà không chiến đấu. Chỉ sau một tháng và qua 2 đợt tấn công, Quân Giải phóng đã chiếm toàn bộ tỉnh Quảng Trị, uy hiếp tỉnh Thừa Thiên và thành phố Huế.
        Đến lúc đó, việc giữ vững vùng chiếm được và tái chiếm vùng đã mất tại Quảng Trị đã thành vấn đề chính trị thể hiện ý chí và bản lĩnh của cả hai bên và là thế mạnh để đàm phán tại Hội nghị Paris. Hoa Kỳ để tỏ rõ ý chí của mình bằng cách từ ngày 16 tháng 4 năm 1972 ném bom trở lại miền Bắc với cường độ rất ác liệt: dùng máy bay B-52 rải thảm bom xuống Hải Phòng, đem hải quân thả thủy lôi phong tỏa các hải cảng tại miền Bắc Việt Nam.
        Tại chiến trường Quảng Trị, Quân lực Việt Nam Cộng hòa đem hết quân dự bị ra quyết tái chiếm thị xã Quảng Trị với sự hỗ trợ tối đa bằng máy bay B-52 của Hoa Kỳ. Quân Giải phóng quyết tâm giữ vững khu vực thành cổ Quảng Trị của thị xã. Chiến sự cực kỳ ác liệt, thương vong hai bên rất lớn để tranh chấp một mẩu đất rất nhỏ không dân đã bị tàn phá hoàn toàn. Sau gần 3 tháng đánh nhau quyết liệt, Quân Giải phóng không giữ nổi và Quân lực Việt Nam Cộng hòa chiếm được thành cổ và thị xã Quảng Trị. Nhưng, dù có hỗ trợ của không quân Mỹ, Việt Nam Cộng hòa không thể tái chiếm thị xã Đông Hà và các vùng đã mất khác.

        Sau chiến dịch, Quân Giải phóng nắm giữ thêm 10% lãnh thổ miền Nam, có thêm các bàn đạp quân sự, và thị xã quan trọng Lộc Ninh đã trở thành thủ đô mới của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng Hòa miền Nam Việt Nam. Đến cuối năm 1972, chiến trường đi đến bình ổn vì hai bên đã kiệt sức không thể phát triển chiến sự được nữa.

       Mặc dù chiến dịch không đem đến lợi thế rõ rệt về quân sự nhưng đã làm xã hội Hoa Kỳ quá mệt mỏi. Dư luận Mỹ và thế giới thúc ép chính quyền phải đạt được một nền hòa bình bằng thương lượng theo đúng cam kết giải quyết chiến tranh trong nhiệm kỳ tổng thống của họ. Đến cuối năm 1972, Hoa Kỳ và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa-Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã đạt được thỏa hiệp cơ bản những ý chính của Hiệp định Paris, và đầu năm 1973, Hoa Kỳ rút hẳn quân viễn chinh khỏi cuộc chiến, chỉ để lại cố vấn quân sự.
 
                                                                       ***
Có được bản dự thảo hiệp định, Kítxinggiơ không giấu được vui mừng vì thấy ở bản dự thảo hiệp định một cơ hội để giúp đưa tập đoàn cầm quyền Níchxơn vượt qua cuộc bầu cử sắp tới. Ngay tối hôm 8-10, văn bản dự thảo hiệp định đã có trên bàn làm việc của Níchxơn và ông ta lập tức điện khẩn, chỉ thị cho Kítxinhgiơ tiếp nhận bản dự thảo. Chuyên viên hai phái đoàn nhanh chóng hoàn thành văn bản hiệp định chính thức và cũng đi đến thỏa thuận:
-         Ngày 18-10-1972: Mỹ ngừng ném bom miền Bắc và ngừng thả thủy lôi ở các cảng.
-         Ngày 19-10-1972: Ký tắt Hiệp định tại Hà Nội.
-         Ngày 26-10-1972: Ký chính thức tại Pari.
-         Ngày 27-10-1972: Ngừng bắn trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam.
Vào ngày 11-10-1972, Mỹ đề nghị sửa lại thời gian ký kết: ngày 22-10-1972 ký tắt, ngày 30-12-1972 ký chính thức. Tỏ thiện chí, phía Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa chấp nhận đề nghị đó, dù biết rõ ý thâm độc của Níchxơn và đã chuẩn bị đối phó. Trước đó chính Hồ Chí Minh đã nói đại ý: Mỹ nhất định thua nhưng chỉ chịu thua sau khi đã thua trên bầu trời Hà Nội.
Kitxingiơ điện ngay cho Thiệu (Tổng thống ngụy ở Sài gòn): “Lấn chiếm càng nhiều càng tốt”. Lầu Năm Góc tăng cường trang thiết bị quân sự và vũ khí có giá trị lên đến 2 tỷ đôla cho chính quyền Sài Gòn. Quân đội ngụy lúc này lên đến 1,1 triệu tên (chưa kể 4 triệu bán vũ trang). Lực lượng hải quân và lính thủy đánh bộ tăng 2 lần so với năm 1969, còn không quân của chúng tăng gấp 2,5 lần.
Ngày 18-10, Kitxingiơ bay sang Sài Gòn gặp Thiệu. Không biết cuộc thuyết khách của Kitxingiơ xảy ra như thế nào mà Thiệu chống lại quyết liệt bản Hiệp định và không chịu ký. Sự kiện này kể cũng lạ lùng. Không biết “bố” Níchxơn có dặn ngầm “con” Thiệu không mà Thiệu ương ngạnh đến thế? Không lẽ con rối lại có thể điều khiển được người giật dây? Ấy vậy mà điều đó đã xảy ra: Níchxơn đề nghị hoãn ký kết lại do “khó khăn ở Sài Gòn phức tạp hơn dự kiến” và tráo trở tuyên bố bản dự thảo còn một số điểm “cần tiếp tục giải quyết”. Ngày 24-10, Thiệu công khai chống lại bản dự thảo và hô hào “quét sạch không thương tiếc Cộng sản”.
Sự ỡm ờ, hoãn binh có tính lật lọng hèn mạt đó của Níchxơn đã buộc chính phủ Việt nam Dân chủ Cộng hòa công bố bản dự thảo Hiệp định vào ngày 26-10-1972, nêu rõ thiện chí của mình và kết tội Mỹ không thiện chí, cố tình phá hoại.
Hai giờ sáng ngày 27-10, tại Phòng tình huống của Nhà Trắng, tướng Hâugơ, trơ lý của Kitxingiơ đã thu được toàn văn bản tuyên bố đó truyền đi qua Đài tiếng nói Việt Nam. Ông này lập tức điện thoại cho Kitxingiơ. Tiếp đó, Níchxơn cũng bị dựng dậy. Giữa đêm khuya, Nhà Trắng chìm trong bầu không khí bồn chồn lo lắng. Rất có thể bản tuyên bố đó sẽ trở thành quả bom nổ hất Níchxơn và bậu sậu văng ra khỏi Nhà Trắng, khi mà chỉ còn 11 ngày nữa là cử tri Mỹ đi bỏ phiếu bầu cử tổng thống. Bởi vì trong chương trình tranh cử của mình, đối thủ của Níchxơn là ông nghị “bồ câu” Mắc Gavơn đã từng tuyên bố: “Nếu tôi trúng cử, việc ưu tiên số một của tôi là rút khỏi cuộc chiến tranh Việt Nam mà không cần đặt một điều kiện gì kể cả việc đưa tù binh Mỹ về nước.”
Níchxơn cùng bộ tham mưu Nhà Trắng cuống cuồng họp lại, bàn bạc cách đối phó. Cùng ngày hôm ấy, Kitxingiơ đã tổ chức họp báo. Cuộc họp này đã đi vào lịch sử như là một sự bịp bợm, mị dân của chính quyền Níchxơn: Trước đông đảo các nhà báo Mỹ và thế giới, Kitxingiơ với nét mặt “chân thành” đã trịnh trọng tuyên bố: “Hòa bình đã ở trong tầm tay”, và nói thêm: “Chúng tôi tin rằng một bản hiệp định đã ở trong tầm tay”.
Cái thông tin “Hòa bình trong tầm tay” đã nhanh chóng theo làn sóng điện lan tỏa khắp địa cầu.
Sau này, Kitxingiơ đã tự thú trong hồi ký của mình: “Ngày 27-10-1972 là một ngày xúc động với những mưu mô phức tạp”.
Ngày 7-11-1972, Níchxơn trúng cử Tổng thống Mỹ lần thức 2. Khỏi phải nói Thiệu mừng hú đến cỡ nào. Bản thân Níchxơn, khi đã yên vị trên ghế Tổng thống, cảm thấy giấc mộng “vĩ nhân” đang dần biến thành hiện thực, nhất là đã có thừa thời gian giở trò “phải, quấy” với Bắc - Việt Nam để kết thúc chiến tranh Việt Nam trên thế mạnh, tạo điều kiện cho miền Nam - Việt nam trở thành một Nam - Triều Tiên thứ 2. Khi mới bước vào nhiệm kỳ tổng thống thứ nhất, Níchxơn đã có lần nói với Kitxingiơ: “Tôi đã quyết định. Chúng ta phải đánh đến con bài cuối cùng. Chúng ta có đủ sức mạnh để tiêu diệt khả năng chiến tranh của Hà Nội. Vấn đề cốt lõi là ở chỗ chúng ta có gan dùng sức mạnh đó hay không? Điều phân biệt giữa tôi với Giônsơn là tôi có thừa khả năng đó”.
Trong tháng 10 và tháng 11-1972, cùng với hàng vạn tấn dụng cụ chiến tranh cấp tốc đổ vào Nam - Việt nam cho chính phủ Ngụy quyền tay sai, Mỹ lại đẩy mạnh các cuộc đánh phá bằng “pháo đài bay” B52 lấn dần ra vĩ tuyến 20, cường độ tháng sau gần gấp đôi tháng trước (tháng 10 có 408 lần chiến xuất kích thì tháng 11 là 786 lần chiếc).
Ngày 14-11-1972, Kitxingiơ thừa lệnh tổng thống Níchxơn đi Pari, trong buổi họp ngày 19-11 với Lê Đức Thọ đã đưa ra 69 điểm bổ sung và như vậy là Mỹ đòi phải xét lại hầu như toàn bộ bản dự thảo Hiệp định. Những gì mà hai phía của Hội nghị Pari đã thỏa thuận được trong tháng 10 có nguy cơ bị xóa bỏ. “Hòa bình đã ở trong tầm tay” bị chính Níchxơn - Kitxingiơ đá ra xa lơ xa lắc. Con em hai dân tộc Mỹ - Việt tiếp tục ngã xuống. Chỉ vì danh lợi mù quáng và ích kỷ, Nichsơn đã lừa dối dân tộc mình  một cách hết sức thô bỉ.
Ngày 23-11, có lệnh từ Nhà Trắng: bỏ họp. Ngày hôm sau, 24-11 lại có lệnh: họp tiếp. Sự có mặt của Kitxingiơ ở Pari trong những ngày này chỉ là biểu hiện của thủ đoạn hoãn binh, vờ vịt để xoa dịu dư luận trong nước và thế giới, che dấu một âm mưu đang được triển khai ráo riết tại Oasinhtơn.
Một bức điện mật do đích thân Hâydơman, chánh văn phòng Nhà Trắng chuyển đến cho Kitxingiơ: “Ta cần tránh làm bất cứ điều gì có vẻ như chúng ta phá vỡ thương lượng một cách đột ngột. Phải khôn khéo để làm sao nếu xảy ra tan vỡ thì phải do phía họ gây ra chứ không phải do chúng ta. Chúng ta phải thương lượng ở mức càng thấp càng hay mà không gây sự huyên náo, về thực tế là chúng ta đẩy mạnh ném bom và do đó nối lại chiến tranh”. Ngay từ 2-11-1972, dù chưa có kết quả bầu cử nhưng đã chắc là trúng cử, Níchxơn đã chơi nổi kiểu cao bồi thời “Miền Tây hoang dại”: ra lệnh dùng B52 tiếp tục đánh phá miền Bắc Việt Nam và nói toạc ra: “Kế hoạch bây giờ là gây sức ép ngày càng tăng đối với Hà Nội bằng việc ném bom gần khu phi quân sự và rồi tiến dần ra phía Bắc mỗi ngày một ít”.
Ngày 5-12-1972, Hâydơman lại chuyển cho Kitxingiơ một bức điện mật: “Tổng thống đang nóng lòng muốn dùng B52 đánh vào Hà Nội, Hải Phòng”. Đến phiên họp ngày 12-12 thì Hội nghị đi đến bế tắc hoàn toàn. Kitxingiơ lớn tiếng đe dọa Lê Đức Thọ rằng hoặc là nhượng bộ theo những yêu cầu của Mỹ hoặc Bắc Việt Nam sẽ phải chịu một chiến dịch ném bom mạnh mẽ, và tuyên bố ngừng họp vô thời hạn. Ngày 13-12, Lê Đức Thọ rời Hội nghị về nước.
Ngày 14-12-1972, vừa về đến Oasinhtơn, Kitxingiơ được triệu tập ngay đến Nhà Trắng tham dự một cuộc họp quan trọng và tuyệt mật, Trong cuộc họp đó, Níchxơn đã đưa ra cái quyết định đã từng nung nấu từ lâu của mình: “Mở cuộc tập kích lớn vào Hà Nội trong vài ba ngày tới”. Cùng ngày, Níchxơn đã gửi tối hậu thư cho Bắc - Việt Nam đòi thảo luận nghiêm chỉnh trong vòng 72 giờ. (Đúng là thằng điên!).
Sau này Níchxơn có nói với một nhà bình luận rằng ông ta ra lệnh các cuộc ném bom bởi vì “Người Nga và người Trung Quốc có thể nghĩ rằng họ đang giao tiếp với một con người điên và vì vậy mà tốt hơn hết là buộc Bắc - Việt Nam đi vào một giải pháp trước khi thế giới bị thiêu đốt trong một cuộc chiến tranh lớn hơn”. Còn Kitxingiơ thì viết trong hồi ký của mình: “Haig chủ trương dùng B52 đặc biệt tại phía bắc vĩ tuyến 20, với lý do rằng chỉ có một “cú sốc” ồ ạt mới có thể đưa Hà Nội trở lại bàn Hội nghị. Níchxơn chấp nhận quan điểm của Haig. Tôi cũng ủng hộ quan điểm đó… Vì rằng ngày nay tôi vẫn nghĩ như vậy - Níchxơn và Haig cơ bản đúng. Khi đó chúng tôi chỉ có hai lựa chọn: dùng một biện pháp ồ ạt, gây choáng để áp đặt ý chí của chúng tôi lên tình hình và chấm dứt chiến tranh nhanh chóng hay là để cho sự việc buông trôi vào một vòng đàm phán không kết quả nữa…
Phùng Thế Tài, tư lệnh phòng không - không quân Bắc - Việt Nam thời kỳ đó viết trong hồi ký “Kính dâng Bác chiến thắng lịch sử này” của mình:
“Khẩn trương nhưng lặng lẽ, với phương châm giữ bí mật tuyệt đối đến phút cuối cùng, cả bộ máy chiến tranh không quân khổng lồ của nước Mỹ hùng mạnh, mở hết công suất hoạt động. Nhiều máy bay chiến lược B52 ầm ầm nổ máy chuyển từ những căn cứ trong nước Mỹ sang tăng cường cho căn cứ Guam và Utapao, nâng tổng số B52 ở 2 căn cứ này lên cao nhất từ trước đến nay: 197 chiếc, gần bằng một nửa tổng số B52 của toàn nước Mỹ. Cấp tốc thành lập bộ chỉ huy lâm thời sư đoàn không quân chiến lược mang số hiệu 57 để chỉ huy chung 2 căn cứ này. Nâng tổng số tàu sân bay ở Vịnh Bắc Bộ lên 6 chiếc. Nâng tổng số máy bay chiến thuật lên trên 1.000 chiếc, trong đó có một phi đoàn F111, 48 chiếc mới chuyển từ Mỹ sang. Bộ tư lệnh không quân chiến lược SAC đóng ở miền Tây nước Mỹ, Bộ tư lệnh Tập đoàn không quân số 7 đóng ở Sài Gòn được lệnh sẵn sàng chiến đấu cao nhất, chuẩn bị thực hiện một nhiệm vụ đặc biệt.
                
                               Pháo đài bay B-52 của Không lực Hoa Kỳ
Níchxơn đặt nhiều hy vọng trong canh bạc cuối cùng này. Vốn sùng bái sức mạnh của bom đạn, Níchxơn tin vào con chủ bài B52 với sức tàn phá ghê gớm của nó, có thể giúp ông ta đạt được những gì mà suốt 4 năm trên bàn đàm phán, những người trước không đạt được. Những kẻ cầm đầu bộ máy chiến tranh đồ sộ của nước Mỹ tin chắc rằng Bắc - Việt Nam sẽ không thể nào chịu nổi những “cú sốc” ồ ạt bởi hàng ngàn tấn bom rải thảm của B52 từ trên độ cao 30.000 phít (1 feet ≈ 33 cm) chụp xuống những khu phố đông dân…

Máy bay B-52 là loại máy bay ném bom chiến lược hạng nặng, tầm xa, rất nổi tiếng của Không quân Hoa Kỳ, do hãng Boeing sản xuất từ năm 1954. B-52 có thể mang vũ khí hạt nhân và vũ khí thông thường và có thể tham gia trong các loại chiến tranh thế giới tổng lực và chiến tranh khu vực. Lần đầu tiên B-52 tham chiến là tại Chiến tranh Việt Nam và được nổi tiếng với uy lực ném bom rải thảm tàn phá ghê gớm của nó. Cũng tại Chiến tranh Việt Nam, B-52 lần đầu tiên bị bắn hạ bằng tên lửa phòng không SAM-2 do Liên Xô cung cấp. Các thông tin chính thức của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cho rằng 3 chiếc B-52 cũng đã bị máy bay tiêm kích MiG-21 của Việt Nam, do các phi công Vũ Đình Rạng, Vũ Xuân Thiều và Phạm Tuân điều khiển, bắn rơi trong cuộc chiến tranh này.

Cho đến nay máy bay ném bom B-52 vẫn là máy bay ném bom chủ lực của lực lượng không quân chiến lược Hoa Kỳ. Lực lượng không quân chiến lược là một trong ba nền tảng trụ cột của sức mạnh quân sự Hoa Kỳ đó là tên lửa hạt nhân chiến lược, tàu ngầm mang đầu đạn hạt nhân và không quân chiến lược. Lực lượng này cũng được nhiều người xem là "con át chủ bài" trong các cuộc chiến tranh thông thường mà quân đội Hoa Kỳ có tham gia.

Nhưng như lịch sử đã chứng tỏ, một lần nữa kẻ thù của chúng ta đã đánh giá sai đối thủ của mình. Và do đó đã dẫn đến một kết cục thảm hại như chúng đã gánh chịu trước lịch sử: thua tan tác trong trận “Điện Biên Phủ trên không”.
Có điều đáng chú ý là cho đến ngày 16-12-1972, nghĩa là trước cuộc tập kích chiến lược chỉ có 2 ngày, Níchxơn còn đẩy Kítxingiơ ra họp báo, thực hiện vụ lừa bịp cuối cùng. Trong cuộc họp báo này, người đại diện chính phủ Mỹ lại leo lẻo nói rằng, chỉ cần vài phiên họp nữa, hoàn tất một số vấn đề kỹ thuật, văn bản Hiệp định sẽ được hoàn thành, và trắng trợn đổ lỗi cho đối phương đã gây khó khăn cho việc ký kết “.
F111 là loại máy bay hiện đại đắt tiền nhất trong số các loại máy bay hồi đó của Mỹ, 15 triệu đô la một chiếc, với bộ cánh có thể “cụp” vào hoặc “xòe” ra để tăng hoặc giảm tốc độ. Đặc biệt, trên F111, ngoài lượng bom lớn hơn trên loại F4, nó còn được trang bị một hệ thống ra-đa cực kỳ tinh xảo và một hệ thống tự động bay theo địa hình, nghĩa là tùy theo vật chướng ngại ở trước mặt mà ra-đa phát hiện được qua hệ thống máy tính, bộ phận lái tự động nâng máy bay lên hoặc hạ xuống tùy theo địa hình. F111 cũng nhờ được trang bị như thế mà có thể bay trong mọi thời tiết, bay ở độ cao cực thấp, chỉ cách mặt đất 50 m ở bất kỳ địa hình nào, dù đồng bằng hay đồi núi, và khi cần thả bom, nó chỉ cần kéo lên bay bằng ở độ cao 500 m, thả bom xong là cụp cánh lại vọt ra khỏi khu vực mục tiêu. Tuy nhiên về khả năng “cường kích” thì không thể bằng “siêu pháo đài bay” B52. “Siêu pháo đài bay” B29, loại đã làm tan hoang các thành phố Nhật Bản hồi chiến tranh thế giới thứ hai, so với “siêu pháo đài bay” này, chẳng nhằm nhò gì. Mỗi chiếc B52 trị giá: 7.946.700 đô la. Đó là loại máy bay đồ sộ như một tòa nhà nhiều tầng, có sải cánh (khoảng cách giữa hai đầu mút của 2 cánh) dài hơn một nửa chiều dài sân bóng đá, chứa được hơn 100.000 lít xăng để phục vụ cho 8 động cơ phản lực cực mạnh. B52 được trang bị hàng chục máy thu nhận sóng ra-đa đối phương ở hàng chục tần số khác nhau, tự động phát nhiễu chống tất cả các loại ra-đa nào uy hiếp đến an toàn của nó, và một hệ thống máy tính điện tử tinh vi để tính tất cả các thông số bay và ném bom. Chưa kể ra-đa ngắm bắn, ra-đa ném bom cực kỳ tinh xảo, có thể nhìn rõ mặt đất bất kể ngày đêm, có thể phân biệt đến từng đường phố, con sông, chiếc cầu… Một chiếc B52 mang được hơn 10 tấn bom, rải thảm tàn phá được một dải có bề rộng 200 mét, kéo dài suốt 1.000 mét trên mặt đất. Quả là hết sức tàn bạo nếu đem B52 đi rải thảm bom xuống một thành phố đông dân thường vô tội.
                          Một chiếc F-111 trong một nhiệm vụ tiếp nhiên liệu trên không

Lúc B52 mới được đưa vào sử dụng trên bầu trời Việt Nam, nhiều quan chức Mỹ quá tin tưởng mà huênh hoang rằng đó là loại máy bay không thể bị bắn rơi. Vào tháng 11-1972, hãng UP1 phát đi từ Băng Cốc - Thái Lan: “Một quan chức không quân Mỹ nói rằng nếu Cộng sản có thể bắn rơi một chiếc B52 giá 9 triệu đô la và có bằng cớ thì trị giá của chiến thắng đó ngang với việc đánh chìm một tàu chiến Mỹ”.
Vào ngày 18-12-1972, Mỹ ồ ạt tấn công, đánh phá dữ dội nhiều đợt vào Hải Phòng và Hà Nội; mở màn chiến dịch tập kích chiến lược ròng rã suốt 12 ngày đêm bằng không quân có qui mô lớn nhất trong suốt cuộc chiến tranh Việt Nam.
Trong 12 ngày đêm (từ 18-12 đến 29-12), không quân Mỹ đã thả 40.000 tấn bom (theo Hà Văn Lâu thì: “Đó là số lượng tương đương với 5 quả bom nguyên tử loại đã thả xuống thành phố Hiroshima.”), xuống Hải Phòng và Hà Nội. Nhất là Hà Nội, thủ đô của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đã là mục tiêu chủ yếu, là nơi tập trung cao độ các cuộc oanh kích tàn bạo nhất của cuộc tấn công chiến lược bằng không quân Mỹ này.
 
Tuy nhiên Bắc - Việt Nam đã không bị khuất phục bởi những “cú sốc” như bè lũ hiếu chiến Níchxơn từng tưởng tượng. Hà Nội, Thủ đô của nước Việt Nam, trái tim của Dân tộc Việt, trở thành nơi đọ sức cuối cùng của Cách mạng Việt Nam với Đế quốc Mỹ, trở thành tiền đồn trong cuộc chống cự đòn tập kích chiến lược lớn nhất và ác liệt nhất của không lực Mỹ. Nhân dân cả nước Việt Nam hướng về Hà Nội, hồi hộp chờ đợi rồi cảm thấy tự hào. Nhân dân thế giới hướng về Hà Nội, từ lo âu đến kinh ngạc và cảm phục. Quân dân Hà Nội đã bình tĩnh đánh trả một cách kiên cường và cũng thật tài tình, đầy hiệu quả hết cuộc công kích này đến cuộc công kích khác của máy bay Mỹ. Qua 12 ngày đêm chiến đấu liên tục, quân dân Thủ đô đã bắn rơi 32 máy bay địch, trong đó có 23 chiếc B52, bắt sống nhiều phi công. Không quân chiến lược Mỹ đã bị một đòn tiêu diệt nặng nề nhất kể từ ngày được thành lập. Hãng Roitơ, ngày 29-12-1972 viết: “Các nhà quan sát quân sự ở Oasinhtơn ước tính rằng Mỹ có thể mất hết máy bay B52 trong khoảng 3 tháng nữa, nếu Mỹ tiếp tục ném bom Bắc - Việt Nam ở mức độ hiện nay…”.
Trong “Lời phán quyết về Việt Nam” của Emtơ (Amter) có viết: “Tổng thống đánh giá thấp tài năng của các lực lượng phòng không Bắc - Việt Nam… Tài bắn chính xác mới phát hiện ra của các tay súng Bắc - Việt Nam đã làm cho Lầu Năm Góc ngạc nhiên đến mức cuối tháng 12, bộ tổng tham mưu Liên quân đòi chấm dứt ném bom”.
                           

                    Nhân dân Hà Nội đào hầm trú ẩn trên đường phố để tránh bom đạn Mỹ.

Bộ đội tên lửa những ngày đánh trận "Điện Biên Phủ trên không".
Đơn vị pháo cao xạ bảo vệ Thủ đô đã bắn rơi nhiều máy bay B-52 trong trận 12 ngày đêm.
Các đơn vị Phòng không tích cực bắn máy bay Mỹ.
Xác mãy bay B52 rơi ở đường Hoàng Hoa Thám, Hà Nội.
                   Máy bay của ta xuất kích tiêu diệt địch. (Ảnh: TTXVN)  
                        Máy bay của ta xuất kích tiêu diệt địch. (Ảnh: TTXVN)

                  Xác máy bay B-52 bị bắn rơi ngày 21/12/1972. (Ảnh: TTXVN)  
                   Xác máy bay B-52 bị bắn rơi ngày 21/12/1972. (Ảnh: TTXVN)

                  Xác của 1 trong 4 máy bay B-52 của Mỹ bị quân và dân Hà Nội bắn rơi đêm 18, rạng sáng 19/12/1972. (Ảnh: TTXVN)  
Xác của 1 trong 4 máy bay B-52 của Mỹ bị quân và dân Hà Nội bắn rơi đêm 18, rạng sáng 19/12/1972. (Ảnh: TTXVN)
                  Xác máy bay Mỹ bị quân và dân Hà Nội bắn rơi. (Ảnh: TTXVN)  
               Xác máy bay Mỹ bị quân và dân Hà Nội bắn rơi. (Ảnh: TTXVN)
                 Hình ảnh máy bay B-52 ném bom xuống làng thôn Việt Nam. (Ảnh: TTXVN) 
Hình ảnh máy bay B-52 ném bom xuống làng thôn Việt Nam. (Ảnh: TTXVN)

               Phố Lý Quốc Sư, Hà Nội bị máy bay B-52 ném bom phá huỷ (1972). (Ảnh: TTXVN)  
Phố Lý Quốc Sư, Hà Nội bị máy bay B-52 ném bom phá huỷ (1972). (Ảnh: TTXVN)

               Máy bay B-52 bị bắn rơi đêm 26/12/1972 trên bầu trời Hà Nội. (Ảnh: TTXVN)  
Máy bay B-52 bị bắn rơi đêm 26/12/1972 trên bầu trời Hà Nội. (Ảnh: TTXVN)
 
Ngày 29-12-1972, cuộc tập kích chiến lược của Mỹ kết thúc, Kítxingiơ đề nghị nối lại thương thuyết. Ngày 30-12, Nhà Trắng công bố rằng Kítxingiơ và Lê Đức Thọ tổ chức cuộc họp tiếp theo vào ngày 8-1-1973.
Xã luận báo Nhân Dân số ra ngày 30-12-1972 có đoạn: “Dân tộc Việt Nam anh hùng đã chấp nhận cuộc thách thức và đã trả lời đích đáng. Thử hỏi, nếu chẳng may có một vài biểu hiện của sự yếu đuối và lùi bước thì sẽ ra sao? Kẻ thù hung hãn sẽ lấn tới ở nước ta và các nơi khác. Chúng sẽ thị uy sức mạnh khắp chốn, khắp nơi.
May thay, thời đại đã tạo nên một sức mạnh Việt Nam, một sức mạnh thần kỳ có thể chấp nhận mọi sự thách thức của bọn hung nô man rợ”.
Thành tích của quân dân Thủ đô Hà Nội trong cuộc chiến đấu chống chiến tranh phá hoại miền Bắc của Đế quốc Mỹ là:
-         Bắn rơi 358 máy bay Mỹ (trong tổng số 4.181 chiếc trên toàn miền Bắc).
-         Bắn rơi 23 máy bay B52 (trong tổng số 68 chiếc trên toàn miền Bắc).
Ngày 28-12-1972, Ủy ban thường vụ Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tuyên dương công trạng: “Hà Nội đã lập công to, xứng đáng là Thủ đô anh hùng của cả nước”.
Trong phiên họp đầu của Hội nghị lần này, Lê Đức Thọ đã phê phán Kítxingiơ kịch liệt, lên án tội ác của Mỹ leo thang đánh phá Hà Nội, Hải Phòng và các nơi khác. Đến ngày 23-1-1973, Hiệp định Pari về Việt Nam đã được Lê Đức Thọ và Kítxingiơ ký tắt. Kết quả là Hiệp định này vẫn giữ vững tinh thần nội dung của bản dự thảo Hiệp định đã thỏa thuận ngày 20-10-1972, một hai chỗ Việt Nam có lợi thêm, có chỗ Việt Nam mềm mỏng hơn nhưng không mất gì.
Ngày 27-1-1973, các Bộ trưởng ngoại giao Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chính phủ Cách mạng lâm thời miền Nam - Việt Nam, Mỹ và chính quyền Sài Gòn ký chính thức. (“Bố” Mỹ đã chịu ký thì “con” Thiệu có dám làm mình làm mẩy nữa không?).
Cũng theo Emtơ thì chính quyền Níchxơn “đã làm hết sức mình để thuyết phục công chúng Mỹ rằng việc ném bom đã làm người Bắc - Việt Nam có thái độ hợp tác hơn tại bàn đàm phán hòa bình. Một cuộc thăm dò dư luận Galớp vài tuần sau đó cho thấy 57% người được hỏi ý kiến cho rằng cuộc ném bom Lễ Giáng Sinh đã đóng góp vào giải pháp hòa bình”, tuy nhiên: “Bàn tay mặc cả của Níchxơn (tại cuộc hội đàm hòa bình Pari) đã bị yếu đi nhiều. Món mặc cả lớn cuối cùng của ông ta đã được sử dụng một cách vô ích và bây giờ chính quyền của ông ta lại ở dưới sức ép còn mạnh hơn trước, đòi đạt được một hiệp định một cách không chậm trễ”, và: “Nếu nói, (rằng cuộc ném bom Lễ Giáng Sinh đã đóng góp vào giải pháp hòa bình) một cách mỉa mai, thì đó là đúng. Vì sự thất bại quân sự và chính trị của nó mà việc ném bom Hà Nội và Hải Phòng đã làm cho Hiệp định Pari có thể ký được. Bởi vì nó buộc Níchxơn và Kítxingiơ phải chấp nhận chính những điều khoản mà họ đã bác bỏ vào tháng 10, tháng 11 và tháng 12. Trong khi sự đe dọa ném bom ào ạt dường như có thể cho Níchxơn một lực bẩy đối với người Bắc - Việt Nam, thì trận đánh Hà Nội đã cho thấy sức mạnh đó rành rành có thể bị chuyển thành sự yếu kém ngoại giao như thế nào”.
Còn Stanley Karnow thì viết trong “Việt Nam, một thiên sử” (Việt Nam & history): “Níchxơn huênh hoang “đạt được hòa bình trong danh dự” nhưng thỏa ước mới không khác gì dự thảo cũ. Dưới góc độ một công cụ ngoại giao, cuộc ném bom tháng chạp tỏ ra là thừa. Nhưng đó vẫn là một cố gắng lớn trong “học thuyết thằng điên” của Níchxơn”.
Lịch sử đã cho thấy rằng việc ký kết Hiệp định Pari đã là một thất bại không tránh khỏi của chính quyền Mỹ thời Níchxơn và là một thắng lợi to lớn của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đồng thời là thắng lợi của phong trào chống chiến tranh của nhân dân Mỹ cũng như nhân dân thế giới.
Quân Mỹ bị loại khỏi vòng chiến đấu thì quân ngụy Sài Gòn sẽ trở nên “mồ côi”, dù có thể còn vùng vẫy được thì cũng như con rắn đã nằm trong rọ chờ phán quyết cuối cùng. Nguyễn Văn Thiệu nói với Kítxingiơ: “Giờ các ông đã công nhận sự có mặt của quân đội Bắc - Việt Nam ở đây. Nhân dân Việt Nam cho rằng chúng tôi đã bị Hoa Kỳ bán đứng. Bắc - Việt Nam sẽ thắng trong cuộc chiến tranh”, “Nếu chúng tôi chấp nhận những điều nêu trong Hiệp định, chúng tôi sẽ tự sát”, và “Mất một nước nhỏ như miền Nam - Việt Nam thì có hề gì với Mỹ đâu? Đối với các ông, chúng tôi chỉ lớn hơn một dấu chấm trên bản đồ thế giới. Nếu các ông muốn từ bỏ cuộc chiến tranh, chúng tôi sẽ chiến đấu một mình cho đến khi nào chúng tôi hết sức, và đến lúc đó chúng tôi sẽ chết…”. Thật là những lời thảm hại!
Nói thế nhưng rồi Thiệu vẫn phải ký vào bản Hiệp định. Theo nhiều nhà phân tích phán đoán thì hình như đã có những cam kết ngầm bằng “miệng” của Níchxơn đối với Thiệu rằng dù sao thì Mỹ vẫn không bỏ rơi chính quyền Sài Gòn và sẽ quay trở lại Nam - Việt Nam nếu Bắc - Việt Nam vi phạm Hiệp định Pari.
Ngày 9-8-1974, Vụ Oatơghết đã buộc Níchxơn phải từ chức, về vườn thành kẻ tiểu nhân thay vì được làm vĩ nhân. Nguyễn Văn Thiệu thực sự choáng váng trước sự kiện này: người cha đỡ đầu cho mình đã “thăng”.
Ngày 10-8, Fo (Gerald R. Ford) lên làm tổng thống Mỹ, có nói: “Những cam kết hiện tại nào Hoa Kỳ đã đưa ra trước đây mà còn giá trị, thì chính quyền của tôi sẽ hoàn toàn tôn trọng”. Nhưng thời thế đã đổi thay. Tháng 11-1974, trong cuộc bầu cử Quốc hội, phe Dân chủ thắng lớn, giành được 34 ghế Hạ viện và 3 ghế Thượng viện. Kết quả này giúp cho Đảng Dân chủ trở thành đa số áp đảo với tỷ lệ 291 - 144 tại Hạ viện và 61 - 39 tại Thượng viện. Người Mỹ đã quá chán ghét cuộc chiến tranh Việt Nam, sẵn sàng từ bỏ nó và cố quên đi càng sớm càng tốt cái chương nhớp nhúa và hổ thẹn nhất trong lịch sử nước Mỹ.
Tình hình đó trong nội bộ nước Mỹ đã dẫn tới trận đánh Phước Long như là một hành động thăm dò của Bắc - Việt Nam đối với phản ứng của Mỹ. Trận đánh mở màn ngày 13-12-1974. Thị xã Phước Long bị thất thủ gần như ngay từ đầu. Ngày 7-1, toàn bộ tỉnh Phước Long đã do quân Giải phóng kiểm soát. Đại tá Xămmơ (Harry Summers) đã nhận xét ngắn gọn về ý nghĩa trận đánh này như sau: “Trận đánh nhỏ ít được biết đến ở Phước Long là một trong những trận đánh mang tính chất quyết định nhất, vì nó đánh dấu việc Mỹ từ bỏ đồng minh cũ của mình… trước sự vi phạm trắng trợn Hiệp định Pari, và nó được thiết kế một cách có tính toán kỹ lưỡng để vi phạm trắng trợn như vậy rõ ràng là nhằm thăm dò thái độ của Mỹ. Tổng thống Fo giới hạn một cách nhu nhược sự phản ứng của mình chỉ trong một công hàm ngoại giao. Miền Bắc - Việt Nam đã được bật đèn xanh cho việc chinh phục miền Nam - Việt Nam”.
Trên thực tế, Hà Nội nhận được các tin tình báo nói rằng tàu sân bay Intơprai (USS Enterprise) của Mỹ và các lực lượng hộ tống đã rời Philippin tiến gần tới Việt Nam và sư đoàn lính thủy đánh bộ Mỹ ở Ôkinaoa đã được đặt trong tình trạng báo động. Có một số hoạt động tại căn cứ hải quân Mỹ ở vịnh Subic (Philippin) có thể là dấu hiệu người Mỹ quay trở lại. Sau này vị tình báo chiến lược, hoạt động đơn tuyến của Bắc - Việt Nam là Phạm Xuân Ẩn nhớ lại: “Tôi đã nói rằng người Mỹ sẽ không đánh đâu. Mặc dù người Mỹ có một vài hành động, nhưng đó là những hành động trống rỗng. Tôi đã báo cáo với Hà Nội rằng người Mỹ sẽ không bao giờ trở lại nữa, thế nhưng vẫn có những hoài nghi. Hà Nội lại cho thử một trận đánh nữa ở Buôn Mê Thuột để xem người Mỹ có can thiệp hay không. Chỉ đến khi đó, Hà Nội mới tin điều tôi nói là đúng…”.

   Cuộc kháng chiến chống Mỹ và tay sai để cứu nước kết thúc bằng một chiến dịch tổng tiến công thắng lợi tuyệt đẹp. Lần dở lại lịch sử Dân Tộc, chúng ta thấy cuộc tổng tiến công ấy hiện lên như một cơn sóng thần cuồng nộ vô địch, cuốn trôi hết bè lũ cướp nước và bán nước ra biển Đông một cách chớp nhoáng theo đúng nghĩa đen, tạc vào sử xanh đến ngàn thu như một kiệt tác ca khúc khải hoàn của Dân Tộc.

     Thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 là đỉnh cao của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, kết thúc vẻ vang cuộc chiến tranh giải phóng đất nước trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta, đưa cả nước bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên xây dựng đất nước hùng cường trong độc lập, thống nhất và tự do. Thắng lợi đó là sản phẩm tổng hợp của nhiều nguyên nhân trong đó có vai trò quan trọng của Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp trong trận quyết chiến chiến lược cuối cùng này. 

       Ngày 27-1-1973, mặc dù Hiệp định Pari về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam đã được ký kết, nhưng trên thực tế đế quốc Mỹ vẫn không từ bỏ âm mưu xâm lược đối với Việt Nam. Trước tình hình đó, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 21 (1973) đã khẳng định: Con đường phát triển của cách mạng miền Nam là con đường bạo lực cách mạng; tư tưởng chỉ đạo vẫn là nắm vững thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công; phương hướng chiến lược của cách mạng miền Nam trong giai đoạn mới là “ta phải mạnh trên cả ba mặt trận để thắng địch, buộc địch thi hành Hiệp định, đồng thời chủ động chuẩn bị sẵn sàng cho trường hợp phải tiến hành chiến tranh cách mạng trên khắp chiến trường miền Nam để giành thắng lợi hoàn toàn”. Sau Hội nghị, các cơ quan chiến lược tập trung giúp Quân ủy Trung ương chuẩn bị chủ trương và những giải pháp lớn về quân sự mà trọng tâm là xây dựng Kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam.

          Để giúp Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh khởi thảo kế hoạch chiến lược trình Bộ Chính trị, tháng 4-1973, Đại tướng Võ Nguyên Giáp quyết định thành lập “Tổ trung tâm”, gồm đồng chí Vũ Lăng - Cục trưởng Cục Tác chiến; Võ Quang Hồ và Lê Hữu Đức - Phó Cục trưởng Cục Tác chiến, do đồng chí Lê Trọng Tấn, Phó Tổng Tham mưu trưởng trực tiếp phụ trách. Sau những cuộc trao đổi, thảo luận, bản dự thảo kế hoạch chiến lược được “Tổ trung tâm” chỉnh lý, bổ sung lần thứ năm với tên gọi "Kế hoạch giành thắng lợi ở miền Nam sau vài ba lần thay đổi so sánh lực lượng", mang bí số 133/TG1, hoàn thành ngày 16-5-1974. Tiếp đó, ngày 18-7-1974, Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm việc với “Tổ trung tâm”, chỉ đạo xây dựng kế hoạch cơ bản thành hai bước: Bước một, giành thắng lợi có ý nghĩa quyết định, làm thay đổi hẳn so sánh lực lượng trên chiến trường; bước hai, tổng công kích, tổng khởi nghĩa giành thắng lợi hoàn toàn. Căn cứ vào thực tế chiến trường, ý kiến chỉ đạo của các đồng chí trong Bộ Chính trị, đặc biệt là của Đại tướng Võ Nguyên Giáp và lắng nghe ý kiến của các tướng lĩnh, sĩ quan cao cấp trong quân đội, “Tổ trung tâm” tiếp tục bổ sung, hoàn chỉnh bản đề cương kế hoạch chiến lược. Bản đề cương này hoàn thành vào ngày 26-8-1974, mang tên "Kế hoạch giành thắng lợi ở miền Nam".

        Ngày 30-9-1974, tại Tổng hành dinh, Bộ Chính trị thảo luận tình hình miền Nam và bản dự thảo kế hoạch chiến lược do Bộ Tổng Tham mưu chuẩn bị. Hội nghị dành 2 ngày đầu để nghe Bộ Tổng Tham mưu trình bày tình hình miền Nam và kế hoạch tác chiến chiến lược. Tiếp đó, đồng chí Lê Trọng Tấn báo cáo Dự thảo kế hoạch chiến lược quyết tâm hoàn thành sự nghiệp giải phóng trong hai năm 1975 – 1976; trong đó, tập trung vào kế hoạch chiến lược năm 1975. Ngày 8-10-1974, phát biểu kết thúc phiên họp lần thứ nhất, đồng chí Lê Duẩn khẳng định: “Lúc này, chúng ta đang có thời cơ. Hai mươi năm chiến đấu mới tạo được thời cơ này, chúng ta phải biết nắm lấy để đưa sự nghiệp giải phóng dân tộc đến thắng lợi hoàn toàn… Ngay từ giờ, phải tiến hành mọi công việc chuẩn bị thật khẩn trương, tạo điều kiện và cơ sở vật chất đầy đủ nhất để đánh mạnh, đánh nhanh, thắng gọn và thắng triệt để trong hai năm 1975 - 1976”. Trên cương vị là Tổng Tư lệnh, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp khẳng định quyết tâm: Toàn quân sẽ kiên quyết thực hiện bằng được nhiệm vụ lịch sử mà đồng chí Bí thư thứ Nhất thay mặt Đảng trao cho quân đội.

       Nắm bắt và thực hiện chủ trương chiến lược của Hội nghị Bộ Chính trị tháng 10-1974, quân dân ta trên cả hai miền Nam, Bắc bước vào giai đoạn chuẩn bị mới với nhịp độ khẩn trương hơn và quy mô rộng lớn hơn, nhằm đáp ứng đòi hỏi của tình hình chiến trường miền Nam đang diễn biến hết sức mau lẹ.  Quân địch ở Đông Nam Bộ tuy số lượng đông, nhưng bị căng kéo, kìm giữ khắp nơi. Trước tình hình đó, Quân ủy và Bộ Tư lệnh Miền quyết định mở chiến dịch Đường 14 - Phước Long nhằm tiêu diệt một bộ phận chủ lực địch, mở rộng vùng giải phóng, tạo thêm bàn đạp tiến công Sài Gòn.

Chiến dịch Đường 14 – Phước Long là trận đụng độ quân sự lớn giữa Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam và Quân lực Việt Nam Cộng hòa diễn ra trên địa bàn tỉnh Phước Long trong chiến tranh Việt Nam, kết quả là Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam chiến thắng và chiếm được Phước Long. Tuy không nằm trong chiến dịch Tây Nguyên nhưng trận Phước Long (từ đêm 13 tháng 12 năm 1974 đến ngày 6 tháng 1 năm 1975) có ý nghĩa như một trận đánh trinh sát chiến lược, thử sức đối với hai bên cũng như thăm dò phản ứng của quốc tế, nhất là của Hoa Kỳ để mở đầu cho những diễn biến tiếp theo của Chiến dịch Mùa Xuân 1975 đưa đến sự sụp đổ của Quân lực Việt Nam Cộng hòa và chính quyền Việt Nam Cộng hòa.

       Ngày 10-8, Fo (Gerald R. Ford) lên làm tổng thống Mỹ, có nói: “Những cam kết hiện tại nào Hoa Kỳ đã đưa ra trước đây mà còn giá trị, thì chính quyền của tôi sẽ hoàn toàn tôn trọng”. Nhưng thời thế đã đổi thay. Tháng 11-1974, trong cuộc bầu cử Quốc hội, phe Dân chủ thắng lớn, giành được 34 ghế Hạ viện và 3 ghế Thượng viện. Kết quả này giúp cho Đảng Dân chủ trở thành đa số áp đảo với tỷ lệ 291 - 144 tại Hạ viện và 61 - 39 tại Thượng viện. Người Mỹ đã quá chán ghét cuộc chiến tranh Việt Nam, sẵn sàng từ bỏ nó và cố quên đi càng sớm càng tốt cái chương nhớp nhúa và hổ thẹn nhất trong lịch sử nước Mỹ.

Tình hình đó trong nội bộ nước Mỹ đã dẫn tới trận đánh Phước Long như là một hành động thăm dò của Bắc - Việt Nam đối với phản ứng của Mỹ. Trận đánh mở màn ngày 13-12-1974. Thị xã Phước Long bị thất thủ gần như ngay từ đầu. Ngày 7-1, toàn bộ tỉnh Phước Long đã do quân Giải phóng kiểm soát. Đại tá Xămmơ (Harry Summers) đã nhận xét ngắn gọn về ý nghĩa trận đánh này như sau: “Trận đánh nhỏ ít được biết đến ở Phước Long là một trong những trận đánh mang tính chất quyết định nhất, vì nó đánh dấu việc Mỹ từ bỏ đồng minh cũ của mình… trước sự vi phạm trắng trợn Hiệp định Pari, và nó được thiết kế một cách có tính toán kỹ lưỡng để vi phạm trắng trợn như vậy rõ ràng là nhằm thăm dò thái độ của Mỹ. Tổng thống Fo giới hạn một cách nhu nhược sự phản ứng của mình chỉ trong một công hàm ngoại giao. Miền Bắc - Việt Nam đã được bật đèn xanh cho việc chinh phục miền Nam - Việt Nam”.

Trên thực tế, Hà Nội nhận được các tin tình báo nói rằng tàu sân bay Intơprai (USS Enterprise) của Mỹ và các lực lượng hộ tống đã rời Philippin tiến gần tới Việt Nam và sư đoàn lính thủy đánh bộ Mỹ ở Ôkinaoa đã được đặt trong tình trạng báo động. Có một số hoạt động tại căn cứ hải quân Mỹ ở vịnh Subic (Philippin) có thể là dấu hiệu người Mỹ quay trở lại. Sau này vị tình báo chiến lược, hoạt động đơn tuyến của Bắc - Việt Nam là Phạm Xuân Ẩn nhớ lại: “Tôi đã nói rằng người Mỹ sẽ không đánh đâu. Mặc dù người Mỹ có một vài hành động, nhưng đó là những hành động trống rỗng. Tôi đã báo cáo với Hà Nội rằng người Mỹ sẽ không bao giờ trở lại nữa, thế nhưng vẫn có những hoài nghi. Hà Nội lại cho thử một trận đánh nữa ở Buôn Mê Thuột để xem người Mỹ có can thiệp hay không. Chỉ đến khi đó, Hà Nội mới tin điều tôi nói là đúng…”.

Vào những năm 1974, 1975, Phước Long là một trong số 11 tỉnh bao quanh Biệt khu thủ đô Sài Gòn-Gia Định Ở cách Sài Gòn khoảng 120 km về phía Bắc, Phước Long có địa giới giáp với Bình Long (phía Tây), Quảng Đức (phía Đông), Long Khánh (phía Nam) và Campuchia (phía Bắc) và nằm trong địa bàn tác chiến của Quân khu III (Quân đoàn III) của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Đây cũng là địa bàn hoạt động của các lực lượng thuộc Mặt trận Đông Nam Bộ (B2) sau này được tập hợp thành Quân đoàn 4 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam.

Phước Long có vai trò chiến lược quan trọng trong thế trận phòng thủ của Quân lực Việt Nam Cộng hòa ở Đông Nam Bộ. Giống như Bình Long với trung tâm phòng thủ là An Lộc, Phước Long gồm các chi khu quân sự Đôn Luân (Đồng Xoài), Bố Đức, Đức Phong, quận lỵ Phước Bình, thị xã Phước Long và căn cứ Bà Rá nằm trong tuyến phòng thủ từ xa của Quân lực Việt Nam Cộng hòa để bảo vệ Sài Gòn và các tỉnh đông dân trù phú ở Nam Bộ. Do có các giao lộ của đường số 2(cũ) nối với đường 14 qua ngã ba Đồng Xoài và của đường 311 nối với đường 14 qua ngã ba Liễu Đức; Phước Long là điểm án ngữ, ngăn chặn hành lang vận tải của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam qua Lào và Campuchia vào Đông Nam Bộ; đồng thời giữ vị trí chia cắt thế liên hoàn của các vùng do Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam chiếm lĩnh, cô lập vùng Lộc Ninh với các vùng Nam Tây Nguyên và các tỉnh miền Đông khác.

Ngày 12 tháng 12 năm 1974, tiểu đoàn 4 của trung đoàn 165 (sư đoàn 7) đánh chiếm một tiền đồn của QLVNCH tại cây số 19 - đường 14 do một đại đội bảo an đóng giữ. Đêm 12 tháng 12, chi khu quân sự Bù Đốp bị tiến công bởi 1 đại đội đặc công QGP thuộc tỉnh đội Phước Bình. Đến ngày 16 tháng 12, các lực lượng bảo an của QLVNCH chiếm lại chi khu này nhưng không giải toả được vị trí bị cắt đứt tại cây số 19. Ngày 13 tháng 12, đại tá Nguyễn Thống Thành, tiểu khu trưởng Phước Long đã đến kiểm tra Bù Đăng và ra lệnh nâng mức báo động từ "vàng" lên "da cam" đối với tất cả các đồn bốt của QlVNCH trong tỉnh. Do mưa lớn ngập đường chuyển quân, giờ G và ngày N mà Bộ Tư lệnh quân đoàn 4 dự kiến vào ngày 13 phải lui lại một ngày. Yếu tố bí mật bất ngờ không còn. 

Rạng ngày 14 tháng 12, trung đoàn 271 (thiếu) của sư đoàn 302 nổ súng tấn công tiểu đoàn bảo an 362 - QLVNCH đóng tại Bù Đăng. Quân lực Việt Nam cộng hòa chống trả ác liệt nhất tại khu cửa mở. Phải sau hơn 2 tiếng đồng hồ và bị thương vong gần hết đại đội 12 (chỉ còn 11 người sau trận đánh), Các đơn vị của trung đoàn 271 mới lọt được vào bên trong khu phòng thủ. Đến 11 giờ 30 phút cùng ngày, các đơn vị của Trung đoàn 271 đã tràn ngập chi khu quân sự Bù Đăng. Cũng trong ngày 14 tháng 12, các trung đoàn 165 và 201 (sư đoàn 7) sau một ngày đêm bao vây, tạo thế đã đánh chiếm căn cứ Vĩnh Thiện và khu hành chính Bù Đăng sau gần 2 giờ công kích.

 

Ngày 15 tháng 12, hai tiểu đoàn đặc công thuộc trung đoàn 429 (B2) tấn công yếu khu Bù Na do một đại đội của tiểu đoàn bảo an 363 QLVNCH và 1 trung đội pháo binh đóng chốt. Tiểu đoàn bảo an 363 với sự chi viện từ trên không của 32 phi vụ cường kích do sư đoàn 5 không quân ở Biên Hòa thực hiện đã chống trả quyết liệt từ sáng đến chiều 15 tháng 12 nhưng vẫn thất thủ vì không nhận được sự chi viện nào từ Phước Long và Đôn Luân do đường 14 bị cắt đứt và hai cứ điểm này cũng đang bị vây lỏng. Trong trận này, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam chiếm được 2 khẩu trọng pháo. Ngày 16 tháng 12, tướng Dư Quốc Đống bay lên thị sát Phước Long và tăng phái cho khu phòng thủ này tiểu đoàn bộ binh số 2 rút từ trung đoàn 7 (sư đoàn 5). Cùng ngày, đại tá Đỗ Công Thành tổ chức phản kích khai thông đường 14 nối với Bố Đức nhưng đều bị các lực lượng mạnh hơn của QGP đẩy lùi.

Ngày 22 tháng 12, chi khu quân sự và quận lỵ Bố Đức do tiểu đoàn bảo an 341 đóng giữ bị tấn công và đánh chiếm lần thứ hai trong chiến dịch bởi các đơn vị của trung đoàn 165, sư đoàn 7 (Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam). Cùng ngày các đồn quan trọng trên đường 14 như Phước Tín, Phước Quả, Phước Lộc thất thủ. Đại tá Thành điều tiểu đoàn 1 (Chiến đoàn 7) mới được tăng cường và 2 đại đội thám báo phản kích nhưng bị tiểu đoàn 6 (trung đoàn 165 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam) đẩy lùi, phải rút về núi Bà Rá cùng với số quân còn lại từ các đồn kể trên. Ngày 24 tháng 12, Tướng Dư Quốc Đống dự định điều 1 chiến đoàn của sư đoàn 18 lên giữ Phước Long nhưng không được Nguyễn Văn Thiệu chuẩn y vì theo lệnh của ông ta, mọi sự điều động các đơn vị cấp trung đoàn phải do chính tổng thống quyết định. Tướng Đống đành phải ra lệnh cho chuẩn tướng Lê Nguyên Vĩ dùng trực thăng đưa 1 tiểu đoàn và 1 đại đội bộ binh rút từ sư đoàn 5 đổ quân xuống Đồng Xoài nhưng đã quá muộn, toàn bộ chi khu quân sự Đôn Luân đã nằm trong tầm bắn thẳng của các loại pháo, cối và súng máy của đối phương. Mặc dù được 48 phi vụ cường kích từ sư đoàn 5 không quân yểm trợ nhưng QLVNCH chỉ đổ được 1 đại đội xuống Đồng Xoài. Tướng Lê Nguyên Vĩ phải ra lệnh cho các trực thăng quay lại.

5 giờ 37 phút sáng 26 tháng 12, chi khu quân sự Đôn Luân với 11 lớp rào thép gai, nhiều bãi mìn và hơn 50 chốt phòng thủ kiên cố đã bị các đơn vị của trung đoàn 141 (sư đoàn 7) tấn công từ bốn hướng sau 15 phút bắn phá đường của 7 khẩu pháo các cỡ 85mm, 105mm, 122mm và 4 khẩu cối 120 mm. Pháo binh QLVNCH ở căn cứ Phước Vĩnh bị trung đoàn pháo binh 210 của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam chế áp, không chi viện được. Hoả lực phòng không mạnh của tiểu đoàn 20 súng máy cao xạ đã hạn chế tối đa khả năng chi viện từ trên không của các máy bay A-1 và A-37 của Không lực VNCH. Đến 10 giờ 30 phút, chi khu quân sự Đôn Luân thất thủ. Thiếu tá Đặng Vũ Khoái, chỉ huy căn cứ chi khu Đôn Luân và nhiều sĩ quan dưới quyền thuộc tiểu đoàn bảo an 352 bị bắt làm tù binh tại Suối Rạt. Chiều 26 tháng 12, các đơn vị thuộc trung đoàn 141 (sư đoàn 7 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam) phối hợp với trung đoàn 201 tiếp tục đánh chiếm các đồn Tà Bế, Phước Thiện, Cầu số 2 và sân bay trực thăng.

Chỉ trong hai tuần, Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã mất 4 mục tiêu quan trọng trên tuyến phòng thủ từ xa tại địa bàn tại Quân khu III. Quận lỵ Phước Bình và thị xã Phước Long hoàn toàn bị cô lập trên bộ với các đơn vị khác của QLVNCH tại Quân khu III.

Để giải vây cho Phước Long, QLVNCH cần ít nhất 1 sư đoàn hỗn hợp bộ binh, kị binh thiết giáp và quân dù nhưng trong tình hình các đơn vị tổng trù bị đã bị giam chân tại Quân khu I và Bắc Tây Nguyên, không thể điều động được nếu không có quyết định của tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Nhận thấy tình hình nguy ngập tại Phước Long, ngày 29 tháng 12, đại tướng Cao Văn Viên, Tổng tham mưu trưởng Quân lực Việt Nam Cộng hòa đề nghị tổng thống Nguyễn Văn Thiệu phê duyệt gấp bản kế hoạch phòng thủ Phước Long đã được đệ trình từ tháng 10 năm 1974. Kết quả là đại tướng Cao Văn Viên nhận được mấy lời phê vắn tắt: "Báo trung tướng (chỉ tướng Dư Quốc Đống) điều nghiên, tùy nghi quyết định. Cần lưu ý động viên các chiến hữu tử thủ".

Khi những lời phê trên đây được chuyển đến tay tướng Dư Quốc Đống thì cũng là lúc Phước Long bị tấn công ngày 31 tháng 12 năm 1974. Khu phòng thủ Phước Long của QLVNCH dựa vào ba cụm điểm tựa chính là thị xã Phước Long, quận lỵ Phước Bình và căn cứ Bà Rá thành thế chân vạc yểm trợ cho nhau. Theo thuyết trình phòng thủ quân sự của đại tá Đỗ Công Thành, tỉnh trưởng Phước Long, mặc dù chu vi phòng ngự đã bị thu hẹp nhưng để nối liên lạc giữa các cụm phòng thủ này, còn phải giữ được các tuyến ngăn chặn ở Thác Mơ, Phước Lộc, các đường 309, 310... Đây là những điểm yếu của khu phòng thủ Phước Long.

 Từ ngày 27 đến ngày 30 tháng 12, các đơn vị của Quân đoàn 4 đã hành quân đến các tuyến xuất quanh Phước Long và Phước Bình. Đến chiều 30 tháng 12, trung đoàn 165 (sư đoàn 7) đã tập kết ở phía Đông và Đông Nam Phước Bình; trung đoàn 141 (sư đoàn 7) dùng ô tô cơ động theo đường 2 cũ đến phía Bắc và Tây Bắc Phước Bình; trung đoàn 271 (sư đoàn 3) chặn đường 309 ở Thác Mơ; trung đoàn 16 từ Tây Ninh về bắc Sông Bé chuẩn bị hợp vây; tiểu đoàn 78 đặc công đã tập trung dưới chân núi Bà Rá; trung đoàn 2 (sư đoàn 9) và trung đoàn 209 (sư đoàn 7) làm lực lượng dự bị. Trong đợt 2 của chiến dịch Đường 14 – Phước Long, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 4 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam được Quân ủy Trung ương cho phép sử dụng một đại đội pháo 130 mm với 1/2 cơ số đạn và 2 đại đội xe tăng T-54 (14 chiếc). Các loại súng lớn khác yểm hộ mặt đất cho cuộc tấn công có 12 khẩu pháo 85 mm, 105 mm, 122 mm và 8 khẩu cối các cỡ 120, 160 mm. Nhiệm vụ yểm hộ phòng không được giao cho trung đoàn 210 gồm một tiểu đoàn pháo cao xạ 37 mm, hai tiểu đoàn súng máy 14,5 mm và 12,7 mm.

Rạng sáng ngày 31 tháng 12 năm 1974, các trung đoàn 165 (thiếu), 141 và tiểu đoàn 3, bộ đội địa phương Phước Long nổ súng tấn công Phước Bình. Tuy nhiên, tiểu đoàn 78 đặc công và trung đoàn 271 khai trận chậm hơn nên QLVNCH đã dùng pháo binh trong thị xã Phước Long được hiệu chỉnh bằng trinh sát pháo trên núi Bà Rá bắn cản đường. Chỉ huy trưởng tiểu khu Phước Long được chiến đoàn 7 (sư đoàn 5 QLVNCH) điều tiểu đoàn 1 từ chân núi Bà Rá đánh vào sườn tiểu đoàn 4 và tiểu đoàn 6 (trung đoàn 165 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam) đang tấn công qua cửa mở. Trong khi trung đoàn 165 ở hướng Đông Nam Phước Bình phải dừng lại đối phó với cánh quân phản kích thì trung đoàn 141 từ hướng Tây Bắc tràn xuống đánh vào trung tâm quận lỵ. 13 giờ chiều ngày 31 tháng 12, Bộ tư lệnh Quân đoàn 4 điều 4 xe tăng T-54 yểm hộ cuộc tiến công. Một chiếc bị trúng mìn khi đi qua ngã tư chi khu, 3 chiếc còn lại đã hỗ trợ bằng hỏa lực bắn thẳng cho các tiểu đoàn 3 và 5 (trung đoàn 141) đánh chiếm chốt Vạn Kiếp và sân bay Phước Bình. 15 giờ chiều cùng ngày, Phước Bình thất thủ. Tiểu đoàn 2 (Chiến đoàn 7 QLVNCH) bị đẩy lùi về Suối Dung.

Trong ngày 31, Không lực Việt Nam Cộng hòa thực hiện hơn 50 phi vụ oanh tạc quanh chân núi Bà Rá, ngăn chặn được tiểu đoàn 78 đặc công Quân đội Nhân dân Việt Nam đang tấn công căn cứ này. Phải đến nửa đêm, với sự chi viện của lựu pháo và pháo cao xạ 37 mm hạ nòng bắn thẳng, tiểu đoàn đặc công 78 mới chiếm được núi Bà Rá và tổ chức ngay một đài quan sát chỉ điểm cho pháo lớn bắn vào thị xã Phước Long sáng ngày 1 tháng 1 năm 1975. Quân lực Việt Nam cộng hòa bị mất 8 khẩu pháo 105 mm và 4 khẩu 155 mm tại trận địa pháo trung tâm thị xã do trúng đạn pháo của đối phương.[16] Đến sáng ngày 2 tháng 1 năm 1975, tiểu khu Phước Long đã nằm trong tầm hỏa lực bắn thẳng bằng súng bộ binh của các trung đoàn 16, 141, 165, 201 và 207.

Trước nguy cơ bị tiêu diệt, đại tá Đỗ Công Thành gấp rút tái phối trí lại lực lượng. Sở chỉ huy nhẹ của tiểu khu Phước Long được chuyển về trại Lê Lợi. Tiểu đoàn bảo an 340 và đại đội thám báo số 5 giữ cầu Suối Dung và chốt Vân Kiều. Tiểu đoàn 2 (chiến đoàn 7 - sư đoàn 5 tăng phái giữ các ngã ba Tư Hiền 1 và Tư Hiền 2. Đại tá Thành cũng yêu cầu chi viện nhưng chuẩn tướng Lê Nguyên Vĩ đã không thi hành lệnh của trung tướng tư lệnh Quân đoàn III Dư Quốc Đống với lý do sợ "mắc bẫy dương Đông kích Tây của Cộng quân". Trong ngày 1 tháng 1 năm 1975, Không lực Việt Nam cộng hòa đã tổ chức 53 phi vụ oanh tạc vào tuyến tấn công của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam ở khu vực nghĩa trang thị xã, tạm thời chặn được mũi tiến công của tiểu đoàn 4 (trung đoàn 165), phá hủy một khẩu đội cao xạ 37 mm. QLVNCH báo cáo lên cấp trên là họ đã bắn cháy 15 xe tăng của đối phương.

Các trận đánh phòng ngự của QLVNCH tại vùng phụ cận thị xã chỉ làm chậm tốc độ tiến quân của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam thêm 24 giờ. Sáng ngày 2 tháng 1, một trận pháo kích kéo dài gần 1 giờ từ sáu khẩu 130 mm, sáu khẩu 105 mm, bốn khẩu 85 mm đã mở đường cho đợt tấn công tiếp theo của các trung đoàn 165, 141 và 271. Ở phía Nam, trung đoàn 165 chiếm trại Đoàn Văn Kiều. Ở hướng Tây, trung đoàn 141 giằng co với tiểu đoàn 1 (chiến đoàn 9 QLVNCH) ở bắc Hồ Long Thủy và khu gia binh. Hai bên đều tổn thất nặng. Ở hướng Đông Nam, trung đoàn 271 chiếm được ngã ba Tư Hiền và bãi xe. Sáng ngày 3 tháng 1, các đơn vị đi đầu của trung đoàn 141 (4 đại đội) đã lọt vào thị xã nhưng bị cô lập. Tư lệnh quân đoàn điều động trung đoàn 201 (thiếu 1 tiểu đoàn) từ tuyến 2 lên tăng cường cho trung đoàn 141.. Trưa ngày 3 tháng 1, tướng Dư Quốc Đống điều động chiến đoàn 8 (sư đoàn 5 QLVNCH) sử dụng trực thăng định đổ bộ xuống thị xã nhưng vấp phải lưới lửa phòng không của trung đoàn 210 và pháo binh bắn chặn trên mặt đất, các trực thăng của QLVNCH không dám hạ cánh đổ quân. Không quân vận tải của QLVNCH thả dù tiếp tế 20 tấn đạn pháo xuống phía Bắc thị xã nhưng do bị pháo binh Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam bắn chặn, các đơn vị phòng thủ Phước Long không thu hồi được số hàng này sau đó để rơi vào tay Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam. Cũng trong ngày 3 tháng 1 (tức ngày 4 tháng 1 theo lịch VNCH), Sở chỉ huy tiểu khu Phước Long bị pháo kích gây tổn thất nặng, phó chỉ huy trưởng tiểu khu tử thương, chỉ huy trưởng chi khu Phước Bình bị thương nặng.

Ngày 4 tháng 1, không lực VNCH tiếp tục oanh kích các tuyến tấn công của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, buộc các đơn vị này phải dừng lại đào công sự phòng tránh. 10 giờ ngày 4 tháng 1, trong nỗ lực cuối cùng để ứng cứu Phước Long, tướng Dư Quốc Đống điều động liên đoàn biệt kích dù số 81 bằng không vận lên Phước Long. Sau đợt đổ bộ đầu tiên xuống đồi Đắc Song, 2 đại đội biệt kích dù bị pháo binh Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam bắn chặn và bị tổn thất 2 tiểu đội. Ngay lập tức, Bộ tư lệnh Quân đoàn 4 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam điều trung đoàn 16 (đang làm dự bị tuyến 2) chiếm lĩnh bãi đổ quân tại đồi Đắc Song và bên cầu Đắc Lung; dùng một bộ phận lực lượng truy đuổi số quân dù đã đổ bộ, làm các đơn vị dù tổn thất thêm một phần ba quân số và buộc họ phải chia thành từng toán nhỏ để liên lạc và hội quân với các lực lượng đang phòng thủ trong thị xã. Tuy nhiên, tình hình đã quá muộn để giải cứu cho Phước Long. Hai phần ba thị xã đã rơi vào tay Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam. Khu phòng thủ Phước Long bị thu hẹp tối đa ở Đông Bắc thị xã, chỉ còn lại dinh tỉnh trưởng, khu hành chính tỉnh và khu chợ.

Ngày 5 tháng 1, các đơn vị của trung đoàn 201 (mới tăng cường) và trung đoàn 165 tiếp tục vây ép các lực lượng phòng thủ còn lại của QLVNCH trong khu hành chính tỉnh kết hợp với pháo binh bắn phá liên tục các mục tiêu. Sáng sớm ngày 6 tháng 1, Bộ tư lệnh Quân đoàn 4 điều thêm Trung đoàn 2 (sư đoàn 9) và 10 xe tăng đến tăng cường cho các đơn vị đang tham chiến và mở đợt tổng công kích đánh chiếm thị xã. Lần lượt các chốt cuối cùng của QLVNCH tại đường Cách mạng, đường Đinh Tiên Hoàng, khu Tâm lý chiến vị tràn ngập. 10 giờ 30 phút sáng ngày 6 tháng 1, dinh tỉnh trưởng Phước Long bị các đơn vị Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam thuộc trung đoàn 141 (sư đoàn 7) và trung đoàn 2 (sư đoàn 9) đánh chiếm. 19 giờ ngày 6 tháng 1, điểm cố thủ cuối cùng của lính biệt kích dù QLVNCH dưới hầm ngầm dinh tỉnh trưởng bị chiếm Số quân còn lại của hai Biệt đội 1 và 4 biệt kích dù rút khỏi thị xã dưới quyền chỉ huy của trung tá Thông. Một số bị bắt, một số bị hoả lực bộ binh bắn gục tại Suối Dung. Không lực Việt Nam Cộng hòa ném bom hủy diệt xuống thị xã Phước Long. Trong số 5400 sĩ quan và bình sĩ QLVNCH phòng thủ Phước Long, chỉ có 850 thoát được về trình diện tại Quân đoàn III. Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam cho biết họ bắt được 2444 tù binh, trong đó có 26 sĩ quan cấp tá và cấp uý, thu hơn 5000 vũ khí các loại và một kho đạn đại bác trên 10.000 viên.

Quân đoàn III - Quân lực Việt Nam Cộng hòa là đơn vị chỉ đạo lực lượng phòng thủ Phước Long và tất các đơn vị có khả năng tăng viện cho nó. Ngay từ khi các chi khu quân sự Đức Phong, Bố Đức, Đôn Luân (Đồng Xoài) bị đánh chiếm, tướng Dư Quốc Đống đã thỉnh cầu Bộ Tổng tham mưu cho rút sư đoàn dù (đang đóng tại Quân khu I) về giải vây cho Phước Long nhưng không được chấp nhận. Ngày 3 tháng 1, khi tình hình tại Phước Long đã trở nên nguy ngập, đề tài tăng viện cho Phước Long lại được bàn tại cuộc họp tại Dinh Độc Lập do giữa đích thân tổng thống Nguyễn Văn Thiệu chủ toạ. Tướng Dư Quốc Đống nhắc lại đề nghị của mình và đề nghị nếu không tăng phái quân dù thì tăng phái một sư đoàn bộ binh cũng được. Vì một lần nữa không được Nguyễn Văn Thiệu chấp nhận, tướng Đống xin từ chức sau ba tháng chỉ huy Quân đoàn III nhưng cũng bị tổng thống bác bỏ. Kết quả là Quân đoàn III phải tự lực xoay xở việc giải tỏa Phước Long với Liên đoàn 81 Biệt kích dù, đơn vị dự bị cuối cùng của Quân đoàn. Do không có lực lượng trên bộ phối hợp nên cuộc giải vây Phước Long của biệt kích dù chỉ thực hiện được một phần và thất bại.

Sau cuộc họp ngày 3 tháng 1, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu lệnh cho Bộ Tư lệnh Quân đoàn III gửi một bức điện đến tiểu khu Phước Long; có đoạn viết: "Tổng thống đã họp nội các phiên đặc biệt ngày 3 tháng 1 để cứu xét tình hình quý tiểu khu. Rất thông cảm. Tổng thống và quân lực Việt Nam Cộng hòa ưu ái gởi tặng các chiến hữu 3,2 triệu đồng tiền thưởng, khen ngợi và mong các chiến hữu cố gắng tử thủ". Trong khi chưa thực hiện được phần thưởng nói trên thì Phước Long Thất thủ ngày 6 tháng 1. Ngay trong đêm 6 tháng 1, Hội đồng an ninh quốc gia VNCH đã họp khẩn cấp để cứu xét tình hình. Ngày 10 tháng 1 năm 1975, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố trên đài phát thanh: "Toàn quốc dành ba ngày truy điệu, cầu nguyện cho Phước Long" và kêu gọi "kiên quyết lấy lại Phước Long".. Ngày 11 tháng 2 năm 1975, trong thông điệp đầu năm đọc trên đài phát thanh, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu yêu cầu toàn quốc cần thực hiện ba nỗ lực chính trong năm 1975: Hỗ trợ tối đa tiền tuyến, ổn định tối đa hậu phương, tích cực tăng gia sản xuất.

Ngày 10 tháng 1 năm 1975, người phát ngôn Nhà Trắng tuyên bố: "Tổng thống Gerald Ford đã và đang theo dõi cuộc chiến ở Việt Nam Cộng hòa nhưng không có ý vi phạm sự cấm chỉ việc sử dụng lực lượng quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam". Người phát ngôn Lầu năm góc, ông William Betche cho rằng Hoa Kỳ vẫn tin chắc vào sự lượng định cách đây một tháng về tình hình ở Việt Nam, mặc dù có những biến động mới mà theo đó, Lầu Năm Góc đã không trù liệu một cuộc tổng tiến công của cộng sản trên toàn Việt Nam Cộng hoà. Bị ràng buộc bởi đạo luật "War power act" do Quốc hội Hoa Kỳ thông qua cuối năm 1973 cấm tổng thống Hoa Kỳ sử dụng quân đội nếu không được sự chấp thuận của Quốc hội trước 6 tháng. Hoa Kỳ chỉ có thể hành động hạn chế. Bộ Tư lệnh các lực lượng Hoa Kỳ ở Tây Thái Bình Dương điều động một lực lượng hải quân đặc nhiệm gồm tàu sân bay Enterprise, tuần dương hạm Long Beach, hai tàu khu trục và một số tàu hậu cần rời cảng Subic tiến vào Biển Đông. Sư đoàn thủy quân lục chiến số 3 của Hải quân Hoa Kỳ đóng tại Okinawa cũng được đưa vào tình trạng báo động sẵn sàng chiến đấu.

     Tuy nhiên, tất cả chỉ có vậy. Khi Hoa Kỳ chỉ chấp nhận chiến đấu ở miền Nam Việt Nam bằng lời nói chứ không phải bằng súng đạn thì niềm vui tràn ngập ở Hà Nội. Ký giả Hoa Kỳ Alan Dawson nhận xét: "Nó chính lại là một trong những chiếc đinh cuối cùng đóng lên chiếc quan tài của quân đội Sài Gòn".

Việc để mất Phước Long đã gây ra những suy sụp về tinh thần trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa. Đại tá Phạm Bá Hoa, phụ tá hành quân của đại tướng Cao Văn Viên nhận xét:

 Chiến thắng Đường 14 - Phước Long là sự đóng góp, hy sinh rất lớn của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam và nhân dân tỉnh Bình Phước. Đây là sự đóng góp to lớn về sức người, vật chất của các tầng lớp công nhân cao su và đồng bào các dân tộc thiểu số trong tỉnh, đã tích cực tham gia Chiến dịch Đường 14 – Phước Long, giải phóng toàn tỉnh. Nhờ có chiến thắng này Quân Giải phóng đã bước đầu đánh giá được thực lực của Quân lực Việt Nam Cộng hòa trước khi tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, giữ vững bàn đạp cho các binh đoàn chủ lực của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tiến về giải phóng Sài Gòn, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc. 
Về phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trận Phước Long đã củng cố niềm tin rằng họ có thể thắng trong cuộc chiến tranh này do phía Hoa Kỳ không có phản ứng gì hơn là điều một hạm đội vừa phải đến Biển Đông với những mục tiêu không rõ ràng là đe dọa hay thực sự tham chiến trở lại. Mục đích đó được giải đáp trong lời tuyên bố của Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ James R. Schlesinger trước báo chí: "Đây chưa phải là một cuộc tiến công ồ ạt của Bắc Việt Nam" và thông báo của Đại sứ Hoa Kỳ tại Sài Gòn Graham Martin với tổng thống Nguyễn Văn Thiệu: "Việc yểm trợ của Hoa Kỳ lúc này là chưa được phép"

Ngay sau thất bại Phước Long, cố vấn Mỹ John Pilger đã tiên liệu trước về sự sụp đổ của chế độ Sài Gòn sẽ diễn ra trong nay mai. Ông viết:

          "Sài Gòn đang sụp đổ trước mắt, một Sài Gòn được người Mỹ hậu thuẫn, một thành phố được coi là "thủ đô tiêu dùng" nhưng chẳng hề sản xuất được một mặt hàng nào ngoài chiến tranh. Trong hàng ngũ của quân đội lớn thứ tư thế giới vào thời điểm đó, binh lính đang đào ngũ với tốc độ cả nghìn người trong một ngày..."
                                                                   ***

Trong lúc Chiến dịch Đường 14 - Phước Long được triển khai và đang trên đà thắng lợi, ngày 18-12-1974, Bộ Chính trị họp đợt hai tại “Nhà con rồng” Bộ Quốc phòng, quyết định: Chọn hướng tiến công chính Tây Nguyên, mục tiêu then chốt là Buôn Ma Thuột để mở màn cho cuộc tiến công chiến lược năm 1975.

        Sự lựa chọn này xuất phát từ phương châm tác chiến của Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp, đó là: Tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu; đánh chỗ yếu trước, đánh chỗ mạnh sau. Mưu kế của Đại tướng là bày ra một hình thế giàn trận chiến lược - bày binh bố trận nhằm ghìm địch ở hai đầu Nam Bắc chiến tuyến là Sài Gòn và Huế - Đà Nẵng để tạo thế phá vỡ Tây Nguyên. Tiếp đó, Đại tướng cùng với lãnh đạo Bộ Quốc phòng đã quyết định đưa Quân đoàn 4 vào Bắc Đồng Nai, Quân đoàn 2 vào Huế. Hai quân đoàn này đóng ở các địa bàn này đã buộc địch phải đưa Sư đoàn lính dù và Sư đoàn lính thủy đánh bộ - tổng dự bị chiến lược ra để giữ hai khu vực chiến lược quan trọng là Huế và Sài Gòn, có như vậy địch mới để sơ hở Tây Nguyên.

       So với toàn bộ chiến trường miền Nam lúc bấy giờ, Tây Nguyên là nơi địch yếu hơn cả. Nhưng Tây Nguyên chỉ thực sự yếu khi bị cô lập với các chiến trường khác. Bởi vậy, việc kìm giữ các sư đoàn cơ động tổng dự bị chiến lược của địch là một bộ phận hợp thành quan trọng trong việc cài thế của ta. Hơn nữa, Đại tướng Võ Nguyên Giáp chọn Tây Nguyên làm mục tiêu chủ yếu, vì đây vừa có núi, vừa có cao nguyên, lại nằm trên đường chiến lược Hồ Chí  Minh. Ở Tây Nguyên, Đại tướng chọn Buôn Ma Thuột làm điểm đột phá vì Plâycu và Kon Tum địch còn tương đối mạnh và thường xuyên phòng bị; ngược lại, Buôn Ma Thuột địch sơ hở và ít quân, chủ yếu là hậu cứ. Điểm trúng “huyệt” đó, toàn bộ Tây Nguyên và ven biển miền Nam Trung Bộ sẽ bị rung chuyển, phá thế bố phòng của địch. Ngoài ra, để tạo cho Tây Nguyên, Buôn Ma Thuột mọi điều kiện thuận lợi giành chiến thắng một cách chắc chắn, Đại tướng Võ Nguyên Giáp tăng cho Tây Nguyên 2 sư đoàn, đưa tổng quân số ở đây lên tới 4 sư đoàn và một số trung đoàn độc lập, lại có sự phối hợp của Sư đoàn 3 Sao vàng Quân khu 5 và sự hỗ trợ của Đoàn 559. Đến đây, Tây Nguyên trở thành một quân đoàn mạnh.

      Qua các đợt hoạt động của quân và dân ta trên chiến trường trong hai năm 1973 và 1974 đã đẩy ngụy quân Sài Gòn ngày càng bị lúng túng về tác chiến và xây dựng lực lượng. Từ giữa năm 1974 trở đi, viện trợ của Mỹ giảm, kéo theo phương tiện chiến tranh, hỏa lực chi viện cho chiến đấu và sức chiến đấu của chủ lực ngụy giảm sút mạnh.

      Về ta, trong năm 1974, việc xây dựng lực lượng, chuẩn bị chiến trường tiếp tục được tiến hành với nhịp độ ngày càng khẩn trương. Ba quân đoàn chủ lực lần lượt ra đời, một khối lượng vật tư chiến tranh gần 50 vạn tấn được chuyển vào miền Nam, hệ thống đường chiến lược, chiến dịch phát triển nhanh và ngày càng hoàn thiện.

      Nắm vững thời cơ cách mạng đang đến, từ ngày 18-12-1974 đến ngày 8-1-1975, Bộ Chính trị họp quyết định về quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam, trong đó Nam Tây Nguyên là hướng chiến lược chủ yếu trong cuộc tổng tiến công lớn trong năm 1975. Ngày 9-1-1975, Thường trực Quân ủy Trung ương họp quán triệt và tổ chức thực hiện Nghị quyết Bộ Chính trị về Chiến dịch Tây Nguyên. Tại hội nghị, ý định giải phóng Buôn Ma Thuột hình thành rõ rệt và chiến dịch Tây Nguyên chính thức được quyết định mở với mật danh “Chiến dịch 275”.

                                    Chiến dịch Tây Nguyên - Mở đầu cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 

Bộ đội ta đánh chiếm sân bay Buôn Ma Thuột trong Chiến dịch Tây Nguyên - Mở đầu cho cuộc Tổng tiến công mùa Xuân năm 1975. Ảnh tư liệu

    Tây Nguyên là vùng đất chiến lược quan trọng, trong quá trình xâm lược Việt Nam, Mỹ - ngụy đã tiến hành xây dựng Tây Nguyên thành một căn cứ chiến lược lớn nhằm đè bẹp phong trào cách mạng của ba nước Đông Dương, ngăn chặn sự chi viện của ta từ miền Bắc vào và từ rừng núi xuống đồng bằng. Sở chỉ huy Quân đoàn 2, Quân khu 2 ngụy quân Sài Gòn được đặt ở Pleiku. Dọc theo biên giới Việt Nam - Campuchia là các trại biệt kích, dọc Đường 14 là hệ thống các căn cứ quân sự dày đặc trong đó có các căn cứ cấp sư đoàn và quân đoàn được tổ chức vững chắc thành tuyến phòng ngự cơ bản làm nòng cốt cho hệ thống phòng thủ của địch ở Tây Nguyên... Nhìn tổng thể, địch bố trí mạnh ở phía Bắc, còn khu vực phía Nam được xem như là hậu phương bố trí lực lượng mỏng hơn.

        Sau khi hạ quyết tâm mở chiến dịch Tây Nguyên, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định thành lập Đảng ủy và Bộ Tư lệnh chiến dịch Tây Nguyên, Trung tướng Hoàng Minh Thảo được giao trọng trách làm Tư lệnh, Đại tá Đặng Vũ Hiệp làm Chính ủy, Bí thư Đảng ủy chiến dịch. Khu ủy Khu 5 cử đồng chí Bùi San, Phó bí thư Khu ủy và đồng chí Nguyễn Cần, Bí thư Tỉnh ủy Đắk Lắk đi cùng Đảng ủy, Bộ Tư lệnh chiến dịch trực tiếp chỉ đạo các tỉnh phối hợp chặt chẽ với bộ đội chủ lực trong chuẩn bị cũng như trong tác chiến. Bộ phận đại diện của Quân ủy và Bộ tổng Tư lệnh do Đại tướng Văn Tiến Dũng chủ trì cũng được đặt tại Tây Nguyên để trực tiếp chỉ đạo chiến dịch. 

      Lực lượng tham gia chiến dịch gồm các sư đoàn bộ binh (10, 320, 316, 3 và 968); bốn trung đoàn bộ binh (25, 29B, 271, 95A); Trung đoàn đặc công 198; hai tiểu đoàn đặc công (14, 27); hai trung đoàn pháo binh (40, 675); ba trung đoàn phòng không (232, 234, 593); Trung đoàn xe Tăng Thiết giáp 273; hai trung đoàn công binh (7, 575); Trung đoàn thông tin 29; Trung đoàn ô tô vận tải và lực lượng vũ trang tỉnh Đắk Lắk, Kon Tum và Gia Lai.

      Sau khi được thành lập, Đảng ủy Bộ Tư lệnh chiến dịch nhanh chóng quán triệt nhiệm vụ và xây dựng quyết tâm chiến dịch. Nhiệm vụ chủ yếu mà Bộ Chính trị và Quân ủy giao ngày 21-1-1975: “tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch (diệt Sư đoàn 22, đánh thiệt hại nặng Quân đoàn 2 ngụy), giải phóng các tỉnh Đắk Lắk, Phú Bổn, Quảng Đức; mục tiêu then chốt là thị xã Buôn Ma Thuột và ba quận lỵ Đức Lập, Cẩm Ga, Kiến Đức, mở rộng hành lang, nối liền Tây Nguyên với miền Đông Nam Bộ, thực hiện chia cắt chiến lược, tạo cục diện mới về chiến lược”.

       Cách đánh cụ thể được xác định là tiến công nghi binh vào Pleiku và Kon Tum, cắt Đường 14, thu hút và giam chân phần lớn chủ lực địch ở bắc Tây Nguyên; cắt đứt hai trục Đường 19 và 21 để ngăn chặn, tiêu diệt lực lượng dự bị của địch từ đồng bằng lên Tây Nguyên và quân địch ở Tây Nguyên rút chạy; đánh chiếm Đức Lập, Thuần Mẫn nhằm cô lập thị xã Buôn Ma Thuột; tập trung lực lượng chủ yếu giáng đòn quyết định giải phóng thị xã Buôn Ma Thuột, sẵn sàng đánh bại phản kích của địch. Trận then chốt đánh thị xã Buôn Ma Thuột được dự kiến trong trường hợp địch chưa kịp tăng cường phòng ngự dự phòng, và ngay cả trong trường hợp địch đã tăng cường phòng ngự dự phòng.

    Ðể thực hiện quyết tâm giải phóng Buôn Ma Thuột, Bộ Tư lệnh chiến dịch nghi binh lừa địch ở Plây Cu và Kon Tum. Ta dùng vô tuyến điện để nghi binh, sau khi bí mật chuyển hai sư đoàn 10 và 316 về Buôn Ma Thuột và dùng Sư đoàn 968 để đánh nghi binh vào tuyến phòng thủ vòng ngoài thị xã Plây Cu khiến địch mắc kế, dồn lực lượng bảo vệ hướng này.

      Ngày 4-3-1975, chiến dịch Tây Nguyên chính thức bắt đầu. Theo đó, ngày 4/3, Trung đoàn 95A đánh cắt đường 19 ở Măng Giang. Sau đó Sư đoàn 3 Sao Vàng đánh cắt đường 19 ở đèo An Khê làm cho tuyến vận chuyển chiến lược từ Quy Nhơn đi Plây Cu của địch bị cắt đứt. Ngày 5/3, Trung đoàn 25 đánh cắt đường 21 từ Buôn Ma Thuột đi Nha Trang. Ngày 7/3, Sư đoàn 320 đánh chiếm Chư Sê và sau đó đánh chiếm quận lỵ Thuần Mẫn. Buôn Ma Thuột bị bao vây hoàn toàn.

     Hai giờ sáng ngày 10-3-1975, quân ta tiến công và giải phóng Buôn Ma Thuột. Trận đánh vào Buôn Ma Thuột mở màn cho chiến dịch Tây Nguyên, tạo bước ngoặt quan trọng, làm thay đổi cục diện chiến trường. Ta đồng loạt tiến công Buôn Ma Thuột bằng pháo và đặc công. Lợi dụng tiếng đạn nổ và đèn trong thị xã lúc tắt, lúc sáng, các đoàn xe tăng, xe bọc thép, pháo binh, cao xạ, và bộ binh nhanh chóng tiến vào chiếm lĩnh trận địa. 7 giờ sáng 10/3 ta bắt đầu mở cuộc tiến công vào thị xã bằng bốn mũi và một mũi thọc sâu với xe tăng, xe thiết giáp và được pháo binh chi viện. 


Quân Giải phóng tiến đánh thị xã Buôn Ma Thuột tháng 3/1975. Ảnh: Tư liệu
Chiến dịch Tây Nguyên - Mở đầu cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975

Bộ đội ta đánh chiếm sân bay Buôn Ma Thuột trong Chiến dịch Tây Nguyên - Mở đầu cho cuộc Tổng tiến công mùa Xuân năm 1975. Ảnh tư liệu

      Trải qua hơn 30 giờ đồng hồ chiến đấu, từ 2 giờ sáng 10/3 đến 11 giờ sáng  11/3/1975, ta giải phóng thị xã Buôn Ma Thuột và bắt sống chỉ huy địch là Đại tá Vũ Thế Quang, Chỉ huy trưởng phòng thủ Buôn Ma Thuột và Tỉnh trưởng Đắk Lắk Nguyễn Trọng Luật.
      Biết địch sẽ phản kích chiếm lại Buôn Ma Thuột, ta bố trí sẵn Sư đoàn 10 vừa từ Ðức Lập về để đón đánh địch đi phản kích ở gần cụm địch còn chống lại ở sân bay Hòa Bình. Ngày 13/3, Sư đoàn 10 bắt đầu đánh Trung đoàn 45, Sư đoàn 23 ngụy phản kích. Sau đó địch đổ tiếp Trung đoàn 44 ngụy tăng cường và cứu Trung đoàn 45. Sư đoàn 10 và Trung đoàn 25 tiếp tục diệt quân địch phản kích và trung đoàn 53 còn chống cự; đánh bại cuộc phản kích của Sư đoàn 23 ở Phước An, giải phóng hoàn toàn Buôn Ma Thuột một cách chắc chắn, địch không còn khả năng chiếm lại.

                                    Chiến dịch Tây Nguyên - Mở đầu cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975  

                                   Bộ đội truy kích địch trong Chiến dịch Tây Nguyên. Ảnh tư liệu

 Sáng ngày 16-3-1975, địch ở Tây Nguyên rút chạy. Chiến thắng Buôn Ma Thuột và chiến dịch Tây Nguyên thắng lợi không những tăng cường thế và lực cho ta mà còn xuất hiện thời cơ giải phóng miền Nam trong thời gian ngắn nhất. Đại tướng Võ Nguyên Giáp phân tích tình hình: “Điểm trúng huyệt chí tử của địch ở Buôn Ma Thuột gây cho địch chấn động về chiến lược, buộc địch bỏ Tây Nguyên thì phải nhanh chóng đánh Huế và Đà Nẵng. Nếu ở đấy chúng phải rút lui chiến lược thì phải cấp tốc đánh thẳng vào Sài Gòn”.

    Cuộc rút lui chiến lược của VNCH khỏi Tây Nguyên sau này còn được gọi là "thảm kịch đường số 7". Chúng ta sẽ kể chút ít về nó:

       Ngày 11.3.1975, ngay khi Ban Mê Thuột (BMT) thất thủ, đồng thời trước sức ép của Quân giải phóng (QGP) tại các mặt trận khác dội về, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã triệu tập Thủ tướng Trần Thiện Khiêm, Đại tướng Tổng tham mưu trưởng Cao Văn Viên và Trung tướng Đặng Văn Quang đến Phủ đầu rồng để bàn về việc tái phối trí lại lực lượng. Tại cuộc họp này, dường như đã tiên đoán được những khó khăn to lớn mà Việt Nam công hòa (VNCH) đang phải đương đầu, Nguyễn Văn Thiệu thông báo quyết định: "Với khả năng và lực lượng ta đang có, chắc chắn chúng ta không thể bảo vệ được tất cả lãnh thổ muốn bảo vệ. Như vậy chúng ta nên tái phối trí lực lượng và bảo vệ những vùng đông dân, trù phú, vì những vùng đất đó mới thực sự quan trọng".

      Ngày 14.3.1975, trước khả năng phản kích giành lại Buôn Mê Thuột (BMT) đã gần như tan thành mây khói, TT Nguyễn Văn Thiệu cùng Thủ tướng Trần Thiện Khiêm, Đại tướng Cao Văn Viên - Tổng tham mưu trưởng Quân lực VNCH và trung tướng Trần Văn Quang - Cố vấn an ninh quốc gia đã bay ra Cam Ranh. Tại đây họ đã nghe Thiếu tướng Phạm Văn Phú - Tư lệnh Quân khu 2 kiêm Tư lệnh Quân đoàn 2 phúc trình về tình hình chiến sự tại Quân khu 2.

       Trong cuộc họp, Thiếu tướng Phạm Văn Phú báo cáo tổng quát diễn biến chiến sự tại Tây Nguyên những ngày trước đó. Để có thể khôi phục và giữ được cao nguyên, tướng Phú thỉnh cầu xin thêm máy bay cho Sư đoàn 6 không quân, bổ sung quân số bị tổn thất, tăng viện từ 1 đến 2 lữ đoàn dù để phòng giữ Kon Tum, Pleiku và sau đó dùng để phản kích chiếm lại các vùng đã mất. Nguyễn Văn Thiệu không chấp nhận đề nghị của tướng Phú. Ông ta tuyên bố: "Không! Không thể có quân tăng viện, không có quân bổ sung. Quân viện bị cúp, đạn và tiền đều thiếu. Chúng ta đang bị tấn công mạnh ở khắp mọi nơi chứ không riêng ở QK2. Địch đánh mạnh hơn năm 1968, hơn cả năm 1972. Kon Tum, Plây Cu người ít, kinh tế không có, để bảo toàn lực lượng, lấy quân về giữ đồng bằng ven biển, ở đấy điều kiện tiếp tế thuận lợi hơn".

       Kết luận lại, TT Nguyễn Văn Thiệu lệnh cho Phạm Văn Phú tổ chức rút quân về đồng bằng, tái phối trí lại lực lượng với yêu cầu cố gắng bảo toàn đến mức cao nhất các lực lượng chủ lực của quân đoàn.

      Về hướng rút quân, Đại tướng Cao Văn Viên lưu ý về những nguy hiểm khó lường khi rút theo đường 19, ông ta nhắc lại thảm họa đã xảy ra đối với Binh đoàn cơ động số 100 của quân viễn chinh Pháp trên đường 19 năm 1954.

                         

                               Hàng trăm xe quân sự của địch cùng xe dân sự ùn tắc trên đường 7.

      Sau khi thảo luận nhiều lần về việc chọn đường rút quân, Nguyễn Văn Thiệu và các tướng lĩnh đã quyết định rút theo đường số 7 (ngày nay là QL 25) vì họ cho rằng, con đường đó tuy xấu nhưng gây được bất ngờ cho đối phương. Theo tính toán của các tướng lĩnh VNCH, các đơn vị Quân giải phóng đang tập trung vây đánh trung đoàn 53, căn cứ B50 ở Buôn Ma Thuột và lo đối phó với cuộc phản kích của sư đoàn 23 tại Phước An nên phải mất ba đến năm ngày mới có thể điều quân đến do đường sá rất xấu, cơ động khó khăn. Còn Sư đoàn 968 nếu có đuổi theo cũng phải hành quân bộ, đánh vuốt đuôi và sẽ bị Liên đoàn 25 Biệt động quân (BĐQ) cản hậu chặn đánh. Thời gian đó đủ để phần lớn lực lượng Quân đoàn 2 VNCH về được Tuy Hòa. 

       13 giờ chiều 15 tháng 3, cuộc di tản của Quân đoàn 2 VNCH chính thức bắt đầu trong sự cập rập, vội vã. Thiết đoàn 19 và Liên đoàn 6 BĐQ mở đường từ Pleiku đi Phú Túc. Tiếp đó là bộ phận còn lại của Bộ tư lệnh Quân đoàn II, Lữ đoàn 2 Thiết kỵ, các đơn vị bộ binh, hậu cần, kỹ thuật...Trong hai ngày đầu cuộc di tản diễn ra đúng theo kế hoạch. Sáng 16 tháng 3, khi đội thiết giáp đi đầu trong đoàn xe quân sự dài đến hơn 2.000 chiếc đã đến Cheo Reo (bây giờ là TX Ayun Pa) an toàn và bắt đầu di chuyển xuống Củng Sơn thì toán cuối của đoàn xe này mới ra khỏi thị xã Pleiku.

       Tuy nhiên, có ba vấn đề mà các tướng lĩnh QLVNCH không lường tính hết. Đó là: số lượng người, phương tiện tham gia vào cuộc "rút lui chiến lược", chất lượng đường số 7 và phản ứng của phía Quân giải phóng. 

         Khi tin rút bỏ Cao Nguyên lan rộng, các sĩ quan, binh sĩ VNCH cùng các công chức hệ thống chính quyền địa phương hai tỉnh Kon Tum, Pleiku đã lập tức bỏ đơn vị, bỏ nhiệm sở để lo cho gia đình "di tản". Vì vậy, mỗi quân nhân phải kèm thêm vài người dân, trong đó có rất nhiều người già, trẻ em đã ảnh hưởng rất lớn đến khả năng chiến đấu khi có tình huống xảy ra. Bên cạnh đó, số phương tiện của dân sự đi theo đoàn quân "rút lui chiến lược" đó cũng rất đông đảo. Theo ước tính của các nhà nghiên cứu lịch sử quân sự đã có khoảng hơn 2000 phương tiện giao thông dân sự đã tham gia vào cuộc rút quân "vĩ đại" này và gây rất nhiều khó khăn cho quá trình điều phối hành quân. Về con đường số 7 vốn là một con đường bỏ hoang từ lâu không được duy tu, bảo dưỡng. Vì vậy, đường hẹp, chất lượng mặt đường xấu, đặc biệt các cây cầu trên con đường này đều nhỏ, hẹp và có trọng tải nhỏ. Trong khi đó, năng lực của công binh Quân đoàn 2 VNCH rất hạn chế. Đối với Quân giải phóng, kế hoạch rút quân của Quân đoàn 2 VNCH khỏi Tây Nguyên là không quá bất ngờ. Khi vạch kế hoạch chiến dịch Tây Nguyên họ đã tính đến khả năng này. Bất ngờ duy nhất mà Nguyễn Văn Thiệu và Phạm Văn Phú tạo ra được là cuộc di tản này được tiến hành quá nhanh.

       Đến chiều 15 tháng 3, khi cánh quân đi đầu của thiết đoàn 19 đã qua Cheo Reo, Bộ Tư lệnh mặt trận Tây nguyên mới được tin quân VNCH bắt đầu rút khỏi Pleiku và Kon Tum. Quyết không để Quân đoàn 2 VNCH bảo toàn được nguyên vẹn lực lượng về tới đồng bằng ven biển, một kế hoạch chặn đánh và truy kích lập tức được hình thành. Bộ Tư lệnh mặt trận Tây Nguyên quyết định sử dụng toàn bộ Sư đoàn BB 320, Tiểu đoàn xe tăng 2 (Trung đoàn 273), Trung đoàn pháo binh 675, Trung đoàn cao xạ 593 và hai Tiểu đoàn quân địa phương ở Phú Yên vào trận đánh này.

     20 giờ tối 16. 3, Tiểu đoàn 9, Trung đoàn 64 (Sư đoàn BB 320) được lệnh hành quân cắt rừng suốt đêm với nhiệm vụ lập một chốt chặn ở phía Nam thị xã Cheo Reo để chặn đứng cuộc rút lui của đối phương. Theo sát họ là đội hình chính của Trung đoàn 64 hành quân trên 110 xe ô tô các loại được huy động cùng các lực lượng khác. Sáng 17 tháng 3, tốp xe tăng, thiết giáp đi đầu của Thiết đoàn 19 và Liên đoàn 6 Biệt động quân VNCH đã chạm súng với Tiểu đoàn 9, Trung đoàn 64 QGP tại đèo Tuna, cách Cheo Reo 4 km về Đông và bị chặn lại ở đây. Đoàn xe di tản khổng lồ ứ lại tại Cheo Reo.

      Sáng 18 tháng 3, toàn bộ Trung đoàn 64 (Sư đoàn BB 320) đã triển khai xong các chốt chặn tiếp theo phía hạ lưu đèo Tuna. Trung đoàn 48 (thiếu) của sư đoàn này và Trung đoàn 9 (Sư đoàn BB 968) đã bao vây Cheo Reo từ ba mặt. Trưa ngày 18, Chuẩn tướng Phạm Văn Tất điều Liên đoàn 25 BĐQ đang làm nhiệm vụ cản hậu vượt lên trước cùng với Lữ đoàn 2 Thiết kỵ mở cuộc công kích cuối cùng để mở đường. Cũng thời điểm đó, các đơn vị pháo binh của trung đoàn 675 bắt đầu pháo kích các vị trí đóng quân tạm thời của VNCH trong thị xã Cheo Reo và 3 trung đoàn bộ binh Quân giải phóng bắt đầu tấn công.Mặc dù đã bị Sư đoàn 320 chặn đánh tơi tả ở Cheo Reo, gần một vạn binh lính, sĩ quan địch thương vong, trên 500 xe quân sự phá hỏng, nhưng trưa 19/3/1975, hơn hai vạn quân địch và gần 2.000 xe quân sự, chủ yếu là xe tăng bọc thép vẫn tìm cách rút lui xuống đồng bằng. Do phán đoán đúng tình hình, nên khi địch bắc cầu dã chiến cho mũi quân đầu tiên với 5 xe bọc thép vượt sông Nhau từ Củng Sơn sang đường 5 đã bị bộ đội ta chặn đánh tại Trường Lạc, xã Sơn Thành, huyện Tuy Hòa 1 ngay trong buổi chiều hôm đó. Phía trước bị chặn, phía sau bị tiến công, các lực lượng VNCH tranh đường của nhau để chạy. Trong sự hỗn loạn, mọi cố gắng ổn định lại tình hình và tổ chức kháng cự của các chỉ huy VNCH trở nên vô vọng.

      Cuối cùng, các đơn vị QLVNCH bị vây tại Cheo Reo chấm dứt kháng cự.

     Kết quả, chỉ một số ít binh lính VNCH về đến Tuy Hòa. Số còn lại ngoài một số bị diệt có gần 17.000 người bị phía Quân giải phóng bắt làm tù binh, trong đó có 779 sĩ quan từ chuẩn úy đến chuẩn tướng. Số vũ khí phương tiện bị phá hủy và bắt sống cũng cực kỳ lớn: 17.183 súng các loại, trong đó có 79 khẩu pháo từ 105 mm trở lên; hơn 2.000 xe quân sự, trong đó có 207 xe tăng và xe bọc thép; 44 máy bay bị bắn rơi, 110 chiếc khác bị thu và phá hủy.

      Như vậy, từ cuộc "rút lui chiến lược" đã biến thành "thảm kịch đường số 7" - Tây Nguyên hoàn toàn thất thủ, báo hiệu sự sụp đổ không thể tránh khỏi của chế độ VNCH một ngày không xa.

Tinh thần chiến đấu thì rệu rã, phán đoán chiến lược thì sai lầm, nên khi bị đánh trúng chỗ hiểm, quân tướng Sài Gòn ở Tây Nguyên nói riêng và ở toàn Nam - Việt Nam nói chung trở nên hoảng loạn, liên tiếp phạm thêm những sai lầm chết người khác. Hệ thống phòng ngự Tây Nguyên vỡ lở nhanh chóng. Ngày 16-3, quân Sài Gòn rút chạy khỏi Kon Tum và Plâycu theo đường số 7. Quân Giải phóng truy kích, cắt đường số 7 diệt quân tháo chạy rồi tiếp tục phát triển xuống Khánh Dương, diệt lực lượng sư đoàn 23 địch… Ngày 17-3, quân Giải phóng đã cơ bản đánh bại cuộc phản kích của địch hòng chiếm lại Buôn Mê Thuột.

                                                  Thảm kịch đường số 7. Ảnh tư liệu.

                            cuoc truy kich tren Duong so 7 trong chien dich tay nguyen hinh anh 1

                           Nghệ thuật chỉ huy tình huống trong Chiến dịch Tây Nguyên 

                                               Thảm kịch đường số 7. Ảnh tư liệu.

 
Trong thời gian đó, sư đoàn dù quân Sài Gòn ở Đà Nẵng đang rút về Sài Gòn và thay thế bằng sư đoàn lính thủy đánh bộ; đồng thời xuất hiện hiện tượng cho thấy quân Sài Gòn có thể bỏ từ bắc Huế đến sông Thạch Hãn, bắt đầu thực hiện kế hoạch co cụm chiến lược lớn trên toàn miền Nam. Đây là một bước suy sụp mới rất nghiêm trọng của quân ngụy Sài Gòn.
Ngày 18-3-1975, Bộ Chính trị và Quân ủy trung ương họp tại Hà Nội. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đề nghị lên Bộ Chính trị: “Hạ quyết tâm giải phóng miền Nam trong năm nay (1975)”. Tiếp đó, trong vòng 7 ngày từ 18-3 đến 25-3-1975, Đại tướng Võ Nguyên Giáp phân tích và đề đạt với Bộ Chính trị: Không cần đợi giải phóng xong Huế mới bắt đầu tấn công Đà Nẵng, phải đánh Đà Nẵng ngay, ở hướng Sài Gòn lực lượng ta đã đủ, yêu cầu trong tháng 5 phải giải quyết xong Sài Gòn.

Những nhận định và đề xuất của Đại tướng Võ Nguyên Giáp là cơ sở quan trọng để ngày 23-3-1975, Bộ Chính trị nhận định: “Thời cơ chiến lược lớn đã tới. Trong suốt 20 năm chống Mỹ, cứu nước chưa bao giờ thuận lợi bằng lúc này; do đó cần nắm vững thời cơ chiến lược mới, tranh thủ thời gian cao độ, nhanh chóng tập trung lực lượng vào hướng chủ yếu, hành động táo bạo, bất ngờ, làm cho địch không dự kiến kịp và không kịp trở tay. Bộ Chính trị quyết định: Quyết tâm hoàn thành giải phóng Sài Gòn và miền Nam trước mùa mưa (5.1975)”. Hội nghị đã đi đến nhất trí hạ quyết tâm hoàn thành kế hoạch 2 năm 1975-1976 ngay trong 1975. Như thế cuộc tiến công dự định chiến lược lúc ban đầu phải được nâng lên thành cuộc tổng tiến công chiến lược.

        Những nhà quan sát bi quan nhất cũng không thể nào ngờ sự tan tác nhanh đến thế của quân đội Sài Gòn - một quân đội mà các nhà phân tích quân sự xếp vào hàng thứ tư trên thế giới về binh lực và trang bị vũ khí: giữa tháng 3, bỏ chạy khỏi Tây Nguyên, cuối tháng 4 mất Huế - Đà Nẵng, giữa tháng 4 mất hết các tỉnh miền Trung…

       Từ sự chỉ đạo sắc bén của Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp, bằng sự phối hợp tiến công đồng loạt giữa các mũi, các hướng trên toàn mặt trận, đến 15 giờ ngày 29-3-1975, quân ta đã làm chủ căn cứ liên hợp Đà Nẵng và bán đảo Sơn Trà, giải phóng hoàn toàn thành phố Đà Nẵng và toàn tỉnh Quảng Đà. Thắng lợi này góp phần quan trọng đập tan một lực lượng quân sự lớn và bộ máy kìm kẹp của địch trên toàn bộ địa bàn Quân khu 1 của địch, đẩy chúng vào thế thất bại hết sức nghiêm trọng không thể cứu vãn, thúc đẩy thế tiến lên tất thắng của quân và dân ta.

       Cùng với chiến thắng ở Tây Nguyên, Huế, Đà Nẵng, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã chỉ đạo cơ quan Bộ Tổng Tư lệnh, Bộ Tổng Tham mưu làm kế hoạch giải phóng Sài Gòn - Gia Định. Trong các dự thảo văn kiện kế hoạch, cơ quan ghi “nhanh chóng, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”, khi báo cáo Tổng Tư lệnh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp yêu cầu phải sửa ngay là “thần tốc”. Ngày 7-4-1975, Đại tướng Võ Nguyên Giáp thay mặt Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng Tư lệnh ra mệnh lệnh cho các cánh quân: “Thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa, tranh thủ từng giờ, từng phút xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam. Quyết chiến và toàn thắng”. Bức điện thảo bằng tay của Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ đạo cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 đã trở thành văn kiện lịch sử, cổ vũ, động viên cán bộ, chiến sĩ không quản khó khăn, gian khổ ngày đêm xốc tới giải phóng miền Nam hoàn thành ước nguyện của cả dân tộc Việt Nam sau hơn 20 năm chiến đấu lâu dài gian khổ.

      Trẻ con Việt Nam được thế giới nhìn như đám cô nhi lăn lóc trở thành chất xúc tác cho cái bệnh di tản sau khi Nha Trang sụp đổ. Những người quản lý các viện mồ côi ở Sài Gòn để lộ ý muốn của họ cho đám trẻ con đi. Điều này tức khắc trở thành thời cơ tuyên truyền không chỉ riêng cho những người thực tâm giúp đỡ trẻ em. Những kẻ mỉa mai, ích kỷ đã tìm thấy thời điểm ngon lành. Trong bọn này phải liệt Martin vào đấy. Vào một lúc không được kín đáo, Martin đã nói với một người trong đám thân tín rằng, vấn đề di tản trẻ con là đòn tuyên truyền tuyệt diệu. Viên đại sứ cảm thấy việc làm rùng beng tối đa chương trình di tản trẻ em giúp vào việc lái dư luận quốc hội Mỹ nghiêng về phía Sài Gòn. Mọi âm mưu đã thành công. Chiều ngày 3-4, một chiếc DC.8 đã chở 85 trẻ mồ côi và một số nhà báo chọn lọc từ Nam Việt Nam đi Mỹ.
Những em bé này đã chết cho cái gọi là "đòn tuyên truyền tuyệt diệu" của Martin.
      Chiếc C5A đã hạ cánh xuống Tân Sơn Nhất sáng sớm ngày 4-4. Nó quá lớn đến nỗi có vẻ chậm chạp trong khi bay. Công nhân bốc xuống hàng chục tấn thiết bị quân sự cho cái quân đội khốn khổ. Người ta sắp đặt cho nó cất cánh trưa hôm ấy với chuyến hàng chính thức là trẻ mồ côi và những người Mỹ, danh nghĩa là đi theo chăm sóc trẻ. Các nhà báo được ân cần mời ra Tân Sơn Nhất để chụp hình và phỏng vấn đám trẻ lên phi cơ. Chiếc C5A thuộc loại máy bay khổng lồ trên trời. Một số ít may mắn kiếm được ghế ngồi còn tuyệt đại đa số khoảng gần 400 trẻ em phải chui xuống dưới các dây chằng hàng. Cuối cùng cái cửa sổ khổng lồ cũng được đóng lại. Nó được đài không lưu báo là trống chỗ để di chuyển ra đầu đường băng. Phanh nhả ra. 4 động cơ phản lực khổng lồ rít lên. Chiếc máy bay lấy đà rồi cất cánh.

      4 giờ 45 phút chiều hôm đó, máy bay ra đến biển Đông ở độ cao 4 dặm. Nó tiếp tục nâng độ cao lên 8 dặm mới ổn định đường bay. Lúc bấy giờ, trong máy bay hành khách còn bị chằng dây an toàn. Phần đông người lớn nắm tay nhau thành trò vui. Một số người cất tiếng hát. Bỗng nhiên, cánh cửa máy bay văng mất, sức hút của gió cuốn đi những vật gì không được cột chặt trong máy bay, kể cả mấy đứa trẻ sơ sinh. Chiếc máy bay cố tìm cách quay lại Tân Sơn Nhất. 20 phút sau, phi công không sao giữ được máy bay ổn định nên quyết định hạ cánh khẩn cấp. Chiếc phản lực khổng lồ chạm xuống một cái gò trên ruộng lúa, lướt qua con rạch rồi sựng lại trong đám ruộng kề đó, cách Tân Sơn Nhất không đầy 2 dặm. Lửa bùng cháy và khói làm cho số lớn người trên máy bay bị thiệt mạng.
 
                                                                      Di tản.
 
       Ngày 9-4, quân Giải phóng đánh Xuân Lộc - một cứ điểm trọng yếu án ngữ đường tiến tới Sài Gòn do sư đoàn 18 là sư đoàn tinh nhuệ nhất của quân đội Sài Gòn trấn giữ. Đây là trận đánh lớn cuối cùng của cả cuộc chiến tranh. Phía VNCH từng cho rằng Xuân Lộc như "cánh cửa thép" chặn Quân Giả phóng tiến về Sài Gòn từ phía đông. Lê Đức Thọ đã nói: “Kết cục là anh em cũng không đánh được Xuân Lộc, bị thương vong nặng, phải rút ra”. Còn Văn Tiến Dũng thì nói: “Kế hoạch tấn công Xuân Lộc chưa tính hết được sự phát triển phức tạp của tình hình, chưa đánh giá hết tính chất ngoan cố của địch… Trận chiến ác liệt và đẫm máu từ những ngày đầu tiên. Các sư 6, 7, 341 của ta phải tiến công trong thành phố nhiều lần nhưng gặp phải sức kháng cự mãnh liệt của trung đoàn 43 địch quân. Các đơn vị pháo của ta đã xử dụng nhiều hơn cơ số đạn dự trù. Số lớn tăng và xe bọc thép của ta bị hạ…” (Đại thắng Mùa Xuân). Trần Văn Trà cũng nói: “…vào cuối ngày 10 trở đi, tình hình trở nên căng thẳng. Địch phản công điên cuồng…” (Kết thúc cuộc chiến tranh 30 năm).
      Trước khi lâm trận, chuẩn tướng Lê Minh Đảo của quân ngụy Sài Gòn tuyên bố: “Đánh một trận cho thế giới biết tiếng!”
        Tướng X. Smith, Trưởng phòng Tùy viên Quân sự (DAO), tham mưu trưởng liên quân Hoa Kỳ, cảm phục và ca ngợi trận Xuân Lộc:
     “Chiến trường Long Khánh chứng tỏ quyết tâm bảo vệ đất nước của quân đội VNCH và họ đã anh dũng chiến đấu chống lại địch quân đông gấp nhiều lần”
Theo wikipedia, Chiến dịch Xuân Lộc hay Trận Xuân Lộc, tên đầy đủ là "Chiến dịch tiến công tuyến phòng thủ Xuân Lộc - Long Khánh", là một chiến dịch trong Chiến tranh Việt Nam. Chiến dịch diễn ra trong khoảng 9-20 tháng 4 năm 1975 giữa Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam và Quân lực Việt Nam Cộng hoà (QLVNCH).
      Trận này là một mốc quan trọng của quá trình tiến tới sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, vì Xuân Lộc là khu vực phòng thủ trọng yếu trong tuyến phòng thủ cơ bản (Biên Hòa - Xuân Lộc - Bà Rịa - Vũng Tàu) của QLVNCH để phòng giữ cửa ngõ phía đông của Sài Gòn.
      Với mục đích thăm dò khả năng quân sự và phản ứng của Mỹ, trung tuần tháng 12 năm 1974, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam dùng biện pháp nghi binh để quân Sài Gòn tập trung lực lượng bảo vệ Tây Ninh, bất ngờ tập kích các cứ điểm Bù Đăng, Đồng Xoài, khai thông đường 14, chớp thời cơ mở chiến dịch đánh chiếm Phước Long.
        Rạng sáng ngày 31 tháng 12 năm 1974, Sư đoàn 7, 9 với xe tăng và pháo tầm xa tấn công tỉnh Phước Long do Sư đoàn 5 bộ binh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa trấn giữ. Phước Long lọt vào tay Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam ngày 6 tháng 1 năm 1975 trong khi Việt Nam Cộng hòa không thể huy động đủ lực lượng để chiếm lại. Trước sự tấn công của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, Hoa Kỳ chỉ phản ứng lấy lệ bằng những tuyên bố ngoại giao.
      Đánh giá Mỹ sẽ không can thiệp, Bộ Chính trị Đảng Lao động và Bộ Tổng Tư lệnh Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam quyết tâm giải phóng miền Nam trong năm 1975. Mở màn với chiến dịch Tây Nguyên sử dụng các Sư đoàn 316, 10, 320, Trung đoàn 95B, Trung đoàn 198 Đặc công, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã nghi binh, khiến Quân lực Việt Nam Cộng hòa tin rằng họ sẽ tấn công thị xã Pleiku. Tuy nhiên, vào 02h00 sáng ngày 10/3/1975, Sư đoàn 316, Trung đoàn 95B, Trung đoàn 198 Đặc công bất ngờ đánh úp thị xã Ban Mê Thuột. Trung đoàn 53 thuộc Sư đoàn 23 Bộ binh và Liên đoàn Biệt Động quân số 21 của Quân lực Việt Nam Cộng hòa giữ thị xã bị tiêu diệt. 2 trung đoàn còn lại của Sư đoàn 23 Bộ binh mang số hiệu 44, 45 được trực thăng vận từ Pleiku đến tái chiếm Ban Mê Thuột, đổ bộ lọt vào trận địa của Sư đoàn 10 chờ sẵn và bị tiêu diệt nốt. 6 Liên đoàn Biệt Động quân đóng ở Pleiku hoảng sợ, cùng với lệnh bỏ Tây Nguyên của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu nên đã rút chạy theo đường số 7 để rồi bị Sư đoàn 320 truy kích tiêu diệt 5 trong 6 Liên đoàn. Toàn bộ lực lượng chủ lực của Quân lực Việt Nam Cộng hòa trên Tây Nguyên mất sạch.
       Trên cơ sở nhận định chiến trường, ngày 3/4/1975, Bộ Tổng Tham mưu Quân lực Việt Nam Cộng hòa cùng với Chủ tịch Hội đồng tham mưu liên quân Hoa Kỳ, nguyên chỉ huy MACV (Bộ chỉ huy quân sự Mỹ tại Việt Nam), Frederick Carlton Weyand (sang Việt Nam từ cuối tháng 3 năm 1975), xây dựng phương án thành lập tuyến phòng thủ Xuân Lộc. Ngày 3 tháng 4 năm 1975, Nguyễn Văn Thiệu đã thảo luận với phó đại sứ Hoa Kỳ Lehman và tướng Fredrick C. Weyand về kế hoạch "Nỗ lực tối đa" nhằm giữ vững những phần đất còn lại. Theo đó cần phải lấy Xuân Lộc làm trung tâm phòng ngự, hai bên sườn phải giữ được Tây Ninh và Phan Rang.
       Tại đây, phía Quân lực Việt Nam Cộng Hòa tập trung nhiều đơn vị thiện chiến, gồm có Sư đoàn 18 Bộ binh (với các Trung đoàn 43, 48 và 52 được tăng cường tương đương với quân số của chiến đoàn), lực lượng Địa phương quân ở tỉnh và các đơn vị tăng phái gồm Trung đoàn 8 (thuộc Sư đoàn 5 Bộ binh), Lữ đoàn 3 Thiết kỵ, Liên đoàn 7 Biệt động quân, hai tiểu đoàn pháo binh, Liên đoàn 81 Biệt cách Dù, toàn bộ Lữ đoàn 1 Dù (với các Tiểu đoàn 1, 2, 8, 9) và Tiểu đoàn 3 Pháo binh Dù. Sư đoàn 4 Không quân Việt Nam Cộng hòa từ phi trường Cần Thơ phụ trách không yểm chiến thuật. Tất cả lực lượng trên đặt dưới quyền chỉ huy của Chuẩn tướng Lê Minh Đảo (Tư lệnh Sư đoàn 18) và hai viên sĩ quan phụ tá là Đại tá (tư lệnh phó) Lê Xuân Mai và Đại tá Phạm Văn Phúc (Tỉnh trưởng Long Khánh). Mục đích bẻ gãy mũi xung kích của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trong một trận chiến phòng ngự điển hình, tạo thế có lợi chặn đứng đà tiến công của đối phương.
       Sau đúng một ngày cầm cự, chịu đựng không nổi trước chiến thuật áp đảo của Quân Giải phóng , sư đoàn 18 VNCH đã bắt đầu triệt thoái khỏi thành phố Xuân Lộc vào ngày 20/4/1975. Sau đó, sư đoàn này được tái tập trung và đóng quân phòng thủ ngay sát nách Sài Gòn về phía Đông, nhưng đã quá muộn màng vì quân Bắc Việt gỡ được nút chận Xuân Lộc và các tuyến quân Nam tiến của họ đã tựa như thế chẻ tre tiến công ào ạt về Sài Gòn khiến cho quân đội miền Nam bị tan rã thành từng mảnh, từng mảnh.
      Về phía Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, có Quân đoàn 4 do Thiếu tướng Hoàng Cầm chỉ huy gồm Sư đoàn 6 mới được thành lập, Sư đoàn 7 bộ đội chủ lực miền Đông Nam Bộ với kinh nghiệm chiến đấu dày dặn (đây nguyên là Sư đoàn 312A từ miền bắc hành quân vào nam từ năm 1965, đã đánh bại Sư đoàn 1 Anh Cả đỏ Mỹ tại đường 13, giết chết Trung tướng Mỹ Keith Lincoln Ware, Tư lệnh Sư đoàn này vào hồi 13h00 ngày 13/9/1968). Sư đoàn mạnh nhất của B2 (tức sư 9) phải ở lại phía tây, nên cánh phía đông được phối thuộc Sư đoàn Sông Lam (F341) mới thành lập do Đại tá Trần Văn Trân chỉ huy, một người đã từng là Tư lệnh Sư đoàn 1 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, từng bị quân Mỹ bắt sống năm 1969 trong một chuyến đi công tác (ông bị giam giữ trong suốt 3 năm mà đối phương không dò ra được lai lịch, được thả về trong 1 đợt trao trả tù binh bên sông Thạch Hãn đầu năm 1973).
Ngày 9 tháng 4 năm 1975, 5 giờ 40, sau khi Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam pháo kích các mục tiêu trong thị xã trong vòng một tiếng đồng hồ, sau đó các mũi bộ binh bắt đầu tiến công.
        Tại hướng chính từ phía Đông, Trung đoàn 165 Sư đoàn 7 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam với 8 xe tăng dẫn đầu tấn công về phía căn cứ Sư đoàn 18, khi còn cách khoảng 200 m thì vấp phải sự chống trả quyết liệt của Trung đoàn 43 Bộ binh và Tiểu đoàn 3/4 Địa phương quân Long Khánh, bị thiệt hại nặng, 3 trên 8 xe tăng bị hỏng và khoảng 100 lính miền Bắc bị hạ bởi các súng chống tăng M-72 và máy bay A-37, F-5 của Không lực Việt Nam Cộng hòa, nên chỉ chiếm được một phần hậu cứ của Chiến đoàn 52 (Sư đoàn 18). Đến 12 giờ, hướng này buộc phải ngừng tấn công.
        Ở hướng phụ từ phía Bắc, Trung đoàn 266 (Sư đoàn 341) đánh thọc sâu vào thị xã, nhưng bị phản kích mạnh nên phải dừng lại bên ngoài sở chỉ huy tiểu khu.
       Tại vòng ngoài, Ở hướng quốc lộ 20, Sư đoàn 6 tấn công vào các vị trí chốt giữ của Trung đoàn 52 của Sư đoàn 18 Việt Nam Cộng hòa, diệt được 5 chốt trên đoạn đường từ Hưng Nghĩa đến đèo Mẹ Bồng Con, Trung đoàn 52 phải bỏ Túc Trưng kéo về giữ ngã ba Dầu Giây. Ở hướng Quốc lộ 1, phía đông nam thị xã, Trung đoàn 209 (Sư đoàn 7) và Trung đoàn 270 (Sư đoàn 341) Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đánh bại hai tiểu đoàn Việt Nam Cộng Hòa, diệt 7 xe tăng của chiến đoàn 43, 48 (Sư đoàn 18 Việt Nam Cộng hòa) từ Tân Phong và Núi Thị vào cứu viện. Các trục lộ chính phía bắc Xuân Lộc đều bị cắt đứt, tuyến phòng thủ ngoại ô thị xã tan vỡ, toàn bộ lực lượng Việt Nam Cộng hòa rút vào trong thị xã Xuân Lộc để cố thủ.
       Sáng ngày 10 tháng 4, đúng 5 giờ 30, quân Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam lại pháo kích các mục tiêu trong thị xã. Sau trận pháo kích, Trung đoàn 141 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam (lực lượng dự bị của Sư đoàn 7), cùng một tiểu đoàn cao xạ 37 ly và một tiểu đoàn 57 ly, được tăng cường đột phá từ hướng bắc xuống phối hợp với Trung đoàn 165 Sư đoàn 7 tiếp tục tấn công vào căn cứ Sư đoàn 18. Tuy nhiên, do bị phản kích quyết liệt cùng với hỏa lực mạnh của quân Sài Gòn nên toàn bộ quân Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam cũng không đạt được mục tiêu. Bước sang ngày thứ ba, 11 tháng 4, 7 giờ, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam pháo kích trong 70 phút rồi bắt đầu tấn công. Dưới hỏa lực mạng và sự yểm trợ bằng không quân của bên phòng thủ, bên tấn công cũng vẫn không chiếm được các mục tiêu là sở chỉ huy Sư đoàn 18 và hậu cứ Chiến đoàn 43 và 52. Cuộc chiến kéo dài ác liệt, cả hai phía ra sức giành giật từng ngôi nhà, điểm phòng ngự. Sau 3 ngày chiến đấu, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã phải chịu thương vong lớn với khoảng 300 người chết, 1000 người bị thương.
 
                                  Thiếu tướng Hoàng Cầm, Tư lệnh Quân đoàn 4 trao Quân kỳ quyết thắng cho Tư lệnh Sư đoàn 7 Lê Nam Phong.      Ảnh: TL 
Thiếu tướng Hoàng Cầm, Tư lệnh Quân đoàn 4 trao Quân kỳ quyết thắng cho Tư lệnh Sư đoàn 7 Lê Nam Phong. Ảnh: TL
 
Hình ảnh Diễn biến ác liệt của chiến dịch công phá “cánh cửa thép” Xuân Lộc 40 năm trước số 1

Xe tăng và bộ binh Quân đoàn 4 tiến công thị xã Xuân Lộc. Ảnh tư liệu.

        Qua đến ngày thứ tư, 12 tháng 4, thế trận đôi bên vẫn giằng co. Lữ đoàn1 Nhảy dù gồm các Tiểu đoàn 1, 2, 8, 9 và Tiểu đoàn 3 Pháo binh Dù, với quân số khoảng 2.000 người, được điều tăng cường cho Xuân Lộc bằng tất cả trực thăng của hai Trung đoàn 3 và 4 Không quân từ Trảng Bom vào trận địa. Hai tiểu đoàn dù đầu tiên đã nhảy xuống để chiếm lại Bảo Định và Quốc lộ 1, nơi hai trung đoàn thuộc Sư đoàn 6 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đang tập trung tấn công Bộ tư lệnh Sư đoàn 18 Việt Nam Cộng hòa tại Tân Phong. Một tiểu đoàn dù khác nhảy xuống chiếm lại khu vực vườn cây của cố Thống Tướng Lê Văn Tỵ. Các tiểu đoàn dù khác nhảy vào Xuân Lộc để giải vây cho các lực lượng Địa phương quân và Bộ Chỉ huy Tiểu khu Long Khánh. Các pháo đội cũng được trực thăng Chinook chuyển vận đến Bộ Chỉ huy Hành quân Nhảy dù đóng cạnh bên Bộ Tư lệnh Sư đoàn 18 Bộ binh.
       Sau 5 ngày giao chiến, lực lượng phòng thủ tại Xuân Lộc gồm có Sư đoàn 18, các lực lượng địa phương quân, tăng cường Lữ đoàn 1 Dù và 6 khẩu pháo 155 mm tại ngã ba Tân Phong; Trung đoàn 8 bộ binh (Sư đoàn 5), 3 chi đoàn thiết giáp 315, 318, 322 (với hơn 300 xe các loại). Theo tướng Hoàng Cầm, khi đó là tư lệnh Quân đoàn 4 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, tổng số quân phòng phủ tại Biên Hòa-Xuân Lộc lên tới 25.000, tương đương 2 sư đoàn, 4 trung đoàn và lữ đoàn bộ binh, chiếm 30% quân số của Vùng 3 chiến thuật; 4 thiết đoàn; 8 tiểu đoàn pháo. Ngoài ra, còn có 2 sư đoàn không quân (Sư đoàn 3 và 4) từ Biên Hòa, Tân Sơn Nhất và cả máy bay từ Trà Nóc dưới Cần Thơ cũng được tung vào yểm trợ cho Xuân Lộc.

                                     

                                           Trận Xuân Lộc - cuộc tử chiến cuối cùng - Redsvn.net

                                    Xe tăng và bộ binh Quân đoàn 4 tiến công Xuân Lộc (ảnh tư liệu). 

                                Xe tăng và bộ binh Quân đoàn 4 tiến công Xuân Lộc (ảnh tư liệu).

                                   xuanloc11 

                                                Quân ngụy tại mặt trận Xuân Lộc - (4-1975)

                        Bộ binh và xe tăng tiến công trên hướng Tây Nam, TX. Long Khánh.  Ảnh: TL
                  Bộ binh và xe tăng tiến công trên hướng Tây Nam, TX. Long Khánh. Ảnh: TL

       Sau 5 ngày tiến công, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam không hoàn thành được tất cả các mục tiêu đề ra. Sức chống trả cộng với hỏa lực mạnh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa làm thiệt hại nặng lực lượng tấn công (trong ba ngày đầu, Sư đoàn 7 bị thương vong 300 người, Sư đoàn 341 bị thương vong 1200. 9 xe tăng bị bắn cháy 3, hỏng 3. Pháo 85 ly và 57 ly bị hỏng gần hết). Tuy vậy, họ cũng đạt được phần nào mục tiêu khi phá vỡ tuyến phòng thủ vòng ngoài, cắt đứt trục lộ 1 và 20, làm cho lực lượng của Quân khu 1 và 2 Việt Nam Cộng hòa không thể rút về hỗ trợ cho Xuân Lộc. Toàn bộ lực lượng phòng thủ bị chia cắt thành 3 cụm: Núi Thị (do Trung đoàn 48 chốt giữ), Dầu Giây (Trung đoàn 52), và thị xã Long Khánh (Trung đoàn 43). Bộ chỉ huy Sư đoàn 18 bị uy hiếp, buộc phải dời vị trí về ngã ba Tân Phong.
        Phía Việt Nam Cộng hòa đã bắt đầu lạc quan khi cho rằng Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam không thể chiếm được Xuân Lộc. Tình hình tạm lắng vào ngày 14 tháng 4 càng củng cố thêm nhận định của họ. Thậm chí, tướng Lê Minh Đảo còn cho họp báo tại mặt trận, tuyên bố thách thức tướng Hoàng Cầm. Về phía các tướng lĩnh Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, do thiệt hại nặng và không đạt được các mục tiêu đề ra, họ đã rút ra các khuyết điểm để điều chỉnh chiến thuật tấn công: chuyển từ đánh chiếm sang bao vây cô lập, từ đánh chính diện sang đánh tạt sườn, thay vì đánh chiếm Xuân Lộc thì đi vòng qua thị xã. Tướng Trần Văn Trà, tư lệnh Quân giải phóng miền Nam, đã đến bộ chỉ huy quân đoàn một ngày để cùng bàn cách đánh mới. Khi chiến sự tạm lắng vào ngày 14 chính là khi Quân đoàn 4 đang triển khai lực lượng theo cách đánh này.
       Ngày 15 tháng 4, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam chuyển hướng tấn công. Pháo 130 ly bắt đầu bắn phá căn cứ không quân Biên Hòa, không cho máy bay từ đây yểm trợ Xuân Lộc. Sư đoàn 6 (sư đoàn phối thuộc của Quân khu 7), được tăng cường Trung đoàn 95, hiệp đồng tấn công Chiến đoàn 52 (gồm Trung đoàn 52 của Sư đoàn 18 Việt Nam Cộng hòa, Lữ đoàn 3 Thiết kỵ, và các lực lượng Địa phương quân ở Kiệm Tân, tổng cộng khoảng 2.000 người). Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã đánh chiếm được ngã ba Dầu Giây (giao điểm của Quốc lộ 1 và 20) và đoạn cuối đường 20 từ Trúc Tân đến Kiệm Tân, đánh bại nhiều cuộc phản kích từ Trảng Bom đánh ra, uy hiếp sở chỉ huy tiền phương Quân đoàn 3 Việt Nam Cộng hòa đặt tại Trảng Bom. Chiến đoàn 52 Bộ binh cuối cùng đã tan hàng vào đêm 15 tháng 4. Tất cả pháo binh, thiết giáp đều bị hủy diệt sau mấy ngày đêm cầm cự, thiệt hại nặng nề về người. Chín giờ đêm hôm đó, khi hầm chỉ huy của chiến đoàn bị bắn sập, đại tá chiến đoàn trưởng ra lệnh rút quân. Cùng theo ông chỉ còn 200 người sống sót. Quân đoàn 3 Việt Nam Cộng hòa phải ngừng phản kích cứu nguy cho Xuân Lộc. Cùng ngày hôm đó, tại Xuân Lộc, Sư đoàn 7 và Sư đoàn 341 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đồng thời tấn công, đánh lui hai chiến đoàn 43 và 48 của Sư đoàn 18, diệt một phần Lữ đoàn 1 Dù.
      Mất Dầu Giây và đường 20, Biên Hòa trở thành điểm tiền tiêu và Xuân Lộc bị cô lập và mất vị trí quan trọng, tướng Nguyễn Văn Toàn, Tư lệnh Quân đoàn 3 Việt Nam Cộng hòa, ra lệnh rút bỏ Long Khánh. Ngày 18 tháng 4, một phần lực lượng ở Xuân Lộc được bốc bằng trực thăng về Biên Hòa - Trảng Bom lập phòng tuyến mới. 9 giờ tối, các tiểu đoàn Nhảy dù Việt Nam Cộng hòa mới tới quốc lộ 1 và gần như toàn bộ giáo dân của xóm đạo Bảo Đình, Bảo Toàn, Bảo Hòa đã tập trung sẵn 2 bên vệ đường để theo binh sĩ Việt Nam Cộng hòa đi di tản. Sau đó đoàn người rút lui đã bị phục kích và triệt hạ gần hết.
     Lữ đoàn 1 Dù Việt Nam Cộng hòa rút lui sau cùng, chỉ riêng Tiểu đoàn 3 Pháo binh được di chuyển trên đường lộ với Đại đội Trinh sát Dù, còn các tiểu đoàn tác chiến khác đều mở đường bọc sâu trong rừng.
Bốn giờ sáng ngày 21 tháng 4 năm 1975, tại ấp Suối Cá, gần ranh giới Long Khánh-Phước Tuy, Tiểu đoàn 3 Dù bị 2 tiểu đoàn Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam phục kích gần như bị tiêu diệt hoàn toàn. Pháo Đội C và trung đội trinh sát bảo vệ, hầu hết đều bị thương vong. Cánh quân đi đầu của Tiểu đoàn 9 Dù cũng đụng độ nặng với quân Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tại thung lũng Gia Rai, dưới chân núi Cam Tiên. Ngoài những thiệt hại kể trên, cuộc rút quân trên Liên tỉnh lộ 2 coi như hoàn tất, kết quả tốt đẹp.
        Sáng 21 tháng 4, những tuyến phòng thủ cuối cùng của Quân lực Việt Nam Cộng hòa tại Xuân Lộc tan rã. Các lực lượng còn lại rút lui về Sài Gòn lập phòng tuyến mới.
      Tại Xuân Lộc, Không lực Việt Nam Cộng hòa đã sử dụng hai quả bom phát quang BLU-82 "Daisy Cutter" 15000-pound, vô số bom tọa độ 500-pound, và cả bom xăng tự tạo, để ném xuống các đơn vị bộ đội ở quanh thị xã. Với vai trò nỗ lực cuối cùng nhằm ngăn chặn bước tiến quân của đối phương, theo Frank Snepp, sau khi Tổng thống Thiệu từ chức, tướng Nguyễn Văn Toàn Tư lệnh Vùng 3 chiến thuật đã đề nghị Mỹ sử dụng bom B-52 rải thảm lần cuối. Đề nghị này bị tướng Cao Văn Viên từ chối, thay vào đó là gợi ý sử dụng một loại vũ khí khác với sức hủy diệt tương tự. Ngày 21 tháng 4, với sự trợ giúp của kỹ thuật viên DAO (Mỹ), một máy bay C-130 của không lực Việt Nam Cộng hòa đã thả một quả "bom nhiệt áp" CBU-55, loại vũ khí phi hạt nhân tàn bạo nhất trong kho vũ khí của Mỹ, xuống khu vực được cho là sở chỉ huy Sư đoàn 341 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam. Nó đã đốt ôxy trong một vùng rộng 2 mẫu Anh, gây thương vong khá lớn dù không có thống kê chính xác (Hoa Kỳ ước tính nó đã giết chết hơn 250 người lính Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, nguồn khác ghi nhận con số 811 cả bộ đội và thường dân, nhưng đều không thể kiểm chứng). Đây là lần đầu tiên và cuối cùng loại vũ khí này được sử dụng trong chiến tranh. Đài Hà Nội đã phản đối trong hai ngày liền, cáo buộc Mỹ và Việt Nam Cộng hòa sử dụng vũ khí sinh học bất hợp pháp. Trung Quốc cũng phản ứng dữ dội không kém, miêu tả vụ ném bom như là cuộc 'giết người hàng loạt' và buộc tội Mỹ đã chỉ huy cuộc tấn công. Đây là chỉ trích mạnh mẽ nhất của Trung Quốc đối với Mỹ trong vòng 2 năm - từ khi hai nước bắt đầu quá trình đặt lại quan hệ ngoại giao. Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã phản ứng ngay và hiệu quả. Trong vòng vài giờ sau vụ ném bom CBU, pháo binh bắn phá sân bay Biên Hòa được tăng cường đến độ các đường băng gần như không thể sử dụng được nữa. Các máy bay phản lực F-5A được rút nhanh về Sài Gòn, còn các máy bay ném bom nhẹ A-37 rút về Cần Thơ.
       Sau hai tuần giao tranh hết sức ác liệt, ngày 22-4, Xuân Lộc rơi vào tay quân Giải phóng. Bên quân lực Việt Nam Cộng hòa có 2.056 chết và bị thương 2.731 bị bắt 48 xe quân sự, 18 khẩu pháo bị phá hủy. Bên Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam (tính riêng Quân đoàn 4): 460 chết, 1.428 bị thương (theo Hoa Kỳ (ước tính): Toàn bộ các đơn vị 5.000 chết hoặc bị thương). Công phá được Xuân Lộc, các cánh Quân Giải phóng rầm rập tiến về Sài Gòn với khí thế không gì ngăn cản nổi.
Ngày 26-4, mọi công tác chuẩn bị cho chiến dịch mang tên Hồ Chí Minh, đánh vào Sài Gòn, kết thúc 20 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã sẵn sàng. Cánh quân hướng Đông của quân Giải phóng được lệnh nổ súng trước.
Trong buổi sáng ngày 30-4-1975, các binh đoàn đột kích thọc sâu đã từ các hướng đồng loạt tiến công vào nội đô Sài Gòn và đến trưa thì chiếm xong 5 mục tiêu chủ yếu được xác định là Dinh Độc Lập, Bộ tổng tham mưu, Biệt khu Thủ đô, Tổng nha cảnh sát và sân bay Tân Sơn Nhất. Người vừa được trao quyền Tổng thống Việt Nam Cộng hòa bị dẫn đến đài phát thanh đọc lời đầu hàng: “Tôi là Dương Văn Minh, tổng thống của chính quyền Sài Gòn. Tôi kêu gọi bỏ vũ khí đầu hàng vô điều kiện quân Giải phóng; giải tán cơ cấu chính quyền từ trung ương đến địa phương và giao quyền cho Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam - Việt Nam”.
Đến chiều, thành phố Sài Gòn hoàn toàn được giải phóng.
Cuộc kháng chiến ròng rã 30 năm, vượt qua biết bao nhiêu khó khăn gian khổ với biết bao nhiêu mất mát hy sinh, chống quân xâm lược hết Thực dân Pháp đến Đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai của chúng nhằm đổi lại quyền lợi chính đáng là Độc lập, Tự do và Thống nhất nước nhà của dân tộc Việt đã đạt đến thành công! Và những dấu ấn sâu đậm, đóng góp to lớn của Đại tướng, Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 vẫn sẽ còn mãi!
 
                                 
Sài Gòn ơi ta đã về đây...
Bức ảnh chụp cùng thời điểm với Hai người lính. Ảnh: Nghệ sĩ nhiếp ảnh Chu Chí Thành
                               Bức ảnh Hai người lính. Ảnh: Nghệ sĩ nhiếp ảnh Chu Chí Thành
 
                                                                            ***
 
Trong thế kỷ XX có hai cuộc chiến tranh lẫy lừng thế giới mà bên gây chiến vô cùng hùng mạnh, tưởng thắng đến nơi, lại là bên thua cuộc. Hai cuộc chiến tranh đó là cuộc chiến tranh Xô - Đức và cuộc chiến tranh Việt Nam. Nếu cuộc chiến tranh Xô -Đức còn được gọi là "cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại" với việc quân dân nước Cộng hòa XHCN Xô - Viết, gọi tắt là Liên - Xô một mình đập tan đôi quân phát xít Đức cường bạo đã thâu tóm hiết châu Âu và đang có mưu đồ xâm chiếm toàn thế giới, thì cuộc chiến tranh Việt - Nam còn được gọi là "Cuộc chiến tranh cứu nước thần thánh" với việc quân dân nước Việt - Nam dân chủ cộng hòa, gọi tắt là Việt - Nam, một nước nhỏ, non trẻ, nghèo nàn và lạc hậu đã đánh thắng lần lượt hai nước tư bản hùng mạnh và nhiều tiền lắm của bậc nhất nhì thế giới là Thực đân Pháp và Đế Quốc Mỹ để cứu nước.
Nhằm phần nào nên bật được sự kiên cường, bất khuất của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, chúng ta sẽ kể tỉ mỉ hơn một số nét, một số trận đánh tiêu biểu, dù có thể viết lặp lại một số điều.
Có thể thấy cuộc kháng chiến trải qua 5 giai đoạn chiến lược:
          1/ Giai đoạn 1 (7.1954-12.1960): Thời kỳ giữ gìn lực lượng chuyển sang khởi nghĩa từng phần - phong trào Đồng Khởi.
 Thi hành Hiệp định Geneve, LLVT ta tập kết ra miền Bắc. Trong khi đó quân nguỵ tay sai ở lại miền Nam. Từ năm 1955, đế quốc Mỹ xây dựng cho chính quyền Ngô Đình Diệm một đội pháo binh, thiết giáp chủ lực cùng 54.000 quân địa phương dưới sự điều khiển trực tiếp của Mỹ thông qua gần 700 cố vấn quân sự.
Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm do Mỹ dựng lên ra sức phá hoại hiệp định Giơnevơ 1954 về Việt Nam, thực hiện chính sách “tố cộng, diệt cộng”, đánh phá điên cuồng, giết hại, giam cầm hơn nửa triệu cán bộ, đảng viên, quần chúng yêu nước, đàn áp dã man phong trào đấu tranh của nhân dân đòi thi hành hiệp định Giơnevơ và thực hiện tổng tuyển cử tự do để thống nhất đất nước cùng chính quyền dân sinh, dân chủ (xem vụ thảm sát Ngân Sơn-Chí Thạnh, 7.9.1954; vụ thảm sát Phú Lợi, 1.12.1958). Chỉ trong 4 năm (1955-1958), 9/10 cán bộ đảng viên bị bắt giết, tù đày, nhiều huyện không còn cơ sở đảng. Cách mạng miền Nam phải chịu những tổn thất nặng nề và lâm vào tình thế rất hiểm nghèo.
Trước hành động khủng bố điên cuồng của Mỹ - Diệm, thời gian đầu chúng ta chưa có biện pháp cụ thể chống cuộc “chiến tranh một phía” của địch, dần dần đảng viên và quần chúng cách mạng tự thấy phải vũ trang chống lại kẻ thù, nếu không cách mạng sẽ bị tiêu diệt.
Thực hiện chủ trương đấu tranh chính trị có vũ trang tự vệ, nhân dân miền nam từng bước khôi phục, phát triển các đội vũ trang, đẩy mạnh hoạt động vũ trang tuyên truyền, diệt ác, phá tề, tổ chức những trận phục kích nhỏ, chống càn, bảo vệ căn cứ. Nhiều nơi đã tìm lại vũ khí ta chôn giấu khi đi tập kết, xây dựng các đội vũ trang tuyên truyền, tự vệ (Vĩnh Long, Cần Thơ). Từ năm 1957, hoạt động vũ trang đã tăng lên phối hợp cùng đấu tranh chính trị. Một số đơn vị vũ trang cách mạng đã tập kích, phục kích địch, bảo vệ căn cứ. Sang năm 1958, phong trào phát triển hơn, có trận tiến công quận lỵ Dầu Tiếng cách Sài Gòn 70km, đánh thiệt hại nặng 2 tiểu đoàn địch, diệt 200 tên, làm chủ quận lỵ; trận tập kích vào trụ sở phái đoàn cố vấn Mỹ (MAAG) ở Biên Hòa, diệt nhiều tên Mỹ...
Ngay sau khi Hội nghị lần thứ XV Ban chấp hành Trung ương Đảng (tháng 1/1959), Trung ương Đảng và Chính phủ đã cho lập Đoàn vận tải quân sự Trường Sơn (Đoàn 559), bắt đầu chi viện người và vũ khí cho miền Nam.
 Đường Trường Sơn hay “đường mòn” Hồ Chí Minh là mạng lưới giao thông quân sự chiến lược chạy từ miền Bắc vào miền Nam Việt Nam, đi qua miền Trung, hạ Lào và Campuchia. Hệ thông giao thông này đóng vai trò cung cấp binh lực, lương thực và vũ khí khí tài để chi viện cho quân giải phóng miền Nam và Quân đội nhân dân Việt Nam trong suốt 16 năm (1959 - 1975) của thời kỳ chiến tranh Việt Nam. Binh đoàn Trường Sơn (Đoàn 559) của Quân đội nhân dân Việt Nam là đơn vị triển khai các lực lượng công binh, hậu cần, y tế, bộ binh và phòng không để đảm bảo hoạt động của hệ thống đường này. Đây là con đường còn được những người lính trong cuộc chiến gọi là “Tuyến lửa”. Theo văn bản lịch sử chính thức của cơ quan An ninh quốc gia Hoa Kỳ ghi lại thì Đường Trường Sơn được quân đội Mỹ coi là “một trong những thành tựu vĩ đại của nền kỹ thuật quân sự ở thế kỷ 20”.
Ðường Trường Sơn mang tên Bác với điểm bắt đầu từ km số 0 thuộc thị trấn Lạt, huyện Tân Kỳ (Nghệ An). Tuyến đường mòn Hồ Chí Minh đã xuyên cánh rừng già, phát triển thành một mạng lưới đường với 5 trục dọc Đông và Tây Trường Sơn, 21 trục ngang liên hoàn với tổng chiều dài gần 20.000km nối liền hậu phương lớn miền Bắc tới các chiến trường miền Nam. Ngoài ra, còn có tuyến đường sông với 500km, đường ống dẫn xăng dầu với tổng chiều dài 1.400km. Trong toàn bộ cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, tuyến đường Trường Sơn đã vận chuyển trên 1,5 triệu tấn hàng hóa, 5,5 triệu tấn xăng dầu và đảm bảo hơn 1 triệu lượt cán bộ, chiến sĩ đi vào chiến trường miền Nam và hàng trăm ngàn lượt cán bộ, thương binh từ chiến trường trở về hậu phương miền Bắc. Các chiến sĩ Trường Sơn đã tham gia hàng ngàn trận đánh, tiêu diệt, bắt sống, gọi hàng khoảng 30 nghìn quân địch, bắn rơi hơn 2 nghìn chiếc máy bay, phá hủy hàng vạn tấn vũ khí và phương tiện chiến tranh của địch.
2/ Giai đoạn 2 (1.1961-6.1965): Cách mạng miền Nam từ khởi nghĩa từng phần phát triển thành chiến tranh cách mạng, đánh bại chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" của Mỹ.
Để đáp ứng yêu cầu vận chuyển vũ khí, hàng hóa chi viện cho chiến trường Nam Bộ và Nam Trung Bộ, trong khi vận chuyển đường bộ của Đoàn 559 trên dãy Trường Sơn chưa vươn tới; Tổng Quân ủy tiếp tục chỉ đạo Bộ Tổng Tham mưu khẩn trương nghiên cứu đề án mới về xây dựng và tổ chức lực lượng vận tải biển chi viện cho chiến trường Nam Bộ và Khu 5; Bộ Chính trị chỉ thị cho Trung ương Cục miền Nam chỉ đạo các tỉnh ven biển ở miền Trung và Nam Bộ chủ động chuẩn bị bến, bãi và tổ chức đưa thuyền vượt biển ra miền Bắc, vừa thăm dò, nắm tình hình địch, nghiên cứu tuyến vận chuyển trên biển, vừa nhận vũ khí để kịp thời cung cấp cho cách mạng miền Nam.
 Ngày 23/10/1961, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định thành lập Đoàn vận tải quân sự 759, đánh dấu mốc lịch sử quan trọng, mở ra bước phát triển mới của tuyến vận tải chiến lược - đường Hồ Chí Minh trên biển. Từ đây, đường Hồ Chí Minh trên biển - con đường nối liền hậu phương lớn miền Bắc với tiền tuyến lớn miền Nam, chính thức đi vào hoạt động.
Ngày 11/10/1962, chiếc tàu gỗ gắn máy đầu tiên, số hiệu 41, mang tên “Phương Đông 1” của Đoàn 759 chở 30 tấn vũ khí rời bến Đồ Sơn (Hải Phòng) vào Cà Mau; 19/10/1962, tàu cập bến Vàm Lũng (Cà Mau).
Ngày 24/1/1964, Đoàn 759 được điều chỉnh tổ chức, phát triển thành Đoàn 125 Hải quân.
Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, đoàn 125 đã thực hiện thành công 143 chuyến tàu, vận chuyển 8.741 tấn vũ khí hạng nặng (50 xe tăng và pháo cỡ lớn), đưa 18.741 cán bộ, chiến sĩ vượt 65.721 hải lý để kịp thời tham gia chiến đấu. 
 Kế hoạch Stanley-Taylor của Mỹ: là tên một kế hoạch thực thi chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" của Hoa Kỳ trong Cuộc chiến xâm lược Việt Nam. Kế hoạch này được công bố tháng 5 năm 1961, mang tên hai người soạn thảo là nhà kinh tế học Eugene Staley của Viện nghiên cứu Standford - đại học Stanford và Đại tướng Maxwell D. Taylor, chỉ huy quân đội Mỹ tại Việt Nam. Theo tiến độ, kế hoạch được triển khai trong 4 năm (1961-1965). Nội dung của nó là "bình định Miền Nam Việt Nam" trong vòng 18 tháng, từ đó đảm bảo cho quân đội Việt Nam Cộng hòa thế chủ động trên chiến trường Miền Nam.

Kế hoạch bao gồm 3 biện pháp chiến lược:

  • Tăng cường sức mạnh quân đội Việt Nam Cộng Hòa, sử dụng nhiều máy bay, xe tăng để nhanh chóng tiêu diệt các lực lượng vũ trang quân Giải phóng, sử dụng chỉ huy và cố vấn Mỹ để chỉ huy các đơn vị chiến đấu.
  • Giữ vững thành thị, đồng thời dập tắt phong trào cách mạng ở nông thôn bằng "bình định" và lập "ấp chiến lược".
  • Ra sức ngăn chặn biên giới kiểm soát ven biển, cắt đứt nguồn chi viện từ miền Bắc vào, cô lập cách mạng miền Nam.

Tuy vậy, nó đã bị phá sản từ năm 1963 với các sự kiện trận Ấp Bắc, Đảo chính chính phủ Ngô Đình Diệm, các "ấp chiến lược" không thực hiện được theo như kế hoạch ban đầu. Mặc dù không tuyên bố, kế hoạch chính thức chấm dứt khi các đơn vị lính thủy đánh bộ Mỹ đổ bộ vào Đà Nẵng tháng 3 năm 1965  để trực tiếp tham chiến tại Miền Nam Việt Nam. 

3/ Giai đoạn 3 (7.1965-12.1968): Phát triển thế tiến công chiến lược, đánh bại chiến lược "Chiến tranh cục bộ"  ở miền Nam và chiến tranh phá hoại lần 1 (7.2.1965-1.11.1968) của Mỹ ở miền Bắc.
Sau thất bại của chiến lược "Chiến tranh đặc biệt", Mỹ bị động chuyến sang tiến hành chiến lược "Chiến tranh cục bộ" hòng nhanh chóng kết thúc chiến tranh. Cuộc “Chiến tranh cục bộ” là loại hình chiến tranh xâm lược thực dân mới, nhưng sử dụng mức độ hạn chế quân Mỹ cùng với quân chư hầu trong khu vực và quân ngụy, trong đó quân Mỹ giữ vai trò tác chiến chủ yếu trên chiến trường. Mục tiêu “Chiến tranh cục bộ” ở miền Nam là nhanh chóng tạo ra ưu thế binh lực, hỏa lực “tìm diệt” chủ lực ta, giành lại thế chủ động trên chiến trường, mở rộng và củng cố vùng kiểm soát, giành lại dân; đồng thời gây chiến tranh phá hoại miền Bắc, ngăn chặn sự chi viện từ miền Bắc vào miền Nam, phá hoại sự nghiệp xây dựng miền Bắc, làm lung lay ý chí giải phóng miền Nam của Đảng ta và nhân dân ta
Từ giữa năm 1965, Mỹ ồ ạt đưa quân chiến đấu vào miền Nam (từ 184.300 lên 536.000 quân (cuối năm 1968), lúc cao nhất tới 542.000), cùng với quân các nước phụ thuộc Mỹ (57.800 quân, lúc cao nhất tới 70.300) và QĐ Sài Gòn (650.000 quân, lúc cao nhất gần 1 triệu) hợp thành 2 lực lượng chiến lược với những phương tiện chiến tranh hiện đại nhất (trừ vũ khí nguyên tử); liên tục mở 2 cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965-66 và 1966-67 với ý đồ tìm diệt cơ quan đầu não kháng chiến và một bộ phận chủ lực QGPMN VN.  
Quân và dân miền Nam giữ vững và phát triển thế tiến công, quân dân miền Nam càng quyết tâm đánh Mỹ và thắng Mỹ. Sau trận Núi Thành mở đầu đánh Mỹ, trận Vạn Tường (Bình Sơn, Quảng Ngãi) tháng 8/1965, ta đẩy lùi cuộc hành quân của quân Mỹ, diệt 900 tên đã chứng tỏ quân ta có đủ khả năng diệt quân Mỹ. Sau đó, một phong trào “Tìm Mỹ mà đánh, tìm Ngụy mà diệt” dâng cao khắp miền Nam. 
Từ những trận đầu thắng Mỹ (trận Núi Thành, 26.5.1965; trận Vạn Tường, 18-19.8.1965; trận Đất Cuốc, 8.11.1965… ), tiến lên mở các chiến dịch tiến công và phản công (chiến dịch Plây Me, 19.10-26.11.1965; chiến dịch Bàu Bàng-Dầu Tiếng, 12-27.11.1965; chiến dịch Tây Sơn Tịnh, 20.2-20.4.1966; chiến dịch Sa Thầy, 18.10-6.12.1966; chiến dịch đánh bại cuộc hành quân Junction City (Gianxơn Xiti), 22.2-15.4.1967; chiến dịch Đắc Tô I, 3-22.11.1967…) làm thất bại một bước quan trọng chiến lược chiến tranh cục bộ của Mỹ. Hai cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965-1966 và 1966-1967 của Mỹ với trên 1.000 cuộc hành quân lớn nhỏ đánh vào các vùng giải phóng của ta, lớn nhất là cuộc hành quân Junction City bị thất bại. Trên toàn miền Nam, quân dân ta đã loại khỏi vòng chiến đấu trên 15 vạn quân địch, trong đó có 68.200 tên Mỹ. Phong trào đấu tranh chính trị vùng địch chiếm, nhất là các thành phố lớn dâng lên mạnh mẽ làm mất ổn định chế độ Mỹ-Ngụy. Chiến lược “Chiến tranh cục bộ” bị thất bại một bước quan trọng.
Nắm vững thời cơ có lợi, đêm 30, rạng ngày 31/1/1968, quân dân ta mở Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân  đồng loạt tiến công địch ở 4 thành phố, 37 thị xã, hàng trăm thị trấn trên toàn miền Nam gây cho địch thiệt hại lớn và khủng hoảng tinh thần; vây hãm, tiến công quân Mỹ trong chiến dịch Đường 9-Khe Sanh (20.1-15.7.1968, từ Cửa Việt đến biên giới Việt-Lào), giành thắng lợi lớn, bồi thêm một đòn nặng vào quân Mỹ-Ngụy, tạo bước ngoặt quyết định của cuộc Kháng chiến chống Mỹ.

Quân dân miền Bắc quyết tâm vừa đánh thắng Mỹ vừa đảm bảo sản xuất và đời sống, vừa tích cực chi viện cho miền Nam. Đến cuối năm 1968, quân dân miền Bắc đã bắn rơi, bắn cháy 3.234 máy bay, diệt và bắt sống hàng nghìn giặc lái Mỹ, bắn chìm, bắn cháy 143 tàu chiến, tàu biệt kích Mỹ-Ngụy, đánh bại chiến tranh phá hoại lần 1 bằng không quân và hải quân của Mỹ.

Bị thất bại nặng nề ở VN, trước làn sóng phản đối chiến tranh xâm lược Việt Nam trên thế giới và ngay trong nước Mỹ ngày càng mạnh mẽ, ngày 1.11.1968, chính phủ Mỹ buộc phải tuyên bố chấm dứt ném bom bắn phá miền Bắc và phải ngồi vào bàn thương lượng ở Hội nghị Paris (1968-1973). “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ bị phá sản.
4/ Giai đoạn 4 (1.1969-1.1973): Đánh bại chiến lược Việt Nam hoá chiến tranh chiến tranh phá hoại lần 2 (6.4.1972-15.1.1973) của Mỹ ở miền Bắc, buộc Mỹ phải ký hiệp định Paris 1973 về Việt Nam, rút hết quân Mỹ về nước.
Chiến lược chiến tranh cục bộ bị phá sản, Nixon chuyển sang thực hiện chiến lược "VN hoá chiến tranh", ra sức phát triển và hiện đại hoá QĐ Sài Gòn để từng bước thay thế quân Mỹ rút dần về nước; đẩy mạnh bình định ở miền Nam VN và mở rộng chiến tranh ra toàn bán đảo Đông Dương.
Sau cuộc đảo chính lật đổ chính quyền Sihanouk (xem đảo chính Lon Non-Syriach Matăc, 18.3.1970), Mỹ và QĐ Sài Gòn mở cuộc tiến công xâm lược Campuchia nhằm cắt đứt hành lang vận chuyển chiến lược Bắc-Nam của VN. QGPMNVN phối hợp với LLVT cách mạng Campuchia tổ chức các chiến dịch phản công đánh bại các cuộc tiến công lớn của địch (xem chiến dịch Đông Bắc Campuchia, 29.4-30.6.1970; chiến dịch Đông Bắc Campuchia, 4.2-31.5.1971; chiến dịch Đường 6, 27.10-4.12.1971), mở rộng vùng giải phóng của cách mạng Campuchia trên 5 tỉnh. 
Đầu 1971, QĐ Sài Gòn được sự yểm trợ, chi viện hoả lực của Mỹ và sự phối hợp của QĐ phái hữu Lào mở cuộc hành quân Lam Sơn 719 đánh ra đường 9-Nam  Lào, nhằm cắt đứt hành lang vận chuyển chiến lược Bắc-Nam của ta, chia cắt 3 nước Đông Dương. QGPMN VN phối hợp với LLVT cách mạng Lào mở chiến dịch phản công, đánh bại hoàn toàn cuộc hành quân của địch (xem chiến dịch Đường 9-Nam Lào, 30.1-23.3.1971). 
Phát huy quyền chủ động tiến công, từ 3.1972, ta mở cuộc tiến công chiến lược vào hệ thống phòng ngự của địch trên 3 hướng, gồm các chiến dịch: chiến dịch Trị Thiên (30.3-27.6.1972); chiến dịch Bắc Tây Nguyên 30.3-5.6.1972 và chiến dịch Nguyễn Huệ 1.4.1972-19.1.1973; tiếp đó, mở các chiến dịch tiến công tổng hợp đánh phá bình định ở đồng bằng Khu 5, Khu 8 (xem chiến dịch Bắc Bình Định, 9.4-3.5.1972; chiến dịch đồng bằng sông Cửu Long, 10.6-10.9.1972); phối hợp với LLVT cách mạng Lào mở chiến dịch tiến công giải phóng Cánh Đồng Chum và đánh bại các cuộc phản kích, lấn chiếm của địch (xem chiến dịch Cánh Đồng Chum-Mường Sủi, 18.12.1971-6.4.1972; chiến dịch phòng ngự Cánh Đồng Chum-Xiêng Khoảng, 21.5-15.11.1972)… 
Trước thất bại nặng nề của QĐ Sài Gòn, Mỹ cho không quân và hải quân trở lại đánh phá ác liệt ở miền Nam và tiến hành chiến tranh phá hoại lần thứ hai đối với miền Bắc. Cuộc tập kích đường không chiến lược bằng máy bay B-52 của Mỹ vào Hà Nội, Hải Phòng cuối 12.1972 (chiến dịch Linebacker II) bị đập tan (xem chiến dịch phòng không Hà Nội-Hải Phòng, 18-29.12.1972) và là một “Điện Biên Phủ trên không” đối với đế quốc Mỹ, buộc Mỹ phải ký hiệp định Paris về Việt Nam (27/1/1973), rút hết quân Mỹ và quân các nước phụ thuộc Mỹ ra khỏi miền Nam VN, cam kết tôn trọng độc lập chủ quyền thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của VN. Chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” thất bại. 
5/ Giai đoạn 5 (12.1973-30.4.1975): tạo thế, tạo lực và thực hành cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam kết thúc thắng lợi cuộc Kháng chiến chống Mỹ.
Tuy rút hết quân đội, nhưng Mỹ vẫn để lại 2 vạn cố vấn quân sự đội lốt dân sự, để lại vũ khí, trang bị chiến tranh và tiếp tục viện trợ quân sự cho chính quyền Nguyễn Văn Thiệu. Quân ngụy lên đến 1.100.000 tên và ra sức lấn chiếm phá hoại Hiệp định Paris. Quân dân miền Nam kiến quyết đánh bại các cuộc hành quân “tràn ngập lãnh thổ” của địch, cả nước khẩn trương tạo thế, tạo lực để tiến lên giải phóng hoàn toàn miền Nam. Được Mỹ tiếp sức, chính quyền Sài Gòn ra sức phá hoại hiệp định Paris, liên tiếp mở các cuộc hành quân càn quét, các chiến dịch “tràn ngập lãnh thổ”.
Quân và dân ta đánh bại các cuộc tiến công lấn chiếm của địch, khẩn trương tạo thế, tạo lực, mở rộng vùng giải phóng. Thắng lợi của chiến dịch Đường 14-Phước Long (13.12.1974-6.1.1975) đặt cơ sở cho hội nghị Bộ Chính trị họp cuối năm 1974, đầu 1975 thông qua kế hoạch chiến lược giải phóng miền Nam (1975-76), quyết định nắm vững thời cơ chiến lược, mở cuộc tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975 với 3 đòn tiến công chiến lược.
Từ cuối năm 1974, quân ta đã bí mật dàn thế trận chiến dịch Tây Nguyên, lấy Buôn Ma Thuột làm trận then chốt mở màn. Ngày 4/3, quân ta tiến công cắt đường 19, 21 nối Tây Nguyên với đồng bằng khu V. Ngày 9/3, đánh chiếm Đức Lập-Núi Lửa, cô lập hoàn toàn Buôn Ma Thuột.
Chiến dịch Tây Nguyên mở màn bằng trận Buôn Ma Thuột (10-11.3.1975). Ngày 10/3, 4 cánh quân ta tiến công Buôn Ma Thuột. Sau 2 ngày chiến đấu, quân ta tiêu diệt hoàn toàn quân địch ở đây, làm chủ thị xã. Địch điều quân phản kích bị quân ta diệt gọn. Nắm bắt ý đồ của địch rút chạy khỏi Tây Nguyên, ta bố trí đánh chặn và truy kích tiêu diệt và làm tan rã Quân đoàn 2-Quân khu 2 của địch, giải phóng toàn bộ Tây Nguyên và các tỉnh Nam Trung Bộ.  
Cùng với hoạt động tiến công và nổi dậy của quân và dân Khu 5 giải phóng các tỉnh Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Tín, Quảng Ngãi và 2 thành phố Huế, Đà Nẵng, loại khỏi chiến đấu Quân đoàn 1-Quân khu 1 của địch. Vừa đánh địch rút chạy khỏi Tây Nguyên, ngày 21/3, quân ta thọc sâu bao vây Huế. Ngày 26/3, quân ta tiêu diệt và làm tan rã lực lượng địch ở Huế, thành phố Huế và toàn tỉnh Thừa Thiên được giải phóng. Quân ta tiếp tục tấn công Đà Nẵng, phối hợp với quần chúng nổi dậy. Ngày 29/3, Đà Nẵng được giải phóng.
Ngày 14/4/1975, Bộ Chính trị Trung ương Đảng quyết định chiến dịch tiến công vào Sài Gòn giải phóng hoàn toàn miền Nam mang tên Chiến dịch Hồ Chí Minh.
Sau khi chọc thủng và đập tan tuyến phòng thủ vòng ngoài Sài Gòn-Gia Định của địch, ngày 26/4, 5 cánh quân ta tiến vào Sài Gòn; sáng 30.4, thọc sâu đánh chiếm các mục tiêu chủ yếu trong nội đô, 10 giờ 45 phút, ngày 30/4, xe tăng ta tiến vào Dinh Độc Lập, tổng thống ngụy quyền Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng không điều kiện; kết hợp với nổi dậy của nhân dân, tiêu diệt và làm tan rã Quân đoàn 3-Quân khu 3 của địch, giải phóng Sài Gòn-Gia Định, buộc chính quyền Sài Gòn phải đầu hàng vô điều kiện, Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng. Đồng thời phát triển tiến công và nổi dậy tiêu diệt, bắt và làm tan rã toàn bộ lực lượng Quân đoàn 4-Quân khu 4 của địch, giải phóng các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và các hải đảo do QĐ Sài Gòn đóng giữ, kết thúc toàn thắng cuộc Kháng chiến chống Mỹ. Cuộc kháng chiến chống Mỹ thắng lợi hoàn toàn. Nhân dân VN đã đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược thực dân mới với quy mô lớn quy mô lớn nhất, dài ngày nhất, ác liệt nhất từ sau Chiến tranh Thế giới thứ hai. Đây cũng là cuộc chiến bại chưa từng có trong lịch sử 200 năm của nước Mỹ. 
                                                 ***
Chúng ta tìm chọn trên mạng, chép ra đây những trận đánh tiêu biểu của quân dân ta trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, nhằm tỏ lòng kính phục thế hệ ông cha mình:

1+ Trận Ấp Bắc (2-1-1963): Vào ngày 2-1-1963, tại Ấp Bắc (xã Tân Phú, huyện Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho - nay là xã Tân Phú, thị xã Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang), quân và dân ta đã làm nên Chiến thắng Ấp Bắc lẫy lừng.

Thất bại liên tiếp trên các chiến trường nên đế quốc Mỹ buộc phải chuyển sang chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”. Biện pháp chính của địch là bình định, dồn dân lập ấp chiến lược trên quy mô lớn, áp dụng chiến thuật tân kỳ “trực thăng vận”, “thiết xa vận”. Từ giữa năm 1961, địch đã gây nhiều tổn thất cho quân và dân ta nhưng ta đã kịp thời nghiên cứu để có cách ứng phó hiệu quả. Sau những thất bại trong các cuộc càn quét cuối năm 1962, khi phát hiện lực lượng chủ lực của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trú quân tại Ấp Bắc, xã Tân Phú, huyện Cai Lậy, tỉnh Mỹ Tho (nay là xã Tân Phú, thị xã Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang), Mỹ và ngụy quân tay sai cấp tốc điều động lực lượng, phương tiện chiến tranh, tổ chức cuộc hành quân càn quét mang mật danh “Đức Thắng 01-63” nhằm tiêu diệt lực lượng của ta.

Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã huy động một lực lượng gồm một tiểu đoàn bộ binh của Sư đoàn 7 và 2 tiểu đoàn bảo an, 1 chi đoàn thiết giáp (13 xe thiết giáp M113) và 3 đại đội bộ binh (trong đó có 2 đại đội làm lực lượng dự bị); khoảng 8 máy bay ném bom, 20 trực thăng đổ quân và vũ trang, 11 máy bay quan sát và vận tải, 13 tàu xuồng các loại và khoảng 1 tiểu đoàn pháo binh chi viện. Tổng cộng gần 1.800 quân do cố vấn Mĩ chỉ huy.

Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam có 2 đại đội bộ binh và khoảng 30 du kích Ấp Bắc. Hầu hết quân số chỉ trang bị súng trường và lựu đạn, vũ khí cỡ lớn duy nhất là 1 khẩu súng cối 60mm làm hoả lực chi viện.

Sáng sớm ngày 2/1/1963, nhiều máy bay trinh sát L19 của Mỹ đã quần lượn trên bầu trời Ấp Bắc, hướng dẫn đường tiến quân cho bộ binh và cơ giới càn quét vào ấp. 2 Đại đội bảo an từ Điền Hy bắt đầu xung phong vào xóm Hội Đồng Vàng, xã Tân Phú nhưng bị chặn đánh và thiệt hại nặng, một số khác bị sa xuống hố chông, cạm bẫy, mìn vướng nổ của du kích.

Cánh quân khác tiến công bằng đường thủy theo kênh Nguyễn Tấn Thành gồm 13 tàu chiến chở 2 Đại đội biệt động quân cũng bị trung đội du kích và 2 đội công binh săn tàu đánh chặn quyết liệt. Bằng thủy lôi tự tạo và hỏa lực bố trí sẵn trong các công sự, hố bắn dọc theo hai bờ kênh, quân Giải phóng đánh chìm 1 tàu và đánh hỏng một số chiếc khác. Đoàn tàu chững lại, sau đó tìm đường tháo lui.

Sau đợt tiến công đầu tiên thất bại, quân đội Sài Gòn sử dụng chiến thuật “trực thăng vận”, dùng 5 máy bay trực thăng vũ trang loại UH-1A làm nhiệm vụ yểm trợ cho 10 chiếc trực thăng chở quân loại CH-21 đổ 2 Tiểu đoàn bộ binh xuống phía sau ấp, rồi hình thành 2 gọng kìm bao vây lực lượng quân Giải phóng bên trong, trước tiên sẽ dùng một số nhỏ trực thăng đổ bộ xuống trước để thăm dò phản ứng. Phán đoán được ý đồ của đối phương, quân Giải phóng triển khai kế hoạch nghi binh lừa địch, giữ bí mật vị trí, không nổ súng.

Quân Giải phóng áp dụng nguyên tắc không bắn máy bay trinh sát và chờ xem điều gì sẽ xảy ra tiếp theo. Sau một hồi thăm dò không thấy quân Giải phóng phản ứng, các máy bay chở quân liên tục đỗ xuống các vị trí đã được tính toán sẵn. Lần lượt ba chiếc trực thăng chiến đấu xuất hiện, bắt đầu bắn súng máy và rocket. Chờ trực thăng tới gần, quân Giải phóng khai hỏa hàng loạt súng tự động và súng trường từ kênh tưới. Bằng cách đánh phục kích này, đến trưa ta loại khỏi vòng chiến đấu 5 chiếc trực thăng. Đợt tấn công thứ 2 bằng trực thăng đã thất bại.

Các toán quân của Sư đoàn 7 Việt Nam Cộng hòa tiến vào ấp từ phía bắc đã không quay lại để cứu đại đội dự phòng và các tổ lái trực thăng. Đến 12 giờ 15 phút, cuối cùng tiểu đoàn Sài Gòn đến Tân Thới. Rồi trước 13 giờ những chiếc xe thiết giáp M-113 tiến lại dần dần trên đồng ruộng. Quân Giải phóng không có vũ khí chống tăng nên không thể chiến đấu chống xe bọc thép M-113 có hiệu quả. Để truyền cho các toán quân can đảm đứng lên chống xe bọc thép với vũ khí nhẹ và lựu đạn, các chỉ huy của quân Giải phóng đã lên một bản danh sách những điểm yếu của xe bọc thép: người bắn súng máy trên đỉnh đứng sau giá súng để lộ từ thắt lưng trở lên, hoặc có thể bắn trúng lái xe qua khe ngắm, những chiến sĩ dũng cảm thì có thể tiếp cận rồi ném lựu đạn lên nóc xe. Các chỉ huy cũng đã truyền thụ cho chiến sĩ tập trung bắn vào M-113 như đã bắn máy bay. Mỗi tiểu đội hoặc trung đội phải chọn chiếc xe gần nhất rồi bắn tập trung vào đấy, không để hỏa lực bị phân tán.

Khi tốp đi đầu gồm 3 xe thiết giáp M113 đã vào đúng tầm, các loại hỏa lực của quân Giải phóng gồm súng trường, đại liên, súng cối, súng phóng lựu được lệnh đồng loạt phát hỏa, 1 xe M113 bị diệt, một số chiếc khác bị đánh hỏng. Mũi tấn công bằng thiết giáp bị chặn lại.

Khoảng 17h00 ngày 2/1, đợt tiến công mới được thực hiện bằng máy bay vận tải C47 chở Tiểu đoàn nhảy dù số 8 tới ấp Tân Thới. Nhưng phần lớn quân nhảy dù đều rơi vào trận địa mai phục của Đại đội 1 – Tiểu đoàn 514, nhiều lính bị tiêu diệt khi chưa kịp thoát khỏi dù. Số sống sót co cụm cố chống đỡ, chờ quân đến ứng cứu. Cùng lúc đó, ở hướng Đại đội 1 – Tiểu đoàn 216, những chiếc thiết xa M113 còn lại tiếp tục bị chặn đánh. Thấy lực lượng bị thiệt hại nặng và trời đã sắp tối, quân đội Sài Gòn được lệnh rút ra ngoài đóng chốt nghỉ đêm, dự định ngày hôm sau nhận thêm chi viện để tấn công tiếp.

Về phía quân Giải phóng, tuy giành thắng lợi lớn nhưng dự trữ đạn dược cũng đã hao hụt nhiều (trang bị của quân Giải phóng khi đó rất thiếu thốn, dự trữ súng đạn đều ít nên khi bắn phải thật tiết kiệm). Nhận thấy đã đạt mục đích là gây thiệt hại nặng cho địch và đúc kết được nhiều kinh nghiệm tác chiến, lúc 22 giờ cùng ngày, quân Giải phóng theo hàng dọc rút về hướng căn cứ Đồng Tháp Mười. Dân quân địa phương và nông dân Ấp Bắc, Tân Thới đã hỗ trợ bộ đội trong suốt cuộc chiến cũng đi theo một con đường khác về chỗ trú ẩn trong những rừng dừa lân cận. Đi đầu là các toán quân chủ lực của Tiểu đoàn 261 đã chống cự ở Ấp Bắc. Quân địa phương của Tiểu đoàn 514 đi đoạn hậu với một trung đội bảo vệ phía sau. Hàng quân tiếp tục đi đến một chỗ lội qua sông, tiến lên không bị phát hiện và về đến trại đóng quân ở xã Hưng Thạnh (huyện Châu Thành) lúc 7 giờ sáng. 

Sau một ngày chiến đấu, với 5 đợt tấn công bằng những phương pháp tác chiến "tân kì nhất" như thiết xa vận, trực thăng vận, bủa lưới phóng lao... từ nhiều hướng, kể cả đổ bộ đường không bằng nhảy dù, song Quân lực Việt Nam Cộng hòa đều bị đẩy lùi. Kết quả trong trận này Quân lực Việt Nam Cộng hòa có 83 người thiệt mạng trên tổng số gần 200 lính thương vong, 3 cố vấn Mỹ bị giết và 16 cố vấn, phi công Mỹ bị thương. Phía Quân Giải phóng chỉ có 18 người chết.

                       

                        Chiến lợi phẩm ta thu được sau trận Ấp Bắc. (Nguồn: Internet)

Thắng lợi trong trận Ấp Bắc không chỉ có ý nghĩa về chiến thuật mà còn có ý nghĩa quan trọng về chiến lược. Lần đầu tiên trên chiến trường miền Nam, quân và dân ta đánh bại các chiến thuật tân kỳ “trực thăng vận”, “thiết xa vận” của quân đội Sài Gòn. Đặc biệt, Chiến thắng Ấp Bắc đã cổ vũ mạnh mẽ lực lượng vũ trang cách mạng miền Nam. Ngày 25/3/1963, Trung ương Cục miền Nam quyết định phát động phong trào “Thi đua Ấp Bắc, giết giặc lập công” trong toàn quân và toàn dân ta ở miền Nam, đẩy mạnh tiến công địch giành thắng lợi to lớn hơn nữa, tiến lên đánh bại toàn bộ chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ.
Sách "Từ điển bách khoa về chiến tranh Việt Nam" của Mỹ đã ca ngợi quân Giải phóng ở Ấp Bắc là "những chiến sĩ có quyết tâm cao và được huấn luyện tốt", trong khi đánh giá Quân lực Việt Nam Cộng hòa là "bất tài, hỗn loạn và hèn nhát". 
2+ Chiến thắng Bình Giã (5-1-1965) (Bà Rịa, miền Đông Nam Bộ): tiêu diệt binh đoàn dự bị chiến lược của địch. Cùng với chiến thắng Ba Gia (31-5-1965) và Đồng Xoài (12-6-1965) quân và dân miền đã đánh bại hoàn toàn chiến lược “chiến tranh cục bộ”, ào ạt đưa quân Mỹ vào miền Nam, nhưng quân Mỹ vào lại càng không thể cứu vãn được tình thế, bị đánh tơi bời.
 Chiến dịch Bình Giã (1964-1965) chia làm 2 đợt: Đợt, 1 từ ngày 2/12 đến ngày 17/12/1964; đợt 2, từ ngày 27/12/1964 đến 3/1/1965. Chiến dịch Bình Giã thắng lợi đánh dấu sự thất bại của chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mỹ trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam.
                           Thành lập Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam - một tất yếu lịch sử   
                             Chiến dịch Bình Giã - Chiến dịch đầu tiên của bộ đội chủ lực  
                    Chiến thắng Bình Giã (2/12/1964)
                Quân ta bắn rơi trực thăng của địch tại Chiến dịch Bình Giã. Ảnh tư liệu                          

Để thực hiện mục tiêu đánh chắc thắng của chiến dịch Bình Giã, tháng 10/1964, Bộ Chỉ huy Quân sự Miền Đông đã giao ông Nguyễn Việt Hoa, Tỉnh đội trưởng Tỉnh đội Bà Rịa trực tiếp chỉ huy lực lượng vũ trang địa phương, gồm: Đại đội 440 (C440), Đại đội 445 (C445) cùng các đơn vị bộ đội huyện và du kích xã Ngãi Giao đột kích vào Ấp chiến lược Bình Giã, thăm dò phản ứng của địch. Mỗi lần bị quân ta tấn công, Mỹ-ngụy lại tức tốc dùng máy bay trực thăng đổ Tiểu đoàn 38 biệt động quân xuống Bình Giã để cứu viện. Những trận đánh không cân sức giữa ta và địch thường diễn ra ác liệt kéo dài cả ngày trời.

Sau 3 lần tiến công, ta đã nắm được quy luật hoạt động cũng như điểm mạnh, điểm yếu của địch, Bộ Chỉ huy Chiến dịch đã hoàn chỉnh phương án tác chiến đến từng chi tiết.  

Rạng sáng 2/12/1964, C445, bộ đội địa phương của tỉnh, phối hợp với Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 761, bộ đội chủ lực Miền Đông nổ súng tiến công Ấp chiến lược Bình Giã, mở màn chiến dịch. Cùng lúc quân ta pháo kích vào Chi khu Đức Thạnh nằm cạnh lộ 2 (nay là QL56, huyện Châu Đức) để khống chế hỏa lực chi viện của địch. Trận quyết chiến diễn ra ác liệt, ta và địch giành nhau từng tấc đất. Nhưng do lực lượng ta mỏng, không đủ sức đánh chiếm toàn bộ Ấp chiến lược Bình Giã nên bộ đội được lệnh rút lui.

Sáng 9/12/1964, Mỹ-ngụy tổ chức cuộc hành quân "Bình Tuy 33", dùng Chi đoàn Thiết giáp số 3 tiến theo lộ 2, từ Bà Rịa lên Đức Thạnh để giải tỏa lộ 2. Trên đường trở về, Chi đoàn Thiết giáp số 3 lọt vào trận địa phục kích của Trung đoàn 762 bộ đội chủ lực Miền. Quân ta chặn đầu, khóa đuôi, chia cắt đội hình địch. Sau 1 giờ chiến đấu quyết liệt, quân ta làm chủ hoàn toàn trận địa, tiêu diệt gọn đoàn thiết giáp của địch, phá hủy 14 xe bọc thép, diệt 107 tên địch, trong đó có 9 cố vấn Mỹ, 5 sĩ quan quân đội Sài Gòn, thu nhiều vũ khí trang bị. Trận đánh then chốt nhất trong đợt 1 của Chiến dịch Bình Giã hoàn toàn thắng lợi.

Ngày 17/12/1964, Bộ Chỉ huy Chiến dịch chủ động kết thúc đợt 1 của Chiến dịch Bình Giã. Sau khi kết thúc đợt 1, Bộ tư lệnh Miền Đông tiếp tục chỉ đạo công tác chuẩn bị cho đợt 2 tiến công Ấp chiến lược Bình Giã.  

Đêm 20/12/1964, cán bộ chiến sĩ Đoàn 1500 phối hợp với quân dân Xuyên Mộc tiếp nhận và vận chuyển 70 tấn vũ khí tại bến Lộc An (huyện Xuyên Mộc) từ chuyến tàu đặc biệt của miền Bắc bí mật vượt biển vào chi viện cho Chiến dịch Bình Giã.

Đợt 2 của Chiến dịch Bình Giã bắt đầu diễn ra vào đêm 27/12/1964. Bộ Tư lệnh Chiến dịch sử dụng 2 đại đội của Tiểu đoàn 1, Trung đoàn 761 và C445 bộ đội địa phương tiến công Ấp chiến lược Bình Giã. Rạng sáng 28, quân ta chiếm toàn bộ ấp. Tiểu đoàn 1 và C445 tiếp tục tổ chức trận địa đánh địch phản kích. Mỹ ngụy dùng máy bay trực thăng chở Tiểu đoàn 30 biệt động quân đổ bộ xuống Chi khu Đức Thạnh. Địch chia làm 3 cánh quân tiến vào Bình Giã. Cánh quân thứ nhất bị quân ta chặn đánh quyết liệt, giết và làm bị thương nhiều tên, số còn lại tháo chạy. 

Ngày 3/1/1965, đợt 2 của Chiến dịch Bình Giã kết thúc thắng lợi. Sau hơn 1 tháng chiến đấu, quân và dân ta đã tiêu diệt gần 2.000 tên địch, trong đó có 60 cố vấn Mỹ, bắt sống 293 tên, phá hủy 45 xe quân sự các loại, bắn rơi 24 máy bay và làm hư hỏng nhiều chiếc khác. 

Lần đầu tiên trên chiến trường miền Nam, lực lượng vũ trang cách mạng đã tiêu diệt được cấp tiểu đoàn địch, trong đó có những đơn vị sừng sỏ thuộc lực lượng tổng trù bị của quân đội Sài Gòn; phá hủy hệ thống ấp chiến lược ở ven đường số 2 và đường số 15 thuộc các huyện Đất Đỏ (Bà Rịa), Long Thành, Nhơn Trạch (Đồng Nai) giải phóng hoàn toàn huyện Hoài Đức (Bình Thuận) và căn cứ Hắc Dịch, mở rộng và củng cố vùng giải phóng, nối Chiến khu Đ với căn cứ Bình Thuận.

Chiến thắng Bình Giã đã góp phần làm phá sản chiến lược "Chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mỹ. Thiếu tướng Nguyễn Minh Ninh, nguyên Chủ tịch UBND tỉnh BR-VT, nguyên Chỉ huy trưởng Bộ CHQS Đặc khu Vũng Tàu - Côn Đảo, nguyên Chính trị viên C440, đơn vị trực tiếp tham gia chiến dịch Bình Giã, đánh giá: "Chiến thắng Bình Giã có ý nghĩa lịch sử to lớn đối với cách mạng miền Nam, đồng thời minh chứng cho sự đúng đắn về đường lối cách mạng của Đảng, chứng tỏ sự trưởng thành của quân đội ta về chiến thuật, chiến dịch và nghệ thuật chỉ đạo tác chiến...".

3+ Trận núi Thành (28-5-1965):
Những tháng cuối năm 1964 đầu năm 1965, phong trào chiến tranh cách mạng miền Nam phát triển như vũ bão; ngụy quân, ngụy quyền “niềm hy vọng” của đế quốc Mỹ trên đà sụp đổ. Để cứu vãn tình hình, đế quốc Mỹ thay đổi chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” bằng chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, đưa quân viễn chinh Mỹ trực tiếp tham chiến ở miền Nam; tiến hành chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân ra miền Bắc.
                        quan my chiem dong doi nui thanh de quan sat duoc binh dia rong lon 
               Quân Mỹ chiếm đóng đồi Núi Thành để quan sát được bình địa rộng lớn.
                        bo doi dia phuong phoi hop voi phan doi dac cong v16 tinh nhue duoc cu to chuc tien cong tieu diet vi tri nui thanh do quan my moi chiem dong 
                         Chiến thắng Núi Thành - Vang vọng khí thế trận đầu đánh Mỹ
Ngày 7/5/1965, quân Mỹ đổ bộ lên Kỳ Liên, Kỳ Hà (nay là xã Tam Nghĩa và xã Tam Quang, huyện Núi Thành). Ngày 10/5/1965, Bộ Tư lệnh Quân khu V giao nhiệm vụ cho Ban chỉ huy Tỉnh đội Quảng Nam nhanh chóng phát động chuyển tư tưởng bộ đội, du kích từ đánh ngụy sang đánh cả ngụy lẫn Mỹ. Tổ chức lực lượng hình thành vành đai bao vây, tiêu hao, tiêu diệt quân Mỹ ở khu vực Kỳ Liên, Kỳ Hà; hạn chế, kìm hãm không cho chúng phát triển nhanh ra vùng giải phóng.
Nhiệm vụ lúc bây giờ của nhân dân và các lực lượng vũ trang tỉnh Quảng Nam đánh là diệt gọn một đơn vị quân viễn chinh Mỹ đầu tiên trên chiến trường lúc này có ý nghĩa cực kỳ to lớn không chỉ đối với Quảng Nam mà còn có ý nghĩa chiến lược trên phạm vị cả nước. Thế nhưng, đánh bằng cách nào? sử dụng chiến thuật gì? vị trí chiến đấu ở đâu là thuận lợi nhất? điểm nào là chỗ yếu của quân Mỹ ta có thể tận dụng khai thác được? đánh ban ngày hay đánh ban đêm? chọn đơn vị nào trong khối bộ đội tập trung của tỉnh thực hành trận đánh?…Đó là những vấn đề đòi hỏi Tỉnh ủy, Ban chỉ huy Tỉnh đội Quảng Nam cùng các cơ quan giúp việc phải dày công nghiên cứu sớm cho kết luận.
Như chúng ta đã biết, nơi mà Mỹ chọn để chiếm đóng là quả đồi có chiều dài 1.250 mét, chiều rộng 600 mét, có 2 mỏm chính; mỏm phía Đông cao 50 mét, mỏm phía Tây cao 49 mét, 2 mỏm cách nhau 500 mét giống như một yên ngựa. Núi Thành có sườn dốc thoai thoải, đất sỏi đá, cây cối mọc lúp xúp ngang ngực, xen kẽ có nhiều loại dây chằng chịt. Đây là vị trí có tầm quan sát xa, có khả năng khống chế được ở địa bàn 3 xã Kỳ Sanh, Kỳ Liên, Kỳ Khương và cùng với một số chốt điểm khác trong dãy núi Răng Cưa làm hệ thống chốt tiền tiêu bảo vệ sân bay Chu Lai, cảng Kỳ Hà, kiểm soát quốc lộ 1A từ đoạn An Tân đến Dốc Sỏi.

Đại đội Mỹ chốt giữ Núi Thành có khoảng 140 tên, chia thành 3 cụm. Cụm chốt điểm cao 50 có ban chỉ huy Đại đội và 2 trung đội, có trận địa ĐKZ 75, trận địa cối 81. Cụm chốt điểm cao 49 có 1 trung đội, 1 trận địa ĐKZ 75. Cụm chốt ở mỏm phụ phía Bắc đồi 50 có 1 tiểu đội. Trang bị chủ yếu của quân Mỹ là súng đại liên M60, phóng lựu M79, súng Ga - răng M2 và lựu đạn M26.

Trận địa chốt của quân Mỹ ở Núi Thành được bố trí theo kiểu hình tròn bậc thang từ thấp lên cao; vòng trong có thể chi viện cho vòng ngoài. Chiến hào chúng đào sâu đến thắt lưng, xen kẽ có các công sự; ban ngày chúng căn bạt che nắng, ban đêm dỡ ra. Giữa các công sự dọc chiến hào là những hố chiến đấu cá nhân. Cách chiến hào ngoài cùng khoảng 5 mét, chúng rải một lớp rào bùng nhùng xen kẽ trong những bụi gai tạo nên vật cản, ta rất khó tiếp cận.

Tuy nhiên, trong quá trình theo dõi trinh sát của ta nắm chắc các quy luật của quân Mỹ, ta rút ra kết luận: Quân Mỹ tuy đông, hỏa lực mạnh, chốt giữ trên các điểm cao, có rào kẽm gai, công sự bố trí thành nhiều tầng để hỗ trợ lẫn nhau; pháo binh, không quân sẵn sàng chi viện. Nhưng điểm yếu cơ bản là: Lính thủy đánh bộ Mỹ mới đến chiến trường Việt Nam còn nhiều bỡ ngỡ, chúng được huấn luyện tốt về chiến thuật đổ bộ đánh chiếm đầu cầu trong chiến tranh hiện đại; nay bị đẩy lên chốt giữ trên điểm cao phải đối phó với phong trào chiến tranh nhân dân rộng khắp của ta nên chúng sẽ bị động; công sự, vật cản dã chiến, đơn giản lại ở sâu trong vùng giải phóng của ta nên dễ bị cô lập, chia cắt, nếu ban đêm ta dùng lực lượng tinh nhuệ, trình độ kỹ, chiến thuật giỏi, bất ngờ tấn công, đánh gần, đánh nhanh thì hạn chế được sức mạnh của hỏa lực, nhất là pháo binh, không quân và chúng cũng không dám ứng cứu xe tăng, bộ binh trong đêm.

Căn cứ vào khả năng trình độ tác chiến tập trung của các đơn vị, Ban chỉ huy Tỉnh đội Quảng Nam quyết định sử dụng Đại đội 2, Tiểu đoàn 70 làm lực lượng chủ công trong trận đánh Núi Thành. Đại đội 2 được thành lập năm 1960, mang phiên hiệu H30 đã lập nhiều thành tích xuất sắc trong các trận đánh đồn Ga Lâu, Phò Nham; quân số Đại đội 2 có 72 đồng chí, chất lượng chính trị tốt, tư tưởng kiên định vững vàng, trình độ kỹ thuật, chiến thuật giỏi, đồng đều, Đại đội có kinh nghiệm đánh tập kích tiêu diệt cứ điểm địch theo cách đánh đặc công hóa. Cùng với Đại đội 2, tỉnh tăng cường cho trận đánh Núi Thành một phân đội gồm 12 đồng chí của Đại đội đặc công V16. Đây là những cán bộ, chiến sĩ có bản lĩnh chính trị tốt, dũng cảm, đã trải qua chiến đấu có nhiều kinh nghiệm trong cách đánh đặc công.

 Ta cơ bản nắm chắc tình hình quân Mỹ ở Núi Thành, Đại đội trưởng Vũ Thành Năm cử 1 tổ ở lại theo dõi diễn biến của địch ở Núi Thành, còn anh về Tiểu đoàn báo cáo quyết tâm và phương án chiến đấu. Ban chỉ huy Tỉnh đội Quảng Nam phê chuẩn phương án đánh Núi Thành của Đại đội 2 và phân đội đặc công V16: Sử dụng chiến thuật đặc công hóa, bộ đội bí mật tìm nhập khắc phục vật cản áp sát mục tiêu, hình thành thế bao vây, bất ngờ đồng loạt nổ súng; đánh gần bằng lựu đạn, thủ pháo, tiểu liên; kiên quyết thọc sâu vào trung tâm, phát triển chia cắt từng cụm quân địch, từng đoạn chiến hào để tiêu diệt không cho chúng co cụm.

Đại đội trưởng Vũ Thành Năm tiến hành giao nhiệm vụ, tổ chức hợp đồng mọi công tác chuẩn bị cho trận đánh phải hoàn thành trước 12 giờ trưa, ngày 25/5/1965. 12 giờ 30 phút, Đại đội 2 nhận mệnh lệnh hành quân về hướng Chu Lai. 16 giờ, Đại đội gặp bộ phận trinh sát bám để theo dõi địch ở cứ điểm Núi Thành, được biết tình hình cơ bản không có gì thay đổi. 21 giờ 20 phút, Đại đội trưởng nhắc lại ký ám tín hiệu và hạ lệnh hành quân, trinh sát nhanh chóng dắt các mũi tiến công biến vào bóng đêm dày đặc. 22 giờ, các hướng và cối 60 đến vị trí tạm dừng bổ sung nhiệm vụ. Các mũi đánh đồi 50 thận trọng men theo sườn đồi đi về hướng Bắc và Tây, tiến hành khắc phục vật cản tiếp cận mục tiêu. Ở mũi chủ yếu, Trung đội trưởng Phạm Thành Sơn, tổ trưởng thọc sâu Trần Ngọc Ảnh và chiến sĩ Lê Hiểu bò lên trước. Bọn Mỹ phát quang, cày ủi làm đường nên địa hình có thay đổi so với trinh sát của những đêm trước. Nhưng nhờ bản lĩnh và kinh nghiệm định hướng ban đêm nên các đồng chí nhanh chóng tìm đúng lộ trình đã được chuẩn bị. Vượt qua tuyến chiến hào ngoài cùng khoảng 3 mét, Trần Ngọc Ảnh phát hiện 3 tên Mỹ, được Ảnh thông báo, Vũ Thành Năm cho bộ đội vượt qua lớp kẽm gai đến dãy thông hào ngoài cùng triển khai đội hình chiến đấu. Sơn, Ảnh, Hiểu được lệnh bám sát mục tiêu. Đại đội trưởng và chiến sĩ liên lạc quay xuống, vòng lên hướng Tây kiểm tra mũi thứ yếu của Phan Văn Màn và Nguyễn Đức Thông. Được biết tình hình cơ bản thuận lợi, Vũ Thành Năm nhắc nhở cho bộ đội tiếp cận địch theo phương án đã định, không có gì thay đổi. Đại đội trưởng Vũ Thành Năm động viên anh em cố gắng đánh nhanh và quay về hướng chủ yếu.

Bên mỏm đồi 49 các chiến sĩ đặc công V16 không có cách nào vào sâu hơn được vì bọn Mỹ ở hướng này canh gác rất nghiêm ngặt. Đại đội trưởng Giàu và mũi trưởng Huỳnh Kim Sơn muốn mở một hướng tiến công khác, nhưng thời gian không cho phép. Do vậy, anh quyết định nằm sát bờ rào, khi có lệnh nổ súng dùng thủ pháo đánh vào tuyến công sự vòng ngoài, nhanh chóng vượt qua lớp rào, xung phong đánh chiếm chiến hào, lợi dụng địa hình phát triển tỏa ra 2 cánh, tạo thời cơ thọc thẳng vào trung tâm tiêu diệt trận dịa ĐKZ, không để chúng chi viện hỏa lực cho mỏm 50.

Theo hiệp đồng chung, đúng 0 giờ, ngày 26/5/1965, Đại đội công binh của tỉnh đánh cầu An Tân bằng khối thuốc nổ 100 kg làm hiệu lệnh chung. Nhưng đến 0 giờ 30, phút cầu An Tân vẫn chưa nổ, Vũ Thành Năm quyết định thực hiện phương án 2. Thời khắc của sự yên lặng nghiệt ngã đã qua. Giờ lịch sử đã điểm. Đại đội trưởng truyền lệnh cho Trần Ngọc Ảnh đánh quả thủ pháo 1 kg thuốc TNT làm hiệu lệnh chung. Lập tức mặt đất Núi Thành rung lên dữ dội, hàng loạt ánh chớp và những cột lửa dựng lên, tỏa ra theo các hướng chiến hào, công sự của bọn Mỹ trên 3 mỏm của Núi Thành.

Ở đồi 50, chưa đầy 15 phút, 2 tuyến chiến hào công sự của Mỹ ở hướng Bắc, hướng Đông và Tây Nam đã bị bóc sạch. Chúng tập trung hỏa lực đại liên, M79 bắn vào những nơi có ánh chớp của lựa đạn, thủ pháo và súng tiểu liên của ta, một số chiến sĩ đã bị thương vong, 0 giờ 45 phút hướng chủ yếu xốc lại đội hình tổ chức đánh lên tuyến thứ 3. Địch bắn pháo sáng và phát hiện đường tiến quân của ta chúng dùng hỏa lực ngăn cản, bộ đội không phát triển được. Ở hướng thứ yếu, sau khi chiếm xong 2 dãy chiến hào, mũi trưởng Nguyễn Đức Thông chỉ huy bộ đội diệt một số ổ đề kháng, đánh chiếm tuyến công sự thứ 3 để phối hợp với hướng chủ yếu. Ở đồi 49, sau tiếng thủ pháo lệnh ở đồi 50, bộ đội chồm dậy nhất loạt đánh hàng chục quả thủ pháo, lựu đạn vào chiến hào, công sự Mỹ. Tiếng nổ chưa dứt các chiến sĩ ta lao qua lớp rào bùng nhùng, dùng tiểu liên bắn gục những tên Mỹ chưa kịp chạy ngược lên đỉnh đồi. Ngay từ những phút đầu đã chiếm được 4 công sự, sau đó phát triển lên đánh tiếp 5 công sự tầng 2 và đánh tỏa sang hai bên. Địch bắt đầu chống trả, các loại hỏa lực của chúng bắn mãnh liệt ra hướng cửa mở, bộ đội dán chặt xuống mặt đất để tránh đạn. Trung đội trưởng Huỳnh Kim Sơn dẫn 1 tổ vòng qua phía Bắc, định hướng tiến công mới, nhưng bất ngờ gặp đại liên của Mỹ ngăn chặn. Tổ của Sơn tổ chức chiến đấu, diệt được ổ đề kháng nhưng hai chiến sĩ đã bị thương vong, chỉ còn lại một mình Sơn. Sơn quay ngược khẩu đại liên M60 vừa thu được, bắn thẳng vào trận địa địch, thu hút hỏa lực của chúng.  

Trên 2 mỏm đồi 50, 49, các tổ chiến đấu của ta đang tìm mọi cách tiến công tiêu diệt lực lương địch co cụm nhắm xoay chuyển tình thế bất lợi. Song dưới ánh pháo sáng, nơi nào địch phát hiện được bộ đội chồm dậy tiến công là dùng hỏa lực tập trung bắn xuống dữ dội. Duy chỉ có mỏm phụ phía Bắc đồi 50 các chiến sĩ ta đã diệt gọn quân Mỹ, tiếng súng đã im lặng.

Trước sức tiến công dũng mãnh của bộ đội ta, một số tên Mỹ vứt súng tháo chạy. Đại đội trưởng Năm từ dưới băng lên, bất ngờ gặp tên Mỹ từ trên chạy xuống, chưa kịp bắn, hắn đã xô anh ngã ngửa, một cuộc vật lộn, giằng co kéo dài, tên Mỹ đè lên người và bóp cổ Vũ Thành Năm. Trần Ngọc Ảnh nghe được tiếng gọi của Đại đội trưởng chạy lại dùng quả lựu đạn chày bổ vào đầu tên Mỹ, cứu đại đội trưởng.

Chung quanh 3 tầng chiến hào ở mỏm đồi 50 bị quân ta quét sạch. Bọn sống sót tìm đường chạy về núi Ao Vuông, gặp trận địa đón lõng của Nguyễn Văn Sáu diệt thêm 4 tên. Trên đỉnh đồi, một bộ phận địch sống sót co cụm dùng đại liên điên cuồng bắn xuống sườn đồi nhằm cố thủ. Được sự hỗ trợ, thu hút địch của hướng thứ yếu, Trần Ngọc Ảnh lợi dụng địa hình đánh thẳng lên ổ đại liên địch. Đúng thời cơ, Đại đội trưởng Năm và các chiến sĩ trên 2 hướng xung phong tiêu diệt Mỹ và cắm lá cờ “Quyết chiến, quyết thắng giặc Mỹ xâm lược” trên đỉnh Núi Thành.

Sau 30 phút chiến đấu ngoan cường, 67 cán bộ, chiến sĩ của Đại đội 2 và phân đội đặc công V16 lập nên chiến công vang dội, tiêu diệt gọn Đại đội 2 thuộc Tiểu đoàn 2, Lữ đoàn 9, Sư đoàn 3 Lính thủy đánh bộ Mỹ, thu 14 súng, phá hủy 02 ĐKZ, 01 cối 81, 03 máy thông tin vô tuyến và nhiều trang thiết bị chiến tranh khác. Đây là đòn choáng váng không những đối với Bộ tư lệnh Lữ  đoàn 3 Lính thủy đánh bộ Mỹ ở Chu Lai mà còn là nỗi sợ hãi của sĩ quan, binh sĩ Mỹ tham chiến trên chiến trường miền Nam.

Trận đánh Núi Thành chưa phải là một trận đánh lớn, nhưng ý nghĩa chính trị, quân sự của trận đánh này là vô cùng to lớn. Những người lính giải phóng Đại đội 2, Tiểu đoàn 70 và phân đội đặc công V16 bộ đội địa phương tỉnh Quảng Nam trả lời câu hỏi cho nhân dân cả nước và bạn bè quốc tế: “Liệu ta có đánh được Mỹ không? Vâng! Ta đã đánh Mỹ và thắng Mỹ ngay trận đầu ở Núi Thành”.

Trận Núi Thành: Biểu tượng chiến thắng của đấu tranh dân tộc Việt Nam

Đảng ta chủ trương đánh mạnh quân ngụy trong Thu - Đông 1965, nhằm làm cho quân ngụy quỵ hẳn, không thể làm chỗ dựa cho lính Mỹ.
tnb-26659-01-1690365462.jpg
Chiến thắng Núi Thành - biểu tượng sáng ngời của tinh thần quyết đánh, quyết thắng. Ảnh: Báo Quảng Nam.

Đồng thời, nhân lúc quân Mỹ mới đổ bộ vào, đứng chân chưa vững, chúng ta chủ động đánh đòn phủ đầu răn đe và tìm ra những “gót chân Asin” của chúng để đánh thắng hoàn toàn. Tại Đại hội anh hùng, chiến sĩ thi đua các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam lần thứ nhất, Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương đã nêu quyết tâm: Cứ đánh Mỹ thì sẽ tìm ra cách thắng Mỹ. Chiến thắng Núi Thành được bắt đầu từ chính ý tưởng quân sự mang tính chiến lược này.

Phát huy thắng lợi trong đợt tiến công Hè - Thu, ngày 16 tháng 5 năm 1965, ta tập kích sân bay Biên Hòa, 11 máy bay B-57 và 4 máy bay phản lực bị phá hủy, 25 máy bay khác bị hư hại, 21 tên Mỹ chết, 64 bị thương. Đây là trận đánh thể hiện quyết tâm của quân và dân ta, đồng thời cũng là đòn cảnh cáo đối với quân Mỹ hiếu chiến.

Không chờ quân Mỹ kịp phản ứng trước đòn tiến công của ta, Bộ Tư lệnh Quân khu V chỉ thị cho Tỉnh đội Quảng Nam, nơi quân Mỹ đã triển khai lực lượng rằng cần đánh tiêu diệt một đơn vị Mỹ để hạ uy thế quân Mỹ ngay từ đầu, đồng thời tìm hiểu cách đánh của chúng, rút kinh nghiệm đánh Mỹ cho các lực lượng vũ trang, cổ vũ khí thế đánh Mỹ trong toàn khu. Về mục tiêu do tỉnh chọn. Về lực lượng cụ thể do tỉnh lựa. Về cách đánh tuỳ theo trình độ trang bị và khả năng của tỉnh.

Trong lúc tỉnh Quảng Nam đang điều động lực lượng đánh thăm dò để chuẩn bị chiến trường nhằm thực hiện Chỉ thị của Quân khu, ngày 17 tháng 5, một đại đội Mỹ càn lên phía tây căn cứ Chu Lai để mở rộng vành đai bảo vệ căn cứ. Chúng đụng đại đội du kích xã Kỳ Sanh. Đại đội Mỹ bị tiêu diệt bốn tên.

Chúng tạt lên chiếm Núi Thành, thực ra là một quả đồi thấp có hai mỏm 49 và 50 thuộc xã Kỳ Liên, huyện Tam Kỳ. Nhưng đây lại chính là cơ hội mà ta muốn tạo ra. Tỉnh hạ quyết tâm tiêu diệt đại đội Mỹ trên Núi Thành; lực lượng ta sử dụng là Đại đội 2 Tiểu đoàn 70 được tăng cường thêm một tổ đặc công.

Đúng 0 giờ 30 phút ngày 26 tháng 5 năm 1965, khi Mỹ mới chỉ kịp triển khai hàng rào và công sự dã chiến trên Núi Thành thì trận đánh của ta đã bắt đầu ở mỏm 49. Sau khi tạo xong “cửa mở”, chiến sĩ ta nhanh chóng dùng thủ pháo đánh diệt các mục tiêu. Bị đánh bất ngờ, quân địch ở mỏm 49 chống cự yếu ớt. Phía mỏm 50, địch ngăn chặn quyết liệt, địa hình dốc nhưng chiến sĩ ta vẫn dũng mãnh dùng thủ pháo, lựu đạn diệt địch, xông vào đánh giáp lá cà.

               h12a-1690365608.jpg           
             Tượng đài chiến thắng Núi Thành. Ảnh: Báo Công an Nhân dân.

Trận đánh Mỹ đầu tiên thắng lợi của Đại đội 2, Tiểu đoàn 70 được Bộ chỉ huy quân giải phóng miền Nam tặng thưởng Huân chương Quân công và lá cờ mang dòng chữ “Núi Thành oanh liệt, quyết lập chiến công”; và Trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tuyên dương danh hiệu “Quảng Nam trung dũng kiên cường, đi đầu diệt Mỹ”.

4+ Chiến thắng Vạn Tường (18-8-1965, Quảng Ngãi): đánh bại cuộc hành quân xâm lược lớn của một vạn quân xâm lược Mỹ, tiêu diệt gần 1.000 tên.

Mùa hè năm 1965, với các chiến thắng ở Bình Giã, Ba Gia, Đồng Xoài của Quân giải phóng, chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” thất bại, chính quyền và quân đội Việt Nam Cộng hòa do Mỹ nuôi dưỡng, trang bị, huấn luyện và chỉ huy đứng trước nguy cơ sụp đổ. Không chấp nhận thất bại, với bản chất kiêu căng, hiếu chiến, Mỹ liền thay đổi chiến lược, tiến hành “Chiến tranh cục bộ”, trực tiếp đưa quân viễn chinh và quân các nước đồng minh vào tham chiến trên chiến trường miền Nam. Với ưu thế quân sự vượt trội, quân đông, được trang bị vũ khí hiện đại, hỏa lực mạnh, sức cơ động nhanh, vừa vào miền Nam, Mỹ đã cho quân viễn chinh mở ngay cuộc hành quân “tìm diệt”, tiến công vào đơn vị Quân giải phóng của ta. 

Nhận được tin báo của lực lượng trinh sát của Sư đoàn 3 lính thuỷ đánh bộ Mỹ, đóng quân ở vùng căn cứ Chu Lai, phát hiện có đơn vị chủ lực của ta (Trung đoàn 1 mang tên Ba Gia, đơn vị chủ lực của Liên khu 5) đóng quân tại Vạn Tường (xã Bình Thiện, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi), Oétmolen (Westmoreland) liền ra lệnh cho lính thuỷ đánh bộ mở cuộc hành quân mang tên Ánh sáng sao (Starlite) đánh vào Vạn Tường, nhằm tiêu diệt Trung đoàn 1 Quân giải phóng, gây uy thế cho quân Mỹ.  

Thấy rằng trong trận này quân Mỹ hoàn toàn chủ động, lựa chọn chiến trường tác chiến hợp với sở trường để xuất quân. Tại đây, Mỹ có điều kiện thuận lợi sử dụng xe tăng, pháo binh, hải quân, không quân của chiến tranh hiện đại. Theo đó, chúng đưa vào trận đánh Sư đoàn lính thủy đánh bộ số 3 cùng lực lượng bổ sung lên đến khoảng 9.000 quân, gồm ban chỉ huy Quân đoàn 7 thuộc Sư đoàn lính thủy đánh bộ, 4 tiểu đoàn lính thủy đánh bộ, 2 tiểu đoàn bộ binh Việt Nam Cộng hòa, 1 tiểu đoàn xe tăng và xe lội nước, một số lượng pháo binh và công binh… ngoài ra chúng còn huy động 6 tàu đổ bộ, 105 xe tăng và xe bọc thép, 100 máy bay lên thẳng và 70 máy bay chiến đấu vào cuộc càn quét. 

                Chiến thắng Vạn Tường mùa hè năm 1965 

                                          Chiến thắng Vạn Tường mùa hè năm 1965

                         

Đêm 17-8-1965, hơn chục tàu chiến thuộc Hạm đội 7 - Mỹ đậu thành vòng cung ngoài khơi liên tục bắn đại bác vào thôn Vạn Tường và các điểm cao. Sáng ngày 18-8-1965, một lực lượng lớn quân Mỹ gồm 4 tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ, 1 tiểu đoàn xe tăng và xe bọc thép, 2 tiểu đoàn pháo 105 ly, 6 tàu đổ bộ và pháo hạm cùng hàng trăm máy bay chiến đấu, mở cuộc hành quân phối hợp hải, lục, không quân tiến vào Vạn Tường. Sau khi dùng pháo, máy bay bắn phá dọn đường, quân Mỹ liền chia thành 4 mũi tiến về Vạn Tường: 1 mũi theo đường bộ từ Chu Lai vào, 2 mũi đổ bộ đường biển và 1 mũi đổ bộ đường không.

Với hy vọng sẽ tiêu diệt quân ta trong thời gian ngắn nhất, quân Mỹ từng bước khép chặt vòng vây, dồn quân ta vào Vạn Tường rồi dùng hỏa lực tiêu diệt. Trước tình hình đó, toàn đơn vị thuộc Trung đoàn 1 đã bình tĩnh phối hợp chặt chẽ với dân quân du kích đánh trả quân địch. Kế hoạch tác chiến của Trung đoàn là cản chậm bước tiến của các cánh quân Mỹ hướng Bắc và Đông Nam, tập trung lực lượng ở hướng Tây Nam dựa vào các hầm sâu và các vị trí chiến đấu ngụy trang kín đáo để diệt cánh quân đổ bộ bằng đường không.

Từ chỗ bị bất ngờ, ta đã giành được thế chủ động tiến công. Các mũi tiến công của quân địch đều vấp phải hệ thống bãi mìn, hố chông, vật cản khiến đội hình địch bị dồn ứ và bị bộ đội ta vận động tới đánh hoặc dùng hỏa lực tiêu diệt.

Trận đánh kéo dài đến chiều tốì ngày 18, địch bị đánh thiệt hại 4 đại đội. Lính thuỷ đánh bộ Mỹ chẳng những không hợp điểm được tại thôn Vạn Tường theo ý định ban đầu, mà còn có nguy cơ bị sa lầy, bị diệt lớn. Hải quân Mỹ pháo kích dữ dội hòng làm giảm áp lực của ta và dùng máy bay lên thẳng chở lực lượng dự bị từ hạm đội đang đậu ngoài khơi đổ xuống Vạn Tường. Ta tiếp tục tiến công cho đến khi màn đêm buông xuống thì trận đánh kết thúc. Quân Mỹ bị loại khỏi vòng chiến đấu khoảng 900 tên, 22 xe tăng, xe bọc thép, 13 máy bay bị bắn rơi. Đêm 18 rạng 19 lực lượng ta bí mật rút khỏi Vạn Tường an toàn.

Chiến thắng Vạn Tường có ý nghĩa lịch sử vô cùng to lớn, là mốc son chói lọi phản ánh khí thế cách mạng tiến công, sự mưu trí, kiên cường, dũng cảm, đoàn kết chiến đấu của quân và dân Quảng Ngãi với bộ đội chủ lực Quân khu 5. Nếu như chiến thắng Ấp Bắc mở đầu cho “cao trào diệt ngụy”, thì chiến thắng Vạn Tường lịch sử mở đầu cho “cao trào diệt Mỹ”. 

5+ Chiến dịch Plâyme (19/10 - 26/11/1965), đã tiến công vây điểm, diệt viện, nhằm mở rộng vùng giải phóng, đẩy mạnh chiến tranh giải phóng. Ngày 19-11-1965, sau hơn 1 tháng chiến đấu chủ động, liên tục tiến công bằng chiến thuật “vây đồn đánh viện”, bộ đội chủ lực ta với sự hỗ trợ của lực lượng địa phương, dân quân du kích đã tiêu diệt gần hết và đánh thiệt hại nặng 2 tiểu đoàn kỵ binh không vận số 1 của Mỹ Đây là chiến dịch đầu tiên thắng Mỹ trên chiến trường miền Nam. 

Cuối tháng 7-1965, Trung ương Đảng và Quân ủy Trung ương cử Thiếu tướng Chu Huy Mân-Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Bí thư Khu ủy V, Chính ủy Quân khu 5 làm Tư lệnh kiêm Chính ủy Mặt trận Tây Nguyên.

Giữa tháng 10-1965, Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên tập hợp lực lượng mở Chiến dịch Plâyme. Ý định chiến dịch của ta là: “Vây điểm đánh viện. Trước diệt ngụy, sau diệt Mỹ. Kéo quân Mỹ ra xa căn cứ, đưa chúng đi vào các vùng rừng núi để tiêu diệt.                          

                         Tiến công Plây Me - Chiến dịch đầu tiên đánh quân Mỹ trên chiến trường miền  Nam              

     Tiến công Plây Me - Chiến dịch đầu tiên đánh quân Mỹ trên chiến trường miền Nam 

Plâyme là một trung tâm huấn luyện biệt kích nằm trên địa bàn Khu 5 (huyện Chư Prông ngày nay), cách Pleiku khoảng 30 km về phía Tây Nam, là mắt xích quan trọng trong dải phòng ngự phía Tây-Tây Nam thị xã Pleiku và Tây Nam căn cứ Quân đoàn 2 của địch. Theo kế hoạch của ta, phạm vi địa bàn của chiến dịch không chỉ là trung tâm huấn luyện biệt kích Plâyme mà diễn ra trên địa bàn rộng lớn trong tứ giác: Plâyme-Bàu Cạn-Đức Cơ-Ia Đrăng trong không gian rộng khoảng 1.200 km2. Khu vực quyết chiến với quân Mỹ được Bộ Tư lệnh Mặt trận Tây Nguyên xác định là thung lũng Ia Đrăng dưới chân đỉnh Chư Prông.

Đêm 19-10-1965, Chiến dịch Plâyme mở màn. Các đơn vị bộ đội địa phương phối hợp với bộ đội chủ lực làm nhiệm vụ nghi binh lừa địch nổ súng uy hiếp cứ điểm Đức Cơ, tiến công đồn Tân Lạc. Tưởng ta tấn công Đức Cơ, Tân Lạc, địch huy động máy bay thả pháo sáng bắn phá xung quanh 2 căn cứ này. Lúc này, Trung đoàn 33 vẫn bí mật, khẩn trương củng cố công sự vây ép cứ điểm Plei Me.

22 giờ 55 phút ngày 19-10, các chiến sĩ Đại đội 3 (Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 33) nổ súng tấn công Chư Ho, tiền đồn bảo vệ trại biệt kích Plei Me. 400 tên biệt kích ngụy cùng 12 cố vấn Mỹ bị giam hãm chặt trong chiến hào bao vây của ta. Quân Mỹ ráo riết phản kích. Sau 5 ngày dội bom đánh phá, không phá vỡ được vòng vây của bộ đội ta, bọn chỉ huy địch ở biệt khu 24 phải cho quân giải tỏa.

Về phía ta, từ ngày 15-10, Trung đoàn 320 đã hành quân chiếm lĩnh trận địa, trú quân chờ địch, các đơn vị bí mật đào công sự, ngụy trang, chuẩn bị đường vận động xuất kích và giao nhiệm vụ cụ thể đến các tiểu đội, trung đội. Đến 16 giờ 30 phút ngày 23-10, sau những trận bom pháo dọn đường, lực lượng giải vây của địch đã lọt vào trận địa phục kích của Trung đoàn 320. Ngay từ những phút đầu, Trung đoàn 320 đã loại khỏi vòng chiến đấu một nửa số xe tăng, xe bọc thép của địch. Sau 10 giờ chiến đấu, đến 2 giờ sáng ngày 24-10, Trung đoàn 320 đã hoàn toàn làm chủ trận địa, ta tiêu diệt Chiến đoàn 3 thiết giáp và 1 tiểu đoàn, 1 đại đội bộ binh địch.

Ngày 24-10, Mỹ cho 2 tiểu đoàn kỵ binh không vận số 1 từ An Khê lên Pleiku và thúc quân ngụy tiếp tục chi viện, giải vây cho Plei Me. 10 giờ ngày 26-10, dưới sự yểm trợ của không quân và pháo binh Mỹ, Tiểu đoàn 1 (Trung đoàn 42 ngụy) được cơ giới yểm trợ đến giải vây Plei Me. Xét thấy đã đủ gây cho địch phản ứng dây chuyền, ngày 26-10, ta quyết định mở vây căn cứ Plei Me, chuyển toàn bộ Trung đoàn 33 và 320 về Đông Nam sông Ia Đrăng sẵn sàng chờ đánh quân Mỹ đổ bộ.

Những ngày cuối tháng 10, đầu tháng 11-1965, chiến trường Plei Me hết sức sôi động, khẩn trương. Hoạt động cơ bản của ta là di chuyển quân để bố trí theo kế hoạch mới. Ngày 14-11, các cánh quân địch vừa đổ bộ xuống Chư Prông đã bị Tiểu đoàn 9 (Trung đoàn 66) chặn đánh tiêu diệt 1 đại đội. Hôm sau, Tiểu đoàn 7 (Trung đoàn 66) chặn đánh tiêu diệt đại đội thứ hai. Bị đánh đau, Mỹ phải dùng 100 lượt B52 ném bom rải thảm dọc thung lũng Ia Đrăng. Vượt qua bom pháo, bộ đội ta đã truy kích sát gót địch. Không dám cụm lại chờ máy bay lên thẳng đến cứu, địch lợi dụng đêm tối chạy bộ hòng thoát khỏi Ia Đrăng. Ngày 17-11, Tiểu đoàn 8 (Trung đoàn 66) gặp địch và nổ súng công kích. Nghe tiếng súng, Tiểu đoàn 33 di chuyển nhanh đến phối hợp. Ta và địch giành nhau từng gốc cây, khóm rừng. Sau 4 ngày đêm chạm trán quyết liệt, Tiểu đoàn kỵ binh không vận số 1 của Mỹ chỉ còn một số tên sống sót chạy về đến căn cứ. Trận đánh ngày 17-11 đánh dấu sự thất bại hoàn toàn trong ý đồ chiến dịch của những người chỉ huy quân đội Mỹ

                https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEhKh9nETwvYN0FAoBLh8r7dJre2QvrH1mlR0zcEO3P9WedoBLMgRylxvca6RYem-kmo3cLdV7opyTW_Nctc987NJqfzQb4EsTGeEUdYCnd_pexSZiLLjIXEtslUSXyN1E883RENDB1y6-Zu/s1600/105.png                         

                  Các binh sĩ Mỹ thuộc lực lượng đặc biệt (Mũ nồi xanh) ở trại Plâyme

Diệt xong Tiểu đoàn 1 của Mỹ, bộ đội ta chuyển sang vây đánh Tiểu đoàn 2 không vận tại phía Nam Ia Đrăng. Mỹ buộc phải ra lệnh cho quân ngụy đến ứng cứu, giải vây. Ngày 18-11, hai chiến đoàn dù số 1 và 2 của ngụy đổ quân xuống Ia Pơman, Ia Lâu và rơi vào thế trận của Trung đoàn 320. Không dám kéo dài chiến trận hơn nữa, ngày 19-11, toàn bộ quân Mỹ rút khỏi thung lũng Ia Đrăng. Tuy vậy, chiến dịch vẫn còn tiếp diễn đến ngày 26-11 với sự tham chiến của quân ngụy.

Trong hơn 1 tháng chiến đấu, chủ động, liên tục tiến công bằng chiến thuật “vây đồn đánh viện”, bộ đội chủ lực ta với sự hỗ trợ của lực lượng địa phương, dân quân du kích đã tiêu diệt gần hết và đánh thiệt hại nặng 2 tiểu đoàn kỵ binh không vận Mỹ, tiêu diệt một chiến đoàn bộ binh cơ giới hỗn hợp quân đội Sài Gòn, bắn rơi và phá hỏng 59 máy bay lên thẳng, phá hủy 89 xe quân sự... Phía Mỹ thừa nhận, tại thung lũng Ia Đrăng, có 824 lính kỵ binh không vận Mỹ chết và bị thương, trong đó có hơn 300 binh sĩ tử trận.

Chiến thắng Plei Me đã chứng minh rằng quân ta có thể tiêu diệt tiểu đoàn lính Mỹ; phá chiến thuật cơ động bằng máy bay lên thẳng, đánh bại những đơn vị tinh nhuệ, trang bị hiện đại nhất của Mỹ trong “Chiến tranh cục bộ” ở miền Nam. 

6+ Trận Ia Đrăng: Là một trong những trận lớn đầu tiên giữa liên quân Quân lực Việt Nam Cộng hòa-Quân đội Hoa Kỳ và Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam. Trận đánh là một phần trong Chiến dịch Plei Me (từ ngày 19 tháng 10 đến ngày 26 tháng 11 năm 1965) do Bộ Tư lệnh Quân đoàn II thực hiện để đáp trả lại Chiến dịch Plâyme của Bộ Tư lệnh Mặt Trận B3 (từ ngày 19 đến 26 tháng 10 năm 1965). Trận đánh gồm 2 trận đụng độ: trận đụng độ thứ nhất xảy ra trong ba ngày từ 14 tháng 11 tới 16 tháng 11 năm 1965 tại bãi đáp X-Ray ngay chân rặng núi Chu Prông 25 cây số Tây Plei Me; trận đụng độ thứ nhì xảy ra vào ngày 17 tháng 11 tại bãi đáp Albany, nằm gần mạn phía Nam của sông Ia Drang. Tên trận đánh lấy theo tên của Sông Đrăng chảy qua thung lũng phía tây bắc của Plei Me, nơi đó trận đánh diễn ra. "Ia" có nghĩa là "sông" trong tiếng người Thượng.

Tây Nguyên thuộc vùng II chiến thuật của Quân lực Việt Nam Cộng hòa và là mặt trận Tây Nguyên (hay mặt trận B3) với Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam. Từ cuối năm 1964, Trung đoàn 2 bộ binh và Tiểu đoàn 409 đặc công của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã tiến hành một số trận đánh với 5 tiểu đoàn của Quân lực Việt Nam Cộng hòa (QLVNCH) và giành thắng lợi. 

Đầu năm 1965, Sư đoàn 304 nhận lệnh chuẩn bị xâm nhập Miền Nam để hỗ trợ QGP. Tướng Nguyễn Nam Khánh:"Đầu năm 1965, Bộ Tổng tham mưu cho gọi tôi và đồng chí Sư đoàn trưởng sư đoàn 304 lên giao nhiệm vụ vào miền Nam chiến đấu.".

                           ia-drang-battle     

                                       Trận Ia Đrăng trong Chiến tranh Việt Nam

 

Phát súng mở màn trận Ia Đrăng diễn ra vòa ngày 14.11 khi tiểu đoàn 1/7 Không Kỵ của Mỹ đổ bộ xuống bãi đáp X-Ray cách vị trí của Tiểu đoàn 9, Trung đoàn 66 Quân giải phóng Việt Nam chỉ khoảng 200 mét. Giao tranh ngay lập tức diễn ra khi trực thăng Mỹ chuẩn bị đáp đất. Nguồn ảnh: S60.

Ban đầu, phía Tiểu đoàn 9 Quân giải phóng bị bất ngờ và không có chỉ huy do Tiểu đoàn trưởng đang đi gặp Trung đoàn trưởng để nhận nhiệm vụ, Tham mưu trưởng tiểu đoàn cùng Chính trị viên phó, Chính trị viên trưởng đều không có mặt. Chỉ huy cao nhất lúc này là một trợ lý tác chiến tiểu đoàn. Nguồn ảnh: History.

Ban đầu, phía Tiểu đoàn 9 Quân giải phóng bị bất ngờ và không có chỉ huy do Tiểu đoàn trưởng đang đi gặp Trung đoàn trưởng để nhận nhiệm vụ, Tham mưu trưởng tiểu đoàn cùng Chính trị viên phó, Chính trị viên trưởng đều không có mặt. Chỉ huy cao nhất lúc này là một trợ lý tác chiến tiểu đoàn. Nguồn ảnh: History.

Có tổng cộng khoảng 400 lính Mỹ hành quân từ bãi đáp Albany về bãi đáp phụ, phía ta có Đại đội 8 thuộc Tiểu đoàn 1 đã hành quân đến bãi đáp phụ trước cả lực lượng Mỹ và một lần nữa hai bên lại bất ngờ chạm trán nhau. Ảnh: Quân giải phóng trong trận Ia Đrăng. Nguồn ảnh: Peter.

Trận đánh này mới thực sự là thảm họa đối với Mỹ khi lực lượng Mỹ trong trận này có tới 155 lính thiệt mạng, 121 lính bị thương trên tổng số 400 lính tham chiến. Đây là thương vong cao nhất trong một ngày mà Mỹ phải hứng chịu trong Chiến tranh Việt Nam. Ảnh: Quân giải phóng trong trận Ia Đrăng. Nguồn ảnh: Peter.

Tổng cộng, trong trận Ia Đrăng phía ta đã loại khỏi cuộc chiến tổng cộng 476 lính Mỹ, trong đó có 234 lính tử vong và 245 lính bị thương. Con số này là rất lớn khi mà lực lượng Mỹ tham gia trận Ia Đrăng đông gấp nhiều lần quân ta và chúng đã ném tới 5000 tấn bom, bắn hơn 6000 quả đạn pháo một ngày trong trận đánh này. Nguồn ảnh: Peter.

 

Tháng 6 năm 1965, Tổng thống Mỹ Johnson phê duyệt áp dụng chiến lược quân sự tìm và diệt ở miền Nam Việt Nam do Westmoreland vạch ra. Quân đội Hoa Kỳ (QĐHK) sẽ làm lực lượng chủ lực để "bẻ gãy xương sống Việt Cộng". Westmoreland thì xem Tây Nguyên là mối đe dọa trước mắt.

Tháng 8 năm 1965, Sư đoàn 304 nhận lệnh gấp rút chuẩn bị đi tới vùng Cao Nguyên Trung Phần vào tháng 10: "Đầu tháng 8 năm 1965, chỉ huy sư đoàn 304 nhận được lệnh của Bộ Quốc phòng "đưa cả sư đoàn 304 vào chiến trường B… mọi công tác chuẩn bị phải hoàn thành trong hai tháng" (Nguyễn Huy Toàn và Phạm Quang Định. Sư đoàn 304, tập II, Sư đoàn 304, trang 19.).
Tháng 9 năm 1965, Bộ chỉ huy quân Mỹ đã điều Sư đoàn Không Kỵ số 1 lên án ngữ ở An Khê (Gia Lai), ngăn chặn QĐNDVN hỗ trợ QGP, cắt Tây Nguyên cùng với đồng bằng ven biển. Quân VNCH thành lập biệt khu 24 gồm 2 tỉnh Kon Tum - Gia Lai và chuyển giao nhiệm vụ tác chiến chủ yếu ở Tây Nguyên cho quân Mỹ để thực hiện kế hoạch "tìm và diệt" trong chiến lược Chiến tranh cục bộ.

Qua chiến đấu từng bước tìm hiểu quân Mỹ, đồng thời xây dựng lòng tin đánh Mỹ và thắng Mỹ. Thiếu tướng Chu Huy Mân được chỉ định là Tư lệnh kiêm Chính ủy chiến dịch, Đại tá Nguyễn Chánh và Thượng tá Nguyễn Hữu An làm phó tư lệnh. Huỳnh Đắc Hương giữ chức phó chính ủy, Thượng tá Nam Hà là tham mưu trưởng, Thượng tá Đặng Vũ Hiệp làm Phó chủ nhiệm chính trị. Tài liệu phía QLVNCH ghi các cấp chỉ của Mặt Trận B3 khi xảy ra trận chiến Plei Me là: Tướng Chu Huy Mân kiêm luôn chức Tư lệnh Vùng IV Quân sự, và các cộng sự viên chính Đại tá Quan, Phụ Tá cho Tư lệnh, và Thượng tá Hà Vi Tùng, Tham mưu Trưởng. 

Để tiến hành chiến dịch, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam cử 3 trung đoàn bộ binh (320, 33, 66), 1 tiểu đoàn đặc công, 1 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn súng máy phòng không 12,7mm; cùng lực lượng vũ trang địa phương đánh phá giao thông và hậu cứ địch.

Về sử dụng lực lượng: vây đồn Plei Me do Trung đoàn 33 (thiếu Tiểu đoàn 2), được tăng cường 1 đại đội súng máy phòng không 12,7mm. Bộ phận đánh viện trên Đường 21 là Trung đoàn 320. Trung đoàn 66 và Tiểu đoàn 2 đảm nhiệm đánh địch phản kích. Nghi binh ở Đức Cơ do Tiểu đoàn pháo 200. Nghi binh ở Tân Lạc là đại đội địa phương. Hoạt động ở hướng phối hợp là Tiểu đoàn 15 Gia Rai.

Về kế hoạch tác chiến nguyên thủy, dự kiến chiến dịch chia làm 3 đợt:

  • Đợt 1, Trung đoàn 33 sẽ vây lấn Pleime và khiêu chiến quân trú phòng, tạo đủ áp lực để buộc Quân đoàn II phải phái lực lượng phản kích.
  • Đợt 2, Trung đoàn 320 sẽ phục kích và tiêu diệt đoàn quân tiếp cứu.
  • Đợt 3, cả hai Trung đoàn sẽ hiệp lực chiếm cứ và phá hủy Trại.

Kế hoạch dự tính khởi đầu vào tháng 12 năm 1965. Trung đoàn 320 đã hoạt động tại vùng Cao nguyên từ đầu năm; Trung đoàn 33 mới xâm nhập vào tháng 9; Trung đoàn 66 cuối tháng 10 mới sẵn sàng xuất trại lên ̣đường xâm nhập vào Nam, dự tính phải mất hai tháng mới tới chiến trường Cao Nguyên. 

Trung đoàn 33 được lệnh tới chiếm trại Plei Me. Plei Me có vị trí quan trọng sát với đường số 19B nối Đức Cơ với thị xã Pleiku và đường 14 nối Phú Nhơn với Buôn Mê Thuột. Phát hiện ra đối phương cơ động, QLVNCH quyết định cho quân chi viện tới Plei Me. Ngày 23 tháng 10 (12 giờ), Chiến đoàn 3 thiết giáp từ Phú Mỹ hành quân lên Plei Me, gồm 3 chi đoàn M-113 và xe tăng; Tiểu đoàn 21 Biệt động quân, Tiểu đoàn 1 Trung đoàn 42 và 2 khẩu pháo 105mm.  

Lúc 16 giờ 30 phút, đầu đội hình lọt vào giữa trận địa phục kích của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam. Các Tiểu đoàn 634 và 635 xung phong đánh vào giữa đội hình. Đến 18g, trận đánh kết thúc, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam ghi nhận diệt 59 xe tăng, xe bọc thép và 800 quân VNCH, thu 2 pháo 105mm và 6 xe đạn, 40 súng các loại, bắn rơi 2 máy bay.

Ngày 25 tháng 10, sau hai lần vượt qua ổ phục kích, đoàn quân chi viện cũng tiến được vào trại Plei Me. Sau khi quân chi viện vào trại, hai Trung đoàn 320 và 33 được lệnh tháo lui. Trung đoàn 33 rút từ Plei Me về khu vực thung lũng Ia Đrăng, cách 10 km về phía Tây để phòng thủ.

Còn QĐHK bắt đầu cuộc hành quân Long Reach (Trường Chinh) dùng máy bay oanh tạc khu vực và chuẩn bị tìm và diệt địch. Hành quân Long Reach được QĐHK khai triển qua ba cuộc hành quân: All the Way (Lữ đoàn 1 Air Cavalry, 27/10-9/11/1965), Silver Bayonet I (Lữ đoàn 3 Air Cavalry, 9/11-17/11/1965) và Silver Bayonet II (Lữ đoàn 2 Air Cavalry, 18/11-26/11/1965). 

Trước tình hình đó, Bộ tư lệnh Mặt trận B3 nhận định: "Ta đã diệt được một phận quan trọng quân cơ động của ngụy buộc quân Mỹ phải vào tham chiến. Nhiệm vụ bao vây của Plei Me đã hoàn thành. Chủ trương của ta mở bao vây, điều chỉnh lại đội hình. Sử dụng 2 Trung đoàn 320 và 33 sẵn sàng đánh bại các đợt phản kích tiếp theo của địch."
Ngày 29 tháng 10, Quân Giải phóng miền Nam Việt Namchủ động kết thúc đợt 1 chiến dịch, chuyển sang gia đoạn tiếp theo là tập trung lực lượng nhằm tiến công trại Plei Me lần thức hai.

Một tiểu đoàn không kỵ của Quân đội Hoa Kỳ đổ bộ xuống bờ nam sông Ia Đrăng. Một tiểu đoàn khác đổ bộ xuống cứ điểm 732. Một lữ đoàn không kỵ trấn giữ dọc đường 19B. Ngày 11 tháng 11, một tiểu đoàn quân Mỹ tiếp tục đổ xuống Plei Ngo, cách Plei Me 12 km về phía tây.

Ngày 14 tháng 11 năm 1965, tiểu đoàn 1/7 không kỵ Mỹ đổ bộ xuống bãi đáp X-Ray. 

Bộ chỉ huy trận Ia Đrăng đến đóng ở chân núi phía Nam Chư Prông. Lực lượng của họ bao gồm trung đoàn 66 và tiểu đoàn 1 Trung đoàn 33, dưới sự chỉ huy của Nguyễn Hữu An (chỉ huy trưởng) và Đặng Vũ Hiệp (chính ủy), phối hợp với tiểu đoàn H15 Quân Giải phóng miền Nam đánh nghi binh ở đường 13 (tuy nhiên tài liệu phương Tây lại cho rằng tiểu đoàn H15 cũng tham gia trận đánh). Đối mặt với họ là 3 tiểu đoàn của Quân đội Hoa Kỳ: 1/7 (do trung tá Harold Moore chỉ huy), 2/7 thuộc Lữ đoàn 3 Air Cavalry (Không Kỵ) và 2/5 thuộc Lữ đoàn 2 Air Cavalry (Không Kỵ), tổng cộng khoảng hơn 1.000 quân. Cùng thời gian này, Mỹ huy động 1 tiểu đoàn pháo binh lập 2 trận địa pháo (12 khẩu 105mm) ở tây nam Quênh Kla 2 km và đông nam Ia Đrăng 3 km để chi viện cho Lữ đoàn 3.

Như vậy, xét về quân số tác chiến đơn thuần, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam có ưu thế hơn (1.500 quân so với 1.000 quân). Tuy nhiên quân Mỹ được trang bị hỏa lực rất hùng hậu, trung bình 1 lính Mỹ tại chiến tuyến được 5 lính khác ở tuyến sau hỗ trợ phi pháo, ném bom, tải thương. Trong trận đánh, pháo binh Mỹ bắn 6000 loạt/ ngày, không quân xuất kích 300 phi vụ/ngày (có cả máy bay B-52), từ đó cho phép ước lượng pháo binh Mỹ tham chiến ít nhất 1 tiểu đoàn, không quân Mỹ tham chiến ít nhất 3 tiểu đoàn (chưa kể hàng trăm lượt trực thăng chuyển quân). Như vậy nếu tính cả lực lượng hỗ trợ tuyến sau thì quân Mỹ lại có ưu thế hơn hẳn.

Ngày 14 tháng 11, Tiểu đoàn 1/7 Không Kỵ đổ bộ xuống bãi đáp X-ray vị trí cách Tiểu đoàn 9 (Trung đoàn 66) khoảng 200, với chủ đích "chộp hổ đằng đuôi". Cùng ngày, nhưng ở vị trí khác QĐHK cho đổ bộ hai tiểu đoàn (thiếu một đại đội) cùng một đại đội pháo. Một đơn vị pháo khác tham gia trấn giữ đường 19B. Cuộc đổ bộ này khiến cho Mặt Trận B3 đình chỉ tấn công trại Pleime lần thứ hai và tung hai tiểu đoàn 7 và 9 xử lý với tiểu đoàn Mỹ, trong khi các lực lượng của hai Trung đoàn 32 và 33 án động tại các địa điểm tập trung.

Sau khi hoàn thành trận địa, QĐHK tập trung pháo binh và máy bay trực thăng bắn phá khu vực Bãi X-ray. 10 giờ 48 phút, quân Mỹ dùng 8 trực thăng đổ bộ bộ phận đi đầu (Đại đội Bravo gọi tắt là Đại đội B) do Đại úy John Herren của Tiểu đoàn 1 (109 lính trong đó có tiểu đoàn trưởng trung tá chỉ huy Moore) xuống Bãi X-ray. 35 phút sau, Mỹ tiếp tục đổ đại đội Alpha (gọi tắt là đại đội A) quân số 106 lính do đại úy Tony Nadal chỉ huy. Sau khi nắm được đại đội A, Tiểu đoàn trưởng Moore cho quân chia làm 2 mũi tiến công vào Tiểu đoàn 9 của Trung đoàn 66

Tiểu đoàn 9 bị bất ngờ, tiểu đoàn trưởng đang đi gặp trung đoàn trưởng để nhận nhiệm vụ. Tham mưu trưởng tiểu đoàn cũng đang đi chuẩn bị chiến trường ở Ban Mê Thuột, chính trị viên phó cũng đang ở sở chỉ huy trung đoàn, chính trị viên trưởng đang ở chỗ Đại đội 12. Chỉ huy cao nhất lúc bấy giờ có một trợ lý tác huấn tiểu đoàn. Tuy bị bất ngờ nhưng binh sĩ Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam không hoảng loạn và tự tổ chức chiến đấu. Các Đại đội 13, 11 và 12 nghe tiếng súng đã chủ động cơ động đánh vào bên sườn quân địch. Đại đội B của Mỹ bị đánh mạnh ở hai bên sườn.

Đến khoảng 11 giờ, tiểu đoàn trưởng chạy về đến chỗ Đại đội 11 nắm được Đại đội 11 và một bộ phận của Đại đội 12, một khẩu súng cối tiếp tục tổ chức đánh vào quân Mỹ. Trước các đợt phản kích liên tiếp của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, cả hai mũi xung phong của Mỹ đều bị bẽ gãy, phải lui về cụm lại cách Tiểu đoàn 9 hơn 1 km về phía Đông để chống lại. Một trung đội Mỹ bị vây chặt ở ven Bãi đáp X-ray, Trung đội trưởng Henry Herrick bị giết tại trận. Các nỗ lực giải vây bước đầu không thành. Đến khoảng 13 giờ 30 phút, lực lượng quân Mỹ tại Bãi X-ray được tăng cường Đại đội Charlie (gọi tắt là Đại đội C) do Đại úy Bob Edwards chỉ huy nhằm tăng cường khả năng phòng ngự trước các đợt tập kích của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam.

       17 giờ, Mỹ gọi phi pháo đánh liên tục vào đội hình Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, các đại đội tự động rút khỏi vị trí (đại đội 11, 12, 15 rút về phía tây bắc suối Khôn Chưa, đại đội 13 rút về hướng Tiểu đoàn 7). Kết quả tiểu đoàn 9 đã đánh bại cuộc tập kích của Mỹ, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam ghi nhận họ đã diệt khoảng 150 lính Mỹ, bắn rơi một máy bay chiến đấu.

Sau khi bị tiểu đoàn 9-QGP đẩy lùi, quân Mỹ cụm lại thành hình vòng quanh Bãi đáp X-Ray, ban đêm dùng máy bay thả đèn dù, dùng pháo binh bắn chặn xung quanh đề phòng tập kích.

Ngày 15 tháng 11, lúc 5 giờ 30 phút, tiểu đoàn 7 thuộc trung đoàn 66 QGP bất ngờ tấn công tiểu đoàn 1/7 Không Kỵ QĐHK, lực lượng sử dụng gồm Đại đội 1 và 2 có hai khẩu súng cối 82 mm của Đại đội 15. Tiểu đoàn triển khai cách địch khoảng 150 m, dùng hai khẩu cối 82 mm bắn 14 quả sau đó lệnh cho Đại đội 1 và 2 xung phong. Bộ đội tiểu đoàn 7 Quân Giải phóng miền Nam Việt Namdùng 1 trung đội đột kích với 3 khẩu B-40, 6 RPD, 3 thượng liên, 13 AK vào diệt điện đài và đánh giáp lá cà với quân Mỹ. Sau vài phút rối loạn, quân Mỹ đã đánh trả ác liệt. Phía Mỹ có máy bay trợ chiến bằng bom và tên lửa. Máy bay Mỹ đến thả bom napalm xuống trận địa lúc này đang lẫn lộn cả quân của hai phía. QĐHK thương vong thêm 24 lính chết và 20 bị thương.

Sau trận tập kích, tiểu đoàn 7 rời khỏi trận địa. Trước khi rút, tiểu đoàn lệnh đại đội 1 để lại một trung đội và hai khẩu súng cối để phục kích nếu trực thăng Mỹ xuống lấy xác thì đánh. Trên đường rút, bị máy bay và pháo binh đánh chặn, các đại đội của tiểu đoàn 7 dùng súng bắn rơi tại chỗ 4 chiếc trực thăng.

Lúc 9 giờ 30, đại tá Brown, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 3 Không Kỵ, đáp xuống bãi đáp X-Ray để thu xếp chuẩn bị rút tiểu đoàn 1/7 Không Kỵ. Việc tấn công bãi X-ray đã khiến cho QGP buộc phải tạm hoãn đánh cứ điểm Plei-me. Tuy nhiên, sau khi sắp xếp lại lực lượng, Plei-me vẫn bị QGP tấn công.

Khoảng 12 giờ trưa, tiểu đoàn 2/5 không kỵ tiến vào trận địa, sau khi được trực thăng vận tới bãi đáp Victor, cách X-Ray khoảng 5 cây số, lúc 8 giờ sáng và âm thầm lội bộ tới bãi đáp X-Ray để giải cứu trung đội bị cô lập. Đến khoảng 3 giờ chiều thì trung đội này được giải vây. Phía Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam không hay biết là tương quan lực lượng đã thay đổi từ 2:2 lên 3:2.

Đúng 4 giờ chiều, bom B-52 trải thảm đợt đầu xuống địa điểm YA8702 (khoảng 7 cây số tây LZ X-Ray) và liên tiếp trong 5 ngày kế tiếp

Suốt ngày 15, Mỹ cho nhiều lần máy bay hạ cánh xuống lấy xác lính Mỹ nhưng đều bị súng cối bắn nên không dám đỗ xuống. 17 giờ 30 phút ngày 15 tháng 11, Mỹ đổ hai đại đội xuống để chiếm lại trận địa và thu dọn xác chết, bị súng cối bắn cháy thêm hai chiếc trực thăng.

Trận tập kích lần thứ hai của tiểu đoàn 7 diễn ra đêm 15 rạng ngày 16 tháng 11. Tiểu đoàn 7 còn Đại đội 3 và hai khẩu súng cối 82mm chưa tham gia chiến đấu. Căn cứ vào tình hình quân Mỹ cụm lại, cấp trên quyết định dùng lực lượng này và tăng cường thêm Trung đội 1 của Đại đội 1 (đánh bám địch) và hai khẩu súng cối 82 mm tổ chức trận tập kích ngay trong đêm 15. Tuy nhiên lần này quân Mỹ đã tổ chức bố phòng vững chắc hơn nhiều so với đêm trước và liên tục gọi pháo binh bắn phá dữ dội để yểm trợ nên Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam phải nhanh chóng chấm dứt tập kích sau khi chỉ khiến 6 lính Mỹ bị thương.

Phía Mỹ-VNCH cho rằng tại chiến trường bãi đáp X-Ray, phía Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam không còn súng cao xạ và pháo kích nên phải sử dụng đến chiến thuật "biển người". Tuy nhiên, trên thực tế Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam không hề sử dụng chiến thuật "biển người". Do việc chiếm lĩnh trận địa trước nên một ổ phục kích có thể tiêu diệt nhiều đám quân Mỹ khác nhau, đồng thời các ổ phục kích cũng có thể hỗ trợ nhau. Mặc dù quân số của Mỹ-VNCH đông hơn nhưng nếu xét về tỷ lệ QGP-Mỹ ở từng cứ điểm thì QGP lại đông hơn do họ đã xé lẻ lực lượng đổ bộ của Mỹ-VNCH. Điều này khiến Mỹ-VNCH lầm tưởng QGP dùng chiến thuật biển người.

Giai đoạn đầu của trận Ia Đrăng chấm dứt với kết quả là 79 lính Mĩ chết và 121 bị thương. Con số này khá khớp với ước tính của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam rằng họ đã diệt hơn 250 quân địch. Tuy nhiên thương vong của phía Việt Nam thì khá mâu thuẫn. Moore báo cáo quân Mĩ "đếm" được 634 lính Việt Nam chết chưa kể số bị thương (ban đầu ông còn ước tính lên tới 834 nhưng sau đó hạ xuống do thấy vô lý). Còn theo chiến sử Trung đoàn 66 ghi nhận họ có 55 người hy sinh và khoảng 100 bị thương (chiếm 30% quân số của Tiểu đoàn 7).

Do bị Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đánh liên tục từ khi mới đặt chân xuống đất nên lực lượng Mỹ đã bị thiệt hại nặng nề, để tránh khu vực Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đang uy hiếp và rút lui an toàn, QĐHK trong khu vực còn lại khoảng 400 lính đã rời chỗ cũ sang bãi trống ở ngã ba Làng Tung và Làng Sinh.

Tiểu đoàn 8 Quân Giải phóng còn sung sức nhanh chóng cơ động xuống nhận nhiệm vụ mới mà trung đoàn giao (trên đường đi sẵn sàng chiến đấu vì có thể gặp địch). Tiểu đoàn 8 nhận được lệnh, chiều ngày 16 đã cho bộ đội hành quân ngay về vị trí sở chỉ huy trung đoàn. Tiểu đoàn 1 (sau này là Trung đoàn 33 QGP) hành quân đến trợ chiến nhưng lạc đường. Lực lượng tiểu đoàn 8 có ba đại đội bộ binh và một đại đội trợ chiến (đại đội 10) ngoài ra còn được tăng cường một đại đội 12,7 mm (6 khẩu, đạn đầy đủ). Đội hình hành quân theo đội hình chiến dấu tao ngộ sắn sàng chiến đấu cao, đặc biệt khi đi đến ngã ba đường Làng Tung và làng Sinh. Đội hình của Quân Giải phóng xuất phát từ ngày 16/11, đến 5h sáng ngày 17/11 thì tổ chức tấn công. Giai đoạn thứ hai của trận Ia Đrăng bắt đầu.

Sáng ngày 17 tháng 11, hai tiểu đoàn không kỵ của QĐHK được lệnh rút ra khỏi bãi đáp, tiểu đoàn 2/5 tiến về hướng bắc tới bãi đáp Columbus, còn tiểu đoàn 2/7 tiến về hướng tây bắc tới bãi đáp Albany, với chủ đích "chộp hổ đằng đuôi từ một hướng khác". Khi hai tiểu đoàn này lội bộ ra khỏi bãi đáp khoảng 3 cây số, thình lình B-52 trải thảm bom ngay xuống bãi đáp X-Ray và vùng lân cận. Lúc 15 giờ trưa, B-52 oanh tập quang vùng Bãi đáp Albany. Tiếp sau đó một đơn vị không kỵ tiến vào vùng để thẩm định kết quả của cuộc oanh tập. Khi tiến gần tới bãi đáp Albany tiểu đoàn 2/7 phát hiện ra vị trí của Tiểu đoàn 8 ở bờ sông Ia Đrăng và tổ chức tấn công lúc đơn vị này đang nghỉ trưa. Nhưng chính họ lại bị đặc công Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam phục kích. 

                                 Đại tá Moore và thương vong của quân địch

                                          Đại tá Moore trước thương vong của quân Giải Phóng

      Theo tài liệu của Quân Giải phóng, khoảng 12 giờ, Đại đội 8 đi đầu đã đến ngã ba không thấy địch, Đại đội 6 đến suối cầu gặp đại đội 1 tiểu đoàn 1, lực lượng ở dây cho biết phía trước có hai trung đội địch đang tiến về hướng Quân Giải phóng, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 8 Lê Xuân Phôi cho tất cả dừng lại triển khai đội hình chuẩn bị chiến đấu, đồng thời cho liên lạc báo cho đại đội 8 biết tình hình. Tiểu đoàn tổ chức thành hai thê đội: Thê đội 1 gồm đại đội 6 (thiếu trung đội 3) và Thê đội 2 gồm đại đội 7 và trung đội 3 đại đội 6. Trong vài phút, đại đội 6 đã bí mật triển khai xong thì phát hiện lính Mỹ đang đi về hướng QGP. Khi lính Mỹ vào gần cách QGP khoảng 200m, lính Mỹ đột ngột nổ súng, đại đội trưởng đại đội 6 thấy địch còn ở xa nên không cho đại đội nổ súng đợi đối phương vào gần hơn. Khi còn cách 40 đến 50 mét đại đội trưởng lệnh cho đại liên bắn, trung đội 1 và 2 cũng bắn mạnh vào đội hình lính Mỹ và xung phong. Chỉ trong khoảng 5 phút hai trung đội Mỹ đã bị tiêu diệt hoàn toàn. 12 giờ 7 phút, đội hình chính của lính Mỹ tới cách lực lượng QGP khoảng 300m, lính Mỹ hốt hoảng bắn vào đội hình của QGP. Lực lượng Mỹ đông, nhưng đại đội 6 chiếm địa hình có lợi nên nắm được thế chủ động, đại đội 8 khi nghe tiếng súng cũng cho bộ đội quay lại đánh vào bên sườn quân Mỹ. Tiểu đoàn trưởng Lê Xuân Phôi chỉ huy đơn vị tiến công vào giữa đội hình quân Mỹ, làm đối phương bị rối loạn và bị cắt rời. Cùng lúc đó tiểu đoàn phó tên Luân của tiểu đoàn 1 trung đoàn 33 đang chỉ huy bộ đội lùng lính Mỹ ở hướng khác nghe súng nổ liền dẫn đơn vị đến phối hợp. Đội hình của lính Mỹ bị các lực lượng QGP khép vòng vây giữa thung lũng Iađrăng. Ở trên không, máy bay lên thẳng, máy bay phản lực quần lượn nhưng không có cách nào cứu nguy được cho đồng lính Mỹ phía dưới vì lực lượng Quân Giải phóng áp sát, đánh gần. Trận đánh đang tiếp diễn thì tiểu đoàn trưởng Lê Xuân Phôi hy sinh, chính trị viên phó tiểu đoàn cũng bị thương nặng phải đưa ra khỏi trận địa. Tiểu đoàn phó tiểu đoàn 1 trung đoàn 33 chỉ huy luôn cả hai đơn vị.

Theo tài liệu của phía Hoa Kỳ, Tiểu đoàn 8 dùng súng máy tấn công cùng bộ đội tiến công bên sườn đội hình đối phương đang tấn công đến gần rồi đột ngột đổi hướng tiến thẳng vào đối phương và triển khai chiến thuật chia cắt và đánh mặt đối mặt với QĐHK. Chiến thuật này khiến các vũ khí hạng nặng của QĐHK không triển khai được và quân của họ không được yểm trợ đầy đủ như mọi khi. Đồng thời các đơn vị của họ bị chia cắt nên lúng túng và không xác định rõ mục tiêu, nhiều khi bắn vào nhóm khác của quân mình. Trong khi đó, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam chiếm được các vị trí cao hơn và dễ dàng phát hỏa vào đội hình của đối phương đang di chuyển. Hậu quả là QĐHK thiệt hại nặng nề. Đại đội A của Tiểu đoàn 2 QĐHK bị chia cắt trong một khu vực trống trải bị mất 50 binh sĩ ngay trong những phút đầu tiên. Trong khi Đại đội C mất 20 người trong những phút đầu. Mọi việc trở nên tồi tệ hơn đối với QĐHK khi Tiểu đoàn 1 của Trung đoàn 33 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam cuối cùng cũng đến nơi và tấn công đối phương từ sau lưng. Trước tình hình trên, phía Mỹ phải điều Tiểu đoàn 2/5 tới Bãi Albany để chi viện và yểm trợ cho Tiểu đoàn 2/7 thu dọn xác chết và sơ tán thương vong.

Đến 8 giờ tối ngày 18 tháng 11, trận chiến ở thung lũng Ia Đrăng kết thúc với việc các đơn vị QĐHK rút lui khỏi Bãi đáp Albany. Trận đánh thứ 2 này thực sự là một thảm họa với quân Mỹ: 155 lính bị giết và 121 bị thương, tức hơn 2/3 lực lượng; riêng Đại đội C chịu tổn thất lớn nhất với con số thương vong lên tới 95 người. Đây là thương vong cao nhất trong 1 ngày mà Mỹ phải chịu ở Việt Nam tính đến khi đó. Quân Mỹ tuy vậy vẫn báo cáo giết 403 lính đối phương, nhưng thực tế con số này là không có cơ sở, vì thực tế quân Mỹ trong trận này gần như bị xóa sổ và mất trận địa, không có cách nào để có thể "đếm" được thương vong của đối phương.

Trong ngày 18 tháng 11, vào buổi sáng, Tướng Westmoreland và Tướng Cao Văn Viên, Tổng tham mưu trưởng VNCH, từ Sài G̀òn bay lên Pleiku gặp trung tá Moore và thăm tiểu đoàn 1/7 không kỵ tại trại Hollaway, đồng thời tới bản doanh lữ đoàn 3 không kỵ. Tại đây, hai ông nghe đại tá Brown thuyết trình về trận Ia Drăng và bay trực thăng quan sát chiến trường. Vào buổi chiều hai ông tới thăm các thương bệnh binh tham dự trận Bãi đáp Albany được chữa trị tại bệnh viện ở Qui Nhơn.

Trong Hồi ký, tướng Đặng Vũ Hiệp viết:

"...Chúng tôi đi kiểm tra trận địa sau khi ta làm chủ chiến trường, địa hình hàng chục ki-lô mét vuông bị đảo lộn, cây gãy đổ ngổn ngang, không còn đường còn lối. Địch chết thành đống, có chỗ năm, ba tên; xen lẫn vào đó là xác chiến sĩ ta. Nhiều đồng chí nằm đè lên xác lính Mĩ, lưỡi lê còn cắm vào ngực tên địch. Có đồng chí hy sinh tay vẫn nắm chặt quả lựu đạn bên sườn. Có tổ ba chiến sĩ hy sinh mà phía trước và phía sau các anh có hàng chục xác Mĩ. Có đồng chí hy sinh trên vai còn vác thi thể đồng đội. Nhìn vào trạng thái địch ta như trên không những thấy rõ được tính chất quyết liệt một cách cụ thể, đồng thời thấy được sự hy sinh dũng cảm tuyệt vời của cán bộ, chiến sĩ ta. Về mặt chiến thuật càng thấy rõ nét hoạt động của tổ ba, thậm chí của những bộ phận một, hai đồng chí có rất nhiều tác dụng trong việc đột nhập sâu vào đội hình trung tâm của địch."

Trong bốn ngày giao chiến, chỉ với lực lượng bộ binh trang bị nhẹ, "trận đánh sông Drang" của chủ lực Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã loại khỏi vòng chiến 476 lính Mỹ, trong đó có 234 lính chết và 245 bị thương. Thương vong của quân Việt Nam được tướng Đặng Vũ Hiệp ghi trong hồi ký là 208 người chết và 146 bị thương (một tài liệu khác ghi nhận Trung đoàn 66 có 157 người chết, bị thương 239, bao gồm 80 người bị thương nhẹ, 71 người bị thương vừa, 88 người bị thương nặng).

Ngược lại, phía Mỹ tuyên bố là hơn 1.000 lính đối phương bị giết chưa kể bị thương (634 trong trận X-Ray và 403 trong trận Albany). Ngày 17 tháng 11, sau 3 ngày B-52 trải thảm bom, nguồn tình báo qua đài kiểm thính của Hoa Kỳ cho biết Mặt Trận B3 báo cáo đã bị mất 2/3 lực lượng, nghĩa là 6 trên 9 tiểu đoàn; còn lại hai Tiểu đoàn 635 và 334 thuộc Trung đoàn 320, và 5 đại đội thuộc Trung đoàn 33 và Trung đoàn 66 tham chiến trong trận bãi đáp Albany (khi Lực lượng Dù gồm 5 tiểu đoàn hành quân vào Ia Drăng thì chỉ bắt gặp 2 tiểu đoàn Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam). Mặc dù thương vong phía Mỹ rất lớn, các quan chức cấp cao của Mỹ ở Sài Gòn lại tuyên bố trận Ia Đrăng là một trận đánh vô cùng quan trọng vì đây là cuộc đụng độ đáng kể đầu tiên giữa quân đội Mỹ và các lực lượng chủ lực của QGP. Nó chứng minh rằng QGP đã chuẩn bị sẵn sàng để đứng lên chiến đấu trong những trận đánh lớn ngay cả khi họ có thể phải chịu thương vong nghiêm trọng. Các nhà lãnh đạo quân sự cấp cao của Mỹ đã kết luận rằng quân đội Mỹ có thể gây thiệt hại đáng kể cho lực lượng đối phương trong các trận chiến như vậy.

Bộ Tư lệnh Quân đoàn II Việt Nam Cộng hòa tuyên bố thiệt hại phía Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam từ 19-10 đến 26-11 như sau: chết đếm xác 4.254, chết ước tính 2.270 (tổng là 6.524), bị thương 1.293, bị bắt 179, vũ khí cộng đồng 169, vũ khí cá nhân 1.027. Tướng Kinnard thì tuyên bố số liệu này là do chính các bản doanh dã chiến cấp trung đoàn Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam báo cáo về trung ương; các báo cáo này bị các đài kiểm thính phía bên QLVNCH nghe ngóng chận bắt được. Ngoài ra báo cáo tổn thất của Bộ Tư lệnh Quân đoàn II bao gồm các tổn thất do 5 ngày bom trải thảm B-52 gây ra, mà phía QGP và Hoa Kỳ không đề cập tới. Quân lực Việt Nam Cộng hòa cho rằng phía Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam không đạt được mục tiêu chiếm cứ trại và tiêu diệt quân tiếp viện và họ báo cáo với cấp trên rằng toàn bộ lực lượng B3 bị đánh tan và đẩy lui qua biên giới Căm Bốt. Tuy nhiên, các phân tích sau này cho thấy con số thiệt hại của Quân Giải phóng mà Mỹ tuyên bố (chết 6.524, bị thương 1.293) là phi lý và phóng đại quá nhiều so với thực tế, bởi con số này còn vượt quá tổng quân số mà quân Giải phóng huy động cho chiến dịch (khoảng 6.600 người).

Ngược lại, theo số liệu của Quân Giải phóng thì thương vong của họ trong toàn chiến dịch (từ 19/10 tới 26/11) là 554 người tử trận và 669 bị thương. Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tuyên bố đã loại khỏi vòng chiến đấu 2.974 quân địch (trong đó có khoảng 1.700 lính Mỹ), phá huỷ 88 xe quân sự (có 42 xe tăng và xe bọc thép), 5 khẩu pháo 105mm, bắn rơi 59 máy bay. Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam kết luận họ đã hoàn thành các mục tiêu đề ra trong chiến dịch: đánh thiệt hại nặng 1 lữ đoàn không kỵ tinh nhuệ của Mỹ, lực lượngQuân Giải phóng miền Nam Việt Nam thu được nhiều kinh nghiệm quý báu trong tác chiến chống chiến thuật trực thăng vận của Mỹ, cũng như cách đánh áp sát để hạn chế tối đa ưu thế hỏa lực không quân, pháo binh vượt trội của Mỹ.

Sau trận đánh, Trung đoàn 66 đã được tặng thưởng một lúc 2 Huân chương quân công hạng nhất, vì theo lời đại tướng Nguyễn Chí Thanh thì "do không có huân chương nào cao hơn, vì vậy tặng một lúc 2 huân chương để thưởng công cho thành tích tuyệt vời của Trung đoàn 66". Nhiều chiến sĩ được tặng danh hiệu Dũng sĩ diệt Mỹ.

Về mặt chiến thuật, trận đánh đã cung cấp cho Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam nhiều kinh nghiệm quý về tác chiến chống quân Mỹ, một đối thủ vượt trội về hỏa lực và sức cơ động. Tiêu biểu là chiến thuật "Nắm thắt lưng Mỹ mà đánh", tức áp dụng lối đánh cận chiến áp sát lính Mỹ để vô hiệu hóa hỏa lực pháo binh và không quân của Mỹ. Các tài liệu của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam ghi nhận:

"Lựa chọn cách đánh và đánh thắng địch ngay trận đầu là nét độc đáo của nghệ thuật chỉ huy chiến dịch. Quân Mỹ mới vào miền Nam tuy có chiếm ưu thế về hỏa lực, sức cơ động nhưng chúng rất chủ quan không đánh giá đúng mình và coi thường đối phương. Mặt khác ta không coi thường địch mà đã chuẩn bị tốt tư tưởng tâm lý cho cán bộ, chiến sĩ sẵn sàng chấp nhận hy sinh để giành thắng lợi.

Sự sắc sảo của nghệ thuật chỉ huy chính là biết khoét sâu vào chỗ yếu, chỗ sơ hở của địch để lựa chọn địa hình, lựa chọn cách đánh đúng, giành thắng lợi trong từng trận chiến đấu. Trong chiến dịch này mưu hay của ta là lừa địch, kế giỏi là dụ quân Mỹ vào đúng điểm quyết chiến ta đã chọn; phát huy sở trường đánh gần của ta để làm hạn chế điểm mạnh về hỏa lực, cơ động Mỹ. Thắng lợi của chiến dịch đã khẳng định ta có khả năng đánh tiêu diệt từng tiểu đoàn quân Mỹ".

Bộ trưởng Quốc phòng Israel khi đó sang thăm Việt Nam Cộng hòa đã đóng vai một nhà báo chiến trường đến quan sát chiến dịch Pleime về nói như sau: "Quân đội Mỹ ở Việt Nam đã có đủ những vũ khí và phương tiện mà những người chỉ huy quân sự các nước khác chỉ thấy trong mơ. Thế mà, mỗi khi đối phương đã tiếp nhận giao chiến là trên 90% các trận đánh, quyền chủ động thuộc về họ...".

Tướng Mỹ G. Moore và phóng viên chiến tranh L. Galoway, cả hai đã chiến đấu trong trận Ia Đrăng sau này nhận định rằng: "Ia Đrăng - trận đánh đã làm thay đổi cuộc chiến tranh ở Việt Nam".

Trận đánh được thiếu tá Hal. Moore tường thuật lại trong cuốn Hồi ký We were soldiers...and Young (Chúng tôi từng là những người lính... trẻ) và sau đó được chuyển thề thành phim We Were Soldiers (Tên tiếng Việt: Chúng tôi từng là lính). Bộ phim đã được công chúng Mỹ đón nhận nồng nhiệt, nhất là trong bối cảnh Mỹ mới đem quân tiến hành tấn công Afghanistan, bởi họ cần một tác phẩm ca ngợi sự dũng cảm để lên tinh thần cho quân nhân Mỹ.

Tuy nhiên bộ phim đã bị chỉ trích từ dư luận Việt Nam khi đạo diễn đã cố tình đưa thêm vào nhiều chi tiết sai sự thật lịch sử mà cuốn hồi ký của Moore không hề có:

1/ Xuyên tạc và bôi nhọ binh sĩ Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam. Tiêu biểu như việc mô tả những người lính Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam hoàn toàn thiếu kĩ năng chiến đấu, chậm chạp và chỉ biết lấy số đông lao lên đánh trực diện để rồi ngã rạp hết lớp này đến lớp khác trước hỏa lực và sự thiện chiến của quân Mỹ (trong khi ở hồi ký, Moore ghi nhận lính Mỹ công nhận kẻ thù là những chiến binh khôn khéo, luôn tìm cách tập kích hoặc cơ động đánh vào sườn, và "giỏi không chịu được"). Hoặc trường đoạn cuối phim, lính Mỹ cùng trực thăng phản công đánh vào sở chỉ huy và tiêu diệt toàn bộ lực lượng Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tại đây thực tế cũng không hề có thật. Thực tế cuộc phản công này (trận Albany) đã lọt vào ổ phục kích và gần như toàn bộ tiểu đoàn Mỹ bị tiêu diệt.

2/ Diễn viên Đơn Dương (đóng vai Trung tá Nguyễn Hữu An-chỉ huy lực lượng Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam) ngay trong đầu phim, đã bắn chết 1 tù binh Pháp, chứ không bắt giữ tù binh. Điều này bị cho là dàn dựng lố bịch bởi ở thời điểm trong phim, Trung tá Nguyễn Hữu An đang chỉ huy một trung đoàn từ Điện Biên Phủ trở về Hà Nội, đơn vị của ông không hề chiến đấu trận nào trong thời gian này.

Joseph L. Galloway, nhà báo từng trực tiếp quan sát trận đánh đã "rất ngạc nhiên và tức giận sau khi xem phim"... Theo Galloway, giữa cuốn sách mà ông là đồng tác giả với bộ phim, dù cùng một câu chuyện nhưng có nội dung khác nhau, Galloway khẳng định cuốn sách đã phản ánh đúng sự thật, nhưng khi lên phim mọi chuyện thay đổi. Galloway ngay sau đó cũng đã chỉ trích các nhà làm phim. Theo ông, Hollywood đã "điện ảnh hoá" tới hơn 80% sự thật để thu được lợi nhuận cao, trong khi thông thường chỉ được phép dưới 20%. 

7+ Chiến thắng Đông Xuân I (11/1965 - 3/1966): đánh bại cuộc phản công chiến lược lần thứ nhất của 25 vạn quân Mỹ, 3 vạn quân chư hầu và 50 vạn quân ngụy. Và Chiến thắng Đông Xuân II (10/1966 - 4/1967).

Nội dung của cuộc chiến tranh bao gồm ba bộ phận: tiêu diệt bộ đội chủ lực quân Giải phóng, “bình định nông thôn”, nhằm phá hết cơ sở hạ tầng của cách mạng và phá hoại miền Bắc chủ yếu bằng không quân nhằm đánh vào cái gọi là "nguồn gốc của sự nổi dậy". Đồng thời, tiến hành thương lượng hoà bình để buộc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa chấp nhận những điều kiện mà Mỹ đưa ra. Dựa vào ưu thế quân sự, với số quân đông, vũ khí hiện đại, hỏa lực mạnh, Mỹ vừa mới vào miền Nam đã cho quân mở ngay cuộc hành quân "tìm diệt" vào căn cứ quân Giải phóng ở Vạn Tường (Quảng Ngãi). Tiếp đó, Mỹ mở liền hai cuộc phản công chiến lược mùa khô: đông - xuân 1965-1966 và 1966-1967 bằng hàng loạt cuộc hành quân "tìm diệt" và "bình định”. 

Đông - xuân 1965-1966, với 720.000 quân (trong đó có 220.000 quân Mỹ, còn lại là quân đồng minh và quân đội Sài Gòn), gồm 14 sư đoàn, 9 lữ đoàn và trung đoàn bộ binh Mỹ- ngụy và các nước chư hầu, hơn 1.000 khẩu đại bác, 1.342 xe tăng, xe bọc thép, 2.288 máy bay các loại, 541 tàu, xuồng chiến đấu. Mỹ mở đợt phản công với 5 cuộc hành quân "tìm diệt" lớn nhằm vào hai hướng chiến lược chính ở Đông Nam Bộ và khu V gọi là “chiến dịch Năm mũi tên”. Mục tiêu đánh bại quân chủ lực Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.

Tiểu đoàn Quyết Thắng quân Giải Phóng và chiến lợi phẩm thu được trong trận chiến thắng Nhuận Đức, Củ Chi, ngày 9-5-1965. (Ảnh tư liệu Bảo tàng Lịch sử Quốc gia)

Trên hướng thứ nhất, Củ Chi là trọng điểm, địch mở cuộc hành quân “Cái bẫy” nhằm diệt cơ quan đầu não Quân khu Sài Gòn - Gia Định và triệt hạ vùng giải phóng Củ Chi. Trong cuộc hành quân “Cái bẫy”, Mỹ tập trung 12.000 quân (có 8.000 lính Mỹ), 200 máy bay, 600 xe quân sự, 100 đại bác đánh và Củ Chi hòng dồn lực lượng quân Giải phóng vào vùng Hố Bò để tiêu diệt. Với lực lượng lớn, ưu thế binh lực, hoả lực, lính Mỹ tin chắc sẽ đánh bại quân Giải phóng. Tuy nhiên, quân và dân Củ Chi đã đánh 200 trận lớn, nhỏ, diệt và làm bị thương gần một ngàn quân Mỹ, Việt Nam Cộng hòa, bắn rơi 84 máy bay (phần lớn là HU-1A), phá huỷ và phá hỏng 77 xe quân sự (có 56 xe bọc thép M113, hai pháo 105mm. Trong cuộc hành quân tìm diệt này, quân Mỹ đã san bằng gần 3.000 ngôi nhà, triệt hạ hàng ngàn hécta vườn cây, ruộng lúa, càn nát nhiều giao thông hào, đánh sập một số cửa địa đạo. Mặc dù vậy, cuộc hành quân “Cái bẫy” của Mỹ không đạt được mục tiêu đề ra là tiêu diệt cơ quan đầu não và đơn vị chủ lực Quân giải phóng. Ngày 19- 1, Mỹ buộc phải kết thúc và rút các lữ đoàn bộ binh Sư đoàn Anh cả đỏ xuống nam Củ Chi để lập căn cứ tại Đồng Dù. Tại đây, quân Mỹ đã san bằng 2.000 ngôi nhà, nhiều vườn cây, trong đó có 350 hecta cây cao su của xã Phước Vĩnh An để làm căn cứ đóng quân cho 4.500 lính Mỹ (gồm Sư đoàn bộ và Lữ đoàn 2, Sư đoàn 25). Tiếp đến, trong tháng 4 và 5-1966, Lữ đoàn 1, Lữ đoàn 3, Tiểu đoàn cơ giới của Sư đoàn 25 Tia chớp nhiệt đới Mỹ, lần lượt được điều đến chiến trường bắc Long An cùng Lữ đoàn dù 173 càn quét chà xát từ Bàu Trai - Đức Lập (Hậu Nghĩa) sang Bến Lức, Vườn Thơm - Bà Vụ, tiến đánh Đức Hoà, Đức Huệ từng đợt năm, sáu ngày cho đến lúc kết thúc cuộc phản công mùa khô thứ nhất (30-5-1966).

Ở đây, hàng ngàn lính Mỹ đã bị thương vong. Đặc biệt, lần đầu tiên trên chiến trường khu VIII, tại Bàu Sen, một đại đội Mỹ thuộc Lữ đoàn dù 173 đã bị diệt hoàn toàn. Ý đồ của Mỹ chặt đứt hành lang kháng chiến từ miền Đông xuống Đồng Tháp Mười không thực hiện được. Đầu tháng 5, Mỹ mở cuộc hành quân Birminghom đánh vào Chiến khu Dương Minh Châu, với lực lượng hai lữ đoàn thuộc Sư đoàn 1 Anh cả đỏ và Lữ đoàn dù 173. Phạm vi càn quét tương đối rộng từ Tàpang, Lò Gò, Bàu Cỏ, Sóc Ky đến suối Ông Hùng, Bến Củi. Trong các đợt càn quét, quân Mỹ bị bộ đội chủ lực tại chỗ, du kích cơ quan đánh chặn gây cho chúng nhiều thương vong. Nắm vững thời cơ Mỹ phải đối phó với lực lượng tại chỗ, Sư đoàn 9 chủ lực Miền tiến công vào cụm quân của Sư đoàn 1 Mỹ ở Bầu Sắn (Tây Ninh), đánh thiệt hại một chiến đoàn của Mỹ, bẻ gãy cuộc hành quân vào Chiến khu Dương Minh Châu.

Một đơn vị súng ĐK 75 quân Giải phóng đã lập thành tích xuất sắc bắn tan xác 13 xe bọc thép của Mỹ, mùa khô 1965-1966. (Ảnh tư liệu Bảo tàng Lịch sử Quốc gia)

Nhìn tổng quát, trong cuộc phản công chiến lược mùa khô 1965-1966, kẻ địch đã tập trung hầu như toàn bộ lực lượng cơ động của Mỹ- ngụy và các nước chư hầu, huy động tối đa cơ sở vật chất và binh khí kỹ thuật, sử dụng mọi biện pháp và thủ đoạn nhằm xoay chuyển cuộc chiến tranh có lợi cho chúng. Tuy nhiên, diễn biến trên chiến trường đã ngược lại với tham vọng của Mỹ, chúng hoàn toàn không thực hiện được các mục tiêu đề ra. Đánh bại cuộc phản công chiến lược lần thứ nhất của Mỹ và làm phá sản kế hoạch bình định của địch ở miền Nam, cùng với chiến thắng oanh liệt chống chiến tranh phá hoại của Mỹ ở miền Bắc, nhân dân Việt nam đã giành được những thắng lợi có ý nghĩa chiến lược rất quan trọng, đánh thắng hiệp đầu chiến lược chiến tranh cục bộ của Mỹ. Kết quả mùa khô 1965-1966, quân và dân tại miền Nam đã loại khỏi vòng chiến đấu gần 67.000 địch, trong đó có hàng vạn lính Mỹ, đánh thiệt hại 9 tiểu đoàn Mỹ, 7 tiểu đoàn quân Sài Gòn, bắn rơi, phá huỷ 940 máy bay (hầu hết là máy bay lên thẳng), phá huỷ và phá hỏng 6.000 xe quân sự (có 300 xe tăng, xe bọc thép). Chiến thắng Đông Xuân (10/1966 - 4/1967) đánh bại cuộc phản công chiến lược lần thứ 2 của 45 vạn quân Mỹ, 50 vạn ngụy, mà tiêu biểu là cuộc hành quân Giôn-xơn-xi-ti, tiêu diệt 11.000 tên địch, làm thất bại âm mưu của chúng, hòng tiêu diệt bộ chỉ huy Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam. 

8+ Trận "Đồi không tên":

        Chiến đấu trong một tình thế cực kỳ hiểm nghèo, trang bị kém, Tiểu đội Bùi Ngọc Đủ đã bảo vệ nguyên vẹn kho đạn gồm 3.000 quả đạn pháo và tên lửa (H6 & H12) – một kho báu khi đó. Trong 10 người lính chiến đấu trên ngọn đồi Không Tên, 7 chiến sĩ đã vĩnh viễn nằm lại trong lòng đất mẹ, 2 chiến sĩ bị thương nặng.

       Đồi Không Tên (28-2-1967) như cái tên bình dị của mình vốn rất ít được nêu lên trong các cuốn sách về lịch sử chiến tranh nhưng ít người biết rằng đó là một trong những trận đánh tiêu biểu nhất minh chứng cho nghệ thuật lấy ít địch nhiều và ý chí bằng thép của những người lính bộ binh Việt Nam, đồng thời cũng là một trong những nguồn cổ vũ lớn của phong trào thi đua diệt Mỹ trong những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở miền Nam nước ta, cuội nguồn của bài hát “Ơi con suối La La” của nhạc sĩ Huy Thục về sau.

       Trận đánh diễn ra từ 7 giờ sáng đến 5 giờ chiều ngày 28-2-1967 trên một ngọn đồi dưới chân núi Cù Đinh (làng Chanh, xã Tân Kim, Cam Lộ, Quảng Trị) giữa 1 tiểu đội lính vận tải, bảo vệ kho [thuộc Tiểu đoàn 1, Trung đoàn pháo binh 84] và 200 lính biệt kích thủy quân lục chiến – lực lượng tinh nhuệ nhất của quân đội Hoa Kỳ.

       Tiểu đội 10 người gồm Lương Văn Tầm, Nguyễn Hồng Kinh, Đặng Văn Hạ, Lê Văn Chính, Nguyễn Văn Tía, Nguyễn Nhân Nhe, Nguyễn Văn Niên, Nguyễn Văn Nhân, (?) do trung sĩ Bùi Ngọc Đủ chỉ huy có nhiệm vụ vận chuyển, xây dựng và bảo vệ kho chứa hơn 3.000 quả đạn pháo H6, H12, ĐKB dùng cho chiến dịch tấn công vào điểm cao 241 Quán Ngang, và Bộ Chỉ huy quân sự Mỹ ở thị xã Đông Hà, Quảng Trị đầu năm 1967.

       Nhận được tin thám báo, rạng sáng ngày 28-2-1967, chỉ huy quân đội Mỹ bất ngờ dùng trực thăng đổ 200 lính biệt kích thủy quân lục chiến lên khu vực Đồi Không Tên thuộc vùng Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị nhằm phá hủy kho đạn được mà theo đánh giá của họ là cực lớn của Quân Giải phóng. Một trận đánh không cân sức đã diễn ra quanh con suối La La ngay dưới chân đồi.

        Bùi Ngọc Đủ quê ở huyện Hoằng Hoá – Thanh Hoá, tham gia bộ đội từ năm 1961. Cách đây hơn 40 năm, tiểu đội gồm 10 đồng chí do Trung sỹ Bùi Ngọc Đủ làm tiểu đội trưởng (thuộc Đại đội 12, Tiểu đoàn 10, Sư đoàn 325) có nhiệm vụ bảo vệ 3.000 quả đạn HA12 để chuẩn bị cho trận đánh quan trọng ở mặt trận phía Bắc tỉnh Quảng Trị, mở rộng vùng giải phóng, làm bàn đạp cho quân và dân Trị Thiên tấn công tiêu diệt địch ở khu vực Tây nam Quảng Trị và Bắc Thừa Thiên – Huế. Sáng ngày 28 tháng 2 năm 1967 tiết trời lành lạnh, như thường lệ sau khi lấy nước về chuẩn bị cho một ngày sử dụng, Tiểu đội trưởng Bùi Ngọc Đủ đi kiểm tra lại các vị trí canh gác, đặc biệt là các hầm đạn. Chợt nghe thoang thoảng trong gió mùi thuốc lá thơm, linh tính người lính trận mách bảo, chắc đâu đây không xa có lính biệt kích nhảy dù, hay lính “mũi lõ” đi sục. Đủ nhanh chóng báo động anh em ra vị trí chiến đấu còn anh nhanh như sóc xuống chân đồi kiểm tra, qua làn sương dày đặc anh đã mờ mờ thấy lô nhô lính Mỹ đang vượt qua con suối La La dưới chân đồi Không Tên ở gần làng Chanh, xã Tân Kim, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị (đồi tiểu đội anh đang chốt giữ) tiến về phía anh. Bình tĩnh đợi chúng đến thật gần Bùi Nọc Đủ quạt ngang một loạt AK, rồi chạy lên trận địa cùng 9 chiến sĩ bám trụ chiến đấu.

       Sau khoảng 10 phút hoảng loạn toán lính Mỹ kịp trấn tĩnh, tập trung hoả lực bắn xối xả lên đồi và dàn đội hình thành một vòng tròn ôm kín trận địa.
Gan dạ, tự tin tiểu đội trưởng luôn động viên anh em, bình tĩnh đợi chúng đến thật gần rồi bắn cho chắc… cứ thế đã bao lần tấn công, chúng đều bị tiểu đội Bùi Ngọc Đủ đánh bật ra. Thương vong, thất vọng, cay cú chúng lùi xuống chân đồi rồi gọi máy bay ném bom và pháo binh từ Cồn Tiên, Dốc Miếu, Quán Ngang bắn dồn dập, hòng san bằng trận địa.

       10 tay súng Việt Nam được trang bị nhẹ, vũ khí cá nhân gồm 6 khẩu AK47, 4 khẩu súng trường CKC, lựu đạn quần nhau quyết liệt từng mét đất gần 1 ngày với một lực lượng trội hơn mình 20 lần, được pháo binh, không quân (2 trực thăng, 4 cường kích mặt đất) của chúng yểm trợ. Dù bị tấn công bất ngờ nhưng các chiến sĩ quân Giải phóng không hề hoảng loạn, nhanh chóng bố trí đội hình chiến đấu, kiên nhẫn chờ cho địch đến thật gần (5 – 6m) mới đồng loạt nổ súng vừa tạo ra hiệu suất tác xạ rất cao vừa gây nên nổi khiếp đảm khủng khiếp cho đối phương. Hiểu rằng mình đang bị vây chặt, tất cả mọi ưu thế về quân số, hỏa lực, bố trí binh lực, tính bất ngờ… đều thuộc về địch, quân mình chỉ có một ý chí quyết tâm cao, thông thạo địa hình, Tiểu đội trưởng Bùi Ngọc Đủ chia quân thành 3 tổ, mỗi tổ 3 người phụ trách các hướng khác nhau. Sau những đợt tấn công đầu tiên thất bại, quân Mỹ có lẽ cho rằng quân Giải phóng khá đông trên đồi nên gọi pháo binh và không quân cường kích chi viện, dồn dập trút pháo, bom lên các vị trí nghi ngờ có vị trí đối phương ẩn nấp. Sau mỗi đợt bắn phá ác liệt, biệt kích địch lại lần lượt tấn công lên ngọn đồi. Cứ sau mỗi đợt tấn công của địch, tiểu đội Bùi Ngọc Đủ lại hao mòn dần, các chiến sĩ lần lượt hi sinh, một số người bị thương rất nặng. Mặc dù bốn mặt bị vây chặt, đồng đội nối tiếp nhau lần lượt hi sinh, bị thương nặng nhưng những người lính Việt Nam vẫn chiến đấu cực kỳ có kỷ luật. Nhiều chiến sĩ bị thương nặng nhưng họ không hề rên la, nhiều chiến sĩ không để đồng đội băng bó mà vẫn chiến đấu cho đến hơi thở cuối cùng. Có người ở trận đầu đã bị thương đến trận sau tiếp tục dính đạn nhưng vẫn kiên cường chiến đấu cho đến giờ phút hi sinh. Các chiến sĩ không có một phút nào được nghỉ ngơi, tất cả họ đều không ăn, không uống, nhịn đi vệ sinh suốt gần 1 ngày trời quần nhau quyết liệt cùng địch trên ngọn đồi Không Tên. Đến cuối buổi chiều hai bên đã gần như kiệt sức.

        Lợi dụng địa hình địa vật, tận dụng các ụ đất, đá, con suối để ẩn nấp, bố trí hỏa lực một cách thông minh, tiểu đội Bùi Ngọc Đủ đã kiên cường bám trụ, bảo vệ kho đạn cho đến những người cuối cùng. Không hề có chi viện, đến 5 giờ chiều họ đã đẩy lui 15 đợt tấn công của hơn 200 lính biệt kích thủy quân lục chiến Mỹ được pháo binh và không quân chi viện. Kế hoạch tấn công chớp nhoáng bằng lực lượng biệt kích tinh nhuệ phá sản, bị tổn thất nặng, quân Mỹ buộc phải rút lui từ 5 giờ chiến sau khi đã để mất từ 131 – 200 tay súng, trước khi quân Việt Nam từ tuyến sau kịp lên hỗ trợ cho tiểu đội phòng thủ.

        Chiến đấu trong một tình thế cực kỳ hiểm nghèo, trang bị kém, Tiểu đội Bùi Ngọc Đủ đã bảo vệ nguyên vẹn kho đạn gồm 3.000 quả đạn pháo và tên lửa (H6 & H12) – một kho báu khi đó. Trong 10 người lính chiến đấu trên ngọn đồi Không Tên, 7 chiến sĩ đã vĩnh viễn nằm lại trong lòng đất mẹ, 2 chiến sĩ bị thương nặng. Chiến công 1 diệt 20, Tiểu đội 10 người của Bùi Ngọc Đủ trở thành tấm gương cho toàn thể quân dân miền Nam thi đua tiêu diệt quân Mỹ xâm lược vào thời điểm đó.

         9+ Chiến dịch Junction City (thường phiên âm thành Gian-xơn Xi-ty) là một chiến dịch kéo dài 82 ngày của Quân đội Mỹ và Quân lực Việt Nam Cộng hòa nhắm vào các căn cứ của lực lượng Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam ở Chiến khu C, tức vùng Lò Gò - Xa Mát ngày nay (phía Việt Nam Cộng hòa gọi là Vùng III chiến thuật) vào đầu năm 1967. Đây là cuộc hành quân lớn nhất của Mỹ trong Chiến tranh Việt Nam - huy động 35.000 quân Mỹ và Việt Nam Cộng hoà và kéo dài từ 22 tháng 2 đến 15 tháng 4 năm 1967, nhưng kết quả đã thất bại.

        Sau cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ nhất (1965-1966) thất bại, bị những đòn chí mạng ở Núi Thành, Vạn Tường, Plây Me, Bầu Bàng, Dầu Tiếng,… lần đầu tiên quân viễn chinh Mỹ nếm vị đắng tổn thất nặng nề trên chiến trường. Nhưng đế quốc Mỹ vẫn nung nấu một giải pháp giành thắng lợi bằng quân sự để giải quyết cuộc chiến ở miền Nam Việt Nam.

                          Cuộc hành quân lớn nhất lại là thất bại lớn nhất của Mỹ ở Việt Nam - Ảnh 4.

Cuộc hành quân quy mô lớn nhất, dài ngày nhất mang tên Junction City, tập trung lực lượng đánh vào vùng Bắc Tây Ninh, sát biên giới Việt Nam-Campuchia.

                            Cuộc hành quân lớn nhất lại là thất bại lớn nhất của Mỹ ở Việt Nam - Ảnh 7.

Lực lượng ta tham gia gồm: Sư đoàn bộ binh 9, Trung đoàn bộ binh 16, tiểu đoàn 58 cối 120mm, 3 tiểu đoàn súng máy phòng không 12,7mm, 9 đại đội bảo vệ cơ quan, 13 đại đội địa phương và 4.000 du kích.

                         Cuộc hành quân lớn nhất lại là thất bại lớn nhất của Mỹ ở Việt Nam - Ảnh 9.
Chiến dịch diễn ra hai đợt: Đợt 1 (từ 22/2 đến 15/3), địch từ hướng Tây đánh sang, từ hướng Nam đánh lên, hình thành thế bao vây, đánh thọc vào khu căn cứ.
                       Cuộc hành quân lớn nhất lại là thất bại lớn nhất của Mỹ ở Việt Nam - Ảnh 10.
Bị thiệt hại nặng, từ ngày 1/3 địch phải dừng lại, đóng chốt dọc đường 22, đường 4. 

       Bước vào mùa khô 1966-1967, với lực lượng được tăng lên hơn 980.000 quân, trong đó quân viễn chinh có 440.000, Bộ chỉ huy Mỹ ở Sài Gòn mở cuộc phản công chiến lược lần thứ hai, với 895 cuộc hành quân lớn nhỏ, trong đó có 3 cuộc hành quân then chốt, vào hướng chiến lược chính là miền Đông Nam Bộ, nhằm tiêu diệt quân chủ lực và cơ quan đầu não của ta, tạo bước ngoặt trong chiến tranh có ý nghĩa quyết định làm chuyển biến cục diện chiến trường. Đó là cuộc hành quân Asttơnborơ (Attelboro) đánh phá vào khu căn cứ Dương Minh Châu (tỉnh Tây Ninh) tháng 11-1966, với lực lượng huy động khoảng 3 vạn quân; cuộc hành quân Xeđaphôn (Cedar Falls) đánh vào “khu tam giác sắt” (Trảng Bàng – Bến Súc – Củ Chi) tháng 1-1967, với lực lượng 3 lữ đoàn Mỹ cùng 3 chiến đoàn Ngụy và cuộc hành quân quy mô lớn nhất, dài ngày nhất mang tên Gian-xơn Xi-ti (Junction City), tập trung lực lượng đánh vào vùng Bắc Tây Ninh, sát biên giới Việt Nam-Campuchia.

       Tham vọng của địch trong cuộc hành quân này là: Phá huỷ căn cứ kháng chiến lớn của quân và dân ta ở Bắc Tây Ninh; tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến; tìm diệt một bộ phận chủ lực lớn của ta ở miền Đông (Sư đoàn 9); tạo lá chắn yểm trợ cho quân đội Sài Gòn tiến hành bình định ở phía Nam, gỡ thế bị uy hiếp nặng ở Sài Gòn - Chợ Lớn; giành một thắng lợi quân sự có ý nghĩa quyết định, tạo ra bước ngoặt làm chuyển biến cục diện chung có lợi cho Mỹ và Sài Gòn.

       Về lực lượng hành quân, địch sử dụng đại bộ phận quân Mỹ triển khai ở miền Đông Nam Bộ và một phần quân Sài Gòn. Lực lượng bao gồm: 31 tiểu đoàn bộ binh thuộc các Sư đoàn 1, 25, 4, 9 và các Lữ đoàn 196, 173 của Mỹ, 1 lữ đoàn thủy quân lục chiến, 1 liên đoàn biệt động quân Quân đội Sài Gòn; 1 trung đoàn và 8 tiểu đoàn xe tăng, thiết giáp, 4 trung đoàn pháo binh (tổng số khoảng 45.000 quân) với sự yểm trợ của 17 phi đoàn không quân các loại...

       Lực lượng ta tham gia gồm: Sư đoàn bộ binh 9, Trung đoàn bộ binh 16, tiểu đoàn 58 cối 120mm, 3 tiểu đoàn súng máy phòng không 12,7mm, 9 đại đội bảo vệ cơ quan, 13 đại đội địa phương và 4.000 du kích. Tổng lực lượng bao gồm chủ lực, địa phương quân, du kích các cơ quan là 15.000 bộ đội, được phân chia theo từng tổ chiến đấu, ấp chiến đấu, xã chiến đấu

        Đây quả là một thử thách lớn đối với quân và dân Tây Ninh cũng như cả miền Đông Nam Bộ. Mặc dù vậy, trên cơ sở đánh giá đúng mạnh, yếu của ta và địch, đặc biệt từ kinh nghiệm đánh bại cuộc hành quân Áttơnborơ, Quân ủy và Bộ Chỉ huy Miền quyết định mở chiến dịch phản công ở Tây Ninh và giao cho Thiếu tướng Lê Trọng Tấn làm Tư lệnh chiến dịch; Thiếu tướng Trần Độ làm Chính ủy; đồng chí Hoàng Cầm - Sư đoàn trưởng Sư đoàn 2 làm Tham mưu trưởng. Quân ủy và Bộ chỉ huy Miền chủ trương: Động viên mọi lực lượng cơ quan và đơn vị trong căn cứ bám trụ chiến đấu tại chỗ, phối hợp với một bộ phận chủ lực Quân giải phóng mở chiến dịch phản công, kiên quyết đánh bại cuộc hành quân quy mô lớn của địch, bảo vệ căn cứ kho tàng, bẻ gãy gọng kìm “tìm diệt” để hỗ trợ cho việc phá vỡ gọng kìm “bình định”, tạo điều kiện giành thắng lợi có ý nghĩa quyết định cho năm 1967.

Chiến dịch diễn ra hai đợt:

Đợt 1 (từ 22-2 đến 15-3), địch từ hướng Tây đánh sang, từ hướng Nam đánh lên, hình thành thế bao vây, đánh thọc vào khu căn cứ. Ta sử dụng lực lượng vũ trang tại chỗ chặn đánh, diệt địch ở Sê Lô, Rùm Đuôn, Ang Khắc, Sóc Ki..., đồng thời đưa lực lượng cơ động đánh vào bên sườn và sau lưng địch ở Trảng A Lân, suối Ông Hùng... Bị thiệt hại nặng, từ ngày 1-3 địch phải dừng lại, đóng chốt dọc đường 22, đường 4. Ta bám đánh, tập kích địch ở Trảng Chiên, Cà Tum, Ang Khắc, Rùm Đuôn, Tà Xia, Bàu Cỏ, Đồng Pan...

          Từ ngày 23 tháng 2 đến 9 tháng 3 năm 1967, các đơn vị Quân Giải phóng tìm cách vượt thoát khỏi vòng vây của quân Mỹ - Việt Nam Cộng hòa. Về phía Mỹ, sau hơn 10 ngày hành quân của chiến dịch, các tướng lĩnh chỉ huy cũng đã phải thốt lên: Không tìm thấy chủ lực của đối phương ở đâu, không bắt được một lãnh đạo nào của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam... cuộc hành quân chỉ gặp phải toàn cạm bẫy như chông, mìn, lựu đạn gài. Du kích thì lúc ẩn lúc hiện không sao tiêu diệt được, những căn cứ mà binh sĩ Mỹ vào được thì trống rỗng, chỉ tịch thu được những thứ mà đối phương không kịp mang đi. Những khi dừng chân thì bị bắn tỉa, bị ném lựu đạn, bị phóng rocket... bệnh tật cũng bắt đầu hoành hành. Thương vong do cạm bẫy, quấy nhiễu của du kích và bệnh tật của rừng nhiệt đới làm cho lính Mỹ thiệt hại ngày càng tăng, trở nên lo sợ, không còn hăng hái lùng sục nữa. Các kế hoạch tác chiến ban đầu không thực hiện được tốt, việc hợp quân trên vùng trung tâm căn cứ quân Giải phóng không thành công. Tính đến cuối ngày 11 tháng 3, sau 3 tuần liên tục truy kích, liên quân Mỹ - Việt Nam Cộng hòa tuyên bố đã loại ngoài vòng chiến 744 Quân Giải phóng, tuy nhiên các mục tiêu cơ bản đặt ra vẫn chưa đạt được.

       Choáng váng bởi các đòn tiến công liên tiếp của Quân giải phóng, ngày 13-3-1967, các cánh quân Mỹ bắt đầu rút khỏi Kà Tum, Bổ Túc và các chốt trên khu vực Bắc Tây Ninh. Đợt 1 chiến dịch kết thúc vào ngày 15 tháng 3 năm 1967, với một thành tích hoàn toàn không đáng kể và Tướng Jonathan Seaman bị mất quyền chỉ huy, thay bằng Tướng Bruce Palmer, Jr.

        Đợt 2 (từ 16-3 đến 15-4), địch chuyển hướng tiến công chủ yếu của Chiến dịch Junction City sang hướng Đông Bắc, Tây Nam,  là mạn đông tỉnh lộ số 4, được giới hạn bởi sông Sài Gòn, trọng tâm của chiến dịch nhằm về tuyến biên giới phía Đông Bắc Cà Tum và tuyến thượng nguồn sông Sài Gòn, được B-52 rải thảm không hạn chế. 

       Tỉnh lộ 4 Tây Ninh đi Cà Tum, bây giờ là bức tường phía tây của chiến dịch, các căn cứ Quản Lợi (Bình Long), Minh Thạnh (Núi Cát), Dầu Tiếng, Suối Đá (Tây Ninh); con đường số 13 huyết mạch kết hợp với các con đường 19, 22, 26 mới được sửa chữa, tạo thế tiến công từ phía đông sang tây. Lực lượng thiện chiến của các Sư đoàn 1, Sư đoàn 25, Sư 4, Sư 9... thì do máy bay trực thăng đổ bộ, hình thành các cụm căn cứ lớn khống chế biên giới Campuchia như Sóc Con Trăng, Đồng Rùm, Ba Vũng...

        Khu vực này, trên thực tế là địa bàn xung yếu nằm trong hệ thống huyết mạch chính của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, nơi đây vừa là đầu cầu tiếp nhận viện trợ từ miền Bắc, vừa là nơi cất dấu hậu cần, khí tài, quân bị. Nơi đây còn là bàn đạp, để từ đó Quân Giải phóng tiếp cận các chiến trường Nam Tây Nguyên và Đông Nam bộ. 

        Bước vào giai đoạn này, sức mạnh quân sự của Quân đội Mỹ và Quân lực Việt Nam Cộng hòa không hề suy giảm, thậm chí có phần gia tăng hơn, nhưng ý chí chiến đấu không còn như đợt ra quân ban đầu nữa. Trong khi đó về phía Quân Giải phóng miền Nam, việc kết thúc giai đoạn I của chiến dịch diễn ra gần đúng với dự kiến ban đầu: bảo đảm tuyệt đối an toàn cho Trung ương Cục miền Nam, Bộ Tư lệnh Miền, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam và các ban ngành, đoàn thể..., đặc biệt điều quan trọng bậc nhất là bảo toàn được lực lượng chủ lực của mình, do biết cất giấu kỹ. Do vượt qua được cột mốc thử thách trước sức mạnh Mỹ cộng với kinh nghiệm va chạm thực tiễn trong giai đoạn I, Quân Giải phóng miền Nam bước vào giai đoạn II với khí thế tự tin hơn và bản lĩnh hơn. 

      Ngày 19 tháng 3, Lữ đoàn 173 mở cuộc tấn công vào vị trí của Quân Giải phóng nằm về phía tây của Chiến khu C. Trong đêm đó, tại Bàu Bàng khi Lữ đoàn 1 Sư đoàn 9 Mỹ vừa tập kết chuẩn bị tham gia chiến dịch giai đoạn II, đã bị tấn công tại căn cứ. Ngày 20 tháng 3 năm 1967, giao tranh tiếp diễn tại nhiều hướng, theo Mỹ tuyên bố đến ngày này có 1.117 binh sĩ Quân Giải phóng tử thương; phía Hoa Kỳ có 143 tử trận, 659 người bị thương. Đêm 21 rạng sáng ngày 22 tháng 3 năm 1967, Quân Giải phóng tập kích Đồng Rùm sau 2 ngày vị trí này bị phía Mỹ đổ quân chiếm đóng, giao tranh ác liệt nổ ra kéo dài trong 6 giờ liền. Đêm 31 tháng 3, Quân Giải phóng tập kích căn cứ Ba Vũng. Ngoài ra, cụm căn cứ Sóc Con Trăng bị bao vây uy hiếp, làm hạn chế sức đánh phá của căn cứ này. Các vùng hậu cứ của Chiến dịch Junction City cũng bị pháo binh bắn phá như: Quản Lợi, Đồng Dù, Suối Đá. Chỉ huy sở của cuộc hành quân trú đóng tại Dầu Tiếng cũng bị pháo kích. 

        Trên toàn mặt trận, sự kháng cự của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tỏ ra ngày càng mãnh liệt. Ta phát huy thắng lợi đã đạt được, chặn đánh, tiến công địch ở Đồng Rùm, bàu Tri Giết, trảng Ba Vũng, sóc Con Trăng... 

         Không đạt mục tiêu đề ra lại bị tổn thất lớn, Từ 1 tháng 4, quân Mỹ bắt đầu triệt thoái từng bước, đến 15 tháng 4 năm 1967, quân đội Mỹ và Việt Nam Cộng hòa kết thúc đợt 2 của chiến dịch. Đến ngày 15 tháng 4, chiến dịch ngấp nghé bước sang đợt 3, nhưng đã phải nhanh chóng chấm dứt vào ngày 14 tháng 5 sau khi không thu được thêm nhiều kết quả. Chiến dịch Junction City đến đây chính thức kết thúc.

Kết quả, ta đã bẻ gãy cuộc hành quân Gian-xơn Xi-ti của Mỹ. Toàn bộ các mục tiêu mà quân địch đề ra đều không thực hiện được. Ngược lại, ta loại khỏi vòng chiến đấu 14.233 quân địch (chủ yếu là quân Mỹ), phá huỷ, phá hỏng 992 xe (có 775 xe tăng và xe thiết giáp), 112 khẩu pháo từ 105mm trở lên, bắn rơi và bắn hỏng 160 máy bay (có 144 trực thăng), tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng nhiều đơn vị tinh nhuệ của Mỹ.

      Đây là thất bại lớn nhất của Mỹ tính đến thời điểm đó. Đại tướng Nguyễn Chí Thanh nhận xét: "Cuộc hành quân Gian-xơn Xi-ti là một cuộc hành quân lớn nhất của quân Mỹ vào vùng căn cứ Bắc Tây Ninh lại là cuộc hành quân thua đau nhất, là cái mốc đánh dấu đỉnh cao sự thất bại của chúng trong cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ hai trong âm mưu tìm diệt của chúng".

                                    Cuộc hành quân lớn nhất lại là thất bại lớn nhất của Mỹ ở Việt Nam - Ảnh 12.

Kết quả, ta đã bẻ gãy cuộc hành quân Junction City của Mỹ. Toàn bộ các mục tiêu mà quân địch đề ra đều không thực hiện được.

                         Cuộc hành quân lớn nhất lại là thất bại lớn nhất của Mỹ ở Việt Nam - Ảnh 14.

Thất bại của Mỹ trong cuộc hành quân Junction City là sự bế tắc về chiến thuật, chiến lược của Mỹ ở Việt Nam. Với thất bại này, về cơ bản, gọng kìm "tìm diệt" của Mỹ trong cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ hai đã bị bẻ gãy.

                        Cuộc hành quân lớn nhất lại là thất bại lớn nhất của Mỹ ở Việt Nam - Ảnh 15.
Đối với ta, đánh thắng cuộc phản công chiến lược lần thứ hai của Mỹ, khẳng định khả năng chiến thắng về quân sự của ta là tất yếu

 

        Thất bại của Mỹ trong cuộc hành quân Gian-xơn Xi-ti là sự bế tắc về chiến thuật, chiến lược của Mỹ ở Việt Nam. Với thất bại này, về cơ bản, gọng kìm "tìm diệt" của Mỹ trong cuộc phản công chiến lược mùa khô lần thứ hai đã bị bẻ gãy. Thất bại của Mỹ trong cuộc hành quân này đồng thời cũng là cái mốc đánh dấu sự thất bại của cuộc phản công chiến lược lần 2 (1966-1967).

        Nét đặc sắc nhất về nghệ thuật trong chiến dịch này là ta đã tạo ra thế chiến tranh nhân dân ở địa bàn không có dân. Trong bốỉ cảnh địch áp đảo về lực lượng, phi pháo và sức cơ động (chủ lực của ta ít hơn một phần ba lực lượng địch), ta đã khéo léo tổ chức các cơ quan dân, chính, Đảng thành những đơn vị dân quân du kích, tự vệ.

      Ở chiến dịch phản công này, quỵ mô trận đánh của chủ lực ta có sự phát triển mới, phổ biến là ta đánh cấp tiểu đoàn, song đã có những trận ta đánh vận động tiến công với lực lượng trung đoàn. Tuy mở đầu quân địch chủ động tiến công, nhưng suốt cả chiến dịch chủ lực ta đã giữ vững được quyền chủ động đánh địch. Từ chủ động về chiến thuật, ta đã giữ vững và phát huy quyền chủ động về chiến dịch; kiên quyết và liên tục phản công đánh bại hoàn toàn cuộc hành quân tiến công lớn nhất của Mỹ trên địa bàn miền Đông Nam Bộ.

        Đối với ta, đánh thắng cuộc phản công chiến lược lần thứ hai của Mỹ,  khẳng định khả năng chiến thắng về quân sự của ta là tất yếu, ta đã tạo được thế và lực cũng như thời cơ để tiến lên chuyển cách mạng miền Nam sang thời kỳ giành thắng lợi quyết định vào những năm tiếp sau.

10+ Trận Đồi Thịt Băm hay trận A Bia là tên gọi của trận chiến giữa Quân đội Nhân dân Việt Nam, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam với Quân đội Mỹ từ ngày 10 tháng 5 đến ngày 20 tháng 5 năm 1969 ở Thừa Thiên (nay thuộc Thừa Thiên Huế). Trận chiến nổ ra khi Hoa Kỳ tập trung lực lượng gần 2.000 quân dưới sự yểm trợ mạnh của hỏa lực phi pháo để đánh chiếm quả đồi (núi A Bia, phía Mỹ gọi là Cao điểm 937) do 2 tiểu đoàn Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam chiếm giữ. 

         A Bia là điểm cao đột xuất (937m) nằm giữa vùng rừng núi trùng điệp gần biên giới Việt-Lào (cách 1,9 km). Đỉnh A Bia có ba mỏm đứng thế chân kiềng cao xấp xỉ nhau, cách nhau khoảng 400m. Trước đây Mỹ đã lên A Bia đóng dã ngoại, nay còn nguyên công sự, xung quanh chất đống nhiều vỏ đồ hộp... Đỉnh A Bia bị bom pháo phát quang nham nhở, trơ lại những thân cây khô cháy. Toàn bộ núi là một dải gồ ghề, hoang dã bao phủ bởi rừng với những tán tre mọc dày đặc cộng vởi cỏ voi cao ngang thắt lưng. Cỏ có khi cao hơn cả một xe bọc thép M-113. Các dân tộc địa phương gọi A Bia là "núi muông thú ẩn mình". 

                                 

                                                 11/05/1969: Lính Mỹ tấn công Đồi Thịt Băm

         Các trận đánh trên Cao điểm 937 xảy ra tháng 5 năm 1969, là giai đoạn hai của Chiến dịch Apache Snow, một chiến dịch gồm ba giai đoạn nhằm mục đích tiêu diệt lực lượng Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trong khu vực thung lũng A Sầu (A Shau), một mắt xích trong tuyến đường chi viện vào miền Nam Việt Nam. Năm 1966, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã thành công trong việc đánh chiếm doanh trại của Mỹ trong thung lũng A Shau, tức A Sầu (Trận A Sầu) và thiết lập sự hiện diện tại đây. Sau đó các nỗ lực liên tục của Mỹ nhằm tái chiếm thung lũng đã không thành công.

        Lực lượng tham chiến tại Đồi 937 gồm 3 tiểu đoàn của Sư đoàn Không vận 101, chỉ huy là Thiếu tướng Melvin Zais. Các tiểu đoàn này đều thuộc Lữ đoàn 3 (chỉ huy bởi Đại tá Joseph Conmy) gồm Tiểu đoàn 3/187 Bộ binh (Trung tá Weldon Honeycutt), Tiểu đoàn 2/501 bộ binh (Trung tá Robert German) và Tiểu đoàn 1/506 bộ binh (Trung tá John Bowers). Hai tiểu đoàn 2/1 và 4/1 thuộc Sư đoàn 1 Quân lực Việt Nam Cộng hòa được giao nhiệm vụ hỗ trợ cho Lữ đoàn 3. Các đơn vị khác tham gia trong chiến dịch bao gồm các Trung đoàn 9 Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ, Thiết đoàn 3 thuộc Trung đoàn Kỵ binh 5 Lục quân Hoa Kỳ và Trung đoàn 3 thuộc Sư đoàn 1 Quân lực Việt Nam Cộng hòa. 

       Sau khi liên tục giao chiến với Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ trong Chiến dịch Dewey Canyon vào tháng 2, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã di chuyển Trung đoàn 6, 9 và 29 vào khu vực thung lũng A Lưới để tái trang bị, bổ sung thiệt hại.

       Kế hoạch càn quét A Lưới của Mỹ đã được Bộ tư lệnh Quân khu Trị-Thiên dự kiến từ trước. Do vậy, từ đầu tháng 3 năm 1969 quân khu đã điều Trung đoàn 3 vào chuẩn bị chiến trường sẵn sàng đánh Mỹ. Sư đoàn trưởng Chu Phương Đới, Chính ủy Nguyễn Xuân Trà cùng đi với trung đoàn.

        Chiều ngày 7 tháng 5, Đảng ủy Trung đoàn họp mở rộng. Sau khi nghe Kiều Tam Nguyên, Bí thư Đảng ủy Trung đoàn quán triệt mục đích, yêu cầu của đợt hoạt động, hội nghị dành nhiều thời gian thảo luận chọn một trong các phương án tác chiến do Trung đoàn trưởng Ma Vĩnh Lan trình bày:

       Một, với 1 đại đội pháo phòng không 12,7mm, 1 đại đội cối 82mm được tăng cường 1 tiểu đoàn bộ binh, trung đoàn sẽ vận dụng chiến thuật vận động tiến công kết hợp chốt, lấy đại đội, trung đội xuất kích ngắn, tập kích vào từng cụm quân Mỹ đóng dã ngoại. Tuỳ tình hình diễn biến cụ thể, trung đoàn chuẩn bị phương án vận động tiến công kết hợp chốt cấp trung đoàn, tiêu diệt tiểu đoàn Mỹ. Để đạt được mục đích đó, trung đoàn phải tạo cho được cụm điểm chốt liên hoàn nhằm thu hút quân Mỹ vào sâu hơn nữa, tạo khả năng và điều kiện cho các phân đội cơ động tiến công tiêu diệt quân dã ngoại và quân ứng cứu.

        Hai, không xây dựng cụm chốt, chỉ dùng lực lượng cơ động tiến hành mật tập phục kích, tập kích, xuất kích ngắn để tiêu diệt quân Mỹ đóng dã ngoại. Mỹ đang hung hăng, đang có tham vọng quét lực lượng Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam ra xa, nếu gặp lực lượng chủ lực nhất định Mỹ sẽ bâu lại "quét", lúc đó sẽ sử dụng lực lượng cơ động để tập kích vào những khu vực quân Mỹ co cụm.

        Sau nhiều giờ tranh luận, hội nghị nhất trí chọn phương án một, nhưng cũng sẵn sàng chuyển sang phương án hai. Trung đoàn chọn A Bia để xây dựng cụm chốt. 

        15 giờ ngày 8 tháng 5, các đơn vị xuất phát hành quân chiếm lĩnh trận địa. Tiểu đoàn 8 được tăng cường Đại đội 14 cối 82mm xây dựng cụm chốt ở A Bia. Tiểu đoàn 7 bố trí ở khu vực các điểm cao 903 và 916. Đại đội 16 cơ động dọc phía tây đường số 14 đoạn A Sầu - A Lưới. Khối hỏa lực còn lại do trung đoàn trực tiếp nắm. Tiểu đoàn 9 làm lực lượng dự bị, trước mắt có nhiệm vụ chuyển gạo, đạn từ A Rum vào A Lưới. Các chiến sĩ trinh sát bám sát từng mũi tiến quân của Mỹ.

          Lúc 10 giờ 15 phút ngày 10 tháng 5, Tiểu đoàn 8 do Tiểu đoàn trưởng Đinh Xuân Bài chỉ huy nổ súng tiến công 1 đại đội thuộc Tiểu đoàn Dù số 3 Mỹ trên các điểm cao 400, 500, cách đông bắc A Bia khoảng 2 km. Đại đội 5 được tăng cường hai cối 82mm, chia làm ba mũi, mũi chính đánh ngang đội hình địch ở "yên ngựa" rồi tỏa ra hai hướng đánh ngược lên các đỉnh 500 và 400, để kết hợp với hai mũi đánh từ phía sau mỏm 500 xuống. 

 

Một lính Mỹ trực thuộc sư đoàn 101 bị thương và được đồng đội đưa ra ngoài từ đồi A Bia trong Trận Đồi Thịt Băm tháng 5/1969. Ảnh: AP

    Đồi Thịt Băm

Trong 10 ngày chiến đấu, quân đội Mỹ đã có nhiều người tử trận và bị thương. Các bác sĩ bệnh viện di động của quân đội Mỹ nói họ chưa bao giờ thấy nhiều người bị thương đến vậy trong một thời gian ngắn...
 
                                    Lính Sư đoàn Không vận 101 của Mỹ đổ bộ lên núi A Bia hay "Đồi Thịt Băm" (Hamburger Hill) - điểm cao chiến lược ở thung lũng A Sầu, Thừa Thiên-Huế, ngày 18/5/1969.

                     Lính Sư đoàn Không vận 101 của Mỹ đổ bộ lên núi A Bia hay “Đồi Thịt             Băm (Hamburger Hill) – điểm cao chiến lược ở thung lũng A Sầu, Thừa    Thiên-  Huế, ngày 18/5/1969.

                                  Lính Sư đoàn Không vận 101 của Mỹ đổ bộ lên núi A Bia hay "Đồi Thịt Băm" (Hamburger Hill)

                             Lính Sư đoàn Không vận 101 của Mỹ đổ bộ lên núi A Bia hay “Đồi Thịt Băm” (Hamburger Hill)

                                  Lính Mỹ tiến công trên Đồi Thịt Băm, 18/5/1969.

                                         Lính Mỹ tiến công trên Đồi Thịt Băm, 18/5/1969.

                                  Một thương binh Mỹ được đưa từ chiến tuyến về trạm cứu thương ở Đồi Thịt Băm, 18/5/1969.

                           Một thương binh Mỹ được đưa từ chiến tuyến về trạm cứu thương ở Đồi Thịt Băm, 18/5/1969.

         Trên mỏm cao 400, sau khi bí mật tiếp cận mục tiêu, đến giờ nổ súng, tiểu đội 10 tiêu dệt 1 tiểu đội Mỹ, sau đó phát triển xuống "yên ngựa", phối hợp với trung đội 3 đánh ngược lên.

         Cùng lúc đó ở mỏm 500, tiểu đội 9 đánh lên đỉnh, nhưng trúng hai quả mìn định hướng Mỹ gài sẵn làm thương vong gần hết. Mũi phát triển từ "yên ngựa" lên cũng bị quân Mỹ từ trên mỏm bắn xuống, đội hình tiến công ở hướng này bị chững lại. Đại đội 5 phải dùng cối 82 ly và B-40 đặt từ đỉnh 400 bắn sang chi viện nhưng vẫn không dứt điểm được. Pháo binh Mỹ dồn dập bắn vào mỏm 400, kết hợp với hai máy bay trực thăng rà sát ngọn cây quét đại liên, thả lựu đạn xung quanh điểm cao 500. Trước tình hình đó, tiểu đoàn 8 lệnh cho đại đội 5 lùi về A Bia tiếp tục xây dựng trận địa chốt. Trận chiến đấu diễn ra không quá một giờ, hàng chục lính Mỹ tử trận. Tiểu đoàn 8 của phía Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam do phân tán lực lượng, không tập trung vào mục tiêu chủ yếu là sở chỉ huy Mỹ đã để quân Mỹ kịp tổ chức chống cự gây nhiều tổn thất.

       Ở hướng tiểu đoàn 7, ngay phút đầu ban chỉ huy tiểu đoàn đã tập trung hỏa lực chi viện cho đại đội 1 đánh lên điểm cao 903. Sau khi hàng chục lính Mỹ tử thương. Mỹ đưa 6 máy bay trực thăng lên chi viện và bốc 2 đại đội ở đây về phía nam.

        Quân Mỹ biết đã gặp lực lượng chủ lực, tăng cường độ đánh phá và dùng trực thăng vũ trang thay nhau trinh sát khu vực xảy ra chiến sự.

         Ngày 11 tháng 5, Honeycutt giao cho 2 đại đội Alpha và Delta do thám phía bắc và tây bắc núi A Bia, trong khi các đại đội Bravo và Charlie tăng cường tại các tuyến đường khác nhau. 13 giờ ngày 11 tháng 5, Mỹ đổ 2 tiểu đoàn xuống các điểm cao 903, 916 và A Bia. Phía Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, Trung đoàn trưởng lệnh cho tiểu đoàn 7 để 1 đại đội ém quân tại khu vực 903, 916, còn 3 đại đội cơ động bám sát, tiến công Mỹ.

          Khi ra ngoài bãi đáp trực thăng trên sườn núi phía bắc, Đại đội Bravo đã giao tranh dữ dội với lực lượng Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trong khu vực 1 km vào cuối ngày. Honeycutt nhanh chóng chỉ đạo máy bay trực thăng vũ trang AH-1 Cobra, trang bị rocket và súng máy hạng nặng để hỗ trợ cho một cuộc tấn công vội vã. Trong rừng rậm, những chiếc Cobra nhầm tiểu đoàn 3/187 Mỹ với một đơn vị Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam nên đã tấn công, giết chết hai người và làm bị thương 35, (gồm cả Honeycutt). Việc bắn lầm này phá vỡ đội hình và sự chỉ huy, và buộc tiểu đoàn 3/187 rút lui vào vị trí phòng thủ đêm. Tuy nhiên, liên lạc xác nhận rằng một lực lượng đáng kể phía Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã có mặt, Honeycutt ước tính là cần tăng cường một trung đội hoặc đại đội. 

          Cũng đêm ngày 11, tiểu đoàn đặc công của quân khu tiến công sở chỉ huy lữ đoàn dù 3 Mỹ ở căn cứ Động Tranh. Sáng ngày 12 tháng 5 Mỹ phải đưa tiểu đoàn 2/506 ở A Lê Thiêm về bảo vệ sở chỉ huy lữ đoàn. Mỹ rút tiểu đoàn 2 về Động Tranh, phía bắc A Bia không còn lính chốt giữ. Ban chỉ huy Trung đoàn 3 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam quyết định điều tiểu đoàn 9 do tiểu đoàn trưởng Vượng chỉ huy hoạt động từ địa đạo Lam Sơn đến khu vực Bãi Ổi. Tiểu đoàn 8 tiếp tục củng cố trận địa chốt.

          Cũng trong hai ngày này, Honeycutt điều khiển các đại đội của mình tới các vị trí cho một cuộc tấn công phối hợp ngày 13 tháng 5 nhưng đã thất vọng bởi địa hình khó khăn và sự kháng cự của phía Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam. Một đơn vị của Đại đội Delta, rơi vào một khe núi dốc lầy lội vào ngày 12 tháng 5, phải chịu đựng tổn thất rất cao trong hai ngày. 

         Buổi trưa ngày 13 Tháng 5, chỉ huy lữ đoàn Dù, Đại tá Conmy, đã quyết định nó sẽ cắt đứt chi viện của lực lượng Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam từ Lào và hỗ trợ Honeycutt bằng cách tấn công A Bia từ phía nam. Đại đội Bravo được trực thăng đưa lên Đồi 916, nhưng phần còn lại của tiểu đoàn di chuyển bằng đường bộ, từ một khu vực cách 4 km từ Đồi 937, và cả Conmy và Honeycutt dự kiến Tiểu đoàn ​​1/506 sẽ sẵn sàng cung cấp hỗ trợ không muộn hơn buổi sáng ngày 15 tháng 5. Mặc dù Đại đội Bravo đã tới Đồi 916 ngày 15 tháng 5, nó đã không tham gia tấn công cho đến ngày 19 tháng 5 do rừng rậm gần như không thể di chuyển.

          Lúc 12 giờ trưa ngày 13 tháng 5, đại đội Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam phát hiện một tốp lính Mỹ trong hố bom dưới "yên ngựa", đang dùng ống nhòm quan sát lên đỉnh A Bia. 20 phút sau nhiều lính Mỹ kéo ra dưới mỏm "yên ngựa". Đợi lính Mỹ dưới hố bom leo lên, phía Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam dùng mìn sát thương cùng với bộ binh tiến lên đánh vào nhóm đi trước, khẩu đội cối 82mm đánh chặn phía sau. Quân Mỹ bỏ chạy theo triền đồi. Đại đội 1 tiểu đoàn 2/501 bị tiêu diệt. Quân Mỹ dùng trực thăng vận 2 đại đội khác đổ xuống chân điểm cao A Bia nhặt xác đồng đội, nhưng trời đã tối nên phải quay về vị trí cũ.

           Sau trận chiến đấu của đại đội 6 ở A Bia, phương án tác chiến được khẳng định. Quân Mỹ tiếp tục phản kích lên A Bia và các điểm cao điểm 903, 916. Ban chỉ huy Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam quyết định tiếp tục sử dụng tiểu đoàn 8 chốt ở A Bia và tiểu đoàn 7 giữ điểm cao 903, đưa tiểu đoàn 9 vào hoạt động ở A Lê Thiêm, A Lê Lốc, đồng thời dùng đặc công liên tục tập kích vào các vị trí đóng quân của Mỹ. Thực hiện chủ trương của trung đoàn, đêm ngày 13 rạng ngày 14 tháng 5, đại đội 20 đặc công tập kích vào sở chỉ huy tiểu đoàn 1/506 ở điểm cao 1078 phá huỷ trận địa pháo 105mm.

          Ngày 13 tháng 5, lữ dù 3 Mỹ tổ chức phản kích vào các điểm cao 903 và 916. Tiểu đoàn 7 do tiểu đoàn trưởng Tăng Văn Miêu và chính trị viên Trần Triền chỉ huy. Trong thế xen kẽ, chiến sĩ tiểu đoàn 7 đã tập kích khiến lính Mỹ phải thường xuyên di chuyển, gọi pháo chi viện tạo nên vành đai hỏa lực xung quanh vị trí trú quân.

         Ngày 14 tháng 5, tổ chức phân đội hỏa lực 12 khẩu gồm B-40, B-41, cối 82, cối 60 ly của phía Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam bất ngờ đánh vào đội hình của 1 đại đội Mỹ cách điểm cao 916 hai km về phía đông, Sau khi dùng bom, pháo bắn phá dọn đường suốt hai ngày 13 và 14 tháng 5, quân Mỹ sử dụng tiểu đoàn 1/506 chia làm hai mũi tiến công đánh chiếm lên A Bia. Phía đông nam, đợt phản kích của 2 đại đội Mỹ cũng bị đại đội 6 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam ghìm chân dưới "yên ngựa" bằng những bãi mìn và đạn cối. Khi quân Mỹ vượt được lên "yên ngựa", vào gần tới đỉnh thì bị bộ binh Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam phục kích. Bị đánh gần và bất ngờ, lính Mỹ lùi xuống chân điểm cao, gọi pháo chi viện.

          Biết lữ đoàn dù 3 Mỹ đang dồn nỗ lực chiếm A Bia, từ ngày 15 tháng 5 trở đi, tiểu đoàn 8 tranh thủ thời gian giữa hai đợt phản kích đào hầm, phát triển tuyến chốt sang hướng sườn tây bắc điểm cao A Bia nhằm tránh pháo Mỹ từ phía đông bắc bắn tới. Hầm hào được xây dựng nửa nổi, nửa chìm, có hầm ngủ, hầm chiến đấu nhiều tầng, nhiều lớp. Cơ quan trung đoàn và các đơn vị trực thuộc thay nhau lên A Bia giúp tiểu đoàn 8 xây dựng hầm hào. Với hệ thống công sự này, tiểu đoàn 8 nấp mình trong lòng đất đã tránh được bom pháo Mỹ ngày đêm cày nát ngọn đồi, tổ chức phản kích hàng chục đợt tiến công của quân Mỹ. Quân Mỹ với sự hỗ trợ của bom napalm, súng phun lửa, pháo không giật đã tiến rất chậm, mỗi công sự chiếm được đều phải trả giá đắt. Các đơn vị Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam cũng tổ chức đánh các bãi đáp trực thăng của Mỹ, bắn rơi hoặc bắn hư hỏng nhiều máy bay trực thăng dù chỉ có vũ khí hạng nhẹ và súng phóng lựu.

           Sau 3 ngày bị chặn đứng, quân Mỹ thay đổi chiến thuật. Vừa dùng phi pháo đánh ác liệt vào trận địa chốt, vừa dùng lực lượng cấp đại đội đánh vào các điểm cao 916, 900, nhằm bao vây cô lập tiểu đoàn 8, sau đó dùng lực lượng lớn tiến công, đánh chiếm A Bia.

          Trưa ngày 15 tháng 5, trực thăng Mỹ đổ 1 đại đội (Đại đội Bravo) thuộc tiểu đoàn 1/506 xuống điểm cao 916, đồng thời tung 2 tiểu đoàn vào hướng điểm cao 900, phối hợp lấn dần sang A Bia, cùng tiểu đoàn 2/501 tổ chức phản kích. Hai bên giành giật nhau suốt hai ngày liền. Quân Mỹ ba lần thay quân, lực lượng Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam cũng vơi dần, hầm hào sụt lở, không kịp củng cố. Các chốt của tiểu đoàn 8 mất dần, nhất là hướng chốt đại đội 8. Tuy vậy phía Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam vẫn giữ được A Bia.

          Tiểu đoàn 8 bị cắt rời khỏi đội hình trung đoàn. Ban chỉ huy tiểu đoàn hội ý quyết định để đại đội 6 tiếp tục củng cố trận địa, đánh địch từ hướng bắc; rút đại đội 7 ra tăng cường cho chốt ở điểm cao 991, đại đội 5 bổ sung cho chốt đại đội 8, số còn lại làm lực lượng dự bị. Đồng thời tiểu đoàn điện báo cáo về trung đoàn: "Tình hình có khó khăn, thương binh không chuyển được, đạn thiếu, lực lượng cơ động không có. Chỉ có khả năng giữ đến sáng 17 tháng 5. Hướng rút lui phía nam A Bia".

           Lữ đoàn dù 3 Mỹ đã bị động đối phó về mặt chiến thuật, từ chỗ chủ động lùng sục tìm diệt phải quay sang đánh chiếm mục tiêu đúng như ý định của phía Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam. Ban chỉ huy trung đoàn Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam lệnh cho tiểu đoàn 8 tiếp tục giữ A Bia, thu hút đối phương, tạo điều kiện cho hai tiểu đoàn 7 và 9 cùng các đại đội hỏa lực lật cánh sang phía nam A Bia vận động tấn công vào sườn quân Mỹ; trước mắt phải đánh bật đại đội Mỹ ở điểm cao 916 để lập lại thế liên hoàn toàn trung đoàn.

            Suốt hai ngày 16 và 17 tháng 5, nhiều trận đánh diễn ra liên tiếp trong khu vực đồi 903, 916 và phía nam A Bia. Ngày 16 tháng 5, trung đoàn tập trung 16 khẩu cối, B-40, B-41 và đại liên 12,7mm tập kích bất ngờ vào đại đội Mỹ ở Động Chuối, 9 giờ ngày 17 tháng 5, đại đội 2 tiểu đoàn 7 bất ngờ tiến công 1 đại đội Mỹ ở điểm cao 916. đánh bật quân Mỹ ở mỏm 1. Quân Mỹ bỏ mỏm 2 chạy dạt xuống chân điểm cao, vấp phải chốt của đại đội 5. Hai giờ chiều ngày 17 tháng 5, nhiều quân Mỹ ở 916 tử trận. Hành lang giữa 916 và A Bia đã khai thông. Đường sang tiểu đoàn 8 lại được mở. Chỉ huy lữ dù 3 chưa hay biết gì về số phận đại đội Mỹ trên điểm cao 916 nên vẫn cho trực thăng đổ quân tiếp ứng cho đại đội này, nên bị đại đội 2 bắn cháy 2 trực thăng và lính đi cùng.

         Thời gian này, ở hướng A Bia cũng diễn ra trận chiến đấu ác liệt. Mỹ cố đánh chiếm A Bia để gỡ thể diện và để nhặt xác đồng đội tử trận suốt hai ngày qua. Sau khi cắt rời tiểu đoàn 8 khỏi đội hình Trung đoàn 3, lữ dù 3 Mỹ cùng tiểu đoàn 2/501 và hai đại đội thuộc tiểu đoàn 1/506 bâu quanh A Bia thay nhau phản kích. Mỹ không dùng chiến thuật "cơn sóng lớn áp đảo đối phương" nữa mà thực hiện chiến thuật "sóng liên hồi" nhằm gây căng thẳng dẫn đến suy sụp về ý chí và tinh thần, buộc phía Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam phải mệt mỏi mà rút bỏ A Bia.

          Trong hai ngày 16 và 17 tháng 5, các trận địa pháo Mỹ dọc đường số 12 hướng về A Bia trút đạn, bắn cả đạn hóa học gây chảy nước mắt, nước mũi. Trận phản kích cuối cùng trong ngày 17 tháng 5 diễn ra lúc 15 giờ. Quân Mỹ chia làm 4 mũi, dùng đạn hóa học đánh lên A Bia. Đến 16 giờ, 1 đại đội Mỹ được phi pháo yểm trợ lại tiến công lên chốt.

          Trong lúc quân Mỹ còn tập trung vào hướng các đại đội 5 và 6 thì đại đội 2, tiểu đoàn 7 bất ngờ tiến công vào sườn trái đội hình phản kích của 1 đại đội Mỹ, hất xuống chân điểm cao. Đợt phản kích cuối cùng của Mỹ lên A Bia trong ngày 17 đã thất bại.

           Bị cầm chân suốt 5 ngày, các chỉ huy lữ đoàn Mỹ đã ra lệnh một cuộc tấn công phối hợp hai tiểu đoàn vào 18 tháng 5, với tiểu đoàn 1/506 tấn công từ phía nam và 3/187 tấn công từ phía bắc, cố gắng để cô lập lực lượng đối phương. Đại đội Delta của tiểu đoàn 3/187 được không vận tới gần ngọn đồi, nhưng bị tập kích và thương vong nghiêm trọng, bao gồm tất cả các sĩ quan của mình. Từ một máy bay trực thăng quan sát, chỉ huy tiểu đoàn đã cố gắng phối hợp các đại đội khác vào một cuộc tấn công cuối cùng, nhưng một trận mưa dữ dội làm giảm khả năng yểm trợ không quân và kết thúc trận đánh. Tiểu đoàn 3/187 một lần nữa phải rút lui xuống núi. Ba đại đội của tiểu đoàn 1/506 chiến đấu để giành điểm cao 900, phía nam của đỉnh núi, cũng gặp phải sự kháng cự mạnh.

           Bởi thương vong nặng nề trong 1 tuần và chịu áp lực từ sự chú ý không mong muốn báo chí, một số chỉ huy nghiêm túc xem xét việc ngừng các cuộc tấn công. Cả hai tư lệnh quân đoàn và tư lệnh MACV, tướng Creighton W. Abrams, công khai ủng hộ quyết định này. Nhưng các chỉ huy tại chỗ lại cảm thấy sẽ bị bẽ mặt khi phải rút lui bởi một lực lượng đối phương nhỏ bé hơn nhiều. Vậy là Zais quyết định tiếp tục tấn công, tung ba tiểu đoàn mới vào chiến đấu thay thế cho những đơn vị đã thiệt hại nặng. Tiểu đoàn 3/187 thiệt hại nghiêm trọng, với khoảng 320 thiệt mạng và bị thương, chiếm hơn 60% trong số 450 binh sĩ có kinh nghiệm ban đầu. Hai trong số bốn chỉ huy đại đội và 8/12 trung đội trưởng đã thương vong. 

          Sau 1 tuần chiến đấu, 2 tiểu đoàn Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã hoàn thành mục tiêu được giao là tiêu diệt một lượng đáng kể lính Mỹ. Như chiến lược chung trong những trận đánh với Mỹ, phía Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam không cố gắng giành giật trận địa mà chỉ cố gắng gây thương vong tối đa cho địch trước khi tổ chức rút lui để tránh bị hỏa lực và sức cơ động vượt trội của Mỹ bao vây tiêu diệt. Kế hoạch ban đầu là rút vào đêm 17 nhưng các đơn vị đã hoàn thành tốt và kéo dài thêm được 1 ngày. Đêm 18, phía Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam bắt đầu tổ chức rút lui khỏi trận địa núi A Bia, chỉ để lại một bộ phận nhỏ làm nghi binh.

Ngày 19 tháng 5, 2 tiểu đoàn bộ binh Mỹ đã được không vận vào bãi đáp đông bắc và phía đông nam của núi. Cả hai tiểu đoàn ngay lập tức di chuyển lên núi để tới các vị trí mà từ đó họ sẽ tấn công vào sáng hôm sau. Trong khi đó, tiểu đoàn 1/506 dùng ngày thứ ba liên tiếp để bảo đảm an toàn cho điểm cao 900.

Lữ đoàn 3 đưa ra bốn tiểu đoàn của mình tấn công vào lúc 10 giờ ngày 20 tháng 5, bao gồm cả hai đại đội của 3/187 được tăng cường bởi đại đội Alpha 2/506. Các cuộc tấn công được hỗ trợ bởi 2 giờ không kích và 90 phút nã pháo. Các tiểu đoàn tấn công đồng thời, 12 giờ tiểu đoàn 3/187 lên tới đỉnh. Đơn vị nhỏ làm nhiệm vụ nghi binh còn lại của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam sau khi nổ súng cầm chân quân Mỹ đã rút sang Lào theo đơn vị chính, và Đồi 937 được quân Mỹ nắm giữ vào 17 giờ.

Năm 2011, bà Kan Đơm, nữ du kích người dân tộc Pa Kô kể rằng, có một chuyện mà nhiều người chưa biết về những gì lính Mỹ đã làm với chiến sĩ du kích Cu Lọi khi trận đánh trên ngọn đồi A Bia kết thúc. Anh Cu Lọi tham gia đánh căn cứ A Bia, nhận nhiệm vụ ở lại cản chân quân Mỹ để đồng đội rút lui. Cu Lọi hy sinh, nhưng lính Mỹ đã lấy xác anh, chặt đầu cắm lên cọc, băm thi thể anh ra từng mảnh vụn rải khắp ngọn đồi. Bà Kan Đơm kể: "Lính Mỹ làm vậy là để cho người Pa Kô của mệ nhụt chí không còn dám theo Đảng và Bác Hồ đánh giặc nhưng chúng đã lầm. Từ đó, đồng bào Pa Kô đã gọi đồi A Bia là đồi Băm (băm xác) để khắc ghi trong tim mình sự hy sinh anh dũng của anh Cu Lọi mà quyết tâm đánh giặc đến cùng..."
                                  Du lịch Đồi Thịt Băm

                                                                 Du lịch Đồi Thịt Băm

Trong 10 ngày chiến đấu, quân đội Mỹ chịu thiệt hại 72 lính chết và 372 bị thương, vài trực thăng bị bắn rơi hoặc bắn hỏng. Quân Mỹ tuyên bố các tiểu đoàn 7 và 8 của Trung đoàn 29 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã có 630 người tử trận (chưa kể số bị thương) khi chiến đấu với quân Mỹ. Con số thiệt hại của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam do Mỹ tuyên bố gây nhiều tranh cãi và bị coi là phóng đại, bởi thực tế quân Mỹ không thể đếm số lính Việt Nam bị chết trong hoàn cảnh chiến trường khi đó (địa hình rừng núi, pháo kích và không quân ném bom dày đặc làm chiến trường rất khó quan sát, bộ binh Việt Nam cũng thường ẩn mình trong các công sự khó bị phát hiện). Trong thực tế, trong suốt trận đánh, quân Mỹ chỉ thu được 89 vũ khí cá nhân và 22 vũ khí cộng đồng của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam (chỉ bằng 1/6 số lính Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tử trận mà Mỹ tuyên bố).

Quân Mỹ thương vong hàng trăm binh sĩ nhưng rốt cục chỉ chiếm được một ngọn đồi không có giá trị về quân sự. Thiếu tướng John M. Wright lặng lẽ ra lệnh rút khỏi đồi ngày 5 tháng 6. Các cuộc tranh luận về "Hamburger Hill" diễn ra tại Quốc hội Hoa Kỳ, với những lời chỉ trích đặc biệt nghiêm trọng của các thượng nghị sĩ Edward Kennedy, George McGovern, và Stephen M. Young. Edward Kennedy gọi đây là "Cuộc hành quân điên rồ và vô trách nhiệm. Sinh mạng của binh sĩ Mỹ đã bị phung phí chỉ để thể diện nhà binh cho các sĩ quan chỉ huy". Báo chí Mỹ ngày 25 tháng 5 năm 1969 gọi A Bia là "Đồi thịt băm của lính dù Mỹ", lên án quân đội Mỹ ném quân lên vùng núi A Bia chỉ để biến cuộc hành quân "Tuyết rơi trên đỉnh núi" (Apache Snow) thành "Máu rơi trên đỉnh núi".

Với Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, những kết quả thu được trong trận đánh ở A Bia và đợt hoạt động phản công của Sư đoàn 324 ở vùng thung lũng A Lưới đã cổ vũ và thúc đẩy phong trào đánh phá "bình định" đang phát triển ở các địa phương. Chiến thắng A Bia đã đi vào trang sử truyền thống đầu tiên của sư đoàn 324 kể từ khi được tổ chức lại và là mốc mở đầu cho giai đoạn khôi phục lại thế trận xuống đồng bằng, lập lại thế ba vùng chiến lược sau Tết Mậu Thân 1968. Một cách không chính thức, Đồi Thịt Băm được coi là trận đánh thay đổi toàn bộ cục diện của chiến tranh Việt Nam nhưng lại được rất ít người biết tới, buộc chính quyền Mỹ phải từ bỏ Chiến lược chiến tranh cục bộ, từng bước rút quân và thực hiện chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh.

Đối với Quân đội Mỹ, Hamburger Hill được xếp vào hàng: Những trận đánh quyết định trong chiến tranh Việt Nam. 

11+ Chiến thắng đường 9 Nam Lào (31-3-1971) và Đông Bắc Campuchia: Thắng lợi của Chiến dịch phản công Đường 9 - Nam Lào năm 1971 đã làm lung lay chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ, mở ra thời cơ mới thuận lợi cho cách mạng Việt Nam - Lào - Campuchia, đã đánh bại 2 cuộc hành quân “Lam Sơn 719” và “Toàn Thắng” (1-1971), làm thất bại một bước quan trọng chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ. 

Sau khi buộc phải chấm dứt ném bom miền Bắc, cuối năm 1970, đế quốc Mỹ đã chủ trương tiến hành cuộc hành quân “Lam Sơn 719” đánh vào Đường 9 - Nam Lào, nhằm cắt tuyến vận chuyển chiến lược của ta, làm cho lực lượng vũ trang ở miền Nam Việt Nam suy yếu, không thể đánh tập trung quy mô lớn trong mùa khô 1971 - 1972, từ đó tạo tiền đề thực hiện âm mưu “Việt Nam hóa chiến tranh” giành lại thế chủ động trên chiến trường. Kế hoạch tác chiến của đế quốc Mỹ là nhanh chóng đánh chiến Sê Pôn, chiếm giữ đoạn đường bản Đông - Sê Pôn, đánh phá kho tàng, đường xá xung quanh Sê Pôn, phía Bắc lên tới Kho Vinh, Na Thôn, phía Tây Nam đến Mường Phìn nhằm phối hợp với lực lượng ngụy Lào từ phía Tây tiến sang. Tiếp đó, cơ động lực lượng xuống đánh phá kho tàng khu vực từ Sa Đi, Mường Noọng, A Túc đến A Sầu, A Lưới thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế. Thời gian dự định tiến hành là trong 90 ngày, kết thúc trước mùa mưa ở Nam Lào (tháng 5/1971). Kế hoạch gồm 4 giai đoạn: Giai đoạn 1 (30/01/1971 - 7/02/1971), thực hiện cơ động lực lượng, chiếm lĩnh trận địa xuất phát tấn công; Giai đoạn 2 (8/02/1971 - 14/02/1971), tiến công chiếm các mục tiêu Bản Đông và Sê Pôn; Giai đoạn 3 (15/02/1971 - 12/3/1971), lùng sục, đánh phá kho tàng; Giai đoạn 4 (13/3/1971 - 5/1971), chuyển xuống đánh phá các kho tàng phía nam từ Sa Đi, Mường Noọng, A Túc đến A Sầu, A Lưới.

Quân giải phóng Lào tiến công địch tại điểm cao 456, tháng 3/1971.
Trước âm mưu và hành động của đế quốc Mỹ, Bộ Chính trị chỉ thị cho Quân ủy Trung ương: “Nhất thiết phải đánh thắng trận này dù có phải động viên sức người, sức của và hi sinh như thế nào, vì đây là một trận có ý nghĩa về chiến lược”. Trong hồi ký của mình, cố Trung tướng Đồng Sỹ Nguyên, nguyên Tư lệnh Đoàn 559 viết: “Khi được trên thông báo âm mưu của địch, tôi nghĩ ngay tới bước phiêu lưu đầy chủ quan của Hoa Kỳ và quân ngụy. Bởi điều đơn giản, nơi đây là chiến trường rừng núi, không phải là “đất dụng võ” của cả lính Mỹ lẫn ngụy. Thứ hai, đã từ lâu, trong tầm nhìn của “Bộ Thống soái”, Đường 9 - Nam Lào là chiến trường dành cho sự đối đầu giữa chủ lực hùng mạnh của Quân giải phóng với bất cứ lực lượng nào của đối phương. 
Ngày 6/2/1971, Bộ Chính trị quyết định thành lập Bộ Tư lệnh Mặt trận Đường 9 - Nam Lào do Thiếu tướng Lê Trọng Tấn, Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam làm Tư lệnh và Thiếu tướng Lê Quang Đạo, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị làm Chính ủy chiến dịch. Nhiệm vụ của Bộ Tư lệnh chiến dịch là: Tiêu diệt lớn và làm tan rã thật nhiều quân ngụy, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh của chúng. Tiêu diệt và tiêu hao một bộ phận quân Mỹ, đánh cho địch một đòn chí mạng; Giữ vững tuyến vận chuyển chiến lược, bảo vệ tốt kho tàng của ta. Đây là một nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược, một điểm đặc biệt của chiến dịch cần hết sức coi trọng và quán triệt đầy đủ trong thực hành; Phối hợp với các chiến trường, tạo điều kiện cho các chiến trường khác đẩy mạnh tiến công địch toàn diện, nhất là đánh phá “bình định” của địch; Bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, bảo đảm hậu phương lớn luôn vững vàng trong mọi tình huống.
Cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn 64 tại Sở chỉ huy Lữ đoàn dù số 3 ngụy, tháng 3/1971 

Sau một thời gian chuẩn bị cho nhiệm vụ chiến đấu, lần lượt các đơn vị của ta bí mật hành quân vào chiến trường, chiếm lĩnh các khu vực sẽ tác chiến, kiên trì chờ địch, giấu quân, tránh thám báo và máy bay trinh sát địch lùng sục phát hiện. Đồng thời, tổ chức cho bộ đội ăn Tết sớm để sẵn sàng bước vào những trận đánh lớn ác liệt dài ngày. Ngày 8/2/1971, trên hướng tiến công chủ yếu của địch, bộ đội ta đã bẻ gãy nhiều đợt tấn công của địch. Khi chúng vượt biên giới Việt Nam sang Lào, bộ đội ta vẫn giữ vững các điểm chốt. Từ ngày 8 đến ngày 13/2/1971, nhiều kế hoạch triển khai lực lượng của địch bị quân ta phá vỡ, buộc chúng phải hủy bỏ hoặc điều chỉnh kế hoạch khiến cho tốc độ tiến quân và các mục tiêu đánh chiếm đạt được rất thấp. Từ ngày 16/2/1971, Trung đoàn 102 thuộc Sư đoàn 308 tiến đánh điểm cao 500 do Tiểu đoàn số 39 thuộc Liên đoàn biệt động quân số 1 ngụy chiếm giữ. Chiều ngày 20/02/1971, quân ta làm chủ hoàn toàn cao điểm 500, Tiểu đoàn 39 ngụy bị xóa sổ hoàn toàn. Thừa thắng, trưa ngày 25/2/1971, Trung đoàn 64 đã tấn công vào căn cứ 31, tiêu diệt gọn Tiểu đoàn dù 3, Tiểu đoàn pháo binh và Sở chỉ huy Lữ đoàn dù số 3, bắt sống viên Đại tá Nguyễn Văn Thọ và toàn bộ cơ quan Tham mưu của Lữ đoàn. Từ ngày 19 đến ngày 23/3/1971, Bộ Tư lệnh chiến dịch chuyển dịch đội hình về phía Đông, kết hợp truy kích địch với tác chiến ngăn chặn, lần lượt tiêu diệt địch ở các khu vực Cha Ky, Huổi San, Lao Bảo, Làng Vây. Phối hợp với chiến trường chính, ở Khu 5 và Tây Nguyên, ta đã phá “bình định”, đẩy mạnh hoạt động phá lỏng, phá rã sự kìm kẹp của quân đội và chính quyền Sài Gòn. Đặc biệt, quân và dân chiến trường Tây Nguyên đã phối hợp nhịp nhàng với chiến trường phản công Đường 9 - Nam Lào, bẻ gãy cuộc hành quân ra vùng Phi Ha của địch.

Ở Campuchia, ta đã phối hợp tốt với bạn, làm thất bại cuộc hành quân “Toàn thắng 171” của địch ở khu vực Công Pông Chàm, đập tan ý đồ của địch hành quân lên Cra-chi-ê, buộc chúng phải rút lui về củng cố tuyến đường 7. Tại đây, địch đã không thực hiện được âm mưu đánh vào vùng căn cứ, phá hoại hậu phương của ta, lại bị tiêu hao sinh lực và bị phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh.

Quân ngụy Sài Gòn bị bắt trong chiến dịch phản công Đường 9 - Nam Lào

Trên chiến trường Lào, ta đã cùng với lực lượng vũ trang của Lào đẩy mạnh hoạt động tác chiến, thực hiện tiến công, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, giải phóng được một số vùng thuộc phía Đông cao nguyên Bô-lô-ven, Bắc Luông Phra-băng và ở cánh đồng Chum; đặc biệt, đánh bại hoàn toàn cuộc hành quân “Lam Sơn 719” sang khu vực Đường 9 - Nam Lào.

Thực hiện phương châm chiến lược “Đông Dương là một chiến trường”, “chung chiến hào đánh Mỹ”, các lực lượng cách mạng trên ba chiến trường Việt Nam, Lào, Campuchia đã phối hợp chặt chẽ với nhau trong mọi hoạt động, tạo điều kiện cho nhau và cùng nhau giành thắng lợi to lớn trong chiến dịch phản công Đường 9 - Nam Lào năm 1971.

12+ Trận đặc công Việt Nam ‘xé xác’ Rồng Xanh Hàn Quốc năm 1967

      Sau trận đánh hủy diệt khiến 420 binh lính Hàn Quốc thiệt mạng, 6 tên còn sống sót ở một đơn vị Rồng Xanh đã rút chốt lựu đạn tự tử tập thể, một số tự bắn vào chân để phản đối lệnh đi càn của chỉ huy.    Trước năm 1965 chính phủ Đại Hàn Dân Quốc đã gửi các đơn vị quân y và các võ sư sang tham gia vào các hoạt động giao lưu với chính phủ Việt Nam Cộng Hòa nhằm dọn đường cho việc tham gia chính thức vào chiến trường Việt Nam sau này. Từ năm 1965 trở đi lần lượt các đơn vị chiến đấu của Đại Hàn lần lượt cập bến quân cảng Đà Nẵng và chính thức tham chiến. Đó là Sư đoàn bộ binh Capital có cái tên rất kêu “Mãnh hổ” đóng quân ở Qui Nhơn, tiếp theo là sư đoàn bộ binh “Bạch Mã” đóng ở Phú Yên, Lữ đoàn thuỷ quân lục chiến “Rồng Xanh” đóng quân tại Quảng Ngãi, Hội An.

                                   Sư đoàn Mãnh Hổ, Rồng Xanh của Hàn Quốc đáng sợ ra sao mà bộ đội cụ hù đc  lệnh tránh giao chiến : r/VietNamNation

                                  Sư đoàn Mãnh Hổ, Rồng Xanh của Hàn Quốc đốt phá xóm làng

                  Lính đánh thuê Nam Triều Tiên gây những vụ thảm sát dân thường đẫm máu -  Phú Yên online 

                       Lính đánh thuê Nam Triều Tiên gây những vụ thảm sát dân thường đẫm máu


      So với lực lượng giải phóng quân của ta thì quân Hàn Quốc được huấn luyện rất bài bản và được chọn lựa kỹ càng. Chúng rất thành thạo về các chiến thuật “phản” du kích, kỹ chiến thuật điêu luyện. Được huấn luyện đào tạo theo các giáo trình huấn luyện biệt kích của Mỹ, chúng rất gan lỳ và được đầu độc nặng nề về lòng căm thù chế độ Cộng sản. Ngoài ra ngay cả người Mỹ cũng phải kính nể về trình độ võ thuật của lính Hàn Quốc. Tiêu chuẩn của binh lính tham gia vào các đơn vị kể trên là phải có trình độ cao đăng môn Teakwon-do hoặc Happkido truyền thống của Đại Hàn.
       Lính Hàn Quốc có thể độc lập tác chiến và tự tìm cách duy trì sự sống trong rừng sâu khi bị lạc đơn vị trong chiến đấu một thời gian tương đối lâu. Chúng nghiên cứu quy luật chiến đấu và hoạt động của du kích ta rất kỹ lưỡng và đối phó khá hiệu quả trong thời gian đầu. Chúng tổ chức các đợt càn quét lớn và rộng, đêm đêm chia quân đi phục kích các vị trí nghi ngờ với sự kiên trì và tính kỷ luật cao độ. Khi đi càn chúng luôn luôn đi đầu, trực thăng Mỹ và pháo binh yểm trợ trên đầu và bộ binh Mỹ ủng hộ vòng ngoài.
       Quân Hàn Quốc hoạt động gần như là độc lập với quân VNCH và không tin tưởng vào đồng minh trong vấn đề tác chiến. Chúng sẵn sàng nổ súng tiêu diệt mà không cần bắn cảnh cáo khi có một dân vệ VNCH đi lạc đường vào khu vực mà chúng chiếm giữ.
       Quân ta gặp khá nhiều khó khăn và tổn thất khi đối đầu với lính Hàn Quốc. Chúng rất lỳ lợm trong việc phục kích và khủng bố dân trong các vùng chiếm đóng với cách thức hết sức dã man.
Quân đội Hàn Quốc gây ra rất nhiều tội ác man rợ, trời không dung đất không tha như giết hại cùng một lúc 500 dân làng ở Tịnh Sơn Sơn Tịnh Quảng Ngải với thành phần chủ yếu là người già trẻ em và phụ nữ để khủng bố răn đe mọi người không được ủng hộ du kích và trả thù cho những tên bị quân ta tiêu diệt…
       Tư lệnh miền đã nhận được rất nhiều thư tố cáo và yêu cầu trừng trị lũ giặc đánh thuê man rợ của chi hội phụ nữ và dân trong vùng bị chúng chiếm đóng. Quân ta đã tập trung lại và thề tiêt diệt bọn Đại Hàn để trả thù cho các chiến sĩ và đồng bào hy sinh vơi khẩu hiệu viết bằng máu: “Xé xác Rồng Xanh, Phanh thây Mãnh Hổ! Máu phải trả bằng máu, quyết trả thù cho đồng bào Bình Sơn, Sơn Tịnh bị Nam Triều Tiên sát hại”

                                 Lính đánh thuê và gái điếm Hàn Quốc trong chiến tranh Việt Nam - Redsvn.net

                               Lính đánh thuê và gái điếm Hàn Quốc trong chiến tranh Việt Nam


        Các chiến sĩ ta và trận với quyết tâm cao cùng với vành khăn tang trắng quấn trên đầu để tưởng nhớ những đồng bào bị giặc sát hại. Và các hoạt động “Khai tử Rồng Xanh ” liên tục diễn ra.
Vào một ngày giữa năm 1966, như thường lệ lính Hàn Quốc lên trực thăng đi càn khá đông, chúng đổ bộ xuống một cánh đồng mà không biết đã có tiểu đoàn 48 quân giải phóng bố trí trận địa bao vây phục sẵn. Đợi bọn giặc vào thật gần cả tiểu đoàn đồng loạt nổ súng, địch bị bất ngờ chống cự yếu ớt và tháo chạy tìm đường thoát thân. Quyết không để kẻ thù chạy thoát quân ta nhất loạt xung phong truy kích tiêu diệt địch. Cuối trận đánh địch hầu như bị tiêu diệt toàn bộ, bỏ lại hơn 200 xác chết, chỉ có một số ít tháo chạy được.
         Sau đó, nhiều đại đội Hàn Quốc bị tiêu diệt gọn trong các trận bao vây và phục kích của ta. Địch bắt đầu hoang mang và chùn tay hơn khi đi càn quét.
       Tuy nhiên, tinh thần của chúng chỉ gục ngã hẳn sau một trận đánh lớn, trận đánh giáng một đòn mạnh vào quân đội Hàn Quốc rung động đến cả Seoul và làm Tổng thống Park Chung Hee phải điên đầu. Đó là trận tấn công một tiểu đoàn lính thuỷ đánh bộ của Lữ đoàn “Rồng Xanh” nổi tiếng tàn ác khát máu đóng đóng tại đồi tranh Quang Thạnh tỉnh Quảng Ngãi vào năm 1967.
        Trận đánh này có ý nghĩa rất lớn, nó củng cố tinh thần cho quân giải phóng, làm hả lòng hả dạ đồng bào Quản Ngãi nơi quân giặc đã gây ra nhiều tội ác tày trời. Làm tan rã ý chí chiến đấu và sự hung hăng của quân Hàn Quốc đánh thuê. Đặc biệt, trận này không phải là ta phục kích đánh lẻ tẻ mà đánh tiêu diệt xoá xổ một lực lượng cỡ tiểu đoàn trong một căn cứ phòng ngự vững chắc được kết cấu bởi một hệ thống các công sự phòng ngự kèm các lô-cốt cố thủ bao quanh bởi một hệ thống dây kẽm gai gài mìn nhiều tầng được giám sát bảo vệ bởi các tốp lính đi tuần và canh gác cẩn mật.

13+ Trận Thành Cổ Quảng Trị 1972:
Theo tài liệu thì vào đầu thời Gia Long, thành Quảng Trị được xây dựng tại phường Tiền Kiên (Triệu Thành - Triệu Phong), đến năm 1809, vua Gia Long cho dời đến xã Thạch Hãn (tức vị trí ngày nay, thuộc phường 2, thị xã Quảng Trị). Ban đầu thành được đắp bằng đất, tới năm 1837 vua Minh Mạng cho xây lại bằng gạch. Thành có dạng hình vuông, chu vi tường thành là hơn 2.000 m, cao hơn 4 m, dưới chân dày hơn 12 m, bao quanh có hệ thống hào, bốn góc thành là 4 pháo đài nhô hẳn ra ngoài. Thành được xây theo lối kiến trúc thành trì Việt Nam với tường thành bao quanh hình vuông được làm từ gạch nung cỡ lớn; kết dính bằng vôi, mật mía và một số phụ gia khác trong dân gian. Thành trổ bốn cửa chính ở các phía Đông, Tây, Nam, Bắc. 

Trận Thành cổ Quảng Trị là một trận chiến giữa Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam được sự hỗ trợ về hậu cần của Quân đội Nhân dân Việt Nam với Quân đội Hoa Kỳ và Quân lực Việt Nam Cộng hòa tại khu vực thành cổ Quảng Trị vào năm 1972. Đây là một trong những trận chiến ác liệt nhất của Chiến dịch Xuân Hè 1972 trong Chiến tranh Việt Nam. 

                           

                                       Ảnh hiếm: Trận Thành cổ ác liệt nhất lịch sử VN

Trận chiến kéo dài trong suốt 81 ngày đêm, sau khi liên tiếp đưa vào các đơn vị bộ binh cũng như sử dụng hỏa lực bom đạn cực kỳ lớn, Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa đã thành công trong việc tái chiếm lại Thành cổ nhưng vẫn không thể giành lại nửa Bắc của tỉnh Quảng Trị. Về mặt chiến lược, sự kháng cự mạnh mẽ của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam với sự hỗ trợ về hậu cần của Quân đội Nhân dân Việt Nam đã khiến kế hoạch tái chiếm thành cổ của đối phương bị kéo dài tới 3 tháng so với kế hoạch ban đầu là 2 tuần.

Năm 1972, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tổ chức tổng tấn công trên 3 chiến trường chính: Quảng Trị, Bắc Tây Nguyên, và Đông Nam Bộ (Bình Long), trong đó hướng chủ yếu là tỉnh Quảng Trị. Lúc này Hội nghị Paris đang ở thế có lợi cho Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sau khi Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đẩy lùi được Chiến dịch Lam Sơn 719 của Quân lực Việt Nam Cộng hòa cùng các chiến thắng khác của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam ở Đắk Tô, Bắc Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Sức ép về việc phải giành được một chiến thắng có tính biểu tượng lên Quân lực Việt Nam Cộng hòa và Quân đội Hoa Kỳ nhằm lấy lại thế thượng phong trên bàn đàm phán ngày một gia tăng.

      Thành cổ Quảng Trị nằm gần Quốc lộ 1, đây là tiền đồn phòng thủ của Vùng I chiến thuật của Việt Nam Cộng hòa. Giành được Thành cổ sẽ có giá trị lớn về tính biểu tượng. Tin tức về việc Quảng Trị rơi vào tay Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã tác động mạnh mẽ tới chính quyền Nguyễn Văn Thiệu. Ngày 25 tháng 5 năm 1972, Tổng thống Thiệu đưa ra cam kết bằng mọi giá tái chiếm Quảng Trị cũng như trách móc phía Hoa Kỳ đang bỏ rơi đồng minh. Lúc này, trong Quốc hội Hoa Kỳ, tiếng nói đòi rút quân Mỹ khỏi Việt Nam ngày càng gia tăng.

Sau khi mở Chiến dịch Trị Thiên từ tháng 3 năm 1972, sau 2 đợt tấn công, đến tháng 5 thì Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã giành quyền kiểm soát được toàn bộ tỉnh Quảng Trị. Đây cũng là thời điểm mà Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đang bổ sung lực lượng chuẩn bị cho đợt tấn công thứ 3 vào Thừa Thiên.

Giữa tháng 6, Hoa Kỳ và Quân lực Việt Nam Cộng hòa dồn lực lượng với sự tham gia mạnh của không quân, hải quân Hoa Kỳ và bắt đầu phản công trên chiến trường (chiến dịch Lam Sơn 72). Chiến sự trong mùa hè năm 1972 ở tỉnh Quảng Trị diễn ra cực kì quyết liệt, ác liệt nhất kể từ khi có cuộc chiến tranh tại Việt Nam. Hoa Kỳ và quân Việt Nam Cộng hòa bắt đầu mở các cuộc phản công và đến đầu tháng 7 đã tiến đến thị xã Quảng Trị. Cuộc chiến 81 ngày ở thị xã và thành cổ Quảng Trị bắt đầu. 

Xét về tương quan lực lượng:

Quân lực Việt Nam Cộng hòa: Các Lữ đoàn dù 1, 2, 3; Liên đoàn 81/Biệt kích nhảy dù; Thiết đoàn 7, 18 kị binh; 3 lữ đoàn thủy quân lục chiến và các tiểu đoàn pháo, công binh… Tổng cộng hơn 35.000 quân cùng hàng trăm xe tăng, xe thiết giáp.

Quân đội Hoa Kỳ: Nhiều cố vấn chỉ huy cùng hàng trăm máy bay chiến đấu, bao gồm cả B-52 ném bom chiến lược của không quân Hoa Kỳ, pháo hạm yểm trợ từ Hạm đội 7. Thống kê cho biết trong 81 ngày đêm, Hoa Kỳ đã sử dụng:

  • 4.958 lần/chiếc B-52 (trung bình 60 lần/ngày đêm). 9.048 lần/chiếc máy bay phản lực các loại (trung bình hơn 100 lần/ngày đêm), ném tổng cộng hơn 120.000 tấn bom (bằng 7 lần quả bom nguyên tử mà Mỹ ném xuống Hiroshima), nếu tính trung bình thì các chiến sĩ Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tham gia trận đánh phải hứng chịu 9 tấn bom mỗi người..
  • Hơn 950.000 viên đạn pháo 105 mm, 55.000 viên đạn pháo 155 mm, 8.164 viên đạn pháo 175 mm, hơn 615.000 viên đạn hải pháo oanh kích (trung bình mỗi chiến sĩ Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam phải hứng chịu khoảng 110 viên đạn pháo). Tính riêng từ ngày 9 tháng 9 đến ngày 16 tháng 9 năm 1972, chỉ trong 1 tuần quân Mỹ đã sử dụng: 95.570 viên đạn pháo 105 ly; 11.002 viên đạn pháo 155 ly; 2.630 viên đạn pháo 175 ly; 14.223 viên đạn pháo từ hạm đội 7 và 163 lần/chiếc máy bay phản lực Mỹ.

Riêng ở khu vực thị xã Quảng Trị, tổng số bom đạn mà Mỹ sử dụng trong 81 ngày đêm bằng sức công phá của 7 quả bom nguyên tử mà Mỹ ném xuống Nhật Bản. Có ngày số bom Mỹ ném ở Quảng Trị vượt xa số bom Mỹ ném trên toàn miền Nam trong các năm 1968–1969. Dữ dội nhất là ngày 25/7, thị xã phải chịu 35.000 quả đạn pháo của Mỹ, chưa kể bom từ máy bay. Thành cổ Quảng Trị chỉ rộng 3 km vuông và vùng ven có ngày phải chịu hơn 20.000 quả đạn đại bác cỡ lớn. Với việc huy động một số lượng bom đạn khổng lồ, quân Mỹ hoàn toàn có ưu thế áp đảo về hỏa lực. 

                       

                  Cuộc chiến bảo vệ thành cổ Quảng Trị 50 năm trước - Báo VnExpress

Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam: Lực lượng phòng thủ trên toàn thị xã Quảng Trị bao gồm Trung đoàn 48 (sư đoàn 320B), Trung đoàn Triệu Hải, tức E27 sư đoàn 320B (sau này là F390) Trung đoàn 95 (sư đoàn 325) Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, 2 tiểu đoàn địa phương đóng ở Quảng Trị. Chi viện trực tiếp cho lực lượng này là các đơn vị còn lại của Sư đoàn 325 và Sư đoàn 312. Ngoài ra, sườn phía tây thị xã do trung đoàn 88 (thiếu) của sư đoàn 308 chốt giữ.

Để chống lại cuộc bắn phá dữ dội chưa từng có, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam chỉ có trong tay một vài xe tăng và một số đơn vị pháo phòng không, lực lượng tác chiến chủ yếu là bộ binh. Với mật độ hỏa lực hạng nặng dày đặc của đối phương, ước tính có tới hơn 80% thương vong của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trong trận đánh là bởi các đợt oanh tạc và pháo kích, chỉ có một phần nhỏ là trong các cuộc đọ súng bộ binh. 

Bắt đầu từ ngày 26 tháng 6 năm 1972, Không quân Hoa Kỳ bắt đầu ném bom rải thảm Quảng Trị để chuẩn bị các hoạt động của bộ binh. Mục tiêu của Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa là phải giành chiến thắng trước ngày 13 tháng 7, lúc Hội nghị Paris nhóm họp trở lại. Ngày 28 tháng 6 năm 1972, tướng Ngô Quang Trưởng phát lệnh khởi binh chiến dịch Lam Sơn 72 trên hai hướng. Chiều 28 tháng 6, sau khi vượt sông Mỹ Chánh, QLVNCH đã cô lập được một bộ phận của các sư đoàn 304 và 308 của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam ở nam Sông Mỹ Chánh. Hướng Đông, ngày 29 tháng 6, các lữ TQLC 147 và 258 tấn công các khu vực Diên Khanh, Xuân Viện, Kim Giao (thuộc huyện Hải Lăng), phối hợp với Lữ TQLC 369 từ Mỹ Thủy và Cổ Lũy đánh ra. Từ ngày 3 đến ngày 6 tháng 7, sau khi nhổ từng chốt chặn của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trên khoảng cách từng hecta một, chịu thương vong hơn 300 quân, Lữ dù 1 và Liên đoàn 1 Biệt động quân đã có mặt ở ngoại vi thị xã Quảng Trị nhưng không lọt vào được. Ngay lập tức, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam điều động Sư đoàn 325 và Sư đoàn 312 vào tham chiến cùng với các lực lượng tại chỗ để giữ Quảng Trị. Ngày 29 tháng 6, trong cuộc họp nội các, Tổng thống Thiệu thừa nhận Chiến dịch Lam Sơn 72 mới chỉ làm chậm bước tiến của Quân Giải phóng. Việt Nam Cộng hòa lúc này tiến hành trưng binh và cho phép quân nhân lựa chọn binh chủng ưa thích nhưng do tình thế chiến trường nên nhiều người đã không quyền được lựa chọn.

        Ngày 7 tháng 7, Tiểu đoàn 3 (Trung đoàn 48) Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam sử dụng Đại đội 9, tăng cường 1 trung đội của Đại đội 10, với một trung đội địa phương và 3 xe tăng, được Trung đoàn pháo 45 chi viện trực tiếp, thực hành phản kích đối phương ở phía Đông La Vang Hữu. Quân VNCH thấy xe tăng bất ngờ xuất hiện, nên đội hình rối loạn. QLVNCH bị thương vong hàng trăm binh lính, bị bắn cháy hai xe tăng và bị đánh bật ra khỏi khu vực La Vang Hữu. Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam bị hỏng hai xe tăng, một chiếc do bắn nhầm và một chiếc bị phá do bom.

Đến lúc này, thời hạn chiếm lại Thành Cổ mà Mỹ hoạch định đã sắp hết, nhưng đà tiến vẫn bị chặn đứng. Quân Mỹ liền tăng cường hỏa lực, nâng tổng số đạn pháo đánh phá thị xã từ 8.000 viên/ngày lên 15.000 viên/ngày, cao điểm có ngày lên tới 30.000 viên/ngày, sử dụng 40 đến 60 lần/chiếc máy bay phản lực một ngày, dùng bom khoan đánh phá hầm hào tường thành, tăng số phi vụ máy bay B-52 ném bom dọc bờ tả ngạn sông Thạch Hãn và hậu phương để ngăn chặn Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tăng cường quân số, vận chuyển tiếp tế. 

                           Đền tưởng niệm-Bến thả hoa bờ bắc sông Thạch Hãn, phường An Đôn, thị xã Quảng Trị. (Ảnh: Hồ Cầu/TTXVN)

                                         Thành cổ Quảng Trị di tích đặc biệt Quốc gia 

Ngày 13 tháng 7, một máy bay trực thăng chở đại tá Nguyễn Trọng Bảo, tham mưu phó sư dù và 8 sĩ quan tham mưu đi đốc thúc việc cắm cờ hòng gây thanh thế tại bàn đàm phán ở Paris. Chiếc trực thăng bị một trận địa súng máy 12,7 mm của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam do Bùi Trung Thành chỉ huy tiêu diệt ngay tại thị xã Quảng Trị cùng tất cả số sĩ quan trong trực thăng. Rạng sáng 14 tháng 7, một đội biệt kích đột nhập vào phía đông Thành cổ bằng cách luồn lách qua một nghĩa địa của cộng đồng Thiên chúa giáo phía Nhà thờ Tri Bưu rồi men theo các đường cống thoát nước để leo lên Thành cổ, định cắm cờ và chụp ảnh để có lý do tuyên truyền, nhưng chưa kịp cắm thì bị đại đội 14 trung đoàn 48 phát hiện và tiêu diệt một số, số còn lại phải rút chạy bỏ lại lá cờ. Mũi đột kích sâu của sư dù và thiết đoàn 20 cũng bị đẩy lùi. 

Ý định của Quân lực Việt Nam Cộng hoà chiếm thị xã trước ngày 13 tháng 7 để mặc cả tại Hội nghị Paris đã không thực hiện được. Thương vong mỗi bên lên đến hàng nghìn người. Sau mười ngày liên tục tiến công Thị xã, sư đoàn dù chịu tổn thất khá lớn. Quân lực Việt Nam Cộng hoà bị thương vong 1.071 binh lính, tiểu đoàn dù 1 và 5 bị tổn thất nặng, bị cháy 3 xe tăng, rơi 2 máy bay (1 phản lực, 1 trực thăng) và bị phá hủy nhiều vũ khí phương tiện kỹ thuật khác.

Ngày 14 tháng 7, Sư dù và Sư TQLC Quân lực Việt Nam Cộng hoà tổ chức tấn công đợt 2 nhằm chiếm thị xã trước ngày 18 tháng 7 và cùng lắm phải trước ngày 27 tháng 7. Lữ đoàn dù 1 đánh Quy Thiện, Trì Bưu, Lữ dù 2 đánh Tích Tường, Như Lệ. Các lữ đoàn TQLC 147 và 369 tiến sát sông Vĩnh Định, chiếm An Tiêm, Nại Cửu và Bích La Đông. Trong trận này, Lữ đoàn 369 TQLC tổn thất 2 đại đội và 11 trực thăng ở Nại Cửu. Đến ngày 16 tháng 7, Lữ dù 1 đã chiếm được các làng Trì Bưu, Cổ Thành; Trung đoàn 18 (Sư 325) bị tổn thất nặng phải rút ra Ái Tử - Đông Hà, Bộ tư lệnh B5 điều Trung đoàn 95 (Sư đoàn 325) vào thay. Quân lực Việt Nam Cộng hoà đã hình thành thế bao vây ba mặt quanh thị xã Quảng Trị nhưng chưa vào được nội đô. Để ngăn đường tiếp vận của Quân Giải phóng, Hoa Kỳ liên tục ném bom, nã pháo hạm, pháo hạng nặng Quốc lộ 1 và khu vực quanh Thành cổ cũng như quanh khu vực Thị xã Quảng Trị.

Ở Long Quang, tuyến phòng thủ đầu tiên của Quân Giải phóng, ngày 22 tháng 7, Quân lực Việt Nam Cộng hoà ồ ạt sử dụng xe tăng và pháo binh tấn công chính diện kết hợp máy bay ném bom để chọc thủng tuyến phòng thủ này. Đồng thời Quân lực Việt Nam Cộng hoà tổ chức mũi thọc sườn tuyến phòng thủ, tập kích bí mật trong đêm, đào hào để siết vong vây đối với QGP và sử dụng bộ binh để kéo QGP khỏi nơi ẩn nấp sau đó sử dụng bom và pháo binh để tiêu diệt. Tuy nhiên, ý đồ đánh nhanh thắng nhanh của Quân lực Việt Nam Cộng hoà đã bị bẻ gãy. Lúc này, phía Việt Nam Cộng hoà và Hoa Kỳ xuất hiện mâu thuẫn khi phái đoàn Hoa Kỳ tại Hội nghị Paris đã bí mật gặp phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mà phía Việt Nam Cộng hoà không được biết.

Từ ngày 25 đến ngày 27 tháng 7, tướng Lê Quang Lưỡng của Quân lực Việt Nam Cộng hoà đã tung lực lượng dự bị cuối cùng (Liên đoàn biệt kích dù 81) vào chiến đấu, chiếm được các làng Trì Bưu, Cổ Thành. Tiểu đoàn biệt kích dù 27 tiến sát góc Đông Nam Thành cổ nhiều lần lao lên định cắm cờ lên tường thành nhưng đều bị Trung đoàn 48 đẩy lùi. Hai bên tổn thất lớn về sinh mạng. 

                          

                        26/07/1972: Quân Việt Nam CH dựng cờ tại Thành cổ Quảng Trị

Ngày 28 tháng 7, thời hạn đánh chiếm thị xã Quảng Trị và thành cổ đã hết, tướng Ngô Quang Trưởng quyết định dừng cuộc tấn công của Sư đoàn dù, chuyển giao nhiệm vụ đánh chiếm thị xã Quảng Trị cho Sư đoàn thủy quân lục chiến. Trong tháng 7, mỗi ngày Không lực Hoa Kỳ huy động từ 40 đến 60 phi vụ B-52, 130 đến 150 phi vụ máy bay cường kích yểm hộ mặt đất cho Quân lực Việt Nam Cộng hoà. Phương án đánh nhanh chiếm nhanh của Việt Nam Cộng hoà chính thức bị loại bỏ. Phía Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hoà tuy giảm tần suất oanh tạc nhưng tăng tần suất pháo kích bằng tất cả các loại pháo khác nhau. Nhiều thời điểm, Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hoà pháo kích liên từ 6h sáng tới 6h tối chưa kể các đợt pháo kích trong đêm. Để tìm kiếm Quân Giải phóng, Không lực Việt Nam Cộng hòa sử dụng L-19 và OV-10 để trinh sát. Sau khi nhận thấy trận địa của Quân Giải phóng, lực lượng máy báy trinh sát sẽ thả pháo khói xuống mục tiêu để các loại cường kích, pháo binh tấn công vào mục tiêu. Tiếng pháo và bom nổ không ngớt.

Ngày 5 tháng 8, Tiểu đoàn 2 Trung đoàn 48 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam cùng đơn vị bạn đã tập kích diệt 1 đại đội quân đối phương ở Hạnh Hoa, đánh thiệt hại 3 đại đội khác, bắn cháy 5 xe tăng. Đơn vị được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Nhất. Trong ngày 13 tháng 8, một sở chỉ huy nhỏ của Quân Giải phóng ở gần cổng Tây của Thành cổ bị máy bay B-52 ném bom và bị san phẳng cùng với một bức tường cao hơn 4m của Thành cổ. Lúc này, trận chiến diễn ra trong mùa mưa khiến cho các chiến sỹ Quân Giải phóng phải chiến đấu trong điều kiện rất khó khăn khi bên ngoài là bóng đêm và hỏa lực của đối phương, bên trong là những căn hầm ngập nước, khiến cho nguy cơ các vết thương bị nhiễm trùng tăng lên. Giao tranh diễn ra dữ dội, có cứ nơi trên trận địa có ba lớp người chết, có cả lính Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam và lính Quân lực Việt Nam Cộng hòa - cố vấn của Quân đội Hoa Kỳ. Hai bên giao tranh với tinh thần không khoan nhượng. Không khí chiến trường trở nên ngột ngạt và căng thẳng.

Từ hạ tuần tháng 7 đến 15 tháng 9, Trung đoàn 88 sư đoàn 308 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam bảo vệ khu vực Tây nam Thành cổ, giữ vững trận địa từ khu vực trường Bồ Đề, khu Đệ Ngũ, ngã ba Bãi Đá, khu Cầu Sắt, khu Long Hưng đến La Vang và đồn Gia Long. Trung đoàn 88 đã đánh hơn 100 trận lớn nhỏ, trong đó có 50 trận cấp đại đội đến trung đoàn, tiêu diệt 1.670 binh lính đối phương, bắn cháy 16 xe tăng, thu nhiều vũ khí đạn dược.

Trung tuần tháng 8 năm 1972, Bộ Tư lệnh B5 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam quyết định giao nhiệm vụ cho sư đoàn 325 chỉ huy lực lượng phòng thủ Thành cổ Quảng Trị. Ngày 23 tháng 8, chỉ với vài chục tay súng, lực lượng Quân Giải phóng ở phía cổng Tây của Thành cổ đã đẩy lùi một Đại đội Thủy quân lục chiến của VNCH. Trong trận đêm 24 tháng 8, một phân đội đặc công Sư đoàn 325 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã luồn sâu đánh sở chỉ huy tiểu đoàn thủy quân lục chiến ở An Lưu, diệt 80 lính đối phương, bắn cháy 2 xe tăng, 2 nhà bạt, phá 1 trận địa súng cối. 

                           17/07/1972: Giao tranh ác liệt tại Thành cổ Quảng Trị

                                  17/07/1972: Giao tranh ác liệt tại Thành cổ Quảng Trị

Lúc này, Sở chỉ huy cơ bản của sư đoàn đóng ở khu vực Cao Hy - Tây Đông Hà độ 15 km trên một bãi bom B-52 đã đánh nát. Sư đoàn chọn địa điểm này là để tạo bất ngờ đối với VNCH, cho là bộ đội không thể đóng một cơ quan chỉ huy cỡ sư đoàn tại một vùng Hoa Kỳ đã ném bom tơi bời. Sở chỉ huy Thành cổ (Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam) ở ngay sát mép sông, dưới một căn hầm rượu của dinh tỉnh trưởng Quảng Trị đã bị bom đạn làm đổ nát, gạch đá gỗ sắt đổ ngổn ngang bao phủ cả khu hầm dày tới 4-5 mét, bom ném bên cạnh cũng chẳng hề gì.

Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã cải tạo khu hầm, chia thành ba ngăn có giao thông hào chạy ra bên ngoài. Một ngăn làm khu phẫu thuật, một ngăn cho thông tin trinh sát và một ngăn cho chỉ huy và trực ban tác chiến. Cửa hầm được thiết bị chiến đấu chu đáo, có trung liên và B-41 bảo vệ. Không lực Hoa Kỳ hàng ngày soi tìm, nhưng do Quân Giải phóng ngụy trang kín đáo, kỷ luật, khói lửa và đi lại ban ngày được duy trì nghiêm mật, nên Hoa Kỳ vẫn không phát hiện được mục tiêu sở chỉ huy, dù thường xuyên cho máy bay trinh sát tìm kiếm.

Hầm dinh Tỉnh trưởng cũng là nơi Quân Giải phóng tập trung thương binh trước khi vận chuyển khỏi chiến trường. Tại bến Vượt, nơi chuyển quân giữa hai bờ Thạch Hãn cũng là nơi hứng chịu nhiều trận pháo kích nhất. Nhiều thương binh của Quân Giải phóng đã bị thiệt mạng bởi bom và pháo kích khi đang được vận chuyển khỏi chiến trường. Khúc sông ở bến Vượt chính là nguồn tiếp vận duy nhất của Quân Giải phóng trong Thành cổ khi chiếc cầu sắt đã bị đối phương phá hủy. Bom và đạn pháo có ngày đã gây thương vong cho một Đại đội Quân Giải phóng ở bến sông. Do hỏa lực bờ Bắc sông Thạch Hãn của Quân Giải phóng rất mạnh, khiến cho QLVNCH và Hoa Kỳ không thể tiếp cận bằng bộ binh mà phải sử dụng pháo hạng nặng và máy bay ném bom tầm xa để tấn công theo tọa độ. Thế trận thực sự nghiêng về Hoa Kỳ và VNCH khi họ kiểm soát được cả ba mặt của Thành cổ lẫn kiểm soát trên không, nhưng Quân Giải phóng vẫn giữ được Thành cổ trong suốt ba tháng.

Từ ngày 20 đến ngày 30 tháng 8 năm 1972, các chốt trong thị xã đều được Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam giữ vững. Đêm đêm, Quân Giải phóng tập kích ở Tri Bưu, ở Thạch Hãn, chùa Bà năm, diệt một số lính khiến quân đối phương không tiến được.

Quân Giải phóng được bổ sung vào Thành đều đặn theo kế hoạch. Mỗi đêm vào trung bình được 40-50 người (đã trừ số người đào ngũ, lạc ngũ hoặc bị thương từ bên kia bờ sông, chiếm khoảng 30-40%). Hàng ngày thuyền gắn máy hậu cần từ Tả Kiên bí mật bơi vào thành, tiếp tế lương thực, đạn dược, thuốc men, kể cả quà Quốc khánh từ hậu phương tới. Dù vậy, do áp lực liên tục từ đối phương, giao thông hào chiến đấu bị bom đạn bắn phá liên tục, nên hệ thống phòng thủ ngày càng lỏng dần. Tân binh được tăng cường cho các đơn vị phòng thủ chỉ đủ để bù đắp số thương vong trong chiến đấu.

Vào cuối tháng 8, hỏa lực của QLVNCH lại được Hoa Kỳ tăng cường thêm. Hai bên giành nhau từng mét đất. Lúc này, QLVNCH bắt đầu suy kiệt khi liên tục bị Quân Giải phóng tập kích đêm. Tới trung tuần tháng 9, cả hai bên đều gồng mình khiến cuộc giao tranh cực kỳ khốc liệt.

Đợt từ ngày 4 đến ngày 6 tháng 9 năm 1972, trời mưa to, nước sông Thạch Hãn lên nhanh, chảy xiết, ảnh hưởng đến tăng cường cung cấp và quân số. Có đêm trôi dạt hàng chục chiến sĩ vượt sông. Công sự chốt bị sụt lở nhiều. Bộ đội tiếp tục giữ các chốt trên các hướng. Tiểu đoàn 4 E95 tập kích khu tam giác Thạch Hãn, chiếm một số công sự của đối phương, cải thiện thế phòng thủ ở đó. Tiểu đoàn đặc công mặt trận phối hợp với đại đội đặc công sư đoàn 325 chuẩn bị đánh khu quận lỵ Mai Lĩnh nhưng thất bại.

Ngày 4 tháng 9 năm 1972, E88 F308 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam rút khỏi khu Thạch Hãn tây và khu giáp sông ở thôn Đệ Ngũ-trường Bồ Đề làm sườn phía nam bị hở. Một số thành viên trung đoàn 88 trong đó có trung đoàn phó Phan bị thương tạt vào sở chỉ huy Thành cổ. Bộ chỉ huy quyết định tổ chức đưa số này vượt sông lũ ra hậu phương. Để đối phó với tình hình quan trọng này, họ sử dụng một bộ phận tiểu đoàn 7, trung đoàn 18 và tiểu đoàn 4, trung đoàn 95 ra chiến đấu thay thế trung đoàn 88 ở khu vực đó để giữ sườn phía nam thị xã. 

                                            

                              Thành cổ Quảng trị - Bản tráng ca hào hùng 81 ngày đêm

Ngày 7 tháng 9 năm 1972, Quân lực Việt Nam Cộng hòa tiến công đợt 6, mở đầu bằng đòn tập kích hỏa lực "Phong lôi 2". Không quân, hải quân Hoa Kỳ, pháo binh Việt Nam Cộng hòa bắn suốt 48 giờ liền vào tất cả các trận địa của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, tập trung đánh vào khu Thành cổ, các bến vượt sông, đường cơ động lực lượng và vận chuyển. Oanh tạc cơ B-52 của Mỹ rải thảm tả ngạn sông Thạch Hãn, tập trung vào khu Nhan Biều-Ai Tử và các trận địa pháo của đối phương. Tính toàn bộ trong 81 ngày đêm của trận Thành cổ, các lực lượng Mỹ và Việt Nam Cộng hòa đã dội xuống địa điểm thị xã (rộng chưa đầy 3 km²) và vùng lân cận tổng cộng 120.000 tấn bom, trong đó mỗi ngày có từ 70 đến 90 lượt máy bay ném bom B52 tham chiến. "Đây là kế hoạch chi viện hỏa lực cao nhất của Mỹ trong một trận đánh. Tính từ ngày 9 tháng 9 đến ngày 16 tháng 9, Mỹ sử dụng pháo hạm bắn 123.725 viên đại bác vào thị xã (trong đó có 52.573 viên vào Thành cổ); sử dụng 2.244 lần chiếc máy bay ném bom, trong đó có ngày huy động tới 100 lần chiếc máy bay ném bom chiến lược B-52.".

       Đêm 7 tháng 9, tiểu đoàn K2 E48 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tập kích khu Hành Hoa, chiếm một số công sự, cải thiện thế phòng thủ ở Tri Bưu. Tiểu đoàn 5 trung đoàn 95 tập kích khu nhà thờ Tin Lành, thương vong một số (tiểu đoàn trưởng đơn vị này cũng chết) nhưng đã chiếm được.

Sáng ngày 9 tháng 9 năm 1972, lữ đoàn 147 và 259 Thủy quân Lục chiến (TQLC) của Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã khởi động cuộc tấn công lớn. Quân VNCH sử dụng gồm hai lữ đoàn TQLC với năm mũi, tiến công từ ba hướng vào thị xã. Họ tập trung xe tăng, xe thiết giáp, súng phun lửa để tái chiếm thành cổ. Đồng thời với việc Quân lực Việt Nam Cộng hòa tiến công khu La Vang-Tích Tường-Như Lệ để chặn sư đoàn 308 phản kích từ hướng này, liên đoàn biệt động 1 VNCH cũng tiến công Bích Khê-Nại Cửu để chặn sư đoàn 320 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam hoạt động từ bắc sông Vĩnh Định.

Tiểu đoàn địa phương đang K8 củng cố đội hình và ém quân bên ngoài. Nhiều trận phản kích ác liệt của bộ đội ở ngay sát chân Thành cổ đã đánh bật nhiều mũi tiến công. 9 tháng 9, một trung đội VNCH lọt vào thành cổ, bị K3 Tam Đảo phản kích dữ dội phải tháo chạy, để lại 11 xác chết. Cũng ngày hôm đó tại khu Hạnh Hoa, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam diệt một đại đội, đánh thiệt hại nặng một đại đội khác thuộc lữ đoàn thủy quân lục chiến 147, bắn cháy 5 xe bọc thép. Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam mất 13 người, bị thương một số. Sau trận này, K3 được tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Nhất.

Tiểu đoàn 4 E95 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam chặn đánh 3 tiểu đoàn đối phương ở khu Tin Lành, quyết liệt giành đi giật lại từng công sự. Quân lực Việt Nam Cộng hòa thiệt hại một đại đội, nhưng chiếm được khu Mỹ Tây. Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam bị thương vong 30 người, hỏng một cối 82 ly, một súng 12 ly 7, một đại liên, một B-40, một B-41. Đến đêm 9 tháng 9, tiểu đoàn 4 cùng tiểu đoàn 5 E95 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tập kích chiếm lại khu Mỹ Tây, đẩy Quân lực Việt Nam Cộng hòa chạy về nam sông con. Đêm 9 tháng 9, sau khi được củng cố, K8 vào thành.

Ngày 10, 11, 12 tháng 9 năm 1972, Quân lực Việt Nam Cộng hoà tiếp tục lấn dũi mạnh từ hướng nam-đông-nam. Nhiều toán quân nhảy vào thành nhưng đều bị quân Giải phóng tiêu diệt. Quanh Thành cổ, dưới hào nước, xác chết nằm rải rác. Lúc này, Quân lực Việt Nam Cộng hoà bổ sung cho chiến trường thêm 2 sư đoàn từ Huế để tổ chức tấn công trực diện Thành cổ.

Ngày 10 tháng 9, Quân lực Việt Nam Cộng hoà lấn dũi có xe tăng chi viện khu Mỹ Tây, Trường Nữ, Trại giam. Tiểu đoàn 4 E95 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đánh trả ác liệt, giữ vững chốt bắn hỏng một xe tăng, hai đại liên, thu một M79 và nhiều lựu đạn, nhưng cũng bị chết 6, bị thương 49. Đêm 10 tháng 9, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam cho tiểu đoàn 4 ra ngoài củng cố, dùng tiểu đoàn 5 E95 thay thế, chiến đấu ở tây-nam Thành cổ. 

                         Thành Cổ Quảng Trị: Chứng nhân lịch sử hào hùng

                                  Thành Cổ Quảng Trị: Chứng nhân lịch sử hào hùng

Tính chung trong ngày 10-9, cả ở hướng Nam-Đông Nam, Bắc-Đông Bắc, trên toàn khu vực Thị xã, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam diệt hơn 200 binh lính đối phương, bắn cháy 1 xe tăng, nhưng cũng bị thương vong 126 người và để mất khu trại giam và Mỹ Tây. Trong 2 ngày 11 và 12, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam diệt hơn 518 binh lính đối phương, nhưng cũng bị thương vong 216 người. Đêm 12, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tăng cường vào thành tiểu đoàn 3 E48 (201 người) và 70 tân binh.

Ngày ngày 13 tháng 9 năm 1972, trời mưa to, lũ lớn, hạn chế nhiều đến việc tăng cường lực lượng (quân số, vật chất kỹ thuật cho Thị xã). Quân lực Việt Nam Cộng hoà sau 4 ngày liên tục tiến công lấn dũi, vẫn chưa chiếm được Thành, nhưng 6 tiểu đoàn thuộc 2 lữ đoàn Thủy quân lục chiến đã áp sát ba góc Thành cổ: Nam, Đông Nam, Đông Bắc. Tiểu đoàn 5 E95 và Tiểu đoàn 7 E18 chiến đấu quyết liệt, giằng co với đối phương từng khu vực, góc tường, mảnh vườn. Kết quả trong ngày, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam diệt 123 lính, bắn cháy 1 xe tăng, bị thương vong 34 chiến sĩ.

Rạng sáng ngày 13 tháng 9/1972, đại đội 5 tiểu đoàn 2 QLVNCH từ ngã tư Quang Trung-Trần Hưng Đạo mở cuộc tấn công vào khu vực chợ Quảng Trị. Trận chiến đã diễn ra quanh khu vực chợ, dọc theo đường Trần Hưng Đạo ra đến bờ sông. Hai bên đã quần thảo nhau quanh các đống bê tông đổ nát mà Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã biến thành các điểm kháng cự. Cuối cùng tiểu đoàn TQLC này đã chiếm được mục tiêu, sau đó khai triển đội hình tiến chiếm khu hành chánh gồm Ty Bưu điện, Ty Thanh Niên, Ty Ngân khố và tiến sát đến dinh tỉnh trưởng - nơi 1 đại đội của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đang bố trí quân quanh khuôn viên để cố thủ.

Một mũi nhọn khác của tiểu đoàn 2 Quân lực Việt Nam Cộng hoà với đại đội 4 làm nỗ lực chính thanh toán các chốt phòng ngự dọc hai bên đường Phan Đình Phùng, sau đó tiến đánh và triệt hạ các chốt bố trí tại cơ quan USOM và Tòa án tỉnh Quảng Trị. Thanh toán được các mục tiêu trọng yếu, đại đội 4 và đại đội 5 của tiểu đoàn 2 QLVNCH đã tấn công vào khu vực tòa Hành chánh tỉnh và Ty Tiểu học vụ Quảng Trị nơi 1 trung đoàn Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đặt bộ chỉ huy. Do các chốt bảo vệ xung quanh đã bị TQLC triệt hạ, nên bộ chỉ huy Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tại đây đã phải dời ra hướng sông.

23 giờ ngày 13 tháng 9, Bộ Tư lệnh B5 (Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam) lệnh cho trung đoàn phó trung đoàn 48, và tiếp sau đó vài giờ, vào 1 giờ sáng 14 tháng 9 lệnh cho Đại tá Nguyễn Việt chỉ huy trưởng Thành ra ngay Nhan Biều để cùng sư phó sư đoàn 325 tổ chức lực lượng còn lại của trung đoàn bộ binh 18 vào phản kích trong thành. Tiểu đoàn 7 E18 đã vào thành chiến đấu.

Ngày 14 tháng 9 năm 1972, từ hướng đông-nam, QLVNCH tiến sát khu chùa Bà Năm, khu trại giam, chợ. Từ hướng nam, họ vào khu Mỹ Tây, Trường Nữ. Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam chống trả quyết liệt, vẫn giữ vững các chốt, nhưng bị thương vong nhiều. Mặt trận B5 điều một đại đội xe tăng đến Nhan Biều để làm công sự cố định bắn chi viện sang Thành nhưng sau đó do khó khăn địa hình nên chưa bố trí được ngay.

4 ngày dùng bộ binh liên tục từ ba hướng tấn công vào, nhưng QLVNCH vẫn không chiếm được thành, họ quay ra củng cố công sự và bao vây thành từ ba phía, đồng thời điều cả xe tăng phun lửa liên tục tấn công vào các chốt của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam. Chốt chiến đấu của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam có điểm chỉ cách địch 50 m. Ngày ngày 14 tháng 9 năm 1972, sau khi dùng xe tăng phun lửa dữ dội vào các chốt phòng thủ, quân VNCH tấn công vào thành. Tiểu đoàn phòng thủ lúc này chỉ còn gần 20 tay súng, quyết tâm thực hiện lời thề danh dự: "K3-Tam Đảo còn, Thành cổ Quảng Trị còn", với B-40, B-41, lựu đạn, nổ súng đánh trả quyết liệt vào đội hình của TQLC và khiến họ phải rút chạy. 2 giờ chiều, một toán khác vào thành từ góc đông nam liền bị các tay súng của đại đội 9 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đánh bật ra. Đến 18 giờ, lợi dụng lúc trời chạng vạng tối, từ ba góc, TQLC lại tiếp tục mở đợt tấn công dữ dội vào thành. Được sự chi viện của K8 và các tay súng của E48 Sư đoàn 320, tiểu đoàn đã ngoan cường chiến đấu, đánh bật quân VNCH ra khỏi thành.

Sau khi đánh bật đối phương tại khu vực bệnh viện Quân Dân Y Quảng Trị và trường Bồ Đề, Tiểu đoàn 1 Quái Điểu QLVNCH khai triển lực lượng tiến về phía vào khu trung tâm thị xã Quảng Trị. Để tiến vào khu vực này, tiểu đoàn Trâu Điên Quân lực Việt Nam Cộng hoà phải triệt hạ cụm kháng cự của đối phương ở Ty Cảnh Sát Quốc gia. Tiểu đoàn 1 Quái Điểu đã phải vượt qua con suối với cây cầu bắc ngang đường Trần Hưng Đạo. Binh sĩ VNCH dùng mìn Claymore cột vào những cây tre dài vượt qua suối lúc nửa đêm và bấm nút đã làm bật tung những ổ thượng liên và DKZ của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đặt trong những lô cốt phòng thủ. Tiếp theo đó là những đợt xung phong ồ ạt của TQLC, từng trung đội tràn lên ném lựu đạn vào các cụm công sự chiến đấu của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam và chỉ trong thời gian ngắn đã chọc thủng phòng tuyến của đối phương tại đây. Chiếm được khu vực Ty Cảnh Sát Quốc gia, tiểu đoàn Quái Điểu tiến chiếm các vị trí ở quanh Nhà máy điện, trường Nữ Tiểu học, doanh trại Cảnh sát Dã chiến.

4 giờ sáng ngày 15 tháng 9, Lữ đoàn thủy quân lục chiến 258 và 147 tập trung lực lượng tổng công kích từ ba hướng, được chi viện tối đa hỏa lực của không quân, pháo binh, xe tăng, súng phun lửa các loại. Ở hướng Đông của thành cổ, 4 đại đội của tiểu đoàn 3 và tiểu đoàn 6 TQLC đã dàn hàng ngang đồng loạt xung phong tiến về hướng Tây, tập kích sở chỉ huy K1 E48 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam và chiếm một góc khu đông bắc Thành cổ. Các chốt của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam còn lại tiếp tục chiến đấu trong ngày, mặc dù sức chiến đấu đã giảm, quân số bị thương vong nhiều. Lực lượng K8, tiểu đoàn 3 E48 mới vào cũng đã bị tổn thất nặng. Lực lượng trung đoàn bộ binh 18 vẫn chưa đến được nơi quy định để vượt sông vào Thành cổ. 

                          

                                        Người đưa tin duy nhất trận thành cổ Quảng Trị 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

  

Người đưa tin duy nhất trận thành cổ Quảng Trị

Đã 40 năm trôi qua nhưng cựu phóng viên chiến trường Đoàn Công Tính (báo Quân đội Nhân dân) vẫn vẹn nguyên cảm xúc khi nhớ lại ngày tháng khốc liệt mà hào hùng của trận thành cổ Quảng Trị 81 ngày đêm năm 1972. Ông là phóng viên chiến trường duy nhất lọt vào bên trong trận chiến và ghi lại những hình ảnh lịch sử đắt giá. 

 

Trong đêm 15 tháng 9 năm 1972, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã pháo kích dữ dội vào đội hình của hai tiểu đoàn 3 và 6 TQLC để yểm trợ cho lực lượng đang cố thủ ở đây chuẩn bị rút lui. Gần rạng sáng, các đơn vị TQLC đồng loạt xung phong, những tổ kháng cự của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã chống trả mạnh nhằm giữ chân QLVCH cho đồng đội rút lui.

Cũng trong đêm 15 tháng 9 các chỉ huy của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam trong thành nắm lại tình hình, thấy QLVNCH đã chiếm một số góc thành cổ, việc giữ Thành cổ đã đạt được mục đích trên bàn đàm phán nên thống nhất ra lệnh rút khỏi thị xã và thành cổ từ 22 giờ ngày 15 tháng 9.

Tới ngày 15 tháng 9, sau khi diễn biến ở Hội nghị Paris có lợi cho Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam khi trong ngày 11 tháng 9, Cố vấn Kissinger chấp nhận phương án ngừng bắn, rút quân Mỹ và chính quyền Thiệu vẫn sẽ ở lại cho tới khi tổ chức Tổng tuyển cử ở miền Nam Quân Giải phóng bắt đầu tiến hành rút quân.

Thứ tự rút: ưu tiên thương binh đi trước, tiếp đến các lực lượng tiểu đoàn ở xe, rồi đến các đơn vị trực thuộc, cuối cùng là sở chỉ huy Thành. K2 E48, K8, vệ binh - trinh sát bảo vệ đội hình rút. Ban chỉ huy Trung đoàn hỗn hợp cùng đội vệ binh rút cuối cùng vào nửa đêm 15 rạng ngày 16. Trung đoàn 18 Sư đoàn 325 được lệnh dừng lại, không vượt sông sang phản kích nữa, mà nhanh chóng triển khai lực lượng phòng thủ tả ngạn sông Thạch Hãn, khu vực Nhan Biều - Ái Tử.

       Sau 4 tháng 16 ngày (81 ngày đêm) cố thủ tại Cổ Thành và thị xã Quảng Trị, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam rút lui khỏi Thành cổ. Riêng trung đoàn Triệu Hải (trung đoàn 27 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam - trung đoàn trưởng sau này là thượng tướng Nguyễn Huy Hiệu) với 1.500 quân đưa vào thành cố thủ là đơn vị tổn thất nặng nhất. Các chốt chiến đấu vòng ngoài đều bị phá hủy, trung đoàn 48B thuộc sư đoàn 390 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam - đơn vị chiếm giữ trung tâm thị xã, cũng đã bị thiệt hại hơn 80% quân số. Trong một hồi ký phổ biến vào năm 1997, trung tướng Lê Tự Đồng, nguyên tư lệnh lực lượng Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tại mặt trận tỉnh Quảng Trị, ghi nhận là các sư đoàn và trung đoàn tham chiến đã bị tổn thất quá nửa quân số.

Sau khi Quân Giải phóng rút quân, phái đoàn Mỹ lại lật lại vấn đề rút quân Mỹ khỏi Việt Nam nhưng với vốn liếng đàm phán là nửa Bắc tỉnh Quảng Trị, các vùng kiểm soát mới giành được trước đó ở Tây Nguyên và Đông Nam Bộ đều là các địa bàn chiến lược và việc Quân Giải phóng vẫn sẵn sàng giao chiến tiếp khiến tới ngày 08 tháng 10, phái đoàn Hoa Kỳ phải chấp nhận giải pháp 10 điểm của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Theo đó, Hoa Kỳ sẽ được ra khỏi chiến tranh trong danh dự, lính Mỹ phải rút khỏi Việt Nam, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẽ giúp Hoa Kỳ trong vấn đề tù binh Mỹ do Pathet Lào giam giữ.

Kết thúc trận đánh, về phía Quân lực Việt Nam Cộng hoà, tuy chiếm được thành cổ nhưng cũng phải trả giá đắt. Kế hoạch chiếm thị xã trước ngày 13/7 để mặc cả tại Hội nghị Paris không thực hiện được mà còn phải mất gấp 5 lần thời gian định trước. Để chiếm lại thành cổ, chỉ riêng sư đoàn Thủy quân Lục chiến trong 7 tuần cuối trận đánh có 3.658 binh sĩ thương vong, chiếm 25% tổng quân số (tổng thương vong là hơn 5.200 chiếm 35% quân số), các đơn vị Dù cũng chịu thiệt hại nặng tương đương. Tổng quân số tử trận của các đơn vị lên tới 7.756 người, hàng ngàn lính khác bị thương.  Phía Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tử trận khoảng 4.000 người Cả hai bên đều bị tổn thất lớn sau trận đánh này. 

Thiệt hại lớn của các đơn vị tinh nhuệ này khiến Quân lực Việt Nam Cộng hoà cũng không còn đủ sức tấn công tiếp lên phía bắc, các chiến dịch Lam Sơn 72A và các cuộc hành quân "Sóng thần" để tái chiếm bờ bắc Thạch Hãn nhanh chóng bị Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đánh bại. Hai bên quay về giữ thế giằng co cho đến khi hiệp định Paris được ký kết vào ngày 31 tháng 1 năm 1973.

Tướng Lê Phi Long của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam năm 2008 có nói: "Chiến dịch Quảng Trị kéo dài, thương vong rất lớn, có thể nói là lớn nhất so với tất cả các chiến dịch trong hai cuộc kháng chiến. Mỗi lần nghĩ lại tôi rất đau lòng. Mãi đến bây giờ (2008), tôi và nhiều đồng nghiệp vẫn chưa hiểu vì sao ta phải cố thủ thành cổ với một giá đắt như vậy? Có cán bộ cấp trên giải thích rằng do yêu cầu của đấu tranh ngoại giao, cần giữ vững thành cổ để phối hợp với cuộc đàm phán tại hội nghị Paris...".

Ghi lại cuộc chiến đấu của sư đoàn Thủy quân Lục chiến tại mặt trận trung tâm thị xã Quảng Trị và Cổ Thành từ khi thay thế lực lượng Nhảy Dù vào ngày 27 tháng 7 năm 1972, trung tá Trần Văn Hiển, nguyên trưởng phòng 3 bộ Tư lệnh Sư đoàn Thủy quân Lục chiến đã viết: "Trong suốt 7 tuần lễ chiến đấu dưới những làn mưa đạn pháo nặng nề của đối phương, tính trung bình cứ 4 lính Thủy quân Lục chiến có một người tử trận. Tính từ tháng 6 năm 1972 đến ngày chiếm được thành cổ, về quân số, Thủy quân Lục chiến bị tổn thất trên 5 ngàn, trong đó có 3.658 lính tử trận".

                            BÍ MẬT DƯỚI THÀNH CỔ QUẢNG TRỊ... Sau cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng  Trị với 81 ngày đêm oanh liệt, đầy bão lửa... đã có hàng vạn chiến sĩ 

                                          Những ngày cuối cùng ở Thành cổ Quảng Trị


Cũng theo cuốn Một thời hoa lửa của Nhà xuất bản Trẻ này thì:

Các lực lượng trực tiếp phòng thủ thị xã đã cùng một ý chí sắt đá là kiên quyết giữ vững Thành cổ bằng mọi giá nhằm phục vụ yêu cầu đấu tranh ngoại giao ở Hội nghị Paris. Rất nhiều gương chiến đấu, phục vụ chiến đấu vô cùng anh dũng của cán bộ chiến sĩ, của các đoàn dân công hỏa tuyến, của nhân dân trong khu vực.

Trong hơn 80 ngày đêm chiến đấu, chúng ta đã biết phát huy sức mạnh tổng hợp của nhiều lực lượng bộ đội và nhân dân, tạo nên sức chiến đấu kiên cường, dẻo dai. Bên cạnh lực lượng bám trụ thị xã, phải tính đến sức mạnh của các sư đoàn chủ lực 308, 304, 320 đứng bên sườn địch từ hướng đường 1 và hướng ven biển, mở nhiều đợt tiến công vào sườn đội hình tiến công của địch; gây cho địch nhiều thiệt hại, làm chậm bước tiến của chúng, buộc chúng phải đối phó bị động.

Ngoài ra phải nói đến nhiều đoàn tân binh từ nhiều tỉnh miền Bắc đã lần lượt vào thị xã để bổ sung kịp thời cho các đơn vị chiến đấu. Nhiều lực lượng dân quân du kích và nhân dân địa phương đã đấu tranh kiên cường bằng nhiều hình thức phong phú đa dạng ở vùng địch hậu Triệu Phong, Hải Lăng. Nhiều lực lượng dân công hỏa tuyến tại khu vực Tả Kiên, Ba Gơ, Đại Ang, Tân Vinh đã tận tình phục vụ cho Quảng Trị chiến đấu.

Báo Quân đội Nhân dân số ra ngày ngày 9 tháng 8 năm 1972 viết: "Mỗi mét vuông đất tại Thành cổ Quảng Trị là một mét máu và sự hy sinh của các anh đã trở thành bất tử. Trong 81 ngày đêm, từ ngày 28 tháng 6 đến ngày 16 tháng 9 năm 1972, Thành cổ Quảng Trị đã phải hứng chịu 328.000 tấn bom đạn. Trung bình mỗi chiến sĩ phải hứng lấy 100 quả bom, 200 quả đạn pháo. Mỗi ngày có 1 đại đội vượt dòng Thạch Hãn để tiếp viện quân số, nhưng đêm nay một đại đội tiến vào thì ngày mai chỉ còn lại vài người sống sót". Một tờ báo của Mỹ đã bình luận: "Kỷ luật, lý tưởng và tinh thần xem thường cái chết đã kết hợp với nhau như thế nào mà các chiến sĩ quân Giải phóng vẫn chiến đấu dưới mưa bom B-52? Không có một nhà phân tích nào ở Mỹ có thể giải thích đầy đủ."

       Theo lời cựu binh Đào Chí Thành thuộc Đại đội 14, Trung đoàn 95, Sư đoàn 325 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, các chiến sỹ Quân Giải phóng đã vào trận với một tinh thần rất hồn nhiên. Thậm chí, nhìn cảnh tượng chiến trường lúc đó, ông Thành còn tưởng mình đang tham gia một bộ phim. Theo lời cựu binh Trần Luân Tín, Đại đội thông tin số 18, Trung đoàn 95, Sư đoàn 325 Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, ông không thể ngờ rằng mình vừa bước ra khỏi trận chiến khốc liệt nhất trong toàn bộ cuộc chiến.
                       Chùm ảnh: Thành cổ Quảng Trị - mỗi tấc đất là một tấc máu xương - Redsvn.net

                           Thành cổ Quảng Trị – mỗi tấc đất là một tấc máu xương

Đã có nhiều bài thơ, bài hát nói về sự khốc liệt và mất mát của trận Thành cổ Quảng Trị, trong đó người ta thường nhắc tới bốn câu thơ trong bài Lời gọi bên sông của Lê Bá Dương, một cựu chiến binh Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam từng tham gia trận đánh này:

                               "Đò lên Thạch Hãn ơi chèo nhẹ.
                                       Đáy sông còn đó bạn tôi nằm.
                                       Có tuổi hai mươi thành sóng nước.
                                       Vỗ yên bờ mãi mãi ngàn năm".

Ngoaì ra khi chuẩn bị vào sâu trong mặt trận phía Nam ở Bắc Quảng Trị, Lê Bá Dương cũng có 2 câu thơ rất hay, được xem như là tuyên ngôn hay nhất bằng thơ của quân giải phóng Bắc Quảng trị:

                            "Một khẩu súng giữ hai trời Nam Bắc,
                                      Một dấu chân in màu đất hai miền".

14+ Câu chuyện về những con tàu không số: 

Từ 1961-1975, Đoàn 125 - Bộ đội "Đường Hồ Chí Minh trên biển" đã huy động 1.879 lượt tàu thuyền, đi gần 4 triệu hải lý trên biển, vận chuyển 152.876 tấn vũ khí, trang bị kỹ thuật, thuốc chữa bệnh và 80.026 lượt cán bộ chiến sỹ từ Bắc vào Nam. Các chiến sỹ đoàn tàu “Không số" hơn 30 lần trực tiếp chiến đấu với tàu địch, đánh trả hơn 1.200 lượt máy bay tập kích.

Trong các lần chạm trán với Mỹ, ngụy, 19 tàu “Không số” và 700 tấn hàng bị phá hủy. Tuy nhiên, hiệu quả vận chuyển trên tuyến "Đường Hồ Chí Minh trên biển" vẫn rất cao như giai đoạn 1961-1971 đạt hiệu suất tới 93%, vượt xa so với tuyến đường vận tải Trường Sơn.

                         Đại tướng Võ Nguyên Giáp: “Thủy thủ đặc biệt” của Đoàn tàu Không số  

               Đại tướng Võ Nguyên Giáp: “Thủy thủ đặc biệt” của Đoàn tàu Không số

                        

                      Kỳ tích của những con tàu không số huyền thoại trên biển Đông.


Hơn 90 liệt sỹ, những người con ưu tú của đoàn tàu “Không số” đã ngã xuống trên biển, trong đó duy nhất một người tìm được hài cốt. Đoàn 125 hai lần được phong danh hiệu đơn vị Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân, 8 cá nhân và 5 tàu được tuyên dương danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân.

Đánh giá về "Đường Hồ Chí Minh trên biển," cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt từng khẳng định: Năm tháng có thể qua đi, nhưng chiến công anh hùng và sự hy sinh cao cả của các lực lượng mở đường vận tải chiến lược mang tên Bác Hồ kính yêu trên Biển Đông, của những con tàu “Không số,” của quân và dân các bến bãi, làm nhiệm vụ chi viện cho cách mạng miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại, sẽ mãi mãi đi vào lịch sử đấu tranh anh dũng của dân tộc Việt Nam.
      a/ Chuyến tàu không số đầu tiên:

22 giờ 30 phút đêm 11-10-1962, tại Bến Đồ Sơn, thay mặt Chính phủ, Quân ủy Trung ương, đồng chí Phạm Hùng và các đồng chí trong Quân ủy đặt cả niềm tin trong ánh mắt tiễn đưa những chiến sĩ cảm tử đi chuyến tàu đầu tiên, Tàu Phương Đông I .

Bông Văn Dĩa giơ tay:

- Chúng tôi xin hứa: Hoàn thành nhiệm vụ hoặc hy sinh. Dũng cảm quyết tử với địch, bình tĩnh khi gặp khó khăn.

Lê Văn Một hứa:

- Quyết tâm và quyết tử trong công tác! Không để địch bắt, kịp thời thủ tiêu hàng cũng là hoàn thành nhiệm vụ, tích cực cùng anh em lái thuyền về đến miền Nam. Chúc Bác, Đảng mạnh.

Ông Bông Văn Dĩa, người đã được Bác Hồ khen “Đi biển kiểu ấy thì xưa nay chỉ có Cri-xtốp Cô-lông và chú!” được nghe lời Bác dặn: "Miền Nam đang rất cần các chú mang vũ khí vào để đánh giặc! Bác tin tưởng ở các chú!”. Nay chuyến tàu đầu tiên vận chuyển vũ khí vào Nam, Đoàn 759 đã cử hai người chỉ huy là Lê Văn Một - Thuyền trưởng và Bông Văn Dĩa - Chính trị viên.

Tàu vừa chạy qua đảo Bạch Long Vĩ thì tiếng máy bắt đầu ậm ạch rồi tắt ngấm luôn. Tàu thả trôi, liên lạc bằng điện đài đánh đi không nhận được tin trả lời. Mọi người trên tàu say sóng và mệt lử vì lo lắng. Bác Sao, thợ máy chính, người Trà Vinh và hai thợ máy phụ là Bé và Luông, luôn tay vật lộn với máy móc. Cái máy của Mỹ này đã cũ quá rồi.

Bác Sao kêu trời:

- Biết tính sao bây giờ? Không có phụ tùng để mở máy có chết không!

Thuyền trưởng Lê Văn Một lo lắng không rời mắt khỏi bác Sao:

- Lục hết thùng phụ tùng lên! Kiếm kỹ lại coi.

Bông Văn Dĩa mặt đanh lại vì căng thẳng, anh động viên:

- Máy đã cũ, lại không đủ phụ tùng! Nhưng tôi tin, anh không chịu thua nó!

Bác Sao, một thời đã là thợ máy giỏi của Nhà máy đóng tàu Ba Son. Bác lật tung từng cái mỏ lết, lấy giẻ đệm khóa cho vừa và dùng búa gõ mãi. May mà tháo được một cái bù-loong, bác luồn cả cánh tay vào trong máy.

Kỹ thuật đóng tàu gỗ này chỉ phù hợp với đi trong vịnh hay gần bờ thôi, còn ra ngoài khơi thì sẽ gặp khó khăn. Tàu và máy lại không đồng bộ, máy có mã lực quá lớn so với trọng lượng của tàu nên có lúc máy rung mạnh, con tàu như muốn vỡ vụn ra. Máy bơm cũng hỏng theo, nước đã tràn vào tàu khá nhiều, mọi người phải dùng cả chén, tô tát nước.

                           Năm 1970, Đoàn 125 đã tổ chức 15 chuyến đi, song chỉ có 5 chuyến vào được bến, 9 chuyến gặp địch tuần tra, kiểm soát gắt gao, để giữ bí mật của con đường chiến lược, đành phải quay về, một chuyến buộc phải phá tàu. Du kích miền Đông Nam Bộ tiếp nhận và vận chuyển vũ khí do tàu không số chi viện. Nguồn: Thông tấn xã Việt Nam

Năm 1970, Đoàn 125 đã tổ chức 15 chuyến đi, song chỉ có 5 chuyến vào được bến, 9 chuyến gặp địch tuần tra, kiểm soát gắt gao, để giữ bí mật của con đường chiến lược, đành phải quay về, một chuyến buộc phải phá tàu. Du kích miền Đông Nam Bộ tiếp nhận và vận chuyển vũ khí do tàu không số chi viện. Nguồn: Thông tấn xã Việt Nam

 

Ngay hôm chạy thử trên biển Long Châu, tàu đã gặp rắc rối, mắc cạn ngay bãi đá ở Đồ Sơn. Hai đồng chí lên bờ, quýnh quánh báo cáo không rõ, nào tàu đụng đá, hư chạy không được, làm cho các đồng chí lãnh đạo trên đất liền lo lắng, cho ý kiến nếu máy hỏng phải cho đặt ngay máy khác vào để kịp chuyến công tác. May mà tàu chạy chậm, chỉ bị xước qua loa. Lại đến chuyện hư cái máy bơm nước vô máy cho nguội. Chưa khởi hành mà đã hư hỏng, không biết sẽ ra sao?

Hơn hai tiếng đồng hồ sau, nghe tiếng máy nổ giòn, mười hai người trên tàu mới thở phào, trút được gánh nặng.

Tàu chỉ chạy tốc độ tối đa sáu hải lý một giờ, trên tàu toàn anh em người địa phương ven biển Trung và Nam Bộ, cùng hỗ trợ thuyền trưởng.

Ngày thứ tư trên biển. Anh Thanh, người Bà Rịa, chỉ tay: 

- Hướng tây nam kia là hòn Bảy Xã rồi. Như vậy là đã đi rất đúng hướng.

Tàu chuyển hướng nam để bắt hòn Khô. Sau đó lại chuyển hướng tây nam đi giữa Côn Đảo và đất liền.

Bỗng có một tàu lạ sơn xanh chạy theo đúng vệt nước của tàu ta, chạy rất nhanh như tàu trận. Thuyền trưởng lấy ống nhòm ra, màu sơn này, tốc độ nhanh thế kia, nó đang bám đuổi theo ta, đích thực tàu địch. Lê Văn Một hạ lệnh:

- Tất cả chuẩn bị vũ khí sẵn sàng chiến đấu.

Mọi người răm rắp mang súng ngắn, lựu đạn bỏ vào túi dết quàng vào người, kéo trái bom đặt dưới thuyền. Đạn chống tăng đã nạp kíp vô hết, đại liên đặt vào vị trí, mỗi người lăm lăm thủ một tiểu liên. Người lái tàu cũng đặt một đại liên bên cạnh và vẫn cho thuyền chạy thật nhanh; nếu không thoát thì cho nổ ba trái bom còn lại, không để cho địch lấy thuyền ta. Hai chỉ huy tàu còn dự tính phương án, nếu địch bắt được cả thuyền mà chưa kịp cho nổ thì lợi dụng trời tối, cắt dây cho anh em lội xuống nước, còn hai người ở lại dùng bom thủ tiêu thuyền.

Lê Văn Một nói với Bông Văn Dĩa:

- Mình tôi làm việc đó được, anh cùng anh em xuống nước, may ra còn sống sót trở về báo cho Trung ương.

Khi tới gần, nó chạy qua mặt mới biết là tàu của Na Uy chạy về Xin-ga-po.

Đã từng mặc quân phục thủy quân Pháp với tên Pháp Abel René, làm hoa tiêu trên tuần dương hạm lớn nhất Đông Dương (Pilote) của Pháp, Lê Văn Một trở về theo cách mạng, đã từng cùng với Bông Văn Dĩa vận chuyển vũ khí từ Thái Lan về Nam Bộ trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Nay hai con người này đang lĩnh một trách nhiệm lớn lao, có nhiệm vụ mở luồng cho con đường vận chuyển vũ khí vào Nam, bước vào một giai đoạn gian lao với những thử thách mới.

Một phen hú vía cho cả tàu. Anh Thanh vội lấy tấm hình nhỏ của Bác Hồ đã giấu thật kỹ, phải mang ra nhai nuốt chửng, nhìn theo chiếc tàu buôn kia, anh hậm hụi, tiếc nuối.

Trên khoang tàu kia, người ta đứng ngó sang, chắc lấy làm lạ, không hiểu bọn buôn lậu này gan tày trời, tàu cây nhỏ xíu mà dám ra khơi xa như vậy.

Chuyến tàu không số đầu tiên và Thuyền trưởng Lê Văn Một
Tác giả (bên phải) tặng sách cho chị Ba (vợ Anh hùng Bông Văn Dĩa). Ảnh: TĐ.

Đang giữa trưa, lại một sự cố nữa, cái máy vẫn không chịu buông tha cho anh em đã mệt nhoài vì lo lắng hồi hộp. 30 tấn hàng, những thùng vũ khí nặng, những bọc vải dầu cho những nòng súng đại và trọng liên, đã gần đến bờ biển Nam Bộ rồi mà máy còn hư nữa. Sâu quá không neo được, tàu thả trôi, gặp sóng lớn, anh em càng say sóng hơn. Ai còn tỉnh phải thay nhau tát nước. Anh em thử kéo buồm lên chạy, buồm đã nặng, lại bị mưa nên quá nặng. Khi buồm căng rồi lại bẻ lái không được vì bánh lái này chỉ chạy máy nhỏ, chạy buồm khó khăn. Còn lo một nỗi tàu thả trôi như vậy biết tới đâu, lỡ nó dạt vào ngay cạnh một căn cứ của địch thì chúng chẳng cần phải tốn công săn đuổi. Dù ta có thuốc nổ phá tàu thì ít ra chúng cũng tìm thấy tang vật về con đường vận chuyển vũ khí trên biển.

Sau hơn hai tiếng đồng hồ, máy nổ lại, tàu chỉ dám chạy chậm trên ngọn sóng lướt dài. Thuyền chở nặng, phía sau lái có thể với tay khoát nước được.

Đêm hôm đó sóng khá to, xa xa lại thấy có ánh đèn thấp thoáng. Nó chạy loanh quanh, đang bắt theo tàu ta. Để giữ bí mật, tàu né sang hướng đông và cho tắt hết đèn. Lần này thì đúng là tàu địch vì nó quần thảo một hồi, thấy mất mục tiêu nên quay vào hướng tây.

Vận chuyển vũ khí vào Nam trên biển, phải hứng chịu giông bão và địch. Phải đối phó làm sao để bảo vệ mình và con tàu đầy ắp vũ khí. Giữa mênh mông biển trời xanh biếc ấy, con thuyền thật bé nhỏ mỏng manh yếu ớt, nó đã phải chịu quá nhiều thử thách gian nan, giá đoạn cuối cuộc hành trình này được trời yên bể lặng thì tốt biết bao nhiêu. Nhưng xa xa phía chân trời đã xuất hiện vài khối mây đen. Lái thuyền nói:

- Điềm không lành rồi, nếu khối mây đen kia lớn dần và di chuyển về hướng tây, kết thành đường đen từ mặt nước lên trời, thì ắt có giông rồi!

Bông Văn Dĩa nói:

- Đúng rồi, phải cho quay mũi thuyền vào bờ để kịp xử trí, tình hình này không lâu nữa sẽ xảy ra sóng to gió lớn, thuyền ta nhỏ, chở nặng, rất nguy hiểm.

Với những kinh nghiệm đi biển, anh em bàn tính:

- Mây đen hơn rồi, ngọn mây uốn khúc kìa, sắp có giông rồi!

- Không vào bờ, chết thì chết ở ngoài khơi, không trao vũ khí này cho giặc.

- Chú Một! Nghe tôi đi! Vào bờ trú đã rồi ta tính tiếp.

- Vào bờ làm mồi cho giặc hả!

Út Một ngước mắt nhìn đám mây đen, nhìn khoang thuyền súng đạn đầy ắp, trách nhiệm lớn quá! Ba mươi tấn vũ khí! Không thể để chìm dưới cơn bão tố sắp đến. Anh Dĩa nói đúng, vào gần bờ còn có hy vọng!

Anh Dĩa vừa từ tốn vừa kiên quyết:

- Út Một, nghe đồng đội này đi.

Thuyền quẹo một cua gấp vào phía bờ. Không thấy gì báo hiệu của bốt địch, chỉ có tiếng mưa rơi ào ào, tiếng gió vù vù. Mưa, mưa mãi, phải tát nước liên tục vì nước mưa như muốn nhận con thuyền xuống biển. Mọi người đều mệt rã, đuối lả. Chỉ huy thuyền thì vẫn căng óc chưa biết việc gì sẽ xảy ra, họ chỉ chờ bớt gió mưa là lẻn ra khơi ngay.  

Đến ngày thứ năm, ông Dĩa thổ địa phát hiện ra hàng đáy, biết là đã đi qua Trà Vinh, chiều tối, đã thấy giáp nước nửa trong nửa đục trong bờ chảy ra mang theo cả bập dừa nước. Tối ấy, tàu đã nhìn thấy bờ còn gặp hoạn nạn nữa, một cơn giông to, mưa quật ào ạt, lắc tàu nhừ tử, thuyền và người xơ xác vẫn bám chặt lấy nhau điều khiển nhau vào bờ. Mãi qua nửa đêm mới êm sóng. Ông Dĩa dõi mắt nhìn vào bờ, bỗng nói to:

- Sông Bồ Đề đây rồi, đánh tín hiệu!

Đích tay ông đánh đèn tín hiệu, đánh đến cả tiếng đồng hồ mà bờ vẫn vô âm tín. Sao ngoài kia nói trong này đón tiếp ghê lắm, từ mấy chục cây số ngoài biển.

5 giờ sáng ngày 16-10-1962, nhìn thấy mấy ghe gần bờ, ông Dĩa căng lưới lên, đánh tín hiệu tiếp. Phía bên kia nhận tín hiệu, trả lời đúng. Họ đã đón mình! Sau đó mới biết, liên lạc xong nhưng chưa dám xáp gần, vì thấy tàu to quá họ khớp, tưởng đâu tàu chở hàng về cũng chỉ năm mười tấn thôi. Họ đã được lệnh đón ở đây, ngóng ra biển cả tháng nay rồi. Nỗi mừng này thật không sao tả siết.

Tàu Phương Đông I với 30 tấn vũ khí, chuyến tàu đầu tiên chuyển vào bến Vàm Lũng thành công. Chuyến tàu mở luồng do Thuyền trưởng Lê Văn Một và Chính trị viên Bông Văn Dĩa chỉ huy đã hành trình như thế đấy! 

                         Những người lính "đoàn tàu không số" - Tuổi Trẻ Online 

                                          Những người lính "đoàn tàu không số"

               

             Ông Lê Hà (đứng giữa, hàng sau) trước ngày vượt biển ra Bắc.

                                          Chân dung các thuyền trưởng đoàn tàu không số (Tiếp theo và hết)  

                                 Thuyền trưởng Nguyễn Chánh Tâm.

  b/ Tàu không số, mật danh C41 thuộc Đoàn vận tải biển 759, tiền thân của Lữ đoàn 125 Hải quân (với tên gọi “Đoàn tàu không số”) được Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng thành lập ngày 23/10/1961. Chấp hành Chỉ thị của Thường trực Quân ủy Trung ương về việc tổ chức vận chuyển vũ khí cho chiến trường Khu 5.

Đêm mùng 9 tháng 11 năm 1966, tàu C41 cùng 17 cán bộ, chiến sĩ có nhiệm vụ chở 59 tấn vũ khí rời bến K20 (huyện Thủy Nguyên, tỉnh Hải Phòng) đi vào Quảng Ngãi, điểm cập bến là bãi biển An Thổ thuộc thôn An Thổ, xã Phổ An, huyện Đức Phổ. Chỉ huy tàu C41 là Thuyền trưởng Hồ Đắc Thạnh và Chính trị viên Đặng Văn Thanh. 02 đồng chí Nguyễn Hồng Lỳ và Dương Văn Lộc làm thuyền phó; Máy trưởng Phan Nhạn; Thủy thủ  trưởng Trần Nhợ và 11 thủy thủ khác là các đồng chí: Nguyễn Văn Côn, Nguyễn Văn Tiến, Lê Kim Tự, Trần Mỹ Thành, Hoàng Gia Hiếu, Đồng Xuân Mái, Nguyễn Văn Sinh, Nguyễn Văn Nhỡ, Trương Văn Khanh, Đinh Văn Thông, Trần Văn Thang.

Trên đường đi, gặp thời tiết xấu, tàu phải quay lại căn cứ A2 (cảng Hậu Thủy, Trung Quốc) để bổ sung thực phẩm, sửa chữa máy. Đúng 3 giờ ngày 23 tháng 11, tuy gió mùa đông bắc đang thổi mạnh trên biển, tàu vẫn tiếp tục xuất phát. 23giờ ngày 27/11/1966, tàu vào đến điểm qui định mà Bộ Tổng tham mưu và Tỉnh đội Quảng Ngãi đã hiệp đồng bến đón theo tín hiệu bằng đèn pin giữa bến và tàu. Khi tàu tiếp cận độ sâu 15m, tàu dùng đèn pin phát tín hiệu vào bờ để tàu và bến nhận nhau nhưng không nhận được tín hiệu đáp lại của bến. Trước tình hình đó, Thuyền trưởng cho tàu chạy dọc theo bãi biển từ Phổ An đến cửa Mỹ Á, vừa chạy vừa phát tín hiệu.

Sau khi xác định đúng địa điểm bến, Thuyền trưởng quyết định cho tàu vào độ sâu 10m thả hàng, đồng thời cử 02 đồng chí mang phao và vũ khí bơi vào bờ bắt liên lạc với bến để chỉ địa điểm, cách đánh dấu cho bến ra vớt lấy lần. Thuyền phó Dương Văn Lộc và thủy thủ Trần Nhợ xung phong đảm nhận công việc này. 4 giờ sáng, thả được hai phần ba lượng hàng thì phía ngoài, có hai tàu tuần tiểu phát hiện tàu lạ vào bến, chúng khép kín đội hình với ý định bắt sống tàu ta. Trước tình hình đó, thuyền trưởng Hồ Đắc Thạnh cho ngừng công việc, đóng nắp hầm, chuẩn bị cơ động ra khỏi vị trí thả hàng. Tàu vào gần bờ, sóng cuốn chiếu càng lớn đạp thẳng vào tàu, sóng nâng tàu lên và đập mạnh xuống gặp gân cát làm cong chân vịt, không cơ động xa được. Trời đã gần sáng, tàu chiến Mỹ nháy đèn phát tín hiệu liên tục. Trước tình huống bất ngờ này, cấp ủy, chi bộ và cán bộ tàu quyết định phương án “cho thủy thủ bơi vào bờ rồi phá tàu” nhằm giữ bí mật vị trí thả hàng và không để tàu rơi vào tay giặc.

                         hq1.jpg -0                         

                               Di ảnh thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh. Ảnh: Tư liệu.

Mọi người được lệnh rút lên bờ, còn Thuyền trưởng Hồ Đắc Thạnh và máy trưởng Phan Nhạn ở lại châm ngòi nổ bộc phá, rút sau. Chờ đã quá thời gian mà không thấy bộc phá nổ, trời lại sắp sáng. Không thể chờ đợi thêm, tàu lộ sẽ gây tổn thất lớn, Thuyền phó Dương Văn Lộc và Thủy thủ trưởng Trần Nhợ cùng lao ra khỏi chỗ ẩn nấp để bơi trở lại tàu kiểm tra. Hai người vừa ra tới mép nước thì cũng là lúc bộc phá nổ làm rung chuyển mặt biển, phá tan con tàu C41. Sức công phá của 1.000 kg thuốc nổ làm cả 2 đồng chí Dương Văn Lộc, Trần Nhợ và 4 du kích xã Phổ An là Trần Chúc, Tô Ưng, Nguyễn Gần, Trần Ngọc Minh khi ra tiếp nhận vũ khí cùng hy sinh vào lúc 4 giờ 30 phút ngày 28 tháng 11 năm 1966. Những cán bộ, thủy thủ còn lại của tàu C41 có một số bị thương. Bốn ngày sau, theo lệnh cấp trên, các chiến sĩ tàu (C41) vĩnh biệt 2 người đồng đội – 2 người con của quê hương Khu 5 rồi nhờ anh em ở bến hướng dẫn đi theo đường Trường Sơn để trở ra miền Bắc.

Từ tháng 12/1966 đến tháng 2/1967, đội trục vớt đã trục vớt được 523 thùng đạn và 375 bó súng các loại. Các loại vũ khí này đã góp phần để quân dân Đức Phổ nói riêng và quân dân Quảng Ngãi nói chung đánh tan các cuộc hành quân “Đa Kao 8”; cuộc càn quét “Sóng mùa đông”, “Liên kết 82”, “Liên kết 110 – Hoad-Roan” của Mỹ - Ngụy; phá tan kế hoạch hai gọng kìm “tìm diệt và bình địch” của địch trong những năm 1966 – 1967.   

    c/ Sự kiện Vũng Rô: Diễn ra từ ngày 16 đến ngày 24 tháng 2 năm 1965 tại vịnh Vũng Rô (tỉnh Phú Yên), nói về việc phá hủy tàu C-143 (thuộc đoàn tàu Không số) của Lữ đoàn 125 Hải quân Nhân dân Việt Nam trong lúc bốc dỡ khí tài chi viện miền Nam thì bị máy bay tải thương của Quân đội Mỹ phát hiện.

Sự kiện này chấm dứt bí mật của đường mòn Hồ Chí Minh trên biển, đồng thời thúc đẩy phía Mỹ triển khai Chiến dịch Market Time ngăn chặn tiếp tế hậu cần và binh lực theo đường biển từ miền Bắc vào miền Nam Việt Nam.

Bằng các yếu tố thuận lợi, Lữ đoàn 125 Hải quân Nhân dân Việt Nam vận chuyển thành công 3 chuyến bằng tàu C-41 (có tải trọng 50 tấn) trong vòng hơn 2 tháng:

  • Chuyến đầu ngày 16 tháng 11, cập bến ngày 5 tháng 12 năm 1964, vận chuyển 43,920 tấn vũ khí.
  • Chuyến thứ hai ngày 21 tháng 12, cập bến ngày 31 tháng 12 năm 1964, vận chuyển 46,729 tấn vũ khí.
  • Chuyến thứ ba ngày 28 tháng 1, cập bến ngày 09 tháng 2 năm 1965, vận chuyển 45,951 tấn vũ khí.
        Lợi dụng giai đoạn xảy ra nhiều giao tranh với Quân lực Việt Nam Cộng hòa tại vùng Nam Trung Bộ, đồng thời là dịp xuân Ất Tỵ, Lữ đoàn 125 tiếp tục cho vận chuyển chuyến thứ tư ngày 02 tháng 2 năm 1965 bằng tàu C-143 với 63,114 tấn vũ khí rời cảng Bính Động vào bến Lộ Diêu (tỉnh Bình Định). Tàu có thuyền trưởng là Lê Văn Thêm, chính trị viên là Phan Văn Bảng cùng 18 thủy thủ đoàn. Tuy nhiên tàu thay đổi lộ trình, không đến Lộ Diêu mà cập bến Vũng Rô lúc 23 giờ ngày 15 tháng 2 và được lực lượng tiếp nhận (gồm các đại đội du kích Hòa Hiệp, K.60, K.64 và tiểu đoàn 83) bốc dỡ khí tài đến 03 giờ sáng hôm sau thì neo gặp sự cố bất ngờ khiến tàu không thể rời bến. Khi tờ mờ sáng, thuyền trưởng Lê Văn Thêm cho chặt cây lá để ngụy trang, đồng thời ép sát tàu C-143 vào chân núi tại bãi Chùa và ở lại trong ngày.
                                        
 Thủy thủ Tàu không số Nguyễn Văn Tuyên (người đứng) và đồng đội Hà Văn Bằn. Nguồn: XT.

Khoảng 10 giờ ngày 16 tháng 2 năm 1965 (tính theo giờ Việt Nam), trong lúc lái một chiếc máy bay tải thương UH-1B bay dọc đường số 1 ven biển từ Quy Nhơn về Nha Trang, Trung úy James S. Bowers của Quân đội Mỹ phát hiện "một mỏm đá lạ nhô ra trên vách núi phía tây Vũng Rô" mà những ngày trước chưa có. Ngay lập tức, trung úy James báo cáo những gì nhìn thấy cho Harvey P. Rodgers - Thiếu tá Hải quân Mỹ, Cố vấn cấp cao Bộ tư lệnh Vùng II chiến thuật đóng tại Nha Trang. Harvey báo lại cho Thiếu tá Hồ Văn Kỳ Thoại - Tư lệnh Quân chủng Hải quân khu vực Duyên hải Nam Trung Bộ của Việt Nam Cộng hòa. Một tiếng sau, ông Thoại điều một số máy bay trinh sát đến khu vực Vũng Rô chụp ảnh và xác minh nghi ngờ.

Đến 14 giờ cùng ngày, 2 máy bay A-1 Skyraider của Không lực Việt Nam Cộng hòa bắn phá bãi Môn bằng tên lửa Rocket (tài liệu Lữ đoàn 125 viết thả bom xăng), cây lá ngụy trang cháy rụi và tàu tàu C-143 bị lộ. Chi huy trưởng đội du kích K.60 - Hồ Thanh Bình lệnh cho hai khẩu DShK-38 ở bãi lau nhả đạn 12,7mm vào các máy bay. Thủy thủ tàu và bộ binh dưới bến bắn trả binh lính Việt Nam Cộng hòa trên đồn Đèo Cả tràn xuống, thuyền trưởng Lê Văn Thêm bị thương.

Thống nhất cuộc họp lúc 16 giờ, nhằm xóa bỏ dấu vết và không để tàu bị Quân đội Việt Nam Cộng hòa chiếm dụng, Nguyễn Long An và một thủy thủ khác được ban chỉ huy lệnh xuống tàu đánh bộc phá 500 ki-lô-gam thuốc nổ. Tuy nhiên, do không tiếp cận được khoang máy nên phương án thất bại, 2 người bơi lại vào bờ.

Đêm ngày 16 tháng 2 năm 1965, Không lực Việt Nam Cộng hòa thả pháo sáng khu Vũng Rô.

Ngày 17 tháng 2 năm 1965, tướng Nguyễn Phúc Vĩnh Lộc chỉ huy Trung đoàn 46 Việt Nam Cộng hòa tấn công bãi Bàng và bãi Chính của khu Vũng Rô. Tối cùng ngày, Ban chỉ huy bến Vũng Rô cử một tiểu đội Công binh xuống và dùng 01 tấn thuốc nổ để phá hủy tàu C-143. Tuy nhiên sau khi giật nổ, tàu không tan xác mà chỉ xẻ làm đôi.

Từ ngày 18 đến ngày 24 tháng 2 năm 1965, hai bên tham chiến tiếp tục giao tranh. Phía Việt Nam Cộng hòa triển khai kế hoạch đánh từ trên cao xuống nhằm siết chặt vòng vây. Đêm ngày 24, quân lực hai bên chênh lệch, phía Quân Giải phóng miền Nam dùng mìn hủy các hang đá chứa khí tài, đồng thời phá vòng vây rồi rút về dãy Trường Sơn, theo đường 559 trở lại miền Bắc.

Sự kiện Vũng Rô kết thúc cùng bí mật của đường mòn Hồ Chí Minh trên biển, 12 lính du kích thuộc đại đội K.60 của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tử vong. Tàu C-143 cùng khoảng 100 tấn khí tài được cất giấu trên tàu và ven vịnh bị phá hủy.

     Phía Quân đội Mỹ và Việt Nam Cộng hòa ước tính thiệt hại về chi phí hỏa lực rất lớn, trong đó có 2 xe bọc thép M-113 bị bắn cháy. Đồng thời có một trung đội trưởng và 100 binh lính tử vong.Chính quyền Sài Gòn và cố vấn Hải quân Mỹ, Đại úy Franklin W. Anderson lập tức tổ chức dò tìm vũ khí , khoảng 100 tấn khí tài chiến tranh xuất xứ Liên Xô và Trung Quốc được phát hiện, bao gồm 4.000 khẩu súng trường và súng máy, 1 triệu viên đạn cỡ nhỏ, 1.500 quả lựu đạn, 2.000 quả đạn súng cối và khoảng 245 ki-lô-gam thuốc nổ.

Tại tờ Naval Institute Press, Đại tá Mỹ R. Schrosbay nhận định: 

"Vụ Vũng Rô điều đã ngờ trong một thời gian dài nhưng chưa có bằng chứng. Số lượng chiến cụ lớn bị phát hiện chỉ ra rằng nhiều lô hàng lớn hơn đã được chở đến bằng tàu trước đó. Sự xuất hiện đồng thời loại vũ khí mới cỡ 7,62 mm của địch ở những khu vực ven biển khác nói lên một điều chắc chắn là địch còn sử dụng các vị trí khác nữa để nhận hàng chuyển bằng đường biển".

                                                Chân dung Chính trị viên của Đoàn tàu không số (Kỳ 2)

                                   Anh hùng Đặng Văn Thanh. Ảnh tư liệu.

                                                         Anh hùng Hồ Đắc Thạn

         c/ Hòn Sập là một hòn đảo san hô thuộc quần đảo Trường Sa, nằm tại tọa độ 8o56' vĩ Bắc, 113o38' kinh Đông, đảo này được Hải quân Việt Nam quản lý, cắm cờ từ năm 1988, sau đợt đảo Gạc Ma bị Trung Quốc xâm chiếm bằng vũ lực, gọi là Phan Vinh A. Sau đó  có một hòn đảo chìm gần đó do Hải quân ta xây dựng, cũng mang tên Phan Vinh, gọi là Phan Vinh B. Hòn đảo mang tên anh hùng Nguyễn Phan Vinh  thì nhiều người biết vì sách báo nói nhiều. Nhưng  chiến công hiển hách và sự sy sinh oanh liệt của thuyền trưởng tàu C235 Phan Vinh mà hòn đảo được mang tên thì có lẽ chưa được kể nhiều.

Nguyễn Phan Vinh sinh năm 1933, tại Điện Nam, Điện Bàn, Quảng Nam, từng được đi đào tạo chỉ huy tàu phóng lôi ởnước ngoài. Nguyễn Phan Vinh chuyên môn giỏi và bản lĩnh cao. Anh sống hết mình với bạn bè nhưng trong công việc thì rất nghiêm khắc. Phan Vinh là thuyền trưởng giỏi. Anh đã đi 11 chuyến tàu không số chở vũ khí vào Nam với cương vị thuyền phó, rồi thuyền trưởng. Được đơn vị tin tưởng giao trách nhiệm chở các vị lãnh đạo như ông Lê Đức Anh và các tướng lĩnh quân đội vào Nam công tác.

 Tháng 2 năm 1968, trong chiến dịch vận chuyển vũ khí vào Nam cho cuộc tổng tiến công Mậu Thân 1968, thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh cùng chính trị viên Nguyễn Tương chỉ huy với 20 cán bộ thủy thủ đi tàu 235 chở 16 tấn vũ khí vào bến Hòn Hèo, Khánh Hòa ngày 27.2.1968, chiến đấu kiên cường với giặc và hy sinh sau đó. Trước đó, 18 giờ 30 phút ngày 6.2.1968, tàu C235 đã xuất phát rời căn cứ A2 đi Hòn Hèo. Tàu C235 là tàu cao tốc, có 4 máy. Ngày 10.2, khi còn cách bờ 38 hải lý, tàu bị tàu chiến và máy bay địch bám theo không rời. Không thể đi tiếp được, sở chỉ huy ra lệnh cho tàu quay về .

Hòn Hèo là khu vực hiểm trở thuộc  hai xã Ninh Phước, Ninh Vân (huyện Ninh Hòa - nằm giữa Nha Trang và Vũng Rô ). Bến Hòn Hèo nằm ở khoảng giữa hai cụm núi trọc nhô ra biển, cô độc giữa đồng bằng. Đây là bến hết sức khó vào, luồng hẹp, nhiều đá ngầm, có núi cao bao bọc phía ngoài, không dễ cơ động. Một tài liệu của Pháp viết: “Tàu muốn ra vào Hòn Hèo, thuyền trưởng phải có tay nghề lão luyện trên dưới 20 năm”. Phan vinh chỉ có tay nghề hơn 10 năm, nhưng anh đã cho thuyền vào Hòn Hèo chính xác. Tàu vào Hòn Hẻo rất dễ lộ, nhưng cũng rất bất ngờ với địch, do vậy phải hành động hết sức táo bạo, nhanh chóng và chính xác.

Sau hai ngày đêm hành trình trên vùng biển quốc tế, ngày 29.2, tàu  235 ở ngang vùng biển Nha Trang. 18 giờ, một máy bay trinh sát của địch bay ngang qua tàu. Tàu ta vẫn tiếp tục hành trình. 22 giờ 20 phút, tàu cách  bờ khoảng 19 hải lý. Phát hiện ra tàu của ta, ba tàu chiến của Mỹ có phiên hiệu Ngọc Hồi, HQ12, HQ617 và 4 tàu khác của quân đội Sài Gòn được điều đến bao vây hòng bắt sống tàu ta. Thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh ra lệnh tắt hết đèn và tiếp tục hành trình vào bến. Các tàu địch cũng tắt hết đèn đợi tàu ta đi vào vòng vây, chúng tính toán rằng khi tàu chúng đồng loạt bật sáng đèn, tàu nào không bật đèn  tức là “tàu Bắc Việt”. Nhưng Nguyễn Phan Vinh đã thông minh, nhanh trí lợi dụng ngay tình thế này, khôn khéo chỉ huy tàu C235 đi trong màn đêm, luồn  lách qua đội hình tàu địch đang phục kích ở phía ngoài và vào được bến phía xã Ninh Phước. Không gặp được người của bến đón, khoảng 0 giờ 30 phút ngày 1.3, tình hình rất cấp bách, Phan Vinh lệnh cho anh em nhanh chóng thả những bao hàng xuống nước để người của bến sẽ vớt sau. Trong lúc đó ở phía ngoài, các tàu địch vẫn chưa phát hiện được tàu của ta ở chỗ nào. Chúng lặng lẽ trong đội hình vòng vây chờ đợi.


 

 

 

 

 

 

 

 

Bến Lộc An (xã Phước Bửu, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu). Tại bến này, 3 chiếc tàu của Đoàn 125 Hải quân đã cập bến thành công, vận chuyển được 109 tấn vũ khí, trang bị cho quân dân các tỉnh miền Đông, Khu 6 tham gia các chiến dịch, góp phần làm nên những chiến thắng vang dội: Bình Giã, Đồng Xoài, Dầu Tiếng, Bầu Bàng (năm 1965).


 
 Thả xong hàng, Phan Vinh điện báo cáo chỉ huy sở “đã thả xong hàng, đang bị tàu địch bao vây”, rồi cho tàu  rời khỏi xã Ninh Phước, chạy ven bờ  về phía xã Ninh Vân để nghi binh, đánh lừa, không cho địch phát hiện chỗ vừa thả hàng. Gần 2 giờ sáng ngày 1.3.1968, các tàu địch ở phía ngoài đồng loạt bật đèn sáng. Khi phát hiện ra tàu ta đang ở gần bờ chúng lập tức nổ súng. Chúng bắn đạn cỡ lớn chặn phía trên bờ để ngăn không cho anh em ta bơi vào bờ chạy thoát và dùng súng nhỏ bắn thẳng vào tàu ta ể không chế với tham vọng bắt sống. Mấy phút sau, máy bay địch đến thả pháo sáng soi rõ cả tàu ta và 7 chiếc tàu của địch. Tàu C235 ở trong tình thế cực kỳ khó khăn, một bên là bờ, phía trước là núi, sau lưng các tàu địch không ngừng nhả đạn. Thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh bình tĩnh chỉ huy anh em vừa chiến đấu vừa điều khiển tàu chạy vào sát bờ. Súng DKZ, 12,5 ly của ta liên tục bắn vào tàu giặc làm cho chúng không dám đến gần. Cuộc chiến đấu không cân sức diễn ra ác liệt. Trên tàu đã có 5 người hy sinh, 7 người bị thương. Phan Vinh cũng bị thương ở đầu nhưng anh vẫn chỉ huy chiến đấu. Tay cầm khẩu AK47, anh hô lớn: “Chúng ta sẽ chiến đầu đến hơi thở cuối cùng trên con tàu này. Chuẩn bị phương án hai!”. Phương án hai là phương án phá vòng vây , dùng tốc độ cao của tàu C235, hoặc lao vào quân cảng của địch ở Nha Trang cho nổ tàu phá cảng, hoặc lao vào tàu địch cho nổ bộc phá. Những phương án này đã được anh em thủy thủ trên tàu đã được chuẩn bị tư tưởng từ trước.
 Nhưng tàu ta chưa kịp quay hướng ra biển thì khoang máy trúng đạn, máy hỏng, không cơ động được nữa. Phan Vinh quyết định cho anh em bị thương rời tàu và phân công người ở lại đặt kíp nổ phá hủy tàu. Thuyền trưởng Phan Vinh cùng 5 người ở lại đặt kíp nổ phá khoang máy và các vị trí khác, rồi ba người nhanh chóng bơi vào bờ. Phan Vinh cùng thợ máy Ngô Văn Thứ đi kiểm tra lại lần cuối rồi hai người nhảy khỏi tàu. Hơn chục phút sau, mặt biển Hòn Hèo bùng lên một cột lửa không lồ, một tiếng nổ dữ dội chấn động tới tận Nha Trang làm cho cửa kính các ngôi nhà đều rung lên. Sức công phá của thuốc nổ lớn khiến một nửa con tàu văng lên lưng chừng núi Bà Nam, xã Ninh Vân. Nơi này, sau này Lữ đoàn 125 đã xây dựng một Đài tưởng niệm các liệt sĩ tàu C235 đã hy sinh. Nửa con tàu còn lại tan thành những mảnh vụn chìm sâu vào lòng biển.

Hai người rời tàu sau cùng là thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh và thợ máy Ngô Văn Thứ chốt lại kềm chân địch, không cho chúng đổ bộ lên bờ, hỗ trợ anh em thủy thủ lên trước rút ra xa khỏi khu vực. Gần sáng địch đổ quân xuống lùng sục khắp khu vực tàu C235 nổ. Phan Vinh và Thứ kiên cường chống trả địch bằng AK và lựu đạn, đánh lui nhiều đợt tấn công của địch, tiêu diệt hàng chục tên địch. Nhưng vì ít đạn, địch tràn lên rất đông, nên Phan Vinh và Thứ đã cho nổ tại chỗ quả lựu đạn cuối cùng và hai người đã anh dũng hi sinh, để không cho địch bắt sống. Anh  hy sinh  khi vừa trong 35 tuổi. Năm 1970 anh được Nhà nước truy tăng danh Hiệu anh hùng lục lượng vũ trang nhân dân .

  Một sĩ quan Hải Quân Sài Gòn đã viết trên Tạp chí Lướt sóng của Hải quân Sài Gòn thời đó mô tả: “Mười hai chiến hạm và hàng chục hải thuyền của Hoa Kỳ cùng Quân lực Việt Nam Cộng hòa có phi cơ yểm trợ, đụng độ ác liệt với một tiểu đoàn Việt Cộng (thực tế chỉ có 20 thủy thủ trên tàu C235) gan góc và thiện chiến trên con tàu chở vũ khí từ Bắc Việt thâm nhập tiếp tế cho Mặt trận giải phóng. Họ đã nổ súng đến viên đạn cuối cùng, đến người cuối cùng và hy sinh với con tàu bằng khối lượng hàng tấn bộc phá do chính tay họ tự hủy, không để lại một dấu viết...”. Đó là không chỉ là lời thú nhận , mà là sự khâm phục của địch về sức chiến đấu quật cường của thuyền trưởng Nguyễn Phan Vinh và thủy thủ tàu C235 anh hùng.

Về sự kiện này, tạp chí “Lướt sóng” của Hải quân Việt Nam Cộng hòa viết: “Mười hai chiến hạm và hàng chục hải thuyền của Hoa Kỳ cùng quân lực Việt Nam cộng hòa có phi cơ yểm trợ, đụng độ ác liệt với một tiểu đoàn Việt Cộng (thực chất chỉ có 20 thủy thủ) gan góc và thiện chiến trên con tàu chở vũ khí từ Bắc Việt thâm nhập và tiếp tế cho mặt trận giải phóng. Họ đã nổ súng đến viên đạn cuối cùng, đến người cuối cùng và hy sinh với con tàu bằng khối lượng hàng tấn bộc phá do chính tay họ tự hủy, không để lại một dấu vết”.

                        Bến tàu K15 - Nơi xuất phát của ” Đoàn tàu không số“ - ảnh 1 

Di tích còn sót lại của bến tàu không số Hải Phòng ở quận Đồ Sơn ngày nay . Ảnh haiphong.vn 

Các thủy thủ lên bờ, mò mẫn trong đến tối, dìu nhau vượt rừng, leo qua các vách đá để lẫn trốn địch lùng sục, không lương thực, không nước uống khiến 7 người  tàu C235 đều kiệt quệ. 12 ngày sau họ mới bắt được liên lạc với du kích và các đồng chí ở bến đi tìm, nhưng lúc này chỉ còn lại  Vũ Long An, Lâm Quang Tuyến, Hà Minh Thật, Nguyễn Hồng Phong và Lê Huy Mai. Còn Đoàn Văn Nhi thuyền phó đã  hy sinh và Mai Văn Khung, đi tìm nước uống rồi không trở về nữa, anh em tìm kiếm mãi mà không thấy. Sau này mới biết  Khung bị địch bắt.

 Điều rất buồn là mặc dù hy sinh trên đất liền (hoặc hy sinh trên tàu nhưng đã được đồng đội  đưa vào bờ trước khi cho tàu  nổ), nhưng Nguyễn Phan Vinh và 13 chiến sĩ tàu 235 vẫn không có mộ  ghi tên từng người, mà là mộ vô danh. Câu chuyện về mộ anh hùng Phan Vinh và 13 chiến sĩ trên tàu 235 đến nay vẫn chưa được sáng tỏ.

Nhưng trong cuốn hồi ký của của liệt sĩ Huỳnh Hường, người của đoàn tàu không số D125 được cử đi đường bộ Trường Sơn vào Hòn Hèo làm nhiệm vụ trinh sát, cùng với bến đón tàu 235. Theo nhật ký của anh lưu tại Bảo tàng Hải Quân, thì chính anh Huỳnh Hường đã tìm kiếm và tự tay chôn cất Nguyễn Phan Vinh và các chiến sĩ hy sinh của tàu 235. Không hiểu khi chôn cất đồng đội họ có ghi tên tuổi, đơn vị để chôn theo  không, mà bây giờ không ai tìm thấy? Hay đã viết  tên tuổi, đơn vị vào giấy  chôn theo xác rồi, nhưng lâu ngày bị mưa nắng phai đi nên không ai biết. Anh Huỳnh Hường  đã hy sinh ngày 28.8.1971. 

 
ẢNH TƯ LIỆU: 












Dáng đi thất thểu, ngủ gục ngay trên đống đổ nát, nét mặt mệt mỏi, đau đớn... là những hình ảnh thường gặp ở lính Mỹ sau những trận chiến tại chiến trường Việt Nam.
 
                            86457739_116855729881574_1715681749322694656_n
Người cha ôm thi thể con nhìn lên chiếc xe bọc thép chở lính Việt Nam Cộng hòa. Đứa bé thiệt mạng khi quân Việt Nam Cộng hoà tấn công du kích trong một ngôi làng gần biên giới Campuchia. Ảnh chụp ngày 19/3/1964.
                                         85105677_116855639881583_375554710616145920_n
Lính Việt Nam Cộng hoà dùng chuôi dao găm đánh một nông dân vì đã cung cấp thông tin không chính xác về hoạt động của du kích ở một ngôi làng ở phía Tây Sài Gòn. Ảnh chụp ngày 9/1/1964.
                                      85190874_116854863214994_5095925082627244032_n

Một phi công Mỹ quan sát máy bay ném bom napalm oanh tạc các địa điểm trên lãnh thổ Việt Nam. Mục đích của những cuộc ném bom là nhằm làm rụng lá, chết cây để dễ dàng phát hiện ra đối phương trong rừng sâu.

                                    85254221_116854646548349_2952377540225794048_n

Bác sĩ Joseph Wolfe (ở giữa bức ảnh) điều trị cho một binh sĩ bị thương tại một bệnh viện dã chiến dưới lòng đất thuộc căn cứ hải quân Mỹ đóng tại Khe Sanh hồi tháng 3/1968.

                         86415466_116855506548263_5912786188258770944_n

Hai cha con bị nghi là "Việt cộng" bị dẫn về trụ sở.  

                                       86502410_116854386548375_3112784819155632128_n 

Mặc dù bị thương đến mức phải băng kín một mắt nhưng binh sĩ Thomas Cole vẫn giúp đỡ đồng đội mình là trung sĩ Harrison Pell.

                           86871685_116855416548272_2203179830411788288_n

Binh lính Sài Gòn thực hiện cuộc đổ bộ quy mô lớn ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long và đặt một số thiết bị trên thuyền. Họ băng qua những cánh đồng ngập nước, có nơi nước sâu ngập đến nửa người để tìm diệt những chiến sĩ Giải phóng.

Chuỗi ngày “địa ngục” của lính Mỹ ở Việt Nam:

                                       

 

Một lính thủy đánh bộ Mỹ lội trong bùn lầy. Những bức ảnh chỉ được công bố lần đầu 5 năm sau khi được chụp, tháng 2/1971.

 

Được sự hộ tống của xe tăng và chiến đấu cơ trong khu rừng khô phía trước, lính Mỹ thuộc Tiểu đoàn số 2, Hạm đội 5, bắt đầu tấn công.

 

4 lính thủy quân lục chiến Mỹ bê xác người đồng đội sau khi đơn vị của họ trúng đạn gần đồi 484. Bên phải là phóng viên ảnh người Pháp Catherine Leroy (1945 – 2006), cô đã bị cắt ra ngoài bức ảnh khi đăng trên tờ LIFE hồi đó.

Hình ảnh tiêu biểu của những lính thủy đánh bộ Mỹ trong những ngày này là dầm mình trong bùn đất, xung quanh là cây cối lởm chởm vì đạn pháo và súng trường. Binh lính bị thương, băng bó, mũ sắt, áo jacket dính máu... ở khắp chiến trường, nơi cách xa nhà họ hàng nghìn dặm.


 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 Một lính Mỹ bị thương sau cuộc càn quét trên cánh đồng. Bức ảnh này không được công bố trong phóng sự gốc của LIFE.

 

 

 

 Một lính Mỹ khác bị thương băng bó kín mít.


Các lính Mỹ ăn đồ hộp trong giờ nghỉ ngơi giữa trận chiến.

Một lính Mỹ được phát bánh thánh khi tạm yên tiếng súng một ngày tháng 10/1966.
                                                             
***
Cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam là cuộc chiến tranh kéo dài nhất trong số 8 cuộc chiến tranh của nước Mỹ: 11 năm 1 tháng (cuộc chiến tranh kéo dài đứng hàng thứ hai là cuộc nội chiến Nam - Bắc cũng chỉ có 4 năm). Nhưng cuộc chiến tranh đó đã đem lại lợi ích gì cho nước Mỹ? Chỉ là một con số 0 to tướng nếu không kể những tội ác và những tàn phá mà nó gây ra. Không những thế nó đã làm cho nước Mỹ phải hao người, tốn của ghê gớm và phải chuốc lấy một nỗi hổ thẹn ê chề do tính ngạo mạn, mù quáng gây ra. Chúng ta có thể liệt kê ra những hổ thẹn ấy:
1 - Cường quốc số 1, giàu có nhất thế giới đã thực sự thua trận trước một nước nhược tiểu, nghèo nàn và lạc hậu.
Chỉ vì một não trạng hoảng sợ trước một điều hoang đường là sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng sản ở Đông Nam Á mà Mỹ đã gây ra chiến tranh ở Việt Nam. Và còn vì điều như Allman viết trong “Hai mươi năm dính líu của Mỹ ở Đông Dương: Điều mỉa mai của lịch sử nước Mỹ”, như sau:
“Một sai lầm dai dẳng suốt ¼ thế kỷ của chính sách Mỹ là dựa vào niềm tin không suy suyển về sức mạnh của Mỹ có thể tự tạo ra cho nó tính hợp pháp và làm được tất cả.
Từ Rostow, Achesơn, Dean Rusk đến Kissinger đều có những lời nói như: “Chúng ta là nước hùng mạnh nhất thế giới”, “không một nước châu Á vùng nhiệt đới nào nhỏ bé, nghèo nàn, không phải là người da trắng mà lại không bị gục ngã trước hỏa lực của Mỹ nếu như thời gian ném bom đủ dài, nếu như con số người chết cứ cộng mãi vào đủ lớn”.
Trong tiểu luận “Điều mỉa mai trong lịch sử nước Mỹ”, Niebluer, một nhà thần học đã kết luận: “Điều mỉa mai không phải là đến tận phút chót (của thất bại), nhiều người Mỹ vẫn tưởng là mình đang thắng, mà là gần như một thời gian dài, người ta vẫn tưởng rằng thắng lợi chỉ cần cố gắng một chút là có thể giành lấy… Chúng ta chưa hề bao giờ tiên đoán là nước hùng mạnh nhất trái đất lại phải chịu đựng cái điều ước mơ làm chủ lịch sử và bị cự tuyệt một cách mỉa mai đến như vậy”.
Trong “Mỹ đã kiệt sức vì chiến tranh Việt Nam” (Tuần tin tức, 8-2-1973) có viết: “Sự thất bại đầu tiên và đau đớn nhất trong lịch sử quân sự Mỹ”“Một cuộc chiến tranh không sản sinh ra chiến thắng huy hoàng, không sản sinh ra anh hùng dân tộc, và không sản sinh ra những bài ca rung động lòng người…”.
Theo Don Luce, J. Sonner: “Thất bại của Mỹ ở Việt Nam chủ yếu là do không hiểu biết, không nắm được tư tưởng, ý nghĩa và tính cách của người Việt Nam mà đã dùng vũ lực tàn bạo. Ở Việt Nam, người Mỹ không mù quáng nhưng họ là những người điếc và câm”.
2 - Cuộc chiến tranh Việt Nam làm xuất hiện nhiều mâu thuẫn gay gắt nhất, nhiều sự bội tín và lừa dối nhất trong chính giới Mỹ, bị toàn thể loài người tiến bộ, kể cả nhân dân Mỹ oán trách, chê cười, nguyền rủa:
Tướng tư lệnh chiến trường Oétmolen, từ một người thận trọng; có phần khiêm tốn, do được tâng bốc lên tận mây xanh, được chính quyền Giônxơn đặt toàn bộ hy vọng vào tài năng ông ta nên cũng được “cưng chiều”, được chu cấp đầy đủ nhất mọi thứ mà ông ta đòi hỏi, đã trở thành kẻ huênh hoang, phát biểu nhiều lời khinh xuất, để rồi mau chóng trở thành kẻ tội đồ, bị chính những người tâng bốc quay lại chửi bới thậm tệ. Ông này không vừa, đổ vấy tất cả trách nhiệm thua trận cho chính phủ Mỹ và như vậy càng làm cho mọi người khinh khi.
Chính quyền Níchxơn là chính quyền cay cú nhất, lồng lộn nhất, điên khùng nhất. Khi đã giở mọi thủ đoạn đấm đá, hù dọa mà “nhân dân Việt Nam quyết không sợ”, chính quyền Níchxơn bèn giở trò bỉ ổi cuối cùng là tìm kiếm xin xỏ sự trợ giúp từ hai đối thủ tiềm tàng của mình là Liên Xô và Trung Quốc. Chính quyền Níchxơn cũng là chính quyền lừa dối trơ tráo, “khủng khiếp” nhất trong lịch sử nước Mỹ; lừa dối đối phương đã đành, còn lừa dối lẫn nhau, lừa dối đồng minh (chính quyền Thiệu), lừa dối nhân dân Mỹ, lừa dối thế giới và tự huyễn hoặc lừa dối chính bản thân mình về khái niệm “danh dự”. Do đó chính quyền Níchxơn đã gặt hái thất bại ê chề nhất, bị nguyền rủa nhiều nhất trong lịch sử nước Mỹ. Níchxơn là một tổng thống phải tự kết thúc sự nghiệp chính trị của mình một cách đáng xấu hổ nhất, nhục nhã nhất trong các đời Tổng thống Mỹ.
3 - Là một nước đứng đầu về sự hùng mạnh, có những lời tuyên ngôn bất hủ như một chân lý sáng ngời, có vai trò cầm cân nảy mực, gìn giữ trật tự thế giới mà lại hành động một cách hoàn toàn trái ngược, tàn ác ở Việt Nam, một đất nước bé nhỏ, chỉ muốn được thống nhất, độc lập, bình đẳng, tự do mưu cầu hạnh phúc mà trước đó cũng như sau này chưa bao giờ động chạm đến quyền lợi của nước Mỹ.
Một người anh Đồng Minh đã dội xuống đầu người em đi theo Đồng Minh tất cả sức mạnh áp đảo về vũ khí, bom đạn (trừ bom nguyên tử), gây ra biết bao nhiêu sự hủy diệt, đau thương tang tóc cho dân thường vô tội ở cả hai phía một cách hoàn toàn vô tích sự, để rồi phải chịu thất bại không thể chối cãi được, phải ký vào cái không muốn ký mà bỏ của chạy lấy người, bỏ đi, mặc cho “đệ tử” bị “nện” chết, không quay lại cứu mà nói đến danh dự thì thật là nực cười!
Tháng 11-1982 ở Mỹ đặt đài tưởng niệm quân nhân Mỹ đã chết trận ở Việt Nam. Số tên người được khắc trên đó là 57.939. Họ là ai trước khi là quân nhân Mỹ? Là con em nhân dân Mỹ! Tại sao họ bị điều động đến một đất nước nhỏ bé cách nước Mỹ nửa vòng trái đất để chết ở đó, và chết để làm gì, chết cho ai? Có phải là họ chết để bảo vệ quê hương họ, cho sự toàn vẹn lãnh thổ của nước Mỹ không? Chắc rằng đứng trước bức tường tưởng niệm bằng đá hoa cương ấy, không một người Mỹ nào cảm thấy tự hào mà trái lại, chỉ thấy xót thương, tủi nhục.
Có thể là vô tình nhưng bức tường đó đã là một chứng tích của tội ác. Tội ác ấy là do ai gây ra nếu không phải là những tập đoàn lãnh đạo nước Mỹ đã gây ra cuộc chiến tranh vô nghĩa ở Việt Nam?
Theo Emtơ (Lời phán quyết về Việt Nam) thì cuối năm 1970, tổ chức “Binh lính đoàn kết chống chiến tranh Việt Nam” đã ra tuyên bố:
“Mười năm qua, đất nước chúng ta tham gia vào một cuộc chiến tranh lâu dài, mòn mỏi, tốn kém và thê thảm ở Việt Nam. Phần đông người Mỹ không ủng hộ cuộc chiến tranh đó, ngày càng có thêm nhiều người phản đối, kể cả những binh sĩ đang làm nhiệm vụ. Chúng tôi, những người lính, chúng tôi buộc phải chịu đau khổ nhất trong cuộc chiến tranh Việt Nam thất bại này. Nhiều người trong chúng tôi bị bắt lính trái với ý muốn của chúng tôi, để thực hiện một cuộc chiến tranh không hợp pháp, không đạo đức và không chính nghĩa”.
Ngày 19-4-1971, 2.000 cựu binh sĩ về Oasingtơn gặp Quốc hội, tại nghĩa địa Arlington đã tổ chức rước đuốc phản đối đến Nhà Trắng. Đỉnh cao là lúc các cựu binh sĩ vứt bỏ các huân chương về Việt Nam của họ trên thềm nhà Quốc hội để phản đối chiến tranh… Các cựu chiến binh cũng đã dẫn đầu những đoàn biểu tình tại Oasinhton, vào ngày 24-4 là 300.000 người, ngày 1-5 là 200.000 người, đòi “Chấm dứt chiến tranh hoặc chấm dứt chính phủ”...
Bản thân Kítxingiơ, trong “Những năm ở Nhà Trắng” có viết: “Tôi nhận được những bức thư lời lẽ gay gắt không thể tưởng tượng được của những người xưa kia đã từng là bạn bè, của những công dân đầy giận dữ. Những lời buộc tội như “phi đạo đức”, “lừa bịp” được tung ra bừa bãi, “dã man” là một tính từ được người ta ưa dùng, nhiều chính phủ nước ngoài cũng lớn tiếng chỉ trích. Chính phủ Thụy Điển so sánh chúng ta với bọn Quốc Xã. Không một đồng minh NATO nào ủng hộ chúng ta”.
                                      
Các cựu chiến binh từng tham dự chiến tranh ở Việt nam vứt bỏ các huân chương, ghi nhận…    ở     Washington năm 1971.
Một học giả Nhật là Maruyama Shizuo đánh giá: “Khi tôi gọi nó là “chiến tranh bằng không quân”, tôi muốn đề cập đến một tình trạng trong đó lực lượng không quân thay thế lực lượng lục quân và đảm nhận cuộc chiến đấu. Con số bộ binh của Mỹ ở Việt Nam vào cuối tháng 1-1973 còn không quá 25.000. Tuy thế, hồi tháng 12-1972, Mỹ đã mở ra ở Đông Dương một cuộc chiến tranh không quân tàn bạo nhất trong toàn bộ lịch sử loài người”.
Hãng UPI công bố ngày 16-1-1973, số bom Mỹ đã ném từ năm 1965 đến năm 1972 là 7.438.052 tấn.
Harrison, Roger Pic và một số nhà nghiên cứu phương Tây khác cho biết: Trong 8 năm, Mỹ đã ném xuống Việt Nam 7.800.000 tấn bom. (Trong đó có B52 đã bay 124.522 lần xuất kích và ném 2.949.000 tấn hay 1/3 tổng số lượng bom).
Với thái độ điên cuồng lồng lộn, việc ném bom và pháo kích từ 300.000 tấn hồi năm 1965 tăng lên trên 1 triệu tấn vào năm 1966. Trên 2 triệu tấn trong mỗi năm từ 1967 đến 1970 (đỉnh cao là 2.966.548 tấn vào năm 1968), và gần bằng ngần ấy trong những năm 1971 và 1972.
Vào năm 1973, Mỹ và Nam - Việt Nam đã sử dụng trên 14 triệu tấn bom và đạn ở Đông Dương.
Người ta dự tính là ở Đông Dương có khoảng 26 triệu hố do bom gây ra, trong đó 21 triệu hố ở miền Nam - Việt Nam. Số bom này đã hất đi khoảng 3.000 triệu mét khối đất. Con số này lớn gấp 10 lần số đất đào lên của 2 công trình kênh đào Suez và Panama cộng lại, và chiếm một diện tích khoảng 13.000 km2 - khoảng 1/3 diện tích miền Nam - Việt Nam hoặc 1/25 diện tích toàn Việt Nam. Gấp 3 lần số lượng 2.057.244 tấn bom mà không quân Mỹ đã ném xuống châu Âu, Bắc Phi và Thái Bình Dương trong thời kỳ chiến tranh thế giới thứ hai, hay nhiều hơn 2 lần số bom mà tất cả các nước tham chiến sử dụng trên tất cả các chiến trường trong suốt chiến tranh thế giới thứ hai. Gần 12 lần số bom đã ném trong chiến tranh Triều Tiên là 635.000 tấn. Bằng sức nổ của trên 700 quả bom nguyên tử, loại đã thả ở Hiroshima và kể cả 400.000 tấn napan nữa.
Năm 1973, Giôn Yâng, một tù binh Mỹ, đã nhắc lại điều anh ta từng thấy: “Không thể thấy gì ngoài hố bom và mặt đất đã chết. Mặt đất giống cháo lúa mạch. Không có chim, không có cây, không có người. Không đồng ruộng, không vườn tược. Không có gì cử động. Đó là cuộc chiến tranh Việt Nam của Mỹ”.
Theo Milton Leitenberg, khoảng 90.000 tấn chất độc hóa học của Mỹ đã rải xuống Việt Nam. Còn theo Allen Hassan trong tác phẩm “Không thể chuộc lỗi” của ông thì: “Chất da cam được sử dụng như một phương tiện của cuộc chiến tranh sinh hóa tại miền Nam - Việt Nam. Không có loại hóa chất nào gây hại đối với con người một cách nặng nề và dai dẳng hơn nó. Người Mỹ đã phun rải tổng cộng 25 triệu gallon (gần 80 triệu lít) gồm 15 loại hóa chất khai hoang - diệt cỏ khác nhau lên một diện tích gần 3,6 triệu mẫu Anh (tương đương 1,45 triệu hécta) rừng rẫy, làng mạc của Việt Nam, trong đó riêng chất da cam là 11,6 triệu gallon (gần 44 triệu lít)… Chất da cam làm rụng lá và giết chết cả các loại cây gỗ thuộc hàng thiết mộc, nó còn để lại những di chứng âm ỉ, bức bối, chết người trên binh lính của cả hai phía, và cả thường dân Việt Nam, trong đó có rất nhiều phụ nữ và trẻ con… Trẻ con sinh ra tiếp tục bị khiếm khuyết, dị dạng bẩm sinh và nhiều di chứng khác, trong đó có ung thư.
Chất da cam có chứa chất cực độc là dioxin, gọi tắt là TCDD. Dioxin là chất sinh ra từ quá trình sản xuất chất diệt cỏ và là loại hóa chất độc hại nhất mà con người từng biết đến (có nhà khoa học cho rằng chỉ cần 85 gam dioxin (lượng này chứa trong một thìa súp) là có thể giết toàn bộ dân số một thành phố khoảng 8 triệu người). Một nhà nghiên cứu người Úc ước tính rằng có khoảng 368 pound (tương đương 167 kg) dioxin đã bị rải xuống Việt Nam trong vòng 6 năm… Hiện còn một lượng lớn dioxin đang nằm trong đất và nước ở Việt Nam”.
Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, Níchxơn tàn bạo, dã man hơn Giônxơn. Mặc dù chỉ có 3 năm nhưng số lượng thuốc nổ thời Níchxơn lớn hơn của 5 năm thời Giônxơn. Tính trung bình hàng tháng thì thời Giônxơn là 59.704 tấn, còn thời Níchxơn là 95.402 tấn (gấp 1,6 lần). Riêng cuộc ném bom “12 ngày đêm” ở Hà Nội, Hải Phòng là 40.000 tấn. Tờ “Bưu điện Oasinhtơn” tháng 4-1972 đã đăng dòng tít: “Một tấn bom trong 1 phút, suốt 3 năm”. Theo Roger Pic: “Mỗi phút cầm quyền, Níchxơn ném xuống hơn 1 tấn bom, ông ta trở thành người đầu tiên từ trên trời cao gây ra những tàn phá hơn bất kỳ một người nào khác trong lịch sử nhân loại…”.
Thế thì tại sao Đế quốc Mỹ thua dân tộc Việt để phải rước lấy nỗi hổ thẹn lớn lao như vậy?
Để trả lời được câu hỏi ấy, trước hết phải trả lời được câu hỏi: Vì sao cuộc chiến tranh ấy lại xảy ra?
Cho dù nhận thức triết học về tự nhiên - xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin chưa hoàn hảo, nhưng lý tưởng của nó về một xã hội công bằng, không có cảnh người bóc lột người là thực sự cao đẹp, phù hợp với ước mơ ngàn đời của nhân dân cần lao các dân tộc toàn thế giới. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của Liên bang Xô viết đã có những thành công to lớn, đáng kể nhờ có sáng kiến “Chính sách kinh tế mới” (NEP) của Lênin, người kế thừa xuất sắc C. Mác. Chính sách kinh tế ấy, cùng với quan niệm “Tư bản nhà nước”, dù biện hộ thế nào đi nữa thì bản chất của nó vẫn là: Kinh tế tập trung - bao cấp duy ý chí bắt buộc phải thỏa hiệp với kinh tế hàng hóa - thị trường tự do nhưng mù quáng.
Sự phát triển của nền kinh tế Liên Xô sau Cách mạng tháng Mười là tất yếu, nhờ có Chính sách kinh tế mới của Lênin và tinh thần lao động quên mình, sự nhiệt tình của Đại chúng cách mạng Nga đi xây dựng ước mơ - lý tưởng cộng sản, chứ không phải nhờ vào cái gọi là “tính ưu việt” của chế độ xã hội chủ nghĩa. (Chúng ta cho rằng chế độ tốt đẹp nhất mà loài người có thể có là chế độ không đặt nặng vấn đề sở hữu, có thể vừa công hữu vừa tư hữu sao cho phù hợp với từng giai đoạn, tùy thuộc vào từng điều kiện, hoàn cảnh xã hội, có thể gọi tên, đặt nhãn mác cho chế độ đó là “xã hội chủ nghĩa” cũng được, nhưng nó phải là sự kế thừa của chế độ tư bản chủ nghĩa và bản chất của nó phải là hoàn toàn do dân và vì dân).
Giai đoạn cuối cùng của công cuộc xây dựng kinh tế Liên Xô sau cách mạng (dần xa rời“Chính sách kinh tế mới” của Lênin!) đã bộc lộ nhiều nhược điểm nhưng chưa đủ để nhận ra sai lầm về sự giáo điều trong phương thức điều hành kinh tế kiểu mới thì chiến tranh thế giới thứ hai đã nổ ra xóa nhòa tất cả. Cái hiện thực tốt đẹp do “duy ý chí” mà có ấy (và nếu không có chiến tranh thì cũng chỉ có thể tồn tại trong một giai đoạn hạn định như sau này đã thực sự xảy ra) đã là tấm gương sáng cho nhiều dân tộc bị đọa đày trên thế giới hướng về.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, hàng loạt nước Đông Âu chịu sự ảnh hưởng của Liên Xô, ở Châu Á thì có Trung Quốc và Bắc - Triều Tiên đã đi theo con đường của chủ nghĩa xã hội. Sự hình thành một hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa mà khẩu hiện của nó là triệt tiêu tư bản tư nhân, xóa bỏ tư hữu về tư liệu sản xuất, đã như một sự bành trướng của Cộng sản, làm cho các nước tư bản, đứng đầu là Mỹ vốn dĩ đã căm ghét, hoảng sợ càng thêm căm ghét, hoảng sợ. Chính điều này chứ không phải bất cứ điều gì khác đã làm cho chính giới Mỹ không ký vào bản Hiệp định Giơnevơ, dựng nên chính quyền bù nhìn ở miền Nam - Việt Nam, và từ đó mà gây ra cuộc chiến tranh hết sức tàn khốc ở Việt Nam. Tội ác của Đế quốc Mỹ đối với dân tộc Việt là không thể chối cãi.
Dân tộc Việt làm cách mạng chỉ với một mục đích duy nhất là giành độc lập, thống nhất nước nhà và xây dựng đất nước Việt Nam giàu có, hạnh phúc. Do đó nhiệm vụ của Cách mạng Việt Nam, trước tiên là phải đánh đuổi ngoại xâm. (Bản chất của mọi kẻ xâm lược là ngoan cố cho nên một dân tộc bị áp bức muốn tự giải thoát thì chỉ còn cách đứng lên đấu tranh không khoan nhượng với kẻ xâm lược và hầu hết các trường hợp là phải đấu tranh vũ trang). Trong tình hình thế giới lúc bấy giờ, muốn kiên quyết triệt để cách mạng, thì phải nhận thức đấu tranh theo quan niệm của chủ nghĩa cộng sản. Chính vì vậy mà Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.
Cuộc chiến tranh Việt Nam đã lùi xa và thực tế lịch sử đã cho thấy Cộng sản Việt Nam chẳng bành trướng đi đâu cả. Đông Dương chẳng chịu bất cứ tai họa nào của cộng sản cả. Hơn nữa Cộng sản Việt Nam đã làm một việc hết sức mã thượng là ân tình: cứu Cămpuchia thoát khỏi nạn diệt chủng “Khơme đỏ” Pôn Pốt - Yêngxary.
Có lẽ Shingo Shibata, giáo sư trường đại học tổng hợp Hosei (Tokyo - Nhật), đã nhận định đúng về nguồn gốc cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam khi ông viết trong “Những bài học của chiến tranh Việt Nam” như sau:
“Cuộc chiến tranh ở Việt Nam nổ ra đúng vào điểm sâu sắc của những mâu thuẫn nảy sinh ra từ sự xung đột trên qui mô toàn cầu giữa chủ nghĩa xã hội, các phong trào giải phóng dân tộc, đấu tranh giai cấp ở các nước tư bản chủ nghĩa và chủ nghĩa đế quốc thế giới, xoay quanh chủ nghĩa đế quốc Mỹ.
Một mặt, bản chất chính trị và quân sự của cuộc chiến tranh ở Việt Nam là một cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ, mang tính chất đế quốc, thực dân mới và mặt khác, nó là cuộc chiến tranh giải phóng của nhân dân Việt Nam giành độc lập chủ quyền, thống nhất đất nước”.
Dưới đây là những nhận định của chính giới Mỹ vào buổi đầu của cuộc chiến tranh Việt Nam
Năm 1953, Tổng thống Aixenhao (Eisenhower): “Để mất Việt Nam, mất Đông Dương thì sẽ khó có thể phòng thủ được bán đảo Malaixia. Bằng bất cứ giá nào đi nữa thì cũng phải chặn ngay nó (Cách mạng Việt Nam ) lại. Dù sao cũng còn có rẻ hơn cái giá phải trả sau này”
Tháng 1-1954, cũng Aixenhao: “Mất một nước nào đó ở Đông Nam Á thì cuối cùng sẽ dẫn đến việc mất cả Đông Nam Á rồi mất cả Ấn Độ, Nhật Bản và rút cuộc: làm nguy hại đến sự ổn định và nền an ninh của Châu Âu”.
Ngày 4-4-1954, Aixenhao viết thư cho Sơcxin (Churchill, thủ tướng Anh khi đó): “Nếu Đông Dương rơi vào tay Cộng sản thì hậu quả cuối cùng tác động đến thế chiến lược toàn cầu của chúng tôi và các ngài, dẫn đến sự thay đổi cán cân lực lượng trên toàn Châu Á và Thái Bình Dương. Điều đó có thể là rất tai hại và tôi biết rằng tôi và cả ngài đều không thể chấp nhận được”.
Ngày 5-10-1961, tổng thống Mỹ lúc này là Kennedy nói: “Hiện có hai nơi bị chiến tranh đe dọa, đó là vùng Đông Nam Á và Béclin… Cuộc khủng hoảng ở Béclin làm cho người ta để ý đến nhiều hơn và hình như Cộng sản muốn làm như vậy. Vì là Cộng sản có thể làm các cường quốc phương Tây đặc biệt chú ý đến Béclin, thì Cộng sản có hy vọng thâu đoạt được thắng lợi ở Đông Nam Á. Phải liên kết mọi hiểm họa ở Đông nam Á với mọi hiểm họa ở Béclin. Vấn đề Cộng hòa Việt Nam đang trở nên trầm trọng thêm vì những sự đột nhập quá đáng của Cộng sản. Dân tộc Mỹ rất quan tâm đến cả hai vấn đề này”.
Ngày 17-7-1963, cũng Kennedy: “Nếu Mỹ rút khỏi cuộc xung đột ở Việt Nam thì sẽ xảy ra sự sụp đổ không những ở miền Nam Việt Nam mà cả ở toàn bộ vùng Đông Nam Á”.
Ngày 26-3-1964, Mắc Namara: “Vai trò của Mỹ ở Nam - Việt Nam là chứng minh trong cuộc thử thách này, thế giới tự do có thể đối phó được với cuộc chiến tranh giải phóng như chúng ta đã từng đối phó có kết quả với Cộng sản ở các mức độ khác”, và “Đông Nam Á có ý nghĩa chiến lược lớn trong cuộc phòng thủ tiền tiêu của Mỹ. Vị trí của nó nằm trên các con đường hàng không và đường biển mà một bên sườn là tiểu lục địa Ấn Độ và sườn bên kia là Úc, Tân Tây Lan và Philippin; khống chế lối vào Thái Bình Dương - Ấn Độ Dương. Nếu vùng này rơi vào tay cộng sản thì sẽ đặt ra một mối đe dọa nghiêm trọng nhất cho nền an ninh của Mỹ và cho gia đình các quốc gia tự do, trong đó có chúng ta. Để bảo vệ Đông Nam Á, chúng ta phải đương đầu với cuộc thử thách ở Việt Nam”.
Với quan niệm và quyết tâm của Đế quốc Mỹ như vậy thì trước ý chí đấu tranh không khuất phục của dân tộc Việt trên con đường đi đòi lại quyền tự chủ và thống nhất tổ quốc của mình, chiến tranh là tất yếu. Đó là cuộc đối đầu quyết liệt đến một mất một còn giữa chính nghĩa và phi nghĩa, giữa một bên là cả một dân tộc tuy còn nghèo nàn lạc hậu nhưng khao khát giành lại chủ quyền lãnh thổ, thoát kiếp bị nô dịch, và bên kia là đội quân nhà nghề của nước đế quốc đầu sỏ, giàu có số 1, hùng mạnh thuộc hàng nhất nhì thế giới nhưng mang bản chất đánh thuê,  máy móc, thiếu động lực chiến đấu. Nói một cách khác, đó là cuộc đối đầu giữa sức mạnh có tính vô địch của kháng chiến toàn dân cứu nước và sức mạnh có tính hung bạo của đế quốc xâm lược. Cuộc chiến tranh Việt Nam trở nên vô cùng khốc liệt cũng là điều không thể tránh khỏi.
Tìm hiểu ra nguyên nhân làm xảy ra cuộc chiến tranh Việt Nam thì cũng phần nào thấy được nguyên nhân cơ bản làm cho Mỹ thua (cũng như trước đó đã làm cho Pháp thua): Đế quốc Mỹ thua vì nó đã tiến hành một cuộc chiến tranh phi nghĩa chống lại cuộc chiến tranh nhân dân chính nghĩa và bất khuất, sẵn sàng chết đến người cuối cùng.
      Quân xâm lược Mỹ là đội quân chính qui, trang bị đến tận răng, đủ loại phương tiện chiến tranh, có áp đảo về vũ khí, bom đạn hỗ trợ, chi viện tối đa, có thể là đối thủ đáng gờm của bât cứ đội quân nào trong một cuộc chiến tranh phân rõ trận tuyến nhưng trở thành vụng về, bất lực trong thế trận chiến tranh nhân dân Việt Nam, một thế trận mà như Lão Tử nói là “dàn trận mà như không thành hàng, xua đuổi mà không đưa cánh tay ra, tuy có binh khí mà như không dùng binh khí, tuy có địch mà như không chạm trán với địch”. Trong thế trận ấy, quân Mỹ buộc phải khi hành quân càn quét thì tập trung cao độ và khi nghỉ ngơi, phòng ngự cũng phải co cụm cao độ, đã gặp khó khăn, mệt mỏi trong việc “tìm và diệt” mục tiêu, lại còn phải căng thẳng trong việc “quét và giữ” vì luôn trở thành mục tiêu cho đối phương tấn công bất cứ lúc nào. Một khi đội quân xâm lược ngày một tiêu hao và phương châm có tính quyết định đến thắng lợi của nó là đánh mạnh thắng nhanh bị phá sản thì đội quân ấy sẽ bị sa lầy, làm cho tính phi nghĩa của nó ngày càng bộc lộ, do đó mà nó cũng mất dần sự ủng hộ, bị phân hóa, đồng thời lực lượng kháng chiến cứu nước ngày một mạnh lên. Đế quốc Mỹ thua cuộc, phải rút khỏi chiến trường Việt Nam trước hết là do dân tộc Việt Nam kiên cường, bất khuất, biết cách đánh giặc, sau đó là nhờ công lao cuộc đấu tranh, phản chiến của nhân dân Mỹ trong lòng nước Mỹ và có cả phần công lao của nhân dân tiến bộ toàn thế giới, trong đó có phần viện trợ vô cùng quí báu của Liên Xô và Trung Quốc cho cuộc kháng chiến cứu nước của nhân dân Việt Nam.
Trong một cuộc trả lời phỏng vấn của nhà báo Cu Ba là Walfredo Angulo, nhân dịp kỷ niệm 30 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã nói rất xác đáng: “Khi bảo vệ lợi ích của nhân dân Pháp, Napôlêông là một nhà quân sự có tài, liên tiếp chiến thắng. Nhưng khi ông ta xâm lược Tây Ban Nha và Nga thì ông ta trở thành tướng chiến bại và kết thúc sự nghiệp ở Oatéclô. Cũng vậy, Mắc Namara, Oétmolen và các tướng lĩnh cao cấp khác của Mỹ đều là những người có bản lĩnh cao, những ông tướng học được nhiều kiến thức tại các học viện quân sự nhưng họ đã thất bại vì đã trở thành những công cụ phục vụ chủ nghĩa đế quốc. Đó là một thực tế của thời đại chúng ta… Nhưng cuối cùng, cái quyết định vẫn là con người. Họ tin vào sức mạnh của vũ khí và kỹ thuật, nhưng điều quyết định vẫn là bản chất và mục đích của cuộc chiến tranh”.
          Nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước có lẽ giản dị là như thế thôi. Tuy nhiên nó vẫn mang tính thần kỳ bởi từ đó đến nay, nhiều người vẫn chưa hiểu nổi. Chính Kítxinhgiơ đã viết trong hồi ký của mình một cách băn khoăn: “Những nhà tâm lý học và xã hội học có lẽ ngày nào đó sẽ giải thích cho chúng ta phải suy nghĩ như thế nào đây về cái đất nước xa xôi và đơn điệu ấy, với những ngọn núi và những cánh đồng xanh rì, bên một biển xanh biếc, một đất nước hàng ngàn năm nay đã thu hút những người nước ngoài như một cái nam châm. Những người (nước ngoài) này đến đây để tìm kiếm vinh quang và đã vỡ mộng, đi vào để rồi trở ra với một thất vọng đắng cay. Có gì đã nhen lên trong dân tộc đó những ngọn lửa anh hùng và nghị lực như vậy, để làm cho số người đông như thế, từ các chân trời khác nhau đến để tìm đáp số cho điều bí ẩn và đã bị đẩy lùi với một sự kiên trì man rợ. Sự kiên trì man rợ đó không những đã xua đuổi những cố gắng của những người nước ngoài mà còn làm nguy hại cho cả sự ổn định bên trong của cả nước họ nữa”.
Còn Shingo Shibata, trong tác phẩm đã dẫn, thì viết:
“Lịch sử thế giới chưa từng bao giờ thấy có cuộc chiến tranh xâm lược nào lại bị nhân dân nhiều nước phản đối đến như thế và chưa từng thấy có cuộc chiến tranh nhân dân nào lại được nhân dân các nước đó đoàn kết ủng hộ đến như vậy”.
“Một trong những sự kiện kinh ngạc nhất của thời đại chúng ta là nhân dân Việt Nam, một nước bé nhỏ như vậy, đã có thể chiến đấu nhiều năm trời chống lại cuộc xâm lược của chủ nghĩa đế quốc lớn nhất và mạnh nhất trong lịch sử, đã chiến đấu cho đến thắng lợi trong cuộc chiến tranh hủy diệt lớn nhất và tệ hại nhất xưa nay chưa từng thấy.
Khi xét đến tổng số bom của các lực lượng Mỹ ném xuống tất cả các mặt trận trong đại chiến thế giới thứ hai là 2 triệu tấn và ném xuống đất Nhật Bản là 161.000 tấn so với 7.438 triệu tấn ném xuống Đông Dương, thì chính sự tồn tại của xã hội Việt Nam và sự tiếp tục sống sót của nhân dân Việt Nam phải được coi như một chuyện thần kỳ của thời đại chúng ta. Hơn thế nữa, thậm chí vượt qua cả điều đó, nhân dân Việt Nam và chính quyền của họ, mặc dù chịu đựng những hy sinh to lớn, vẫn duy trì được một ưu thế chính trị và tinh thần bất biến, uy tín của họ ngày càng tăng cả về quân sự lẫn ngoại giao. Họ luôn luôn giữ thế chủ động chống lại chủ nghĩa đế quốc Mỹ và chế độ bù nhìn ở Sài Gòn.
Vì vậy, chúng ta đặt câu hỏi tại sao nhân dân Việt Nam đã có thể làm ra được một chuyện thần kỳ như vậy, một chuyện vô song trong lịch sử? Cố nhiên, khoa học xã hội không thừa nhận những chuyện thần kỳ, vì hiện tượng xã hội cần phải được nghiên cứu và làm sáng tỏ trên quan điểm khoa học”.
“Để giải thích sức chiến đấu của nhân dân Việt Nam, nhiều người đã chỉ ra tinh thần kiệt xuất của dân tộc Việt Nam, “tinh thần dân tộc” của Việt Nam và “chủ nghĩa dân tộc” của Việt Nam. Rõ ràng là trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa Đế quốc Mỹ, cứu nước, nhân dân Việt Nam đã biểu thị đầy đủ sức mạnh tinh thần ghê gớm của họ, tinh thần hy sinh, chịu đựng và sáng tạo của họ. Họ đã cho chúng ta một tấm gương sáng, vô song về sức mạnh tinh thần của con người, thể hiện đến mức tối đa những khả năng tiềm tàng mà chỉ có những khả năng đó mới có thể thực hiện được một kết quả kỳ diệu như vậy trong những hoàn cảnh khó khăn quá sức tưởng tượng, những thành tựu đó chắc chắn sẽ được truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác như một bản anh hùng ca cần được ghi lại trong lịch sử nhân loại. Tuy nhiên, câu hỏi của chúng ta là sức mạnh tinh thần đó đã được tạo nên và phát huy hết mức như thế nào?...
        Nguyễn Khắc Viện, nhà sử học nổi tiếng của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhấn mạnh ý nghĩa của thực tế là suốt mấy ngàn năm, nhân dân Việt Nam đã cần cù và kiên nhẫn xây dựng đê, kênh, rạch, hồ, ao và đắp đê chế ngự lũ lụt, hạn hán và bão, cày cấy ruộng đất của họ như thể bằng máu và mồ hôi của mình. Cuộc đấu tranh này, diễn ra hàng ngày qua bao nhiêu thế kỷ, đòi hỏi phải có tổ chức, và cũng trong suốt hai ngàn năm, người Việt Nam đã phải đánh lui nhiều cuộc xâm lăng của nước ngoài, mỗi lần đều phải huy động tất cả mọi nghị lực…”.   
Cuối cùng, nguyên nhân thắng lợi của cuộc kháng chiến trường kỳ ngót 30 năm của dân tộc Việt chống hai thế lực xâm lăng hùng mạnh, lần lượt là thực dân Pháp rồi đến đế quốc Mỹ, nói theo Xalăng (Raul Salan), viên tướng Pháp ở Việt Nam lâu nhất và hiểu Việt Nam nhiều nhất, đã từng là Tổng tư lệnh các lực lượng viễn chinh Pháp toàn Đông Dương kiêm Cao ủy Pháp ở miền Bắc Việt Nam, trong cuốn “Đông Dương đỏ” của mình thì: “Bí quyết của sức kháng chiến phi thường của nhân dân Việt Nam, phải được tìm kiếm trong tổ chức lao động hợp tác của họ, đã phát triển trong quá trình 4.000 năm đấu tranh với thiên nhiên và truyền thống chiến tranh nhân dân được thể hiện trong những cuộc kháng chiến của họ chống xâm lăng trước đây. Trên cơ sở những nhân tố đó, phải có một lãnh tụ tài giỏi, một tập thể lãnh đạo kiên cường, quả cảm, tiến hành một cuộc cách mạng triệt để, liên tục biết phá vỡ những tổ chức chính quyền và hệ tư tưởng cũ, tổ chức chính quyền mới, đề xướng một hệ tư tưởng mới có khả năng huy động được mọi lực lượng”.
Cuộc chiến tranh Việt Nam đã lùi sâu vào dĩ vãng nhưng những bài học mà nó để lại cho thế giới từ cả hai phía vẫn còn nóng bỏng tính thời sự. Có rất nhiều học giả từ trước đến nay đề cập đến vấn đề này. Jean Christophe Oberg, đã từng là đại sứ Thụy Điển ở Hà Nội, có bài viết chúng ta cho là rất hay. Chúng ta sẽ trích vài đoạn từ đó:
“… Cuộc kháng chiến khốc liệt của dân tộc Việt Nam chống lại một siêu cường quốc giàu có nhất, mạnh nhất thế giới phải được khắc sâu như một bài học không thể quên được đối với tất cả các siêu cường quốc và các nước khác hằng mơ ước đạt tới (siêu cường). Nước Việt Nam, mặc dầu lạc hậu về kinh tế và kỹ thuật, đã chứng minh được rằng một dân tộc nhỏ bé có thể huy động lực lượng và toàn bộ phương tiện cần thiết để không thể bị quật ngã khi nền độc lập của nó bị đe dọa”.
“Đây là bài học có tầm quan trọng hàng đầu đối với tất cả những ai, với những lý do khác nhau, chỉ có thể trông cậy vào chính bản thân mình, để thực sự bảo vệ được nền độc lập và thống nhất dân tộc mình…”.
“Cuộc chiến tranh của Việt Nam đã đóng góp tích cực vào việc tạo ra một trật tự mới có tính chất bình đẳng hơn giữa các nước lớn, nhỏ và trung bình. Ngày nay, những ai muốn và đòi củng cố nền hòa bình thế giới theo những nguyên lý, những học thuyết của họ, những kẻ đó sẽ phạm sai lầm lớn khi ứng dụng những định lý có tính chất ảo tưởng của họ mà không muốn nhớ lại vực thẳm Việt Nam”.
“Bây giờ có thể chúng ta đã có đầy đủ lý do, mặc dù đã không biết được điều này sớm hơn, suy nghĩ trong chốc lát, để bày tỏ lời ca ngợi hàng triệu người Việt Nam vô danh, với vô vàn đau thương và hy sinh của họ, với giá của máu họ, đã đóng góp để tạo ra một trật tự mới của thế giới, mà trong đó Đông và Tây, Bắc hay Nam sẽ nhận thấy sự cần thiết tương trợ lẫn nhau chung sống hòa bình”.
Trong tác phẩm “Không thể chuộc lỗi” của Allen Hassan, bác sĩ dân sự người Mỹ, từng có mặt tại Nam - Việt Nam năm 1968 làm công việc chữa trị nhân đạo, chúng ta đọc được những đoạn này:
“Nước Mỹ nhớ rất kỹ những gì người khác gây cho họ nhưng lại quên rất nhanh những gì họ đã gây ra cho những người khác. Người chết không thể sống dậy, người tàn tật mãi mãi tàn tật, và nỗi đau mãi mãi là nỗi đau…”.
“Ở Việt Nam, chúng ta tiến hành một cuộc chiến tranh để ngăn chặn Cộng sản, nhưng chiến tranh đã không ngăn chặn được Cộng sản. Chúng ta gây thiệt hại to lớn cho nhân dân Việt Nam và cho chúng ta. Tại Việt Nam, quân đội chúng ta chú trọng đến việc đếm xác chết, nhưng trong những cuộc chiến tranh sau này như ở Irắc, thì lãnh đạo quân sự của chúng ta không còn bận tâm đến việc đếm xem có bao nhiêu thi thể thường dân tử vong nữa. Pascal nói: “Con người không bao giờ làm điều ác một cách hoàn toàn và vui vẻ như khi họ làm điều đó vì một đức tin tôn giáo”. Đã đến lúc phải quan tâm tới khái niệm về nghiệp chướng của người châu Á, theo đó, những điều chúng ta đã gây ra cho thế giới này một lúc nào đó sẽ trở lại với chúng ta…”.
“… Sự hiểu biết sẽ cải hóa và làm con người trở nên nhân bản. Lẽ phải làm cho chúng ta hòa nhã, nhưng thành kiến thì tận diệt mọi khuynh hướng hòa diu và dẫn đến chiến tranh. Nếu như chúng ta không thay đổi cách xử sự và trở lại là một đất nước hòa bình, hào phóng, sâu sắc và chu đáo, thì chúng ta sẽ tiếp tục đặt cược số phận của mình vào một ván bài, để rồi tự hủy hoại chính mình, hủy hoại cả hành tinh với vũ khí hạt nhân, vũ khí giết người hàng loạt, nước và thực phẩm bị nhiễm độc bởi chiến tranh sinh hóa.
Chúng ta chưa chuộc lỗi với những thiệt hại mà bom đạn và hóa chất của chúng ta đã gây ra tại Việt Nam. Tôi hy vọng rằng một ngày nào đó, chúng ta có thể giúp đất nước tươi đẹp này tẩy xóa hết hóa chất độc hại, những bom mìn chưa nổ, và rồi tạ lỗi cùng nhân dân Việt Nam về tất cả những gì chúng ta đã gây nên. Tôi hy vọng là chúng ta sẽ không quá kiêu hãnh và ngạo mạn để có thể thốt lên: “Chúng tôi chân thành xin lỗi!”, bằng tiếng Việt”.
“Theo truyền thống, người Mỹ tán thành và có thiện chí đối với các cuộc chiến tranh giành tự do hoặc các cuộc chiến tranh nhằm thiết lập một thể chế dân chủ. Chúng ta là nền dân chủ đầu tiên của Tân Thế Giới. Sức mạnh và ảnh hưởng của chúng ta lớn hơn bao giờ hết. Nhưng những hành vi quá khích đi cùng sự gây hấn và chinh phục sẽ làm người ta nhận ra sự hung bạo, làm cho người ta chán ghét, ghê tởm bởi những vụ thảm sát thường dân dưới danh nghĩa Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Những lời dối trá về sự kiện Vịnh Bắc Bộ đã đưa những công dân chúng ta đến chiến trường Việt Nam, và những lời cáo giác dối trá về vũ khí giết người hàng loạt đã đưa chúng ta đến với chiến trường Irắc. Không còn nghi ngờ gì nữa, thái độ ngạo mạn của Hoa Kỳ đối với các nước thuộc thế giới thứ ba đang đưa chúng ta vào một vòng tròn vô tận của các cuộc chiến tranh không bao giờ dứt…”.
“Chủ nghĩa khủng bố sẽ dần tiêu tan trên trái đất nếu như các cường quốc, những nước giàu mạnh đối xử với các nước thứ ba và nguyên thủ của họ bằng sự tôn trọng thực sự, và cùng nhau làm việc để đạt được mục tiêu chung. Tôn trọng đức tin của mỗi một dân tộc cũng như lịch sử của họ… Sự cao quí của người Mỹ không phải là sự cao quí của một đức vua hay của một tư lệnh hạm đội, mà là sự cao quí dân chủ rộng mở với bản tính tự nhiên, làm cho hầu hết công dân chúng ta đặc biệt thích làm điều tốt lành”.
“…, nhà khoa học Pháp vĩ đại Louis Pasteur đã nói trong một bài diễn văn ngày 27-12-1892: “Tôi có niềm tin chắc chắn rằng khoa học và hòa bình sẽ chiến thắng sự dốt nát và chiến tranh, rằng các quốc gia sẽ liên kết, không phải để hủy diệt mà là để xây dựng, và rằng tương lai sẽ thuộc về những ai cống hiến hết mình cho nhân loại”.
“… Cuốn sách này là nỗ lực cuối cùng ghi lại chính xác các sự kiện đối với những hành động tàn nhẫn mà tôi đã mục kích ở Việt Nam. Sách cũng bày tỏ những hy vọng của tôi về xứ sở mà tôi sinh ra, vốn vẫn tiềm tàng khả năng là một đất nước vĩ đại thực sự. Thật là chán nản khi thấy những hành vi tàn ác, vô nhân đạo vẫn tiếp tục mang danh nghĩa tổ quốc tôi, mang danh nghĩa đất nước mà tôi mến yêu, nơi tôi ra đời, một đất nước đã cho tôi quá nhiều… Nếu như chúng ta có thể hình dung ra một tương lai nhân bản hơn và nỗ lực để nó trở thành hiện thực thì đó chính là niềm hy vọng cho hòa bình trên thế giới”.
“… Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ long trọng tuyên bố: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được. Trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền được tự do và mưu cầu hạnh phúc”. Quyền được sống là quyền trước tiên, Quyền được sống bị tước đoạt một cách phi pháp thì nói đến hàng trăm, hàng ngàn quyền khác của con người là điều vô nghĩa, là đạo đức giả…”.

ẢNH TƯ LIỆU MẠNG:
                            
Toàn cảnh lễ ký kết Hiệp định Paris về Việt Nam, 27.1.1973 (Ảnh tư liệu)

                            
Ngày 3/6/1968, đông đảo các chính khách và Việt kiều tại Paris ra sân bay Bretigny (Pháp) đón đ/c Lê Đức Thọ, Cố vấn đặc biệt của đoàn đại biểu Chính phủ Việt Nam tại Hội nghị Paris. Ảnh: Văn Lượng-TTXVN.
 
                        
Sáng 4/11/1968, Đoàn đại biểu Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam do Bà Nguyễn Thị Bình, Phó Trưởng đoàn dẫn đầu đến Paris (Pháp) dự Hội nghị bốn bên về Việt Nam. Ảnh: Văn Lượng-TTXVN.
                                       
Chữ ký của các các bên trong Văn bản Hiệp định Chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Ảnh: Tư liệu TTXVN.
                        
Các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta đón Cố vấn đặc biệt Lê Đức Thọ và Bộ trưởng Bộ ngoại giao Nguyễn Duy Trinh ở Phủ Chủ tịch sau khi ký Hiệp định Paris trở về Việt Nam. Đông đảo đại diện các đoàn ngoại giao đến chúc mừng, chia vui trước thắng lợi lịch sử của nhân dân ta. Ảnh: Tư liệu - TTXVN.
                      
Quang cảnh Cuộc nói chuyện chính giữa Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Chính phủ Hoa Kỳ về hòa bình tại Việt Nam tại Phòng họp Trung tâm Hội nghị Quốc tế ở Paris ngày 13/5/1968. (Đoàn Việt Nam ngồi phía bên phải). Ảnh Tư liệu – TTXVN.
                      
Ngày 9/5/1968, đông đảo kiều bào Việt Nam và nhân dân Paris cùng các phóng viên quốc tế tập trung tại sân bay Bourget đón đồng chí Xuân Thủy, đại diện Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đến tham dự cuộc đàm phán với đại diện Chính phủ Mỹ về hòa bình tại Việt Nam. Ảnh Tư liệu – TTXVN.
                     
Ngày 25/01/1969, Hội nghị bốn bên về Hòa bình tại Việt Nam chính thức khai mạc phiên toàn thể đầu tiên, gồm 4 đoàn đại biểu: Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa. Ảnh:Tư liệu - TTXVN.
                       
Thái độ lật lọng và hành động leo thang chiến tranh của chính quyền Mỹ đã gây nên một làn sóng phản đối mạnh mẽ khắp thế giới. Ngày 20/01/1973, cùng với hàng trăm cuộc biểu tình chống chiến tranh nổ ra ở nhiều nước trên thế giới, nhân dân Mỹ tổ chức biểu tình lớn ở Thủ đô Oasinhtơn, trong khi Richard M.Nixon làm lễ nhậm chức Tổng thống, đòi Mỹ ký ngay Hiệp định hòa bình, chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam. Ảnh: Tư liệu - TTXVN.
                   
Thực hiện Hiệp định Hòa bình Paris, trong hai ngày 28 và 29/3/1973, tại sân bay Gia Lâm, 107 nhân viên quân sự Mỹ (đợt cuối cùng) được Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trao trả cho Hoa Kỳ. Ảnh: Văn Bảo - TTXVN.


Đoàn đại biểu Việt Nam dân chủ cộng hòa tại lễ ký kết Hiệp định Paris
 (Ảnh tư liệu: BNG)
Trong lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm của nhân dân Việt Nam, có lẽ chưa có cuộc đàm phán nào kéo dài như Hội nghị Paris. Gần 5 năm, với 202 phiên họp công khai và 24 cuộc gặp riêng, đàm phán Paris là cuộc đấu trí giữa hai nền ngoại giao: Việt Nam và Mỹ. Nhìn lại vị thế của Việt Nam kể từ khi bắt đầu bước vào bàn đàm phán đến khi Mỹ đặt bút ký vào Hiệp định Paris, chính thức thừa nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, đã có nhiều khác biệt cơ bản. Từ một nước bị giày xéo trong bom đạn, cái mà Việt Nam đem đến bàn đàm phán là một tinh thần quyết chiến quyết thắng, ý chí quật cường đấu tranh bền bỉ bảo vệ chân lý, giành độc lập tự do của cả một dân tộc. Những thắng lợi vang dội trên chiến trường Việt Nam, đặc biệt là cuộc đụng đầu lịch sử trong 12 ngày đêm của trận “Điện Biên Phủ trên không” là đòn quyết định buộc Mỹ phải ký kết Hiệp định chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam.
 

Lễ cuốn cờ ở Bộ Chỉ huy quân đội Mỹ tại Sài Gòn để rút quân ra khỏi Việt Nam (ảnh tư liệu)


Ông Võ Văn Sung, Nguyên trợ lý Bộ trưởng Ngoại giao, Nguyên Đại sứ Việt Nam tại Pháp cho rằng: Thắng lợi của Hiệp định Paris có 2 vế quan trọng. Thứ nhất, đứng về mặt ngoại giao thì phải bàn bạc, làm cho đúng, cho chủ nhà của Hiệp định Paris là Pháp đồng tình với ta, ủng hộ ta. Thứ hai, làm thế nào để nhân dân thế giới đứng về phía ta. Phải nói rằng, trong 12 ngày đêm bầu trời Hà Nội thì rực lửa bắn máy bay, ngày nào ông Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Pháp cũng gặp đoàn Việt Nam. Ông rất cần thông tin để có thái độ. Trong 12 ngày đêm đó, nước Pháp là mùa đông nhưng không khí hừng hực tất cả. Hừng hực tình cảm của người dân Pháp, hừng hực tình cảm của bà con Việt kiều, tình cảm của bạn bè quốc tế, bạn bè Tây Âu ủng hộ Việt Nam


Hiệp định Paris 1973 phản ánh được ở mức cao thắng lợi và xu thế cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam trong bối cảnh quốc tế có thuận lợi nhưng cũng chứa đựng nhiều phức tạp. Việt Nam đã tranh thủ được cả Liên Xô, Trung Quốc, các nước XHCN, các nước không liên kết, nhân dân thế giới và hình thành trên thực tế “mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam chống Mỹ xâm lược”, thể hiện phương châm kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, kết hợp ngoại giao nhà nước với ngoại giao nhân dân.

Hiệp định Paris và việc Mỹ rút khỏi Việt Nam góp phần to lớn vào sự nghiệp giải phóng của nhân dân Lào và Campuchia. Giải pháp về Lào gần như đồng thời với Hiệp định Paris về Việt Nam, tháng 2/1973. Hiệp định Paris mở đường cho thắng lợi của Campuchia tháng 4/1975.

Đặc biệt, thắng lợi của nhân dân Việt Nam góp phần mở ra cục diện mới ở Đông Nam Châu Á; quân đội Mỹ rút khỏi khu vực; khối SEATO giải tán; xu thế hòa bình, trung lập trong khu vực phát triển.

Hội nghị Paris đã để lại nhiều bài học lớn, trong đó có bài học về ý chí quyết tâm bảo vệ độc lập chủ quyền dân tộc và tinh thần đoàn kết quốc tế - bài học còn nguyên giá trị đối với các quốc gia.

những hành động của Mỹ sau khi tuyên bố “chấm dứt chiến tranh” tại Việt Nam vào Tháng 2 năm 1973. Mỹ đã thất hứa khi vẫn hiện diện ở Việt Nam dưới vỏ bọc là cơ quan quản lý dịch vụ (Management Services Division). Và, đối với John Pilger chiến dịch cuối cùng ở Việt Nam bắt đầu từ ngay ngày đầu năm mới 1975, khi quân đội miền Bắc bao vây và chiếm thủ phủ Phước Bình, chỉ cách Sài Gòn có 75 dặm.
 Pilger viết: “Sài Gòn đang sụp đổ trước mắt, một Sài Gòn được người Mỹ hậu thuẫn, một thành phố được coi là “thủ đô tiêu dùng” nhưng chẳng hề sản xuất một mặt hàng nào ngoài chiến tranh. Trong hàng ngũ của quân đội lớn thứ tư thế giới vào thời điểm đó, binh lính đang đào ngũ với tốc độ cả nghìn người trong một ngày…”
Toàn cảnh Hội nghị Paris về chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam. (Ảnh tư liệu)
 Toàn cảnh Hội nghị Paris về chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam. (Ảnh tư liệu)

Toàn cảnh Hội nghị Paris về chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam. (Ảnh tư liệu)

    
  Một điểm thú vị trước khi Hiệp định Paris 1973 được ký kết, đó là sự rối ren tột cùng tại Sài Gòn lúc ấy. Lệnh tiến hành di tản được đưa ra. Tuy nhiên, Đại sứ Martin vẫn tin rằng “còn thời gian” đàm phán để có một “giải pháp danh dự”. John Pilher miêu tả: “Một đám đông chen lấn ở trước cửa sứ quán Mỹ, có người còn cố trèo tường để vào bên trong. Một số người có mặt ở đây chỉ vì tò mò. Một số khác vừa ôm chặt cánh cổng sắt vừa nài nỉ thủy quân lục chiến Mỹ. Họ đưa ra giấy tờ hoặc thư từ giới thiệu của các quan chức Mỹ”.



       Nhà báo John Pilger xúc động nhớ lại cảnh ngủ dưới gầm giường để tránh mảnh pháo, đến sáng lại dạo vòng quanh khu trung tâm, cảm nhận cuộc chiến sắp kết thúc. Trên hết là hình ảnh những người bị tàn phế, những con người đang phải nằm ở bệnh viện và tất cả những hy sinh của họ, ông nghĩ “họ hoàn toàn xứng đáng hưởng một nền hòa bình”.
                                      
Bộ trưởng Xuân Thủy cùng cố vấn đặc biệt của Việt Nam DCCH Lê Đức Thọ rời cuộc gặp riêng tại địa điểm của đoàn Việt Nam DCCH ở 11 phố Darthe. Ảnh tư liệu

                                    Dấu ấn đồng chí Lê Đức Thọ với cuộc đàm phán tại Hội nghị Paris 
Cố vấn Lê Đức Thọ và cố vấn đặc biệt của Tổng thống Mỹ, tiến sĩ Henry Kissinger, hai người tạo ra những huyền thoại ngoại giao về cuộc chiến tranh do Mỹ gây ra tại Việt Nam. Ảnh tư liệu
                          
Bộ trưởng Ngoại giao Chính phủ lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam Nguyễn Thị Bình ký Hiệp định Paris, ngày 27/1/1973. Ảnh: Tư liệu



                    
Thái độ lật lọng và hành động leo thang chiến tranh của chính quyền Mỹ đã gây nên một làn sóng phản đối mạnh mẽ khắp thế giới. Ngày 20/01/1973, cùng với hàng trăm cuộc biểu tình chống chiến tranh nổ ra ở nhiều nước trên thế giới, nhân dân Mỹ tổ chức biểu tình lớn ở Thủ đô Oasinhtơn, trong khi Richard M.Nixon làm lễ nhậm chức Tổng thống, đòi Mỹ ký ngay Hiệp định hòa bình, chấm dứt chiến tranh tại Việt Nam

Cuộc đấu trí căng thẳng tại Hội nghị Paris qua ảnh - Ảnh 1.

Trụ sở Phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa dự Hội nghị Paris tại Choisy-le-Roi, Cộng hòa Pháp - Ảnh: Cục Lưu trữ văn phòng Trung ương Đảng                             

Sau thắng lợi của hai mùa khô, ta chủ trương mở mặt trận ngoại giao để phối hợp với mặt trận quân sự nhằm tố cáo tội ác của đế quốc Mỹ, nêu rõ lập trường chính nghĩa của ta, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của thế giới. Mục tiêu trước mắt là đòi Mỹ chấm dứt không điều kiện việc ném bom phá hoại miền Bắc. Tháng 3/1968, sau cuộc tổng tiến công nổi dậy Tết Mậu Thân, Giôn-xơn ra lệnh ngừng ném bom từ vĩ tuyến 20 trở ra, bắt đầu nói đến việc thương lượng và đàm phán với ta.
                                     Hình ảnh Hiệp định Paris, nhìn từ người Mỹ phản chiến số 4   
                Ông Lê Đức Thọ và Henry Kissinger tại Paris năm 1973. Ảnh: AFP                                

1

Cựu binh tại Washington D.C. phản đối cuộc chiến ở Đông Dương bằng cách vứt huy chương và đồng phục của họ qua hàng rào trước tòa nhà quốc hội Mỹ Capitol. Ảnh: history.com

                 Chùm ảnh về phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam thập niên 60

Năm 1965, khoảng 50 giảng viên đại học tại Michigan, Mỹ tổ chức một diễn đàn để phản đối chiến tranh Việt Nam. 3.000 người tham dự sự kiện này với các hoạt động gồm tranh luận, thuyết giảng và biểu diễn âm nhạc, tất cả nhằm mục đích giáo dục cộng đồng về hòa bình.

"Điều thấy được từ sự kiện này là chúng ta có thể làm nên khác biệt chỉ trong một đêm", Giáo sư triết học Frithjof Bergmannm, nhà tổ chức chính của hoạt động nói. Trong ảnh, giáo sư Frithjof Bergmann (phải) và nhà hoạt động Alan Haber hồi tháng ba tham dự lễ kỷ niệm 50 năm tổ chức sự kiện này. Ảnh: Michigandaily

 

Một nhóm sinh viên nữ tại Đại học California, Berkeley, Mỹ, biểu tình phản đối chiến tranh Việt Nam. Phần lớn phong trào chống chiến tranh bắt đầu từ các trường đại học với các tổ chức như Sinh viên vì một Xã hội Dân chủ (SDS). Ảnh: history.com 
 

                         1
            Hàng nghìn người tập trung trước tòa Quốc hội Mỹ để đòi chính phủ rút         quân về nước năm 1971. Ảnh: Vintage
                                     1
Ca sĩ huyền thoại John Lennon sáng tác bài Give Peace a Chance (Hãy cho hòa bình một cơ hội) với nội dung phản đối cuộc chiến. Tháng 10/1969, ông đã hát bài này trước khoảng 500.000 người biểu tình, chống cuộc chiến do Mỹ phát động. Ảnh: Getty
       1

Ngày 15/11/1969, hơn 500.000 người đổ xuống đường ở Washington, D.C., tham gia một trong những cuộc biểu tình lớn nhất trong lịch sử Mỹ. "Một đội quân bất bình lớn nhưng ôn hòa ​​di chuyển qua thành phố", tờ New York Times vào thời điểm đó đưa tin về sự kiện này. Ảnh: history.com

 
        1

Ngày 30/4/1970, Tổng thống Mỹ Richard Nixon tuyên bố cần điều thêm 150.000 lính đến Việt Nam, dẫn đến các cuộc biểu tình quy mô lớn tại các trường đại học trên khắp nước Mỹ. Ảnh: history.com


Năm 1968, trong một lần ám sát hụt một tên mật thám, bà Võ Thị Thắng bị bắt, bị tòa tuyên án 20 năm khổ sai. Ngày 2/8/1968, trước Tòa án quân sự mặt trận vùng 3 chiến thuật của chính quyền Sài Gòn, sau khi nghe kết án, bà đã bình tĩnh, tự tin, nở nụ cười và dõng dạc tuyên bố:“Liệu chính quyền của các ông có tồn tại đến 20 năm để bỏ tù tôi không?”. 


Trong 6 năm ròng rã, bà Võ Thị Thắng đã bị kẻ thù đày đọa, giam cầm, tra tấn hết nhà lao này đến nhà lao khác. Bà được trao trả ở chính sân bay Lộc Ninh trong đợt trao trả cuối cùng theo Hiệp định Paris (Bà Thắng là người đứng thứ ba từ phải sang).


Bà Võ Thị Thắng (bên phải) cùng các bạn tù chính trị nữ trong đợt trao trả tù binh tại Lộc Ninh tháng 4/1974.


Biên tập viên Hương Tuấn Vũ của Đài Giải phóng đã phỏng vấn bà Võ Thị Thắng khi bà vừa được thả tại sân bay Lộc Ninh.


Các nhà lao Thủ Đức, Chí Hòa, Tân Hiệp, Hố Nai, Côn Đảo không giam cầm được khí tiết cách mạng của người con gái trẻ trong suốt 6 năm.


Bà Võ Thị Thắng phát biểu tại lễ kỷ niệm 50 năm Ngày thành lập ngành Du lịch Việt Nam. Nhân dịp này, bà được Chính phủ tặng Huân chương độc lập hạng Nhì vì những cống hiến cho sự phát triển của ngành Du lịch Việt Nam.


Vào lúc 8h15 phút sáng 22/8, bà Võ Thị Thắng, người phụ nữ trong bức ảnh “Nụ cười chiến thắng” nổi tiếng, sau một thời gian lâm bệnh nặng đã qua đời, hưởng thọ 69 tuổi. Tang lễ được cử hành tại Nhà tang lễ Bộ Quốc phòng phía Nam (số 5 Phạm Ngũ Lão, phường 3, quận Gò Vấp, TP HCM). Lễ viếng bắt đầu vào lúc 8h30 ngày 23/8. Sau đó, đưa đi an táng tại quê nhà Long An vào sáng thứ hai 25/8.

                  Những bức ảnh lịch sử ngày thống nhất đất nước  - ảnh 12 
Bức ảnh đã đi vào tâm trí của nhiều thế hệ,"Mẹ con ngày gặp lại" của nhà báo Lâm Hồng Long. 
 
Đây là những "tờ lịch" ghi lại 81 ngày đêm (28/6/1972 đến 16/9/1972)dân và quân ta chiến đấu quyết liệt với quân địch để giành lấy Thành Cổ- một vị trí vô cùng quan trọng, như Ngô Đình Diệm đã nói Quảng Trị là là bàn đạp để thực hiện âm mưu Bắc tiến khi có điều kiện, vừa là lá chắn bảo vệ "biên giới Hoa Kỳ kéo dài đến vĩ tuyến 17".
Điểm đến của tàu không số
TP - Các bến bãi là điểm đến của tàu không số vận chuyển vũ khí, hàng hoá chi viện cho chiến trường miền Nam đã đi vào lịch sử với cái tên đường Hồ Chí Minh trên biển.
 
        Thăm nghĩa trang Trường Sơn - địa chỉ ở đâu 
Nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn tọa lạc ở khu đồi Bến Tắt, nằm bên cạnh được Quốc lộ 15
                                 
                                                                    ***                           
Cần phải nói thêm rằng góp công vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước còn có đội ngũ tình báo Cách mạng hoạt động hết sức tài giỏi và đạt hiệu quả cao trên mặt trận thầm lặng, trong lòng địch. Nếu trong cuộc chiến trang vệ quốc vĩ đại của quân dân Xô Viết, đội ngũ tình báo Xô viết đã có một vai trò quan trọng trong chiến công chung thì cũng tương tự, trong cuộc kháng chiến thần thánh của quân dân Việt Nam Chống thực dân đế quốc xâm lược, đội ngũ tình báo của chúng ta cũng đã góp góp một phần đắc lực, hết sức vẻ vang vào ngày toàn thắng.
Những thập niên đầu của của thế kỷ 20, lòng người chia làm trăm ngả, đất nước ta mênh mông trong đêm dài nô lệ, bước chân của những người cộng sản Việt Nam tiên phong đã tìm đến một con đường sáng vừa khai phá, đó là “Chủ nghĩa cộng sản”. Mười lăm năm sau ngày ra đời ấy, năm 1945 một cuộc cách mạng đã bùng lên, ngày 2 tháng 9 năm 1945, Bác kính yêu, đại biểu cho những người cộng sản kiên trung ấy đã tuyên bố quyền độc lập tự do của dân tộc mình và khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa - nhà nước dân chủ đầu tiên ở Đông Nam Á, đồng thời là tiếng chuông cảnh tỉnh cho các dân tộc thuộc địa vùng lên đánh đổ chế độ thực dân đế quốc, giành lại độc lập cho dân tộc mình. Chính vì lẽ đó mà bọn thực dân đế quốc và các thế lực thù địch đã cấu kết với nhau, dùng trăm phương ngàn kế hòng bóp chết chính quyền cách mạng non trẻ. Vận mệnh quốc gia, dân tộc đang lâm nguy như “Ngàn cân treo đầu rợi tóc”. Trước tình hình đó, Đảng, Nhà nước và Chính phủ ta mà đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương đẩy mạnh phát triển lực lượng vũ trang để chuẩn bị cho kháng chiến lâu dài. Sự ra đời của Quân đội ta, tất yếu phải tổ chức ra lực lượng Tình báo quân sự chuyên trách phục vụ kịp thời nhu cầu chiến đấu và bảo vệ chính quyền cách mạng non trẻ.
Tình báo Việt Minh là một « mạng lưới tinh vi », được « tổ chức chặt chẽ », đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng « theo khuôn mẫu của Liên Xô và Trung Quốc ». Một số tài liệu được giải mật của quân đội Pháp trong chiến tranh Đông Dương cho phép nhà sử học Michel Bodin kết luận như trên trong bài nghiên cứu Les services de renseignements Viet Minh (1945-1954) - Các cơ quan tình báo của Việt Minh (1945-1954) đăng trên tạp chí quân sự Guerres Mondiales et Conflits Contemporains - số 191/1998.  
Trong mắt những người lính thuộc Lực Lượng Viễn Chinh của Pháp, tình báo Việt Minh đã trở thành một vũ khí « rất lợi hại ». Theo Michel Bodin: "Về cơ bản, mật vụ hoạt động theo ba nguyên tắc : thu tập thông tin tình báo, phân tích - khai thác những thông tin đó và công tác phản gián. Đây là những tổ chức vô cùng phức tạp với rất nhiều thay đổi theo thời gian. Điều bất di bất dịch duy nhất là tất cả phải được đặt dưới sự lãnh đạo của đảng Cộng Sản.
Kể từ sau năm 1950 mạng lưới tình báo Việt Minh bao gồm 6 ngành, chúng hoạt động một cách bổ sung cho lẫn nhau. Trước hết, bên Tình Báo hoạt động cả tại Việt Nam lẫn tại Pháp. Nhân viên tổ tình báo này có liên lạc với khối Đông Âu và cũng rất có thể là cả với một tổ chức bí mật của đảng Cộng Sản Pháp. Thứ nhì là Quân Báo chỉ hoạt động tại Việt Nam và được đặt dưới sự chỉ huy của tướng Võ Nguyên Giáp. Nhóm thứ ba được biết đến là bên Trinh Sát với sứ mệnh thăm dò và thu thập những thông tin cần thiết để chuẩn bị cho các trận hành quân. Trong toán thứ tư công việc quan sát được giao phó cho dân, đúng theo tinh thần huy động toàn dân vào một cuộc chiến. Mỗi người dân đều là tai, mắt của Việt Minh và của quân đội nhân dân Việt Nam để theo dõi phía Pháp, theo dõi những người có lui tới và có quan hệ với Pháp, với những cộng tác viên của quân đội Pháp. Tổ chức thứ năm là bên Công An với nhiệm vụ là kiểm soát dân tình và trừ khử những kẻ phản bội. Sau cùng, Phòng Địch Vận thuộc về mảng chiến tranh tâm lý với mục đích vận động, tuyên truyền kêu gọi địch đào ngũ. Để đạt được hiệu quả, thì bên Địch Vận phải có những thông tin chính xác về những đối tượng nhắm tới do vậy, bản thân tổ chức này cũng có những bộ phận riêng đặc trách về tình báo, về công tác phân tích thông tin và các hoạt động phản gián...Chính nhờ mạng lưới tình báo tinh vi này mà năm 1951 bên Việt Minh phá vỡ được chiến dịch Tourbillon của quân đội Pháp (Long Xuyên, Đồng Tháp Mười năm 1951). Mạng lưới tình báo của Việt Minh đã lập những thành tích rõ rệt nhưng bên cạnh đó thì cũng có một số thất bại chẳng hạn như trong trận đánh ở Nà Sản (1952) bộ phận trinh sát của Việt Nam không lường trước được là phía Pháp huy động đội ngũ lê dương yểm trợ cho chiến dịch này. Nà Sản là một thất bại ê chề đối với phía Việt Minh ...Đương nhiên. Nhưng ngoài ra còn có một yếu tố khác nữa đó là tất cả nhân viên tình báo Việt Minh không được đào tạo. Họ có thể đếm số xe tải đi qua, xe có bao nhiêu bánh … Nhưng phía Việt Nam thiếu các nhà phân tích những dữ liệu thu thập được do vậy Việt Minh cũng đã phải đối mặt với nhiều thất bại. Đó là sự hạn chế trong tổ chức tình báo của phía Việt Nam. Ngành tình báo của Việt Minh là một tổ chức rất thứ tự lớp lang, với cấu trúc chặt chẽ, tỉ mỉ và luôn dựa trên nguyên tắc chiến tranh nhân dân tức là với sự tham gia của mọi người dân, của mọi nhà".
Trên thực tế, trong thời gian trước và sau cách mạng tháng tám các xứ ủy, tỉnh ủy và lực lượng vũ trang các phân khu, địa phương đã hình thành tổ chức tình báo của mình, tuy nhiên lực lượng còn mỏng, tổ chức chưa chặt chẽ, thiếu thống nhất và hiệu quả hoạt động chưa cao. Để nắm chắc tình hình địch và chủ động chuẩn bị lâu dài cho kháng chiến trên phạm vi toàn quốc, ta chủ trương xây dựng một cơ quan Tình báo Quân sự thống nhất từ Bộ Quốc phòng xuống đến các đơn vị và địa phương, ngày 25/10/1945 Phòng Tình báo thuộc Bộ Tổng tham mưu Quân đội quốc gia Việt Nam (nay là Quân đội Nhân dân Việt Nam) chính thức được thành lập trên cơ sở hợp nhất các lực lượng Tình báo của Đảng và Quân đội. Đây là tổ chức Tình báo đầu tiên của Việt Nam và là tiền thân của Tổng cục Tình báo Quốc phòng Việt Nam (Tổng cục 2) ngày nay. Từ đó, ngày 25/10 hàng năm đã trở thàng ngày truyền thống ngành Tình báo Quốc phòng Việt Nam.
Một số nét nổi bật trên bước đường hoạt động của tình báo nước ta:
Từ năm 1955 đến 1958, vì sự hoạt động có hiệu quả của các cơ quan phản gián Việt Nam Cộng hòa, nhiều đầu mối quan trọng của Ban Địch tình bị phát hiện và theo dõi, nhiều lãnh đạo của Ban cũng bị bắt. Đây cũng là một trong những thời điểm khó khăn nhất của Cách mạng miền Nam nói chung và lực lượng tình báo nói riêng.
Năm 1968, theo yêu cầu của Bộ Tổng tham mưu và lãnh đạo cục, Phòng Điệp báo ngoài nước (Cục 25 ngày nay) phối hợp với các tổ điệp báo tại Thái Lan, đã tấn công làm hư hại nhiều máy bay tại các sân bay Utapao và Udon.
Tháng 7 năm 1969, Cụm A22 - cụm điệp báo được cho là leo cao luồn sâu nhất trong chính quyền Việt Nam Cộng hòa bị phát hiện. Trong thời gian này, ít nhất 2 lưới tình báo A22 và A26 bị vỡ, một số lưới hoạt động không hiệu quả hoặc bị theo dõi, khiến phòng tình báo miền phải tổ chức hội nghị đặc biệt để bảo toàn các lưới khác.
Năm 1971, ít nhất 3 nguồn tin từ các tổ điệp báo đã phát hiện kế hoạch điều quân của quân đội Việt Nam Cộng hòa ra Hạ Lào, góp phần làm thất bại chiến dịch Lam Sơn 719.
Năm 1972, các lực lượng của Tình báo Quân sự, đặc biệt là Trinh sát kỹ thuật và Điệp báo chiến lược đã phát hiện sớm tình hình địch, phục vụ hiệu quả xuất sắc, góp phần đập tan cuộc tập kích đường không chiến lược 12 ngày đêm của Mỹ tháng 12 năm 1972, làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ trên không.
Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, cán bộ của Phòng Quân báo đã kịp thời tham mưu, đề xuất với Cục Tình báo và Bộ Chỉ huy Miền chỉ đạo lực lượng trinh sát của Bộ tăng cường cho các Binh đoàn chủ lực tham gia chuẩn bị chiến trường, kết hợp chặt chẽ với các lực lượng nổi dậy trong nội đô, ven đô, dẫn đường và chỉ thị mục tiêu cho các cánh quân tiến về Sài Gòn, làm nên Đại thắng mùa xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Năm 1977, Cục Quân báo thu được tài liệu cho thấy Khmer Đỏ coi Việt Nam là đối thủ truyền kiếp, từ đó Trung ương đánh giá những sự kiện diễn ra tại biên giới Tây Nam không đơn thuần là xung đột biên giới thông thường, mà là chiến tranh toàn diện bảo vệ Tổ quốc.
Tháng 2 năm 1979, chiến tranh biên giới phía Bắc nổ ra. Cục không dự đoán được quy mô xung đột với Trung Quốc. Tổng kết sau chiến tranh, Bộ Tổng tham mưu nhận xét về mặt chiến thuật chúng ta thành công, nhưng về mặt chiến lược Việt Nam bị bất ngờ.
Tháng 5 năm 1983, xảy ra sự kiện Xiêm Rệp, bộ phận quân báo của mặt trận 479 (ngày nay là Cục 12) - bị phản tình báo, đã đưa đến nhận định sai lầm, gây ra hậu quả lớn trong quan hệ giữa 2 nước Campuchia và Việt Nam.
Khi kết thúc chiến tranh lạnh, Cục có đóng góp rất to lớn vào việc phá thế bao vây chiến lược của các nước lớn đối với Việt Nam, góp phần bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc và Mỹ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế xã hội sau này. 
.... 

Ghi nhận công sức và thành tích của Tình báo, ngày 23 tháng 10 năm 2020, nhân kỷ niệm 75 năm ngày thành lập, thay mặt lãnh đạo Đảng và Nhà nước đã trao tặng Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Nhất cho Tổng cục tình báo quốc phòng vì những thành tích đặc biệt xuất sắc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

 Một trong những nhà tình báo tiêu biểu cho tài năng và đức độ của Việt Nam là Phạm Xuân Ẩn. Ông hoạt động trong “vỏ bọc” là một nhà báo làm việc cho tạp chí “Time” của Mỹ tại Sài Gòn suốt cuộc chiến tranh mà không bị lộ.
Nhưng trước khi kể về  Phạm Xuân Ẩn, chúng ta liệt kê tóm tắt tiểu sử của một số nhà tình báo kiệt xuất và quả cảm của ngành tình báo quân đội Việt Nam ra đây như một lời tri ân thành kính.
1- Hoàng Minh Đạo:
Hoàng Minh Đạo, tên thật Đào Phúc Lộc, (1923 – 1969) là một trong những nhà tình báo nổi tiếng của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thời chiến tranh Việt Nam. Tên tuổi và sự nghiệp của ông gắn liền với sự ra đời của ngành Tình báo quân sự Việt Nam. Ông được coi là người đầu tiên xây dựng nền móng cho sự thành lập của ngành tình báo Việt Nam ngay từ khi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công. Ông cũng là một trong những nhân vật quan trọng sáng lập ra Ban địch tình Xứ ủy Nam Kỳ và ngành Binh vận vào thời điểm 1954 – 1955) của Cách mạng miền Nam.
Ông tham gia phong trào thanh niên, học sinh yêu nước ở Hải Phòng và được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1939 và trở thành người giữ liên lạc của đồng chí Tô Hiệu.

Năm 1940, trong một chuyến công tác, Đào Phúc Lộc bị bắt, bị kết án 2 năm tù, bị tra tấn dã man nhưng thực dân Pháp không khai thác được gì ở người thanh niên dũng cảm này. Chúng đưa ông về Móng Cái quản thúc trong thời gian 5 năm.

Năm 1943 – 1945, với nhiệm vụ được Trung ương Đảng giao, Đào Phúc Lộc với bí danh Hoàng Minh Đạo đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, đã giáo dục, bồi dưỡng, đào tạo cho cách mạng nhiều hạt giống tốt, nhiều người trưởng thành là cán bộ nòng cốt trong quân đội và đặc biệt trong ngành tình báo từ những năm đầu kháng chiến chống Pháp.  

Trong thời kỳ chỉ huy và hoạt động tình báo ở miền Bắc, Đào Phúc Lộc đã xây dựng được nhiều cơ sở bí mật, nhiều cộng tác viên của mình trong nội thành Hà Nội, trong số đó có thể kể đến gia đình ba chị em ở nhà số 41 (sau đó là nhà số 36) phố Lò Sũ, Hà Nội. Người chị cả là bà Nguyễn Thị Kíu, em trai là Nguyễn Công Cầu và em gái út là Nguyễn Thị Hiền. Bà Kíu và ông Cầu là hai chủ tiệm bánh kẹo Tùng Hiên nổi tiếng ở Hà Nội và quanh vùng lúc bấy giờ.

Cách mạng Tháng Tám thành công, Đào Phúc Lộc về Hà Nội nhận nhiệm vụ là Trưởng phòng Tình báo thuộc Bộ Tổng Tham mưu khi mới 22 tuổi, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chủ tịch Quân ủy hội Võ Nguyên Giáp và Tổng tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái. 

Nhận nhiệm vụ nắm bắt tình hình quân Pháp, Nhật, Tưởng và bọn Việt Quốc, Việt Cách thân Tưởng, chỉ với một nhóm cán bộ ít ỏi, cùng những phương tiện liên lạc thô sơ, Hoàng Minh Đạo đã tổ chức mạng lưới tình báo rộng khắp từ nhà hàng, khách sạn, rạp hát, bưu điện, cài cắm người trong hàng ngũ của địch. Với phương châm “lấy dân làm tai mắt”, đồng chí nắm bắt được các thông tin nhanh, giúp cách mạng kịp thời tổ chức tác chiến. Dưới sự chỉ huy đầy sáng tạo của Hoàng Minh Đạo, những chú bé đánh giày, những cô thiếu nữ “lá ngọc cành vàng”, nữ sinh... đã hoàn thành nhiệm vụ, góp phần vào thắng lợi chung của phong trào cách mạng. Chỉ sau 2 năm (1945 - 1947), Phòng tình báo do Hoàng Minh Đạo đứng đầu đã có mạng lưới đặt tại 23 tỉnh, thành từ Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ đến Thừa Thiên. Thời kỳ này, Hoàng Minh Đạo cũng là người có công lớn mở các lớp giáo dục, bồi dưỡng, đào tạo cán bộ. Nhiều hạt giống của cách mạng đã trưởng thành, là cán bộ nòng cốt trong quân đội và đặc biệt trong ngành tình báo nước ta từ những năm đầu kháng chiến chống Pháp: Thiếu tướng Cao Pha, vợ chồng Đại tá anh hùng Nguyễn Minh Vân... Đồng thời, dưới sự chỉ huy của đồng chí, nhiều cơ sở bí mật, nhiều cộng tác viên trong nội thành Hà Nội được xây dựng. 

 

                Đồng chí Hoàng Minh Đạo và vợ Hoàng Minh Phụng cùng con gái Minh Vân tại chiến khu Việt Bắc, Đại Từ, Thái Nguyên, năm 1947. Ảnh tư liệu
Đồng chí Hoàng Minh Đạo và vợ Hoàng Minh Phụng cùng con gái Minh Vân tại chiến khu Việt Bắc, Đại Từ, Thái Nguyên, năm 1947. Ảnh tư liệu

                         Khúc tráng ca về nhà tình báo - Liệt sĩ Hoàng Minh Đạo

        Đồng chí Hoàng Minh Đạo và vợ-bà Bùi Ngọc Hường, chuẩn bị đón con đầu lòng tại Chiến khu Đ, năm 1952.

Năm 1948, đồng chí Hoàng Minh Đạo được điều động làm Đặc phái viên của Bộ Tổng Tham mưu, đi kiểm tra tình hình từ Khu 4 vào Nam Bộ để kiện toàn và thống nhất lại các tổ chức của ngành tình báo, giúp Bộ Tổng Tham mưu có điều kiện chỉ đạo kháng chiến trong toàn quốc. Khi vào đến Nam Bộ, đồng chí được cử làm Trưởng ban Quân báo Phòng Tham mưu Bộ Tư lệnh Phân liên khu miền Đông Nam Bộ, Bí thư Liên Chi ủy các cơ quan thuộc Phòng Tham mưu Phân liên khu miền Đông.

Tháng 7/1954, đồng chí là thành viên trong Phái đoàn Liên lạc Quân sự 4 bên, giám sát việc thực hiện Hiệp định Genève ở Nam Bộ. Sau đó, đồng chí được phân công ở lại Nam Bộ, hoạt động bí mật trong nội thành Sài Gòn - Gia Định. Nhận nhiệm vụ Phó Ban Binh vận Xứ ủy Nam Kỳ, đồng chí vừa xây dựng cơ sở quần chúng để đối phó với địch, vừa đi sâu tìm hiểu chiến lược của chúng.

Những năm 1955 - 1956, sau khi nhận nhiệm vụ khai thác mâu thuẫn giữa các giáo phái ly khai chống Diệm (Cao Đài, Hòa Hảo, Bình Xuyên...), đồng chí đã tổ chức, chỉ đạo các lực lượng đi tiếp xúc, khoét sâu vào mâu thuẫn của địch; vừa làm tan rã vừa nắm được tình hình binh lính địch để tổ chức xây dựng lực lượng cách mạng. Thành công của việc nắm được các tổ chức giáo phái ly khai là nắm được cả trung đoàn và vũ khí, đây là thắng lợi có ý nghĩa to lớn của cách mạng nước ta trong giai đoạn này. Các hoạt động dưới sự chỉ đạo của đồng chí Hoàng Minh Đạo đang diễn ra hết sức thuận lợi thì năm 1957, đồng chí bị địch bắt, giam tại trại giam Phú Lợi. Sau một thời gian bị giam cầm, cùng một số đồng chí trong nhà lao, đồng chí Hoàng Minh Đạo đã tổ chức vượt ngục thành công, tiếp tục về hoạt động tại Ban Binh vận Xứ ủy Nam Bộ.

Từ một liên lạc viên ông trở thành Trưởng phòng tình báo đầu tiên của Quân uỷ hội, ông lần lượt nắm giữ nhiều chức vụ quan trọng như: Trưởng ban quân báo Nam Bộ, Phó Ban binh vận Trung ương cục Miền Nam, Ủy viên thường vụ Khu uỷ Sài Gòn – Gia Định, Bí thư Khu 5 – Bí thư phân khu I Sài Gòn - Gia Định, Chính uỷ lực lượng Biệt động Sài Gòn.

Những năm 1965 - 1968, đồng chí được cử đi tăng cường cho khu vực trọng điểm Sài Gòn - Gia Định, giữ trách nhiệm Ủy viên Thường vụ Khu ủy Sài Gòn - Gia Định, Bí thư, Chính ủy Phân khu V. Đây là thời kỳ cách mạng gặp rất nhiều khó khăn, cuộc bám trụ chiến đấu của các lực lượng ta ở chiến trường Phân khu V đầy cam go, ác liệt. Để kịp thời cứu bệnh binh, giảm bớt sự hy sinh của ta, với tầm nhìn của một nhà tình báo, thông tỏ tình hình, nắm sâu quần chúng, hiểu các Trưởng ngũ gia và dân vệ tại các ấp chiến lược, đồng chí Hoàng Minh Đạo đã xây dựng được một trạm y tế cấp cứu thương binh trong ruột ấp chiến lược tại xã Đông Tân Hiệp, quận Dĩ An, tỉnh Biên Hòa (nay là thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương). Bệnh xá hoạt động với hình thức: Bệnh viện của Mỹ, thuốc men của Mỹ, bác sĩ của Mỹ nhưng bệnh nhân của ta. Các cán bộ, chiến sĩ bị thương đều theo đường dây bí mật chuyển vào các cơ sở của ta ở ấp chiến lược để y tá sơ cứu, băng bó vết thương. Bệnh xá đã hoạt động trong thời gian dài ngay trong lòng kẻ thù.

Đồng chí Hoàng Minh Đạo (người thứ 7 từ trái qua hàng đứng) cùng đồng đội tại căn cứ Trung ương cục Miền Nam (1968).

Năm 1968, để chuẩn bị cho đợt Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân, đồng chí Hoàng Minh Đạo đã có quyết định táo bạo khi chọn một số gia đình cách mạng tin cậy ở Bình Phú, Thủ Đức, ngay sát căn cứ Sóng Thần (căn cứ thủy quân lục chiến của Việt Nam Cộng hòa) làm cơ sở bí mật của Sở Chỉ huy Tiền phương Phân khu V. Theo đồng chí, địch luôn cho rằng đó là nơi có hỏa lực mạnh nhất nên là nơi an toàn nhất. Chúng không thể ngờ ta lại chọn địa điểm đó làm nơi đóng quân. Các gia đình cơ sở đã đào hầm, làm vách cho các đồng chí ở ngay dưới gầm giường. Được Nhân dân hết lòng ủng hộ, nuôi giấu cán bộ, nên Sở Chỉ huy tiền phương Phân khu V của ta ngay cạnh địch mà vẫn giữ được bí mật.

Sau Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968, mặc dù ta giành được nhiều thắng lợi lớn nhưng lực lượng cũng bị tổn thất khá nặng nề. Để củng cố, xây dựng lại lực lượng chuẩn bị cho những trận tiến công mạnh mẽ hơn, Trung ương Cục miền Nam đã điều đồng chí Hoàng Minh Đạo từ Phân khu V về làm Bí thư, Chính ủy Phân khu I. Năm 1969, Chính ủy Hoàng Minh Đạo về Trung ương Cục dự họp, báo cáo công tác chuẩn bị chiến trường trên địa bàn. 
 
                            Hoàng Minh Đạo: Nhà tình báo tài năng và nhân hậu - Báo Công ...

                                    Hoàng Minh Đạo: Nhà tình báo tài năng và nhân hậu

Đêm ngày 24 rạng ngày 25 tháng 12 năm 1969, đoàn công tác của ông trên đường về họp tại trung ương Cục đã sa vào ổ phục kích của địch, ông cùng đồng đội của mình đã hy sinh trên sông Vàm Cỏ Đông. Bí thư Trung ương Cục miền Nam Nguyễn Văn Linh đã hai lần chỉ đạo Tư lệnh Phân khu I Tám Lê Thanh tìm kiếm thi hài của ông nhưng không có kết quả.

Ngày 8 tháng 8 năm 1998, lễ truy điệu liệt sĩ Đào Phúc Lộc được tổ chức long trọng tại Thành phố Hồ Chí Minh. Hiện di hài của ông được an táng tại Nghĩa trang liệt sĩ Thành phố Hồ Chí Minh. 

Với những thành tích đã đạt được, đồng chí được Nhà nước truy phong hàm Trung tướng, Anh hùng lực lượng vũ trang Nhân dân (năm 1998) và Huân chương Hồ Chí Minh (năm 1999).

2- Phạm Ngọc Thảo:

Đại tá, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (LLVT) Phạm Ngọc Thảo là một trong những huyền thoại xuất sắc nhất trong lịch sử quân sự Việt Nam. Đồng chí Trần Bạch Đằng đã từng nhận xét: "Các nhà tình báo thông thường có nhiệm vụ giấu mình, thu thập, khai thác tin tức chuyển về trung tâm. Riêng Phạm Ngọc Thảo đi thẳng vào hàng ngũ kẻ thù, tung hoành hoạt động vì Tổ quốc cho tới tận lúc hy sinh, trường kỳ mai phục và độc lập tác chiến. Anh là người tình báo đặc biệt có một không hai". Còn cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt từng nói: "Anh Phạm Ngọc Thảo đã nhận một nhiệm vụ đặc biệt, chưa từng có tiền lệ trong công tác cách mạng của chúng ta".

Phạm Ngọc Thảo sinh năm 1922 tại Sài Gòn, trong một gia đình Công giáo. Cha là Adrian Phạm Ngọc Thuần, là đại điền chủ yêu nước, mang quốc tịch Pháp. Phạm Ngọc Thảo còn có tên khác là Albert Thảo, Chín Thảo. Thuở nhỏ Phạm Ngọc Thảo học Trường tư thục Công giáo ở Sài Gòn, sau đó học Trường Cao đẳng Công chánh ở Hà Nội.

Phạm Ngọc Thảo là người trí thức, giỏi tiếng Anh và Tiếng Pháp. Năm 1946, ông cùng với 12 người Nam Bộ khác  được chọn ra Sơn Tây học lớp cán bộ tình báo khóa đầu tiên tại Trường Võ Bị Trần Quốc Tuấn (nay là Trường Trường Sĩ quan Lục quân I). Ngày 26/5/1946, Trường khai giảng khóa đầu tiên tại Sơn Tây, có 288 học viên, trong đó có 12 cán bộ, chiến sĩ từ chiến trường Nam Bộ và Phạm Ngọc Thảo là một trong số đó. Do nhu cầu cấp bách của cuộc kháng chiến, khóa đào tạo đầu tiên chỉ học trong 5 tháng. Theo một số học viên các khóa học sau này (được các cán bộ nhà trường kể cho biết) thì tuy thời gian học ở trường không dài nhưng Phạm Ngọc Thảo miệt mài, khiêm tốn, học rèn như chiến sĩ mới. Hồi ấy Phạm Ngọc Thảo đã là kỹ sư công chánh nhưng ông không hề thổ lộ với ai, chỉ có giám đốc và chính trị ủy viên biết (qua lý lịch). Trong mấy tháng học, ông đã viết hai chục bài báo đăng trên tờ nguyệt san của trường về nghệ thuật chiến tranh du kích, binh vận, dân vận, bấy giờ là lĩnh vực khá mới mẻ.

                      Đại tá Phạm Ngọc Thảo - Nhà tình báo hành động huyền thoại ...

Phạm Ngọc Thảo (thứ hai từ trái sang) trong Ban Chỉ huy Tiểu đoàn 410 tại miền Tây Nam Bộ năm 1952. Ảnh tư liệu

                                    Chuyện người em vợ của nhà tình báo Phạm Ngọc Thảo

Ông Phạm Chư (bìa phải) chụp ảnh cùng với hai người chị ruột và hai người cháu (thứ 2 từ trái sang là bà Phạm Thị Nhiệm, vợ của anh hùng Phạm Ngọc Thảo)


Sau khi tốt nghiệp, ông lập tức trở về miền Nam, công tác ở trạm giao liên tỉnh Phú Yên. Đây chính là trạm nối giữa Tây Nguyên và Nam Bộ. Trong một lần đi qua trạm này, đồng chí Lê Duẩn đã gặp Phạm Ngọc Thảo và đã phát hiện được tài năng của người cán bộ này, nên đã đưa Phạm NgọcThảo cùng trở về Nam Bộ. Đồng chí Lê Duẩn giới thiệu Phạm Ngọc Thảo với đồng chí Mai Chí Thọ, Trưởng Ban địch tình Xứ ủy, Trần Quốc Hương tức Mười Hương (nguyên Bí thư T.Ư Đảng, người trực tiếp tổ chức hoạt động cho những nhà tình báo lừng danh Phạm Ngọc Thảo, Phạm Xuân Ẩn, Vũ Ngọc Nhạ…)

Cuối năm 1947, được cấp trên giao làm Trưởng phòng Mật vụ Nam Bộ (cơ quan tình báo của ta). Đây tổ chức đầu tiên của quân đội ta ở Nam Bộ. Với tinh thần trách nhiệm, trong một thời gian ngắn, ông đã thống nhất được các lực lượng tình báo toàn Nam Bộ.

Năm 1949, ông được điều sang làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 410 chủ lực Khu 9, tiểu đoàn đã chiến đấu nhiều trận thắng lợi lớn, góp phần mở rộng vùng giải phóng.

Sau Hiệp định Geneva 1954, cuối tháng 1-1955, đồng chí Lê Duẩn đã giao cho Phạm Ngọc Thảo nhiệm vụ đặc biệt là tình báo viên hoạt động trong lòng địch, phục vụ cho mục tiêu thống nhất đất nước, tìm cách xâm nhập vào hàng ngũ địch, lấy niềm tin của chúng để leo cao, chui sâu trong chế độ Ngô Đình Diệm, nắm bắt những mưu đồ chiến lược của Mỹ - Diệm, báo cáo cho trung ương; đồng thời chuẩn bị lực lượng ngầm để lật đổ chế độ Mỹ - Diệm, thống nhất Bắc - Nam nếu con đường hòa bình bằng Hiệp định Genève không thành công.

                        Đại tá Phạm Ngọc Thảo cùng vợ là bà Phạm Thị Nhiệm (ngoài cùng bên trái) và diễn viên Sandra Dee tại Universal Studio (Mỹ) năm 1962. Ảnh: GIA ĐÌNH CUNG CẤP

 Đại tá Phạm Ngọc Thảo cùng vợ là bà Phạm Thị Nhiệm (ngoài cùng bên trái) và diễn viên Sandra Dee tại Universal Studio (Mỹ) năm 1962. Ảnh: GIA ĐÌNH CUNG CẤP

 

Nhờ trí thông minh và kiến thức uyên bác, tháng 12-1954, ông dần dần được “đồng hóa” vào bộ máy ngụy Sài Gòn. Tháng 5/1956, ông được cử đi học khóa huấn luyện tại trung tâm Nhân vị tại Vĩnh Long. Đến tháng 10/1956, ông gia nhập đảng Cần Lao. Công khai thừa nhận mình là người từng tham gia chỉ huy trong kháng chiến chống Pháp (ông chỉ giữ bí mật thân phận mình là đảng viên Cộng sản), ông được phân công phụ trách tổ quân sự, giữ nhiệm vụ nghiên cứu về chiến lược và chiến thuật quân sự, và huấn luyện quân sự cho các đảng viên Cần Lao. Trong thời gian này, ông cùng với Huỳnh Văn Lang (Tổng giám đốc Viện Hối đoái và là Bí thư Liên kỳ bộ Nam Bắc Việt của Đảng Cần Lao)  xúc tiến thành lập tờ Bách khoa, một tờ bán nguyệt san về chính trị, văn hóa của nhóm trí thức Cần Lao. Bách khoa phát hành số 1 vào ngày 1/1/1957. Trên tờ bán nguyệt san này, ông vừa là sáng lập viên, vừa là người tham gia tổ chức, điều hành vừa là cây bút chủ lực trong thời gian đầu. Chỉ riêng trong năm đầu tiên, ông đã viết hàng chục bài. Trong các bài viết, Phạm Ngọc Thảo thể hiện rõ quan điểm của mình là phải yêu nước, thương dân. Ông đề cập nhiều vấn đề chiến lược, chiến thuật trong cầm quân, chỉ huy chiến sĩ cũng như phân tích và cả góp ý đối với binh pháp của Tôn Tử. Những bài viết có tính cách mạng cao và thấm đẫm tính nhân văn của Phạm Ngọc Thảo được độc giả và giới trí thức rất hoan nghênh.

Đặc biệt, qua những bài viết của mình, dưới danh nghĩa là "kinh nghiệm của một quân nhân" như trong tiêu đề của một số bài báo, Phạm Ngọc Thảo đã công khai ca ngợi Việt Minh, ca ngợi lực lượng kháng chiến. Đây có thể coi là điều "tối kị" trong hoàn cảnh chế độ Diệm thi hành chính sách "tố Cộng diệt Cộng" triệt để, trả thù đẫm máu những người kháng chiến. Điều đó cho thấy sự khảng khái, dũng cảm và cũng hết sức khéo léo của Phạm Ngọc Thảo. Phạm Ngọc Thảo cũng gián tiếp phê phán quân đội Sài Gòn mang tiếng là đi "bình định", tức là đi "tiễu trừ phản nghịch" nhưng thực chất là đi giết hại, cướp bóc của dân. Trong bài “Quân đội đi bình định đem lại bình an hay oán hận” (1/9/1957), ông nêu tình trạng quân đội lợi dụng việc đi "tảo thanh bọn lưu manh phiến loạn phá rối an ninh trong xóm làng" để cướp bóc tài sản của dân, hãm hiếp phụ nữ, trả thù cá nhân, lạm sát nhân dân…

Qua thời gian tiếp cập, ông đã được Ngô Đình Diệm tin cậy trong công tác chính trị, an ninh nội bộ và được cử làm Tỉnh trưởng Kiến Hòa (Bến Tre) với cấp bậc trung tá (từ tháng 11-1960 đến tháng 5-1962). Những năm làm tỉnh trưởng, ông đã cung cấp nhiều tin tức, tài liệu liên quan đến các cuộc hành quân của địch trong tỉnh và quân khu, thả hơn 2.000 tù chính trị, đây chính là lực lượng lớn cho cách mạng ở Bến Tre. Và khôn khéo lái các cuộc hành quân “tảo thanh” của địch vào chỗ không người.

Đặc biệt trong số 2.000 tù chính trị được thả, có đồng chí Võ Viết Thanh - sau này là Trung tướng, Anh hùng Lực lượng vũ trang Nhân dân, nguyên ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, nguyên Chủ tịch UBND TP. Hồ Chí Minh, nguyên Thứ trưởng Bộ Công an. Sau này, chia sẻ lại trong một lần về thăm lại Bảo tàng Bến Tre, ông kể, ông đã có 3 lần được gặp trực tiếp nhà tình báo Phạm Ngọc Thảo (khi ấy ông không biết). Có lần, ông được gọi lên đứng cạnh chỗ ông Phạm Ngọc Thảo ngồi để ông ấy hỏi chuyện. Ông Võ Viết Thanh chia sẻ, Phạm Ngọc Thảo hỏi tôi: “Em ở trong tù có khổ lắm không?”. Lúc ấy, tôi cứ nghĩ ông ấy là người của địch nên trả lời ngắn gọn là: “khổ!”. Phạm Ngọc Thảo lại hỏi tiếp: “Em có chịu đựng nổi không?”, tôi trả lời: “Không chịu nổi cũng phải ráng chịu!”. Sau đó, thì ông không hỏi nữa. Ngày 7-7-1961, ông Võ Viết Thanh được chở từ khám đến Dinh tỉnh trưởng, tại đây, ông lại được gặp mặt Phạm Ngọc Thảo một lần nữa. Sau vài câu trò chuyện, Phạm Ngọc Thảo đã nói với ông: “Hôm nay, qua trả tự do cho em. Nếu khi em ra tù, em muốn trở lại học văn hóa thêm, gặp khó khăn gì hãy đến gặp qua giúp đỡ”. Tôi đứng dậy cầm tờ giấy trả tự do và nói: Cảm ơn Tỉnh trưởng. Đây là lần đầu tiên tôi có chút lễ phép và cũng là lần cuối cùng tôi không bao giờ còn gặp lại Phạm Ngọc Thảo”, ông Thanh xúc động nhớ lại. “Từ đó, tôi được trả tự do và tiếp tục trở về hoạt động cách mạng. Mãi đến sau, tôi mới được biết, ông là người cán bộ cách mạng của mình”.

Những đóng góp này của Đại tá Phạm Ngọc Thảo đã góp phần quan trọng vào việc bảo toàn lực lượng cách mạng, góp phần thắng lợi của phong trào Đồng Khởi Bến Tre.

                               
                                    Tư liệu lịch sử hiếm về nhà tình báo Phạm Ngọc Thảo giữa vòng vây quân thù ảnh 5

Phạm Ngọc Thảo (cầm micro) nói chuyện với nhân dân trong cuộc đảo chính khuấy động chính trường Sài Gòn.  


Cuối năm 1963, cao trào chống đối Ngô Đình Diệm dâng cao, nhưng các tướng, tá còn nghi ngờ lẫn nhau nên chưa đứng vào một nhóm để hợp lực hành động. Tháng 9/1963, Trần Kim Tuyến (Giám đốc Sở Nghiên cứu Chính trị và xã hội Phủ tổng thống) và Phạm Ngọc Thảo bí mật làm cuộc đảo chính. Do bị lộ, Tổng thống Diệm đã cử Trần Kim Tuyến đi làm Tổng Lãnh sự ở Ai Cập. Ngày 1/11/1963, chính quyền Ngô Đình Diệm bị lật đổ do một nhóm tướng lĩnh khác. Sau khi đảo chính, ông được nhóm sĩ quan cầm đầu thăng quân hàm đại tá. Sau đó ông được tướng Nguyễn Khánh mời làm phát ngôn viên báo chí trong “Hội đồng quân nhân Cách mạng”, ông được cử làm tùy viên báo chí và quân sự của Sứ quán Việt Nam Cộng Hòa tại Mỹ.

Đầu năm 1965, ông bị gọi về nước, vì chính quyền Sài Gòn lúc bấy giờ đã nghi ngờ ông hoạt động cho đối phương, muốn bắt ông. Mặc dù rơi vào hoàn cảnh rất nguy hiểm nhưng ông vẫn tìm cách bám trụ lại Sài Gòn và móc nối với các lực lượng đối lập khác như tướng Dương Văn Đức, Lâm Văn Phát để lật đổ chế độ. Cuộc đảo chính nổ ra trưa 19/2/1965 ở Sài Gòn chỉ làm chủ Đài Phát thanh trong một thời gian ngắn, nhưng mục tiêu quan trọng hàng đầu là bắt sống Nguyễn Khánh đã không thực hiện được. Các cuộc đảo chính này đã gây mất ổn định nghiêm trọng chế độ ngụy Sài Gòn, tạo điều kiện thuận lợi cho cách mạng miền Nam.

Sau hai cuộc đảo chính bất thành, mặc dù cấp trên yêu cầu rời khỏi Sài Gòn nhưng Phạm Ngọc Thảo vẫn quyết trụ lại để tiến hành cuộc đảo chính cuối cùng. Việc lớn không thành, ông bị bắt và bị tra tấn rất dã man, tuy nhiên, ông không để lộ tung tích của mình. Ông mất vào đêm 17/7/1965 khi mới 43 tuổi. Cho đến lúc hy sinh, không ai biết ông là một chiến sỹ tình báo cộng sản.

Chiến công của Phạm Ngọc Thảo lập nên là vô cùng to lớn, nhưng thời bấy giờ do hoàn cảnh chiến tranh, cuộc đấu tranh giữa ta và địch diễn biến rất quyết liệt, nên không thể đề cập trên các phương tiện truyền thông được.

                                          Phạm Ngọc Thảo, Ông là ai ? | OVV

Giữa một rừng gươm giáo hiểm ác, ông như một nghệ sĩ xiếc đi trên dây, bên phải thì địch muốn gi*t, bên trái thì ta cũng muốn gi*t. Ông hiên ngang lật ngửa ván bài và “chơi” tới tận cùng.

 

Cho đến nay, Phạm Ngọc Thảo vẫn được xem là một bí ẩn khó có thể giải mã của báo chí quốc tế. Còn Thiếu tướng tình báo Nguyễn Đức Trí (tức Nguyễn Văn Khiêm, nguyên Thủ trưởng Cơ quan tình báo Miền nam) nhận xét: “Trong lịch sử tình báo nước ta, câu chuyện ly kỳ như Phạm Ngọc Thảo là hãn hữu, nếu bỏ qua không nghiên cứu đến nơi đến chốn là thiếu trách nhiệm đối với công cuộc tích tụ kho tàng tình báo Việt Nam”.

Phạm Ngọc Thảo được đánh giá là nhà tình báo đặc biệt có một không hai. Sau này, trong dòng đề tựa trong cuốn Ván bài lật ngửa, nhà văn Trần Bạch Đằng, với bút danh Nguyễn Trương Thiên Lý, đã trân trọng viết "Tưởng nhớ anh Chín T. (Thảo) và những người đã chiến đấu hy sinh thầm lặng".

Riêng đối với Trung tướng Võ Viết Thanh, người từng ba lần trực tiếp được nói chuyện với ông thì nói rằng: “Có thể nói, Đại tá Phạm Ngọc Thảo là nhà tình báo chiến lược cao cấp, “siêu đẳng” trong giới tình báo thời kỳ bấy giờ. Ông đã lập được những chiến công rất lớn, làm khuynh đảo cả chế độ Sài Gòn và nổi tiếng đến cả Hoa Kỳ. Điều đặc biệt là ông hoạt động một mình trong lòng địch, vì bên ngoài không thể kết nối được với điều kiện khi ấy. Ông có thể trở ra chiến khu nhưng vẫn chấp nhận ở lại trong lòng địch, bám lại Sài Gòn để làm những công việc trọng đại hơn cho cách mạng”.

Trong cuốn sách “Điệp viên hoàn hảo”, nhà sử học người Mỹ Larry Berman đã dẫn lời điệp viên Phạm Xuân Ẩn: "Nhiệm vụ được giao cho Phạm Ngọc Thảo khác với nhiệm vụ của tôi. Ông ấy có nhiệm vụ làm mất ổn định của chế độ Diệm và vạch âm mưu đảo chính, còn tôi là một nhà tình báo chiến lược. Nhiệm vụ của ông Phạm Ngọc Thảo nguy hiểm hơn nhiệm vụ của tôi rất nhiều".

Thậm chí, những người bên kia chiến tuyến cũng đánh giá cao về tài năng, cốt cách đặc biệt của ông. Theo dịch giả Lê Đỗ Huy, trong công văn tháng 6-1965 của tình báo Mỹ, có tài liệu nhan đề Đại tá Phạm Ngọc Thảo (Colonel Pham Ngoc Thao, 4-6-1965). Điện mật này đánh số 00780, do William Colby, Phó giám đốc về kế hoạch cơ quan CIA ở Sài Gòn viết như sau: “….5.Vấn đề thứ hai là cốt cách của Thảo. Ông ta tin vào sứ mạng cứu nhân độ thế, xả thân vì dân tộc mình, như một thiên sứ. Ông ta biết rõ mình phải làm gì. Lung lạc được Thảo bởi tiền tài hay hình phạt, kể cả tử hình, để ông ta ngừng tạo ra tình thế chỉ có lợi cho một mình Việt Cộng, rõ ràng là điều không thể…”.

Để ghi nhận những thành tích đặc biệt xuất sắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của ông, ngày 30-8-1995, đồng chí Phạm Ngọc Thảo được Đảng, Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân; được truy phong quân hàm Đại tá Quân đội Nhân dân Việt Nam và được công nhận liệt sĩ./.

                                             TƯỞNG NHỚ NHÀ TÌNH BÁO PHẠM NGỌC THẢO Liệt sỹ ANH HÙNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG  NHÂN DÂN VIỆT NAM, Đại tá Phạm Ngọc Thảo hy sinh 17.7.1965 . Nhà Tình báo

3 - Đinh Thị Vân:

                       
                                                  

Thiếu tá Đinh Thị Vân trong dịp phong anh hùng LLVT năm 1970. Ảnh: Wikipedia.
 

DTV.jpg
                             Ảnh thẻ căn cước của bà Đinh Thị Vân (1954). Tư liệu của ông Đinh Quang Như (Nam Định)
                          Nữ Đại tá là huyền thoại tình báo giỏi nhất Việt Nam, hoạt động bí mật hàng chục năm với nhiều chiến công lừng lẫy, tên được đặt cho 2 con đường - ảnh 3
Bà Đinh Thị Vân (giữa) trong lễ tuyên dương Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân năm 1970. Ảnh: Vietnamnet
                    Nữ Đại tá là huyền thoại tình báo giỏi nhất Việt Nam, hoạt động bí mật hàng chục năm với nhiều chiến công lừng lẫy, tên được đặt cho 2 con đường - ảnh 5
Bà Vân họp bàn cùng các anh chị em đồng chí ở miền Đông Nam bộ. Ảnh tư liệu

Trong lịch sử tình báo quân sự Việt Nam, có một nữ điệp viên chiến lược đã hy sinh hạnh phúc riêng – lấy vợ cho chồng để rồi suốt mấy chục năm chục năm âm thầm làm nhiệm vụ cực kỳ nguy hiểm trong lòng địch, đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ quan trọng với vai một người lao động bình thường, răng đen, ăn trầu, quanh năm mặc áo bà ba… Vì những cống hiến xuất sắc cho tổ quốc, Bà đã được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang. Và khi đất nước ca khúc khải hoàn, người phụ nữ ấy vẫn sống thanh đạm, giản dị và lặng lẽ cho đến ngày cuối đời, tránh xa mọi vinh hoa, phú quý. Đó là Đại tá tình báo Đinh Thị Vân.

Bà tên thật là Đinh Thị Mậu, sinh năm 1916 tại làng Đông An, tổng Cát Xuyên, huyện Giao Thủy, phủ Thiên Trường (nay là làng Đông An, xã Xuân Thành, huyện Xuân Trường), tỉnh Nam Định. Bố của bà mất sau khi bà Mậu sinh ra được 6 tháng. Anh em bà được ông nội Đinh Mẫn Cấp nuôi nấng và dạy dỗ. Năm 1933, bà được 2 người anh cùng cha khác mẹ là Đinh Lai Hạp và Đinh Thúc Dự, đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương, vận động tham gia hoạt động cách mạng. Bà làm giao thông liên lạc, cất giữ tài liệu bí mật của Đảng, tham gia tổ chức nhóm "Ái hữu tương tế", nuôi dưỡng, bảo vệ cán bộ cách mạng hoạt động tại địa phương…Thời gian này bà lập gia đình với một người cùng quê, từ đó mọi người thường gọi tên bà theo tên chồng là Vân từ đó bà được gọi bằng tên Đinh Thị Vân. Bà nguyên là huyện ủy viên huyện Xuân Trường, Nam Định, hoạt động từ trong kháng chiến chống Pháp. Năm 1954, bà bắt đầu được điều sang công tác tình báo rồi theo đoàn người di cư vào Nam đặt cơ sở hoạt động tình báo từ năm 1955.

Lưới tình báo do bà xây dựng đã cung cấp cho quân ta nhiều tin tức có giá trị góp phần vào chiến công chung của ngành tình báo, mặc dù bà chưa một ngày học qua nghiệp vụ điệp viên. Một trong những thành tích đáng kể là điều tra tỉ mỉ hệ thống phòng ngự của quân đội Sài Gòn ở Nam vĩ tuyến 17 trong giai đoạn 1959 - 1960.

Thời điểm này, ta bắt đầu mở đường Trường Sơn vào Nam, rất cần những thông tin về sự bố phòng của quân đội Sài Gòn ở nam vĩ tuyến 17. Ngoài ra, còn cần tìm hiểu xem đối phương đã biết những gì về việc quân ta xuất hiện ở Hạ Lào. Nhiệm vụ đó được cấp trên giao cho Đinh Thị Vân.

Bà Vân tức tốc rời Sài Gòn khi Tết Kỷ Hợi (1959) đến gần. Bà tìm đến một thành viên trong lưới của mình là Đinh Thế Phiệt. Người này từng là sĩ quan chỉ huy cấp đại đội ở trong sư đoàn 1 Sài Gòn. Mặc dù hiện tại Phiệt đã bị loại ngũ do để cho lính đánh nhau với đàn em của Ngô Đình Cẩn nhưng vẫn có quan hệ rất thân thiết với nhiều sĩ quan trong sư đoàn 1 – là đơn vị chính phòng thủ ở Nam sông Bến Hải.
Trong vai mẹ nuôi của Phiệt, bà Vân cùng với Phiệt ra Huế giả làm người đi du lịch, nhưng thực chất là để làm nhiệm vụ. Ở Huế, Phiệt đến thăm các sĩ quan bạn bè cũ. Phiệt mang theo cả máy ảnh nói là để chụp ảnh kỷ niệm nhưng cũng là để lợi dụng chụp những sự bố trí trong các doanh trại, hệ thống phòng ngự. Nhờ thế, chẳng bao lâu, một hệ thống phòng ngự của sư đoàn 1 đã bị bà Vân và Phiệt ghi nhớ hết.
Bà Vân lại hướng dẫn Phiệt tìm cách rủ viên tiểu đoàn trưởng tên Thọ ra giới tuyến thăm chiến hữu để tìm hiểu hệ thống phòng ngự ở Nam sông Bến Hải. Trong hồi ký Tôi đi làm tình báo, bà kể: “Tôi đã nhắc cậu Phiệt rủ Thọ ra thăm mấy đứa bạn ngoài giới tuyến. Hôm qua, hắn hứa rồi nhưng chưa quyết định ngày nào thì sáng nay, Thọ đánh xe tới. Hắn chạy xăm xăm vào nhà ghé sát tai cậu Phiệt hỏi: Có đi giới tuyến thăm mấy thằng ngoài đó không? - Cám ơn anh, thế thì còn gì bằng. Tôi nghe hai người trò chuyện với nhau mà lòng thì khấp khởi mừng. Như vậy thì mọi việc chắc chắn sẽ thuận buồm xuôi gió.
Thế là toàn bộ tuyến phòng ngự từ Huế ra đến Gio Linh, vị trí các trung đoàn, hệ thống công sự, bãi mìn cậu Phiệt đã nắm được khá chắc. Thọ còn để lộ cho Phiệt biết một số dự án tác chiến, hướng triển khai của các trung đoàn bộ binh. Phiệt đã quen địa hình nên nhận thức được rất nhanh”.
Với yêu cầu thứ 2 của cấp trên đặt ra, Phiệt không mấy khó khăn để dò la. Trong một buổi tối sau khi cơm nước xong, Thọ và Phiệt vẫn ngồi thì thầm với nhau chuyện quân sự. Chính lúc này, Thọ đã tiết lộ cho Phiệt biết về tin tức có sự xuất hiện của đối phương ở Hạ Lào. Thọ nói: “Có độ 5 tiểu đoàn thôi. Các ông trên chỉ thông báo đến cấp trung đoàn, nhưng có thằng tiểu đoàn trưởng nào mà không biết, 5 tiểu đoàn nhưng có thể không phải tất cả quân chiến đấu”.
Thực tế, Phiệt đã dò hỏi được thông tin này từ một sĩ quan khác nhưng vẫn muốn duyệt lại qua Thọ để xem sự nhận định trong đám sĩ quan sư đoàn 1 có thống nhất không để nắm rõ xem đối phương đã biết về hoạt động của ta ở Hạ Lào đến mức độ nào.
Rõ ràng ở vào thời điểm đó, việc nắm rõ hệ thống phòng ngự cho đến kế hoạch triển khai của các đơn vị quân đội Sài Gòn ở Nam vĩ tuyến 17 có giá trị rất to lớn. Có những thông tin ấy, ta sẽ chủ động hơn trong việc xác định các hướng xâm nhập vào Nam sao cho an toàn.
Ngoài vụ trên, Đinh Thị Vân cùng với mạng lưới của mình còn lập nhiều chiến công khác. Chẳng hạn thông tin kịp thời về việc Mỹ sẽ đổ quân vào Nam Việt Nam sau khi chiến lược chiến tranh đặc biệt thất bại hay biết trước được kế hoạch của cuộc hành quân Junction City (Gian-Xơn-Xi-Ty) giúp quân ta chủ động đối phó làm thất bại âm mưu của chúng.
              Nữ Đại tá là huyền thoại tình báo giỏi nhất Việt Nam, hoạt động bí mật hàng chục năm với nhiều chiến công lừng lẫy, tên được đặt cho 2 con đường - ảnh 4
Đồng chí Vân đã xây dựng mạng lưới tình báo tinh nhuệ với nhiều chiến công vang dội. Ảnh tư liệu
 
Để có được những thành công đó, Đinh Thị Vân đã dày công xây dựng một mạng lưới tình báo rất kỳ công. Đó là một việc làm rất lâu dài và cẩn trọng. Chẳng hạn để tạo tai mắt ở trong lực lượng không quân Sài Gòn, bà đã cho Đinh Văn Đoan nộp hồ sơ thi vào ngành này khi nó bắt đầu tuyển người và đã hướng dẫn cho Đoan những cách để làm sao lấy được lòng tin của các sĩ quan. Có lúc người ta thấy Đoan có tài năng định cho đi học lái máy bay, bà lại phải bày cách cho Đoan từ chối vì làm công việc văn thư mới dễ lấy tin tức.
Hay như trung úy Hà Đăng, vốn dĩ là con của một cơ sở cùng di cư năm 1955 với bà và khi còn nhỏ được bà đón về nhận làm con nuôi. Bà đã kiên trì thổi vào tâm hồn Hà Đăng từ khi còn thơ lòng tin và sứ mệnh phục vụ tổ quốc. Bởi thế lớn lên Hà Đăng đã đi học trường võ bị Thủ Đức rồi ra làm đại đội trưởng 1 đơn vị ở sư đoàn 5. Trong vị trí đó, anh đã nhiều lần báo cho quân ta biết trước những cuộc càn, hành quân của địch.
Vào năm 1959 đến 1964, bà bị bắt giam do sơ hở trên đường đi công tác. Tuy nhiên suốt 5 năm giam giữ với đủ các ngón nghề từ tra tấn thể xác đến ru ngủ tinh thần, bọn an ninh của quân đội và Đoàn công tác miền Trung của Dương Văn Hiếu vẫn không moi được chút tin tức nào từ bà. Trái lại, ở trong trại Lê Văn Duyệt, bà còn nhiều lần lên tiếng đấu tranh với các thủ đoạn tâm lý chiến của địch để thức tỉnh các anh em bị ru ngủ. Mãi đến năm 1964, do chính trường Sài Gòn lục đục đảo chính nhau liên miên, bà mới được thả ra.
Được tự do, bà liền xốc lại mạng lưới của mình và hoạt động tích cực. Đặc biệt, trong kế hoạch Mậu Thân, lưới tình báo của bà đã đóng góp nhiều thông tin cho Bộ chỉ huy chiến dịch về sự bố phòng của Sài Gòn và sự hiểu biết của địch về kế hoạch của ta. Do sức khỏe giảm sút vì bị tra tấn dã man, tháng 3/1969, bà được tổ chức đưa ra Bắc để điều trị và làm công tác huấn luyện tình báo. Một năm sau, ngày 25/8/1970, Nhà nước phong danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân để ghi nhớ công lao của bà.
4 -  Vũ Ngọc Nhạ:
Vũ Ngọc Nhạ (1928-2002) là một Thiếu tướng của Quân đội nhân dân Việt Nam. Ông có biệt danh ông cố vấn vì từng làm cố vấn cho một số chính trị gia cao cấp của Việt Nam Cộng hòa và là nhân vật chủ chốt trong vụ án cụm tình báo A.22 vào cuối năm 1969. Vũ Ngọc Nhạ và các đồng đội trong cụm A.22 đã lấy được nhiều tài liệu quan trọng, tuyệt mật của Mỹ và chính quyền Sài Gòn nhằm phục vụ cho các đối sách và chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam và Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.

Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình, Vũ Ngọc Nhạ có nhiều tên gọi như Pièrre Vũ Ngọc Nhạ (tên Thánh), Vũ Ngọc Nhã, Hoàng Đức Nhã, Vũ Đình Long (còn gọi là Hai Long), hay như bí danh Lê Quang Kép. Ngoài ra ông còn được biết với các biệt danh như thầy Hai, thầy Bốn (do bà con Giáo xứ Bình An đặt cho vì ông là thầy giảng đã tu 4 chức), Ông cố vấn (do ông từng được xem là cố vấn của một số quan chức cao cấp của Việt Nam Cộng hòa).

Ông tên thật là Vũ Xuân Nhã, sinh 30 tháng 3 năm 1928 tại xã Vũ Hội, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình (quê cha) nhưng từ nhỏ sống tại quê mẹ - Giáo xứ Phát Diệm, Ninh Bình. Năm 15 tuổi, Vũ Ngọc Nhạ được bố đưa vào Huế học Trường Trung học Thuận Hóa. Ông tiếp xúc với cách mạng, được giới thiệu vào Mặt trận Việt Minh và được kết nạp Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 20-6-1947.
       
Cuối năm 1946, ông tham gia chiến đấu chống Pháp tái chiếm Đông Dương tại mặt trận Hà Nội. Sau khi Việt Minh rút khỏi Hà Nội, ông trở về Thái Bình, tham gia công tác dân vận của chính quyền Việt Minh tại địa phương, phụ trách khối Công giáo vận, với bí danh là Lê Quang Kép. Năm 1951, để tiện hoạt động trong vùng bị Pháp kiểm soát, ông đã nhờ người em trai làm một chứng minh thư giả mang tên Vũ Ngọc Nhạ.
 
Năm 1950, quân Pháp tổ chức nhiều hoạt động càn quét, tảo thanh lớn ở Thái Bình, gây nhiều thiệt hại cho lực lượng kháng chiến. Vũ Ngọc Nhạ được cử làm Bí thư Thái Bình để củng cố và khôi phục lại lực lượng. Cùng năm đó, ông được cử làm Thị uỷ viên Thị xã Thái Bình và tham gia tổ chức phá căng Bo, giải phóng được tất cả những người kháng chiến bị quân Pháp giam giữ ở đây. 

Năm 1952, Vũ Ngọc Nhạ mang tên Vũ Ngọc Kép, có mặt trong đoàn đại biểu quân sự tỉnh Thái Bình đi dự Hội nghị chiến tranh du kích Bắc Bộ tại Việt Bắc do Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Tổng tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái chủ trì. Cũng tại cuộc Hội nghị này, Vũ Ngọc Nhạ đã nhận nhiệm vụ quan trọng do chính Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đại tướng Võ Nguyên Giáp trực tiếp giao phó: “Nhiệm vụ của chú là phải bằng mọi cách để biết được Mỹ đang làm gì, Mỹ sẽ làm gì và Mỹ đã làm gì”.

Năm 1953, qua sự giới thiệu của Bí thư Liên khu ủy Khu 3 là Đỗ Mười, ông được Trần Quốc Hương tuyển chọn vào cơ quan tình báo quân sự để đào tạo cán bộ hoạt động trong giới Công giáo.

                                        

                   Gia đình Vũ Ngọc Nhạ lúc xuống tàu di cư tại Hải Phòng tháng 12-1955.

Năm 1954, Hoàng Minh Đạo, thủ trưởng cơ quan tình báo quân sự đã ra chỉ thị tung một số điệp viên chiến lược vào miền Nam để chuẩn bị cho thời kỳ "hậu Hiệp định Genève". Vũ Ngọc Nhạ là một trong số những điệp viên đó. Ông tạo vỏ bọc là giáo dân Công giáo ngoan đạo, bị Việt Minh kỳ thị vì tôn giáo và xuất thân nên từ bỏ Việt Minh về sống ở quê ngoại tại Phát Diệm, Ninh Bình và tham gia “Tổng bộ tự vệ Phát Diệm” lãnh đạo bởi hai giáo sĩ chống cộng khét tiếng là giám mục Lê Hữu Từ và linh mục Hoàng Quỳnh. Năm 1955, ông cùng vợ và con gái xuống tàu Hải quân Pháp lẫn vào 1 triệu người Công giáo di cư vào Nam. Tại đây ông sử dụng bản lý lịch với cái tên mới Vũ Đình Long với các nội dung đều là thật, trừ một chi tiết giả là "bất mãn với chính sách Công giáo của Việt Nam dân chủ Cộng hòa nên quyết định vào Nam".

Sau khi vào Nam, ông cùng gia đình cư trú tại giáo xứ Bình An, không lâu sau chuyển sang sinh sống khu chợ Thị Nghè. Ông xin được một chân đánh máy trong Bộ Công chánh. Trong thời gian này, ông chủ yếu tập trung vào việc xây dựng vỏ bọc an toàn, nên thường xuyên lui tới giáo xứ Bình An và văn phòng Hội cựu tự vệ Công giáo Phát Diệm, qua đó chiếm được cảm tình của linh mục Hoàng Quỳnh và trở thành người giúp việc cho Giám mục Lê Hữu Từ.

Vũ Ngọc Nhạ được Mười Hương chỉ đạo phải tạo mối quan hệ tốt với giám mục Lê Hữu Từ vì dòng tu của giám mục Từ được cho là có uy tín lớn trong giới Công giáo cũng như đối với Vatican. Đồng thời, căn cứ vào việc linh mục Hoàng Quỳnh là người chứng nhận chức trung úy tự vệ của Phát Diệm của Vũ Ngọc Nhạ, ông Mười Hương cũng yêu cầu ông Nhạ phải tạo quan hệ thân thiết với linh mục Quỳnh để từ đó tiếp cận giám mục Từ. Quan hệ tốt với linh mục Quỳnh và giám mục Từ đã giúp đỡ và bảo vệ Vũ Ngọc Nhạ rất nhiều trong công tác tình báo sau này.

Trong quá trình tạo vỏ bọc, Vũ Ngọc Nhạ và các đồng đội nhận ra được những điểm tế nhị trong mối quan hệ giữa giới Công giáo với chính quyền Sài Gòn. Lúc đó, thế lực nước ngoài có ảnh hưởng lớn nhất trong giới Công giáo không phải là Mỹ mà là Pháp, trong khi chính quyền Ngô Đình Diệm chịu ảnh hưởng của Mỹ, vì vậy quan hệ giữa hai bên có những mâu thuẫn, nghi ngại. Họ Ngô muốn nắm lấy giới Công giáo làm chỗ dựa nhưng vì những khúc mắc đó nên vẫn chưa thành công. Như vậy, thông qua việc làm trung gian hoà giải giữa họ Ngô và giới Công giáo, cụ thể là linh mục Lê Hữu Từ, ông Nhạ có thể chiếm được lòng tin của cả hai

                                                                        
                                   Chú thích ảnh

                                                 Vũ Ngọc Nhạ - Kẻ thù cũng phục   

Vào cuối tháng 12 năm 1958, ông bị một nhân viên phản gián của Đoàn Công tác Đặc biệt miền Trung, tên là Nguyễn Tư Thái (tự Thái đen) nhận diện nhưng ông vẫn hoạt động tại vùng Thái Bình cho đến từ cuối năm 1952. Vì lý do này, ông bị Đoàn Công tác Đặc biệt miền Trung bắt giữ và bị giam để chờ xác minh tại trại giam Tòa Khâm, Huế.

Một sơ hở lớn của Đoàn Công tác Đặc biệt miền Trung là tập trung giam giữ khá nhiều tình báo viên tại trại Tòa Khâm. Trong thời gian bị giam giữ tại Tòa Khâm, Vũ Ngọc Nhạ đã móc nối được với một số tình báo viên khác, thậm chí nhận được sự chỉ đạo của lãnh đạo tình báo Mười Hương, khi đó cũng bị giam tại Tòa Khâm. Đồng thời, các tù nhân theo đạo Công giáo như Vũ Ngọc Nhạ lại được Ngô Đình Cẩn cho đi lễ nhà thờ vào chủ nhật. Nắm được điều đó, thượng cấp Mười Hương chỉ đạo cho ông Nhạ tiếp cận, liên lạc với Ngô Đình Cẩn cùng các chức sắc Công giáo bao gồm giám mục Lê Hữu Từ. Giám mục Từ biết được thân thế Phát Diệm và quan hệ với linh mục Hoàng Quỳnh, có ý muốn dùng ông Nhạ tác động lại Ngô Đình Cẩn. Về phía bên kia, họ Ngô cũng muốn dùng ông Nhạ để kết thân với giám mục Từ. Do công tác chuẩn bị tốt, do sự vận động của linh mục Hoàng Quỳnh, cộng với sự may mắn, ông không bị kết tội vì không đủ hồ sơ, nhưng vẫn bị giam giữ một cách không chính thức đến tận giữa năm 1961.

Từ đó, Vũ Ngọc Nhạ đã chuyển phương cách hoạt động, ông xây dựng sự tín nhiệm của "Ông Cố vấn chỉ đạo miền Trung" Ngô Đình Cẩn bằng tờ trình "4 Nguy cơ đe dọa chế độ" viết vào cuối năm 1959. Trong tờ trình ông cố ý viết rằng mình tham khảo ý kiến của giám mục Lê Hữu Từ và một số thành phần giáo dân Công giáo, ngầm bày tỏ rằng ông có quen biết với những cá nhân, lực lượng mà họ Ngô đang muốn tranh thủ. Tờ trình này đã gây được sự chú ý của Ngô Đình Cẩn và sau đó cả của Ngô Đình Nhu lẫn Ngô Đình Diệm. Do sự dự đoán chính xác của ông về khả năng xảy ra đảo chính và cuộc đảo chính đã diễn ra sau đó vào ngày 11 tháng 11 năm 1960, các anh em họ Ngô đã chú ý đến ông và nhờ đó ông thoát khỏi sự giam cầm kéo dài trong hơn 2 năm. Tờ trình "4 Nguy cơ đe dọa chế độ" được viết trên cơ sở mối quan hệ giữa giới Công giáo với anh em họ Ngô. Chính yếu tố này đã gây được sự chú ý, cộng với bức bình phong "người giúp việc cho Giám mục Lê Hữu Từ" mà Vũ Ngọc Nhạ được sử dụng như một người liên lạc và cung cấp thông tin giữa anh em họ Ngô với giới Công giáo di cư.

Từ đó, Vũ Ngọc Nhạ bắt đầu có biệt danh ông cố vấn. Ông được anh em Diệm – Nhu vị nể, rồi trở thành người tâm phúc, thường xuyên được bàn bạc những vấn đề cơ mật, được tặng cho danh hiệu “Hoàng Long” là con rồng thứ năm trong gia đình (sau 4 anh em ruột Diệm - Nhu - Thục - Cẩn). Nhờ vào địa vị này cũng như vai trò phụ tá của giám mục Lê Hữu Từ, Vũ Ngọc Nhạ đã tạo được quan hệ với nhiều quan chức Sài Gòn, chức sắc Vatican và Công giáo Mỹ, từ đó thu thập được nhiều tin tình báo có giá trị.

Ông từng nói: sống với kẻ thù, ngồi cùng bàn, ăn cùng bàn với kẻ thù, suốt ngày nghe chúng chửi Cách mạng, chửi Cộng sản chỉ cần thay đổi sắc mặt một chút là có thể bị lộ. Thực tế mấy chục năm hoạt động trong lòng địch tôi đã phải đổi tên đổi họ mai danh ẩn tích đến nỗi gia đình anh em họ hàng làng xóm quê hương tôi tin chắc là tôi đã chết từ lâu.

Nhưng cũng có người thì lại nghi ngờ tôi đi theo địch. Vì vậy, điểm mấu chốt của người tình báo là phải “tuyệt đối trung thành với anh em” và phải bọc mình cho kín. Rất căng thẳng, căng thẳng 24/24 giờ mỗi ngày và cứ thế, suốt tháng, suốt năm, năm này qua năm khác. Chỉ một tích tắc sơ hở là có thể đổ bể, mình chết đã đành, còn chết lây anh em khác, hỏng cả công việc chung, chết cả vợ con mình nữa.

Vũ Ngọc Nhạ có khả năng "diễn xuất" nhập vai đến mức đồng đội của mình cũng ngạc nhiên. Sau này, ông Mai Chí Thọ từng nhận xét "Từ dáng đi, giọng nói đôi mắt đến tính cách, y như là một cố đạo phản động. [...] Một đồng chí của ta “đội lốt” kẻ địch đến mức người của ta cũng không nhận ra quả là điều kỳ diệu đối với nghệ thuật tình báo mà chính tôi cũng không thể tưởng tượng.

                           Vũ Ngọc Nhạ (đứng giữa) khi ở Sài Gòn. Ảnh: ĐSPL.

                             Vũ Ngọc Nhạ (đứng giữa) khi ở Sài Gòn. Ảnh: ĐSPL.

Nhà tình báo Vũ Ngọc Nhạ và cộng sự của mình trong mạng lưới tình báo A22 đã làm nên một huyền thoại kỳ diệu trong lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc Việt Nam

Vào cuối năm 1963, Ngô Đình Nhu giao cho Vũ Ngọc Nhạ nhiệm vụ gặp mặt và vận động sự ủng hộ của chức sắc Công giáo. Vì vậy, ông Nhạ không ở cùng với anh em Diệm Nhu trong cuộc đảo chính 1 tháng 11 năm 1963, và theo lời của ông, nhờ đó mà thoát khỏi số phận bị giết chết như Diệm Nhu.

Cuộc đảo chính 1963 đưa các tướng lĩnh đảo chính lên cầm quyền, Vũ Ngọc Nhạ chỉ còn hoạt động trong khối Công giáo tại Giáo xứ Bình An lúc này do linh mục Hoàng Quỳnh cầm đầu. Tuy nhiên, do uy thế của linh mục Hoàng Quỳnh rất lớn, đồng thời chính quyền mới cũng đánh giá cao hiểu biết và năng lực của Vũ Ngọc Nhạ, ông Nhạ vẫn thường xuyên được mời tư vấn về nhiều sự vụ khác nhau. Vì vậy ông đã sử dụng “Tam giác vàng” quyền lực bao gồm tòa Khâm sứ, dinh Độc Lập và linh mục Tuyên úy người Mỹ O'Connor để hoạt động tình báo trong thời kỳ này. Cuối năm 1965, do sự tranh giành quyền lực quyết liệt trong "nhóm tướng trẻ", tướng Nguyễn Văn Thiệu đã sử dụng Vũ Ngọc Nhạ giữ vai trò liên lạc viên giữa tướng Thiệu và Công giáo, qua sự giới thiệu của Linh mục Hoàng Quỳnh, nhằm tìm chỗ dựa chính trị. Về phía mình, ông Nhạ cũng biết người Mỹ có ý muốn đưa Nguyễn Văn Thiệu lên thay Diệm, và bản thân Thiệu với tư cách là giáo dân cũng chiếm được cảm tình cuả một số chức sắc Công giáo. Ông Nhạ đã được uỷ quyền đại diện cho khối Công giáo ủng hộ Nguyễn Văn Thiệu làm Tổng thống. Sau khi đắc cử, tổng thống Thiệu mời ông làm cố vấn đặc biệt cho mình. Là một điệp viên, Vũ Ngọc Nhạ đã khéo léo sử dụng vai trò này để tạo dựng các mối quan hệ và gây ảnh hưởng đến giới chính trị gia cả trong dân sự lẫn quân sự.

Sau khi Ngô Đình Diệm bị đảo chính và sát hại, ông đã tiếp cận thành công với những nhóm cầm quyền mới ở Sài Gòn và tiếp tục trở thành cố vấn của hai đời tổng thống tiếp theo là Nguyễn Văn Thiệu và Dương Văn Minh. Những người nắm giữ vai trò cao nhất trên chính trường Sài Gòn, cũng là nguồn cung cấp tin chính xác về tình báo chiến lược trực tiếp cho ông.

Nhờ chiếm được vị trí quan trọng này mà nhà tình báo Vũ Ngọc Nhạ đã lấy được hàng loạt tài liệu chiến lược, sách lược tuyệt mật: từ kế hoạch “Xây dựng ấp chiến lược”, “Kế hoạch Stalay Taylor”… thời Diệm, đến “Kế hoạch bình định nông thôn”, “Kế hoạch Phượng Hoàng”, “Kế hoạch đổ quân của Mỹ”, “Sách lược chiến tranh đặc biệt”… thời Thiệu, để Đảng kịp thời có đối sách lãnh đạo đường lối đấu tranh.

Được xem như một cố vấn cho tướng Thiệu trong lĩnh vực quan hệ với giới Công giáo, ông nhanh chóng trở thành một "Ông cố vấn" lần thứ hai, với sức ảnh hưởng đến chính giới còn mạnh hơn so với thời anh em Diệm - Nhu, nhất là từ sau khi tướng Thiệu đắc cử Tổng thống vào năm 1967. Để khai thác một cách triệt để hơn sức ảnh hưởng và nguồn thông tin lớn, cấp trên của ông đã mở rộng nhiệm vụ của ông thành mạng lưới, rồi cụm tình báo A.22 (vốn là mật danh riêng của ông) do Nguyễn Văn Lê làm Cụm trưởng, ông làm Cụm phó trực tiếp phụ trách lưới tình báo. Toàn bộ cụm A.22 được đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Nguyễn Đức Trí, Chỉ huy phó Tình báo quân sự tại miền Nam.

Ban đầu cụm phát triển thêm Nguyễn Xuân Hòe, Vũ Hữu Ruật đều là những tình báo viên mà Vũ Ngọc Nhạ đã bắt liên lạc lúc ông bị giam ở Tòa Khâm. Sau phát triển Nguyễn Xuân Đồng, và quan trọng nhất là vào đầu năm 1967, cụm được bổ sung Lê Hữu Thúy (hay Thắng), mật danh A.25.

Các điệp viên này đều được giao nhiệm vụ "chui sâu leo cao" vào những chức vụ quan trọng để có thể thu thập thông tin chiến lược và có thể tác động đến chính quyền. Thành công lớn nhất của Cụm A.22 là cắm được một cơ sở của Lê Hữu Thúy là Huỳnh Văn Trọng (nguyên Bộ trưởng Quốc gia Việt Nam thập niên 1950), vào vị trí Phụ tá tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Chính Huỳnh Văn Trọng dẫn đầu một phái đoàn của Việt Nam Cộng hòa sang Hoa Kỳ tiếp xúc, gặp gỡ với hàng loạt tổ chức, cá nhân trong chính phủ và chính giới Hoa Kỳ để thăm dò thái độ của Chính phủ Johnson đối với cuộc chiến của Hoa Kỳ tại Việt Nam, đồng thời thu thập được nhiều thông tin tình báo chiến lược.

Vũ Ngọc Nhạ cùng cụm A.22 đã tham gia tổ chức chiến dịch tấn công Mậu Thân năm 1968. Ông đã thông báo cho cấp trên việc Mỹ muốn huỷ bỏ lệnh ngưng bắn thường niên vào dịp Tết năm đó. Khi chiến dịch diễn ra, Vũ Ngọc Nhạ có nhiệm vụ yểm hộ cho biệt động quân Giải phóng đánh vào Dinh Độc Lập, ông đã khui hầm rượu của Nguyễn Văn Thiệu cho quân lính uống say để biệt động Giải phóng dễ dàng "xử lý". Tuy nhiên kế hoạch đánh Dinh Độc Lập không thực hiện được, lúc đó Nguyễn Văn Thiệu cũng không có ở dinh mà về quê vợ ở Mỹ Tho để ăn tết. Vũ Ngọc Nhạ liền ứng biến bằng cách vờ đứng ra cổ vũ quân canh phòng chống trả mạnh mẽ quân Giải phóng. Hành động này khiến cho Nguyễn Văn Thiệu rất cảm kích. Thiệu cũng cho rằng ông Nhạ cho binh lính uống rượu là để nâng cao sĩ khí nên đã hết lời khen ngợi. Sau lần đó, Nguyễn Văn Thiệu đã tặng cho ông một thanh kiếm với quyền hành thay thế Thiệu chủ trì các cuộc họp nội các khi Thiệu vắng mặt.

Từ năm 1968, thấy rõ leo thang chiến tranh không mang lại kết quả, Mỹ quyết định tìm cách rút khỏi chiến tranh thông qua đàm phán tại Paris. Trong thời gian này, người Mỹ cấp tốc xây dựng và thực hiện “Kế hoạch bình định cấp tốc 1968-1969” cùng nhiều biện pháp khác để đạt được ưu thế trên bàn đàm phán và xuống thang chiến tranh trong thế mạnh. Vì vậy Vũ Ngọc Nhạ được giao nhiệm vụ tìm hiểu nội dung các kế hoạch này và tình hình chính trị Mỹ. Ông tác động với Thiệu viết ủy nhiệm thư và cử phái đoàn cấp cao đứng đầu bởi Huỳnh Văn Trọng sang Mỹ thương thảo để xin viện trợ. Huỳnh Văn Trọng liền lấy lý do "chuẩn bị trước cho chuyến đi" để đến Đại sứ quán Mỹ lấy được bản “Kế hoạch bình định 1968-1969”, “Chương trình Phoenix 1968” của Como và “Kế hoạch bình định cấp tốc”. Chuyến đi Mỹ sau đó xin được nhiều viện trợ khiến Nguyễn Văn Thiệu rất vui mừng. Vì vậy ông Nhạ được Nguyễn Văn Thiệu gửi tặng cây bút máy mà mình dùng để ký nhận các khoản viện trợ.

Bộ hồ sơ của Nha Tổng giám đốc cảnh sát quốc gia của chính phủ Sài Gòn đã nhận xét về cụm A.22 như sau: "Từ trước đến nay, ngoại trừ những giai thoại giả tưởng trong tiểu thuyết trinh thám chưa bao giờ có những tổ điệp báo thành công đến như thế. Cụm A.22 hoạt động do Ông Vũ Ngọc Nhạ cầm đầu phát triển đều đặn và thi thố nhiều thủ đoạn mà chúng ta phải nhìn nhận là huyền diệu và xuất sắc. Cụm đã phát triển một hệ thống điệp vụ vô cùng quan trọng và đã len lỏi vào được nhiều cơ quan đầu não của Việt Nam cộng hoà. Những tin tức chiến lược mà Cảnh sát Quốc gia biết họ cung cấp, đều có giá trị giúp cho Hà Nội có được những dữ kiện chắc chắn khi ấn định chính sách của họ đối với cuộc chiến tranh."

Vào năm 1969, theo chỉ thị của cấp trên, cụm tình báo A.22 dự định thiết lập một "chính phủ" mới với những vị trí quan trọng trong nội các đều do các cơ sở tình báo của cụm nắm giữ. Ví dụ Huỳnh Văn Trọng dự kiến làm Thủ tướng, Vũ Hữu Duật dự kiến làm Bộ trưởng chính trị, Vũ Xuân Hoè làm Bộ trưởng kinh tế, Lê Hữu Thuý làm Bộ trưởng Thông tin chiêu hồi. Tuy nhiên dự tính này không thành do hoạt động điều tra và phản gián của CIA.
                         

Ông Vũ Ngọc Nhạ (thứ hai từ trái sang) trong buổi chuẩn bị đón Phó Tổng thống Mỹ Johnson sang thăm Sài Gòn tháng 5-1961.

Tuy tổ chức rất chặt chẽ, nhưng do hoạt động mạnh và có ảnh hưởng đến chính giới cũng như chính quyền Sài Gòn, CIA nhanh chóng phát hiện thấy điều không bình thường của những nhân vật riêng rẽ này, vốn hầu hết đều là những nghi can về tội làm điệp viên và từng bị giam giữ tại trại Tòa Khâm. Do đó, cơ quan CIA đã tiến hành điều tra để phá vỡ cụm tình báo vô cùng nguy hiểm này. Hồ sơ các cựu tù nhân trại Tòa Khâm được giở lại từ giữa năm 1968. Do quy mô, cũng như sức ảnh hưởng quá lớn và tính chất phức tạp của vụ án, mãi hơn một năm sau CIA mới chuyển giao thông tin cho Tổng Nha Cảnh sát điều tra vụ án. Một đơn vị đặc biệt có mật danh S2/B đã được thành lập và đã tiến hành bắt giữ hầu hết những người của Cụm A.22 vào trung tuần tháng 7 năm 1969. Toàn bộ các điệp viên Vũ Ngọc Nhạ, Lê Hữu Thúy (tức Thắng), Vũ Hữu Ruật, Nguyễn Xuân Hòe, Nguyễn Xuân Đồng, hầu hết các cơ sở như phụ tá Huỳnh Văn Trọng, cơ sở giao liên như bà Cả Nhiễm... đều bị bắt giữ. Tuy nhiên, Cụm trưởng Tư Lê đã kịp thời trốn thoát.

Về cơ bản, cụm tình báo gần như bị phá vỡ hoàn toàn. Các chứng cứ về hoạt động tình báo hầu như đầy đủ. Chính giới Sài Gòn rung động vì quy mô của vụ án: 42 cán bộ và cơ sở điệp báo, hoạt động rộng và có ảnh hưởng trong nhiều cơ quan chính quyền cũng như các tổ chức chính trị, một phụ tá tổng thống bị bắt... Khi vụ án được đưa ra xét xử vào tháng 11 năm 1969, báo giới Sài Gòn đã mệnh danh đây là "Vụ án chính trị của thế kỷ", "Vụ án gián điệp lớn nhất thời đại".

Nếu bị kết án gián điệp, các thành viên của cụm A.22 có thể bị kết án tử hình. Tuy nhiên cụm tình báo đã đi một nước cờ xoay chuyển tình thế: biến vụ án gián điệp thành vụ án chính trị, lợi dụng mức ảnh hưởng và mối quan hệ sâu rộng, các bằng chứng công khai, cũng như tình thế chính trị bấy giờ để dẫn phiên tòa vào thế bế tắc. Các tình báo viên đã khiến báo giới và dư luận Sài Gòn lúc đó nghĩ rằng vụ bắt bớ này là thủ đoạn đấu đá chính trị của các phe phái trong chính quyền Sài Gòn và cái tội danh “điệp viên, tình báo” chỉ là cái cớ được dựng lên.

Phiên tòa trở nên khó xử vì nhất cử nhất động của các bị cáo đều dính tới các chóp bu chính quyền từ tổng thống, bộ trưởng đến dân biểu, CIA và thậm chí là... Tổng thống Mỹ. Các bằng chứng được công khai để kết tội hoạt động gián điệp "móc nối với Việt Cộng" đều trở thành những vụ việc do chính... Tổng thống hợp hiến ủy thác hoặc ra lệnh. Nhân chứng quan trọng nhất của "vụ án" chắc chắn tòa sẽ không triệu tập được vì đó chính là Tổng thống. Và các bị cáo đều lập luận rằng họ hoạt động theo yêu cầu của chính quyền và lương tâm tôn giáo đã được hướng dẫn.

Vụ án cụm A.22 từ một thành công về phản gián trở thành một rắc rối lớn về chính trị của CIA. Tòa thánh Vatican và cộng đồng Công giáo di cư cũng cho rằng đây là âm mưu của CIA và Chính quyền Thiệu nhằm phá hoại Công giáo Việt Nam. Để "gỡ rối", CIA đã đề nghị Vũ Ngọc Nhạ khai nhận là mình làm việc cho cơ quan này, đổi lại ông sẽ nhận được lương bổng hậu hĩ cùng với 2 triệu USD trả thêm. Nhưng ông Nhạ đã từ chối.

Nước cờ của cụm tình báo A.22 đã hoàn toàn thành công. Không có ai trong cụm bị kết án tử hình. Do không có bằng chứng thuyết phục để khép vào tội tử hình, tòa án quân sự mặt trận lưu động Vùng 3 đã tuyên án Vũ Ngọc Nhạ, Lê Hữu Thúy, Huỳnh Văn Trọng, Nguyễn Xuân Hòe án Chung thân khổ sai, những thành viên khác bị kết án từ 5 năm đến 20 năm. Tuy nhiên, dù sao thì Cụm A.22 cũng đã thực hiện thành công được ý định của mình: giữ được mạng sống các điệp viên, giữ lại được vị thế chính trị để hoạt động khi ra tù, đồng thời gây ra sự nghi kỵ lẫn nhau trong chính trường Việt Nam Cộng hòa.

Đánh giá mức độ thành công của Cụm A.22 có thể thấy được qua lời tuyên bố của Vũ Ngọc Nhạ trước khi lên xe giải về trại giam sau khi phiên tòa kết thúc và được báo giới ghi lại:

Lúc quân cảnh đưa lần ra khỏi phòng xử để lên xe bít bùng, Vũ Ngọc Nhạ hướng về đám đông ký giả ngoại quốc và thân nhân nói lớn:

- Tôi gởi lời về thăm ông Thiệu

Rồi ông nói lên câu tiếng Pháp:

- Ma Mission est Possible mais maintenant est impossible! (Sứ mạng của tôi trước có thể hoàn thành được nhưng bây giờ thì bất khả!)

Và ông nói với một số ký giả trong nước:

- Vụ tụi tôi chỉ có lịch sử phán xét!

Một số thành viên của A.22 bị đưa ra Côn Đảo giam giữ, Vũ Ngọc Nhạ và một số thành viên khác bị giam ở Sài Gòn một thời gian rồi cũng được đưa ra Côn Đảo. Vũ Ngọc Nhạ và Lê Hữu Thuý bị giữ một thời gian tại khu biệt giam tại Đặc ủy tình báo số 3A Bạch Đằng, một nơi tra khảo khét tiếng của CIA, trong điều kiện nhiệt độ thay đổi đột ngột, thường xuyên bị truy vấn bằng máy kiểm tra nói dối và nhiều hình thức tra khảo khác. Điều này khiến sức khoẻ của hai ông bị ảnh hưởng nghiêm trọng.

Sự thành công này còn đạt được một kết quả bất ngờ: khi Cụm Tình báo A.22 bại lộ, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu vẫn chưa và không muốn tin vào sự thật, còn cho rằng đây là âm mưu của CIA dàn cảnh để triệt hạ người thân tín của mình. Người Mỹ phải đích thân gặp Nguyễn Văn Thiệu và đe doạ: "Nếu ông không ký lệnh bắt Vũ Ngọc Nhạ, ông sẽ mất chức Tổng thống." Trong thời gian Vũ Ngọc Nhạ và các bạn đồng chí bị đày ra Côn Đảo, Thiệu đã thay thế viên Tỉnh trưởng Côn Đảo bằng một người thân tín của mình và ra lệnh phải chăm sóc ông Nhạ chu đáo. Ông còn trao đổi thư từ và gặp mặt trực tiếp với nhiều chức sắc tôn giáo và chính trị gia người Việt lẫn Mỹ. Về phía Vatican, trong buổi lễ ngày 23 tháng 6 năm 1971, Vũ Ngọc Nhạ được giáo hoàng Phaolô VI ca ngợi, ban ơn chết lành và được tặng bằng khen cùng huy chương. Một linh mục khâm sai của Vatican đã đến khám Chí Hoà trao phần thưởng của giáo hoàng cho ông Nhạ vào ngày 25 tháng 6. 

                       

                       

                                    Các thành viên chủ chốt của vụ án “Ông cố vấn”

                        (bgiay)Tiết lộ bất ngờ về nhà tình báo nổi danh Vũ Ngọc Nhạ và mạ

           Ông Vũ Ngọc Nhạ (bên phải) và ông Huỳnh Văn Trọng lúc bị giam ở Côn Đảo.

        Cụm tình báo A.22 bị phá vỡ, nhưng hoạt động tích cực của các điệp báo viên khác như Phạm Xuân Ẩn khiến nhiều tin tức nội bộ khác vẫn bị rò rỉ ra ngoài. Điều này càng khiến Nguyễn Văn Thiệu tin rằng Mỹ dàn dựng vu oan cho ông Nhạ và tìm cách đưa ông ra khỏi Côn Đảo về sau.

Đầu năm 1973, Vũ Ngọc Nhạ và Huỳnh Văn Trọng được đưa về trại giam Chí Hòa quản thúc theo quy chế tù chính trị theo Hiệp định Paris. Trong thời gian này, lợi dụng ảnh hưởng của mình và nhờ sự giúp đỡ của linh mục Hoàng Quỳnh, Vũ Ngọc Nhạ nối lại mối quan hệ với các tổ chức chính trị thuộc "Lực lượng thứ 3" do tướng Dương Văn Minh cầm đầu. Lo ngại những hoạt động của ông có thể gây ảnh hưởng xấu đến chính quyền, ngày 23 tháng 7 năm 1973, chính phủ Việt Nam Cộng hòa đã trao trả ông tại Lộc Ninh cho phía Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, với danh xưng là "linh mục Giải phóng", với mục đích đẩy ông ra xa các hoạt động của chính giới Sài Gòn.

Sau khi được trao trả, cuối năm 1973, ông được đưa về Phòng tình báo quân sự để làm công tác xác minh. Đầu năm 1974, sau khi đã kiểm tra thông tin, ông được khôi phục hoạt động bí mật và được công nhận quân hàm Trung tá Quân đội nhân dân Việt Nam. Trong thời gian này, ông đồng thời nhận được quyết định khen thưởng về thành tích của Cụm A.22 đồng thời với quyết định kỷ luật cảnh cáo vì chịu trách nhiệm trong việc lưới tình báo này bị vỡ. Tháng 4 năm 1974, ông trở về hoạt động bán công khai tại Củ Chi, với mục đích xây dựng một cụm tình báo chiến lược mới do ông làm cụm trưởng, xây dựng cơ sở tình báo và nối lại quan hệ với các tổ chức chính trị thuộc Lực lượng thứ 3, đặc biệt là khối Công giáo. Tháng 1 năm 1975, ông trở lại Sài Gòn, sống bất hợp pháp và hoạt động trong Lực lượng thứ 3 với tư cách là một đại biểu Công giáo. Ngày 30 tháng 4 năm 1975, ông có mặt bên cạnh tướng Dương Văn Minh tại dinh Độc Lập, chứng kiến những giờ phút cuối cùng của chế độ Việt Nam Cộng hòa.

Theo chỉ đạo của cấp trên, Vũ Ngọc Nhạ đã thông qua khối Công giáo gây sức ép buộc Nguyễn Văn Thiệu từ chức và Dương Văn Minh lên làm Tổng thống. Ông cũng khuyên Nguyễn Văn Thiệu rời bỏ Sài Gòn, nhưng tuyệt đối không đến Mỹ vì ở Mỹ Nguyễn Văn Thiệu sẽ bị giết. Nghe theo lời khuyên của ông, Nguyễn Văn Thiệu cùng gia đình đã sang Hồng Kông rồi sang Anh cư trú đến hết đời. Khi được hỏi về việc "cứu mạng" Nguyễn Văn Thiệu, Vũ Ngọc Nhạ nói "Tôi cho đó là chính sách rất nhân đạo của chế độ ta."

Sau năm 1975, toàn bộ Hồ sơ mật về Cụm tình báo chiến lược A.22 của Nha Tổng giám đốc Cảnh sát quốc gia được thu hồi nguyên vẹn. Thậm chí, vào ngày 30 tháng 4 năm 1975, một chỉ huy tình báo cao cấp và là chỉ huy trực tiếp của Vũ Ngọc Nhạ là Đại tá Nguyễn Đức Trí cũng có mặt tại dinh Độc Lập. Tuy nhiên, thân phận thực của Vũ Ngọc Nhạ vẫn chưa được xác nhận. Mãi đến năm 1976, ông mới được điều về làm chuyên viên Cục 2 với quân hàm Thượng tá. Năm 1981, ông được thăng Đại tá. Ông được giao các công tác nghiên cứu và tổng hợp các báo cáo để phúc trình cho các lãnh đạo cao cấp của nhà nước như Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Mai Chí Thọ, Nguyễn Văn Linh. 

                       

Từ trái sang phải: Bác Vũ Cao Đệ, cơ sở đầu tiên của nhà tình báo ở nội đô Sài Gòn; Cụ Ý (thôn Cổ Ninh); Ông cố vấn; Ông Vũ Ngọc Khoa (em ruột ông Nhạ, người giả danh làm căn cước).

Đến năm 1987 thân thế và sự nghiệp của ông mới được công chúng biết tới. Để tôn vinh sự nghiệp hoạt động của ông, năm 1988, Nhà nước Việt Nam phong hàm Thiếu tướng cho Vũ Ngọc Nhạ. Cụm tình báo chiến lược A.22 và Đại tá Lê Hữu Thúy được phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang.

Ông qua đời lúc 6 giờ 7 phút ngày 7 tháng 8 năm 2002 tại TP Hồ Chí Minh, hưởng thọ 75 tuổi. Phần mộ của ông nay được đặt tại nghĩa trang Lạc Cảnh, Thành phố Hồ Chí Minh, trong khu vực dành riêng cho các tướng lĩnh, gần mộ phần của 2 điệp viên nổi tiếng khác là Phạm Xuân Ẩn và Đặng Trần Đức. Mộ phần của Đại tá Phạm Ngọc Thảo cũng cách đó không xa.

5- Đặng Trần Đức:

Đặng Trần Đức (1922-2004), sinh tại Thanh Trì, Hà Nội; bí danh Ba Quốc – 3Q, Nguyễn Văn Tá; là Thiếu tướng tình báo Quân đội nhân dân Việt Nam. Nguyên Ủy viên Thường vụ Đảng ủy, Cục trưởng Cục 12, Tổng cục II, Bộ Quốc phòng Việt Nam, phụ trách lực lượng tình báo phía Nam và Campuchia. Trước khi mất, ông là Cố vấn cho Tổng cục trưởng Tổng cục Tình báo và tham gia Ban chỉ đạo Điệp báo Tổng cục. 

Tháng 3 năm 1945 tham gia Việt Minh tại khu Hàng Trống, Hà Nội; được tuyển vào Công an xung phong.

Tháng 5 năm 1945 ông là Chủ tịch Ủy ban nhân dân cách mạng xã Thanh Trì (Hà Nội). Sau khi củng cố chính quyền xã, ông huy động nhân dân lên tham gia cuộc mít tinh ngày 19 tháng 8 tại Nhà hát lớn Hà Nội. Sau đó được điều về Hà Nội làm công an, tham gia phá một số vụ án, trong đó có vụ án phố Ôn Như Hầu. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, ông là Trung đội trưởng Công an thanh niên xung phong Mặt trận Việt Minh khu Khâm Thiên, Hà Nội.
                 Thiếu tướng, nhà tình báo Đặng Trần Đức. (Ảnh tư liệu)

                      Thiếu tướng, nhà tình báo Đặng Trần Đức. (Ảnh tư liệu)

 

Năm 1946, Mặt trận Hà Nội vỡ, ông cùng vợ là bà Phạm Thị Thanh về Thanh Hóa. Sau đó được lệnh rút vào Đô Lương (Nghệ An), làm trưởng khu Đức Hòa.

Tháng 5 năm 1949, ông được giao làm nhiệm vụ điệp báo và trở về hoạt động tại Hà Nội. Vợ ông cũng được lệnh về Hà Nội hoạt động nhưng do mới sinh con nên về sau. Tổ chức giới thiệu ông với điệp báo viên Đặng Văn Hàm - con rể ông Đàm Y, quận trưởng của quận 1 (Hàng Trống), khét tiếng chống Việt Minh và là tay chân đắc lực của Tổng trấn Bắc Việt Nghiêm Xuân Thiện. Ông Đặng Văn Hàm sau đó cũng được đánh vào nam, sau năm 1975, ông Hàm được thăng quân hàm thiếu tá, rồi làm Trưởng ty thương binh Tỉnh Ninh Bình.

Được sự giúp đỡ của cụ Đàm Y, ông che dấu thân phận là Việt Minh, vào làm công an của chế độ Bảo Đại và sau đó xin làm Đồn trưởng Công an Từ Sơn (thuộc phía đối phương) nhằm bắt liên lạc với cấp trên, lấy lý do làm ở vị trí đó ông mới có điều kiện tìm được vợ con. 

Năm 1954, hiệp định Genève được ký kết. Ông được lệnh theo quân Pháp vào Nam tiếp tục hoạt động. Để thuận tiện cho việc hoạt động và xóa lý lịch của mình, hai vợ chồng ông Đàm Y sắp xếp cho Đặng Trần Đức cưới cháu họ của mình là bà Ngô Thị Xuân - có bố làm công chức cho Pháp và theo đạo Thiên Chúa. Cụ ông Đàm Y không có điều kiện được thấy nước nhà thống nhất cũng như thành công của Đặng Trần Đức, cụ mất năm 1974 tại Sài Gòn, nhưng sau này 2 vợ chồng cụ đều được công nhận lại tư cách Điệp báo viên của Tình báo Quốc phòng. 

Vào nam, lúc đầu ông được bố trí làm kế toán viên tại Nha Công an Nam phần. Nhờ biết được người Pháp đang có kế hoạch chuyển một số vàng rất lớn về Pháp, ông đã thông tin cho Trưởng ban công tác đặc biệt Phủ Tổng thống là Trần Kim Tuyến. Nhờ đó ông được chuyển về ban công tác đặc biệt Phủ Tổng thống của Việt Nam Cộng hòa, đặc trách tổ chức việc thu thập thông tin buôn lậu vàng. Sau sự việc này, ông chính thức được điều về Sở Nghiên cứu chính trị - xã hội do Trần Kim Tuyến đứng đầu, với cấp bậc là chuyên viên bậc 3.

                        Thiếu Tướng ĐẶNG TRẦN ĐỨC - Điệp Viên Siêu Hạng Bí Danh BA QUỐC Giữa Sào  Huyệt VNCH - YouTube

Thiếu Tướng ĐẶNG TRẦN ĐỨC - Điệp Viên Siêu Hạng Bí Danh BA QUỐC Giữa Sào Huyệt VNCH

Trở thành chuyên viên của Sở Nghiên cứu chính trị, ông Ba Quốc tập trung nghiên cứu tất cả những công việc của cơ quan này và bắt đầu khai thác những gì có thể khai thác. Ông làm việc tận tụy, chu đáo, mẫn cán để tạo lòng tin cho Trần Kim Tuyến. 

Năm 1956, địch bắt đầu đánh phá ác liệt các "cơ sở nằm vùng của Việt cộng". Người chỉ huy trực tiếp của ông là ông Ba Hội cũng bị bắt. Trong bối cảnh đó, Trần Kim Tuyến bất ngờ giao cho ông thực hiện một kế hoạch đặc biệt. Một đặc khu ủy viên Sài Gòn – Gia Định đang hoạt động ở nội thành tên Huỳnh Kim Hiệp đã phản bội, báo tất cả danh sách đặc khu ủy, gồm bí thư và 9 đặc khu ủy viên, nơi ở và các hoạt động hằng ngày của họ. Bằng sự khôn khéo của mình, ông đã kịp thông báo cho bí thư khu ủy Sài Gòn – Gia Định lúc đó là ông Nguyễn Văn Linh, người sau này là Tổng bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam và các khu ủy viên kịp thời trốn thoát. 

Tháng 5 năm 1959, biết được Chính quyền Sài Gòn lên kế hoạch ám sát Hoàng thân Sihanouk, ông đã bố trí cho bom nổ lệch giờ, kịp thời cứu mạng Hoàng thân Sihanouk. Sau vụ việc này, Hoàng thân Sihanouk công khai ủng hộ Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam. Ông cho phép Bộ đội Giải phóng được sử dụng lãnh thổ Campuchia để lập căn cứ, vận chuyển vũ khí, lương thực, đạn dược chi viện cho chiến trường miền Nam.

Năm 1960, sau khi bắt liên lạc được với cơ sở, ông Ba Quốc ngày càng thâm nhập sâu vào Sở Nghiên cứu chính trị và được Trần Kim Tuyến đặc biệt tin tưởng. Trong thời gian này, ông đã phát hiện hồ sơ về 7 ổ gián điệp do Mỹ cài ở miền Bắc. Ông đã chụp ảnh tất cả những hồ sơ này và gửi về căn cứ. Kết quả những ổ gián điệp này đã bị chính quyền miền Bắc quét sạch.

Sau khi chế độ Diệm sụp đổ, trải qua những năm biến động chính trị của miền nam, Ba Quốc lại thâm nhập vào Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo. Lúc này ông nằm trong cụm điệp báo H67, ông có lúc leo lên đến trợ lý Cục trưởng Cục Tình báo Quốc nội, kiêm nhiệm Trưởng ban Đoàn thể (phụ trách việc theo dõi hoạt động của các tổ chức chính trị). Ở vị trí này, Ba Quốc được tiếp cận với hầu hết các tài liệu quan trọng trong mạng lưới tình báo của Việt Nam Cộng hòa. 

 

    

Nhà tình báo Ba Quốc (bên phải) và thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh - Ảnh tư liệu

Năm 1969, xảy ra vụ án gián điệp của Vũ Ngọc Nhạ, màng lưới tình báo của Hà Nội trong lòng Sài Gòn có nguy cơ bị vỡ, phòng tình báo miền phải rút cụm trưởng H67 về cứ, và tổ chức hội nghị đánh giá lại công tác Tình báo. Tuy nhiên ông vẫn chưa bị lộ.  

Trong thời kỳ chiến tranh, Đặng Trần Đức đã tìm cách tiếp cận với Phạm Xuân Ẩn, một điệp viên khác của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đang hoạt động dưới vỏ bọc nhà báo, để khai thác tin tức. Cả ông và Phạm Xuân Ẩn đều không biết đối phương là đồng đội cùng chiến tuyến. Cấp trên đã ra lệnh ông Đức cắt đứt quan hệ với ông Ẩn, viện cớ ông Ẩn là người của CIA.

Năm 1974, do giao liên bị bắt, trước nguy cơ bị lộ, ông được lệnh rút ra mật cứ, rồi từ đó theo đường mòn Hồ Chí Minh ra bắc. Về Hà Nội, ông báo cáo tình hình chính trị miền nam cho Bộ Chính trị, và sau đó được phiên quân hàm Trung đoàn bậc phó tương đương thiếu tá. Tại miền bắc, ông đoàn tụ với gia đình sau 21 năm cách biệt vì nhiệm vụ. 

Khi kết thúc chiến tranh Việt Nam, ông tiếp tục công tác trong ngành Tình báo quốc phòng và trở thành cán bộ Tình báo. Ông đóng góp rất to lớn vào thành công của lực lượng tình báo trong giai đoạn chiến tranh tây nam. Năm 1977, cụm điệp báo Hà Tiên/Kiên Giang mà ông là cụm trưởng, đã móc nối thành công với Heng Samrin - tư lệnh sư đoàn 4 của Khmer Đỏ, nắm được ý đồ của Khmer đỏ coi "Việt Nam là kẻ thù truyền kiếp". Từ đó Trung ương Đảng xác định, đây không chỉ là "xung đột biên giới" đơn thuần mà là cuộc chiến tranh Bảo vệ Tổ Quốc. Năm 1978, ông Heng Sarim tiến hành đảo chính không thành công, Việt Nam buộc phải tiến hành biện pháp cứng, phản công trên toàn biên giới tây nam với hơn 25 vạn quân và tiến vào Phnom Penh lật đổ chế độ Kmer đỏ.

Tháng 11 năm 1978, ông được vinh dự được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng. Lúc này ông mang quân hàm trung tá.

                              Không có mô tả ảnh. 

                          Thiếu tướng tình báo Đặng Trần Đức (Ba Quốc) và gia đình

Sau đó ông công tác tại đoàn 817 - cục 2, tham gia chỉ huy hoạt động tình báo của quân đội Việt Nam tại Campuchia. Trong thời kỳ 10 năm ở Campuchia, ông là người tổ chức và chỉ huy Tình báo Việt Nam, phá vỡ các màng lưới tình báo Khmer đỏ để lại, triệt phá các kênh ngầm viện trợ cho Khmer đỏ do liên minh Thái-Mỹ-Trung Quốc đứng đầu, cũng như hỗ trợ đắc lực tin tức tình báo cho Bộ Tư lệnh Quân Tình nguyện Việt Nam tại Campuchia.

Năm 1988, trước tình hình biến động tại Đông Âu, khi được cấp trên yêu cầu đánh giá, ông cho rằng CIA sẽ can thiệp để hình thành cái gọi là Xã hội dân chủ ở Liên Xô, nhằm làm sụp đổ chế độ Cộng sản từ bên trong. Ông cũng dự đoán sẽ có 2 cuộc đảo chính diễn ra : đảo chính giả và phản đảo chính, mà cuộc đảo chính thứ 2 mới là thật. Thực tế đã diễn ra đúng với những gì ông nói, ngày 18 tháng 2 năm 1991, bất mãn với Tổng thống Liên Xô - Mikhail Gorbachev, Phó tổng thống, Thủ tướng cùng bộ trưởng Quốc phòng và giám đốc KGB, đã huy động quân đội cùng công an giành chính quyền, bộ đội sư đoàn tăng Tamanskaya được lệnh tiến vào Thủ đô, còn đặc nhiệm KGB truy bắt các lãnh đạo phe dân chủ. Tuy nhiên, ngay ngày 20 tháng 2, Boris Yeltsin đã làm cuộc phản đảo chính, kêu gọi nhân dân xuống đường, gây áp lực cho quân đội rút khỏi thủ đô. Đến ngày 21, cuộc đảo chính cơ bản thất bại, Yeltsin bắt đầu nắm quyền lực và đặt nền móng cho sự sụp đổ của Liên bang Xô Viết. Nhờ vào đó, nhà nước Việt Nam đã không bị động trước những biến động chính trị ở Đông Âu trong giai đoạn này, một phần dự trữ vàng và ngoại tệ ở Đông Đức và Liên Xô, đã được bí mật đưa về nước trước khi thể chế chính trị thay đổi.

Sau khi Việt Nam rút quân khỏi Campuchia, năm 1990 ông được thăng quân hàm Thiếu tướng, lúc này là đoàn trưởng đoàn 817 và sau đó là Cục trưởng Cục 12, phụ trách lực lượng tình báo phía Nam và Campuchia. Trong giai đoạn này, Cục 12 có những đóng góp rất lớn trong việc giải quyết tình hình Campuchia theo hướng có lợi cho Việt Nam. Tháng 9 năm 1997, đồng Thủ tướng Norodom Ranariddh bị lật đổ phải sống lưu vong, và phe thân Việt Nam lên nắm quyền tuyệt đối; đến năm 1998, Khmer đỏ chính thức tan hàng, Polpot chết tháng 4 còn Khieu Samphan đầu hàng quân Hun Sen tháng 12 cùng năm, vấn đề Khmer đỏ được giải quyết. Với những thành tích đó, tháng 1 năm 1999, thuộc cấp của ông là Nguyễn Chí Vịnh được bổ nhiệm làm Tổng cục phó, còn Đặng Trần Đức được Cố vấn Ban chấp hành Trung ương phụ trách Vấn đề Campuchia Lê Đức Anh đề nghị giữ chức Tổng cục trưởng - đứng đầu lực lượng Tình báo Quốc phòng, vì tuổi đã cao, ông từ chối, và tín nhiệm Nguyễn Chí Vịnh giữ chức Tổng cục trưởng, tuy vậy, sau này, ông vẫn còn đóng góp thông qua Ban Chỉ đạo Điệp báo Tổng cục.

Giai đoạn bình thường hóa quan hệ quốc tế, khi còn phụ trách Cục 12 và sau khi về hưu, ông cũng tham mưu và đề xuất với Ban Chỉ đạo Điệp báo Tổng cục trong việc xây dựng lực lượng Tình báo Kinh tế - Công nghệ.

Ông là người duy nhất đi từ tình báo viên trong chiến tranh Việt Nam, trở thành cán bộ tình báo rồi lãnh đạo tình báo quốc phòng sau chiến tranh. 

Những ngày cuối đời, có người hỏi ông Ba Quốc: “Cái sợ nhất khi hoạt động tình báo lâu ngày trong lòng địch là gì?”. Ông trả lời không do dự: “Là nỗi cô đơn ghê gớm khi không liên lạc được với tổ chức”. “Vậy nỗi buồn lớn nhất khi hoạt động tình báo lâu ngày trong lòng địch là gì?”. Ông trầm ngâm suy nghĩ một lát rồi nói: “Là mỗi khi nhìn thấy đồng chí, đồng đội của mình bị bắt bớ, giam cầm, khảo tra mà mình không thể làm gì được”. Hỏi: “Ông đánh giá như thế nào về nghề tình báo?”. Ông trả lời: “Tình báo chưa bao giờ là nghề của tôi”. Lại hỏi: “Nếu như được phép lựa chọn thì ông có thêm một lần nữa lựa chọn nhiệm vụ của một người chiến sĩ tình báo?”. Ông Ba Quốc: “Nhưng con người ta chỉ có một cuộc đời, không thể có một cuộc đời thứ hai. Vì thế, không thể có chữ “nếu”. Với lý tưởng cũng như với tình yêu, người ta chỉ được phép lựa chọn một lần cho mãi mãi…”.

Ông mất hồi 5 giờ 30 phút, ngày 26 tháng 3 năm 2004 tại Quân y viện 175, thành phố Hồ Chí Minh

6- Nguyễn Văn Tàu:  

Nguyễn Văn Tàu, biệt danh Tư Cang, là Đại tá tình báo Quân đội nhân dân Việt Nam, nguyên cụm trưởng cụm tình báo quân sự H63 hoạt động trong Chiến tranh Việt Nam mà Hai Trung – Phạm Xuân Ẩn là điệp viên chính. 

                                                   

                                          Đại Tá Nguyễn Văn Tàu, tháng 4 năm 2025

 

Nguyễn Văn Tàu sinh ngày 30 tháng 10 năm 1928 tại Bà Rịa – Vũng Tàu.

Ông tham gia cách mạng từ năm 1945, trong phong trào Thanh niên tiền phong.

Trong giai đoạn 1947–1954, ông là chiến sĩ quân báo của Việt Minh ở tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

Năm 1954, ông tập kết ra Bắc, đổi tên là Trần Văn Quang và làm trung đội trưởng trinh sát kiêm chính trị viên đại đội đặc công, Sư đoàn 338.

Tư Cang đã hòa giải với điệp viên Sài Gòn, Phạm Xuân Ẩn, để khảo sát các mục tiêu cho các cuộc tấn công Tết Nguyên đán năm 1968.

Năm 1961, ông quay lại hoạt động tại chiến trường miền Nam. Đầu năm 1961, cụm tình báo quân sự A18 (tiền thân của cụm H.63) ra đời, đóng tại căn cứ Bời Lời (Tây Ninh). Tất cả để phục vụ điệp viên nổi tiếng Hai Trung. Đằng sau những tin tức, tài liệu chuyển về của Hai Trung, là cả hệ thống phục vụ, cả trong nội đô và ngoài căn cứ. Thời kỳ đầu, H.63 là bộ phận địch tình của thành ủy Sài Gòn. Khi Hai Trung (X6, Phạm Xuân Ẩn) từ Mỹ trở về, hoạt động giữa Sài Gòn với tư cách phóng viên báo nước ngoài, ông Mười Nho (Xuân Mạnh, Nguyễn Nho Quý – cán bộ Cục Tình báo) là người trực tiếp chỉ đạo. Năm 1962, ông Mười Nho bị bệnh, không thể chỉ huy H.63. Cả mạng lưới với một điệp viên đã nằm sâu trong lòng địch như Hai Trung, cần một chỉ huy giỏi và mưu trí. Tư Cang là người được ông Ba Trần, Thủ trưởng Phòng tình báo miền lúc bấy giờ lựa chọn. Tháng 5/1962, Tư Cang chính thức được giao nhiệm vụ chỉ huy cụm H.63. Sau chiến tranh, "bộ máy" H.63 đã 2 lần trở thành anh hùng (với những điệp viên tiêu biểu: Tư Cang, Hai Trung, Tám Thảo, Mười Nho, Nguyễn Thị Ba...).

Sau ông là Chính ủy Lữ đoàn 316 đặc công biệt động, đơn vị tấn công cầu Rạch Chiếc trong Chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975. 

               

Người anh hùng tình báo và cuộc chia ly gần 30 năm với vợ con - Báo Công an Nhân dân điện tử

              Nhà tình báo Tư Cang hồi ức giờ phút trùng phùng ngày 30-4 sau 28 năm chờ  đợi - Tuổi Trẻ Online

Ông Tư Cang sum họp cùng vợ, con gái, cháu ngoại sau ngày 30-4-1975 - Ảnh: tư liệu gia đình

 

Vào những ngày cuối tháng 4 năm 1975 , ông được nhận nhiệm vụ chỉ điểm những vị trí đóng quân của quân lực Việt Nam Cộng Hòa ở trong thành phố Sài Gòn cho quân đoàn 3 , phòng trường hợp chính quyền Dương Văn Minh không đầu hàng quân giải phóng thì sẽ pháo kích , đánh chiếm từng đường phố trong thành phố. 

“Mãi đến 5 giờ ngày 30/4, quân ta mới chiếm giữ được cầu Rạch Chiếc, đảm bảo đúng kế hoạch cho xe, pháo của Quân đoàn 2 qua cầu lúc 7 giờ sáng, thẳng tiến đến dinh Độc Lập”, Đại tá Tư Cang nhớ lại. Tại đây, ông phát hiện một danh sách các cán bộ của ta mà Mỹ-Ngụy cất công điều tra, theo dõi. Mỗi người được dán trên một bảng nhỏ, treo trên tường, trong một căn phòng bí mật. Trong đó có cả tên Đại tá Tư Cang. Tuy nhiên, chúng chưa có được bao nhiêu thông tin về ông, chưa nhận diện khuôn mặt ông. Ngoài vài dòng: “Tư Cang, Phó Chính ủy tình báo Miền, người trắng trắng, cao cao, có đặc điểm bắn súng bằng hai tay rất giỏi, yêu thích văn nghệ. Quê quán: Chưa xác định. Gia đình: chưa xác định”. Phần dán ảnh còn trống.

“Chúng biết về chú là do một kẻ chiêu hồi khai báo, đặc biệt là khi chú được cấp trên giao nhiệm vụ Phó Chính ủy Phòng Tình báo Miền. Chúng biết chú là con cá “bự” nên ráo riết truy lùng, treo thưởng rất lớn cho ai cung cấp manh mối về chú. Nhưng chú rất cẩn thận, thậm chí, gặp vợ con cũng không dám nhận, con gái lấy chồng không được biết, khi được về thăm nhà thì đã có cháu ngoại”, ông Tư Cang bồi hồi nhớ lại.

Ông Nguyễn Văn Tàu (thứ 2, bìa phải), cùng thiếu tướng Phạm Xuân Ẩn (bìa trái) và 2 đồng đội Cụm tình báo H63 Nguyễn Thị Ba, Nguyễn Văn Minh. Ảnh: Nhân vật cung cấp. 

 Đại tá Nguyễn Văn Tàu (thứ 2, bìa phải), Thiếu tướng Phạm Xuân Ẩn (bìa trái) và 2 đồng đội Cụm tình báo H63 Nguyễn Thị Ba, Nguyễn Văn Minh. Ảnh nhân vật cung cấp.

Khi được phong Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân năm 2006, điều khiến Đại tá tình báo Tư Cang nhớ nhất chính là những đồng đội đã ngã xuống của ông. Cụm tình báo H63 Anh hùng, có tất cả 45 người thì 27 người đã hy sinh, để bảo vệ mạng lưới tình báo chiến lược, bảo vệ nhà tình báo Phạm Xuân Ẩn, để Phạm Xuân Ẩn có thể hoàn thành nhiệm vụ và trở thành một “điệp viên hoàn hảo” như ngày nay. Cả Phạm Xuân Ẩn và Tư Cang đều đã trở thành những người anh hùng của ngành tình báo được Đảng và Nhà nước công nhận. Nhưng với các nhà tình báo ấy, những người đồng đội đã ngã xuống của họ là những người anh hùng trong trái tim họ.

7 - Nguyễn Văn Thương:

Năm 1967, nhằm tăng cường thu thập thông tin tình báo về các hoạt động của mạng lưới cơ sở cách mạng cũng như nâng tầm ảnh hưởng và vị thế của chính quyền Việt Nam Cộng hòa đối với vùng nông thôn, CIA và Bộ Tư lệnh Viện trợ Quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam (MACV) thực hiện chương trình Phối hợp và Khai thác Tình báo (Intelligence Coordination and Exploitation-ICEX) vào tháng 7/1967. Năm tháng sau khi ICEX đi vào hoạt động, chương trình được chính quyền miền Nam Việt Nam đổi tên thành chương trình “Phượng Hoàng” hoặc “Phụng Hoàng”. Chương trình này được hoạch định với mục đích phát hiện và "vô hiệu hóa" – bắt giam, chiêu hàng, giết, hoặc kiềm chế – các cán bộ Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam nằm vùng, những người tuyển dụng và đào tạo cơ sở cho quân Giải phóng tại các xã ấp miền Nam Việt Nam, cũng đồng thời là những người hỗ trợ các nỗ lực đấu tranh vũ trang.

Anh hùng lực lượng vũ trang Nguyễn Văn Thương - người bị CIA cưa chân sáu lần là một trong số hàng ngàn chiến sĩ Việt Nam yêu nước bị bắt giữ từ chương trình Phượng Hoàng này.

Nguyễn Văn Thương sinh năm 1938 tại xã Lộc Hưng, Trảng Bảng, Tây Ninh. Mẹ của ông là bà Lê Thị Tân, một nữ đảng viên tham gia cách mạng từ sớm và hy sinh trong ngục tù của nhà tù Côn Đảo năm 1947. Cha ông là Nguyễn Văn Chắc, một chiến sĩ quân báo, bị quân đội Việt Nam Cộng hòa bắt giam và hy sinh trong nhà tù ở Tây Ninh năm 1959. Tiếp nối truyền thống yêu nước, đấu tranh vì độc lập, tự do, thống nhất của dân tộc, tháng 5/1959, Nguyễn Văn Thương tham gia cách mạng. Nhiệm vụ đầu tiên của ông là mang thư từ, điện báo từ Tây Ninh xuống Long Khánh (Đồng Nai) và rải truyền đơn trong đồn điền cao su.


Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân Nguyễn Văn Thương

Năm 1961, sau một thời gian đi học nghiệp vụ sĩ quan, ông được chọn làm vệ sĩ cho đồng chí Sáu Dân (tức đồng chí Võ Văn Kiệt, khi đó là Bí thư Thành ủy Sài Gòn – Gia Định). Khi cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc bước vào giai đoạn khốc liệt, Trung ương Đảng chủ trương thành lập Cục tình báo miền Nam. Nguyễn Văn Thương được tin tưởng chọn sang hoạt động tình báo, đặt dưới sự quản lý trực tiếp và huấn luyện của đồng chí Mười Nho (Đại tá Nguyễn Nho Quý, Trưởng ban Tình báo khu Sài Gòn – Chợ Lớn).

Trong vai người bán bánh mì Tư Hiếu (bí danh của Nguyễn Văn Thương), ông hoạt động tình báo ở khu vực miền Đông Nam Bộ, từ Tây Ninh tới Bình Long (Bình Phước), Long Khánh (Đồng Nai) và Sài Gòn. Ông tham gia các mũi giao thông của Cụm tình báo A18, A20, A22 và A36. Nhiệm vụ chủ yếu là chuyển về tin tức từ các điệp viên mà quân giải phóng cài cắm sâu trong chính quyền Sài Gòn của ông Ba Quốc (Thiếu tướng, AHLLVTND Đặng Trần Đức), Hai Nhạ (Thiếu tướng Vũ Ngọc Nhạ), Hai Trung (Thiếu tướng, AHLLVTND Phạm Xuân Ẩn),… về Trung ương Cục miền Nam. Suốt thời gian hoạt động, ông đã chuyển khoảng 900 tin tình báo về chiến khu an toàn. Nhờ thông tin tin tình báo của ông đã giúp Bộ Chính trị và Trung ương Đảng có những sách lược, chủ trương kịp thời đối phó với các chiến lược của đối phương.

                          Không thể khuất phục bằng tiền bạc, địch dùng búa đập nát chân ông. “Chúng đưa tôi ra, dùng búa đập nát chân vì cho rằng như thế sẽ khiến tôi không còn hoạt động tình báo được nữa”. Cựu Thiếu tá nhớ lại.

Thiếu tá Nguyễn Văn Thương sống cùng vợ và con cháu trong ngôi nhà trên đường Bình Lợi, phường 13, quận Bình Thạnh.

 Chuyến tài liệu cuối cùng anh vận chuyển ra căn cứ để ngày mai ra miền Bắc đi học theo lệnh cấp trên thì bị bắt. Đó là tài liệu tuyệt đối quan trọng nên chỉ Nguyễn Văn Thương mới đủ tin tưởng được giao nhiệm vụ này. Ngày 11/02/1969, ông bị chỉ điểm và bị bắt khi đang băng vội qua cánh đồng An Phú, ấp 9 Bình Phước để chuyển 2 bản tài liệu quan trọng. Tên chỉ điểm đã chỉ điểm rằng ông là Nguyễn Văn Thương, tức Hai Thương, hay còn gọi là Tư Hiếu, phụ trách một mạng lưới tình báo.  khi đang trên đường vào R, kịp cất giấu tài liệu theo quy ước ngành và bắn hạ 23 tên địch…sau ngày đó lịch sử cách mạng đã chứng kiến quá trình đấu tranh phi thường của Nguyễn Văn Thương để bảo vệ tổ chức, bảo vệ cách mạng.

 Khi bắt được anh và biết anh là đội trưởng đường dây tình báo. CIA tuyên bố: “Chỉ cần giữ lại cái lưỡi”, để khai thác thông tin từ Nguyễn Văn Thương, CIA đã dốc tâm dốc sức đủ mọi thủ đoạn. Sau một đêm tra tấn nhưng không khai thác được thông tin, quân đội Hoa Kỳ chuyển chiến thuật, đưa ông về 1 căn biệt thự sang trọng ở Sài Gòn, có đủ “kẻ hầu người hạ” và tách biệt với thế giới bên ngoài. Trên bàn, một tấm séc kí sẵn với trị giá 100.000 USD (thời điểm 1969), cùng vé máy bay một chiều mở có thể chọn bất kỳ quốc gia nào là đồng minh của Hoa Kỳ, cùng một viễn tưởng về gia đình hạnh phúc với cô gái trẻ tên Thùy Dương. Cuộc đấu trí cân não với chuyên gia tâm lý chiến Thùy Dương diễn ra trong suốt 100 ngày nhưng không đạt được kết quả, CIA quyết định tra tấn ông.

                          Cuộc sống tuổi 80 của thiếu tá tình báo 6 lần bị cưa chân                             

Thiếu tá Nguyễn Văn Thương thường được mời đi nhiều địa phương để kể về cuộc chiến đấu của mình cho lớp trẻ.     

 Cũng có khi Thùy Dương dùng thân xác để dụ dỗ người lính trẻ, đã có lúc anh thấy Thùy Dương đẹp giống như Hằng Nga thật xuống trần, cô ta đẹp còn hơn cả Tiên Nga trên trời vì có hương thơm của da thịt người con gái đang xuân, dùng thứ vũ khí ấy hòng chiêu hồi người cách mạng. Có khi cô ta nguyên trinh, nõn nà, quyến rũ trong bộ đồ ngủ màu hồng như mời gọi, như níu kéo, như một ma lực có sức hút và chỉ cần một tích tắc nắm chặt tay cô ta thì mọi thứ đã được định đoạt. Vinh hay nhục! Đúng, thân thể anh cũng biết khao khát cảm xúc, chiêu đòn tâm lý chiến của CIA cố đánh thức con người đàn ông trong anh... thậm chí anh phải lảng tránh trấn tĩnh chính con người mình. Có thể tình cảm của anh cũng mãnh liệt nhưng ý chí lại mạnh hơn, nó giúp anh chiến thắng, vượt qua. Anh biết lúc này chỉ cần mềm lòng chút xíu là không còn là mình nữa, là mất hết, là từ bỏ đội ngũ, đồng đội, bỏ cách mạng, phản lại tổ chức…Cuộc đấu trí cân não với chuyên gia tâm lý chiến Thùy Dương diễn ra trong suốt 100 ngày nhưng không đạt được kết quả, CIA quyết định tra tấn ông.

Không nhận được cái gật đầu chỉ với một câu hỏi “Mày là Nguyễn Văn Thương phải không?”, trong một tuần lễ, họ đã đập nát hai bàn chân ông, các ngón chân bị bẻ quặt theo các kiểu khác nhau, mười đầu ngón chân bị vặn trật ra khỏi khớp. Những đòn tra tấn “dằn mặt” không khuất phục được người chiến sĩ cách mạng. Bàn chân bị dập nát vì trận đòn cảnh cáo, những ngón chân bị bẻ gãy chưa kịp lành, viên sĩ quan Hoa Kỳ dùng ông để làm thí nghiệm “đòn tra tấn kiểu tân thời” bằng cách cưa chân ông ra từng khúc, từng khúc để ông không thể làm giao liên được nữa. Lần cưa chân thứ nhất, chân phải được chọn đầu tiên. Viên bác sĩ Mỹ hướng dẫn thực tập sinh người Mỹ phải cắt ra sao, xử lý phần thịt, phần xương, kẹp các tĩnh mạch, động mạch như thế nào để không làm tù binh chết, chỉ có thể… gần chết mà thôi. Sau đó, vẫn với câu hỏi “Mày là Nguyễn Văn Thương phải không? Vẫn là cái lắc đầu của ông, họ tiếp tục đưa ông lên bàn mổ và…cưa chân. Hết chân phải, họ cưa sang chân trái, tổng cộng, họ đã cưa chân Nguyễn Văn Thương 6 lần, cắt cụt cả 2 chân. Người Mỹ giao ông cho bệnh viện quân đội Việt Nam Cộng hòa, kể từ đó, ông là tù binh Nguyễn Trường Hận, số tù 7218, mù chữ, và là một thanh niên trốn lính.

Nguyễn Văn Thương sau đó bị giam ở trại giam Hố Nai trong suốt 20 tháng (trong đó có 18 tháng biệt giam), sau đó chính quyền Sài Gòn đưa ông đến trại giam tù bình Phú Quốc vào năm 1972. Tuy mất đi một phần thân thể song vẫn không làm nhụt đi ý chí đấu tranh của Nguyễn Văn Thương. Ông tiếp tục cùng các đồng chí khác tham gia đấu tranh chống chào cờ quốc gia, học văn hóa, chính trị. Nguyễn Văn Thương dùng đôi tay bò đi khắp nơi, đến giờ tập trung sinh hoạt, ông cũng “đi” nhanh như ai và quyết không để ai cõng. Ngày 14/02/1973, trong đợt trao trả tù binh đầu tiên sau khi Hiệp định Paris về Việt Nam được ký kết tại Lộc Ninh, Nguyễn Văn Thương được cõng trên lưng một đồng chí, tay vẫn cầm đôi ghế con, phương tiện để ông sẵn sàng “chạy” ra đón gặp các đồng chí của mình, hướng về phía cờ giải phóng tìm kiếm. Từ phía xa, Đồng chí Tư Cang (AHLLVT Nguyễn Văn Tàu), cụm trưởng cụm 18 trong mạng lưới tình báo của Phạm Xuân Ẩn nhìn thấy ông, bế xốc Thương lên và đặt ông lên xe máy, đưa về trại an dưỡng.

Anh hùng Nguyễn Văn Thương bên người vợ Hai Em và con trai Thanh Liêm. (Ảnh: Báo Nhân dân)

 Hòa bình lập lại, Nguyễn Văn Thương vẫn đi khắp nơi để làm việc, nói chuyện với thế hệ sau về nghị lực cuộc sống, về tinh thần làm việc, cống hiến cho tổ quốc. Ngày 06/11/1978 Nguyễn Văn Thương được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân. Ông qua đời vào ngày 13/3/2018 tại Tp Hồ Chí Minh, hưởng thọ 81 tuổi.

                            

 Sự ra đi của Anh hùng lực lượng vũ trang Nguyễn Văn Thương là niềm tiếc thương vô hạn của gia đình, bạn bè, đồng đội...

 Cuốn sách “Người bị CIA cưa chân 6 lần” là cuốn hồi ký chân thực về một nhân chứng lịch sử sáng ngời dưới lá cờ đấu tranh của Đảng. Cuốn sách cũng góp phần vào kho tài sản giáo dục đạo đức cách mạng, tự hào dân tộc cho các thế hệ trẻ mãi về sau. Nhân vật của cuốn sách là một tấm gương sáng ngời về đấu tranh cách mạng để bồi dưỡng tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc cho mỗi người về mảnh đất Việt Nam dạn dày, đắng cay mà kiên trung anh dũng. Mảnh đất của những con người chấp nhận hi sinh tất cả để bảo vệ Đảng, bảo vệ cách mạng, bảo vệ nhân dân như anh hùng Nguyễn Văn Thương!  

8- Nguyễn Văn Minh: 

Nguyễn Văn Minh SN 1933, quê Hưg Yên, trong một gia đình thợ thủ công. Lớn lên, ông vào Sài Gòn tìm việc làm, lòng yêu nước đã thôi thúc ông tìm đến với cách mạng.
       20 tuổi, ông đã là một công nhân hoạt động bí mật cho Mặt trận Liên Việt giữa lòng Sài Gòn. Đến năm 1959, ông được Quận ủy Thủ Đức phái khiển tìm cách lọt vào quân đội ngụy quyền Sài Gòn.
        Năm 1963, lợi dụng sự kiện chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm bị lật đổ, các phe phái ngụy quân, ngụy quyền chèn ép nhau để tranh quyền, đoạt lợi, ông đã tìm cách chui sâu vào hàng ngũ kẻ thù với chức danh nhân viên văn thư của Văn phòng Tổng tham mưu trưởng Nguyễn Hữu Có.
       Không lâu sau đó, Nguyễn Cao Kỳ lật đổ Nguyễn Hữu Có nhưng với vỏ bọc là một nhân viên quân sự mẫn cán, tận tụy với công việc, được nhiều người trong văn phòng quý mến nên ông được tân Tổng tham mưu trưởng Cao Văn Viên tiếp tục tin dùng.

                          Điệp viên H3 và Văn phòng Bộ Tổng tham mưu ngụy, nơi ông hoạt động trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

                  Nguyễn Văn Minh - người khiến CIA kinh ngạc và Văn phòng Bộ Tổng Tham mưu (ngụy), nơi ông hoạt động trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước

 
         Từ đó, H3 trở thành một trong 4 nhân viên văn thư của Văn phòng Tổng tham mưu trưởng.
Công việc hằng ngày của H3 là tiếp nhận và lưu trữ công văn đi-công văn đến giữa Văn phòng Tổng tham mưu trưởng với các cơ quan, đơn vị trong quân đội ngụy; đặc biệt là trao đổi công văn với Phủ Tổng thống, với các cơ quan Bộ Quốc phòng, các quân đoàn, quân khu.
        Công việc này tạo cơ hội để H3 tiếp xúc với các tài liệu tối mật của địch. Chính vì vậy, những tài liệu, tin tức mà H3 cung cấp cho ta rất có giá trị, bảo đảm độ chính xác cao.
       Làm việc trong môi trường tối mật như vậy, H3 luôn bị các cơ quan mật vụ, an ninh của địch để ý, theo dõi nhưng anh đã tìm ra cách hoạt động để che mắt kẻ thù.
        Hồ sơ đề nghị phong tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân của ông viết ngắn gọn nhưng đã phần nào ghi lại những thành tích 'huyền thoại' của ông:
         'Được sự chỉ đạo chặt chẽ của cơ quan tình báo, đồng chí đã cung cấp nhiều tài liệu có giá trị chiến dịch, chiến lược quan trọng mà tình báo cần, với nhiều tài liệu nguyên bản đạt độ tin cậy và chính xác cao, giúp cho cơ quan chỉ đạo chiến lược của ta hiểu rõ âm mưu ý đồ của địch như:
          Ý đồ bình định nông thôn, kế hoạch lấn chiếm xóa các vùng giải phóng theo kiểu 'lấp lỗ da báo'.
         Các tin tình báo do đồng chí Minh cung cấp là cơ sở tin cậy cho cơ quan chỉ đạo đánh giá đúng âm mưu ý đồ của Mỹ sau khi ký Hiệp định Paris năm 1973.
        Tin của đồng chí luôn giúp trên khẳng định: 'Đối với Mỹ không có nửa hòa, nửa chiến, Mỹ chỉ tìm cách xóa ta, nếu ta mạnh, Mỹ chịu thua, nếu ta yếu, Mỹ lấn tới'.
        Tháng 3/1974, đồng chí Nguyễn Văn Minh đã cung cấp kế hoạch quân sự vùng 4 (kế hoạch Lý Thường Kiệt), đây là kế hoạch quân sự hàng năm sau khi Hiệp định Paris về Việt Nam được ký kết.
         Tháng 4/1974, đồng chí tiếp tục báo cáo bổ sung về hoạt động của các đơn vị dự bị chiến lược dù, thủy quân lục chiến, biệt động quân, không quân... đồng thời báo cáo tóm tắt kế hoạch quân sự toàn miền Nam của Mỹ-ngụy
          Những tin tức của đồng chí cung cấp đã phục vụ cho Quân ủy Trung ương giải đáp một loạt các vấn đề chiến lược quan trọng trong một thời điểm then chốt.

                                           Đám cưới giữa rừng của chiến sĩ Cụm Tình báo H63  

Vợ chồng bà Hà Thị Kiên và ông Nguyễn Văn Minh khi còn trẻ. (Ảnh do gia đình cung cấp)

 

 Khi ta chuẩn bị Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, tin tức của đồng chí đã giúp trên khẳng định:
          'Khi ta đánh vào Sài Gòn thì Mỹ không trực tiếp tham chiến trở lại', 'Mỹ coi như chiến tranh ở Việt Nam đối với Mỹ đã kết thúc, Mỹ sẽ không chi viện cho quân ngụy bằng lực lượng chiến đấu của Mỹ'.
          Đây là vấn đề có ý nghĩa chiến lược để Bộ Chính trị, Quân ủy Trung ương chọn giải pháp cho cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 trong thời gian ngắn nhất'.
          Những năm cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1973 - 1975), đồng chí là cơ sở chủ yếu cung cấp được khối lượng lớn tin tức, tài liệu về chiến dịch, chiến lược của địch, góp phần tích cực vào đại thắng Mùa xuân 1975, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trên giao.
        Trong sự kiện ngày 30/4/1975, khi Quân giải phóng đánh chiếm Bộ Tổng Tham mưu ngụy, chính Nguyễn Văn Minh đã động viên các viên chức trong văn phòng của tướng Cao Văn Viên gìn giữ, niêm phong kho tàng, hồ sơ, bảo toàn tài liệu, máy móc trong văn phòng để bàn giao cho Quân giải phóng.
        Chuyện kể rằng, khi đồng chí Bảy Vĩnh (cũng là một cán bộ tình báo), chỉ huy một bộ phận Quân giải phóng xông vào Bộ Tổng Tham mưu ngụy đã 'đụng' một viên thượng sĩ nhất của ngụy như đang chờ đợi.
        Viên thượng sĩ 'quèn' đó đã ở lại cho tới 3 giờ chiều, khi mọi việc giao nộp sổ sách cho Quân giải phóng xong xuôi.
          Hệ thống máy tính lưu trữ hồ sơ của hơn 1 triệu quân ngụy cùng toàn bộ giấy tờ tại Văn phòng Tổng tham mưu trưởng Cao Văn Viên được niêm phong không mất một tờ nào.
          Viên thượng sĩ ấy trực tiếp trao chìa khoá, dẫn Quân giải phóng tiếp quản tất cả những gì còn lại ở cơ quan đầu não của Quân đội Việt Nam Cộng hòa.
          32 năm sau (năm 2007), trong một gian nhà nhỏ ở TP HCM, Đại tá tình báo Bảy Vĩnh (cũng là Anh hùng LLVT nhân dân) nhớ lại khoảnh khắc đó:
          'Khi tôi và anh em xông vào thì thấy 2 nhân viên văn phòng ngồi chờ. Các ngăn tủ đã được khoá kín. Tôi hỏi đường lên nóc Bộ Tổng Tham mưu thì một người đàn ông cao, gầy chỉ đường...
          Mãi về sau này, tôi mới có dịp gặp lại 'kẻ chỉ đường' trong một tình huống hoàn toàn bất ngờ: Cuộc gặp mặt những anh em đồng đội của Phòng tình báo J22-Bộ Tham mưu Quân giải phóng miền Nam'.

                                                  Đại tá, Anh hùng LLVTND Nguyễn Văn Minh, tức H3
                                            Đại tá, Anh hùng LLVTND Nguyễn Văn Minh, tức H3,
        
Thiếu tướng tình báo Sáu Trí (Nguyễn Văn Khiêm), nguyên Trưởng phòng tình báo Miền J22, đã ghi lại những dòng tưởng thưởng về người đồng đội ẩn danh H3:
         'Anh đã lấy tin, tài liệu về các phòng hành quân (BTTM); tin tức, tài liệu giá trị lâu dài như kế hoạch Lý Thường Kiệt; về lực lượng đặc biệt. Âm mưu và thủ đoạn bình định của địch.
        Tình hình quân số, bố trí quân (chủ lực và địa phương). Có những tin định kỳ quan trọng như biệt kích đổ bộ; tàu lặn, tinh thần quân đội Sài Gòn ở Quân khu 1 sau chiến dịch Quảng Trị của ta...
          Chất lượng công tác của H3 đáp ứng đúng yêu cầu của lãnh đạo trong giai đoạn then chốt của cuộc chiến tranh: Ta cần hiểu sâu về địch để giành toàn thắng'.
          H3-Nguyễn Văn Minh trở thành một trong những điệp viên huyền thoại, khiến kẻ thù kinh ngạc về bản lĩnh, trí tuệ và tinh thần 'thép' của ông.
         Năm 1999, ông vinh dự được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý: Anh hùng LLVT nhân dân.
                      tinh-bao-1641618595.jpg

Lưới điệp báo A3 trong một lần gặp mặt. Từ trái sang: Ba Minh (H.3), Nguyễn Văn Chí, Nguyễn Thị Nguyệt (H.4), Hai Kim (T2). Ảnh: Tư liệu gia đình.

 

Năm 2006, tại Mỹ diễn ra Hội thảo quốc tế về “Tình báo trong Chiến tranh Việt Nam”, do Trung tâm Việt Nam, thuộc Đại học Công nghệ Tếch-dớt cùng Trung tâm Nghiên cứu tình báo thuộc CIA phối hợp tổ chức. Một cựu nhân viên CIA đã nhận định rằng: “Đúng là phải có một điệp viên cộng sản từng nằm ngay trong lòng Bộ Tổng Tham mưu (ngụy). Dường như không phải là sĩ quan cao cấp, không phải là tùy tùng thân cận của Tổng thống Thiệu, song chắc chắn nhân vật này đã gửi ra Bộ Chính trị Bắc Việt nhiều tin tình báo chiến lược”.

Thông tin đó, về sau đã được giải mật. Đó là điệp viên mang bí số H3 của Phòng Tình báo B2, với hơn 20 năm sống trong lòng địch, 16 năm sống trong sào huyệt của Quân đội Việt Nam Cộng hòa, đã thể hiện bản lĩnh kiên cường và mưu trí “siêu việt”. Giữa “biển giáo, rừng gươm”, một mình hoạt động đơn tuyến, tính mạng lúc nào cũng treo “trên miệng cọp” nhưng ông đã bình tĩnh hoạt động, hoàn thành tốt các chức trách mà quân đội ngụy giao cho, tạo nên “tấm bình phong” an toàn để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ mà cách mạng giao phó. Ông là Đại tá tình báo Nguyễn Văn Minh, Anh hùng LLVT nhân dân. 

9- Câu chuyện cuối cùng, chúng ta sẽ kể về quá trình hoạt động của nhà tình báo Phạm Xuân Ẩn:

Những báo cáo tình báo của Phạm Xuân Ẩn chính xác đến mức Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã từng nhận xét rằng “dường như chúng ta có mặt ngay trong phòng tác chiến của Mỹ”. Chiến công của Phạm Xuân Ẩn là rất nhiều, trong đó có những chiến công thực sự lớn lao và hết sức quan trọng. Larry Berman, nhà sử học người Mỹ, tác giả cuốn “Điệp viên hoàn hảo”; cho rằng Phạm Xuân Ẩn là một trong 20 nhà tình báo xuất sắc nhất thế kỷ XX.

Thông tin trên mạng kể rằng:
Phạm Xuân Ẩn sinh năm 1927 tại xã Bình Trước, Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai, trong gia đình một viên chức cao cấp của chính quyền thuộc địa. Quê gốc của ông tại Hải Dương. Gia đình ông chuyển đến sống tại Huế khi cụ nội của ông là nghệ nhân kim hoàn được gọi vào Kinh đô để chế tác đồ vàng bạc cho triều đình. Ông nội của Phạm Xuân Ẩn là hiệu trưởng một trường nữ sinh ở Huế, đã được Vua ban Kim khánh. Cha của ông là một kỹ sư công chánh cao cấp tại Sở Công chánh, làm công tác trắc địa trên khắp miềnNam. Ông được sinh tại Nhà thương Biên Hòa, do chính các bác sĩ Pháp đỡ đẻ. Tuy là một viên chức cao cấp, nhưng cha của ông không nhập quốc tịch Pháp.

Thời niên thiếu, ông sống tại Sài Gòn, sau chuyển về Cần Thơ học trường Collège de Can Tho.

Năm 1945, Cách mạng tháng Tám nổ ra, ông bỏ học và tham gia tổ chức Thanh niên Tiền phong, sau đó học một khóa huấn luyện của Việt Minh về công tác tuyên truyền.

                         Phạm Xuân Ẩn - Hai cuộc đời, một lý tưởng

             Nhà tình báo Phạm Xuân Ẩn (1927 - 2006) ở Sài Gòn năm 1974.

Năm 1947, ông trở về Sài Gòn để chăm sóc cha đang bệnh nặng. Tại đây, ông tổ chức các cuộc biểu tình của sinh viên Sài Gòn, đầu tiên là chống Pháp rồi sau chống Mỹ. Ông làm Thư ký cho Công ty Dầu lửa Caltex cho đến năm 1950.

Năm 1950, ông vào làm ở Sở thuế quan Sài Gòn. Thực chất lúc này ông được Việt Minh giao nhiệm vụ tìm hiểu tình hình vận chuyển hàng hóa, khí tài quân sự và quân đội từ Pháp sang ViệtNamvà từ ViệtNamvề Pháp. Đây là những bước đầu hoạt động tình báo đầu tiên của ông, một trong khoảng 14 ngàn điệp báo viên Cộng sản được cài cắm và hoạt động tại miền Nam Việt Nam. Năm 1952, ông ra Chiến khu D và được Bác sĩ Phạm Ngọc Thạch - Ủy viên Ủy ban Hành chánh Kháng chiến Nam Bộ - giao nhiệm vụ tình báo chiến lược.

Năm 1953 tại rạch Cái Bát, Cà Mau trong rừng U Minh, dưới sự chủ tọa của Lê Đức Thọ (khi này là Phó Bí thư kiêm Trưởng ban Tổ chức Trung ương Cục miền Nam), Phạm Xuân Ẩn được chính thức kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam.

Năm 1954 Phạm Xuân Ẩn bị gọi nhập ngũ và được trưng dụng ngay làm bí thư phòng Chiến tranh tâm lý trong Bộ Tổng hành dinh quân đội Liên hiệp Pháp tại Camp Aux Mares (thành Ô Ma). Chính tại đây, ông đã quen biết với Đại tá Edward Lansdale, Trưởng phái bộ quân sự đặc biệt của Mỹ (SMM), trên thực tế là người chỉ huy CIA tại Đông Dương cũng là trưởng phái đoàn viện trợ quân sự Mỹ (US.MAAG) ở Sài Gòn. Theo hồi ức của một số tướng lĩnh miền Nam Việt Nam, chẳng hạn như trong tư liệu Hồi kí Đỗ Mậu của Đỗ Mậu, nguyên trưởng cơ quan tình báo của miền Nam Việt Nam, thì Edward Lansdale là người trực tiếp vạch kế hoạch cũng như chủ trì việc thực hiện các công tác chủ yếu nhằm tạo uy tín, chỗ đứng cho Ngô Đình Diệm trong thời kì giữa thập niên 50. Khi nhận thấy mức độ khó khăn cũng như khối lượng công việc phải làm quá lớn, Ngô Đình Diệm có ý định từ bỏ chức Thủ tướng, chính Landsdale là người cố vấn cho Diệm không quyết định như vậy.

                            

                                      Ông Ẩn và một sĩ quan của chính quyền Sài Gòn.

Năm 1955 theo đề nghị của phái bộ cố vấn quân sự Mỹ (lúc này đã chính thức thay Pháp đứng ra huấn luyện và xây dựng Quân lực Việt Nam Cộng hòa), Phạm Xuân Ẩn tham gia soạn thảo các tài liệu về tham mưu, tổ chức, tác chiến, huấn luyện, hậu cần cho quân đội. Đặc biệt ông cũng tham gia thành lập bộ khung của 6 sư đoàn bộ binh đầu tiên của Quân lực Việt Nam Cộng hòa mà nòng cốt là sĩ quan, hạ sĩ quan và binh lính người Việt trong quân đội liên hiệp Pháp trước đây.

Phạm Xuân Ẩn còn được giao nhiệm vụ hợp tác với Mỹ để chọn lựa những sĩ quan trẻ có triển vọng đưa sang Mỹ đào tạo (trong số này có Nguyễn Văn Thiệu, sau này trở thành Tổng thống Việt Nam Cộng hòa).

Trong công tác tình báo, để có thể đi khắp nơi và tiếp cận với những nhân vật có quyền lực nhất, tháng 10 năm 1957, theo sự chỉ đạo của Mai Chí Thọ và Trần Quốc Hương (Mười Hương, nguyên Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng ban Nội chính Trung ương) Phạm Xuân Ẩn qua Mỹ học ngành báo chí tại Quận Cam, California, trong hai năm (1957-1959) và là người Việt Nam đầu tiên sang học báo chí tại quận Cam 

Tháng 10 năm 1959, Phạm Xuân Ẩn về nước, nhờ những mối quan hệ, ông được Trần Kim Tuyến, giám đốc Sở Nghiên cứu Chính trị Văn hóa Xã hội (thực chất là cơ quan mật vụ trực thuộc Phủ Tổng thống), biệt phái sang làm việc tại Việt tấn xã phụ trách những phóng viên ngoại quốc làm việc tại đây.

Từ năm 1960 đến giữa năm 1964, ông làm cho Hãng thông tấn Reuters.

Từ năm 1965 đến năm 1976 ông là phóng viên người Việt chính thức duy nhất của tuần báo Time, ngoài ra ông còn là cộng tác viên của các tờ báo khác như The Christian Science Monitor...

Từ khi ở Mỹ về nước cho đến năm 1975, với vỏ bọc là phóng viên, nhờ quan hệ rộng với các sĩ quan cao cấp, các nhân viên tình báo, an ninh quân đội và người của CIA, Phạm Xuân Ẩn đã có được mọi nguồn tin tức quan trọng từ quân đội, cảnh sát và cơ quan tình báo.

Những tin tức và phân tích tình báo chiến lược của Phạm Xuân Ẩn được bí mật gửi cho bộ chỉ huy quân sự ở miền Bắc thông qua Trung ương cục Miền Nam. Tổng cộng, Phạm Xuân Ẩn đã gửi về căn cứ 498 báo cáo bao gồm tài liệu nguyên gốc đã được sao chụp, các thông tin mà ông thu lượm cùng phân tích và nhận định của bản thân. Cụ thể là:

Giai đoạn 1961-1965: những bản tài liệu nguyên bản về chiến lược chiến tranh đặc biệt như Tài liệu McGarr; tài liệu Staley, tài liệu Taylor, tài liệu Harkins; tài liệu Ấp chiến lược... Ông gửi về nguyên bản kế hoạch kế hoạch Staley-Taylor. Giai đoạn 1965 - 1968: các kế hoạch liên quan đến chiến lược chiến tranh cục bộ, phục vụ chiến thuật cho Mậu Thân 1968. Giai đoạn 1969 - 1973: những tài liệu liên quan đến chiến lược Việt Nam hoá chiến tranh. Giai đoạn 1973 - 1975: hàng trăm bản tin nguyên bản "phục vụ trên hạ quyết tâm giải phóng miềnNam"...

Ông là nhân vật được chèo kéo của nhiều cơ quan tình báo, kể cả CIA.

                           Kết quả hình ảnh cho Phạm Xuân Ẩn 

                                         Phạm Xuân Ẩn và đại tướng Võ Nguyên Giáp

Ngày 30 tháng 4 năm 1975, Phạm Xuân Ẩn là một trong những nhà báo chứng kiến sự kiện xe tăng của Quân đội Nhân dân Việt Nam húc đổ cổng dinh Độc Lập. Đến thời điểm đó cũng như một vài tháng sau, các đồng nghiệp phóng viên và những người thuộc chính quyền cũ cũng như chính quyền mới vẫn chưa biết ông là một điệp viên cộng sản. Khi đó vợ con của ông đã rời khỏi Việt Nam theo chính sách sơ tán của Mỹ, theo kế hoạch của miền Bắc, ông sẽ được gửi sang Mỹ để tiếp tục hoạt động tình báo. Tuy nhiên, ông đã đề nghị cấp trên cho ngừng công tác do đã hoàn thành nhiệm vụ. Kế hoạch thay đổi, vợ con ông đã phải mất một năm để quay lại Việt Nam theo đường vòng: Paris - Moskva - Hà Nội - Sài Gòn.

Ngày 15 tháng 1 năm 1976, Trung tá Trần Văn Trung (tức Phạm Xuân Ẩn) cán bộ tình báo thuộc Bộ Tham mưu Miền được nhà nước Việt Nam phong tặng danh hiệu "Anh hùng lực lượng vũ trang". Lúc này nhiều người mới chính thức biết ông là một tình báo viên thời chiến.

Tháng 8, 1978 ông ra Hà Nội dự một khóa học tập chính trị dành cho cán bộ cao cấp trong 10 tháng. Ông nói rằng đó là do ông đã "sống quá lâu trong lòng địch". Theo Larry Berman, ông bị nghi kị và bị quản chế tại gia, không được xuất ngoại, bị cấm tiếp xúc với bên ngoài, đặc biệt với giới báo chí ngoại quốc do cách suy nghĩ, cư xử "rất Mĩ" của ông cũng như việc ông giúp bác sĩ Trần Kim Tuyến ra khỏi Việt Nam vào ngày 30 tháng 4 năm 1975. Cho đến năm 1986, sự quản chế mới được nới lỏng dần. Trong vòng gần 10 năm, luôn có một nhân viên công an được giao nhiệm vụ canh gác trước cửa nhà ông.

Phạm Xuân Ẩn kể rằng trước đây ông đã từng hai lần cố gắng đưa gia đình ra nước ngoài, nhưng không thành công. Lần thứ nhất thuyền bị hỏng máy. Lần thứ hai thuyền có vẻ đủ sức vượt biển, nhưng thuyền trưởng lại không ra

Năm 1990, Đại tá Phạm Xuân Ẩn được thăng cấp Thiếu tướng.

Năm 1997, chính phủ Việt Nam từ chối không cho phép Phạm Xuân Ẩn viếng thăm Hoa Kỳ để dự một hội nghị ở thành phố New York mà ông được mời với tư cách khách đặc biệt

Năm 2002, ông về hưu. Nhưng cho tới sáu tháng trước khi qua đời, Phạm Xuân Ẩn vẫn đóng vai trò như một cộng tác viên của tình báo Việt Nam. Ông tham gia vào việc bình luận và đánh giá các tài liệu của Tổng cục Tình báo (Tổng cục 2, trực thuộc Bộ Quốc phòng).

                      Tập tin:The nha bao cua Pham Xuan An.jpg
                                         Ảnh thẻ Nhà báo Phạm Xuân Ẩn, cấp năm 1965
PhamXuanAn.jpg
Thiếu tướng Phạm Xuân Ẩn
Tiểu sử
Biệt danh Trần Văn Trung,
Hai Trung
Quốc tịch Flag of Vietnam.svgViệt Nam
Sinh 12 tháng 9 năm 1927
Biên Hòa, Đồng Nai
Mất 20 tháng 9, 2006 (79 tuổi)
Thành phố Hồ Chí Minh
Binh nghiệp
Thuộc Flag of the People's Army of Vietnam.svg Quân đội Nhân dân Việt Nam
Năm tại ngũ 1945 - 2002
Cấp bậc Vietnam People's Army Major General.jpg Thiếu tướng
Chỉ huy Flag of North Vietnam (1945-1955).svg Quân đội Quốc gia Việt Nam
Flag of Vietnam.svg Quân đội Nhân dân Việt Nam
Tham chiến Chiến tranh Đông Dương
Chiến tranh Việt Nam
Chiến dịch Mậu Thân 1968
Chiến dịch Hồ Chí Minh
Khen thưởng Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân
Huân chương Độc lập hạng Nhì
Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất
Huân chương Chiến công (1 hạng Nhất; 2 hạng Nhì; 1 hạng Ba)
Huân chương Quân công hạng Ba
Huân chương Chiến thắng hạng Ba
Huân chương Chiến sĩ Vẻ vang hạng Nhất, Nhì, Ba
Huy chương Quân kỳ Quyết thắng
Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng
Công việc khác Nhà báo
Chúng ta không muốn nói nhiều và tỉ mỉ đến những chiến công của thiếu tướng tình báo Phạm Xuân Ẩn mà chỉ trích thêm một vài đoạn rất ngắn trong cuốn “Điệp viên hoàn hảo”:
“Phạm Xuân Ẩn được thưởng huân chương chiến công vì đã có bản báo cáo về Phước Long đề ngày 30-11-1974. Các sách lịch sử Việt Nam so sánh những đóng góp của Phạm Xuân Ẩn trong giai đoạn này ngang với báo cáo nổi tiếng của trùm tình báo Liên Xô, Rishớc Soócgiơ (Richard Sorge), trong đó Soócgiơ khẳng định rằng “Nhật Bản sẽ không mở mặt trận phía Đông”. Nhờ báo cáo này của Rishớc Soócgiơ mà Liên Xô đã yên tâm chuyển các lực lượng quân sự của mình sang phía tây để chặn đứng cuộc tiến quân của quân đội Đức trong chiến tranh thế giới thứ hai.
Phạm Xuân Ẩn cũng lấy được bản báo cáo bí mật “Nghiên cứu chiến lược”, trong đó nói rằng Quân đội Việt Nam Cộng hòa đang trong tình trạng cả tinh thần lẫn vật chất đều thấp và rằng máy bay B52 của Mỹ sẽ không trở lại. Tác giả của bản báo cáo mật này chính là tướng Nguyễn Xuân Triển, Giám đốc Viện nghiên cứu chiến lược quân đội (Việt Nam Cộng hòa), đã xác định Buôn Mê Thuột là điểm mong manh, dễ chọc thủng nhất trong hệ thống phòng thủ của Việt Nam Cộng hòa”.
Chúng ta muốn nhấn mạnh đến mặt đức độ của Phạm Xuân Ẩn. Ông Ẩn là người đã nhìn thấy rõ được bản chất của cuộc chiến tranh Việt Nam, phân biệt đúng đắn bạn thù, cư xử mã thượng, khoan dung hoàn toàn phù hợp với Đức Huyền Diệu và truyền thống nhân hậu của dân tộc Việt. Chúng ta sẽ kể vài tình tiết về khía cạnh này, rút ra cũng từ cuốn “Điệp viên hoàn hảo”:
Khi Berman đề cập đến vấn đề tiếp tục hoạt động tình báo ở trên đất Mỹ (vì Phạm Xuân Ẩn sau chiến tranh vẫn chưa bị lộ), ông Ẩn coi đó là một ý nghĩ ngông cuồng: “Tôi thực sự không hiểu mọi người muốn tôi làm gì ở đó. Có lẽ họ chờ đợi rằng các nguồn tin của tôi sẽ cập nhật cho tôi về việc Lầu Năm Góc đang nghĩ thế nào, nhưng điều đó là không thể… Hay là tôi có thể báo cáo về tổ chức của phòng tin thời sự ở Los Angeles hoặc ở San Frangcisco”. Nói xong, ông Ẩn nở nụ cười đầy ẩn ý.
Vài thập kỷ sau chiến tranh, Dan Southerland nhớ lại: “Phạm Xuân Ẩn vội vàng chở Trần Kim Tuyến (trùm mật vụ thời Diệm - Nhu) đến địa chỉ đã dặn trước - đến sự tự do. Tôi có thể nói chắc chắn rằng, vào cái ngày cuối cùng ấy của cuộc chiến tranh, Phạm Xuân Ẩn đã giúp cứu mạng sống của một người từng ra sức chống lại những mục tiêu mà ông Ẩn đang bí mật theo đuổi và phụng sự trong suốt cuộc đời mình. Tôi sẽ luôn nhớ tới ông Phạm Xuân Ẩn về điều đó”. Sau này Trần Kim Tuyến có viết thư cho ông Ẩn bày tỏ sự biết ơn. Ông Ẩn đã nói với Henry Kamm: “Ông ấy cảm ơn tôi và nói với tôi là ông ấy đã hiểu. Tôi đã viết thư trả lời Trần Kim Tuyến rằng tôi không muốn nhìn thấy cảnh các con của ông ấy mồ côi, và tôi cũng đã biết vợ ông Trần Kim Tuyến trong một thời gian dài. Tôi cũng biết Trần Kim Tuyến yêu vợ ông ấy nhiều đến mức nào và cả hai người đều yêu nhau. Ông ấy là một người bạn và chúng tôi đều là người Việt Nam, ông Trần Kim Tuyến đã giúp nhiều cho cả hai bên”.
Nhà báo Bob Shaplan có ghi chép về ngày gặp mặt cuối cùng của ông với Phạm Xuân Ẩn: “Ẩn (nói): quần chúng nhân dân đang cần hòa bình hơn bao giờ hết, chứ họ không muốn tăng cường chính quyền Sài Gòn. Quần chúng không muốn chiến tranh, chỉ muốn hòa hợp dân tộc”. Bản thân Phạm Xuân Ẩn cũng luôn mơ ước về một nước Việt Nam thống nhất, hòa hợp dân tộc.
Vào khoảng một, hai năm đầu của thập niên 1980, Phạm Xuân Ẩn đã nói với Sheehan: “Sau khi chế độ Sài Gòn sụp đổ, mọi thứ hồ sơ đều bị đốt hết, từ sách y học đến các tài liệu của chính quyền - giờ thì đã có sự hối tiếc rồi, nhưng quá muộn - nhiều thứ từ Nga giờ đây trở nên không còn phù hợp. Tôi rất tiếc về những điều xảy ra, nhưng tôi không thể ngăn cản được, có lẽ tôi đã ở với phía bên này quá lâu rồi nên tôi biết giá trị của những tài liệu đó. Có những hành động hăng hái một cách thái quá, giống như những con ngựa chiến bị che mắt vậy; nếu anh khuyên họ đừng làm, có lẽ họ lại nghĩ anh là phản cách mạng và đây là một tội lớn. Tôi được sinh ra ở Việt Nam, tôi là người Việt nam, nhưng tôi học được sự văn minh ở nước Mỹ. Đây là điều rắc rối của tôi”.
Có lần Phạm Xuân Ẩn nói: “Đảng dạy tôi những điều về hệ tư tưởng. Từ người Mỹ, tôi học được những điều quan trọng khác về nghề báo và phương pháp tư duy. Đó là điều tôi muốn con mình cũng học được như vậy. Tôi muốn con trai tôi có những người bạn là người Mỹ”. Lần khác, ông Ẩn nói: “Suốt cuộc đời mình, tôi chỉ có hai trách nhiệm. Một là nghĩa vụ của tôi đối với Tổ Quốc. Hai là trách nhiệm của tôi đối với những người bạn Mỹ - những người đã dạy tôi mọi điều từ A đến Z, đặc biệt là nhân dân Mỹ. Mong ước của tôi là: đấu tranh cho đến khi đất nước giành được độc lập và sau đó, lập quan hệ ngoại giao và bình thường hóa quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, được như vậy thì tôi có thể mỉm cười mà nhắm mắt xuôi tay bất cứ lúc nào cũng thỏa lòng rồi”. Phạm Xuân Ẩn cũng tin tưởng rằng những người bạn đồng nghiệp Mỹ của ông sẽ hiểu ông: “Họ biết rằng tôi là người luôn luôn giúp đỡ họ và rằng tôi không phải là kẻ thù của họ. Tôi đã đấu tranh cho đất nước tôi, chứ không phải chống lại người Mỹ”.
Vào năm 1989, Morley Safer sang Việt Nam. Ông này cùng trợ lý của mình cùng Phạm Xuân Ẩn ngồi trò chuyện trên tinh thần bạn bè và ba người đã uống hết một chai Uytxki Bạch Mã (White Horse). Trong cuộc trò chuyện đó, Safer có hỏi tại sao cuộc cách mạng (trong xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội) lại chưa thành công. Ông Ẩn nói: “Có rất nhiều lý do. Nhiều sai lầm đã mắc phải chẳng qua chỉ vì sự dốt nát. Giống như mọi cuộc cách mạng, chúng tôi gọi đó là cuộc cách mạng của nhân dân, nhưng tất nhiên nhân dân là người đầu tiên phải hứng chịu hậu quả… Chừng nào còn những người nằm ngủ trên đường phố, thì chừng đó còn thất bại. Không phải những nhà lãnh đạo là những người độc ác, nhưng tác động hiệu quả của chủ nghĩa gia trưởng và lý thuyết kinh tế đã bị mất niềm tin là như nhau”. Một trong những câu hỏi cuối cùng của Safer là ông Ẩn có cảm thấy hối tiếc điều gì không. Phạm Xuân Ẩn nói: “Tôi ghét câu hỏi đó. Tôi đã tự hỏi mình với câu hỏi đó cả ngàn lần. Nhưng câu trả lời còn làm cho tôi ghét hơn. Không! Tôi không có gì phải hối tiếc. Tôi phải làm điều ấy. Tôi yêu nước Mỹ nhưng Mỹ chẳng có quyền gì ở đây. Người Mỹ đã phải ra đi khỏi Việt Nam bằng cách này hay cách khác…”
Phạm Xuân Ẩn qua đời vì bệnh phổi vào ngày 20-9-2006.
Dưới đây là một số những đánh giá về Phạm Xuân Ẩn từ những người từng tiếp xúc, những bạn bè, đồng nghiệp từng cộng tác với ông.
Bruce Palling: “Phạm Xuân Ẩn xứng đáng được coi là một trong những điệp viên vĩ đại nhất của thế kỷ XX”
Stanley Cloud: “Trong thời gian chiến tranh, một đồng nghiệp của chúng tôi đã nói: “Tôi nghĩ, Phạm Xuân Ẩn là một ví dụ hoàn hảo về một xã hội Việt Nam tốt đẹp nhất”. khi đó, tôi cũng đã nghĩ như vậy, và bây giờ tôi vẫn còn nghĩ như vậy”.
Jolynne D`Ornano: “Đặt gia đình sang một bên, ông có hai lòng trung thành - một là đối với đất nước ông, và hai là đối với tình yêu nước Mỹ và những người Mỹ mà ông đã kết bạn. Tôi không nhận thấy bất kỳ sự xung đột nào trong những việc ông đã làm. Ông có thể yêu một đất nước khác vì những điều mà đất nước đó đại diện, nhưng ông vẫn chống lại những chính sách của nước đó, đặc biệt là khi những chính sách ấy đang tàn phá đất nước của ông và dân tộc ông. Theo bản chất của mình, ông không thể chỉ ngồi yên, chẳng làm gì cả và cứ để cho những sự kiện cứ thế diễn ra tự nhiên. Vai trò mà ông đóng trong việc làm nên lịch sử không chỉ cần niềm tin mãnh liệt, mà cần cả sự can đảm ghê gớm, và tôi khâm phục ông đã làm được điều đó”.
Douglas Pike: “Phạm Xuân Ẩn rất sùng bái Nho giáo - riêng về điều này là tôi dám chắc. Ông ấy là người sống rất đạo đức, do vậy ông luôn tự soi mình và hành động trên cơ sở các giá trị của của Nho giáo. Một trong những giá trị này liên quan đến tình bạn. Nho giáo nhấn mạnh sự thủy chung trong tình bạn và ngăn cấm việc khai thác, lợi dụng một người bạn”.
Larry Berman: “Bà Germaine Lộc Swanson nói với tôi rằng: “Phạm Xuân Ẩn là một người yêu nước. Ông ấy trở thành người Cộng sản chẳng qua chỉ là nghĩa vụ”. Thế nhưng, cho dù là những nhà bình luận đã viết gì, Phạm Xuân Ẩn vẫn không lên án sự tham nhũng đã trở nên tràn lan ở Việt nam hoặc lên án chế độ một cách chung chung. Mỗi khi được hỏi, ông chỉ nói lên sự thật, giống cách diễu cợt về “những nhà tư sản đỏ” hoặc “những người cộng sản xanh”. Phạm Xuân Ẩn nói với tôi và với những người khác rằng: “Tôi không đấu tranh để có được những thứ ấy”. Chưa bao giờ Phạm Xuân Ẩn chỉ trích chính phủ. Ông chỉ nói những suy nghĩ của mình về một tầm nhìn khác đối với tương lai”.
Wendy Larsen: “Tôi nghĩ rằng nếu ở trong tình huống đó, có lẽ tôi chỉ thể hiện được một phần trăm sự can đảm mà Phạm Xuân Ẩn đã làm cho đất nước của ông”.
Jul Owings: “Tôi không hề ngạc nhiên khi thấy Phạm Xuân Ẩn trung thành trước hết với Tổ quốc của ông ấy. Chẳng lẽ người Mỹ chúng ta không làm như vậy sao?”
Raymond F. Burghardt (Đại sứ Mỹ tại việt Nam): “Câu chuyện và cuộc đời của Phạm Xuân Ẩn thật không thể nào tin được, nhưng vượt trên tất cả những điều đó, Phạm Xuân Ẩn là một biểu tượng quan trọng của tình hữu nghị mới giữa hai nước chúng ta. Và con trai của Phạm Xuân Ẩn cũng là một người xuất sắc như thế.”
Một bài đăng trên báo “Thanh niên” viết rằng Phạm Xuân Ẩn “đã làm được những điều mà rất ít nhà tình báo khác có thể làm được. Thật dễ hiểu vì sao ông được tổ chức lựa chọn. Nhưng chúng ta sẽ còn phải mất nhiều thời gian để đánh giá một cách chính xác về con người và những điều ông để lại”.

Phạm Xuân Ẩn đã được Nhà nước Việt Nam tặng thưởng 11 huân chương các loại và được phong danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Chúng ta xin trích một vài doạn trong tác phẩm "Một người Việt trầm lặng" (tựa gốc tiếng Pháp: Un Vietnamien bien tranquille), NXB Tri Thức, tác giả là là nhà báo Jean-Claude Pomonti để hiểu thêm phần nào về Phạm Xuân Ẩn:
"...Trong khi chờ đợi gia đình trở về, ông cảm thấy trơ trọi. Ông kể lại: “Cùng với một phóng viên quay phim, tôi đi Hóc Môn, nơi các tướng lĩnh quân đội Sài Gòn đang bị giam giữ. Sau đó họ được đưa ra Bắc. Phần lớn các bạn của tôi đều đã di tản. Những người khác đang ở trại cải tạo”. Ngược lại, ông gặp lại những người đồng chí trong cơ quan tình báo cộng sản đã cùng làm việc với ông mười lăm năm qua mà phần lớn thời gian trước, ông không thể giao tiếp trực tiếp với họ. Tôi hỏi: “Trước đây anh có nghĩ rằng những ngày sau chiến thắng lại khó khăn nhường ấy không?”. Ông đáp: “Tôi cũng đã chuẩn bị. Vì tôi biết những gì những người cộng sản đã làm từ 1945 đến 1975. Tôi biết rằng sẽ vất vả lắm nhưng tôi nghĩ có thể sống được. Tuy nhiên, vì quá biết những điều gì đã xảy ra ở miền Bắc khi cải cách ruộng đất trong những năm 1955 - 1956, tôi không mong sẽ tái diễn những sai lầm đó về mặt kinh tế”.
"Năm 1978, ông được triệu tập ra Hà Nội để học tập chỉnh huấn tại Học viện Chính trị của quân đội. Ông nói dí dỏm: “Ở đó tôi đã học những thuật ngữ cộng sản bằng tiếng Việt”. Ẩn đã sang tuổi năm mươi và đó là lần đầu tiên ông theo học một lớp chính trị của Đảng. Ông kể chuyện vui vẻ: “Một trong số các bạn của tôi nói tôi phải giữ ý tứ. Vì xấu hổ, tôi không quen với việc giặt giũ quần áo cùng với các đồng chí của mình”. Cách ứng xử đó đã được cho là “tiểu tư sản”. Người “Mỹ con” hay “con trai Mỹ” đã được khuyên rũ bỏ những ảnh hưởng tiêu cực vì phải tiếp xúc với người nước ngoài trong bấy nhiêu năm. Hoàn cảnh xung quanh lúc ấy là như thế."
"Bước ngoặt thật sự sau năm 1975 chỉ diễn ra mười năm sau đó. Vì lý do chiến tranh đang diễn ra ở Campuchia và trên biên giới phía Bắc, nền kinh tế đất nước đang ở trên bờ phá sản. Sản xuất tụt, lạm phát 480%. Chỗ dựa duy nhất là Liên bang Xô Viết đang hết hơi. Năm 1985, Gorbachev lên cầm quyền ở Moscow và muốn cải tổ để cứu vãn tình hình. Mùa hè năm 1986, tức là trước Đại hội VI, Đảng Cộng sản cử một đoàn đại biểu cấp cao đến Moscow, do Trường Chinh dẫn đầu vì Tổng bí thư Lê Duẩn vừa qua đời. Điều phái đoàn mong đợi ở Kremlin chỉ là một cú “sốc” không kém việc Trung Quốc tấn công năm 1979."
"Phạm Xuân Ẩn tóm tắt tình hình lúc đó: “Chúng tôi đã mồ côi mẹ nay lại mồ côi luôn cả bố”. Gorbachev nói với phái đoàn: Moscow không còn tài chính để chi viện cho cuộc can thiệp quân sự của Việt Nam ở Campuchia. Liên Xô cũng đang giảm viện trợ kinh tế. Việt Nam phải nhanh chóng tự xoay xở một mình. Cách duy nhất để đạt tới là: Hòa giải với Trung Quốc, rút quân khỏi Campuchia, tiến hành cải cách kinh tế đồng thời mở cửa Việt Nam thu hút đầu tư của phương Tây. Đảng Cộng sản Việt Nam bị tréo giò. Sự thức tỉnh là tàn nhẫn."
"Nhưng Trường Chinh phản ứng một cách điềm tĩnh. Con người đã bị mất chức Tổng bí thư vì bị cho là chịu trách nhiệm về những biểu hiện sai lầm quá đáng trong cải cách ruộng đất những năm 1955 - 1956 và nay được phục hồi Tổng bí thư, dù chỉ ở chức vụ tạm quyền nhưng nó chứng tỏ ông vừa dũng cảm vừa sáng suốt. Trong một bài tự phê bình được phát trên đài vào giữa tháng Chín, Trường Chinh nói: “Đảng Cộng sản phải thay đổi và đổi mới phải là nhiệm vụ cấp thiết để đưa vào nghị quyết của Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng được dự kiến tổ chức vào tháng Mười hai”. Ông nói kinh tế thời chiến phải được thay bằng kinh tế thời bình."
"Ẩn hãy còn hoài nghi. Năm 1979, ông gặp lại gia đình từ Mỹ trở về tại TP.HCM. Ông sống đạm bạc, ngay cả khi đã được phong thiếu tướng. Ông khước từ mọi quyền lợi mà ông có quyền được hưởng. Không có xe ôtô, không có tài xế. Ông đi lại trong thành phố bằng chiếc Honda mini chắp vá. Thành phố với tên cũ là Sài Gòn nay đầy ứ xe hai bánh có hay không có động cơ chiếm lĩnh các vỉa hè. Nhìn ra xung quanh, ông Ẩn đã nhận thấy nhiều thay đổi đang xuất hiện. Ngay cả quân nhân và cảnh sát cũng lao vào kinh doanh.

Ông Ẩn thấy đất nước đang thay da đổi thịt, vừa ra khỏi trạng thái trì trệ bảo thủ nay lại rơi vào cảnh hỗn độn. Sài Gòn phát triển, bất kể tiến như thế nào. Nghiện ma túy ở thanh niên trở thành vấn nạn. Giáo dục công cộng tan rã dần. Nhà của ông còn bị giám sát một thời gian nữa và hiếm có người nước ngoài nào được phép đến gặp ông. Mọi thứ chỉ bớt căng thẳng sau bước ngoặt của những năm 1990."

"Tôi đã phải chờ đợi lâu mới được đến thăm ông, không phải tại nhà riêng mà nhà một người bạn chung của hai chúng tôi là ông Ngô Công Đức, cựu thủ lĩnh dũng cảm của phe đối lập trong Nghị viện chống lại Nguyễn Văn Thiệu. Quê gốc ở Trà Vinh, thuộc miền đồng bằng sông Cửu Long, Đức bị Tổng thống Thiệu căm ghét. Thấy sinh mạng bị đe dọa, ông buộc phải trốn ra nước ngoài sống lưu vong từ năm 1971."

"Năm 1989, trong một chuyến ghé qua Sài Gòn, người hướng dẫn chính thức của tôi tỏ ý ngạc nhiên thấy tôi không nhân cơ hội này đến thăm ông Ẩn và cho biết ông có nhiều nỗi trăn trở trong lòng. Tôi hiểu đó là cách của người hướng dẫn mách bảo cho tôi “đèn xanh đã bật”. Tôi liền gọi điện xin gặp ông nhưng không có hồi âm. Cuối cùng, tôi đã gặp được ông tại nhà Ngô Công Đức liền kề một lò gốm ở Thủ Đức.

Mới thoáng nhìn, tôi đang lúng túng không biết xưng hô với ông thế nào cho tiện, “ông - tôi” hay “mày - tao” như thuở nào còn cùng làm báo với nhau ở Sài Gòn. Nhưng vấn đề đã được giải quyết nhanh chóng. Ông chủ động xưng hô “ông - tôi” trước. Nhìn bề ngoài, ông Ẩn không có gì thay đổi tuy gầy hơn, lưng đã hơi còng. Nhưng cách nói dí dỏm của “tướng Givral” thì vẫn thế. Mặc dù như ông thổ lộ, “có nhiều nỗi trăn trở đang ngổn ngang trong lòng”."

"Mặc dù quan hệ với nhau thân tình như trong một gia đình, đối với ông, tôi vẫn giữ cảm tưởng mình là một người học trò nhỏ đứng trước một giáo sư tầm cỡ. Trí nhớ của ông còn rất tốt, chính xác đến mức có thể nghe ông kể chuyện hàng giờ về người này, người khác trong thế xoay vần của lịch sử.

Không khí chính trị lúc này đang trong tình thế hoang mang, lúng túng, mất phương hướng. Gorbachev trở thành là kẻ đào mồ chôn Liên bang Xô Viết. Các nhà văn có tài bắt đầu kể chuyện chiến tranh nhìn từ bên dưới và những ngày “vỡ mộng” sau chiến thắng. Những người khác thì gợi lại những vết thương nhức nhối của các sai lầm tai hại trong cuộc cải cách ruộng đất ở miền Bắc trong những năm 1955 -1956.

Trong những năm 1990, Hà Nội là trung tâm của công cuộc đổi mới trong văn học, nhưng phần lớn tác phẩm đều bị gạt ra rìa. Sự xuất hiện một lớp nhà văn mới thường là những cựu chiến binh đã tham gia hai cuộc chiến tranh, trong đó có cả đảng viên là một đòn chắc chắn mang tính quyết định đánh vào nền văn học chính thống được nuôi dưỡng trong chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa.

Đầu thế kỷ XXI, một thế hệ mới được khẳng định đã nói lên những mối lo lắng, dằn vặt của lớp người trẻ tuổi. Năm 2005, hai phần ba dân số Việt Nam chưa trải qua chiến tranh, trừ cuộc xung đột ở biên giới phía Bắc.

Ông Ẩn, ngậm ngùi nói: “Nỗi buồn quá khứ xuất phát từ những tâm trạng thất vọng, những cảm giác vỡ mộng”. Truyền thống được phát huy nhằm gây cho lớp trẻ một niềm tự hào dân tộc trẻ. Đồng thời Đảng Cộng sản tự biết mình đang thoát ly cơ sở, nay muốn lắng nghe quần chúng phát biểu. Từ đó mới có cuộc vận động cải tiến chất lượng cán bộ. Trong thực tế, đó là phục hồi quyền tư hữu - một giấc mơ trở thành hiện thực. Nhiều cuộc cải cách khởi động từ năm 1986 đã bắt đầu phát huy hiệu quả.

“Chính là những người lãnh đạo đã thắng cuộc chiến tranh chứ không phải nhân dân”. Đó là câu nói của nhà văn Nguyễn Quang Thiều. Nhà thơ Nguyễn Duy cũng nhiều lần trình bày cách nhìn tương tự trong thơ. Nguyễn Quang Thiều viết tiếp: “Những năm chiến tranh là một thời đại anh hùng, không có đất cho chủ nghĩa cá nhân nảy nở. Đảng viên bao giờ cũng là người tốt. Cha tôi bảo: Nếu con không muốn trở thành đảng viên, người tốt, thì con là người xấu. Ngày nay thời thế đã thay đổi. Người ta có thể nói về thân phận cá nhân. Văn học được lưu thông”. Nước Việt Nam đang quen dần với cuộc sống trong hòa bình.

- Ông nghĩ gì về những thay đổi này? - tôi hỏi ông Ẩn.

Với giọng hài hước, ông đáp: “Có đủ loại tư bản, tư bản đỏ, tư bản xanh... Sài Gòn đã trở thành động lực của một cuộc chiến mới, sự tăng trưởng kinh tế.

- Người ta định làm như người Trung Quốc, nghĩa là tiếp nhận cả những nhà tư bản vào hàng ngũ Đảng. Bằng cách cho phép doanh nhân kết hợp với nhà nông và nhà trí thức, người ta biện bạch cho chủ nghĩa tư bản đỏ - ông nói tiếp.

Khi nghĩ đến những kiến nghị nối đuôi nhau trên bàn làm việc trong khuôn khổ chuẩn bị cho Đại hội X của Đảng Cộng sản đã thông báo là sẽ họp vào tháng 5 hay tháng 6.2006. Một mặt, Đảng Cộng sản đang tìm một bước đi đột phá, vì phải tính đến quan hệ với Mỹ và châu Âu, hoặc gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (OCM, theo tiếng Pháp). Mặt khác, nền tảng của “chủ nghĩa tư bản đỏ” là ruộng đất - mà “người ta đã sẵn sàng cho nó, nhân danh nhân dân” và những người miền Nam có ruộng đất bị tịch thu năm 1975 để phân phối lại cho những đối tượng có công với Đảng. Tất cả những cái đó đối với ông Ẩn không có gì đúng đắn hay lành mạnh.

...

Ông Ẩn nói tiếp:

- Thời Sài Gòn trước giải phóng, chính trị phức tạp lắm: Có nhiều phe cánh, đảng phái, nhiều âm mưu, thủ đoạn, nhưng bây giờ tôi tin là tình hình còn phức tạp hơn nhiều.

Ông chỉ tin các số liệu thống kê có một nửa.

- Bao nhiêu vấn đề dồn dập xô đẩy nhau - ông nói tiếp, không giấu vẻ hoài nghi. - Nạn tham nhũng kìm hãm phát triển đến mức nào? Làm sao tạo ra được sức đối trọng để giảm bớt chủ nghĩa đơn nguyên chính trị đang gặm mòn chế độ. Tình hình Việt Nam đã đủ chín muồi để đổi mới chưa?

- Hai mươi năm đổi mới về kinh tế kèm theo những điều chỉnh về ngoại giao đang mở ra cuộc thảo luận về đổi mới chính trị, ông nghĩ thế nào về điều này?

Ông đáp:

- Làm sao được? Cuộc vận động mở rộng dân chủ trong nội bộ Đảng vấp phải những áp lực mạnh mẽ có lợi cho thỏa hiệp để giữ thể diện. Nếu anh đẩy cải cách chính trị lên quá nhanh, anh sẽ gây ra mất ổn định chính trị trong Đảng. Vấn đề chính là chống tham nhũng, nếu anh đẩy đi quá xa trong việc dập tắt tệ nạn tham nhũng thì sẽ có nguy cơ mất ổn định cho chế độ. Đối với những nhà cách mạng lão thành, điều quan trọng là phải giữ được ổn định cho chế độ đồng thời vẫn phải tiến lên về kinh tế. Đó là câu trả lời của ông Ẩn. Giới hạn cho phép thật khá mỏng manh.

    
Ông Phạm Xuân Ẩn tại nhà riêng ở TP.HCM năm 2005 - Ảnh: AFP

Phạm Xuân Ẩn đã được Nhà nước và quân đội tặng thưởng nhiều huân chương cao quý, nhưng đồng thời ông cũng phải chấp nhận những quy định ngặt nghèo của chế độ như: Phải giữ bí mật về công việc đã thực hiện, sự nghi ngờ của tổ chức, sự giám sát chặt chẽ, việc tham gia chỉnh huấn - dù ông nói là “nhẹ nhàng”, “phải sống cách ly, biệt lập, cô đơn”. Nhưng ông đã vượt qua hết thảy, tổn thương nhưng không chán nản tuyệt vọng.

Tôi có cảm tưởng ông quay về với lý do đầu tiên và duy nhất của sự dấn thân của ông. Đó là chủ nghĩa dân tộc, nói khác đi là chủ nghĩa yêu nước. Ông đã thách thức cả chính quyền Hoa Kỳ, đã chấp nhận những rủi ro kỳ lạ, chấp nhận những hy sinh lớn lao. Ông tỏ rõ là chiến lược gia hàng đầu, là một trong những nhà tình báo vĩ đại một thời. Ngày nay, ông thấy như sống lại những ngày đẹp đẽ của năm 1945, năm ông đã chọn con đường phục vụ sự nghiệp dân tộc. Đinh Quang Lê, một nghệ sĩ cộng đồng người Việt ở nước ngoài mới đây khi bàn về xã hội Việt Nam đã nêu lên nét nổi trội ở Đông Nam Á là một sự thôi thúc luôn luôn phải tự hoàn thiện chính mình để làm một điều gì đó cho cuộc sống. Phạm Xuân Ẩn cũng cần một tia hy vọng mang lại ý nghĩa cho tất cả những việc mình đã cống hiến cho đất nước.

Lần thứ tư và có lẽ cũng là lần cuối cùng, tháng 3.2002, ông đi Hà Nội theo giấy triệu tập để ký các giấy tờ về hưu. Hai mươi bảy năm sau chiến thắng, ở tuổi bảy nhăm ông mới chính thức nghỉ việc. Chỉ có một sự thay đổi trong thực tiễn: từ nay, ông miễn không phải dự những buổi họp hàng tuần để tự kiểm điểm. Trong suy nghĩ của ông, mọi việc đến đây đã kết thúc. Nhưng khi trả lời câu hỏi của một nhà báo: “Tại sao chỉ đóng vai trò ‘người quan sát bình thường’ mà lại được thưởng huân chương?”, ông đáp: “Vì tôi xứng đáng được như vậy”.

Mong cuối đời, người ta trả lại cho ông những gì còn nợ của ông."

" Hàng chục con người được lựa chọn trong lưới thay nhau liên lạc với Phạm Xuân Ẩn không quản nguy hiểm đến tính mạng. Họ có nhiệm vụ truyền đạt cho ông những yêu cầu của Hà Nội, đồng thời nhận tài liệu, phim ảnh, nhận xét mà ông đã chuẩn bị để chuyển về Trung tâm. Khi thấy có dấu hiệu bị lộ, ông không nhận và lập tức báo cho Hà Nội. Cao nhất ở đầu dây là Bộ Chính trị và người chủ chốt nhận báo cáo và truyền lệnh, người cuối cùng của đường dây là tướng Giáp. Có lần, nhận được báo cáo tình báo cực kỳ chính xác về phương thức và hình thái tác chiến của địch đến mức ông phải reo lên sung sướng “như đang ở ngay trong Phòng Điều hành Tác chiến của Mỹ”. Ông không thể biết người cung cấp tài liệu là ai. Vì lý do an ninh nên không ai đặt vấn đề tìm hiểu.

Về phần mình, ông Ẩn không chút do dự hết lời ca ngợi vị tổng tư lệnh của mình. Một hôm, ông nói với tôi: “Cuộc tiến công năm 1975 cũng như trận vây hãm Điện Biên Phủ là sự nghiệp của tướng Giáp”. Ông còn nói thêm: “Về trận tiến công cuối cùng của cuộc chiến, từ việc đề ra chủ trương đến việc thực hiện hoàn toàn thuộc trách nhiệm của tướng Giáp”.

Chính ông Ẩn đã lưu ý Hà Nội từ năm 1963 về sự phá sản của “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ tiến hành ở miền Nam và năm sau, ông đã tiên đoán khả năng Mỹ đưa quân viễn chinh vào tham chiến. Chính ông, năm 1968 đã đề xướng có kết quả việc ngừng bắn rốc-két (vào Sài Gòn), ba tháng sau cuộc tiến công Tết. Trong lúc đó, ông làm cho Hà Nội hiểu ra tác dụng tích cực của các cuộc tiến công vào các thành phố, thị trấn miền Nam là đã tác động sâu sắc đến tâm lý người dân Mỹ thúc đẩy họ quay sang chống chiến tranh. Cuối cùng, đầu năm 1975, ông đã có vai trò quyết định khi đánh giá rằng Mỹ sẽ không can thiệp ủng hộ Sài Gòn khi Cộng sản mở cuộc tổng tiến công cuối cùng để kết thúc cuộc chiến."

"Từ lâu, tôi vẫn ước mơ được phỏng vấn tướng Giáp về việc ông từng làm giáo viên dạy lịch sử, khi mới bước chân vào nghề dạy học. Nhưng tên tuổi của ông dường như đã ngủ yên trong các cuốn sách lịch sử và người ta chỉ nhìn thấy ông vào các dịp lễ lớn. Trong các kỳ Đại hội, ông không còn ngồi trong Đoàn chủ tịch mà ở hàng đầu trong phòng họp như một bức tượng thánh sinh động trong bộ quân phục đại tướng.

       
Những cựu cán bộ tình báo (từ trái sang): Vũ Chính, Phạm Xuân Ẩn, Trần Quốc Hương (Mười Hương), Trần Hiệu, Lê Hữu Thúy, Đặng Trần Đức (Ba Quốc) - Ảnh tư liệu

Một năm sau chiến thắng 1975, ông không còn ở cương vị Tổng tư lệnh. Bốn năm sau, ông cũng rút khỏi chức vụ Bộ trưởng Bộ Quốc phòng. Tại Đại hội lần thứ V Đảng Cộng sản năm 1982, ông rút khỏi Bộ Chính trị và không còn là ủy viên Ban Chấp hành Trung ương. Sáu tháng sau, ông thôi giữ chức Phó thủ tướng – vốn là chức vụ chính thức cuối cùng của ông.

Lần đầu tiên tôi gặp ông là năm 1994, một cuộc gặp không chính thức tại một phòng khách nhỏ của Hội nhà báo, có thêm ông Đào Tùng, Giám đốc Thông tấn xã Việt Nam, cơ quan thông tấn chính thức của Việt Nam, cùng dự. Tướng Giáp nói về những chuyện thường tình của chiến tranh, những sai lầm đã mắc phải trong mười năm sau thắng lợi 1975: “Đáng lẽ chúng tôi không bao giờ nên xóa bỏ kinh tế thị trường. Việc đó không tốn kém gì”, tướng Giáp nói.

Sáu năm sau, nhân kỷ niệm 25 năm giải phóng Sài Gòn, tôi gặp lại ông, cùng với một nhóm nhà báo. Ông đã đọc lời phát biểu, nhắc lại “thời điểm hạnh phúc nhất trong một đời chiến đấu là khi từ mặt trận báo về tướng Dương Văn Minh đã ra lệnh cho quân đội của ông ngừng bắn để tránh cho Sài Gòn một cuộc tắm máu”. “Chúng ta đã tự do không có kẻ thù Pháp, Mỹ, Nhật”, “30 tháng Tư là ngày thắng lợi hoàn toàn của một nước thuộc địa chống chủ nghĩa đế quốc, một thắng lợi thần kỳ”.

 Ngày hôm đó, 30.4.2000, trong phòng khách của một công thự dành cho việc tiếp các vị khách quý, tướng Giáp thấy dậy lên trong lòng mình những cảm xúc của một nhà sử học. Ông nói tiếp: “Trong nghìn năm Bắc thuộc, chúng ta đã không bị đồng hóa và đầu thế kỷ X, chúng ta đã giành lại độc lập để rồi trong một nghìn năm tiếp theo chúng ta đã chiến đấu và chiến thắng. Bài học của chương sử cuối cùng - những cuộc chiến tranh của thế kỷ XX - cũng như vậy. Đánh bại B.52, đó là thắng lợi của trí tuệ Việt Nam chống lại tiền bạc và công nghệ Mỹ. Rút cục nhân tố con người là trên hết, phải hiểu con người, hiểu lịch sử và văn hóa của họ - đó là một bài học về nguyên nhân thất bại của Mỹ”.

"Trước chiến tranh thế giới thứ hai, ông đã dạy lịch sử tại Hà Nội ở trường trung học Thăng Long, lò đào tạo các chiến sĩ chống thực dân. Học trò của ông đặt cho ông biệt danh là “Tướng” hay “Napoléon”. Nếu tướng Giáp học tập được ở các nhà chiến lược Việt Nam suốt chiều dài lịch sử, đã quật những đòn thất bại nặng nề cho bọn xâm lược Trung Quốc thì ông cũng nghiên cứu những chi tiết trong các chiến dịch của Napoléon. Tại sao? Ông tự đặt câu hỏi và sau khi dừng lại một lát, ông reo lên:

- Việc Napoléon từ đảo Elbe trở về, thật là tuyệt vời!

Trong lúc chúng tôi chờ đợi để nghe ông bình luận về tài cầm quân của Napoléon thì đột nhiên ông lại nhắc tới việc vua Louis XVIII cử quân đi chặn đường, ngờ đâu quân lính đã nhất tề chạy sang phía Napoléon. Tướng Giáp nói ngay, không chút ngập ngừng: “Đó là do uy tín cá nhân của Napoléon”. Thoáng nghĩ về quan hệ của tướng Giáp với cán bộ và chiến sĩ, người ta thấy rõ quan điểm của ông: chỉ huy là người gây được uy tín tuyệt đối với ba quân!

Ông cao hứng kể tiếp, khi nghe thấy tướng Navarre, Tổng Chỉ huy Quân đội Viễn chinh Pháp huênh hoang khẳng định trên đài phát thanh là “cuộc tấn công của Việt Minh đang lắng xuống” thì ông ra lệnh mở cuộc tấn công vào Điện Biên Phủ mà trước đó ông đã hoãn lại nhiều tuần lễ: “Khi chúng tôi nổ súng tấn công ngày 13.3, tướng Navarre hoàn toàn bất ngờ”. ‘Bất ngờ’ là yếu tố then chốt trong chiến thuật của Napoléon Bonaparte”.

“Trong chiến dịch tấn công Italia, Bonaparte nói: nơi nào một con dê cái đi lọt thì con người cũng có thể qua được, nơi nào một người đi lọt, thì một tiểu đoàn cũng qua được” - tướng Giáp nhắc lại với vẻ khâm phục rõ rệt. Trong vùng núi Việt Nam, nơi nào một dân công luồn qua được thì một nghìn dân công cũng có thể làm được như thế. Nơi nào một chiếc xe đạp đi lọt, thì đại bác cũng chuyên chở qua được! Vị tướng lĩnh Việt Nam liên tưởng đến hai chục ngàn dân công thồ xe đạp hay dân công mang vác những khẩu pháo tháo rời lên trận địa nhìn thẳng xuống lòng chảo Điện Biên Phủ. Ông mỉm cười. Bằng nỗ lực phi thường và khéo léo tuyệt vời, súng ống và các khí tài đã được đưa đến vị trí cao hơn tập đoàn cứ điểm Pháp.

         
Ông Phạm Ẩn và bà Thu Nhàn - Nguồn: Tư liệu của gia đình Phạm X

"Tướng Giáp kể tiếp: “Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh cho tư lệnh vùng này là tướng Ngô Quang Trưởng phải tử thủ. Tôi bèn ra lệnh cho sư đoàn 312 tiến công Đà Nẵng. Sư đoàn trưởng trả lời: ‘Kẻ địch còn khá mạnh, đồng chí cho tôi bảy ngày’. Tôi nói: ‘Tôi dự kiến Ngô Quang Trưởng sẽ rút chạy bằng đường biển, nó cần bao nhiêu thời gian?’. ‘Ít nhất ba ngày’ - sư đoàn trưởng 312 trả lời. ‘Vậy tôi cho đồng chí ba ngày để lấy Đà Nẵng’. Lệnh được truyền cho quân đội phải di chuyển ban ngày dọc theo Quốc lộ 1. Các anh sẽ bị pháo binh hải quân địch bắn phá nhưng điều đó không quan trọng”.

Thế là bộ đội di chuyển ngày đêm. Tướng Trưởng, một trong những sĩ quan sừng sỏ của quân đội Sài Gòn rút chạy bằng đường biển. Đà Nẵng bị đánh tan. Tướng Giáp nói thêm: “Chúng tôi có sẵn nhiều sư đoàn bổ sung để mở cuộc tiến công cuối cùng vào Sài Gòn. Tôi ra lệnh ngắn gọn: Tiến về Sài Gòn”.

Táo bạo, bất ngờ, tập trung tối đa binh lực, tài tổ chức hậu cần theo hình ảnh Bonaparte, tướng Giáp không hề quên bất cứ điều gì."

"Phạm Xuân Ẩn kể lại: “Trong chiến thắng 1975, tướng Giáp không thể biết ai là người đã gửi báo cáo tình báo cho ông. Ngay cả tướng Trần Văn Trà chỉ huy vây hãm Sài Gòn cũng không biết tên tôi. Tướng Giáp biết được những tin tức và phân tích do một người vô danh từ tít mãi đầu dây chuyển tiếp qua nhiều tầng, nhiều nấc, bằng bất cứ giá nào những tài liệu tin tức đã được mã hóa rồi sau đó là giải mã để báo cáo Bộ thống soái tối cao. Trong khi chiến tranh đang tiếp diễn thì nguyên tắc vô danh là không thể bị vi phạm”.

Ông Ẩn nói tiếp:

- Tướng Giáp không bao giờ hỏi ai đã gửi báo cáo tình báo mà Hà Nội đang khao khát. Nhiều năm trước đó, người ta cho tôi biết Hồ Chí Minh đã đòi được trực tiếp đọc những báo cáo do điệp viên gửi ra. Ông Cụ nói rằng tôi không cóp nhặt của người khác, tôi báo cáo thành thật và đã phát hiện ra người điệp viên ấy mà không hỏi đó là ai. Có lẽ ông Cụ chỉ biết mật danh của điệp viên là X.6, điều này cũng không chắc.

Thái độ dè dặt của Ẩn đối với cuộc tổng tiến công Mậu Thân – 1968, đặc biệt là đề nghị không bắn rốc-két vào nội thành Sài Gòn tháng 5.1968, liên quan đến những quyết sách mà chắc rằng tướng Giáp không phải là người chủ động đưa ra.

Một thời gian dài thử thách trong cuộc đấu tranh giành độc lập đã kết thúc, Phạm Xuân Ẩn không mấy ham thích những cuộc tọa đàm, hội thảo về chiến tranh hay những cuộc họp cựu chiến binh. Ông chỉ mặc quân phục khi thấy không thể làm khác. Từ năm 1975, ông chỉ ra Hà Nội bốn lần vì không có sự lựa chọn nào khác. Ông vẫn đam mê nghiên cứu chiến lược nhưng ông không đi theo phe phái nào trong Đảng. Ông cho tôi biết sau năm 1975, ông chỉ gặp Lê Đức Thọ có hai lần. Ông Thọ đã chủ trì lễ kết nạp ông vào Đảng đầu những năm 1950. Ông Ẩn không có tâm tính của một cựu chiến binh.

                       
Hình ảnh quen thuộc của vị tướng tình báo sau khi về hưu - Ảnh tư liệu

"Chỉ đến những năm 1990 khi Việt Nam ngày càng mở cửa với thế giới bên ngoài, tầm vóc thật sự của nhân vật mới được tiết lộ. Bức màn bí mật cũng chỉ hé mở dần dần vì nhiều lý do: nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa bước đầu ra khỏi vỏ ốc của mình, việc giáo dục giữ bí mật do hoàn cảnh kháng chiến lâu dài cùng những quy định nghiêm ngặt của ngành tình báo và cuối cùng, do bản tính kín đáo, khiêm nhường, thầm lặng của đương sự.

Phạm Xuân Ẩn là người không bao giờ tự bộc lộ bản thân, không thích ba hoa kể chuyện mình. Nếu ai đó trong lúc trò chuyện tranh phát biểu, ông tự nguyện ngồi yên trong góc, không nói câu nào. Tôi nhớ trong một bữa ăn tối ở Sài Gòn, trong những năm 1990 với các nhà kinh doanh Pháp, ông Ẩn, mặc dù ngồi đầu bàn nhưng gần như không nói một lời.

Hay trong một dịp khác, ông để một người trong cấp ủy độc thoại thao thao bất tuyệt về chiến tranh mà ông không xen vào nói thêm một câu nào. Ông có một phản xạ tình báo, chắc là do áp lực của nghề nghiệp: Chỉ nắm cái chủ yếu, không quan tâm đến những cuộc trò chuyện tầm phào. Cuối cùng, theo quy định của nghề nghiệp, ông không thể nói tất cả những điều ông biết hay muốn nói.

Trong số những người phương Tây đầu tiên được phép gặp ông trong những năm 1990 có một phụ nữ Mỹ, nguyên là phóng viên chiến trường tên là Laura Palmer, có lẽ cao tuổi nhất và chững chạc, đạo mạo nhất trong đám nhà báo trẻ thích bông đùa, quậy phá như chúng tôi. Bà hay gọi ông Ẩn là “Tướng Givral”, có thể hiểu là con người năng lui tới tiệm cà phê Givral. Ông có vẻ thích thú về điều này. Ông nói với tôi: “Laura phong cho tôi quân hàm cấp tướng từ thời đó”. Ông nói thế vì ông vừa được phong quân hàm thiếu tướng Quân đội nhân dân Việt Nam.

Thời chiến tranh, tiệm cà phê Givral là nơi tập hợp và phát đi đủ mọi tin đồn phong phú đến mức người ta đặt cho nó cái tên Radio Catinat (Đài phát thanh Catinat).

        
Một góc tiệm cà phê Givral trên đường Tự Do (nay là Đồng Khởi, Q. 1), nơi giới ký giả, trí thức Sài Gòn thường ngồi nghe ngóng tin tức chính trị xã hội. Ảnh: LIFE.

"Nhưng đến năm 1978, tôi vẫn còn xa mới hiểu được nhân cách lúc đó của ông Ẩn. Tôi phải cần thêm nhiều năm nữa mới nắm bắt được tầm vóc của nhân vật này. Quả là câu chuyện vẫn chưa chấm dứt, ba năm sau chiến tranh, khi mọi người được biết ông là một điệp viên, mà chỉ mới bắt đầu với sự phát lộ này…

….

...Phạm Xuân Ẩn được tin cậy đến mức sau chiến thắng của Cộng sản năm 1975, các nhà báo nước ngoài đều lần lượt buộc phải rời khỏi Nam Việt Nam, cơ quan báo Time do ông được giao phụ trách vẫn tiếp tục hoạt động cho đến một năm sau mới bị nhà cầm quyền ra lệnh đóng cửa.

Năm 1989, Ẩn gặp lại Morley Safer khi ông ta trở lại Sài Gòn (nay là thành phố Hồ Chí Minh) là đồng tác giả của chương trình Soixante minutes (Sáu mươi phút) trên kênh truyền hình Mỹ CBS. Trong một câu chuyện riêng tư nhưng sau đó đã được Safer công bố, ông Ẩn kể rằng: “Cấp trên của tôi không bao giờ yêu cầu cắt xén các tin tức báo cáo về, vì như thế trước sau cũng sẽ bị lộ. Người ta luôn luôn nhắc nhở tôi không được làm điều gì tác hại đến công việc làm báo của mình”.

Phạm Xuân Ẩn còn có một quan niệm rõ ràng về nghề làm báo. Ông nói, vẻ trịnh trọng: “Nhà báo giỏi là những người giữ được các bản ghi chép của mình và phải tiếp tục tra cứu không ngừng”.

...

Ông nói: “Trung bình hai ba tháng một lần, tôi đi báo cáo về ‘trung tâm’ đặt trong vùng Củ Chi nhưng không phải là nơi ngày nay người ta giới thiệu cho khách du lịch xem”.

Phần lớn chỗ gặp đó là ở Hố Bò, một khu rừng chỉ cách Sài Gòn hai chục kilômét về phía Tây Bắc. Ông thường vắng mặt vào ngày nghỉ cuối tuần, như vậy kín đáo hơn. Tại huyện Củ Chi cách Sài Gòn chừng ba chục kilômét một phần trồng cây cao su có một hệ thống địa đạo quanh co do các bộ phận của Bộ Tham mưu tiền phương của Cộng sản sử dụng. Ngày nay, chỉ còn một phần nhỏ được tu tạo lại để giới thiệu cho khách du lịch.

        
Sau 1975, khi hay tin Phạm Xuân Ẩn là tướng tình báo quân đội nhân dân Việt Nam hoạt động trong lòng đô thị Sài Gòn, nhiều đồng nghiệp của ông đã bất ngờ. Ảnh: Tư liệu

Khi đi báo cáo cấp trên, ông Ẩn bao giờ cũng đi tay không, trong túi trống rỗng. Phải tính đến nguy cơ có thể bị chặn lại giữa đường, rất hiếm khi ông đem theo tài liệu mà do các giao liên chịu trách nhiệm. Họ có kinh nghiệm chuyển giao tài liệu hơn. Trong giới báo chí Sài Gòn, việc vắng mặt vài ngày ít có nguy cơ bị phát hiện vì phần lớn các phóng viên ra “mặt trận” đều đặn hoặc đi các tỉnh xa để lấy tin và tư liệu viết bài.

Phạm Xuân Ẩn đã hoạt động bí mật cho đến ngày chiến thắng vì ông có nhiều cách đề phòng tối đa. Chính tay ông lựa chọn rất kỹ các liên lạc và ông không lưỡng lự khi phải loại bỏ một ai đó do cấp trên dự kiến nhưng ông thấy không hoàn toàn tin cậy. Trong số 45 thành viên trong lưới cùng hoạt động với ông, hai mươi bảy người đã bị bắt hoặc bị sát hại. Ông tự nhốt mình trong phòng vệ sinh nhà ông để chọn lọc, mã hóa các tài liệu thu thập được.

Nếu bị bất ngờ, ông có một khoảng thời gian đủ để tiêu hủy nhờ có những con chó becgiê Đức đã được ông huấn luyện và đặt chúng ngồi từ xa, cách nhau một quãng ngắn. Chỉ một dấu hiệu nhỏ khác thường, không cất tiếng sủa và chỉ gầm gừ nhỏ hay vẫy tai ra hiệu, là đủ để ông nhận ra có biến và tiêu hủy ngay tài liệu vào hố vệ sinh tự hoại.

Khi phải đi gặp liên lạc viên trong thành phố, điều mà ông hết sức tránh, ông phải tin chắc rằng ông và người đó không bị theo dõi và bao giờ cũng đem theo chó becgiê. Vợ ông đi sau, cách một quãng để nhỡ ông bị địch bắt là nó quay lại báo ngay cho vợ ông. Chỉ có vợ và mẹ ông biết ông hoạt động bí mật. Mọi người xung quanh không ai nghi ngờ điều gì. Ông không bao giờ giắt súng trong người, vả lại ông cũng không thạo sử dụng vũ khí vì chưa bao giờ được theo học một khóa huấn luyện quân sự nghiêm chỉnh. Cho đến khi nào được xác minh xong, ông cứ để cho tin đồn lan truyền rằng ông là một nhân viên tình báo CIA.

Dù sao ông cũng rất biết Edward Lansdale trong thời gian ông làm việc ở TRIM, sau này thăng lên cấp tướng. Lansdale được Phạm Xuân Ẩn gọi là “kẻ làm ra các ông vua” do ông ta là chuyên gia chống du kích và đã đóng một vai trò quyết định ở Philippines, chống cuộc nổi loạn của người Huk do Cộng sản chỉ đạo. Sau này, nhiều người Mỹ cũng đến hỏi ý kiến Phạm Xuân Ẩn về việc xử lý các mối quan hệ với người Việt sao cho tốt.

Chính ông đã duy trì khá lâu những phản xạ tự nhiên có được từ thời kỳ đó. Hai chục năm sau chiến thắng năm 1975 và căn cước của ông được công khai hóa, ông nói về Cộng sản cứ như ông không phải là người của họ. Ông thường bắt đầu bằng “Cộng sản nghĩ rằng”, và điều đó khiến một người bạn Việt Nam của ông đã vặn lại: “Tại sao lại nói thế? Anh không phải là Cộng sản sao?”.

Một nhận xét mà ông thường nêu lên không chút giữ gìn: “Cộng sản hay gọi tôi là Mỹ con, là con người Mỹ”. Ông kể lại như một câu chuyện đùa thú vị! Lời nói hai mặt xa lạ với ông. Đơn giản ông chỉ giữ thói quen hay nói những người cộng sản hay Đảng ở ngôi thứ ba, chứ không nói Đảng ta, hay Cộng sản chúng ta - nhằm để tránh những lỡ lời có thể khiến ông trong hoàn cảnh khác phải trả giá đắt.

Một buổi chiều, khi ông viết một bức thư bằng mực bí mật, con gái ông, còn đang đi học, bất chợt bắt gặp. Ông không có thì giờ giấu trang giấy trắng nên giả vờ như làm chuyện khác. Đứa bé gái đem chuyện đó kể với một trong các anh của nó: “Ba viết gì mà chẳng có chữ nào hiện trên giấy”. Thấy con nói thế, hôm sau, ông đánh lạc hướng chú ý của con bằng cách giải thích cho nó hiểu rằng do ánh sáng ngược chiều, con đứng sấp bóng nên không nhìn thấy chữ viết hiện trên giấy đó thôi."

" Năm 1959, khi trở về Việt Nam, Phạm Xuân Ẩn đã ba mươi hai tuổi. Lạ nước, lạ cái, không còn ai quen biết, khi máy bay hạ cánh xuống đường băng Tân Sơn Nhất, ông vô cùng lo lắng: “Liệu nhân viên an ninh có thể chộp mình khi từ trên máy bay bước xuống?”. Nhưng không xảy ra chuyện gì. Và suốt tháng sau ông vẫn sống yên ổn tại nhà mẹ để tìm hiểu xem mình có đang bị giám sát, theo dõi không. Ẩn cũng không biết Đảng có biết rằng ông đã trở về không và làm sao bắt liên lạc với các đồng chí trong lưới còn sống hoặc đang nằm yên trong nhà tù. Ông thận trọng chờ cho lưới chủ động trước. Trong khi chờ đợi, ông muốn tìm hiểu thêm thái độ của chế độ Sài Gòn đối với ông ra sao nên đến thăm bác sĩ Trần Kim Tuyến, là người mấy năm trước được CIA giúp đỡ, đã lập cơ quan tình báo gọi là “mật vụ” của chế độ Sài Gòn."

"Năm 1957, với tư cách ấy, ông Tuyến đã giúp Phạm Xuân Ẩn hoàn thành mọi thủ tục cần thiết để được phép rời Việt Nam đi Mỹ du học. Vậy nên việc Ẩn khi từ Mỹ trở về theo phép lịch sự đến thăm Tuyến không thể dấy lên những mối nghi ngờ dù nhỏ nhất. Ông Ẩn còn nhân dịp đó thăm dò tình hình thử xem “đối phương” có ý tứ gì với mình không, dù Trần Kim Tuyến không phải là hạng người dễ bộc lộ suy nghĩ của bản thân.

Ông đốc-tờ “nhỏ thó” đó đề nghị Ẩn làm việc cho ông ta và để che mắt người khác, xin cho Ẩn một chỗ làm tại Việt Tấn xã - cơ quan thông tấn chính thức của chế độ Sài Gòn - vì ông đã được đào tạo có bài bản về nghiệp vụ báo chí ở Mỹ. Cuộc đời lắm chuyện éo le và đó thật sự là một cơ hội hiếm có đối với ông Ẩn. Ẩn được đề nghị chọn nghề làm báo để nắm tình hình mật, nhưng chủ động đưa ra lời đề nghị làm việc lại là chế độ Sài Gòn chứ không phải các đồng chí cộng sản của ông - những người đầu tiên nghĩ ra mưu kế này. Ông tự nhủ nếu Văn phòng Tổng thống bật đèn xanh để tuyển dụng ông thì điều đó có nghĩa là ông được bình yên vô sự, giữ kín được tung tích của mình. Thế là ông nhận lời. Vì Phủ Tổng thống không nói gì nên Phạm Xuân Ẩn được đưa lên làm nhân viên mật vụ cho Dinh Độc lập, tức Phủ Tổng thống ở Sài Gòn.

                         
Ông Phạm Xuân Ẩn (giữa) chụp ảnh cùng những người bạn Mỹ tại Thủ Đức, Sài Gòn - Ảnh tư liệu

Được sự che chở của cấp cao, Ẩn đã đặt chân được vào giới báo chí ở Sài Gòn. Thật là kịp thời, vì sau đó Tuyến bị thất sủng do có một mưu toan đảo chính bất thành năm 1960. Ông Ẩn nhớ lại: “Tuyến đã được cử đi làm Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Ai Cập nhưng Abdel Nasser - Tổng thống Ai Cập lúc đó không chấp thuận một cựu trùm mật vụ làm Đại sứ. Bị gạt ra rìa, Tuyến được chứng kiến sự tan rã dần dần của các lưới do mình lập ra trước đây”.

"Phạm Xuân Ẩn đã trải qua những lo lắng tồi tệ nhất trước khi chính quyền Sài Gòn hoàn toàn sụp đổ ngày 30.4.1975.

Trong khi các sư đoàn Bắc Việt nhanh chóng tràn ngập từng vùng lãnh thổ miền Nam hãy còn nguyên vẹn, hàng vạn dân tị nạn lần lượt bị ném ra đường cái hay ra biển. Bác sĩ Tuyến âm mưu chống lại Thiệu. Ý tưởng của ông đốc-tờ “nhỏ thó” là lập một chính phủ liên hiệp hòng cứu vãn những gì có thể cứu được và chấm dứt chiến tranh. Ông ta đi thăm một trong những người cầm đầu phong trào giáo phái là Đại đức Thích Trí Quang. Thiệu cho người theo dõi chặt chẽ Tuyến và đêm ngày 3 rạng sáng 4.4 đã quăng một mẻ lưới: mười bốn người trong gia đình Tuyến trong đó có em của ông và các đại biểu Hạ viện đối lập, các nhà báo và một thượng nghị sĩ đều bị bắt vô khám Chí Hòa. Riêng Tuyến, nhờ Phó thủ tướng, Bộ trưởng Kinh tế Nguyễn Văn Hảo can thiệp nên thoát nạn. Nhưng nhà của Tuyến bị giám sát và những ai “qua lại” đều bị tình nghi. Ẩn hoảng sợ vì ông có quan hệ chặt chẽ với ông đốc-tờ “nhỏ thó”. Hai ngày ông không ăn uống gì. Buổi tối ông không về nhà, nằm lỳ ở tòa soạn báo Time đặt tại khách sạn Continental. Sau này kể lại, ông nói về Tuyến: “Ổng đã làm mình sợ đái ra máu”

Cuối cùng, Hoa Kỳ đành chịu chấp nhận khuynh hướng thỏa hiệp mà chính họ cũng không tin vào kết quả. Ngày 21.4, Thiệu tuyên bố từ chức trên đài truyền hình. Ngay sau đó, ông ta đáp máy bay đi Đài Bắc giao lại chính quyền cho Phó tổng thống Trần Văn Hương, một ông già ốm yếu không có chút uy quyền gì. Sài Gòn rơi vào cảnh hỗn loạn trong khi quân đội cộng sản đang siết chặt vòng vây. Người Mỹ hấp tấp tổ chức cầu hàng không di tản hết những nhân viên Mỹ còn lại và một số người Việt Nam đã từng hợp tác với họ."

       
Trong ngày 29.4.1975, từ sân Đại sứ quán, các chuyến trực thăng CH-53 và CH-47 đã liên tục lên xuống để đưa hàng trăm sĩ quan, nhân viên Mỹ cùng gia đình rời khỏi Sài Gòn. Ảnh: Getty

 "Lúc này đã quá muộn đối với Tuyến. Tòa đại sứ Mỹ lúc này cũng đang bấn lên. Qua điện thoại, Tuyến nhận được câu trả lời: nhân viên CIA phụ trách công việc di tản cũng ra đi rồi. Trong danh sách những người Đại sứ quán phải đưa đi vào giờ chót không có tên Trần Kim Tuyến...Từ đây, bác sĩ Tuyến gọi điện đi khắp nơi nhưng không ăn thua. Cuối cùng, Ẩn tự đánh xe đưa Tuyến đến Tòa đại sứ. Trong ngày 29.4 ấy, cảnh náo loạn diễn ra trước cổng sứ quán Mỹ. Nhiều vị bộ trưởng, tướng tá Nam Việt Nam cũng không chen vào lọt bên trong. Ẩn và Tuyến lại quay về khách sạn.

Ông Ẩn gọi điện đến một vài mối thân cận ở Tòa đại sứ nói rõ tình hình và đòi CIA can thiệp. Một nhà ngoại giao Mỹ gọi lại khá nhanh sau đó và nói: CIA tổ chức chuyến đi cuối cùng, dặn ông ta đến phố Gia Long nơi nhân viên CIA ở trong một tòa cao ốc lẫn với các cơ quan văn hóa Pháp. Ẩn nhớ lại: “Trên nóc nhà cao ốc có một sân thượng có thể tiếp nhận trực thăng hạ cánh trong tình trạng khẩn cấp để chở hai phó trưởng chi nhánh CIA ở hai căn hộ bên dưới sân thượng. Nhà ngoại giao Mỹ còn cho tôi mật khẩu để được vào nhà”.

Nhưng khi hai người đến tòa cao ốc thì lính gác là người thuộc dân tộc Nùng, cư dân thiểu số ở miền Bắc Việt Nam, từ chối không cho hai người vào. Ẩn và Tuyến lại đến Văn phòng chi nhánh CIA ở một phố khác thuộc trung tâm thành phố. Tại đây, Ẩn xin gặp Trưởng chi nhánh là người rất thân quen với ông. Lại một lần nữa, người gác cổng không cho vào vì không tin ông.

Ông Ẩn kể tiếp: “Ngay lúc đó, vợ của người gác cổng đến. Anh chồng mở cửa để vợ vào”. Ẩn lúc đó đứng chắn ngay lối ra vào và đã đẩy được Tuyến vào bên trong. Thế là người khách cuối cùng đi trên chiếc trực thăng cuối cùng của CIA - nguyên trùm mật vụ của chế độ đã có thể rời khỏi Sài Gòn nhờ sự giúp đỡ kiên trì của một đại tá an ninh của Hà Nội.

Sau này, khi biết được Ẩn là một điệp viên cộng sản, Tuyến nói ông ta “không bao giờ nghi ngờ Phạm Xuân Ẩn” và nói thêm: “Nếu quả như vậy thì đó là một thảm họa vì Ẩn biết tất cả những gì tôi biết”. Ẩn vẫn giữ quan hệ với gia đình bác sĩ Tuyến định cư tại London. Tại đây, nguyên trùm mật vụ Nam Việt Nam đã từ trần hai tuần trước khi bình thường hóa quan hệ giữa Hà Nội và Washington 

                                       

Cuộc đời & Sự nghiệp Tướng tình báo chiến lược Phạm Xuân Ẩn                                                           
                                                             ***
Góp phần đáng kể vào chiến thắng vĩ đại của Dân Tộc còn có những chiến công hiển hách củaa bộ đội đặc công, lực lượng biệt động cùng đồng bào ở mọi miền đất nước. chúng ta xin sưu tâm trên mạng để chép lại đây một số tiêu biểu (chủ yếu ở vùng Sài Gòn - Gia Định hồi đó):
1 - Bộ đội đặc công: 

Trận đánh sân bay Cát Bi ngày 7-3-1954 góp phần “chia lửa” với Mặt trận Điện Biên Phủ, có một người được vinh danh là “dũng sĩ số 1”. Đó là tổ trưởng trinh sát Mai Năng (tức Tạ Văn Thiều), sau này là Thiếu tướng, Anh hùng LLVT nhân dân, nguyên Tư lệnh Binh chủng Đặc công.

Dịp kỷ niệm 68 năm Chiến thắng sân bay Cát Bi, chúng tôi gặp Thượng tá Tạ Thị Minh Sinh, nguyên Trưởng phòng Tài chính Hải đoàn 128, Tổng công ty Tân cảng Sài Gòn, Quân chủng Hải quân, con gái Thiếu tướng Mai Năng. Chị chia sẻ với chúng tôi nhiều chi tiết chưa từng được công bố về diễn biến trận đánh mà vị tướng anh hùng kể lại khi còn sống.

Theo đó, sân bay Cát Bi là sân bay lớn nhất của thực dân Pháp ở Bắc Đông Dương, với hơn 200 máy bay các loại. Sân bay nằm sâu trong vùng hậu phương của địch, được xây dựng vô cùng kiên cố. Lực lượng của địch lúc cao điểm có tới 7 tiểu đoàn, chủ yếu là lính Âu-Phi, lê dương, thám báo người Việt. Xung quanh sân bay bố trí 78 đồn bốt, tháp canh, chia làm 3 tuyến vành ngoài, vành đai và trung tâm, 13 vị trí đề phòng tập kích phòng không, có 6 hàng rào dây thép gai, bãi mìn, hàng nghìn đèn điện, đèn pha chiếu quét, khiến sân bay đêm cũng như ngày... Đó là tất cả những khó khăn, thử thách đối với tổ trinh sát gồm 4 người, do đồng chí Mai Năng làm tổ trưởng.

"Khi còn sống, bố tôi kể rằng, trước trận đánh, việc điều tra, trinh sát để tiến hành tập kích sân bay Cát Bi gặp rất nhiều khó khăn, bởi chưa có một cơ sở nào của ta tại khu vực xung quanh sân bay. Cả tháng trời, các chiến sĩ phải nằm ngoài bờ bụi, bãi sú, sình lầy, muỗi vắt nhiều vô kể. Đột nhiên một buổi tối, có bà cụ mở cửa, che đèn gọi bộ đội vào cho cơm ăn. Bà thì thào: “Mẹ biết các con về lâu rồi”. Rồi bà khuyên, địch đang khủng bố ghê gớm lắm, các con nên tạm lánh ra vùng tự do một thời gian. Bố tôi cảm động, thưa: “Chúng con là con cháu Bác Hồ, con của nhân dân. Nhiệm vụ của chúng con là xây dựng phong trào để giải phóng quê hương. Dù khó khăn, gian khổ thế nào, chúng con cũng không thể bỏ dân mà đi được. Chúng con sẽ bám dân, bám đất cho đến ngày giải phóng”. Nghe cậu chiến sĩ trẻ bày tỏ quyết tâm, bà cụ khóc: “Từ nay các con vào, cứ dùng ngón tay gõ nhẹ là mẹ biết”-chị Minh Sinh kể.

Gây dựng được cơ sở tin cậy, tổ trinh sát có nhiều thuận lợi trong việc nắm tình hình địch và sẵn sàng phương án trinh sát đột nhập, tập kích địch. Tuy nhiên, khó khăn đặt ra là thời điểm này, vào buổi tối có nhiều đom đóm, quá trình cơ động, áp sát doanh trại của địch không khéo sẽ bị lộ. Các chiến sĩ phải luyện tập bơi đứng, ngậm cành đu đủ để thở.

Ngày 3-3-1954, tổ trinh sát xuất quân ra bờ sông Văn Úc, sáng 6-3 tới xã Hòa Nghĩa (nay là phường Hòa Nghĩa, quận Dương Kinh, TP Hải Phòng). Đêm 6-3, trinh sát mở cửa, cắt dây thép, gỡ mìn, đưa lực lượng vào. Đội hình chiến đấu chia làm hai mũi, mũi chủ yếu gồm 13 chiến đấu viên, 3 trinh sát, đánh vào khu máy bay B-26; mũi thứ hai đánh vào khu máy bay trinh sát vận tải. Đúng 0 giờ ngày 7-3, cả sân bay Cát Bi chìm trong bão lửa, tiếng bộc phá, lựu đạn cùng các loại hỏa lực nổ hỗn loạn, máy bay địch cháy đỏ cả một góc trời. Ta đã phá hủy, đốt cháy 59 máy bay các loại, phần lớn là máy bay chiến đấu và máy bay vận tải của địch, phá hủy nhiều vũ khí và tiêu diệt nhiều sinh lực địch, làm tê liệt hoạt động tiếp viện cho chiến trường Điện Biên Phủ của quân Pháp.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, tài trí của bộ đội đặc công Việt Nam tiếp tục được phát huy cao độ.

Tháp canh cầu Bà Kiên không chỉ là một địa danh, mà còn là nơi khai sinh một chiến thuật quân sự huyền thoại - lối đánh đặc công.
 Năm 1948, thực dân Pháp xây tháp canh Cầu Bà Kiên tại Tân Uyên - cứ điểm kiên cố cao 12m, tường gạch dày 40cm, bốn góc lắp súng máy, lính gác tuần tra ngày đêm. Thế nhưng, quân và dân Tân Uyên kiên cường, quyết không khuất phục.
                         Chú thích ảnh
Bia tưởng niệm Chiến thắng 19/3 tại Tân Uyên (Bình Dương). Ảnh: Dương Chí Tưởng/TTXVN

Đêm 18, rạng sáng 19/3/1948, ba chiến sĩ du kích Trần Công An, Hồ Văn Lung và Nguyễn Văn Nguyên được giao nhiệm vụ tập kích tháp canh. Hành trang của họ chỉ có một khẩu súng trường, một chiếc thang tre và 10 quả lựu đạn (9 quả tự tạo). Lợi dụng lúc địch thay gác, họ men theo bờ sông Đồng Nai, lặng lẽ áp sát mục tiêu. Bằng sự gan dạ và chiến thuật khéo léo, họ leo lên tầng trên, ném lựu đạn vào trong. Tiếng nổ xé toang màn đêm; 10 lính Pháp bị tiêu diệt, kho đạn phát nổ, tháp canh chìm trong khói lửa; hệ thống phòng thủ kiên cố của địch bị phá vỡ. Khi quân tiếp viện còn chưa kịp phản ứng, đội du kích đã rút lui an toàn, mang theo 8 khẩu súng và 20 quả lựu đạn.

Lần đầu tiên, một nhóm chiến sĩ với vũ khí thô sơ đánh sập cứ điểm kiên cố của quân Pháp bằng lối đánh bất ngờ, bí mật và táo bạo. Chiến thắng này đặt nền móng cho sự ra đời của Binh chủng Đặc công.

Chiến thắng cầu Bà Kiên được xem là cái nôi của chiến thuật đặc công, mở ra lối đánh linh hoạt, hiểm hóc. Đúng 19 năm sau, ngày 19/3/1967, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh thành lập Binh chủng Đặc công. Từ đó, ngày 19/3 trở thành Ngày truyền thống của lực lượng đặc công Việt Nam.

Từ những kinh nghiệm thực tiễn, đặc công trở thành mũi nhọn xung kích trong hai cuộc kháng chiến. Họ đã lập nên nhiều chiến công vang dội: Đánh kho xăng Nhà Bè (1963), sân bay Biên Hòa (1964), Dinh Độc Lập (1968), Đồng Dù (1969)... Đặc biệt, trong Chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975, đặc công là mũi đột kích quan trọng, góp phần giải phóng Sài Gòn, thống nhất đất nước.

 Tháp canh cầu Bà Kiên nay thuộc ấp Dư Khánh, phường Thạnh Phước, thành phố Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Năm 2009, UBND tỉnh Bình Dương công nhận nơi đây là di tích lịch sử cấp tỉnh. Bia tưởng niệm Chiến thắng 19/3 được dựng trên khuôn viên rộng 1.800 m², trở thành địa chỉ đỏ giáo dục truyền thống. Trên tấm bia, lời khen tặng của Chủ tịch Hồ Chí Minh được khắc ghi trang trọng:“Đặc biệt tinh nhuệ; Anh dũng tuyệt vời; Mưu trí táo bạo; Đánh hiểm thắng lớn.”

Theo Đại tá Hoàng Văn Số - Chính ủy Lữ đoàn Đặc công Bộ 429, đóng quân tại huyện Phú Giáo, Bình Dương: cách đánh đặc công là sự kế thừa tinh hoa nghệ thuật quân sự Việt Nam, từ chiến thuật “ngày ẩn náu, đêm tập kích” của Triệu Quang Phục, lối đánh thần tốc của nghĩa quân Tây Sơn, đến đội quân Yết Kiêu chuyên tập kích trên sông. Tuy nhiên, chỉ đến kháng chiến chống thực dân Pháp, phương thức tác chiến này mới được định hình thành một binh chủng độc lập.

Từ trận đánh cầu Bà Kiên năm 1948, bộ đội đặc công ngày càng được tổ chức bài bản, trở thành lực lượng xung kích chủ lực. Họ chiến đấu theo nguyên tắc “bí mật, bất ngờ, luồn sâu, đánh hiểm”, tận dụng yếu tố bất ngờ để giành thắng lợi với lực lượng tinh gọn nhưng hiệu quả tối đa.

 Rạng sáng 26/2/1969, chỉ vài ngày sau khi ra đời, Lữ đoàn Đặc công Bộ 429 phối hợp cùng Tiểu đoàn 28 (Sư đoàn 7) và lực lượng pháo binh Miền mở cuộc tập kích quy mô lớn vào căn cứ Đồng Dù - hậu cứ kiên cố của Sư đoàn 25 bộ binh Mỹ tại Củ Chi. Nằm ở vị trí chiến lược phía Tây Bắc Sài Gòn, Đồng Dù được quân Mỹ xem là lá chắn quan trọng bảo vệ thủ phủ Ngụy quyền. Căn cứ này được xây dựng vững chắc với 12 lớp hàng rào thép gai, hàng trăm lô cốt, xe tăng, trận địa pháo và lực lượng tuần tra dày đặc

                           Chú thích ảnh 

Rạng sáng 26/2/1969, chỉ vài ngày sau khi ra đời, Lữ đoàn Đặc công 429 phối hợp cùng Tiểu đoàn 28 (Sư đoàn 7) và lực lượng pháo binh Miền mở cuộc tập kích quy mô lớn vào căn cứ Đồng Dù - hậu cứ kiên cố của Sư đoàn 25 bộ binh Mỹ tại Củ Chi. Ảnh tư liệu: TTXVN 

 

Sau thời gian dài trinh sát, các chiến sĩ đặc công xác định được những sơ hở trong hệ thống phòng thủ của địch. Đêm 25/2, đội hình chia thành 7 mũi tiến công, bí mật tiếp cận căn cứ. Lợi dụng đêm tối và địa hình phức tạp, các chiến sĩ đặc công luồn sâu qua hệ thống rào thép, tiếp cận các mục tiêu trọng yếu mà không để lộ dấu vết.

Đúng 2 giờ 45 phút 26/2/1969, khi căn cứ địch vẫn chìm trong màn đêm, tín hiệu tấn công được phát ra. Các mũi tiến công đồng loạt khai hỏa, bất ngờ đánh thẳng vào Sở Chỉ huy Sư đoàn 25, khu thông tin, sân bay, kho tàng, trận địa pháo. Những quả bộc phá chính xác phá tung lô cốt, kho đạn bốc cháy ngùn ngụt, tiếng súng cối, B40 vang rền khắp trận địa. Lính Mỹ hoảng loạn, phản ứng chậm chạp trước đòn đánh chớp nhoáng của đặc công Việt Nam.

Sau hơn 1 giờ chiến đấu, quân ta gây thiệt hại nặng nề cho địch: Tiêu diệt trên 1.000 lính Mỹ, phá hủy 50 máy bay, 176 xe quân sự, 12 khẩu pháo, nhiều kho đạn và xăng dầu. Khi các đơn vị đặc công rút lui an toàn, pháo binh ta tiếp tục bắn bồi, dội đạn vào căn cứ, khiến Đồng Dù chìm trong biển lửa, tổn thất của địch càng thêm nặng nề.

Chiến thắng vang dội này không chỉ giáng một đòn mạnh vào quân Mỹ mà còn làm lung lay hệ thống phòng thủ của địch tại miền Đông Nam Bộ         

                          Chú thích ảnh 

Rạng sáng 26/2/1969, chỉ vài ngày sau khi ra đời, Lữ đoàn Đặc công 429 phối hợp cùng Tiểu đoàn 28 (Sư đoàn 7) và lực lượng pháo binh Miền mở cuộc tập kích quy mô lớn vào căn cứ Đồng Dù - hậu cứ kiên cố của Sư đoàn 25 bộ binh Mỹ tại Củ Chi. Ảnh tư liệu: TTXVN 

 

Sau trận Đồng Dù, Đặc công 429 tiếp tục lập chiến công vang dội tại hậu cứ Dầu Tiếng năm 1971. Đây là căn cứ quân sự trọng yếu, được phòng thủ nghiêm ngặt với nhiều lớp công sự và lính gác tuần tra liên tục. Để đột nhập, các chiến sĩ đặc công phải luồn lách qua hào sâu, bãi mìn, tận dụng địa hình để tiếp cận mục tiêu. Đêm 19/6/1971, Tiểu đoàn 13 của Lữ đoàn 429 áp sát căn cứ. Đúng 2 giờ 10 phút, khi quân địch còn chìm trong giấc ngủ, đặc công đồng loạt đánh vào sở chỉ huy, khu thông tin, trận địa pháo. Địch hoảng loạn, chưa kịp phản ứng đã bị đánh gục. Chỉ trong vài giờ, hơn 400 tên địch bị tiêu diệt, 16 lô cốt bị phá hủy, hậu cứ Dầu Tiếng hoàn toàn bị xóa sổ.

Mùa khô năm 1973, căn cứ Bù Bông (nay thuộc Bình Phước) trở thành trọng điểm phòng thủ của địch, án ngữ tuyến đường chiến lược 14. Được bảo vệ kiên cố với công sự dày đặc, hàng rào thép gai và lính tuần tra liên tục, Bù Bông được xem là “lá chắn thép” của địch ở miền Đông Nam Bộ. Sau nhiều ngày trinh sát, lực lượng Đc công 429 lên kế hoạch tập kích. Đêm 3/11, các tổ chiến đấu âm thầm tiếp cận mục tiêu. Nhờ sự chuẩn bị kỹ lưỡng, đặc công đã mở 7 cửa tiến vào mà không bị phát hiện. Đúng 3 giờ 15 phút, sáng 4/11, hàng loạt bộc phá đồng loạt xé toang màn đêm, đánh thẳng vào sở chỉ huy, trận địa pháo, kho đạn. Sau 13 giờ giao tranh, quân ta làm chủ hoàn toàn căn cứ, tiêu diệt hơn 600 tên địch, bắt sống hàng trăm tên, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh.

Thất bại tại Bù Bông khiến địch dồn lực lượng về Chi khu Kiến Đức, tăng cường xe tăng, pháo binh và công sự kiên cố. Bộ Chỉ huy chiến dịch quyết định giao nhiệm vụ cho đặc công đánh vào Kiến Đức. Đêm 3/12, các tổ đặc công bí mật gỡ mìn, cắt rào, mở đường cho đồng đội tiếp cận. Khi tiếng lệnh khai hỏa vang lên, quân ta đồng loạt đánh thẳng vào sở chỉ huy, kho đạn, trận địa pháo. Sau hơn 10 giờ giao tranh, Đặc công 429 cùng các đơn vị phối hợp làm chủ hoàn toàn Chi khu Kiến Đức, tiêu diệt 350 tên địch, phá hủy nhiều công sự phòng thủ. Thắng lợi này góp phần tạo bàn đạp chiến lược cho chiến dịch giải phóng Phước Long sau này.

                           Chú thích ảnh

Rạng sáng 26/2/1969, chỉ vài ngày sau khi ra đời, Lữ đoàn Đặc công 429 phối hợp cùng Tiểu đoàn 28 (Sư đoàn 7) và lực lượng pháo binh Miền mở cuộc tập kích quy mô lớn vào căn cứ Đồng Dù - hậu cứ kiên cố của Sư đoàn 25 bộ binh Mỹ tại Củ Chi. Ảnh tư liệu: TTXVN

Tháng 4/1975, trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, Lữ đoàn Đặc công Bộ 429 tiếp tục đảm nhận nhiệm vụ then chốt. Đặc công lặng lẽ đột nhập nội đô, vô hiệu hóa các mục tiêu trọng yếu như kho xăng, sân bay, hệ thống liên lạc địch. Trong thời khắc quyết định, họ mở đường cho đại quân tiến vào Sài Gòn, góp phần làm nên Đại thắng mùa Xuân 1975.

Với những đóng góp xuất sắc, Lữ đoàn Đặc công Bộ 429 được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Đơn vị có 8 cá nhân được tuyên dương Anh hùng, với 16 chữ vàng: “Tự lực tự cường, độc đảm kiên cường, luồn sâu đánh hiểm, đoàn kết chiến thắng”.

Chiến dịch Hồ Chí Minh tháng 4/1975 có nhiều trận đánh đã đi vào lịch sử dân tộc. Trong đó, có một trận đánh tuy quy mô không lớn nhưng mang ý nghĩa vô cùng to lớn, thể hiện tinh thần quyết chiến quyết thắng của quân đội ta - Trận đánh cầu Rạch Chiếc ở cửa ngõ Đông Bắc. Tại đây, các chiến sỹ đặc công biệt động của các đơn vị Z23, Z22 và D81, Lữ đoàn 316 chiến đấu anh dũng để chiếm giữ, đón đại quân tiến vào trung tâm thành phố.

Trung úy Nguyễn Đức Thọ, sinh năm 1955, tham gia trực tiếp trận Rạch Chiếc 50 năm trước. Ngược dòng thời gian, năm 1972, anh thanh niên Nguyễn Đức Thọ nhập ngũ và huấn luyện tại Lữ đoàn đặc công Hải quân 126 ở Hải Phòng. Đầu năm 1974, Nguyễn Đức Thọ được bổ sung vào Z23, Lữ đoàn 316 Đặc công biệt động, Bộ Tham mưu miền B2.

                            50 nam giai phong mien nam ky uc tran danh cau rach chiec oai hung hinh anh 1

 

Z23 được phân công hoạt động ở khu vực Đông Bắc Sài Gòn, nhiệm vụ chính là đánh Bộ Tư lệnh Hải Quân nguỵ ở số 1 Bạch Đằng (ngày nay là đường Tôn Đức Thắng).

Để chuẩn bị cho trận đánh, tổ trinh sát của đơn vị tiếp cận Sài Gòn trước và nằm vùng nhiều tháng ở Nhơn Trạch (Đồng Nai) và Thủ Đức. Sau đó, các chiến sỹ cũng xuống Sài Gòn để áp sát mục tiêu bố trí đội hình, thích nghi với điều kiện chiến trường. Khi đã có dữ liệu của trinh sát đơn vị lại lên sa bàn luyện tập phương án đánh chiếm Bộ Tư lệnh Hải quân ngụy.

Những ngày đầu tháng 4/1975, tin vui thắng trận liên tiếp báo về, anh em Z23 hào hứng và tự nhủ “ngày tiến vào Sài Gòn đã cận kề”.

Đêm 18/4, Ban Chỉ huy điều 2 trung đội đặc công lên chốt đường, ém quân chờ thời điểm đánh chiếm Bộ Tư lệnh Hải quân ngụy.

Tuy nhiên, đến trưa ngày 25/4, cấp trên hủy bỏ toàn bộ phương án đánh chiếm Bộ Tư lệnh Hải quân ngụy, đồng thời chỉ đạo Z23 sẽ cùng với Z22 và D81 chuyển sang chiếm cầu Rạch Chiếc, đón đại quân của ta vào giải phóng Sài Gòn. Nhiệm vụ thay đổi phút chót, anh em nhanh chóng trinh sát, lên phương án tác chiến mới.

Cầu Rạch Chiếc là một vị trí quan trọng, nên đầu 1975, địch đã tăng cường lực lượng phòng thủ với nhiều tầng lớp kiên cố, trang thiết bị đầy đủ, lực lượng bảo an thường trực khoảng 400 tên.

"Lúc đấy tư tưởng chỉ đạo của chiến dịch là “thần tốc và thần tốc hơn nữa”. Mà muốn thần tốc thì phải giữ được hành quân của các đơn vị lớn. Phải là đơn vị lớn vào thì mới nhanh chóng giải phóng Sài Gòn chứ các đơn vị nhỏ như chúng tôi thì có ý nghĩa gì. Cho nên khi biết đánh để đón quân đoàn vào thì anh em rất hào hứng, phấn khởi, không ai có phân vân suy tư gì", ông Thọ kể.

Tối 25/4, khi trinh sát báo về, phân tích tình hình thực tế, đơn vị quyết định đánh cường tập, dùng hỏa lực B40, B41 tiêu diệt các hỏa điểm chủ yếu của địch, sau đó toàn lực lượng áp sát dùng thủ pháo, lựu đạn ném vào lô cốt, công sự…để nhanh chóng chiếm lĩnh.

Sáng 26/4, sau khi chuẩn bị xong thì đến chiều 26/4, lệnh chiến đấu được đặt ra với giờ G là 3h15 ngày 27/4. Z22 và Z23 được giao đánh chiếm giữ đầu cầu phía Bắc hướng Thủ Đức vào, trong khi D81 đặc công chiếm giữ đầu cầu hướng Sài Gòn ra.

Anh em dựa theo kênh rạch dừa nước, áp sát mục tiêu và đến khoảng 2h sáng đã tới nơi, ém quân, chờ đến giờ là nổ pháo. Cứ mỗi lần đèn pha của địch chiếu tới lại tranh thủ quan sát các mục tiêu.

                           50 nam giai phong mien nam ky uc tran danh cau rach chiec oai hung hinh anh 2

 

úng giờ, chiến sỹ Nguyễn Đức Thọ triển khai bắn phát B40 để tiêu diệt mục tiêu và làm phát pháo lệnh. Tuy nhiên, do nằm trong thời gian dài, khẩu B40 lại dài nên phát đầu tiên bị trật, ông Thọ nhanh chóng bắn phát thứ hai và thành công.

"Bấy giờ mình được giao nhiệm vụ bắn phát B40 đầu tiên để tiêu diệt tháp canh và cũng là pháo lệnh chung. Nếu mà mình không may bị tiêu diệt, không có pháo lệnh, anh em cứ nằm đây chờ thì rồi cuối cùng khâu hợp đồng tác chiến sẽ không được theo như ý muốn. Rất may là mình cũng đã đã bắn thành công, tiêu diệt được tháp canh theo đúng yêu cầu, tạo cơ hội cho đồng đội".

Sở trường của bộ đội đặc công là đánh nhanh, đánh vỗ mặt…còn giữ cầu lại là chuyện khác. Anh em trang bị súng ống tinh gọn, tối giản với mục tiêu là chiếm cầu, chờ đại quân tiến vào.

Tuy nhiên, theo Đại tá Nguyễn Văn Tàu (Tư Cang), Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân, nguyên Chính ủy Lữ đoàn 316, do địch phá cầu Sông Buông ở phía Đồng Nai khiến cho xe tăng ta không thể di chuyển qua được dẫn đến lỡ nhịp. 

                            50 nam giai phong mien nam ky uc tran danh cau rach chiec oai hung hinh anh 3

Khi đó, Đại tá Tư Cang (Nguyễn Văn Tàu) cùng với ban tác chiến túc trực bên máy vô tuyến để chỉ huy. Người chỉ huy sốt ruột khi ngón sở trường của đặc công là “luồn sâu đánh hiểm” chứ không phải là chiến đấu trực diện, giữ cầu.

"Cầu Sông Buông anh em công binh phải làm gấp mất 2- 3 ngày để xe tăng qua. Do đó trên này phải phòng ngự. Việc này mới gây hy sinh nhiều, mất 52 đồng chí. Bởi giữ cầu bảo vệ cầu không phải là sở trường của đặc công. Sở trưởng là đánh nhanh, giải quyết chiến trường nhẹ. Thêm nữa vũ khí nhẹ, đi từ Nhơn Trạch lên khoảng hơn 60 người thôi", Đại tá Tư Cang kể.

Thực tế chiến trường cho thấy, do chênh lệch cả về lực lượng, vũ khí nên anh em đặc công cũng chỉ cầm cự với địch suốt ngày 27/4. Khi thương vong quá lớn, cả đơn vị phải rút vào rừng dừa nước để chuẩn bị lực lượng tái chiếm cầu.

Cả ba đơn vị đặc công hy sinh 52 đồng chí (chủ yếu là của Z22 và Z23). Đến ngày 29/4, đơn vị nhận được lệnh tiếp tục đánh chiếm cầu Rạch Chiếc, không cho quân địch phá, chờ đại quân tiến vào.

Lúc này cả Z22 và Z23 còn 29 chiến sỹ tiếp tục chiến đấu được. Thời gian được chọn nổ súng là 3h15 ngày 30/4.

Khi tiếp cận mục tiêu, anh em bàn nhau, đánh như vậy thì sớm quá, do còn phải giữ cầu nên thống nhất thời gian nổ súng là 5h sáng. Đúng giờ, tất cả anh em đồng loạt nổ súng.

Do bị đánh bất ngờ và khoảng cách quá gần nên dù có quân số đông hơn nhiều nhưng địch nhanh chóng xuống tinh thần, chỉ bắn đáp trả chiếu lệ rồi bỏ chạy.
Chiếm được cầu, quân ta nhanh chóng bố trí lực lượng để chống phản kích. Đến 7h, xe tăng Quân đoàn 2 của ta qua cầu tiến vào trung tâm Sài Gòn.

Thời khắc ấy, người chiến sỹ Nguyễn Đức Thọ vui mừng xen lẫn đau xót khi “anh em hy sinh quá nhiều, chưa kịp nhìn thấy giây phút hòa bình”:

"Lúc mà xe tăng đến nơi mình phấn khởi lắm, thấy đã hoàn thành nhiệm vụ. Nhưng mà khi đoàn xe đi qua nhìn lại thấy anh em hy sinh, mình có sự hối tiếc vì anh em không kịp chứng kiến giây phút hòa bình. Mình muốn bật khóc vì nhiều người hy sinh quá", Trung úy Nguyễn Đức Thọ bồi hồi.

Đại tá Nguyễn Văn Tàu (Tư Cang), nguyên Chính ủy Lữ đoàn 316 (Lữ đoàn biệt động đặc công) nhận xét, trận Rạch Chiếc là trận đánh rất quyết liệt do nằm ở gần Sài Gòn; quân địch tập trung lực lượng và vũ khí đông, cả trên không, dưới nước…

Đây là trận đánh quyết liệt nhất của Lữ đoàn 316 kể từ khi thành lập hồi tháng 3/1974. Sự hy sinh anh dũng đó đã đánh đổi lại kết quả là cầu Rạch Chiếc được giữ nguyên, chào đón 2 cánh quân (trong tổng số 5 cánh quân) tiến vào trung tâm Sài Gòn, góp phần cho chiến dịch nhanh chóng giành thắng lợi, giữ được gần như nguyên vẹn thành phố Sài Gòn.

"Tinh thần của bộ đội ta thì giao nhiệm vụ gì cũng phải làm tròn nhiệm vụ đó dù phải hy sinh. Ở trên giao nhiệm vụ chiếm và giữ cầu Rạch Chiếc thì phải chấp nhận hy sinh làm tròn nhiệm vụ. Chiếm thì rất lẹ nhưng giữ cầu kéo 2 - 3 ngày, anh em chiến đấu rất dũng cảm nhưng đành chấp nhận hy sinh", Đại tá Nguyễn Văn Tàu khẳng định.

Hằng năm, cứ gần đến ngày 30/4 lịch sử, những anh em còn lại của Z23, Z22 và người thân của các liệt sỹ cùng làm lễ tưởng niệm, thả hoa đăng…tưởng nhớ anh linh các chiến sỹ. 52 liệt sỹ nhưng đến nay chỉ mới tìm được 9 người, số còn lại đã hòa vào cùng với sông nước Rạch Chiếc.

                           50 nam giai phong mien nam ky uc tran danh cau rach chiec oai hung hinh anh 4

Để có được độc lập, tự do và thống nhất hôm nay, dân tộc ta đã viết nên bản hùng ca bất tử bằng biết bao mất mát, hy sinh. Thế hệ hôm nay mãi khắc ghi công lao của những người đi trước — trong đó, có những con người đã âm thầm chiến đấu giữa vùng sình lầy ngập mặn, nơi mỗi bước chân đều đối mặt với hiểm nguy và cái chết. Họ là những người lính đặc công Rừng Sác – những chiến sĩ cảm tử của đường sông, những bóng ma giữa rừng nước – đã làm nên một huyền thoại oai hùng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Với vị trí chiến lược áp sát Sài Gòn – Gia Định, Rừng Sác Cần Giờ từng là “cổ họng” hậu cần của quân Mỹ qua tuyến sông Lòng Tàu. Trung đoàn 10 Đặc công được giao nhiệm vụ bám trụ, thọc sâu đánh phá kho xăng, bến cảng. Không đội quân hùng hậu, không tiếng súng rền vang, những chiến sĩ đặc công âm thầm luồn rừng, đánh cháy kho xăng Nhà Bè, đánh chìm tàu giặc trên sông Lòng Tàu, làm tê liệt tuyến tiếp vận chiến lược của đối phương.

Ông Nguyễn Thanh Bình, Cựu chiến binh đặc công Trung đoàn 6, Sư đoàn 305 cho biết, Theo tư tưởng chỉ đạo của bộ đội đặc công chúng tôi, đó là luồn sâu lót sát, đánh trúng đánh đúng, đánh từ trong đánh ra, đánh nở hoa trong lòng địch. Hai là những người lính đặc công chúng tôi là phải đi như báo rình mồi, tai phải nghe tính như tai thỏ ngọc và đôi mắt là phải sáng như vầng trăng mới mọc. Đó là tất cả những cái chỉ đạo của người chiến sĩ đặc công. Các anh rừng Sác này vất vả gấp 10 lần, thậm chí cả trăm lần.

                              Huyền thoại đặc công Rừng Sác - Báo Lâm Đồng điện tử
Giữa rừng ngập mặn sình lầy, kênh rạch chằng chịt, hiểm nguy rình rập bốn bề, đặc công Rừng Sác vẫn bám trụ, lặng thầm làm nên nhiều kỳ tích.

Về Rừng Sác, nghe người hướng dẫn kể chuyện đặc công Đoàn 10 Rừng Sác đánh giặc suốt 9 năm với 600 trận lớn, nhỏ, đánh chìm và đốt cháy 356 tàu chiến đấu; đánh đắm 13 tàu vận tải từ 8.000 - 13.000 tấn, bắn cháy 145 tàu vận tải khác, bắn rơi 29 máy bay trực thăng; thiêu hủy 110.000 tấn bom đạn, 250 triệu lít xăng dầu của địch...

a. Sông Lòng Tàu, cửa ngõ đường thủy vận tải quân sự của địch từ Biển Đông vào nội đô. Địch bố trí lực lượng phòng vệ, bảo vệ nghiêm ngặt nhất để bảo đảm an toàn. Phía ta cũng xác định địa bàn Rừng Sác (nay thuộc huyện Cần Giờ, TP HCM) là nơi có tính chất chiến lược quan trọng nên ngày 15/4/1966, Bộ Chỉ huy Miền thành lập Đặc khu quân sự Rừng Sác (Mật danh T10, sau đổi tên thành Đoàn 10 đặc công Rừng Sác) với nhiệm vụ án ngữ tuyến đường thủy qua sông Lòng Tàu, phá hủy các kho, bãi chứa quan trọng khu vực Nhà Bè, Nhơn Trạch (Đồng Nai).

Vừa thành lập, Đoàn 10 lên phương án đánh ngay vào con tàu vận tải quân sự Baton Rouge Victory với trọng tải 10.000 tấn. Thời điểm đó, tàu Victory chở 100 xe tăng, 2 trực thăng, 20 tấn nhu yếu phẩm cung cấp cho một sư đoàn lính Mỹ.

Sau 4 tháng ăn, nằm, ngâm mình dưới sông Lòng Tàu để điều nghiên, ngày 23/8/1966, các chiến sĩ đặt 2 quả thủy lôi, mỗi quả nặng hơn 1.000kg đánh chìm tàu Victory khiến Tổng Chỉ huy lực lượng viễn chinh Mỹ ở miền Nam Việt Nam phải thừa nhận “một cuộc chiến đấu kỳ lạ trong một cuộc chiến tranh kỳ lạ”.

b. Vượt sông Đồng Nai đánh sập kho bom Thành Tuy Hạ (nay là xã Phú Thạnh, huyện Nhơn Trạch, Đồng Nai). Thành Tuy Hạ được Pháp xây dựng làm nơi bảo đảm hậu cần, kỹ thuật. Đến khi Mỹ thay chân Pháp, nơi đây được đầu tư sửa chữa, nâng cấp và mở rộng thành kho chứa vũ khí, đạn dược lớn chỉ sau Tổng kho Long Bình.

Tại đây, có 14 lớp hàng rào kẽm gai, chia làm 3 tuyến phòng thủ với hệ thống lô cốt, hầm hào. Lực lượng bảo vệ gồm 1 tiểu đoàn bộ binh, 1 tiểu đoàn công binh, 1 trung đội cảnh sát...

Cuối năm 1972, Mỹ tăng cường đánh phá miền Bắc, Đoàn 10 quyết định đánh kho bom Thành Tuy Hạ. Nhiệm vụ được giao cho Đội 32. Từ ngày 12/10 đến 21/10/1972, Đội 32 có 8 lần đột nhập vào Thành Tuy Hạ nhưng không thành.

Đêm ngày 11, rạng sáng ngày 12/11/1972, 4 chiến sĩ cùng 16 khối thuốc nổ lặng lẽ vượt hết 14 hàng rào kẽm gai, bãi mìn và trạm gác, đặt thuốc nổ rồi tuần tự rút lui. Đúng giờ hẹn, hàng loạt tiếng nổ vang dội. Chất nổ và bom napan tạo nên những đám cháy khổng lồ choán cả một vùng trời đen nghịt khói lửa suốt 2 ngày đêm. 23 kho bom đạn và 9 kho chứa bom napan (khoảng 200.000 quả) bị thiêu hủy.

Nhưng Đoàn 10 không bằng lòng với kết quả nên một tháng sau, các chiến sĩ quyết tâm đánh lại. Đêm ngày 13, rạng sáng ngày 14/12/1972, các chiến sĩ đếm được mỗi kho 8 dãy bom, đáy mỗi dãy có 66 trái, cao 6 trái. Đúng 1 giờ sáng, đặt mìn hẹn giờ xong, các chiến sĩ thoát ra khỏi Thành Tuy Hạ. Tính ra, mỗi người đặt hết 25 kíp theo quy định.

Gần 3 giờ ngày 14/12/1972, tổ đặc công ra đến Bàu Sen thì kho bom phát nổ. Tiếng nổ dây chuyền như sấm sét liên hồi của hàng ngàn quả bom làm rung chuyển mặt đất. Cả khu kho rộng lớn chìm trong biển lửa khổng lồ, nổ và cháy suốt cả 3 ngày 3 đêm liền.

c.Đến Khu di tích chiến khu Rừng Sác (Cần Giờ, TP Hồ Chí Minh), chúng tôi được Đại tá, Anh hùng LLVT nhân dân Lê Bá Ước, nguyên Trung đoàn trưởng, kiêm Chính ủy Đoàn 10 Đặc công rừng Sác kể về những chiến công lẫy lừng của bộ đội đặc công tại nơi từng được ví là "rừng thiêng nước độc" này. Thấy tôi lặng ngắm hai bức tượng chiến sĩ đặc công hiên ngang trong tư thế tiến công, Đại tá Lê Bá Ước giới thiệu: “Đó là cách điệu hai chiến sĩ Nguyễn Công Bao và Phạm Văn Tiềm đã anh dũng hy sinh trong trận đánh Kho xăng Nhà Bè năm 1973. Khi xây dựng Tượng đài Đặc công rừng Sác, tôi đã kiến nghị và cùng họa sĩ Sĩ Nguyên thiết kế mô hình dựa theo bức ảnh còn lại của hai chiến sĩ”.

                               Đặc công rừng Sác - chiến tích oai hùng

Các cựu chiến binh và du khách chụp ảnh lưu niệm bên tượng đài Đặc công rừng Sác.

Trong câu chuyện của Anh hùng LLVT nhân dân Lê Bá Ước, hình ảnh những người chiến sĩ “mình đồng, da sắt” bám trụ chiến đấu được tái hiện vẹn nguyên với những chiến công huyền thoại. Trận đánh Kho xăng Nhà Bè đầu tháng 12-1973 đã tiêu hủy khoảng 140 triệu lít xăng, 1 tàu dầu 12.000 tấn, 12 bồn khí đốt và nhiều công trình nhà kho, phương tiện tàu, thuyền của địch là một trong những chiến công vang động thế giới của Đặc công rừng Sác. Đám cháy kéo dài 12 ngày đêm, khiến 50% xăng, dầu của quân lực Việt Nam cộng hòa tan thành mây khói.

Đại tá Lê Bá Ước nhớ lại: Tham gia trận đánh đêm đó là 8 cán bộ, chiến sĩ đặc công Đội 5, do Đội phó Hà Quang Vóc trực tiếp chỉ huy. Sau 14 lần trinh sát điều nghiên nắm địch, đêm 30-11-1973 đội hình xuất phát, theo dòng thủy triều bập bềnh trên sông Lòng Tàu, khéo léo vượt qua các tàu tuần tiễu và quân cảng của địch tiến về Nhà Bè. 9 giờ 30 phút tối 2-12, các chiến sĩ đã leo lên sát mép hàng rào ngoài cùng kho xăng, bí mật cắt, gỡ hàng chục lớp hàng rào, qua mặt các toán lính canh rồi vượt tường cao 3,5m để tiếp cận kho xăng. 0 giờ 20 phút, theo nhiệm vụ được phân công, tất cả đã đặt thuốc nổ đúng mục tiêu rồi thoát ra ngoài hồi hộp chờ đợi. 0 giờ 35 phút, khoảng 50 tiếng nổ liên tiếp làm Kho xăng Nhà Bè bốc cháy dữ dội, khói lửa ngút trời. Bên ngoài, chiến sĩ Tiềm và Bao vượt sông trước để yểm trợ cho đồng đội phía sau. Ra đến giữa dòng thì các anh lọt vào vòng vây của tàu địch. Chúng quyết tâm bắt sống, nên rọi đèn sáng rực và bắn đạn kín xung quanh…

                8 chiến sĩ Đặc công Rừng Sác tuyên thệ trước trận đánh Tổng kho xăng dầu Nhà Bè
8 chiến sĩ Đặc công Rừng Sác tuyên thệ trước trận đánh Tổng kho xăng dầu Nhà Bè

Đại tá Lê Bá Ước ngừng lời. Trong ánh mắt của người chỉ huy Đặc công rừng Sác thoáng một chút buồn thương, khắc khoải. Gần 30 năm sau, ông và đồng đội mới tìm được hài cốt của hai liệt sĩ trong trận đánh "xuất quỷ nhập thần" năm đó. Người lính già dạn dày trận mạc kể tiếp: Vào một ngày tháng 7-1999, bà con ở khu vực hàng rào Kho xăng Nhà Bè báo tin tìm thấy hai bộ hài cốt. Vợ chồng tôi cùng đồng đội Đoàn 10 đến tận nơi xác định từng chiếc mũ vải dù hoa, ống thở, dây thắt lưng tự tay vợ tôi khâu hồi đó... Căn cứ xương quai hàm, xương ống chân, hàm răng và một số di vật khác, chúng tôi khẳng định đây là hài cốt của hai chiến sĩ Nguyễn Công Bao và Phạm Văn Tiềm. Mấy chục năm thất lạc, đồng đội mới “gặp” lại nhau…

 Với những chiến công vang dội, sự hy sinh to lớn ấy, năm 1973, Đoàn 10 đặc công Rừng Sác được tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân. Đội 5 hai lần được tuyên dương Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân (năm 1972 và năm 1975). 6 đồng chí được tuyên dương và truy tặng Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân. Đội 5, Đội 2 được tặng danh hiệu “Đơn vị Thành đồng quyết thắng”. Toàn đoàn có 38 Huân chương Quân công, 154 Huân chương Chiến công, 1.841 Bằng khen, 1.740 Giấy khen, 16 Chiến sĩ thi đua cấp Phân khu, 268 Chiến sĩ thi đua cấp cơ sở, 155 dũng sĩ các cấp.

Năm 1972, Đại tá Tống Viết Dương chỉ huy Trung đoàn Đặc công 113 được huấn luyện đặc biệt về chiến tranh phi quy ước. Ông đã phái một nhóm đặc công thực hiện cuộc tấn công nhằm vào kho đạn lớn nhất của kẻ thù, nằm tại Long Bình gần Biên Hòa

Căn cứ Long Bình rất lớn, bao trùm một diện tích chừng 5km2. Nhiều loại đạn dược được trữ ở đây, từ đạn súng nhỏ tới đạn pháo và cả vũ khí của máy bay. Tất cả số vũ khí đạn dược này sẽ được phân bổ tới các căn cứ quân sự khắp miền Nam.

Ý thức được rằng một kho vũ khí quan trọng như thế rất dễ trở thành mục tiêu tấn công, quân Mỹ và VNCH đã tìm cách làm cho Long Bình trở nên bất khả xâm phạm.

                     Thông thường có 2000 lính Mỹ và VNCH bảo vệ căn cứ Long Bình  

                     Thông thường có 2000 lính Mỹ và VNCH bảo vệ căn cứ Long Bình

                    Long Bình là “cái dạ dày” của bộ máy chiến tranh Mỹ - VNCH  

                      Long Bình là “cái dạ dày” của bộ máy chiến tranh Mỹ - VNCH

Đại tá Đỗ Văn Ninh kể cho chúng tôi nghe những ký ức chiến tranh. Đó là những năm tháng chiến tranh khốc liệt, từ trận chiến Tết Mậu Thân 1968, đến Chiến dịch Tây Nguyên, Chiến dịch Huế-Đà Nẵng, Chiến dịch Hồ Chí Minh… Nhưng ấn tượng nhất trong cuộc đời binh nghiệp với ông chính là trận gài bom phá nổ Tổng kho Long Bình (Đồng Nai) năm 1972.

Đại tá Đỗ Văn Ninh kể lại: “Tổng kho Long Bình nằm trên hướng Đông Bắc Sài Gòn, gồm một dãy 16 quả đồi, nối tiếp nhau theo hình cánh cung, bao quanh thị xã Biên Hòa, có diện tích 24 km2. Phía Tây Nam có sông Đồng Nai, phía Đông Bắc có sông Buông. Sau khi nhận lệnh đột nhập Tổng kho Long Bình, Trung đoàn Đặc Công 113 tổ chức 3 mũi trinh sát (mỗi mũi có 4 đến 5 người) nghiên cứu sơ đồ, địa hình, căn cứ, lực lượng của địch. Sau 3 ngày, các trinh sát nắm bắt được, tại đây Mỹ hình thành 4 khu: Khu A chứa hàng quân tiếp vụ; khu B chứa thiết bị quân sự và thiết bị thông tin liên lạc; khu C đặt Sở Chỉ huy tiểu khu Long Bình; khu D gồm 2 khu kho 50 và 53 chứa đạn. Do tính chất chiến lược đặc biệt quan trọng, tổng kho được bảo vệ nghiêm ngặt. Những tổ trinh sát của chúng tôi gặp rất nhiều khó khăn khi tiếp cận vào bên trong bởi nhiều hàng rào phức tạp, từ ngoài vào trong, nhất là hàng rào thứ 9. Đây là hàng rào làm bằng loại thép to, chắc và cứng (không thể dùng kéo cắt) được hàn lại với nhau, khác xa so với các loại rào chắn thông thường. Hàng rào này có tên là “mắt cáo”. Các múi hàn tạo ra một góc khoảng 45o, hai thanh thép chắc tạo ra góc ấy cũng chính là điểm tựa để chúng tôi dùng phương pháp đòn bẩy bật múi hàn ra. Khi người chui qua, “mắt cáo” được khép lại như cũ, địch khó phát hiện”.

                     Vụ tấn công khiến quân Mỹ hoang mang 

                                             Vụ tấn công khiến quân Mỹ hoang mang

Ban ngày các trinh sát nằm trú ẩn trong các căn cứ địch và khi màn đêm buông xuống, họ lại tiếp tục nghiên cứu chi tiết từng kho và cách canh gác, tuần tiễu của địch. Càng vào sâu, tình huống đặt ra càng khó khăn, phức tạp. Điểm cuối cùng là kho tập kết vũ khí, nhưng tất cả các cửa kho, địch khóa bằng một loại khóa đặc biệt. Để giải quyết vấn đề này, Tham mưu phó Đỗ Văn Ninh chỉ huy một mũi trinh sát vào nghiên cứu, tìm cách mở khóa để chiến sỹ ta đưa vũ khí lọt vào trong kho gài đặt đúng vị trí hiểm yếu nhất.

Trên cơ sở nắm chắc tình hình địch, Trung đoàn đặc công 113, do các đồng chí Nguyễn Thanh Tùng, Trung đoàn trưởng và Đỗ Văn Ninh, Tham mưu phó Trung đoàn 113 trực tiếp chỉ đạo xây dựng phương án tác chiến nhằm mục tiêu phá hủy bí mật theo 4 bước: Bước 1 cắt rào; bước 2 mở khóa; bước 3 đặt bom nổ chậm; bước 4 rời nhanh khỏi trận địa. Lực lượng tham gia gồm 57 cán bộ, chiến sỹ, chia làm 2 bộ phận trực tiếp đánh nội tuyến và bảo vệ hành lang. Vũ khí trang bị gồm 220 quả bộc phá gắn ngòi nổ hẹn giờ, dụng cụ cưa khóa, mở cửa kho…

Đại tá Đỗ Văn Ninh nhớ lại: “Đêm 12-8-1972, các cán bộ, chiến sỹ tham gia trận đánh do tôi chỉ huy vào khu vực Tổng kho Long Bình. Rất may, đêm đó địch cho mở cửa xả hơi thông gió các dãy kho. Các chiến sỹ của ta nhanh chóng áp sát mục tiêu cài đặt mìn các kho. Đúng 4 giờ sáng ngày 13-8, bộc phá phát nổ. Ở giữa căn cứ Long Bình, những tia chớp xanh lè vọt lên trên nền trời cao rộng, những đám lửa đỏ ngầu, cuồn cuộn bốc lên sáng rực một vùng trời. Cả thị xã Biên Hòa rung lên như động đất. Trong tiếng nổ đanh, giòn của đủ loại bom đạn, quân địch nháo nhác, hoảng loạn và bất lực, chỉ biết nhìn kho dự trữ chiến lược chìm trong biển lửa”• Ngay tối hôm ấy (14-8-1972 ) đài BBC đưa tin: “Phân khu 53 tổng kho Long Bình bị quân cảm tử đặc công Việt cộng luồn sâu đặt mìn, phá huỷ trên 6.000 tấn bom đạn. Trên thực tế vượt rất xa khối lượng mà đối phương thừa nhận.

. Kết quả, quân ta phá huỷ 200 kho, 17 dãy nhà, thiêu huỷ 15.000 tấn bom đạn, xăng dầu, 200 tấn chất nổ, diệt và làm bị thương 300 quân địch. Toàn bộ cán bộ, chiến sỹ ta rút về an toàn trong niềm vui khôn xiết của nhân dân vùng hậu cứ đón những người con chiến thắng trở về.

                      Kho đạn tại Long Bình bốc cháy với cột khói cao hàng trăm mét  

                         Kho đạn tại Long Bình bốc cháy với cột khói cao hàng trăm mét

Chỉ có một đội viên tên Trần Xuân Thưởng, quê Thanh Hoá đi lạc đội hình nên bị địch bắt. Nhưng anh không hề khai báo gì, sau đó chúng đày ra đảo Phú Quốc, đầu năm 1973 được trao trả tại Lộc Ninh.

Sau trận đánh lừng lẫy vào Tổng kho Long Bình, đồng chí Đỗ Văn Ninh cùng với Trung đoàn Đặc Công 113 tham gia nhiều chiến dịch, đến ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Năm 1978, có 4 cá nhân được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh Hùng lực lượng vũ trang nhân dân thuộc Đoàn Đặc Công 113, tham gia trinh sát điều nghiên ,trực tiếp chỉ huy trận đánh Tổng kho Long Bình năm 1972 , là : Nguyễn Thanh Tùng , Đỗ Văn Ninh,, Ngô Văn Sơn , Hồ Văn Sinh.

Tháng 2-1967, Tổng thống Giôn-xơn chuẩn y đề nghị của Hội đồng tham mưu trưởng liên quân Mỹ, cho phép mở rộng phạm vi đánh phá trong khu vực Hà Nội, Hải Phòng, tiến hành rải mìn trên các luồng sông, cửa biển; dùng không quân khống chế gắt gao khu vực ven biển từ Vĩ tuyến 17 đến Vĩ tuyến 20…

                            

            Sân bay Utapao, Thái Lan, 1966; nơi xuất phát những chuyến B52 đến Việt Nam

Để thực hiện kế hoạch này, Mỹ đã củng cố và tiến hành xây dựng những căn cứ không quân tại Thái Lan như sân bay Utapao, Ubon, Udon. Do vị trí rất gần Việt Nam, từ những sân bay này, những chiếc máy bay  B-52 của Mỹ sẽ cất cánh đi đánh phá miền Bắc Việt Nam mà không cần tiếp nhiên liệu trên không, cường độ xuất kích cao hơn, khả năng tiếp vận cũng sẽ nhanh và nhiều hơn… 

Với chủ trương: địch xuất phát từ đâu, ta sẽ đánh trả ngay tại nơi sào huyệt của chúng, và trên cơ sở phân tích tin tình báo chiến lược, phán đoán  ý đồ của Mỹ, Bộ Tư lệnh Binh chủng Đặc công đã giao nhiệm vụ cho Thượng tá Nguyễn Đức Trúng, Tham mưu trưởng Binh chủng, nghiên cứu và chuẩn bị phương án đánh thẳng vào những căn cứ máy bay B-52 của Mỹ tại Thái Lan, khi chúng tăng cường ném bom Thủ đô Hà Nội. 

Utapao là một sân bay quân sự của Thái Lan được xây dựng từ năm 1952, cách thủ đô Bangkok khoảng 190 km. Năm 1968, quân đội Mỹ đầu tư thành một căn cứ không quân chiến lược để sử dụng trong chiến lược quân sự của Mỹ ở khu vực Đông Nam Á. Người Mỹ cho rằng đây là căn cứ quân sự bất khả xâm phạm và thường xuyên để  trong căn cứ khoảng 20 chiếc máy bay B-52, mỗi đêm, Mỹ sử dụng từ 3 đến 5 chiếc B-52 đi rải bom ở Việt Nam.

                           

                                         Máy bay B-52 của Mỹ bị phá hủy trong sân bay Utapao.

Bộ Tư lệnh Binh chủng Đặc công xác định không thể đánh sân bay Utapao bằng lực lượng lớn từ xa, mà phải dùng một lực lượng nhỏ những người lính đặc công đang hoạt động trên đất Thái Lan thì mới có điều kiện tiếp cận, điều tra nghiên cứu và tấn công mục tiêu.

Tháng 5-1971, đồng chí Lê Toàn - Chính trị viên Tiểu đoàn Đặc công biệt động 1A đã cùng một tổ công tác vượt biên giới sang Campuchia rồi từ đó lên sát biên giới Thái Lan, trực tiếp bắt liên lạc và thành lập một tổ đặc công gồm các anh Trần Thế Lại, Bùi Văn Phương, Vũ Công Đài lúc đó đang hoạt động trên đất Thái Lan. Đồng chí Lê Toàn giao nhiệm vụ đánh sân bay Utapao cho tổ đặc công này.

Nhận nhiệm vụ tổ chức trận đánh, đồng chí Trần Thế Lại đã liên lạc và giao nhiệm vụ cho đồng chí Bùi Văn Phương chuẩn bị vị trí cất giấu vũ khí, giả trang là dân thường đến khu vực sân bay Utapao để điều tra, nghiên cứu mục tiêu, nắm tình hình sơ bộ và kiểm tra nơi cất giấu vũ khí.

Cũng trong tháng 10-1971, đồng chí Vũ Công Đài và Bùi Văn Phương (là hai người sẽ trực tiếp thực hiện trận đánh) đã gặp nhau bàn bạc thống nhất kế hoạch, nội dung và phương pháp trinh sát sân bay Utapao từ ngày 5 đến 9-11-1971 nhằm nắm được rõ quy luật hoạt động của địch. Các anh đã dự kiến một phương án tấn công sân bay là phá hủy bí mật bằng thủ pháo nổ chậm, nếu bị lộ thì chuyển sang đánh nổ ngay. Vũ khí sẽ sử dụng là 10 quả thủ pháo loại 0,4kg bằng chất nổ mạnh C4 và 2 quả lựu đạn…

                                  
                                    B52 ném bom giải thảm trên chiến trường Việt Nam. Ảnh: TL

Trưa ngày 9-1-1972, hai đồng chí Phương và Đài đi xe đến gần khu vực sân bay, 19 giờ cùng ngày, các anh đã lấy xong số vũ khí được cất giấu. Sau khi quan sát nắm tình hình địch, cả hai tiến về phía mục tiêu, tiến hành khắc phục vật cản. Hàng rào bao quanh sân bay là loại dây thép gai 0,3cm, dựng cao đến 2m, những người lính đặc công với chiếc kìm cắt loại nhỏ, không thể cắt nổi, phải luồn lách chui qua.

Quá trình tiềm nhập vào mục tiêu, các chiến sĩ đặc công đã 3 lần gặp địch. Hai lần khéo léo ngụy trang qua khỏi tầm mắt của chúng, đến lần thứ ba trong một tình thế đặc biệt buộc tổ chiến đấu phải nổ súng tiêu diệt nhóm tuần tra gồm 2 lính Mỹ và một chó béc giê. Khi vào cách nơi máy bay B-52 đỗ khoảng 300m, bất ngờ gặp 3 xe ôtô và 2 lính Mỹ, hai anh phải vòng tránh theo hướng khác.

Khi khoảng cách còn 50m, một tổ tuần tra khác của địch phát hiện nổ súng bắn chặn, trong tích tắc, đồng chí Phương tung lựu đạn về phía địch. Lợi dụng thời cơ địch dạt ra tránh, 2 người lính đặc công lao nhanh đến mục tiêu, dùng thủ pháo đánh vào từng chiếc máy bay. Số thủ pháo vừa hết, đồng chí Phương ra lệnh rút lui. Đồng chí Đài rút về hướng cửa mở, đồng chí Phương chạy tắt qua khu bom, vượt rào ra ngoài. Khi Bùi Văn Phương vừa thoát ra ngoài khu vực sân bay thì tiếng súng bỗng rộ lên từ phía cửa mở, người lính đặc công Vũ Công Đài đã anh dũng hy sinh. Sau đó là những tiếng nổ lớn và những đám cháy bùng lên phía trong khu vực sân bay, 8 chiếc máy bay B- 52 của Mỹ đã bị phá hủy. 

Ngay ngày hôm sau, các hãng thông tấn phương Tây đã đưa tin, bình luận. Mỹ thật sự hoảng hốt, và không hiểu Utapao đã bị đánh bằng cách nào. Chúng không ngờ đặc công Việt Nam đã vào được tận sào huyệt và chỉ với 2 người mà phối hợp ăn ý phá hủy được 8 máy bay B-52. 

Tháng 7-1972, Đoàn A54 cử 23 cán bộ, chiến sĩ biên chế thành một tổ soi đường và một tổ bảo đảm hậu cần, vượt Trường Sơn hành quân đến khu rừng nguyên sinh Đôn Ka Thom nằm ở ngã ba biên giới 3 nước Thái Lan - Lào - Campuchia, lập một trạm chỉ huy nghiên cứu tình hình, mở hành lang vào khu vực sân bay Udon.

Cuối tháng 7, tổ soi đường bí mật vượt sông, luồn rừng nhằm hướng sân bay để đi. Đi được 15 ngày, hết lương thực, các anh đành phải quay về căn cứ. Ngay sau đó một sáng kiến được đưa ra, đó là dùng kỹ thuật ém lương thực theo kiểu "sâu đo" dọc tuyến đường hành lang vào đến sân bay Udon. Ba chiến sĩ của đội, mỗi người mang hơn 30kg lương thực, đến vị trí A để lại 10kg, chôn kỹ và đánh dấu rồi quay về. Cứ thế từng chuyến lương thực được chuyển đến vị trí B, C, D... trên suốt chặng đường dài.

Đầu tháng 8-1972, tổ soi đường đã liên lạc được với một cơ sở lực lượng cách mạng của ta trên đất Thái Lan. Hàng ngày, các anh thường đóng giả người dân Thái Lan nhằm thực hiện nhiệm vụ trinh sát khu vực sân bay.

                                   
                             Những chiếc B52 của Mỹ đang chờ đi ném bom miền Bắc Việt Nam.

Tuy hành lang vừa mới được hình thành, nhưng với ý chí quyết tâm phá hủy máy bay B-52 tại sân bay Udon nên Đoàn A54 thực hiện kế hoạch: vừa trinh sát mục tiêu, vừa đưa đội hình chiến đấu đi theo, trinh sát tới đâu, hoàn chỉnh phương án chiến đấu đến đó, nếu thời cơ cho phép sẽ tiến hành đánh ngay. Cuối tháng 8-1972, một đội hình chiến đấu gồm 10 người được thành lập do đồng chí Đào Đức Hạnh - Đoàn trưởng Đoàn A54 chỉ huy, vượt biên giới, luồn rừng tới cơ sở cách mạng của ta ở Thái Lan (Căn cứ 07). Trong tháng 9-1972, đội thực hiện nhiệm vụ trinh sát tạo hành lang từ Căn cứ 07 đến sân bay Udon, nhằm xác định vị trí tập kết, xác định đường, hướng đột nhập vào sân bay.

Đêm ngày 1-10, đội hình chiến đấu bắt đầu cơ động vào sát khu  vực sân bay Udon. Lúc này trời mưa to, gió lớn, phải đến gần sáng ngày mùng 2, đội mới tới được gần sân bay. Trời sắp sáng, sợ lộ bí mật, mọi người phải phân tán ẩn nấp chờ đến khi trời tối để vào trinh sát mục tiêu. Phương án đánh B52 lần này là dùng mìn nổ chậm, nếu bị lộ thì chuyển sang đánh nổ ngay. 8 đồng chí trong đội hình chiến đấu chia làm 3 tổ, trong đó 2 người có nhiệm vụ mở cửa và bảo vệ cửa mở; 4 người đánh phá máy bay, 2 người đánh phá kho xăng.

Tối ngày 2-10-1972, hai tổ chiến đấu tiềm nhập vào sân bay, tổ mở cửa triển khai bảo vệ đầu cầu. Theo hiệp đồng chiến đấu, sau khi cài đặt lượng nổ, mìn hẹn giờ vào mục tiêu, cả 2 tổ phải rút ngay để kịp rời sân bay trước khi trời sáng. Nhưng đã quá giờ hiệp đồng, trời sắp sáng mà tổ mở cửa vẫn không thấy 2 tổ chiến đấu quay trở lại. Tại vị trí tập kết, chỉ huy trận đánh nóng lòng nghe tiếng nổ vọng ra từ khu vực sân bay nhưng không gian bốn bề vẫn tĩnh lặng. Cho tới 10 giờ sáng ngày mùng 3-10-1972, khi nghe những tiếng nổ liên hồi từ phía sân bay, tổ đánh kho xăng và tổ mở cửa mới gặp được nhau, 4 người còn lại của tổ đánh B-52 vẫn chưa thể thoát ra được.

Tất cả những thông tin Udon bị đặc công Việt Nam đánh bom, phía Mỹ đã ém nhẹm, không một phương tiện truyền thông nào đưa tin. Sau một thời gian dài, ta mới biết tin 3 người lính đặc công là Phan Xuân Kính, Phạm Văn Lãm, Vũ Công Xướng đã hy sinh ngay tại sân bay, đồng chí Nguyễn Khắc Nga bị thương nặng và bị địch bắt. 23  máy bay B-52 của Mỹ, 1 trạm điện, 1 kho xăng đã bị phá hủy trong trận đánh này.

                                  
                      B.52 (trên) và máy bay tiếp dầu KC-135 tại căn cứ Ut apao Thái Lan. Ảnh TL

Trước năm 1972, sân bay Ubon đã 6 lần bị đặc công Việt Nam gài mìn phá hủy nên địch tăng cường bảo vệ an ninh. Trong thời gian này, để đột nhập vào sân bay như những trận đánh trước đây, đối với lực lượng đặc công của ta là rất khó khăn. Nhưng với quyết tâm phá hủy phương tiện chiến tranh của địch, lực lượng đặc công của ta không chịu bó tay trước những thủ đoạn đối phó mới của địch. Cách đánh tập kích hỏa lực được chỉ huy Tiểu đoàn Đặc công biệt động 1A đưa ra nghiên cứu để vận dụng.

Khó khăn nhất đặt ra trong thời gian này với lực lượng của ta là thiếu vũ khí, ta chỉ có một số súng bộ binh, mìn, thủ pháo… mà không có bất kỳ loại vũ khí nào thích hợp với một trận đánh tập kích hỏa lực. Đồng chí Lê Toàn, Chính trị viên Tiểu đoàn đã cùng đồng chí Nguyễn Bá Do bí mật sang Campuchia gặp Bộ Tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam đề nghị chi viện vũ khí. Đồng chí Đồng Văn Cống, Tư lệnh mặt trận, một người rất tâm huyết với bộ đội đặc công cùng cách đánh tinh nhuệ trên khắp các chiến trường đã quyết định cấp ngay vũ khí theo đề nghị của Tiểu đoàn. Và thế là "tài sản" của Tiểu đoàn 1A đã có thêm 2 súng cối 82mm, 2 cơ số đạn, 200 thủ pháo tay cùng một số vật chất chiến đấu.

Ngày 2-10-1972, một đội hình chiến đấu gồm 27 người của Tiểu đoàn Đặc công biệt động 1A được thành lập. Đội được tổ chức thành 2 bộ phận, trong đó bộ phận trực tiếp chiến đấu gồm 13 người trang bị 1 súng cối 82mm, 40 quả đạn, do đồng chí Nguyễn Công Mùi chỉ huy.

Lúc này đang là mùa mưa, hành quân mang vác nặng qua mọi địa hình phức tạp đã là vất vả, do yếu tố bí mật, đội lại phải luồn lách qua các tuyến bố trí của địch. Nhiều đoạn đường ngập sâu trong nước, anh em chỉ lo sao cho đạn dược không bị ẩm ướt, bảo quản được vũ khí, không ai còn tâm trí lo đến miếng ăn là gạo rang đã thiu mốc, quần áo ẩm ướt cả ngày không được thay, nước uống cặn đục, nằm bờ ngủ bụi… Gần đến khu vực sân bay thì đồng chí Hồi, khẩu đội trưởng bị sốt cao, không thể tiếp tục đi. Để lại 2 chiến sĩ ở lại trông nom, đội hình chiến đấu vẫn quyết tâm lên đường, mặc dù thiếu vị trí khẩu đội trưởng.

Cơ động đến vị trí sân bay, bí mật triển khai trận địa, đội hình chiến đấu nổ súng theo đúng kế hoạch đã định. 40 quả đạn mang theo, 5 quả không nổ do ảnh hưởng thời tiết mưa gió ẩm ướt, 35 quả đạn còn lại đã nổ trúng mục tiêu phá hủy đài chỉ huy sân bay, xưởng sửa chữa và một số thiết bị sân bay.

Hoàn thành trận đánh bí mật, nhanh gọn, bất ngờ, đội hình chiến đấu nhanh chóng rời trận địa, chôn súng tại một địa điểm bí mật trên đường lui quân. Nhưng khi về tới gần biên giới, đội đã bị lọt vào ổ phục kích của địch, 6 người lính đặc công đã anh dũng hy sinh.

Hàng chục máy bay B-52 vừa bị phá hủy tại sân bay Utapao, Udon, tiếp đến sân bay Ubon lại bị đánh phá chỉ trong thời gian vài tháng đã khiến cho người Mỹ hoang mang về cách đánh đặc công của ta. Những trận đánh này đã diễn ra đúng thời điểm, đúng ý định của Bộ Tư lệnh Binh chủng Đặc công là đánh trúng các mục tiêu quan trọng có ý nghĩa chiến lược. Và phương pháp đánh địch ngay tại sào huyệt của địch của quân đội Việt Nam thêm một lần nữa được thực hiện và hoàn thành bởi lực lượng đặc công tinh nhuệ, anh dũng.

2 - Đặc nhiệm hải quân:

Lực lượng Đặc nhiệm hải quân (còn gọi là đặc công hải quân, đặc công nước, đặc công thủy) là lực lượng đặc biệt tinh nhuệ của Quân chủng Hải quân, Quân đội nhân dân Việt Nam, được huấn luyện để tiến công các mục tiêu thủy của đối phương như: Bến cảng, tàu thủy, v.v. và các mục tiêu chỉ có thể xâm nhập qua đường thủy: Căn cứ biệt lập, căn cứ thủy quân, v.v. So với đặc công bộ thì đặc nhiệm hải quân càng đặc biệt, vì chiến đấu dưới nước khó khăn hơn nhiều so với trên bộ, trang bị và vũ khí cũng khác biệt hơn. Đây là lực lượng đặc nhiệm tinh nhuệ bậc nhất của Hải quân Nhân dân Việt Nam. 

Trong cuộc Chiến tranh Đông Dương, các hoạt động trên sông nước của quân Pháp chiếm một phần quan trọng trên chiến trường. Lợi dụng lãnh thổ Việt Nam có bờ biển dài, nhiều sông ngòi, có vùng sông ngòi chằng chịt như miền Tây Nam Bộ, quân Pháp đã bố trí một lực lượng hải quân khá mạnh. Hải quân Pháp tập trung vào 3 hoạt động chủ yếu:

  • Dùng tàu thuyền chiến đấu hỗ trợ cho bộ binh đi càn quét
  • Đánh phá căn cứ, ngăn chặn tiếp tế, vận chuyển của Việt Minh
  • Dùng đường thủy để tiếp hậu cần cho quân Pháp trên đất liền

Để chống lại các hoạt động của Hải quân Pháp, các lực lượng vũ trang của Việt Minh đã cho xây dựng các đội săn tàu Pháp, gồm cả những biệt đội đặc nhiệm hải quân, ở các vùng ven sông, ven biển, sẵn sàng đánh Pháp trên mặt trận sông nước. 

Trong chiến dịch Hà-Nam-Ninh (tháng 6 năm 1951), tổ đặc nhiệm do Nguyễn Quang Vinh (thuộc Trung đoàn 36, Đại đoàn 308) chỉ huy dùng thuyền nan chở 300 kg thuốc nổ đánh chìm tàu LCD chở vũ khí của quân Pháp. Đây là trận mở đầu cho cách đánh tàu chiến trên chiến trường Bắc Bộ, tạo tiền đề cho việc nghiện cứu sử dụng đặc nhiệm đánh các mục tiêu tên sông, biển. Ở miền Nam, đầu năm 1949, đội săn tàu Long Châu Sa dùng thủy lôi tự tạo đánh chìm tàu Glycin trên sông Sài Thượng, diệt hàng trăm quân đối phương.

Ở vùng Rừng Sác, vào tháng 9 năm 1950, các đội đặc nhiệm được hình thành từ Trung đoàn 300, hoạt động ở vùng Nhà Bè, Thủ Thiêm xuống Cần Giờ, Soài Rạp. Lực lượng này chiến đấu rất dũng cảm, táo bạo, được gọi là "quân cảm tử", diệt nhiều chỉ huy Pháp và tay sai. Như vậy trong giai đoạn đầu kháng chiến, cùng với cách đánh của đặc công bộ, cách đánh của Đặc nhiệm hải quân cũng bắt đầu phát triển. Dựa trên những tiến bộ của quá trình nghiên cứu cải tiến vũ khí, các địa phương ở Bắc Bộ và Nam Bộ đã tổ chức được một lực lượng chuyên, tinh để đánh tàu, thuyền bằng cách đánh đặc nhiệm. 

Ngày 13-4-1966, Bộ Quốc phòng ra quyết định thành lập Đoàn Huấn luyện trinh sát đặc công (nay là Lữ đoàn Đặc công Hải quân 126).

Cựu chiến binh Trương Văn Cung (quê xã Hiền Ninh, H.Quảng Ninh, Quảng Bình, thuộc phân đội kỹ thuật, Lữ đoàn 126) kể lại, ngày đó để tuyển một chiến sĩ đặc công hải quân đã khó, để tuyển một “người nhái” còn khó gấp bội phần, thậm chí ngang ngữa tiêu chí tuyển phi công. “Có nhiều yêu cầu đối với một đặc công hải quân. Tôi nhớ không nhầm thì gồm: bơi từ 10 đến 20 km; lặn sâu 9 m; lặn máy 12 m; ngậm ống thở đi ít nhất 1 km... Khắt khe nên nhiều người là dân miền biển vẫn trượt”, ông Cung kể.
Còn cựu chiến binh Lê Văn Nam (77 tuổi, quê xã Cảnh Dương, H.Quảng Trạch, Quảng Bình, thuộc phân đội 3, đội 2, Lữ đoàn 126) nhớ lại: “Sau khi trúng tuyển, chúng tôi được đưa ra Hải Phòng huấn luận và phải vượt qua rất nhiều thử thách để trụ lại. Chỉ riêng việc lặn sâu đã rất khổ khi chịu sức ép nước khủng khiếp. Có người không chịu nổi, chảy cả máu tai, trào cả máu mắt”.
Trung tá, Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân Lê Xuân Sênh, nguyên chiến đấu viên Lữ đoàn 126 chia sẻ rằng bản thân ông ban đầu là chiến sĩ công binh, khi được tuyển qua đặc công “nước” cũng đã phải trải qua quá trình huấn luyện gian nan.
“Đối với người nhái, việc bắt mục tiêu rất quan trọng. Chỉ cần vẫy cái chân hơi mạnh, tay cầm la bàn hơi lệch là trật mục tiêu ngay. Chính vì thế ngày đó chúng tôi đã phải rèn luyện ngày đêm, kỹ chiến thuật nhuần nhuyễn.
Chiến sĩ Lữ đoàn 126 thực hành vận chuyển thủy lôi năm 1968. Ảnh tư liệu của Quân chủng Hải quân. 
Chiến sĩ Lữ đoàn 126 thực hành vận chuyển thủy lôi năm 1968 - Ảnh tư liệu của Quân chủng Hải quân
 

Ngay sau khi thành lập, Lữ đoàn 126 vừa trực tiếp chiến đấu với Hải quân Mỹ-ngụy trên sông biển miền Nam vừa huấn luyện bộ đội đặc công nước cho Quân đội ta. Trong 7 năm chiến đấu ở chiến trường Cửa Việt-Đông Hà (1966-1973), Lữ đoàn chiến đấu trên 300 trận; đánh chìm, đánh hỏng gần 400 tàu thuyền, tiêu diệt hàng nghìn tên địch. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đơn vị là lực lượng trực tiếp giải phóng quần đảo Trường Sa, góp phần giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước; làm nhiệm vụ quốc tế giúp nhân dân Cam-pu-chia thoát khỏi họa diệt chủng Pôn Pốt - Iêng Xa-ri năm 1979...

Cựu chiến binh Lê Văn Nam bảo thế hệ của ông là thế hệ “Ăn cơm bắc, đánh giặc nam”. Bởi, ngày đó, vào những đêm không trăng, những toán đặc công hải quân (từ 12 đến 25 người) của Lữ đoàn 126 từ đặc khu Vĩnh Linh vượt sông Bến Hải để vào vùng địch.
“Chúng tôi chỉ mặc quần đùi và đi bộ, trực chỉ cảng Cửa Việt, sông Hiếu mà đi. Mỗi người phải mang trên vai 10 đến 15 kg thuốc nổ...Thời gian mỗi trận đều rất gấp gáp vì cả đi cả đánh chỉ được diễn ra trong 1 đêm”, ông Nam nhớ lại.
         Những cựu chiến binh lữ đoàn 126 chụp ảnh lưu niệm tại bia chiến thắng Cửa Việt. 
Những cựu chiến binh lữ đoàn 126 chụp ảnh lưu niệm tại bia chiến thắng Cửa Việt - Ảnh: Nguyễn Phúc

Cũng theo ông Nam vào thời điểm này, có 2 cách đánh phổ biến mà các đặc công hải quân áp dụng đó là thả thủy lôi và đánh áp mạn (gài mìn vào mạn tàu). Mục tiêu mà các ông hướng đến là các tàu sắt của Mỹ ngụy neo dọc sông Hiếu ra tới Cửa Việt, đặc biệt là các tàu hàng - “dạ dày” của địch.
       “Bộ đồ nghề” của các người nhái đặc công hải quân năm xưa. 
“Bộ đồ nghề” của các người nhái đặc công hải quân năm xưa - Ảnh: Nguyễn Phúc

Cùng với sự sáng tạo trong thực tế chiến trường, từ 1966 đến 1973, tại chiến trường Cửa Việt - Đông Hà, những chiến sĩ đặc công Hải quân của Lữ đoàn 126 đã chiến đấu 300 trận, đánh chìm 339 tàu, phá hủy hàng vạn vũ khí, phương tiện chiến tranh của địch. Trong đó có những tàu có trọng tải tới 15.000 tấn và có những trận ly kỳ được ví là “trận Bạch Đằng trên sông Hiếu”.
“Chúng tôi hoạt động rất bí mật nên quân địch vào thời điểm đó không biết phiên hiệu của lữ đoàn. Chúng chỉ gọi nôm na chúng tôi là “Đội quân đội mũ đồng, đi chân đất, ăn thịt hộp, vũ khí 3 thân...”, ông Nam nói.
Thiếu tá cựu chiến binh Trần Quang Khải, nguyên là đặc công nước thuộc Lữ đoàn Hải quân 126 của Hải quân nhân dân Việt Nam. Những cuộc phỏng vấn, ghi hình của các phóng viên với Thiếu tá kéo dài hàng giờ liền. Chứng kiến những cuộc gặp gỡ ấy, bà con vui mừng phỏng đoán sẽ có dịp được xem hình ảnh của Thiếu tá Trần Quang Khải, người cựu binh yêu quý của quê hương mình trên màn ảnh của Truyền hình Trung ương.
 Cũng chính từ đấy anh liên tục được các nhà trường, các địa phương mời đến báo cáo về chiến công lừng lẫy của Hải quân nhân dân Việt Nam trong trận đánh chìm tàu dầu 15.000 tấn của địch ở ngoài cửa sông Cửa Việt.
 
                       
                               Anh hùng LLVTND Trần Quang Khải và vợ - CCB Trần Thị Nhọng. 

Biết anh là người khiêm tốn không muốn nói nhiều về mình nên tôi đã đề nghị anh kể về chiến công đánh chìm tàu dầu 15.000 tấn của địch ở ngoài khơi của sông Cửa Việt đêm 8 tháng 9 năm 1969 của đơn vị. Anh đưa cho tôi tập tài liệu vừa nói: Đây là thành tích của đơn vị tôi trong trận đánh đó, anh xem thì sẽ rõ:

Do bị đặc công nước của ta đánh hỏng, đánh chìm nhiều tàu trên khúc sông Cửa Việt, Đông Hà, nên địch quy định các tàu có trọng tải lớn phải neo đậu ngoài biển, dùng xà lan và tàu nhỏ ra lấy hàng.
Ngày 5-9-1969, một tàu dầu 15.000 tấn của địch đậu cách bờ biển 3km về hướng Đông Nam.
Được lệnh của trên, chỉ huy đoàn đã giao nhiệm vụ cho đội 1. Đội 1 đã chọn phân đội 2 làm lực lượng chiến đấu. Phân đội 2 cử 7 đồng chí chia làm 2 tổ tham gia trận đánh này. Tổ trực tiếp đánh địch có 3 người đó là các đồng chí Bùi Văn Hy, Trần Quang Khải và Trần Văn Hổ do đồng chí Bùi Văn Hy làm tổ trưởng.
Tổ gùi vũ khí và bảo vệ có 4 người, đó là các đồng chí Hồng, Xuân, Sơn, Thỉnh do đồng chí Hồng làm tổ trưởng.
18 giờ 30 phút cả hai tổ vượt đò cửa Tùng sang bờ Nam 22 giờ đội hình phân đội 2 đến bờ Bắc Cửa Việt tổ gùi hàng giao vũ khí cho tổ đánh rồi lui về vị trí hẹn đón.

23 giờ tổ đánh tàu đeo phao kéo vũ khí xuống nước để vượt sông Cửa Việt sang bờ Nam. Mưa to, nước sông chảy mạnh, sóng lớn, đèn pha chiếu rất sáng. Tổ đánh tàu ra đến giữa sông thì dụng chiếc tàu cuốc đang đi từ biển vào, ba người đành bơi lại bờ Bắc, chờ tàu cuốc địch chạy qua tổ đánh tàu lại vượt sông.
3 giờ sáng ngày 7-9 tổ đánh tàu bám được bờ Nam sông Cửa Việt, 5 giờ sáng cả tổ đã giấu mình trong một cồn cát thuộc làng Vĩnh Hòa Phương bờ Nam Cửa Việt.
8 giờ sáng cùng ngày, một trung đội lính ngụy tuần tra qua làng Vĩnh Hòa Phương, chúng nghi ngờ nơi cồn cát có dấu hiệu lạ nên dừng lại lùng sục. Song chúng đã không phát hiện được các anh.
12 giờ chúng ăn trưa ở cồn cát, 14 giờ chúng rút lui.
18 giờ ngày 7-9-1969, tổ đánh tàu đội cát lên đường ra mép nước. 18 giờ 30 xuống nước bơi ra biển. Vừa bơi được 300m thì một cơn giông nổi lên sóng gió rất mạnh, dòng chảy nơi cửa sông rất xiết nên cả tổ phải quay trở lại bờ giấu vũ khí, giấu người.
 6 giờ sáng ngày 8-9, một số bà con ra cồn cát lượm củi, anh em đành nói rõ mình là quân giải phóng. Nhân dân tin, giữ bí mật và còn tiếp tế cơm nước cho anh em ăn.
Tuy vậy để đề phòng bất trắc, sai đó tổ đã chuyển ra cánh đồng
17 giờ ngày 8-9, 2 chiến sĩ Trần Quang Khải, Trần Xuân Hồ mang vũ khí, đeo phao lần theo mép nước ra biền.
Lặn hụp trong nước, vận lộn với sóng gió trong 3 giờ liền.
20 giờ 15 phút hai chiến sĩ đã bám được dây neo của tàu.
 

Hổ luồn về phía bên mạn tàu, Khải luồn sang phải, cả hai tìm khoang chứa dầu, cạo hà rồi áp mìn; hai quả mìn cách nhau 3m. Cả hai quả mìn đều có độ sâu 0,5m, so với mặt nước biển. Do sơ xuất nên anh em làm chiếc phao mìn nổi lên, tên lính trên boong phát hiện và lập tức nổ súng báo động, đạn tiểu liên AR15, lựu đạn ném xuống quanh tàu như mưa, hai chiến sĩ khẩn trương bơi vào bờ.
Địch nhanh chóng huy động 2 máy bay trực thăng, 1 máy bay C130, 5 tàu tuần tiễu từ Cửa Việt ra, kết hợp với tàu tuần dương và tàu khu trục Mỹ ngoài khơi vào sục sạo, truy tìm, pháo súng bắn lên sáng trắng cả một vùng biển, đạn các loại từ trên tàu, trên máy bay xỉa xuống liên tục.
Các đơn vị địch trên bờ tại các căn cứ Mỹ ngụy từ Cửa Việt, Cửa Tùng báo động khẩn cấp, chúng bao vây mọi ngả ngằm không cho đặc công nước Việt Cộng trở về căn cứ.
Đồng chí Khải bị thương vào đùi, đồng chí Hổ bị sức ép ù tai, sợi dây liên kết giữa hai người bị đạn cắt đứt nên hai chiến sĩ mất liên lạc với nhau.
22 giờ ngày 8-9 đồng chí Khải bơi được vào bờ, đồng chí Hổ bị sức ép, sóng lại to nên mãi đến 3 giờ sáng ngày 9-9 mới bắt được bờ.

Ngày 10-9-1969 tổ đáng tàu về đến căn cứ.
Vào lúc 22 giờ ngày 8-9-1969, nghĩa là lúc đồng chí Khải đã bắt được bờ, chiếc tàu dầu 15.000 tấn của địch hốt hoảng chạy về phía Cửa Việt, nhưng mới đi được 1km thì hai tiếng nổ phát ra, một quầng lửa lớn trùm xuống biển chiếc tàu địch chìm dần.
Xem xong bản thành tích tôi đưa mắt nhìn anh và biểu lộ sự khâm phục của mình. Hiểu ý tôi anh nói: chúng tôi có vinh dự được chỉ huy tin tưởng giao nhiệm vụ và chỉ đạo, chỉ huy sát sao nên đã hoàn thành nhiệm vụ, nếu các đồng chí khác được giao nhiệm vụ ấy, chắc chắn họ cũng nhấn chìm chiếu tàu khổng lồ ấy của địch xuống biển.
  

Tại chiến trường Quảng Đà, từ những năm 1966 đến ngày giải phóng, với cách đánh xuất quỷ nhập thần, dũng cảm, mưu trí, linh hoạt, những trận đánh vang dội của đặc công nước đã trở thành huyền thoại, đóng góp và làm phong phú thêm kho tàng lịch sử "nghệ thuật quân sự" Việt Nam anh hùng.

 Căn nhà nhỏ, bình dị của "Đại tá 3 sao" Phạm Xuân Sanh (Đội trưởng Đội 3 đặc công nước Quảng Đà từ năm 1970 đến 1975) nằm trên đường Trưng Nữ Vương (Đà Nẵng) trong nhiều năm nay trở thành địa chỉ quen thuộc của đồng đội ông mỗi dịp gặp mặt...

                             

                 "Thủ lĩnh" Đội 170 Đặc công nước Quảng Đà, ông Phạm Xuân Sanh.

 

Tôi hỏi ông, đặc công nước cần có những tố chất gì? Ông khái quát bằng một câu cực kỳ đơn giản nhưng lại hội đủ hết câu trả lời: Là những người mà lúc họ ở dưới nước có thể bằng hoặc nhanh nhẹn hơn trên cạn! "Đó là về thể chất. Còn  khi đã bước vào cuộc chiến, cái đầu và con tim của họ phải hết sức tỉnh táo, quyết đoán, xử lý tình huống nhạy bén và nhất là phải biết… hy sinh", ông Sanh nói.

Ông, sinh ra và lớn lên tại vùng sông nước Quảng Bình, ông đã tự trang bị cho mình kỹ năng bơi lội tuyệt đỉnh, có thể nổi trên mặt sông, mặt biển cả ngày. Sau khi tốt nghiệp trường Đại học Thể dục thể thao và trường Đại học Hàng hải, năm 1964, ông được tuyển chọn vào Trung đoàn 170 Hải quân và huấn luyện tại Tiên Yên (Quảng Ninh). Tiếp đó, ông về nhận nhiệm vụ tại Đội 3, Đoàn 126 đặc công nước Hải quân để chuẩn bị vào Nam chiến đấu.

          

                       Đội 170 Đặc công nước Quảng Đà tại hậu cứ Hòn Tàu năm 1970.

 Cuối năm 1966, lực lượng đặc công nước thuộc Đoàn 126 được chia làm 4 đội và lần lượt có mặt trên các chiến trường miền Nam và lập nên nhiều chiến công đã đi vào huyền thoại như: Đặc công nước Cửa Việt (Quảng Trị), Đặc công rừng Sác (Nam Bộ), Đặc công nước Quảng Đà (chiến trường Khu V) và đặc công nước ở Khánh Hòa", ông Phạm Xuân Sanh cho biết. Cuối năm 1966, sau thời gian huấn luyện khắc nghiệt, những người lính đặc công nước tạm gác lại những mối tình đẹp, mái trường thân yêu và nơi chôn nhau cắt rốn, họ lên đường đánh Mỹ mà lòng thanh thản không một chút ưu tư! Họ là những Dã Tượng, Yết Kiêu thời hiện đại của dân tộc.

Nhớ về một thời băng rừng vượt núi, ăn gió nằm sương, Đại tá Phạm Xuân Sanh không khỏi bồi hồi, xúc động. Ông kể: Ngày 27-10-1966, Đội 3 (Đặc công nước Quảng Đà) làm lễ xuất quân tại thôn Tiền An (Quảng Yên, Quảng Ninh). Toàn đội như bừng lên khí thế sôi nổi, vui vẻ lạ thường. Tuy nhiên, trong tâm thức của mỗi người như có điều gì suy tư sâu lắng. Cũng dễ hiểu thôi, vì ngày mai lên đường xa miền Bắc thân yêu, giã từ những người ruột thịt mà không hẹn ngày về song để đảm bảo bí mật, không ai được phép gặp gia đình. Buổi liên hoan cuốn hút mọi người trong cái sôi động, âm vang hào hùng của những bài đồng ca, những khúc quân hành mạnh mẽ như đánh tan đi nỗi niềm đang ẩn chứa trong lòng mỗi người. Bài hát “Hành quân xa” của Đỗ Nhuận, lúc bình thường hát lên chỉ cảm nhận được giai điệu mạnh mẽ của nhịp quân hành nhưng lúc này chợt có ý nghĩa như một lời thề: “Đời chúng ta đâu có giặc là ta cứ đi”; lại thêm bài “Đoàn giải phóng quân” của Phan Huỳnh Điểu như giục giã mọi người: “Ra đi ra đi, bảo toàn sông núi; ra đi ra đi thà chết chớ lui…”. “Cũng bài ca ấy, lớp cha anh thuở trước ra đi từ cách mạng tháng Tám từng làm nên những chiến công chấn động địa cầu, giờ đây đối với chúng tôi, nó thiêng liêng và ý nghĩa biết chừng nào”, ông Phạm Xuân Sanh hồi tưởng.

                           

                 3 chiến sỹ đặc công nước thuộc đội 170 hiện đang sinh sống tại Đà Nẵng
                         (Trần Song Thao, Phạm Xuân Sanh và Nguyễn Xuân Thành, từ trái qua).

Tôi hỏi Đại tá Phạm Xuân Sanh, khi hành quân qua quê hương Quảng Bình, bác nghĩ gì? “Lúc ấy, thực lòng tôi rất muốn ghé lại thăm nhà, nơi ấy có ba mẹ, anh chị em tôi sinh sống, chờ đợi tin tôi nhưng đã mấy năm rồi biệt vô âm tín. Tuy nhiên, lòng muốn là như vậy nhưng vì nhiệm vụ, vì Tổ quốc, tôi không thể nào làm khác được. Đặc biệt là, 3 năm trước và sau khi vào chiến trường, gia đình không hề nhận được bất cứ thư từ, thông tin gì từ tôi (do yêu cầu bí mật tuyệt đối), nhưng lại nhận được bằng Tổ quốc ghi công, cũng đồng nghĩa là tôi đã hy sinh. Bố tôi lúc ấy suy sụp, ông ốm liệt giường mấy năm trời. Tất nhiên sau hòa bình, khi có dịp về thăm quê tôi mới biết. Khi ấy thấy tôi trở về, như có thuốc tiên, bố tôi khỏe mạnh trở lại”, Đại tá Sanh bùi ngùi.

Quảng Đà–một trong những chiến trường trọng điểm, là vị trí chiến lược then chốt của Mỹ, ngụy, nơi những tên lính thủy đánh bộ Mỹ đầu tiên đặt chân đến xâm lược nước ta, để thực hiện cái gọi là “chiến tranh cục bộ”, nơi mà từng giờ, từng phút cái chết đến với con người chỉ trong gang tấc. Nơi ấy chính là vùng tác chiến mà Đội 3 đặc công nước gồm 60 đồng chí (được chia thành 3 phân đội phụ trách các cánh bắc, trung và đông của Đà Nẵng) do Đại úy Lương Xuân Lan, Chính trị viên và Đại úy Võ Tấn Mễ, Đội trưởng chỉ huy; Thiếu úy Phạm Xuân Sanh lúc bấy giờ được phân công làm trợ lý tác chiến, quân lực. Nhiệm vụ được giao cho Đội 3 đặc công nước là đánh các tàu thuyền quân sự, kho tàng, bến cảng và đặc biệt là đánh sập các cầu cống, cắt đứt chi viện bằng đường bộ của địch trên chiến trường, đồng thời phục vụ cho các chiến dịch của quân ta.

 Từ năm 1966 đến 1970, Đội 3 và Đội 170 (sau này) đặc công nước đã chiến đấu lập nhiều chiến công đặc biệt xuất sắc, tiêu diệt hàng trăm tên địch, hàng chục chiến thuyền, hải thuyền và cầu đường, kho xăng, kho bom đạn của địch trên chiến trường Quảng Đà.

 Giọng Đại tá Sanh chùng xuống khi nhớ về những trận đánh mà đơn vị phải chịu mất mát, hy sinh. Đó là trận đánh tại cầu “Trịnh Minh Thế” Đà Nẵng. Đội 3 đã tổ chức đánh 2 lần nhưng không thành, đặc biệt trong lần thứ 2, do bị lộ nên địch đã bao vây. 7 chiến sỹ đặc công nước và 2 du kích địa phương quyết chiến với kẻ thù, tiêu diệt hơn 40 tên trước khi người cuối cùng ngã xuống. Đến năm 1970, các phân đội 1 (cánh bắc Đà Nẵng) và phân đội 2 (cánh trung Đà Nẵng) gần hết quân, Bộ Tư lệnh Hải quân không bổ sung kịp, phân đội 3 còn lại 5 CBCS tổ chức đánh kho xăng Liên Chiểu lần 2, tuy nhiên do không có thời gian chuẩn bị nên 4 CBCS hy sinh".

Đầu năm 1970, trong thời gian xây dựng, củng cố lực lượng, Đoàn đặc công Hải quân 126 tăng cường cho mặt trận 44 Quảng Đà 60 CBCS. Tháng 1-1970, Đội đặc công nước phiên hiệu Đội 170 được thành lập, đồng chí Phạm Xuân Sanh (cán bộ của Đội 3 còn lại) làm Đội trưởng. Từ đây, Đội 170 đặc công nước cùng các đơn vị đặc công khác đã liên tiếp tiến công địch, lập nên nhiều chiến công vang dội, làm cho Mỹ, ngụy phải kinh hồn bạt vía. 

Phép thử đầu tiên khi Đội 3 đặc công nước vừa đặt chân đến chiến trường Quảng Đà là bằng mọi giá phải đánh sập cầu Thủy Tú-mạch máu giao thông chi viện của địch trên 2 chiến trường Quảng Nam- Đà Nẵng và Bình Trị Thiên. Vì cầu Thủy Tú có vị trí chiến lược quan trọng như vậy nên địch đã bố trí phòng bị cực kỳ kiên cố, đến nỗi còn dõng dạc tuyên bố rằng: Nếu Việt cộng đánh sập cầu Thủy Tú thì nước ở tất cả các sông đều chảy ngược! 

Đầu năm 1967, khi vừa đặt chân đến chiến trường Quảng Đà, tinh thần ai nấy đều phấn chấn.  Trước những lời thách thức ngạo mạn của địch, ai cũng muốn xung phong lên tuyến đầu để nhanh chóng lập công. Sau khi họp bàn, Ban chỉ huy Đội 3 giao nhiệm vụ đánh cầu cho phân đội 1, do đồng chí Huỳnh Tửu làm Chính trị viên, đồng chí Huỳnh Thế Tâm làm Phân đội trưởng. Ngay sau khi nhận nhiệm vụ, phân đội triển khai họp chi bộ, họp phân đội xác định quyết tâm, quán triệt yêu cầu và khẩn trương chuẩn bị cho trận đánh. Đồng chí Nguyễn Sự, Đội phó, đồng chí Sơn, phụ trách khí tài cùng giao liên lập tức lên đường ra cánh bắc, hợp đồng chiến đấu với khu đội 1 Hòa Vang.

Tổ chiến đấu tiến hành công tác nghiên cứu địa hình, địa lợi. Đứng trên núi cao nhìn xuống Đà Nẵng, khu hậu cần của Mỹ chiếm hết vòng cung từ Xuân Thiều đến Bàu Mạc, mái tôn trắng xóa phản chiếu ánh mặt trời đến nhức mắt. Ngoài vịnh Đà Nẵng, tàu bè đi lại như những chấm đen di động, trên quốc lộ, ô-tô các loại ngược xuôi như mắc cửi. Cầu Thủy Tú song song với cầu đường sắt, bắc qua sông Cu Đê như dải lụa mềm uốn lượn từ thượng nguồn trải dài ra cửa biển Nam Ô. Phân đội triển khai trinh sát nắm tình hình. Một mặt thu thập tin tức về tình hình cấu trúc, bố phòng và quy luật hoạt động của địch trên cầu Thủy Tú, mặt khác, phân đội cử 3 trinh sát thực tế từ xa đến gần, từ ngoài vào trong mục tiêu; nắm chắc luồng lạch trên sông, quy luật thủy triều, xác định đường vào và đường rút khỏi mục tiêu sau khi điểm hỏa; theo dõi việc tuần tra, canh gác, bố phòng trên cầu và dưới nước. Qua 4 đêm liền, tổ trinh sát bí mật tiếp cận cách cầu gần 300m để quan sát tình hình. Hai ngày tiếp theo, tổ trinh sát vùi mình trong cát, nằm lại quan sát mục tiêu ban ngày. Sau đó, liên tiếp phân đội mật tập vào mục tiêu, cắt dây thép gai, mở lối để khi đánh đưa khối nổ vào trụ cầu...

Hoàn thành công tác, anh em trinh sát đi đến kết luận: Cầu Thủy Tú dài 320m, cấu tạo xi-măng cốt thép, 12 trụ bê-tông đúc đặc hình hạt xoài (một kết cấu trụ cầu rất khó đánh của đặc công nước). Cách mỗi trụ cầu có 2 bóng đèn công suất lớn, đầu cầu bờ nam có lô cốt boong ke hai tầng. Tầng trên từ mặt đường trở lên có lỗ châu mai đặt súng đại liên bắn quét mặt cầu; tầng dưới đặt đại liên bắn quét ngang mặt nước, đầu cầu bờ bắc có lô cốt chất bằng bao cát và đặt đại liên. Mục đích của địch là khi có động, đại liên hai bên cầu bắn chéo cánh sẻ trên mặt cầu và dưới mặt sông. Cầu do một đại đội lính ngụy canh giữ; về đêm, địch thay nhau tuần tra qua lại trên cầu, thỉnh thoảng bắn và ném lựu đạn xuống gần các trụ cầu đề phòng "người nhái" đột nhập. "Cách bố phòng nói trên cho thấy lời tuyên bố của địch là có cơ sở, đến cả con cá cũng không thoát được nếu phát ra tiếng động trên sông. Tuy nhiên không vì thế mà chúng ta chùn bước", Đại tá Phạm Xuân Sanh nhìn nhận.

     

                                           Cầu Thủy Tú bị đánh sập năm 1967.

Đúng 20 giờ ngày 2-4-1967, trận chiến đấu bắt đầu. Sau khi làm lễ "truy điệu sống", đồng chí Nguyễn Sự, lúc đó là đội phó xung phong làm tổ trưởng, cùng hai tổ viên ra trước hàng quân nhận lệnh và hứa quyết thắng. Không khí trước giờ xung trận thật thiêng liêng. Họ ôm choàng ba đồng chí của tổ chiến đấu, mình trần chân đất như để tiếp thêm sinh lực của phân đội và gửi gắm niềm tin thắng lợi trở về. Tổ chiến đấu vẫy tay chào tạm biệt, dìu khối thuốc nổ TNT 100kg ra giữa dòng sông và khuất dần trong màn đêm lạnh. Lúc này, trên quốc lộ, đoàn xe kéo pháo của địch nối đuôi nhau lần lượt qua cầu. Bánh xích sắt xe kéo pháo nghiến xuống mặt cầu phát ra âm thanh rầm rầm rờn rợn hòa trong tiếng nổ động cơ vang động. Toán địch tuần tra đang cụm lại với nhau, tựa vào lan can theo dõi đoàn xe di chuyển, dưới sông, tổ chiến đấu chớp thời cơ, mật tập mục tiêu, bình tĩnh, nhẹ nhàng mở lớp rào dây thép gai đã cắt sẵn, đưa khối nổ vào cố định ở trụ cầu. Tổ trưởng Nguyễn Sự ra hiệu cho 2 tổ viên rút ra trước, còn mình điểm hỏa xong sẽ rút ra sau. Kíp nổ hẹn 30 phút, 2 tổ viên xuôi về phía cửa sông, gặp bộ phận đón và chờ sẵn trên bờ.

"Thời gian như dừng lại. Gần 30 phút trôi qua nhưng chưa thấy đồng chí Sự về. Bỗng một ánh chớp sáng lòa kèm theo là tiếng nổ lớn. Chiếc cầu như dải lụa bỗng chốc đổ sập xuống. Tiếng la hét om sòm, còi báo động rú lên từng hồi như tiếng kêu cấp cứu. Pháo sáng từ các vị trí của Mỹ gần đó thi nhau bắn lên trời, có lẽ chúng sợ bóng đêm sẽ đem cái chết bất ngờ đến với chúng bất cứ lúc nào",... Đại tá Phạm Xuân Sanh nhớ lại. Rạng sáng hôm sau, nghe tin cầu Thủy Tú bị đánh sập, tên trung tá chỉ huy Liên đoàn 10 công binh ngụy đến kiểm tra. Y đứng ngắm nghía hồi lâu, rồi như thất kinh hoảng sợ, trượt chân lộn cổ xuống sông chết chìm theo số phận chiếc cầu và cả tiểu đội tuần tra ngụy lúc cầu đổ sập. Sau trận đánh, đài và báo chí Sài Gòn cũng như phương Tây đưa tin về cầu Thủy Tú, chúng phê phán cả quân lực Việt Nam cộng hòa lẫn lực lượng quân sự Hoa Kỳ, đồng thời tuyên bố: "Miền Trung bị gãy xương sống!".

Trận đánh này của lực lượng đặc công nước đã được Quân khu V biểu dương, khen ngợi là "trận đánh xuất sắc, mở đầu của đội đặc công nước trên chiến trường Quảng Nam-Đà Nẵng". "Tuy nhiên, đây cũng là trận đánh cuối cùng của người chỉ huy mẫn cán Nguyễn Sự. Máu của anh đã hòa vào dòng sông, như tiếp thêm nguồn sức mạnh cho đặc công nước Quảng Đà lập thêm nhiều chiến công trên chặng đường phía trước", Đại tá Phạm Xuân Sanh bùi ngùi xúc động.

3 - Lực lượng biệt động: 

Biệt động Sài Gòn là danh xưng của lực lượng đặc công quân Giải phóng miền Nam, chuyên làm nhiệm vụ tập kích nhằm vào các cơ sở của quân đội Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng hòa cũng như các công trình công cộng trong môi trường đô thị tại Sài Gòn trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam.

Theo Đại tá Nguyễn Đức Hùng (Tư Chung), nguyên Tư lệnh Biệt động Sài Gòn – Gia Định nêu lên trong hồi ký, lực lượng biệt động khu vực Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định ra đời từ Kháng chiến chống Pháp, bắt nguồn từ những đội vũ trang, tự vệ của người dân ở khu vực này từ thời tiền khởi nghĩa và Nam Bộ kháng chiến. Tuy nhiên, có thể nói lực lượng tiền thân chính thức đầu tiên ra đời sau chuyến mạo hiểm vào thành thị sát của Trung tướng Nguyễn Bình, và sau đó là quyết định hợp nhất các nhóm vũ trang trong nội đô để thành lập Ban Công tác Thành vào tháng 3 năm 1946.  

Sau năm 1954, phần lớn cán bộ hành chính và lực lượng quân sự thuộc chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được tập kết ra Bắc. Số còn lại hoặc trở về đời sống dân sự hoặc tiếp tục hoạt động chính trị dưới sự chỉ đạo của Xứ ủy Nam Bộ. Các ban Công tác Thành phố về danh nghĩa đều được giải thể. 

Tuy nhiên, sau khi Nghị quyết 15 của Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam cho phép lực lượng kháng chiến miền Nam được phép chuyển sang đấu tranh vũ trang song song với đấu tranh chính trị, Quân Giải phóng tại miền Nam tái tập hợp và xây dựng lại lực lượng vũ trang. Trong đó đặc biệt chú trọng phát triển lực lượng vũ trang nội đô, đặc biệt là qua 2 hội nghị quân sự quan trọng của Quân khu Sài Gòn – Gia Định được tổ chức trong tháng 9 và tháng 10 năm 1961. Thông qua những hội nghị này, lực lượng biệt động Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định dần được xây dựng lại. Đến năm 1963, 4 đơn vị biệt động cấp quân khu được thành lập, gồm 65, 67, 69 và bộ phận trinh sát hoạt động ở nội thành. Một năm sau, thành lập thêm các đội 66, 68. Biệt động cấp quân khu được thành lập, đánh dấu bước phát triển trong quy mô và hiệu quả của trận chiến trong nội đô với những chiến công vang dội.

Sự khác biệt giữa lực lượng đặc công và biệt động:

  • Đặc công là binh chủng chính quy, được trang bị vũ khí, được huấn luyện các kĩ năng cần thiết một cách chuyên nghiệp nhất có thể, ví dụ như cận chiến bằng vũ khí lạnh, sử dụng mìn và thuốc nổ, tiềm nhập, bơi đường dài đối với đặc công nước... Biệt động về hình thức chỉ tương tự nhóm vũ trang địa phương, không nhất thiết là lính chính quy, không nhất thiết phải được trang bị vũ khí và huấn luyện để chiến đấu. Họ có thể bao gồm người già, nữ sinh... với nhiều nhiệm vụ khác nhau (tác chiến, liên lạc, điều tra, vận chuyển và cất giấu vũ khí...). Riêng đối với những người lính biệt động mang nhiệm vụ chiến đấu, họ vừa phải có trình độ tác chiến tốt, được huấn luyện bài bản trong môi trường tác chiến đô thị, vừa phải có những kỹ năng dân sự khác, nếu không họ sẽ dễ bị đối phương bắt bài.
  • Xây dựng mạng lưới biệt động phức tạp hơn đặc công rất nhiều. Vì biệt động hoạt động trong lòng địch, mọi thành viên đều phải có vỏ bọc, giấy tờ hợp pháp để sống công khai. Đặc công có thể mất vài tháng để huấn luyện 1 tiểu đoàn, vài tuần để tổ chức một trận đánh vì đặc công có ban hậu cần quân đội riêng. Nhưng với biệt động sẽ là hàng năm.
  • Đặc công có thể tác chiến độc lập nhưng biệt động bắt buộc phải dựa vào dân, nếu không có dân trợ giúp thì mạng lưới không thể tồn tại được. Điển hình như trận chiến Tết Mậu thân, 17 người của cụm BĐ11 đánh vào Đại sứ quán Mỹ, do bị cô lập và mất hậu cần, họ hy sinh gần hết.
  • Về tác chiến, thì đặc công thường tác chiến vào ban đêm, nhằm diệt nhiều địch nhất; ngược lại, biệt động luôn tác chiến vào ban ngày (để gây tiếng vang). Một trận đánh cường tập của đặc công tùy tình hình có thể kéo dài, nhưng một trận đánh cường tập của biệt động hạn chế kéo dài quá 5 phút, nếu quá thời gian cam kết sẽ gây nguy hiểm rất lớn cho các chiến binh biệt động.

Chiến công của biệt động Sài Gòn:

+/ Trận đánh tàu sân bay USS Card (CVE-11) – Attack on USNS Card diễn ra ngày 2 tháng 5 năm 1964:

Bị Biệt Động Sài Gòn tấn công và đánh chìm ở độ sâu 6m ở Cảng Sài Gòn và là chiếc tàu Mỹ đầu tiên bị đánh chìm trong chiến tranh Việt Nam .

Tàu sân bay USS Card bản chất là tàu chở hàng, hạ thủy vào năm 1942. Khi Thế Chiến thứ 2 nổ ra, tàu được cải biên thành tàu sân bay hộ tống mang máy bay. Trong chiến tranh, tàu được giao nhiệm vụ tuần tiễu và chống lại tàu ngầm của Đức và sau đó làm nhiệm vụ vận chuyển máy bay, hàng tiếp liệu, … đến căn cứ Trân Châu Cảng và đảo Guam, .. thuộc vùng biển Thái Bình Dương và liên tục phục vụ Hải Quân Mỹ đến năm 1946, tàu được đưa về Mỹ ở căn cứ Norfolk và được ngừng phục vụ, đưa vào lực lượng dự bị

Năm 1958, tàu được sắp xếp lại thành tàu chở máy bay trực thăng và được biên chế với lớp thủy thủ dân sự chuyên công tác vận chuyển máy bay, hàng hóa, … và từ năm 1962, tàu thường vận chuyển máy bay, hàng hóa, … cho miền Nam Việt Nam

               Đặc công Sài Gòn đánh chìm tàu sân bay USS Card ngày 2 tháng 5 năm 1964 trong chiến tranh Việt Nam - Sai Gon sapper sunk USNS Card aircraft carrier or cargo ship on May 2, 1964 in Viet Nam war
Đặc công Sài Gòn đánh chìm tàu sân bay USS Card ngày 2 tháng 5 năm 1964 trong chiến tranh Việt Nam – Sai Gon sapper sunk USNS Card aircraft carrier or cargo ship on May 2, 1964 in Viet Nam war

Lúc 5h sáng ngày 2 tháng 5 năm 1964, 2 đặc công Sài Gòn là Lâm Sơn Náo và Nguyễn Phú Hùng đã dùng 84Kg thuốc nổ phá hủy tàu tạo ra một lổ hổng dài 3.7m và cao 0.91m ở mạn sườn khiến tàu chìm xuống nước ở độ sâu 6m. Boong tàu và phần trên tàu vẫn còn trên mặt nước. Thuyền trưởng là Langeland 55 tuổi cho biết : “Vụ nổ đã phá hủy phòng máy, các thủy thủ đã phải nhanh chóng bịt kín các phòng khác và tiến hành di tản. Lổ hổng khá lớn và phải mất nhiều tuần để sửa chữa”. Các ống thép trên tàu và dọc cầu cảng bị phá hủy, vụ nổ cũng làm cong lườn tàu. 5 thủy thủ dân sự trên tàu bị thiệt mạng  

+/ Trận đánh bom cư xá Brinks (hay khách sạn Brinks):

Cư xá Brinks cao 6 tầng có 168 phòng nằm ở số 103 đường Hai Bà Trưng, Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. Bộ Chỉ huy Viện trợ quân sự Mỹ tại Việt Nam thuê cư xá Brinks làm nơi trọ cho nhiều sĩ quan cao cấp của mình.   

Vụ tấn công diễn ra vào ngày 24 tháng 12 năm 1964 do lực lượng biệt động Sài Gòn của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam tiến hành. Hai biệt động của Mặt trận đã đưa một xe ô tô có chứa thuốc nổ vào tầng hầm (tầng để xe) của cư xá Brinks - nơi có nhiều nhân viên quân lực của Hoa Kỳ cư trú.

                  
                                            Cư xá Brinks vào đầu năm 1964

Đêm vọng Lễ Giáng Sinh năm 1964, Bảy Bê (tên thật là Nguyễn Thanh Xuân) và Tư Mập (tên thật là Nguyễn Văn Hòa) là hai binh sĩ thuộc đội 5, F100, biệt động Sài Gòn đã giả trang làm các sĩ quan Việt Nam Cộng hòa đến gặp một sĩ quan Hoa Kỳ ở cư xá. Trên chiếc xe do hai thành viên Mặt trận này lái vào tầng hầm cư xá có chứa khoảng 90–100 kg thuốc nổ. Khối thuốc nổ được hẹn giờ kích hoạt vào khoảng 18 giờ là giờ có nhiều sĩ quan Hoa Kỳ nghỉ ngơi và vui chơi. 

Vụ đánh bom đã làm 2 sĩ quan Hoa Kỳ thiệt mạng. Trung tá James Robert Hagen chết tại chỗ; đây là sĩ quan cao cấp nhất bị giết tại Việt Nam Cộng hòa cho tới thời điểm đó. Trung sĩ Benjamin Beltra Castaneda bị thương nặng và chết sau đó. Số người bị thương không được công bố không thống nhất; dao động từ khoảng 58 đến trên 100 người gồm người Mỹ, Việt Nam, và Úc. Bốn tầng dưới của cư xá Brinks bị vụ nổ làm hư hại nghiêm trọng. Cư xá Brinks sau đó được sửa lại và các sĩ quan Hoa Kỳ vẫn tiếp tục ở đó cho đến khi Chiến tranh Việt Nam kết thúc.                                                       

                   Soldiers with guns and civilians walk through the rubble of a building. Pieces of wood, bent metal lie strewn on the ground. The roof has fallen off except for the support beams.                   

                                            Quang cảnh cư xá Brinks sau vụ đánh bom.

         Vụ đánh bom làm làm chính phủ và công chúng Hoa Kỳ bất ngờ và bàng hoàng. Trước đó, họ được chính quyền Việt Nam Cộng hòa khẳng định rằng "Việt Cộng chỉ hoạt động được ở các vùng nông thôn", còn Sài Gòn do chính quyền Việt Nam Cộng hòa kiểm soát hoàn toàn. 


     +/Đánh sập khách sạn Caravell:  
                                       v 
                                                                       Khách sạn Caravelle


                                               Bà Trần Thị Minh Nguyệt, người đóng vai tình nhân thiếu tá nguỵ trong trận đánh rung chuyển Sài Gòn 
Bà Trần Thị Minh Nguyệt, người đóng vai tình nhân thiếu tá nguỵ trong trận đánh rung chuyển Sài Gòn




        Bấy giờ khách sạn Caravelle cao 10 tầng được xem là địa chỉ tráng lệ, sang trọng bậc nhất Sài Gòn, nơi quan chức Mỹ Ngụy thường lui tới hội họp. Thậm chí Mỹ lấy Caravelle làm điểm trú ngụ của nhóm ê kíp đảo chính Ngô Đình Diệm trước đó, lãnh sự các nước đồng minh với Mỹ cũng đóng tại toà khách sạn 10 tầng này.

Trong con mắt người Mỹ, Caravell chẳng khác nào “pháo đài kiên cố”, thách đố lực lượng Biệt động Sài Gòn. Bên ngoài khách sạn luôn đầy ắp lính gác và hàng trăm mật thám canh chừng. Muốn đánh bom mục tiêu này quả là không đơn giản.

Tuy nhiên Biệt động Sài Gòn phải đánh khách sạn này, không để giặc ung dung đắc chí mạnh mồm tuyên bố “Sài Gòn sạch bóng Việt Cộng”, “đã bình định xong miền Nam”.

Người trực tiếp nhận nhiệm vụ là Bảy Bê (tức Nguyễn Thanh Xuân) với sự trợ giúp của Minh Nguyệt (tên đầy đủ Trần Thị Minh Nguyệt) và Năm Bắc. Chuẩn bị kế hoạch xong xuôi, tờ mờ sáng ngày 24/10/1964, Bảy Bê và Minh Nguyệt ăn mặc sang trọng, đón taxi ra sân bay Tân Sơn Nhất. Đợi gần trưa có máy bay hạ cánh, hai chiến sĩ biệt động liền nhập vào đám hành khách đi xuống cổng, đón taxi về mục tiêu. Sở dĩ phải “nhiêu khê” như vậy bởi khách sạn Caravelle chỉ đón khách từ sân bay đến. Mọi khách hàng nếu xuất phát từ bất kì địa điểm nào khác, nhất định bị nghi vấn, điều tra ngay lập tức.

Tại sao lực lượng biệt động nắm rõ điều này? Ông Nguyễn Văn Thân, ủy viên CLB truyền thống vũ trang biệt động Tp HCM giải thích, nhờ có Năm Bắc làm điệp viên, ta mới hiểu rõ những quy tắc ngầm trên.

Năm Bắc tên thật là Nguyễn Nông, lúc bấy giờ là nhân viên phục vụ trong khách sạn đã nhiều năm. Chính điệp viên này là người “cố vấn” cho Bảy Bê và Minh Nguyệt từ cách ăn mặc đến dáng đi, những câu ngoại ngữ để thật giống với “đại gia” giới thượng lưu.

Thậm chí trước đó Bảy Bê còn được đưa sang một số khách sạn để thực tập kiến thức. Sau này trong buổi chuyện trò với đồng đội, Bảy Bê cười sảng khoái: “Mình suốt ngày ăn cơm với muối rang, vậy mà lúc vào khách sạn, người phục vụ mang lên phòng lon Coca cola ngon lắm mà chỉ uống có một nửa. Anh Năm dặn rồi, phải ăn uống theo kiểu đại gia như thế mới không bị phát hiện. Tuy vậy, nhìn mà… tiếc”.

        Nhờ có “quân sư” hướng dẫn cặn kẽ đường đi nước bước, hai chiến sĩ biệt động trong vai người nhà sĩ quan ngụy dễ dàng qua mắt bọn mật thám với hai va ly đầy ắp thuốc nổ. Minh Nguyệt lúc này lấy tên Kim Chi, là tình nhân của thiếu tá nguỵ, còn Bảy Bê là lái xe. Bước vào toà nhà tráng lệ, Bảy Bê có phần choáng ngợp nhưng nhanh chóng lấy lại bình tính, tự nhiên tới quầy lễ tân làm thủ tục thuê phòng. Khách sạn chỉ trống một phòng duy nhất ở lầu 5. Thở phào hú vía, chỉ chậm chân 5 phút là có người khác đến thuê phòng, lúc đó hết cơ hội.

                Chiến sĩ biệt động Nguyễn Thanh Xuân (Bảy Bê, người ngồi thứ 2 từ ngoài vào bên trái) là người trực tiếp đặt bom khách sạn Caravelle                  Chiến sĩ biệt động Nguyễn Thanh Xuân (Bảy Bê, người ngồi thứ 2 từ ngoài vào bên trái) là người trực tiếp đặt bom khách sạn Caravelle 

Minh Nguyệt lúc đó mặc bộ áo dài nước biển quý phái. Người đóng vai tình nhân thiếu tá nguỵ giờ đây đã tuổi 70 nhưng vẫn không quên những giây phút hồi hộp.

“Nhận phòng xong, tôi đón taxi đi luôn, lấy cớ ra chợ sắm ít đồ đạc, ngắm phố phường. Trước đó đồng chí Bảy Bê đã mang hành lý lên phòng, thực chất là thuốc nổ bên trong”, bà Nguyệt kể.

“Người đẹp tình nhân thiếu tá” phì phào điếu thuốc rút lui an toàn. Riêng Bảy Bê hì hục mang hai valy lên tầng 5 khách sạn, chuẩn bị cho trận đánh ghi dấu lịch sử. Đồng hồ chỉ mới điểm 10h trưa, trong khi theo kế hoạch cấp trên giao, là phải làm nổ tung Caravelle tầm 6h chiều, bởi thời điểm này mới có đông tướng lĩnh Mỹ Nguỵ tập trung tại khách sạn. Nằm đợi đến 4h chiều, Bảy Bê chốt cửa cận thận rồi mang thuốc nổ vào phòng tắm sửa soạn.

Bảy Bê kể lại câu chuyện thật mà như đùa. Đặt chân vào phòng tắm, anh giật thót người, rút súng lục định bắn. Hoá ra “con người” đang chăm chú nhìn anh mở va ly là chiếc bóng từ trong gương phản lại. Lần đầu vào những nơi sang trọng, anh biệt động không biết lại có những tấm kính lớn đến thế.

Anh nhanh chóng hợp 3 bánh thuốc nổ TNT thành một với tổng trọng lượng 37kg, đặt ngay ngắn vào tủ quần áo, vặn kim đồng hồ hẹn 6h, rồi chỉnh sửa lại bộ vest đi ra ngoài. Rời khách sạn sang trọng, Bảy Bê đến căn phòng thuê, nơi đồng đội đang đợi sẵn chờ kết quả.

Kim đồng hồ điểm đúng số 6, vẫn không nghe tiếng nổ. Đợi thêm 10, rồi 15 phút nữa, mọi thứ vẫn yên ắng. Đầu óc Bảy Bê rối bời, anh vò đầu trách mình, nhiệm vụ đã chắc ăn tới 90% mà vẫn để bại lộ. Đắn đo mãi, chợt nảy ra ý tưởng: “Sao không gọi điện về khách sạn xem sự thể thế nào”. Từ đầu dây bên kia, nhân viên lễ tân trả lời giọng bình thản, chứng tỏ hoạt động của khách sạn hoàn toàn bình thường. Vậy là mọi chuyện chưa lộ. Bảy Bê vội hỏi qua loa xem còn phòng thuê không rồi cúp máy, trở lại mục tiêu.

Nhận chìa khoá từ quầy lễ tân, chiến sĩ biệt động đi vội lên phòng, mở tủ kiểm tra. Mọi thứ vẫn nguyên vẹn. Thì ra nguyên nhân không nổ là do Bảy Bê đã hẹn giờ nhưng quên bấm nút lên dây cót. Bảy Bê hẹn 10 phút nữa rồi bấm nút dứt khoát, nghe kim đồng hồ nhảy lách tách mới rời phòng. Xuống nửa đường, anh chợt nhận ra sau nhiều giờ đồng hồ chờ đợi tiếng bom, lang thang khắp nơi, bộ dạng chỉn chu lúc chiều nay đã thành lôi thôi, tóc tai bù xù. Nếu chẳng may bọn mật thám nghi ngờ, phát hiện khối thuốc nổ thì sao? Vị khách lại quay ngược lại phòng, giật nhanh sợi dây điện hoãn nổ. Chỉ chậm vài bước chân, Bảy Bê đã nổ tung cùng khách sạn.

Lần này, lấy hết bình tĩnh, Bảy Bê ăn mặc chải chuốt xong xuôi, ngó qua gương đĩnh đạc rồi mới bấm đồng hồ. Vị khách thản nhiên ra khỏi khách sạn mà không gặp phải sự nghi ngờ nào. Đi chừng vài phút, từ phía khách sạn Caravelle, một tiếng nổ vang trời phát ra.

Mãi sau ngày tiếp quản thành phố, mới biết vụ nổ đã phá sập và làm hư hại hơn 40 căn phòng khách sạn. Số lượng tử thương không rõ, nhưng nguồn tin của ta báo về nhiều sĩ quan cao cấp Mỹ Nguỵ bị chết và thương vong.

Giá trị lớn nhất của vụ nổ, đó là gây tinh thần quân địch bất an. Mỹ Ngụy phải cay đắng thừa nhận rằng chưa thể bình định xong Sài Gòn, rằng “hòn ngọc Viễn Đông” chưa “sạch bóng Việt Cộng” như lời tuyên bố “nổ banh xác” trước đó. 

+/ Trận đánh đài phát thanh Ngụy:

Với sứ mệnh vô cùng quan trọng là phải bằng mọi giá đánh chiếm đài phát thanh của chính quyền Sài Gòn trong vòng 2 giờ đồng hồ rồi bàn giao cho Tiểu đoàn 4 Thủ Đức, nên tháng 3/1966, Đội 3 thuộc lực lượng Biệt động Sài Gòn Gia Định được thành lập và có tất cả 11 người.  

Sáng 29 tháng Chạp năm 1967, Đội 3 bắt đầu xuất phát bằng xe máy từ căn cứ ở ấp Lộc Vĩnh, xã Hưng Lộc, huyện Trảng Bàng, Tây Ninh về số nhà 65 Nguyễn Bỉnh  Khiêm, quận 1. Đúng 11h trưa, anh em đã về đầy đủ nơi tập kết và xuống hầm bí mật lấy súng ra lau chùi rồi chuẩn bị cho cuộc chiến đầu vào đêm mồng 1 Tết.

Nguyên Đại tá Đặng Xuân Tẻo- nguyên Bí thư chi bộ Đội 3, và là nhân chứng duy nhất còn sống sót trong trận đánh đài phát thanh kể lại: “Để đánh đài phát thanh của địch ta đã chuẩn bị từ năm 1963. Khi đó ta mua ngôi nhà ở 65 Nguyễn Bỉnh Khiêm (cách đài chừng 100 m), rồi ngụy trang thành một tiệm may. Bí mật chở vũ khí về cất giấu dưới hầm trong ngôi nhà này nên khi lấy lên thì nhiều súng đã bị mối ăn mất báng”.

Chiều mồng 1 Tết, ông Tẻo với cô giao liên vào vai đôi tình nhân đi dạo trên các tuyến đường bao quanh đài phát thanh để quan sát kỹ càng. Đúng 23h45 phút ngày mồng 1 Tết Mậu Thân năm 1968, toàn Đội 3 xuất kích theo 2 hướng đánh chiếm đài phát thanh. Sau 20 phút chiến đấu, Đội 3 đã chiếm gữ hoàn toàn nhà đài, tiêu diệt nhiều lính gác và nhân viên nhà đài.

Khoảng 30 phút sau, phía địch bắt đầu huy động nhiều lực lượng như cảnh sát dã chiến, thủy quân lục chiến dưới sông Thị Nghè và sông Sài Gòn nã đạn pháo liên tục. Còn trên không thì máy bay trực thăng quần đi quét lại ném bom cay và dụ dỗ, kêu gọi đầu hàng. Sau 3 tiếng đồng hồ giằng co quyết liệt với địch, Đội 3 hy sinh 4 người, còn lại 7 người, nhưng 2 anh em đã bị thương, trong khi đó lượng đạn cũng cạn dần… Tình thế vô cùng bức thiết không biết nên giữ hay phá nhà đài rồi anh em hy sinh luôn. Ngay lúc đó ông Năm Lộc- chỉ huy trưởng Đội 3 đã cử ngay 3 người, trong đó có chính ủy- chỉ huy phó Đặng Xuân Tẻo trực tiếp phá vòng vây để quay về số nhà 65 Nguyễn Bỉnh Khiêm xin lệnh của cấp trên là nên giữ hay phá nhà đài vì địch tấn công dữ quá, trong khi đó Tiểu đoàn 4 Thủ Đức chưa thể tiếp cận nhà đài như kế hoạch ban đầu.

Người chỉ huy phó Đội 3 năm xưa nhớ lại: “Lợi dụng trời tối, tôi băng qua đường để yểm trợ cho 2 đồng chí khác, nhưng khi 2 đồng chí Hiệp và Hải vừa ra giữa đường Đinh Tiên Hoàng thì những làn đạn của địch bắn tới như mưa, và… họ đã hy sinh. Tôi bị thương ở chân nhưng vẫn cố lết về căn nhà 65. Vừa vào khỏi nhà được 10 phút thì địch ập tới lục soát. Khoảng 7h sáng, khi chúng tôi đang ngồi dưới hầm thì nghe một tiếng nổ lớn phát ra từ hướng nhà đài, anh em bảo nhau vậy là các đồng chí mình hy sinh rồi”

                          Chú thích ảnh 

Đêm 30, rạng 31/1/1968 (đêm mùng 1, rạng 2 Tết), 12 chiến sĩ Đội biệt động số 3 đánh chiếm Đài phát thanh Sài Gòn. Địch dùng cả xe tăng, bộ binh, máy bay đánh giải tỏa liên tục. Đội biệt động đã chiến đấu quả cảm, đến 6h ngày 31/1, 10 người hy sinh, 2 chiến sĩ biệt động cuối cùng buộc phải dùng bộc phá đánh hỏng các thiết bị phát thanh của địch. Ảnh: Tư liệu TTXVN

Trước lúc xuống hầm bí mật, tôi và anh Tư Tăng- là chỉ huy cụm Biệt động được chị chủ nhà gói cho 1 đĩa xôi, 6 quả cam cùng một gô nước vì địch trực liên tục trong vòng 1 tuần tại căn nhà 65 nên chúng tôi không thể nào lên được. Sống dưới hầm thiếu thốn vô cùng, biết đĩa xôi để lâu sẽ mốc, nhưng hai anh em không dám ăn vì phòng tình huống phải để dành lâu dài, hơn nữa ăn xôi rất khát nước, trong khi nước chỉ có chừng 1 lít. Hai anh em chia nhau mỗi ngày một người một quả cam. Chống chọi được ba ngày thì cam hết, nước cũng chẳng còn, vậy là hai anh em thực hiện “tiết kiệm” nước bằng cách đi tiểu vào gô rồi để dành và… tái sử dụng, tìm lại những vỏ cam để ăn. Đĩa xôi thì ngày một mốc meo, nhưng cũng không dám ăn hết mà chia ra mỗi bữa một tý để cầm hơi…       

Để ghi nhớ công lao to lớn đó của Đội 3, nhân dịp 35 năm giải phóng miền Nam thống nhất đất nước vừa qua, Đội 3 vinh dự được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Và đó cũng là niềm an ủi, vinh dự cho những anh hùng đã ngã xuống trong trận đánh đài phát thanh của địch vào Tết Mậu Thân năm 1968./. 

+/Trận đánh Đại sứ quán Mỹ:

Năm 1965, đặc công biệt động Sài Gòn thực hiện trận đánh "kinh thiên động địa", làm rung chuyển tòa Đại sứ Mỹ được bảo mật bậc nhất Đông Dương thời bấy giờ.  

Đại sứ quán Mỹ ở miền Nam Việt Nam thời bấy giờ có một chiếc cổng sắt trông ra đường Hàm Nghi luôn đóng kín, chỉ được mở tự động theo lệnh của cảnh sát dã chiến Mỹ đứng gác tại cổng. Mọi xe cộ đều bị cấm dừng, đậu bên hông tòa nhà.

Xung quanh khu vực tòa đại sứ được bố trí rất nhiều cảnh sát chìm, mật vụ trà trộn giả dạng dân thường để bảo vệ từ vòng ngoài. Chưa yên tâm bọn chúng lại bố trí một khẩu đại liên, trên nóc tòa nhà cao tầng đối diện với đại sứ quán, để sẵn sàng ứng cứu khi có chiến sự.

Năm 1965, quân Mỹ bắt đầu ồ ạt vào miền Nam. Để đánh đòn phủ đầu, Bộ chỉ huy Quân giải phóng miền Nam giao cho Quân khu Sài Gòn-Gia Định đánh vào tòa đại sứ quán Mỹ, để gây tiếng vang cổ vũ chiến trường Nam Bộ và cả nước.

Tổ biệt động F21 của Bảy Bê, người đã chỉ huy thành công các trận đánh cư xá Brink, khách sạn Caravelle trước đó, lại được Quân khu tin tưởng giao nhiệm vụ quan trọng này.

Sau nhiều la cà gần tòa đại sứ để nghiên cứu, cộng với tin tức từ cơ sở mật trong lòng địch báo ra, tổ biệt động đã tìm ra điểm yếu của tòa đại sứ. Đó là các ô cửa kính và trong các ô kính là phòng làm việc của quan chức và nhân viên. Ở đây cũng chỉ có hàng rào chắn bằng gỗ, xe chở thiết bị nổ có thể lao qua để áp sát vào tường nhà. 

                      Biệt động Sài Gòn với trận đánh khiến đại sứ quán Mỹ phải chuyển nhà - Ảnh 5.

                          Biệt động Sài Gòn với trận đánh khiến đại sứ quán Mỹ phải chuyển nhà - Ảnh 4. 

Tổ biệt động F21 của Bảy Bê, người đã chỉ huy thành công các trận đánh cư xá Brink, khách sạn Caravelle trước đó, lại được Quân khu tin tưởng giao nhiệm vụ quan trọng này.

                          Biệt động Sài Gòn với trận đánh khiến đại sứ quán Mỹ phải chuyển nhà - Ảnh 2.

                         Biệt động Sài Gòn với trận đánh khiến đại sứ quán Mỹ phải chuyển nhà - Ảnh 10.

                        Popup Image

                          Ảnh tòa Đại sứ Mỹ cũ, các chiến sĩ biệt động và quang cảnh sau vụ nổ

Trinh sát mục tiêu đã khó, nhưng chuyển vũ khí từ chiến khu vào nội thành còn khó hơn nhiều lần. Địch canh gác vòng trong vòng ngoài, suốt trên các nẻo đường dẫn vào nội thành. Để qua mắt chúng, ta đặt thuốc nổ vào trong các bánh mủ cao su, rồi chất lên xe tải với những vật dụng lỉnh kỉnh.

Về tới nội thành, số vũ khí này được phân tán trên các xe lam chở về các cơ sở cất giấu. Thuốc nổ được cho vào bọc ni lông mấy lớp, buộc kỹ dìm xuống kênh rạch vùng Bà Chiểu và những nơi không ai ngờ.

Tổ chức cũng đã bỏ ra 270.000 đồng, mua chiếc xe du lịch hiệu Frégate màu đen. Có xe rồi, Bảy Bê tìm cách thiết kế một thùng sắt để khít trong cốp xe để chứa thuốc nổ. Sau nhiều trục trặc, chiếc thùng sắt chứa 150 kg thuốc nổ đã đặt vừa khít vào cốp xe, chỉ chờ ngày xung trận.

Ngày 30/3/1965, ngày N của kế hoạch, đội hình hành quân chuyển bánh. Đội trưởng Bảy Bê đi đầu vừa lái chiếc Frégate chứa 150kg thuốc nổ, vừa chỉ huy đồng đội. Trên xe có Trần Văn Thế bảo vệ, Năm Bắc và Tư Việt chạy xe gắn máy yểm trợ phía sau. Sau khi chạy qua các cung đường đã định sẵn, tổ chiến đấu đã tiếp cận được mục tiêu.

Thấy xe Bảy Bê lao tới, Tư Việt rút súng hạ gục hai tên cảnh sát. Xe thuốc nổ đã ép sát rào chắn bằng gỗ bên hông tòa nhà. Bảy Bê điều chỉnh kíp nổ còn 30 giây rồi giật nụ xòe, gây nổ trực tiếp. Cả Bảy Bê và Thế nhảy ra khỏi xe, chạy về giải vây cho Tư Việt đang bị số đông mật vụ và công an chìm bao vây.

Liền sau đó, nhằm đánh lạc hướng địch, Bảy Bê lao nhanh ra đường Tôn Thất Đạm đón chiếc taxi đợi sẵn chạy về hướng chợ Bến Thành. Vừa lúc ấy, một tiếng nổ long trời làm rung chuyển phố xá. Cửa kính trên các nhà cao tầng vỡ tung. Lúc đó là 9h55 phút.

 Khối thuốc nổ 150kg cấu trúc hình lõm hướng vào tòa nhà đã thổi rỗng từ tầng 1 đến tầng 3. Các cửa song sắt vặn đi biến dạng, mảnh kính cùng gạch đá, tài liệu tung tóe khắp nơi.

Khi nghe tiếng súng bắn nhau dưới đường, các quan chức và nhân viên tranh nhau xuống tầng trệt là lúc khối nổ công phá nên thương vong rất lớn. Có tới 195 tên chết và bị thương trong tòa nhà. Phó đại sứ Mỹ A. Johonson được đồng bọn dìu ra từ đống gạch vụn, mặt bê bết máu.

Dân chúng và báo giới thời đó đã không ngớt lời bàn tán thán phục tài “xuất quỷ nhập thần", của Biệt động Sài Gòn. Sau trận đánh này, đại sứ quán Mỹ phải chuyển đến địa điểm mới và xây mới hoàn toàn

Đại tá Trần Minh Sơn (92 tuổi, bí danh Bảy Sơn), nguyên Phó Tư lệnh Quân khu Sài Gòn-Chợ Lớn-Gia Định, kiêm Tham mưu trưởng biệt động Sài Gòn, là người chỉ huy cuối cùng của lực lượng biệt động Sài Gòn hiện vẫn còn sống. Từng trực tiếp tham gia chỉ huy nhiều trận đánh oanh liệt nhưng trận đánh vào Đại sứ quán Mỹ trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân năm 1968 là trận đánh “kinh điển” mà ông Sơn luôn nhớ mãi.

“Ngày 23 Tết Mậu Thân, tôi cùng anh Trần Hải Phụng (tức Hai Phụng), Tư lệnh Phân khu 6, đến báo cáo với anh Võ Văn Kiệt (tức anh Sáu Dân, lúc đó là Bí thư Khu ủy T.4 Sài Gòn-Gia Định) về kế hoạch của lực lượng biệt động Sài Gòn tấn công các mục tiêu trong chiến dịch Mậu Thân 1968... ” - ông Bảy Sơn hồi tưởng lại.

 “Nghe xong, anh Sáu Dân khen chuẩn bị như vậy là tốt nhưng ngừng một chút, anh hỏi chúng tôi rằng tại sao không đánh vào Đại sứ quán Mỹ, có phải vì chúng tôi sợ. Câu hỏi của anh Sáu khiến chúng tôi do dự”- ông Bảy Sơn kể tiếp.

Thấy thái độ do dự của ban tham mưu, ông Võ Văn Kiệt khi đó đã tuyên bố thẳng: “Không đánh vào Đại sứ quán Mỹ thì coi như biệt động Sài Gòn không tham gia vào chiến dịch Mậu Thân!”.

“Một tối hậu thư mà đồng chí bí thư đưa ra. Bằng mọi giá biệt động phải đánh vào đại sứ quán nhưng không được điều chỉnh quân số bày bố ở các điểm mục tiêu trước đó” - ông Bảy Sơn kể.

Sở dĩ, lực lượng biệt động Sài Gòn vẫn do dự trước đề nghị của ông Võ Văn Kiệt là vì toàn bộ quân đã được bày bố cho việc đánh phá các mục tiêu đã được đề ra. “Nếu đánh đại sứ quán thì mọi thứ bắt đầu hoàn toàn từ con số không, mà chỉ còn năm ngày nữa là phải tổng tiến công. Không có quân, không có vũ khí, không có người chỉ huy, không có cơ sở nào trong nội thành. Cán bộ còn ai đâu? Súng trong thành phố đã giao hết. Lực lượng cũng đã phân bổ xong! Một bài toán quá khó nhưng buộc phải có đáp số” - ông Bảy Sơn nhớ lại.

Suy nghĩ kỹ, ông Bảy Sơn đã đề nghị với ông Hai còn một người có thể đảm đương nhiệm vụ này là ông Ba Đen (chiến sĩ biệt động Ngô Thanh Vân), người đang giữ chìa khóa của 14 hầm vũ khí trong nội thành!

Đêm 28 Tết, ông Bảy Sơn vào nội thành Sài Gòn, đón những ngày cuối năm cùng anh em ở góc đường Minh Phụng (bùng binh Cây Gõ). Ông và các anh em đã có một đêm tâm tình với nhau trước khi bắt đầu chiến dịch.

“Tôi hỏi các anh em có tự tin đánh trận này không, đã sẵn sàng hết chưa? Rằng chắc chắn sẽ phải hy sinh trong trận chiến rất cam go này, các đồng chí có muốn đánh không...” - ông Bảy Sơn hồi tưởng. Ông kể lúc đó có một người nhỏ tuổi nhất tên là Vinh đã đứng lên, dõng dạc trả lời: “Nuôi quân ba năm, sử dụng một giờ, chú Bảy đừng lo, chúng tôi sẵn sàng hy sinh, sống mái với quân thù trong trận chiến đấu này!”.

“Anh em đã sẵn sàng hết rồi, đồng loạt hô lớn: Quyết tâm đánh! Tôi thấy xúc động vô cùng” - người lính biệt động già kể lại.

Đêm 28 Tết, ông Bảy Sơn vào nội thành Sài Gòn, đón những ngày cuối năm cùng anh em ở góc đường Minh Phụng (bùng binh Cây Gõ). Ông và các anh em đã có một đêm tâm tình với nhau trước khi bắt đầu chiến dịch.

“Tôi hỏi các anh em có tự tin đánh trận này không, đã sẵn sàng hết chưa? Rằng chắc chắn sẽ phải hy sinh trong trận chiến rất cam go này, các đồng chí có muốn đánh không...” - ông Bảy Sơn hồi tưởng. Ông kể lúc đó có một người nhỏ tuổi nhất tên là Vinh đã đứng lên, dõng dạc trả lời: “Nuôi quân ba năm, sử dụng một giờ, chú Bảy đừng lo, chúng tôi sẵn sàng hy sinh, sống mái với quân thù trong trận chiến đấu này!”.

“Anh em đã sẵn sàng hết rồi, đồng loạt hô lớn: Quyết tâm đánh! Tôi thấy xúc động vô cùng” - người lính biệt động già kể lại.

                          Niềm đau đáu của Đại tá Trần Minh Sơn 

Đại tá Trần Minh Sơn, tức Bảy Sơn, nguyên Phó Tư lệnh Quân khu Sài Gòn-Chợ Lớn-Gia Định, kiêm Tham mưu trưởng biệt động Sài Gòn.  

 Một câu hỏi được tổ chức đặt ra ngay lúc đó: Nếu không may Ba Đen bị địch bắt thì liệu có khai ra 14 kho súng đạn đang quản lý và phụ trách hay không? Cuối cùng, tổ chức vẫn quyết định, ông Hai Phụng đã giao nhiệm vụ cho ông Ba Đen.

“Ba Đen rất quyết tâm và đề nghị tôi cùng tham gia làm công tác chuẩn bị. Anh nhờ tôi kiếm cho anh 200.000 USD, tôi chuyển lời cho bí thư thì được chấp nhận. Ba Đen bảo rằng sẽ “mua” đứt đám chỉ huy các đồn bót từ Củ Chi đến Sài Gòn. 

Ba Đen cần thêm một phó chỉ huy, một số anh em và các loại vũ khí. Riêng vũ khí thì không quá lo lắng bởi đã có hầm chứa vũ khí bí mật của chiến sĩ biệt động Trần Văn Lai (tức Mai Hồng Quế) tại nội đô. “Vấn đề còn lại là lấy đâu ra người? Ban tham mưu tôi còn hơn 10 anh em chuyên lo giấy tờ chứ chưa đánh trận mạc bao giờ. Nhưng Ba Đen bảo chớ có lo, để anh em tập bắn loại súng của ta và của địch mấy ngày là được...” - ông Bảy Sơn nhớ lại.

Sau năm ngày đêm ráo riết chuẩn bị, đến ngày 28 Tết, mọi thứ đã sẵn sàng để đánh vào mục tiêu quan trọng: Đại sứ quán Mỹ!

                 
Quang cảnh bên ngoài Đại sứ quán Hoa Kỳ khi đang bị biệt động Mặt trận Dân tộc Giải phóng Việt Nam đột kích.

Đêm 28 Tết, ông Bảy Sơn vào nội thành Sài Gòn, đón những ngày cuối năm cùng anh em ở góc đường Minh Phụng (bùng binh Cây Gõ). Ông và các anh em đã có một đêm tâm tình với nhau trước khi bắt đầu chiến dịch.

“Tôi hỏi các anh em có tự tin đánh trận này không, đã sẵn sàng hết chưa? Rằng chắc chắn sẽ phải hy sinh trong trận chiến rất cam go này, các đồng chí có muốn đánh không...” - ông Bảy Sơn hồi tưởng. Ông kể lúc đó có một người nhỏ tuổi nhất tên là Vinh đã đứng lên, dõng dạc trả lời: “Nuôi quân ba năm, sử dụng một giờ, chú Bảy đừng lo, chúng tôi sẵn sàng hy sinh, sống mái với quân thù trong trận chiến đấu này!”.

“Anh em đã sẵn sàng hết rồi, đồng loạt hô lớn: Quyết tâm đánh! Tôi thấy xúc động vô cùng” - người lính biệt động già kể lại.

Đêm ngày 31 tháng 1 năm 1968, toán tập kích di chuyển trên 3 xe du lịch chở 17 chiến sĩ đội 11 biệt động do Ba Đen chỉ huy nhanh chóng áp sát mục tiêu là Đại sứ quán Mỹ(mới xây).

2 giờ 45 phút : Toàn đội biệt động D5 ngồi trên ba chiếc du lịch từ phía đường Mạc Đĩnh Chi quẹo qua đường Thống Nhất, rà sát trước tòa Đại sứ Mỹ. Xe chưa ngừng hẳn mấy loạt AK đã lia vào cổng chính. Hai tên lính Mỹ gác cổng vội thụt vào bên trong và nhanh tay đóng sập cánh cửa thép khóa lại. Bên ta, hai chiến sĩ biệt động khác nhanh nhẹn nhảy xuống xe ôm bộc phá đến đánh sập một lỗ hổng trên vách tường rào tòa Đại sứ chỗ gần bót gác ở góc đường Mạc Đĩnh Chi - Thống Nhất (nay là Lê Duẩn). 

Kế hoạch rất táo bạo: chiếm giữ tòa nhà, bắt sống Đại sứ Mỹ Bunker (tuy nhiên viên đại sứ Bunker đã bỏ chạy từ trước), đợi bộ đội và 200 sinh viên Sài Gòn tiếp ứng. 

Theo cửa mở đó, toàn đội tràn vào chiếm lĩnh trận địa bên trong. Mũi thứ nhất khống chế cổng chính. Mũi thứ hai kiểm soát cổng phụ bên đường Mạc Đĩnh Chi. Mũi thứ ba do đồng chí Ba Đen chỉ huy đánh thẳng vào trung tâm "Tòa Nhà Trắng" này. Nói thì lâu nhưng diễn biến đó chỉ xảy ra trong vòng chưa đầy hai phút. Hầu hết các đòn tiến công của biệt động thành đều mở đầu như vậy - bất ngờ và thần tốc từ chiến lược đến chiến thuật.

2 giờ 47 phút : Hai quân cảnh Mỹ một là Xác-lơ Đa-nhi-en (Charles Daniel), một là Uy-li-am Sê-bát (William Sebast) ban nãy thoát chết trong đường tơ kẽ tóc vừa lọt vào bên trong đã gọi điện thoại báo động. Chúng phát "Tín hiệu số 300" - mật hiệu ngắn nhất của quân cảnh Mỹ có nghĩa là "Bị Địch Tấn Công". Nhưng Daniel chỉ kịp gào lên hai lần trong máy : "Chúng đang tràn vào tràn vào. Cứu với! Cứu với!" - Rồi im tiếng. Liên lạc điện thoại đã mất. Một băng đạn AK đã quạt vào đầu hắn và phá hủy luôn máy điện thoại. Sebast cũng chết gục tại chỗ vì bị đạn trổ qua ngực.

Đội 11 theo ba mũi: cổng trước, cổng sau (phía đường Mạc Đĩnh Chi) và dãy nhà nhân viên hành chính. Họ nhanh chóng chiếm gần hết tầng một và tiến lên tầng 2-3, tuy nhiên lại mất 2 xạ thủ B40. Tiểu đoàn 716 quân cảnh Mỹ không tái chiếm được tòa Đại sứ, tướng Frederick Weyand (Tư lệnh các lực lượng dã chiến Mỹ ở vùng 3 chiến thuật) điều một bộ phận từ lực lượng sư đoàn dù 101 đổ quân bằng trực thăng xuống nóc tòa nhà. Tuy nhiên, chiếc trực thăng đầu tiên bị bắn quá mạnh, việc đổ quân không thể thực hiện. 5 giờ sáng, quân Mỹ vây bốn phía bên ngoài, trực thăng Sư đoàn dù 101 cũng kéo tới, ngoài ra có thêm hỗ trợ của Quân lực Việt Nam Cộng hòa ở tòa nhà bên cạnh bắn qua. 7h sáng, quân cảnh Mỹ mang mặt nạ xông vào cổng chính, lực lượng BĐ11 chống trả dữ dội, chính trị viên Út Nhỏ tử trận. 8 giờ, trực thăng mới có thể trở lại đổ quân xuống sân thượng, tấn công các chiến sĩ biệt động. 

3 giờ 5 : Một xe Jeep của quân cảnh Mỹ đi tuần bắt được "Tín hiệu 300" vội từ hướng Dinh Độc Lập chạy tới. Hai quân cảnh Mỹ - một là Giôn-ni Thô-mát (Jonnie Thomas), một là Ô-oen Mi-bớt (Owen Mebust) - vừa từ trên xe nhảy xuống đã bị bắn gục ngay tại chỗ. Bên trong, các chiến sĩ biệt động chiếm lĩnh tầng dưới một cách dễ dàng, bắt được một số tù binh gồm quân cảnh và lính thủy đánh bộ Mỹ, xong lại đánh lên lầu ba, lầu bốn bắt thêm một số tù binh nhốt cả vào phòng. Số tù nhân này cả quân sự lẫn dân sự, Mỹ có Việt có. Khi đã đầu hàng chúng đều được tha chết. (Ngay cả những phút ngặt nghèo nhất sau đó các chiến sĩ biệt động vẫn chấp hành đúng chính sách, không thèm sát hại một mạng nào).

                         

Bối cảnh sau trận biệt động tấn công Đại sứ quán Mỹ ở Sài Gòn năm 1968. Ảnh: LIFE.

3 giờ 30 đến 4 giờ : Xe hú còi vang ngoài đường. Địch đã điều động các lực lượng hỗn hợp Mỹ ngụy đến phản kích tái chiếm Tòa Đại sứ. Chúng không dám đột phá vào cổng chính mà bố trí hỏa lực mạnh từ một cao ốc đối diện bắn sang. Bên trong ta vẫn làm chủ trận địa. Ba Đen dẫn một tổ sục sạo khắp các phòng ốc trên lầu ba để tìm bắt sống đại sứ Mỹ "Èo uột" Bân-cơ (Ellsworth Bunker). Anh có biết đâu rằng lão già "tủ lạnh" này đã được nhân viên bảo vệ đưa ra khỏi Tòa Đại sứ theo một lối đi bí mật để sau đó trốn vào phòng ngủ của Leo cam-say (Leo Crampsay), một tên trùm mật vụ, nhà ở đường Pát-tơ (Pasteur). Gặp một căn phòng kiên cố cửa đóng im ỉm, tổ Ba Đen bắn vào đấy một quả B.40. Bên trong không có người mà chỉ toàn hồ sơ mật bị bốc cháy.

5 giờ sáng : Giặc vây bốn phía. Quân cảnh Mỹ "học theo" cách của biệt động phá một lỗ hổng khác ở tường tràn vào bố trí hỏa lực ở các bồn cỏ cao trong sân. Quân ta di động trong sân đánh trả. Ba Đen nhìn đồng hồ; đã qua hơn hai giờ chiếm giữ. Chi bộ Hồ Chí Minh đã hoàn thành nhiệm vụ đúng thời hạn trên giao. Trời đã hừng đông nhưng viện binh đâu? Ba Đen than thầm : "Các anh ơi! Hãy đến nhanh. Nếu chậm thì đơn vị cảm tử của chúng tôi sẽ không còn mấy người".

5 giờ 30 : Trực thăng của sư đoàn Kỵ binh không vận 101 ầm ầm quần đảo trên nóc Tòa Đại sứ. Súng ở dưới bắn lên dữ dội. Máy bay chuồn mất. Nhưng bên cổng Mạc Đĩnh Chi đã không còn nghe tiếng súng của các chiến sĩ ta. Trong tổ của Ba Đen lại thêm đồng chí Vinh, hy sinh vì bắn quả B.40 cuối cùng trong góc phòng chật hẹp vì nghi trong phòng có lão già Bân-cơ.

6 giờ : Nguyễn Văn Luận, Trung tá giám đốc Cảnh sát Đô thành điều động bộ hạ đến tiếp tay cho Mỹ. Từ trên lầu nhìn xuống các chiến sĩ ta thấy cả một rừng phóng viên báo chí nhiếp ảnh, quay phim...

7 giờ : Trời sáng rõ. Lính Mỹ mang mặt nạ đầu heo xuất hiện tấn công các chiến sĩ biệt động bằng lựu đạn cay.

7 giờ 20 : Hãng tin Mỹ AP bắt đầu loan tin do ký giả danh tiếng Pi-tơ A-nét (Peter Arnett) từ Sài Gòn điện về Niu Óoc (New York) : Việt cộng đã chiếm lĩnh bên trong Tòa Đại sứ". Các hãng thông tấn khác cũng tới tấp đưa tin. Cả thế giới đã biết và đang hồi hộp theo dõi trận đánh của biệt động Sài Gòn.

8 giờ : Trực thăng quay trở lại đổ quân lính Mỹ từ sân thượng dồn hỏa lực đánh xuống. Út Nhỏ, Sơn, Văn bị thương vẫn chiến đấu quyết liệt. Bên ta đã gần hết đạn. Phía Mỹ thêm một tên bị hạ. Đó là Giêm Ma-rơ-hon (James Marehall), hạ sĩ quân cảnh. Tên này chết gục trên sân thượng. Lính Mỹ tiếp tục tràn xuống.

8 giờ 30 : Đồng chí Mang bắn phát B.40 cuối cùng của đời mình cam chịu hy sinh vì sức ép của đạn lõm để tạm thời đẩy lui thêm một đợt phản kích của giặc.

9 giờ : Địch tràn ngập. Bên ta, toàn đội cảm tử đã chiến đấu đến viên đạn cuối cùng. Tất cả mười bảy người đều thương vong. Sau này chỉ còn một người may mắn sống sót và bị bắt làm tù binh. Đó là đồng chí Ba Đen.

                                               

                      Quân Mỹ trong trận biệt động đánh tòa Đại sứ năm 1968 ở Sài Gòn.

 

Những chi tiết trong trận đánh này về phía ta do đồng chí Ba Đen kể lại. Thời điểm, giờ giấc và các tình tiết phía bên địch do nhà báo Mỹ Đôn O-bơ-đo-phơ (Don Oberdorfer) tường thuật trong quyển sách nhan đề là "TET" nói về Mậu Thân - sách bán chạy nhất năm 1972 ở Mỹ.

Trận đánh ác liệt và đẫm máu này được các phóng viên truyền đi toàn thế giới, làm chấn động dư luận thế giới về tính khốc liệt của chiến tranh. Mặc dù chiến đấu rất dũng cảm, nhưng do quân số ít và không có tiếp viện, sau 6 giờ chiến đấu, 15 chiến sỹ tử trận. Một xạ thủ người Sài Gòn bị thương nặng, chỉ huy Ba Đen người Thái Bình bị thương ngất đi và cả hai bị quân Mỹ bắt sống. Phía Mỹ tổn thất nặng nề: có 5 lính chết tại chỗ, 17 lính chết tại bệnh viện, 124 bị thương.                     

                                                                        ***
Về phụng sự “dưới trướng” một lãnh tụ thiên tài, kiệt xuất thường là những cá nhân có năng lực nổi trội, có biệt tài xuất chúng. Hồ Chí Minh đã có được một tập thể những con người ưu tú như vậy, chẳng hạn là: Trần Phú, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh, Trần Văn Trà… Một lãnh tụ thiên tài và một tập thể lãnh đạo tài giỏi, hết lòng vì sự nghiệp giải phóng dân tộc cũng là một trong những nguyên nhân quyết định cho sự thành công vang dội trong cuộc kháng chiến cứu nước ngót 30 năm của Cách mạng Việt Nam. Trong niềm vui và tự hào khôn xiết của cả Dân tộc là niềm vui và tự hào khôn xiết của cả tập thể ấy vì đối với họ, đúng như câu thơ Trần Văn Trà đã viết:
                           “Ra đi hai bàn tay trắng
                           Khi về một dải giang sơn”
Tuy nhiên hai câu thơ đó làm cho chúng ta ngậm ngùi nhớ về nhiều con người hữu danh cũng như vô danh đã gục ngã, đã khuất trên dọc đường trường chinh ấy, nhất là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ông thực sự đã “ra đi hai bàn tay trắng” để giành lại giang sơn cho dân tộc Việt, nhưng ông đã không có mặt trong ngày Toàn Thắng.
Ngay từ năm 1960, Hồ Chí Minh đã tiên đoán rằng chậm nhất là 15 năm nữa, miền Nam sẽ được giải phóng, Nam - Bắc sẽ xum họp một nhà và thường trực trong ông một mong ước tột cùng là đến ngày đó ông sẽ vào thăm hỏi đồng bào Miền Nam. Mong ước đó đã không bao giờ thành hiện thực: Hồ Chí Minh từ trần vào ngày 2-9-1969 (đúng vào ngày Quốc Khánh của nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa - cuộc đời của những thiên tài thường hay có những điểm kỳ lạ mà chỉ có thể giải thích được bằng con đường tâm linh).
Chúng ta đã biết lý lịch của Hồ Chí Minh qua tư liệu chính thống. Nhưng cũng biết một "lý lịch" khác của Hồ Chí Minh, dù không được công nhận vì thiếu thực chứng vẫn lan tryền bàng bạc trong dân gian. Chủ nghĩa thực chứng đã ghim vào nhận thức chúng ta rằng, điều gì có thực chứng mới đáng tin còn điền nào không có thực chứng thì không đáng tin. Có lẽ đã đến lúc coi lại nhận thức này. Ở đây, chúng ta muốn trình bày những nghi vấn để hòng xây dựng nên một truyền thuyết về Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh chưa bao giờ kể về đời mình, chắc rằng không phải ông “làm cao” mà có lẽ ông định sau khi thống nhất nước nhà, thực sự mãn nguyệt rồi, lúc đó ông sẽ kể? Hay là vì điều này: Hồ Chí Minh là một vĩ nhân và những bậc vĩ nhân thường phải hội đủ hai mặt: danh tiếng “nổi như cồn” đồng thời cuộc đời có nhiều uẩn khúc? Và phải chăng địa linh nhân kiệt hun đúc nên vĩ nhân, anh hùng và đồng thời cũng bày ra sự trái ngược ấy để vĩ nhân, anh hùng đi vào lịch sử, bất tử ở đó với những câu chuyện truyền kỳ đượm sắc thái lung linh, huyền thoại liên quan đến thân thế, sự nghiệp họ?
Trong chính sử, điều rõ ràng là ở xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An có phó bảng Nguyễn Sinh Sắc lấy vợ là Nguyễn Thị Loan, sinh được ba người con: Nguyễn Sinh Khiêm, Nguyễn Thị Thanh và Nguyễn Sinh Cung. Cả ba người con ấy sau này đều không lấy vợ (hay chồng) nên cũng không có con. Lịch sử không nói đến thân phụ của Nguyễn Sinh Sắc là ai và cũng không cho biết Nguyễn Sinh Sắc là con một. Lịch sử về thân thế dòng họ Nguyễn Sinh, cơ bản chỉ có vậy. Người ta có cảm giác một dòng họ đột ngột được sinh ra từ trời đất, duy trì được 2 đời rồi tuyệt nhiên trở về trời đất, mất hút. Thật kỳ lạ!
Ngưỡng mộ và kính phục Hồ Chí Minh, trong một thời gian dài, chúng ta đã cố gắng tìm hiểu nguồn gốc, dòng họ của Nguyễn Sinh Cung (tên lúc còn nhỏ của Hồ Chí Minh), từ Nguyễn Sinh Sắc - thân phụ ông, trở về trước và không thu được một manh mối thực sự đáng tin nào. Đành rằng ở Nam Đàn, Nghệ An cũng có một dòng họ Nguyễn Sinh, và cũng có thông tin kiểu “rỉ tai, truyền khẩu” rằng Nguyễn Sinh Sắc là con em ruột thịt của dòng họ này. Nhưng vì thông tin đó tỏ ra manh mún, mờ nhạt và hơn nữa ẩn chứa nhiều mâu thuẫn nên rất khó lòng mà tin được. Thời Nguyễn Sinh Sắc so với ngay thời nay vẫn là một quá khứ “rất gần”, so với thời Hồ Chí Minh còn sống, còn gần hơn nữa. Sao trong thực tế lịch sử thấy mối quan hệ giữa cha con Nguyễn Sinh Sắc với dòng họ Nguyễn Sinh có vẻ hời hợt, thiếu mật thiết? Chưa từng nghe Hồ Chí Minh có chú, bác ruột. Điều đó phải chăng vì Nguyễn Sinh Sắc là con trai một? Nếu thế sao không thấy Nguyễn Sinh Sắc lập bàn thờ, ít ra là thờ cha mẹ mình theo truyền thống dân tộc Việt. Tại sao lúc về già, Nguyễn Sinh Sắc giã từ con cái (ông Khiêm, bà Thanh), rời bỏ quê hương bản quán, hành phương Nam, đến Cao Lãnh - Đồng Tháp xa xôi hành nghề bốc thuốc và hoạt động yêu nước rồi mất tại đó?
Dứt khoát thông tin “rỉ tai, truyền khẩu” nói trên chưa xuất hiện khi ông Khiêm, bà Thanh và Hồ Chí Minh còn sống, vì không ai trong số họ, như mọi người dân Việt khác lại vô cớ chối bỏ dòng họ, ông bà mình. Nếu lúc đó đã có thông tin đó thì nó phải là sự thực, có tính công khai và phải có rất nhiều người biết, còn không, chỉ là một sự vu khống. Mà ai lúc đó dám mở miệng vu khống? Có thể nghĩ rằng đó là một thông tin thất thiệt, mãi về sau mới được tung ra và đơn giản là chỉ vì một ước muốn háo danh thầm kín nào đó chăng?
Như vậy, nếu suy luận của chúng ta có lý thì họ Nguyễn Sinh của Nguyễn Sinh Sắc và dòng họ Nguyễn Sinh ở Nam Đàn - Nghệ An chỉ là một sự trùng hợp ngẫu nhiên, còn không, nó phải hàm chứa một uẩn khúc nào đó. Để giải tỏa cái uẩn khúc đó thì trước tiên phải trả lời được câu hỏi: Nguyễn Sinh Sắc thực sự là ai, tại sao lại mang họ Nguyễn Sinh? Theo một bài viết (theo tác giả, "Đây là những lời truyền miệng nhân gian, cho nên cùng lắm, chúng chỉ có thể coi là những giai thoại mà, nếu không khó tính lắm, ta cũng có thể gọi là những giai thoại lịch sử.") của giáo sư Trần Quốc Vượng, là một trong những nhà khảo cổ học và nghiên cứu sử Việt Nam hàng đầu: 
"Nhưng đây không phải là chuyện cu. Hồ, tuy cũng có dính dáng đến cu. Hồ. Mà vì đây là chuyện cụ thân sinh ra cu. Hồ, cu. Nguyễn Sinh Huy, mà cũng là chuyện truyền miệng thôi, nghĩa là thuộc phạm trù giai thoại, Folklore, chứ không thuộc phạm trù lịch sử, như tôi đã nói từ đầu bài này.
Người dân Kim Liên đồn rằng Nguyễn Sinh Huy không phải là thuộc dòng máu mủ của ho. Nguyễn Sinh làng này. Mà là con của một người khác: ông đồ nho - cử nhân - Hồ Sĩ Tạo.
Cử nhân Hồ Sĩ Tạo thuộc dòng họ Hồ nổi tiếng ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An (đây là quê gốc của Hồ Quý Ly, nhân vật lịch sử cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV, đây cũng là quê gốc của anh em Tây Sơn thế kỷ XVIII, vốn họ Hồ ở xứ Nghệ, đây cũng là quê hương Hoàng Văn Hoan, người đồng chí thân cận một thời của cụ Hồ Chí Minh, được cụ Hồ giao phụ trách công tác đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam và chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa thời kháng chiến chống Pháp và là Đại sứ Việt Nam đầu tiên ở Cộng Hòa nhân dân Trung Hoa, hiện sống lưu vong ở Trung Hoa, có viết một tài liệu lịch sử làng Quỳnh Đôi, quê ông. Bà vợ nhà văn lớn Đặng Thái Mai - người một thời làm Viện trưởng viện Văn Học - là Hồ Thị Toan, cũng thuộc dòng ho. Hồ này ở làng Quỳnh Đôi). Khoảng đầu những năm 60 của thế kỷ trước (thế kỷ XIX) cử nhân Hồ Sĩ Tạo có thời gian ngồi dạy học ở một nhà họ Hà, người làng Sài, cùng một xã Chung Cự, tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Đàn, với làng Sen (Kim Liên). Đó là một nhà nghệ nhân dân gian, trong nhà có "phường hát ả đào".

      Nhà họ Hà có cô con gái tên là Hà Thị Hy, tài hoa, nhan sắc, đàn ngọt, hát hay, múa khéo, đặc biệt là múa Đèn (đội đèn trên đầu, để đèn trên hai cánh tay, vừa hát vừa múa mà dầu trong đĩa không sánh ra ngoài) nên người làng thường gọi là cô Đèn. Người ta thường bảo: má hồng thì mệnh bạc (như Đặng Trần Côn viết mở đầu khúc Chinh Phụ Ngâm "hồng nhan đa truân" - gái má hồng nhiều nỗi truân chuyên. Hay như Nguyễn Du than thở dùm người đẹp tài hoa trong truyện Kiều "chữ tài chữ Mệnh khéo là ghét nhau", "rằng hồng nhan tự thuở xưa, cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu"). Vả ở thời ấy, dưới chế độ quân chủ nho giáo, lấy Tứ Dân (Sĩ, Nông, Công, Thương) làm gốc, người ta vẫn xem thường nghề ca xướng và con nhà ca xướng ("xướng ca vô loài"). Cô Đèn Hà Thị Hy tài hoa nhan sắc là thế mà rồi ba mươi tuổi vẫn chưa lấy được chồng. Mà trong nhà thì lại luôn có bậc văn nhân: ông cử Hồ Sĩ Tạo. "Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén" là lẽ thường theo tâm lý dân gian, huống chi là giữa văn nhân - tài tử - giai nhân. "Trai tài gái sắc" mà! Và cô Hà Thị Hy bỗng dưng "không chồng mà chửa". Mà ông cử Tạo thì đã có vợ, có con rồi! Lệ làng ngày trước phạt vạ rất nặng nề, sỉ nhục hạng gái "chửa hoang", hạng "gian phu dâm phụ". Để tránh nỗi nhục cho con gái mình và cho cả ông cử Tạo đang làm "thầy đồ" được hết sức kính trọng trong nhà mình, họ Hà phải bù đầu suy tính...
Lúc bấy giờ ở làng Sen cùng xã có ông Nguyễn Sinh Nhậm, dân cày, tuổi cao mà góa vợ (bà vợ trước đã có một con trai - Nguyễn Sinh Thuyết - và người con trai này cũng đã có vợ). Nhà họ Hà bèn cho gọi ông Nguyễn Sinh Nhậm đến điều đình, "cho không" cô Hy làm vợ kế ông này - như một người con gái xướng ca, quá lứa, lỡ thì, lấy ông già góa vợ - mong ém nhém việc cô gái đã "to bụng".
Công việc rồi cũng xong. Cô Hy ôm bụng về nhà chồng, có cưới, có cheo cẩn thận. Việc phạt vạ của làng không thể xảy ra. Nhưng cô gái tài hoa nhan sắc thì bao đêm khóc thầm vì bẽ bàng, hờn duyên tủi phận. Và ông lão nông dốt nát tuy được không cô gái đẹp nhưng cũng buồn vì đâu có đẹp đôi, lại cắn răng chịu đựng cái tiếng ăn "của thừa", "người ăn ốc (ông cử Tạo), kẻ đổ vỏ (cụ lão nông Nhậm)". "Miệng tiếng thế gian xì xầm", ai mà bịt miệng nổi dân làng. Mà trước hết là lời "nói ra, nói vào", lời chì chiết của nàng dâu - vợ anh Thuyết - vốn nổi tiếng ngoa ngoắt, lắm điều. Ông Nhậm đành cho con trai và vợ anh ta ra ở riêng, và mình ở riêng với bà vợ kế.
Chỉ ít tháng sau, bà vợ kế này đã sinh nở một mụn con trai, được ông đặt tên là Nguyễn Sinh Sắc, lấy họ ông mặc dù ông biết rõ hơn ai hết đó không phải là con ông, con nhà họ Nguyễn Sinh này. Nàng dâu ông càng "tiếng bấc, tiếng chì" hơn trước, vì ngoài việc bố chồng "rước của tội, của nợ", "lấy đĩ làm vợ" thì nay còn nỗi lo": người con trai này - được ông nhận làm con - lớn lên sẽ được quyền chia xẻ cái gia tài vốn cũng chẳng nhiều nhặn gì của một gia đình nông phu thôn dã. Việc ấy xảy ra vào năm Quý Hợi, đời vua Tự Đức thứ 16 (1863).
Vì trọng tuổi, lại vì lo phiền, vài năm sau cụ Nhậm qua đời và cũng chỉ ít lâu sau đó, bà Hy cũng mất. Nguyễn Sinh Sắc trở thành đứa trẻ mồ côi. Lên bốn, về ở với người anh gọi là "cùng cha khác mẹ" mà thật ra là "khác cả cha lẫn mẹ", cùng với bà chị dâu ngoa ngoắt, khó tính, lúc nào cũng chỉ muốn tống cổ cái thằng "em hờ" của chồng này đi cho "rảnh nợ".
Không cần nói, ta cũng hiểu Nguyễn Sinh Sắc khổ tâm về tinh thần, khổ cực về vật chất như thế nào trong cái cảnh nhà Nguyễn Sinh như vậy. Ta cảm thấy vô cùng thương xót một đứa trẻ mồ côi sớm chịu cảnh ngang trái của cuộc đời. Bên ngoại thì ông bà đều đã mất, họ Hà chẳng còn ai chịu cưu mang đứa trẻ có số kiếp hẩm hiu này.
May có ông tú đồ nho Hoàng Xuân Đường, người làng Chùa (Hoàng Trù) gần đó, xót thương đứa trẻ, dù sao cũng là hòn máu rơi của một nhà nho khác, lại có vẻ sáng dạ, nên đã đón về làm con nuôi, cho ăn học. Và đến khi Nguyễn Sinh Sắc 18 tuổi, ông bà đồ họ Hoàng lại gả cho cô con gái đầu lòng - Hoàng Thị Loan - mới 13 tuổi đầu, cho làm vợ, lại làm cho căn nhà tranh ba gian ở ngay làng Chùa, để vợ chồng Nguyễn Sinh Sắc ở riêng.
Ta dễ hiểu vì sao Nguyễn Sinh Sắc gắn bó với họ hàng làng quê bên vợ - làng Chùa - hơn là với làng Sơn "quê nội", quê cha "hờ". Con cái ông, từ người con gái đầu Nguyễn Thị Thanh, qua người con trai đầu Nguyễn Sinh Khiêm (tục gọi ông cả Đạt) đến người con trai thứ Nguyễn Sinh Côn (hay Nguyễn Tất Thành - sau này là Nguyễn Ái Quốc rồi Hồ Chí Minh) đều được sinh ra và bước đầu lớn lên ở làng Chùa bên quê Mẹ hay là quê "ngoại". Khi cụ tú Hoàng (Hoàng Xuân Đường) mất, vợ chồng con cái Nguyễn Sinh Sắc lại về ăn ở chung với bà đồ (tú) Hoàng. Các cháu đều quấn quít quanh bà ngoại.
Qua giỗ đầu cụ tú Hoàng, Nguyễn Sinh Sắc đi thi Hương khoa Giáp Ngọ và đậu cử nhân (1894). Ông được nhận ruộng "học điền", ruộng công của làng Chùa chia cho những người có học (nhằm khuyến khích việc học) để học thêm - chứ không phải nhận ruộng học của làng Sen. Khoa thi Hội Ất Mùi (1895), ông thi trượt.
Nhờ sự vận động gửi gấm của ông Hồ Sĩ Tạo - người cha thực của Nguyễn Sinh Sắc - với các quan lại đồng liêu quen biết ở triều đình Huế, Nguyễn Sinh Sắc được coi như ấm sinh, để được nhận vào học Quốc Tử Giám ở kinh đô Huế. (Ai cũng biết: để được nhận vào học Quốc Tử Giám và làm Giám sinh phải là con cháu của những gia đình có thế lực, gọi là "danh gia tử đệ". Nếu không có sự "can thiệp" của ông Hồ Sĩ Tạo là bậc khoa bảng cao quan thì làm sao Nguyễn Sinh Sắc được nhận? Thế là dù sao Hồ Sĩ Tạo vẫn còn có một "cử chỉ đẹp" với đứa con mà mình không dám nhận). Nguyễn Sinh Sắc - đổi tên là Nguyễn Sinh Huy - đem vợ và hai con trai vào Huế và đi học Quốc Tử Giám. Khoa thi Hội Mậu Tuất (1898), ông lại trượt.
Ngày 22 tháng chạp năm Canh Tý (10-2-1901) bà Hoàng Thị Loan ốm mất ở kinh đô Huế, sau khi sinh đứa con trai út (đứa con trai này ít ngày sau cũng chết). Nguyễn Sinh Côn (Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh ngày nay) trở thành con trai út.
Nguyễn Sinh Huy đem hai con trai về làng Chùa gửi mẹ vợ nuôi nấng chăm sóc dùm rồi trở vào Kinh thi Hội. Khoa Tân Sửu (1901) này, ông đậu phó bảng và được "vinh quy bái tổ" về làng.
Theo thể thức triều đình, lễ vinh quy này phải diễn ra ở quê nội - dù là quê nội danh nghĩa - tức là làng Sen - Kim Liên. Hội đồng Hương lý và dân xã đã dựng nhà tranh năm gian (chứ không phải nhà ngói) trên một khoảnh đất vườn làng Sen, để đón quan phó bảng tân khoa Nguyễn Sinh Huy về làng.
Thế là buộc lòng ông phải về "quê nội". Ông cũng đón hai con trai về ở cùng ông. Lần đầu tiên Nguyễn Sinh Côn - Hồ Chí Minh ngày sau - về ở quê nội nhưng thân ông, lòng ông vẫn hướng về quê ngoại là cái gì "đích thực" và gắn bó với tuổi tho ông. Ông phó bảng có đến thăm cụ Hồ Sĩ Tạo.
Nhưng gia đình ông phó bảng cùng hai con trai cũng không ở lâu tại Kim Liên. Chưa đầy ba năm! Sau khi mẹ vợ mất, ông vào kinh đô Huế nhận chức quan (1904) ở bô. Lễ, đem theo hai con trai vào Huế học. Năm 1907, ông bị đổi đi tri huyện Bình Khê ... Rồi sau khi bỏ quan (hay mất quan), khoảng 1910, ông phiêu bạt vô Sàigòn rồi lục tỉnh Nam Kỳ. Không bao giờ ông về làng Sen trở lại nữa.
Ở làng Sen sau này, chỉ có bà Thanh và ông Cả Đạt (Khiêm), cả hai đều không lập gia đình riêng.
Người ta bảo lúc sau khi cụ Hồ Sĩ Tạo đã qua đời, năm nào bà Thanh cũng qua Quỳnh Đôi góp giỗ cụ Hồ Sĩ Tạo. Thế nghĩa là cái "bí mật" về cội nguồn của cụ phó bảng Huy, trong số các con cụ, ít nhất có bà con gái đầu biết. Người ta bảo: ông Cả Đạt cũng biết, tuy không bao giờ ông sang Quỳnh Đôi nhận họ.
Còn Nguyễn Sinh Côn - Nguyễn Tất Thành - có biết không? Từ khoảng 11 đến 14 tuổi, ông ở làng Sen, có nhẽ nào không ai nói cho ông biết? Hay là trước đó nữa, khi ông ở làng Chùa quê ngoại gần gụi với làng Sen! Hay là sau đó nữa chả nhẽ không khi nào cụ phó bảng hay bà Thanh hay ông Cả Đạt lại không kể với ông về "bí mật" của gốc tích phụ thân mình?
Không có chứng cớ gì về việc ông Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - biết hay không biết chuyện này...
Sau này, khi hoạt động cách mạng, ông còn mang nhiều tên khác nữa.
Nhưng đến đầu thập kỷ 40 của thế kỷ này, thì người ta thấy ông mang tên Hồ Chí Minh.
Sau cách mạng tháng tám 1945, khi tên tuổi Hồ Chí Minh trở thành công khai thì cũng bắt đầu từ đó dân gian Việt Nam - từ trí thức đến người dân quê - lại âm thầm bàn tán: vì sao Nguyễn Ái Quốc lại đổi tên là Hồ Chí Minh? Và tên này cụ giữ mãi cho tới khi "về với Các Mác, Lê-nin" năm 1969.
Cuộc đời thực của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh - còn quá nhiều dấu hỏi chứ phải đâu riêng gì một cái tên! Và biết làm sao được khi cụ Hồ - tôi nói lại một lần nữa theo cảm thức của người Ấn Độ - đã trở thành "huyền thoại" (myth). Huyền thoại Hồ Chí Minh được hình thành trong vô thức dân gian (popular inconscience) mà Carl Gustav Jung gọi là vô thức tập thể. Nhưng nó cũng có phần được hình thành một cách hữu thức, bởi một số cán bộ gần cận cụ Hồ. Nghĩa là một phần cuộc đời cụ Hồ đã được huyền thoại hóa (mystified).
Ngay sau cách mạng tháng Tám, người ta còn in cả cuốn sách (mỏng thôi!) về Sấm Trạng Trình có những câu vận vào cụ Hồ và sự nghiệp cách mạng tháng Tám. Và Sấm Trạng Trình vẫn được vận vào cụ Hồ còn lâu về sau nữa, ở miền Nam Việt Nam và hiện nay ở một số người Việt lưu vong, dù là với hậu ý (arrière-pensée) không ưa gì cụ Hồ.
Nhưng đó lại không phải là chủ đề của bài viết này.
Trở lại với cái tên Hồ Chí Minh, lời truyền miệng dân gian bảo rằng: Nguyễn Ái Quốc sau cùng đã lấy lại họ Hồ vì cụ biết ông nội đích thực của mình là cụ Hồ Sĩ Tạo, chứ không phải cụ Nguyễn Sinh Nhậm.
Và dân làng Sen cũng bảo: Thì cứ xem, lần đầu tiên về thăm quê hương, sau cách mạng, sau mấy chục năm xa quê (15-6-1957), từ thị xã Vinh - tỉnh Nghệ An - cụ Hồ đã về làng Chùa trước, rồi sau mới sang làng Sen "quê nội".
Riêng tôi nghĩ, thì cũng phải thôi. Vì như ở trên ta đã thấy, cả một thời thơ ấu của cụ Hồ là gắn bó với quê ngoại làng Chùa, nơi cụ sinh ra và bước đầu lớn lên. Chứ đâu phải làng Sen, là nơi cụ chỉ ở có vài năm, lại là khi đã bắt đầu khôn lớn?
Tôi không muốn có bất cứ kết luận "khoa học" gì về bài viết này. Vì nó không phải là một luận văn khoa học. Đây chỉ là việc ghi lại một số lời truyền miệng dân gian về nỗi bất hạnh hay là cái khổ tâm, hay là cái "mặc cảm" của một số nhà trí thức Nho gia từ đầu thế kỷ XIV (Trương Hán Siêu, Chu Văn An) đến đầu thế kỷ XX (Nguyễn Sinh Huy) đối với làng quê..."
Thế rồi, như một sự tình cờ dễ chịu, mới đây, chúng ta có trong tay một cuốn sách cũ có tựa đề: “Anh hùng Võ Duy Dương chống Pháp ở Đồng Tháp Mười” do nhà nghiên cứu Thượng Hồng chủ biên (NXB Thanh niên, 2005), và hơn nữa, đọc được bài “Địa linh tam giác hợp, nhân kiệt nhị tộc giao” của Nguyễn Thế Kỷ trong tạp chí “Thế giới mới” số 818, năm 2009. Đọc hai bản văn đó, trong lòng chúng ta trỗi dậy một niềm vui khôn tả. Thì ra trong dân gian miền Trung và Nam Việt Nam, từ lâu đã lưu truyền câu chuyện về thân thế, gốc gác dòng họ của phó bảng Nguyễn Sinh Sắc (cũng là của Chủ tịch Hồ Chí Minh) và câu chuyện đó rất giàu sự thực. Chưa cần nói đến nội dung, chỉ cần nhìn thấy chân dung truyền thần của Võ Duy Dương thôi, thì ngay lập tức chúng ta đã mường tượng đến khuôn mặt của thanh niên Nguyễn Ái Quốc được chụp trong dịp hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Pháp; khuôn mặt của Lyn ở Mátxcơva, khuôn mặt của Tống Văn Sơ ở Trung Quốc và khuôn mặt Hồ Chí Minh cùng bộ râu của ông trong ngày Tuyên ngôn Độc Lập tại Hà Nội. Giống nhau “ghê gớm”, chỉ có khác là mắt Hồ Chí Minh cực sáng như có tia sáng phát ra từ bên trong và sâu thẳm nỗi niềm.
Theo Nguyễn Thế Kỷ thì Vũ Kỳ, người từng là thư ký của Hồ Chí Minh, lúc còn sống đã nói với ông rằng: Hồ Chí Minh thường nhắc nhiều đến Quảng Ngãi; khi bàn đến việc kết nghĩa giữa hai tỉnh với nhau, nhiều người hỏi tại sao Nghệ An phải kết nghĩa với Quảng Ngãi chứ không phải tỉnh nào khác, Hồ Chí Minh chỉ cười, và Vũ Kỳ còn nói: “Chuyện Bác (tức Hồ Chí Minh) nói về Quảng Ngãi, về Nghĩa Hành thì dài lắm, sâu nặng lắm, đợi đến khi nước nhà thống nhất, Bắc Nam xum họp, Bác mới nói được và sẽ về thăm làng Đại An, Quảng Ngãi và về Đồng Tháp Mười viếng mộ cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, Thiên Hộ Dương…”
Tại Đồng Tháp, nơi Võ Duy Dương tụ nghĩa chống Pháp, từ lâu trong dân gian đã xôn xao lời đồn “Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc là con ông Thiên Hộ Dương”.
Trong bài viết của mình, Nguyễn Thế Kỷ còn kể rằng thạc sĩ Võ Kim Chi và Võ Duy Ngô có đưa cho ông xem bản phả đồ phả hệ sơ lược của dòng họ Võ thì thấy:
Võ Duy Ninh - Tổng trấn Gia Định có hai con là Võ Duy Lập và Võ Duy Ngọc. Võ Duy Ninh và Hoàng Diệu là hai bạn thân cùng xuất phát từ Hưng Yên. Khi thành Gia Định thất thủ và Võ Duy Ninh tuẫn tiết thì Võ Duy Lập lập tức đứng ra chiêu mộ hàng ngàn người lập ấp, cùng Trương Định, Thủ khoa Huân tiếp tục chống Pháp. Nhờ chiêu mộ được hàng ngàn hộ dân nên ông được triều đình Huế phong chức Thiên Hộ Vương. Người Nam bộ nói Vương thành Dương nên tên Lập dần bị quên đi. Từ đó người ta gọi ông là Võ Duy Dương, Thiên Hộ Dương. Sau khi thất thủ ở căn cứ Đồng Tháp Mười, Võ Duy Dương vượt thoát vòng vây, cải trang đánh lừa mật thám Pháp, ra được Phan Thiết - Bình Thuận, rồi từ đó lần về quê ở Đại An - Hành Thuận - Nghĩa Hành… Sau lên chợ chùa mai danh ẩn tích. Võ Duy Dương có 5 người con là Võ Cường, Võ Kỳ, Võ Sắc, Võ Thị Thắm, Võ Thị Lan. Khi Võ Sắc lên 4 tuổi thì được cha Võ Duy Dương tìm cách đưa ra Nghệ An gửi gắm ông Hoàng Đường. Hoàng Đường là người có quan hệ ruột thịt với Tổng Trấn Hoàng Diệu, cũng từ Hưng Yên vào dạy học ở Nghệ An. Để tránh mọi hệ lụy trước sự dò la của mật thám Pháp, Hoàng Đường đã cố gắng cho Võ Sắc có cha mới và người này có họ là Nguyễn Sinh. Từ đó Võ Sắc trở thành Nguyễn Sinh Sắc. Sau này, Hoàng Đường đã gả con gái đầu là Hoàng thị Loan cho Nguyễn Sinh Sắc. Sự tác hợp này chính là cái duyên “Nhân kiệt nhị tộc giao”, sinh ra Nguyễn Sinh Cung để rồi Nguyễn Sinh Cung hóa thân thành một đại anh hùng của dân tộc Việt, thành danh nhân của thế giới với cái tên Hồ Chí Minh bất hủ.
Nhưng tại sao lại là Hồ Chí Minh? Cái tên đó được chọn tình cờ hay có ẩn ý? Chúng ta tin rằng một con người ôm ấp nhiều nỗi niềm và tư duy một cách sâu sắc như thế không bao giờ làm những điều tình cờ.
Trên bước đường bôn ba hoạt động cách mạng của mình, trước khi mang tên họ “chung cuộc” là Hồ Chí Minh, Nguyễn Sinh Cung đã thay tên đổi họ nhiều lần, chủ yếu là do yêu cầu phải giấu tung tích, nhưng một phần có lẽ cũng là do ý thích. Vì vậy có thể cho rằng mỗi cái tên được chọn, đều ẩn chứa một ý nghĩa nào đó. Thật là khập khiễng, nhưng đến đây một sự liên tưởng bật ra trong bộ não đầy ngập hoang tưởng của chúng ta: Thiên Hộ Dương cũng nhiều lần thay tên đổi họ: Võ Duy Lập, Võ Quá, Võ Duy Dương và chắc chắn còn có vài tên họ khác nữa mà người đời chưa phát hiện ra. Đặc biệt trong thành phố Hồ Chí Minh, có một con đường mang tên Nguyễn Duy Dương. Nguyễn Duy Dương là ai, có phải cũng là Võ Duy Dương không? Nếu người đặt tên Nguyễn Duy Dương cho con đường, thực sự cho rằng đó là tên họ của Thiên Hộ Vương và không bị ai thắc mắc hay phản bác thì tất phải có một lý do xác đáng nào đó và cũng có thể có một giai đoạn nào đó người ta không gọi Thiên Hộ Vương là Võ Duy Dương mà là Nguyễn Duy Dương - thay họ Võ bằng họ Nguyễn?
Sự thật lịch sử là có những người con của dòng họ Võ Duy đã từ Quảng Ngãi vào định cư ở Gia Định từ thời Thiệu Trị và Tự Đức. Năm 1842 (Thiệu Trị năm thứ 2), trong số 16 người đỗ cử nhân ở cuộc thi hương tại Gia Định có Võ Duy Quang (ngụ ở huyện Bình Dương). Năm 1848 (Tự Đức năm thứ nhất), thi hương tại Gia Định có 20 người đỗ cử nhân, trong đó có Võ Duy Hiền (ngụ huyện Bình Dương). Năm 1852 (Tự Đức năm thứ 5), trong số 13 người đỗ cử nhân tại kỳ thi hương ở Gia Định có Võ Duy Hương (ngụ huyện Bình Dương). Thời ấy huyện Bình Dương thuộc Gia Định thành. Võ Duy Hương là con ruột của Võ Duy Thành, mà Võ Duy Thành chính là anh ruột của Võ Duy Ninh (Thành và Ninh lúc bấy giờ đều là quan của triều đình Huế).
Tuy nhiên, điều rất lạ là trong suốt quãng thời gian đó và cho đến tận ngày Võ Duy Ninh tuẫn tiết, không thấy bất cứ một trang sách báo còn lưu lại nào, không có bất cứ một dòng sử liệu nào nhắc đến cái tên Võ Duy Dương cũng như mối quan hệ giữa Võ Duy Ninh và Võ Duy Dương, mặc dù Võ Duy Dương đã xuất hiện ở Nam Bộ, muộn nhất cũng vào năm 1857. Phải chăng lúc đó Võ Duy Lập đã đổi tên họ thành Nguyễn Duy Dương và chỉ sau khi triều đình phong cho chức Thiên Hộ Vương thì người ta mới biết gốc tích họ Võ Duy của ông mà từ đó gọi là Võ Duy Dương?
Chúng ta không có dịp được tận mắt xem gia phả họ Võ Duy nên xin đặt thêm câu hỏi: Vậy thân phụ Võ Duy Ninh là ai? Trong phả đồ, phả hệ sơ lược của dòng họ Võ Duy chỉ thấy bắt đầu từ Võ Duy Ninh và điều đáng chú ý hơn cả là, đúng thật, Võ Duy Lập còn có tên là Nguyễn Duy Dương.
Tại sao Võ Duy Lập lại “thích” họ Nguyễn Duy? Có lẽ nào dòng họ Võ Duy là từ dòng họ Nguyễn Duy, hay nói cho đúng hơn nữa là từ họ Nguyễn cải sang và từ ai đó mà Võ Duy Lập đã biết được điều (có thể là tuyệt mật) đó? Chúng ta đoán sự cải họ là tuyệt mật vì sống dưới triều Nguyễn, chẳng có động cơ nào để phải làm như thế. Chúng ta biết rằng khi triều Tây Sơn bị đánh đổ, dưới sự truy sát trả thù khốc liệt của Nguyễn Ánh, nhiều người có liên quan mật thiết với triều Tây Sơn đã phải cải họ, đổi tên, mai danh ẩn tích để sống còn (như trường hợp “Sinh Đào tử Đinh” mà chúng ta đã kể). Vậy, nếu dòng họ Võ Duy thực tế được cải sang từ họ Nguyễn và phải giữ kín như một điều tuyệt mật liên quan đến sống còn thì dòng họ này phải có quan hệ rất mật thiết với triều Tây Sơn, thậm chí là có mối thân tộc với dòng họ của ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ.
Bây giờ, chúng ta sẽ tập trung cao độ vào sự suy tưởng để “đoán mò” những ẩn ý sau những danh xưng Nguyễn Sinh Cung đã chọn cho mình mà chúng ta biết. Rõ ràng, cái tên Nguyễn Sinh Cung nếu có một ẩn ý nào đó thì chỉ có thể là ẩn ý của vợ chồng Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc.
Trong hồi ký “Tôi được làm người học trò nhỏ của Bác” của Lê Thiết Hùng, một vị tướng của Quân đội nhân dân Việt Nam, có kể là theo lời ông Nguyễn Sinh Khiêm (anh ruột Nguyễn Sinh Cung, quen gọi là Cả Khiêm) thì một bận, ông Giải San (Phan Bội Châu) muốn đưa Nguyễn Sinh Cung sang Nhật cùng với một số thanh niên khác. Trước mặt ông Đặng Thái Thân vừa thay mặt Hội, vừa như bậc cha chú, Nguyễn Sinh Cung trân trọng nói đại ý: Cháu rất quí trọng tấm lòng yêu nước thương nòi của các bác, nhưng con đường đi của các bác thì cháu không thể theo được, cháu sẽ tìm con đường đi khác.
Chuyện đó cho thấy ngay từ thời niên thiếu, Nguyễn Sinh Cung đã cảm nhận được sự bế tắc của cuộc giải phóng dân tộc do các nhà cách mạng tiền bối tiến hành. Do đó, Nguyễn Sinh Cung đã nung nấu đi tìm một con đường cứu nước khác, đúng đắn nhất, muốn thế, trước hết phải xuất bôn, tự mình quan sát, tìm hiểu trực tiếp thế giới. Để tỏ rõ sự quyết chí của mình, ngay từ những bước đi đầu tiên tới Phan Thiết trong cuộc hành trình vạn dặm và dài lâu, Nguyễn Sinh Cung đã đổi tên thành Nguyễn Tất Thành. Tất Thành là phải thành công, chắc chắn thành công! Vào đến Sài Gòn, khi bước chân xuống một tàu buôn Pháp nhận vai phụ bếp, chính thức rời Tổ quốc đi vòng quanh thế giới, Nguyễn Tất Thành lại đổi tên thành Nguyễn Văn Ba. Cái tên này giản dị và thông thường quá, khó mà có một ẩn ý nào. Nhưng chúng ta, vốn là những kẻ “cứng đầu cứng cổ”, vẫn cố “nghĩ ngợi” một phen.
Tại sao lại là Ba? Ngoài người anh ruột là Cả Khiêm, Tất Thành còn có người chị ruột là bà Nguyễn Thị Thanh - Hai Thanh. Vậy có thể gọi Tất Thành là Ba Thành. Ba có nghĩa là người anh em thứ ba chăng? Có thể suy diễn Ba là bôn ba, nhưng suy diễn đến thế thì e quá lố mất rồi! Trong cuộc sống thường ngày, người dân Nam Bộ thường dùng cách xưng hô theo thứ rất giản dị mà cũng thân mật như: Anh Hai (người Bắc gọi là anh Cả), Chị Ba, Ông Tư… Đặt tên là Ba chắc chỉ hàm ý như vậy thôi. Thế còn tại sao lại đổi từ Sinh thành Văn? Khi lớn lên không lẽ Nguyễn Sinh Cung không một lần thắc mắc về dòng họ nội của mình? Chắc rằng, như sau này chúng ta thấy, Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc đã biết rất rõ quê hương bản quán bên nội của mình là ở Quảng Ngãi, có thể cả bên ngoại là ở Cao Lãnh - Đồng Tháp hoặc Bình Dương - Gia Định. Tuy nhiên có lẽ ông không biết tung tích mẹ và người cha Nguyễn Duy Dương của mình, hoặc tin rằng cha mình đã mất. Hơn nữa, có thể Nguyễn Sinh Sắc cũng biết mối quan hệ rất gần gũi, mật thiết của dòng họ nội với ba anh em nhà Tây Sơn (mà chúng ta đã giả định). Những thông tin này chẳng lẽ Nguyễn Sinh Cung không biết? Sách “Tây Sơn lương tướng ngoại truyện” của tiến sĩ Nguyễn Trọng Trì (1854-1922), viết về lai lịch, tư chất, sự nghiệp công huân, phẩm hàm của 14 vị võ tướng Tây Sơn, trong đó có 8 vị quê ở Nghĩa - Bình (Quảng Ngãi - Bình Định) là:
Đô đốc Nguyễn Văn Tuyết
Đô đốc Đặng Văn Long
Đô đốc Nguyễn Văn Lộc
Tướng quân Lê Văn Hưng
Tướng quân Lê Văn Trung
Tướng quân Phạm Cầu Chính
Tướng quân Võ Đình Tú
Tướng quân Đặng Xuân Phong
Chưa kể nữ đô đốc Bùi Thị Xuân và có thể còn thêm vài người nữa…
Phải chăng Võ Duy Lập, một con người khí phách, đã cải họ trở lại từ Võ thành Nguyễn và Nguyễn Tất Thành, một con người đang quyết chí, đã cải họ lót từ Sinh thành Văn vì nguyên nhân (mà chúng ta đã giả định) này?
Khi hoạt động trên đất Pháp, Nguyễn Tất Thành đổi tên thành Nguyễn Ái Quốc. Ái Quốc chính là sự bày tỏ nỗi niềm nhớ thương, tình yêu nồng nàn đối với Tổ Quốc của một con người ra đi tìm đường cứu nước biền biệt mà vẫn mịt mù sương khói.
Năm 1920, tiếp xúc được với “Những luận cương” của Lênin đăng trên báo “Nhân đạo” ở Pari, Nguyễn Ái Quốc đã thốt lên: “…Đây là con đường giải phóng chúng ta!”, và: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.
Tháng 6-1923, Nguyễn Ái Quốc bí mật sang nước Nga-Xôviết. Tại đây ông lấy bí danh là Lyn. Ẩn ý của bí danh này, theo chúng ta, là sự ngưỡng mộ Cách mạng Tháng Mười, khâm phục Lênin và tự nhận là học trò của Lênin.
Cuối năm 1924, Nguyễn Ái Quốc về đến Quảng Châu, mang một cái tên mới: Lý Thụy. Ẩn ý của Lý Thụy là gì? Thật là vô cùng khó suy đoán! Thụy hàm nghĩa gì? Sự nông cạn trong kiến thức văn chương đã bắt buộc chúng ta, dù cứng đầu cứng cổ đến mấy cũng đành bất lực trước chữ Thụy này. (Có lẽ mai mốt có dịp, phải đi hỏi ông An Chi mới xong!). Thế còn họ Lý? Chúng ta biết rằng Nguyễn Ái Quốc là một người hết mực yêu nước thương nòi, đã tìm hiểu đến am tường lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, đồng thời cũng rất tự hào về dân tộc Việt của mình. Thời xa xưa, dân tộc Việt có ba vị anh hùng tạo được 3 mốc son không thể phai mờ trong lòng con cháu hôm nay và mai sau, đó là:
- Lý Bí: Lý Bí là người đã phất cờ khởi nghĩa, kháng chiến đánh tan ách đô hộ và sự xâm lược của nhà Lương (Trung Quốc), giành lại độc lập thực sự cho đất nước sau thời Văn Lang, Âu Lạc và đặt quốc hiệu là Vạn Xuân, “có ý mong xã tắc được bền vững muôn đời” (Đại Việt sử ký). Ông là người Việt Nam đầu tiên tự xưng hoàng đế (Nam Đế). Ông cũng bãi bỏ lịch Trung Hoa, đặt niên hiệu riêng là Thiên Đức, đúc tiền riêng… tỏ rõ ý thức tự chủ dân tộc, công khai phủ nhận quyền bá chủ thiên hạ của triều đại phong kiến phương Bắc.
- Lý Công Uẩn: Năm 1010, Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu là Thuận Thiên. Công lao lớn nhất của ông đối với dân tộc Việt là dời đô từ Hoa Lư về thành Đại La, trở lại với nơi đắc thế, địa linh nhân kiệt để hình thành nên một kinh đô Thăng Long mà ngày nay là Hà Nội ngàn năm văn vật, với bản hùng văn “Chiếu dời đô” vang vọng non sông.
- Lý Thường Kiệt: là vị tướng lừng danh của triều đại nhà Lý, người trực tiếp chỉ huy cuộc kháng chiến chống cuộc xâm lăng lần thứ hai của nhà Tống - Trung Quốc (Cuộc kháng chiến chống Tống thắng lợi lần thứ nhất do Lê Hoàn thực hiện) và giành thắng lợi với hai chiến công hiển hách: đại phá thành Ung Châu, đại phá quân Tống trên phòng tuyến sông Như Nguyệt. Cũng chính tại phòng tuyến này, bài thơ “Nam quốc sơn hà…” bất hủ của Lý Thường Kiệt đã vang lên dõng dạc và đanh thép. Bài thơ đó cũng chính là bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước Đại Việt - Việt Nam.
Phải chăng Nguyễn Ái Quốc chọn họ Lý là vì thế?
Năm 1933, Lý Thụy lại đổi thành Tống Văn Sơ. Sơ có thể là sơ khởi, sơ khai, thuở ban sơ, sơ kỳ… Còn chữ Tống, nếu suy diễn kiểu như trên thì phải nghĩ ngay đến nhà Tống bên Trung Quốc. Nếu tạm bỏ chữ Văn đi thì chúng ta có Tống Sơ. Nếu Tống Sơ ám chỉ về thời kỳ đầu của nhà Tống thì chỉ có thể là thời Bắc Tống (960-1127). Nhưng tại sao Lý Thụy, một người Việt Nam yêu nước chân chính lại chọn cái tên nhắc đến một triều đại Trung Quốc đã đem quân xâm lược nước ta đến 2 lần, và suy diễn như vậy có phải là quá hồ đồ không?
Mùa xuân năm 1940, Nguyễn Ái Quốc từ nước Nga Xôviết về tới Côn Minh, lấy bí danh là Hồ Quang (nhà báo). “Quang” phải chăng là quang đãng, sáng sủa, đã tìm ra con đườnh giải phóng? Tháng 7-1942, Nguyễn Ái Quốc viết báo cáo gửi Quốc Tế Cộng Sản, bản báo cáo gồm 17 trang có ký tên người dịch là Lý Tuấn. “Tuấn” ở đây có thể gợi nhớ đến Trần Quốc Tuấn và “Lý Tuấn” có thể hiểu là “Lý - Trần”, hai thời đại kế tiếp nhau cực kỳ hào hùng trong công cuộc chống ngoại xâm của dân tộc Việt?
Sau đó, cũng trong năm 1942, Nguyễn Ái Quốc đổi tên lần cuối cùng thành Hồ Chí Minh. Trải qua một cuộc hành trình dài đăng đẳng, bôn ba khắp chốn, vượt qua bao gian nguy, vượt qua những năm tháng đau buồn bởi sự nghi kỵ trong nội bộ của phong trào Quốc Tế Vô Sản, đến đây, Nguyễn Ái Quốc đã thấy rõ được con đường tất yếu phải đi để cứu dân cứu nước, thấy rõ được thời cơ đang đến, thấy rõ được tương lai sáng lạn của công cuộc giải phóng dân tộc mà mình suốt đời theo đuổi đã ở rất gần. Chính vì vậy mà Ái Quốc đã chuyển thành Chí Minh. Chí Minh là hoàn toàn minh bạch (về chí khí), hoàn toàn sáng tỏ (về nhận thức) và hoàn toàn sáng lạn (về công cuộc cách mạng). (Có một sự kiện đáng lưu ý: Hầu Chí Minh, thiếu tướng Quốc Dân Đảng là người trực tiếp thả Hồ Chí Minh ra khỏi tù theo lệnh Tưởng Giới Thạch vào năm 1943, tuy nhiên Nguyễn Ái Quốc đã mang tên Hồ Chí Minh vào tháng 8-1942, tức là trước khi bị bắt. Nếu cho rằng ông đã mượn tên như một sự hàm ơn thì phải đổi lại thời điểm đặt tên đã ghi trong lịch sử).
Còn họ Hồ thì mang ý nghĩa gì đây? Chúng ta nhớ lại rằng trước khi băng hà, vua Quang Trung đã căn dặn Trần Quang Diệu phải khẩn trương dời đô từ Phú Xuân ra Nghệ An. Có thể Nghệ An là khu vực mà dưới nhãn quan quân sự của Quang Trung, có địa thế công - thủ về mặt chiến lược ưu việt hơn Phú Xuân. Có thể là vì cả điều này: lòng dân Nghệ An luôn sắt son hướng về triều đại Quang Trung - Tây Sơn. Trước đây, mỗi lần ra Bắc, vào Nam, Quang Trung - Nguyễn Huệ đều dừng chân ở đất Nghệ An, nhất là trước khi ra Thăng Long đại phá quân Thanh, ông đã dừng chân ở Nghệ An để tuyển thêm một lực lượng quân sĩ đáng kể và được nhân dân, các bô lão trong vùng nhiệt thành ủng hộ. Và vì cả điều này nữa: Nghệ An là đất tổ của dòng họ Hồ tại Việt Nam mà họ Hồ lại là họ gốc của ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ. Vậy, nếu phỏng đoán rằng dòng họ Võ Duy có liên quan một cách “thân bằng quyến thuộc” với dòng họ ba anh em nhà Tây Sơn là đúng, thì cũng phải cho rằng việc chọn họ Hồ của Nguyễn Ái Quốc là hành động lấy lại họ gốc của mình.
Chúng ta đoán rằng ẩn ý của cái tên Hồ Chí Minh là như vậy.
Đến đây, dựa vào những tư liệu lịch sử có được cùng với những suy diễn võ đoán của mình, chúng ta đã thấy tạm đủ để tạo dựng nên truyền thuyết lịch sử, huyền thoại về một cuộc tích tụ nên một nhân vật tinh hoa của hồn thiêng dân tộc Việt từ khí thiêng sông núi nước Việt. Trước hết, đã là truyền thuyết, huyền thoại thì phải có hư có thực, có nét huyền ảo, do đó mà cũng có đúng có sai. Duy có một điều hoàn toàn tin cậy được là chúng ta làm việc này với cái tâm chân thực, trong sáng nhất và coi đó như là một nhiệm vụ thiêng liêng trong cuộc hành trình tìm kiếm những viên ngọc của lịch sử tồn tại thế giới loài người.
Trên đất nước Trung Hoa trong giai đoạn cuối thời kỳ “Ngũ đại, Thập quốc”, đầu thời Bắc Tống, tồn tại tình trạng chia cắt, cát cứ trầm trọng, chiến tranh thôn tính lẫn nhau xảy ra triền miên. Ở những nơi có chiến tranh, thây người chết đầy đường, ruộng đồng bỏ hoang, cảnh vật tiêu điều, có khi cả ngàn dặm cũng không thấy bóng người. Đời sống nhân dân Trung Quốc lúc bấy giờ vô cùng khốn khổ, nhiều người, nhiều gia đình đã phải rời bỏ quê hương bản quán đi xa, chạy trốn chiến tranh, lang thang đây đó tìm nơi nương náu, tìm chốn dung thân.
Vào khoảng thời gian từ năm 960-980 có một bầu đoàn thê tử họ Hồ từ vùng Triết Giang - Trung Quốc ra khơi, dong buồm lánh nạn xuống phương Nam và đã cập vào bờ biển Nghệ An. Người Việt ở xứ Nghệ vốn mang bản tính nhân hậu, bao dung từ ngàn xưa thời các vua Hùng của dân tộc Việt, đã sẵn lòng dung nạp, cưu mang đoàn người. Đoàn người Trung Quốc ấy chính là gốc gác họ Hồ bên cạnh nhiều dòng họ khác của dân tộc Việt, chung sống hòa thuận trên đất nước Việt. Dần dần, giọt máu họ Hồ tan hòa vào dòng máu người Việt, lan tỏa ra Thanh Hóa, cả những nơi khác nữa và con em họ Hồ sau này đã trở thành con em của dân tộc Việt, đấu tranh cho quyền lợi dân tộc Việt. Nhiều người trong số họ đã có công lao đối với dân tộc Việt.
Vào thời Việt Nam xảy ra nạn Trịnh - Nguyễn phân tranh, có một vài người họ Hồ ở Nghệ An do bị bắt làm tù binh hoặc đơn thuần là mưu sinh đã xuất hiện tại xứ Quảng Nam - Đàng Trong khai khẩn đất hoang, định cư, lạc nghiệp.
Những người họ Hồ ấy đã phải cải sang họ khác để dễ bề làm ăn, sinh sống. Chủ yếu là cải sang họ Nguyễn và trong số này có cụ tổ bốn đời của anh em nhà Tây Sơn, đồng thời cũng có (hoặc cũng là) cụ tổ của một võ tướng họ Nguyễn của phong trào Tây Sơn, người mà sau này trở thành cái gốc xuất phát của dòng họ Võ Duy. Vị tướng này phải trạc tuổi anh em nhà Tây Sơn để có con trạc tuổi con đầu Nguyễn Huệ là Nguyễn Quang Toản (vua Cảnh Thịnh) hoặc có thể lớn hơn một chút để cho ra đời Võ Duy Ninh vào năm 1804 và trước đó là Võ Duy Thành. (Năm 1792, khi Quang Trung mất, Quang Toản mới 10 tuổi!).
Như vậy vị võ tướng nói trên chính là ông nội của anh em nhà Võ Duy. Khi triều Cảnh Thịnh bị tiêu diệt, thân phụ của anh em Võ Duy Thành, Võ Duy Ninh đã phải mai danh ẩn tích, cải họ thành Võ Duy (không biết miếu hiệu của Quang Trung là Thái Tổ Vũ Hoàng Đế có liên quan gì đến việc cải họ thành Võ Duy này không? Vì Vũ, nói trại đi để kiêng húy thành Võ).
Võ Duy Ninh sinh năm 1804 tại làng Đại An, xã Hành Thuận, huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi. Tuy nhiên, tổ quán của Võ Duy Ninh là ở Bình Định. Nghe đâu cụ tổ năm đời của Võ Duy Ninh là Võ Hữu Man. (Có thể là Hồ Hữu Man cải thành Nguyễn Hữu Man, rồi sau này, khi triều Tây Sơn sụp đổ, trong cuộc lùng sục đàn áp trả thù những người theo Tây Sơn của Nguyễn Ánh, con cháu đã sửa lại thành họ Võ. Rất tiếc dòng họ Võ này có gia phả nhưng đã bị thiêu hủy vào năm 1972). Hữu Man là người Đàng Ngoài vào khai khẩn lập nghiệp tại Cù Lâm Nam (thôn Nam Tượng, xã Nhơn Tân, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định; hiện nay Nam Tượng chỉ là một thôn nhỏ với mươi nóc nhà, sau lưng là núi Thơm, trước mặt là núi Hòn Giang, bên trái là núi An Tượng, bên phải là sông Côn, cách làng Kiên Mỹ (quê hương Nguyễn Huệ) 12 km, xa xa về phía trước mặt là núi chàng Lía). Có thể cha của Võ Duy Ninh đã ra Quảng Ngãi lánh nạn rồi lấy vợ và sống ẩn dật ở đó, hoặc cũng là sự thường tình xưa nay, trên con đường binh nghiệp của mình, ông đã có vợ bé ở làng Đại An? Năm 30 tuổi (năm Giáp Ngọ - 1834, Minh Mạng thứ 15), ông đỗ cử nhân tại Huế, là một trong 11 vị khoa bảng đầu tiên của đất Quảng Ngãi. Ngay sau khi đỗ cử nhân, Võ Duy Ninh được triều đình Huế giao cho nhiều trọng trách: Hành tẩu Bộ Lại (năm 1834), Bố chánh Hưng Yên (năm 1847), Hữu Tham tri Bộ Lại (năm 1852), Phó Chủ khảo trường thi hương Thanh Hóa (năm 1850), Quan duyệt quyển khoa thi Hội năm Bính Thìn (năm 1856). Tháng 7-1858 (tức năm Mậu Ngọ - Tự Đức thứ 11), trước tình hình Thực dân Pháp lăm le đánh Đà Nẵng và các tỉnh Nam Kỳ, triều đình Huế đã điều động Võ Duy Ninh vào giữ chức Hộ đốc thành Gia Định, sau thăng lên chức Tổng trấn Định Biên. Ông là một vị quan bản lĩnh, hiểu biết về quân sự và có đức độ nên được quân sĩ dưới quyền nể phục, dân chúng địa phương tôn kính.
Thực dân Pháp nổ súng đánh Đà Nẵng vào ngày 31-8-1858, với âm mưu thực hiện đánh nhanh thắng nhanh hòng “giáng cho Huế một đòn quyết định”. Nhưng âm mưu đó bất thành trước sự phản ứng quyết liệt và có hiệu quả của quân dân Đà Nẵng - Quảng Nam, dưới sự chỉ huy của Nguyễn Tri Phương , Tổng đốc quân thứ Quảng Nam. Tướng Pháp là Đô đốc Giơnuy phải thay đổi kế hoạch, quyết định kéo quân xuống phía nam đánh chiếm Gia Định.
Ngày 10-2-1859, tàu chiến Pháp bắn đại bác vào Vũng Tàu. Trong vòng 6 ngày (từ ngày 10-2 đến 15-2), quân Pháp tiến từ Cần Giờ đến Nhà Bè (sát thành Gia Định), triệt phá được 12 đồn trong hành tiến.
Ngày 17-2-1859, quân Pháp tấn công thành Gia Định, dùng chất nổ phá tường thành, đánh thủng Cửa Đông. Pháo thần công của quân triều đình bắn xuống tàu chiến và bộ binh Pháp nhưng không hiệu quả. Quân Pháp xông được vào thành, hai bên cận chiến, xáp lá cà. Quân triều đình không chống cự nổi, đến trưa đành phải rút đi, bỏ lại nhiều xác chết, hầu hết súng đạn, thóc gạo và hơn 100 chiến thuyền gỗ trên sông Thị Nghè. Đô đốc Trần Trí, Bố chánh Vũ Trực, Lãnh binh Tôn Thất Năng lui quân về ụ Tây Thái, án sát Lê Tứ tự vẫn, còn Tổng trấn Võ Duy Ninh thì dẫn một cánh quân rút về làng Phước Lý, huyện Phước Lộc, Biên Hòa. Quân Pháp kéo tới bao vây, dụ hàng. Trong cảnh binh hao, lực tận và bản thân đã bị thương, Tổng đốc Võ Duy Ninh biết rằng chống cự nữa là điều không thể, chỉ gây thêm những cái chết vô ích cho quân lính triều đình đã thiếu hẳn vũ khí tự vệ. Để tỏ lòng trung quân ái quốc, khí phách không khiếp sợ của mình, ông đã chọn con đường tuẫn tiết chứ không chịu rơi vào tay giặc, trở thành tấm gương bất khuất, sáng ngời cho con em đời sau. Những người tâm phúc đã âm thầm chôn cất và giấu kín tung tích mộ phần của Tổng trấn Võ Duy Ninh để về sau thân nhân đưa hài cốt ông về táng ở quê nhà. Nhân dân Gia Định - Biên Hòa và toàn cõi Nam Kỳ vô cùng chua xót và kính phục Võ Duy Ninh khi biết ông tuẫn tiết.
                                           Tác giả - Tác phẩm: Võ Duy Chúc - Giữ trọn đam mê nghệ thuật
      
 Tượng Tổng đốc Định - Biên (Gia Định và Biên Hoà) Võ Duy Ninh - vị đại quan “liêm - bình - cần - cán”
                         
                           mo_vo_duy_ninh
 
Võ Duy Ninh có vợ là người huyện An Nhơn - Bình Định. Họ sinh được 2 người con trai, người con đầu tên Ngọc, người thứ hai tên Lập.
Võ Duy Lập được sinh ra tại Hành Thuận, Nghĩa Hành, Quảng Ngãi vào năm 1827. Là hậu duệ của một võ tướng, ông thích võ hơn văn, tuy học văn rất giỏi nhưng không ứng thí vì không thích chốn quan trường. Ông học võ từ rất sớm và ngay từ thuở nhỏ đã được tặng biệt danh Ngũ Linh Dương nhờ một lúc cử được 5 trái linh trong một kỳ thi võ. Ở tuổi thanh niên, dáng vóc ông to lớn, mạnh mẽ và rất giỏi võ nghệ. Ông cũng thường giao du với những thanh niên có lòng yêu nước cùng lứa và cả lớp đàn anh như: Trương Định, Trương Gia Mô, Nguyễn Thông, Âu Dương Lân, thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa…
(Đên đây, chúng ta đọc được một truyên thuyết về Võ Duy Dương. chúng ta sẽ trình bày ra đây trướ, rồi sau mới tiếp tục câu chuyện đang dang dở của mình: 
Võ Duy Dương là con trai thứ ba trong một gia đình nông dân ở thôn Cù Lâm Nam, thuộc phủ Tuy Viễn, trấn Bình Định (nay là thôn Nam Tượng, xã Nhơn Tân, huyện An Nhơn, Bình Định), sanh năm 1827, em ruột của anh hùng chống Pháp Võ Duy Tân, người đã cùng Mai Xuân Thưởng, Võ Trứ kháng chiến chống thực dân Pháp ở Bình Định, bị giặc bắt chém tại Gò Chàm (Bình Định) năm 1898. Tương truyền ông rất khỏe mạnh và giỏi võ nghệ, được bà con tôn là Ngũ linh Dương.
Gặp lúc gia đình, làng xóm lâm vào cảnh đói nghèo vì nạn bóc lột, bao chiếm ruộng đất của bọn quan lại cường hào ở địa phương; năm 1857, ông cùng một số bạn bè hưởng ứng chánh sách khai hoang của Nguyễn Tri Phương, vượt biển vào Nam tìm đến đất Ba Giồng, ven Đồng Tháp Mười (nay thuộc địa bàn huyện Châu Thành, Cai Lậy, Cái Bè tỉnh Tiền Giang), quan hệ với nông dân, điền chủ, danh nho địa phương để tìm chỗ dựa cho cuộc chiêu dân, khai hoang lập ấp.
Tháng 2 năm 1859, khi thực dân Pháp nổ súng tấn công thành Gia Định, ông liền cùng thủ khoa Nguyễn Hữu Huân, hiện là giáo thọ phủ Kiến An tỉnh Định Tường, chiêu mộ nông dân lập đội nghĩa ứng kéo về Gia Định đánh Pháp, ông được phong chức Chánh quản đạo. Thành Gia Định vỡ, quân triều đình rút về Biên Hòa. Ông vượt biển về kinh, bái yết vua Tự Đức hiến kế đuổi giặc. Lúc bấy giờ, triều đình chưa có đối sách dứt khoát đối với thực dân Pháp, nên tạm thời điều ông về Quảng Nam dẹp cuộc nổi dậy của người Thạch Bích (mọi Đá Vách) mà quan quân địa phương không tiểu trừ được. Ông hoàn thành nhiệm vụ và được phong hàm Chánh bát phẩm Thiên hộ vào năm 1860.
Tháng 5-1861, ông được sung vào phái bộ của Khâm phái quân vụ Đỗ Thúc Tịnh vào Nam với nhiệm vụ chiêu mộ nghĩa dõng chống giặc. Được nhân dân hưởng ứng mạnh mẽ, nên trong một thời gian ngắn, ông mộ được gần 1.000 nghĩa dõng và được phong chức quản cơ. Ông đóng quân ở Bình Cách, liên kết với Trương Định ở Gò Công, Trần Xuân Hòa (phủ Cậu) ở Thuộc Nhiêu và hợp cùng Đỗ Thúc Tịnh xây dựng một đồn chiến lược tại Mỹ Quý (Tân Thành - Mỹ Quý) có tác dụng chia cắt lực lượng địch trong tỉnh Định Tường. Đầu năm 1862, giặc Pháp đột kích căn cứ Thuộc Nhiêu, Trần Xuân Hòa bị bắt và tự tử chết, ông điều Thủ khoa Huân đến xây dựng lại và bảo vệ Thuộc Nhiêu. Ông phối hợp với nghĩa quân Trương Định tấn công địch liên tục, khiến chúng phải rút bỏ nhiều đồn để tập trung quân đánh chiếm thành Vĩnh Long hầu gây áp lực với triều đình. Sau đó chúng mang đại quân tấn công Tân Thành - Mỹ Quý, nghĩa quân chống cự quyết liệt suốt 57 ngày đêm, Đỗ Thúc Tịnh hy sinh, Nguyễn Hữu Huân bị bắt ở Thuộc Nhiêu, Thiên hộ Dương thoát được rút về Bình Cách.
Lúc ấy triều đình áp dụng chánh sách hai mặt, vừa ký hòa ước Sài Gòn (1862) nhường ba tỉnh Biên Hòa, Gia Định, Định Tường cho Pháp và buộc nghĩa quân phải giải giáp và rút ra khỏi ba tỉnh Miền Đông; mặt khác bí mật phong Trương Định làm Bình Tây tướng quân, cầm đầu lực lượng nghĩa ứng ở Nam Kỳ, Võ Duy Dương làm Chánh Đề đốc và Nguyễn Hữu Huân (sau khi bị bắt đã tìm cách trốn thoát) làm Phó Đề đốc.
Từ đây đến cuối năm, lực lượng nghĩa quân phát triển mạnh, liên tục tấn công địch trên một tuyến dài từ Gò Công đến Cái Bè trong đó trận Thuộc Nhiêu làm chúng kinh hoàng. Bọn Pháp đối phó chật vật, phải viện binh thêm. Đầu năm 1863, nhờ có thêm viện binh, chúng tập trung quân đánh bật Trương Định ra khỏi căn cứ Tân Hòa (Gò Công) và liên tục tấn công nghĩa quân Thiên hộ Dương. Đến cuối tháng 4, Thiên hộ Dương rút về cố thủ ở Xoài Tư (vùng giáp ranh Cái Bè – Cai Lậy (Tiền Giang) hiện nay). Để bảo tồn lực lượng cho cuộc chiến đấu lâu dài, Thiên hộ Dương cử Thủ Khoa Huân sang ba tỉnh miền Tây vận động tiền bạc mua vũ khí, còn ông phân tán nghĩa quân về các thôn ấp tránh sự lùng sục của giặc, chỉ 100 nghĩa quân theo ông lưu động khắp nơi vận động nhân dân tham gia kháng chiến. Tại An Giang, ông liên kết với Thạch Bướm, một lãnh tụ nghĩa quân người Khmer.
Bọn Pháp truy lùng ông không kết quả. Tháng 7-1864, chúng phát hiện Thủ khoa Huân đang ở Châu Đốc và buộc tỉnh thần An Giang bắt nộp cho chúng. Thủ khoa Huân bị bắt một lần nữa, ông như mất một cánh tay. Không đầy một tháng sau (tháng 8-1864), Trương Định hy sinh, nghĩa quân đứng trước nguy cơ tan vỡ. Với quyết tâm kiên trì chống giặc cứu nước, Thiên hộ Dương không hề nao núng, ông trở lại Xoài Tư, rồi từ đó rút vào Đồng Tháp Mười chuẩn bị cho giai đoạn chiến đấu mới.
Sau hơn một năm xây dựng căn cứ Tháp Mười có chiến thuật “tức kỳ yểm cố” (im cờ giấu trống) trên cơ sở lực lượng có sẵn và lực lượng tại chỗ của Đốc binh Kiều (Nguyễn Tấn Kiều), Thống Linh (Nguyễn Văn Linh); nghĩa quân Đồng Tháp Mười còn tập trung được đông đảo nông dân khắp nơi. Đến giữa năm 1865, thế là lực của nghĩa quân tương đối khá vững, nghĩa quân Đồng Tháp Mười bắt đầu tấn công Cái Bè, Cái Thia, Cai Lậy, Mỹ Quí... Đặc biệt là trận vào đêm 21 rạng ngày 22-7-1865, Thiên hộ Dương cho nghĩa quân triệt hạ đồn Mỹ Trà gây thiệt hại nặng cho chúng, suýt bắt được huyện Lộc, đốt nhà việc Mỹ Trà... khiến phó Đô đốc Roze phải đưa viện binh từ Sài Gòn xuống cứu viện. Chúng đốt phá triệt hạ làng Mỹ Trà và Mỹ Ngãi để trả thù.
Tháng 4-1866, De Lagrandière cho tập trung quân của bốn dinh tham biện Tân An, Mỹ Tho, Cai Lậy và Cần Lố chia làm ba mũi tấn công vào Đồøng Tháp Mười. Sau gần mười ngày quần thảo với giặc, nghĩa quân mất một số tiền đồn, đổi lại chúng bị tiêu hao một số lớn binh lính. Để bảo tồn lực lượng, Thiên hộ Dương ra lịnh bỏ đại đồn Tháp Mười, rút lui theo hai hướng: hướng Tây về biên giới, hướng Đông về Cái Thia (Cái Bè). Chúng chiếm đồn nhưng rút ngay vì sợ bị đánh úp.
Thiên hộ Dương rút về Cao Lãnh rồi lên biên giới liên kết với nghĩa quân Trương Tuệ, và nghĩa quân Campuchia A-cha Xoa, tấn công đồn Tây Ninh gây cho giặc một số thiệt hại đáng kể. Chúng phản đối gay gắt, triều đình ra chỉ dụ truy nã công khai cả hai. Tình trạng nghĩa quân ngày một khó khăn; vũ khí, lương thực thiếu thốn, lại phải thường xuyên lưu động đối phó với sự truy lùng của giặc và của cả triều đình.
Tháng 10, Thiên hộ Dương cho người mang mật báo cho vua Tự Đức. Tháng 11, ông vượt biển về Kinh, đến cửa Thần Mẫu (Cần Giờ), bất ngờ ông bị Lý Sen, một tên cướp biển giết chết! Vua sai người tìm xác chôn cất và chu cấp cho gia đình.
Thiên hộ Dương nằm xuống, nhưng tên tuổi và sự nghiệp chống giặc giữ nước của ông mãi mãi gắn chặt với mảnh đất Đồng Tháp Mười anh hùng.
Để tưởng nhớ người anh hùng có công giữ nước, ngày nay nhân dân đã xây dựng đền thờ tưởng niệm, hàng năm có đến hàng chục ngàn người đến kính bái.
---
Tác giả: Lê Văn Kỳ
Nhà xuất bản: Tổng hợp Đồng Tháp, 1993)
 
Tiếp tục câu chuyện dở dang:
Trong khoảng những năm từ 1840 đến 1845, có lần Võ Duy Lập đã theo cha mình là Võ Duy Ninh vào Gia Định như một chuyến được ngao du và với mục đích là thăm thú bà con họ hàng đang sống và làm ăn ở đó (vì trước đó đã có một bộ phận dòng họ Võ Duy từ Quảng Ngãi vào định cư tại huyện Bình Dương - Gia Định). Trong thời gian thăm thú Gia Định, Võ Duy Lập gặp một người con gái (có thể là do mai mối) tên là Trương Gia Hương, thuộc dòng dõi thế gia rất nổi tiếng ở Gia Định, Bến Tre và Bình Thuận. Nàng là em họ của cử nhân Trương Gia Hội, là cô họ của Trương Gia Mô.
Trương Gia Mô (1866 - 1929) hiệu Cúc Nông, tên tự lúc đầu là Sư Thánh sau đổi là Sư Quản, biệt hiệu Hoài Huyền Tử, khi làm quan ở Huế còn được gọi là Nghè Mô, là sĩ phu và quan đại thần triều Nguyễn, và là nhà thơ Việt Nam ở những năm đầu thế kỷ 20. 
Năm 1904, Phan Châu Trinh từ quan rồi với bạn là Huỳnh Thúc Kháng, Trần Quý Cáp cùng nhau Nam du vào năm 1905. Khi đến Bình Thuận, Phan Châu Trinh đã kết bạn với Trương Gia Mô rồi cả nhóm cùng với các nhà nho ở đây tổ chức công ty Liên Thành, Trường Dục Thanh để truyền bá việc duy tân, cải cách
Năm Mậu Thân (1908) một cuộc đấu tranh lớn của nhân dân nổ ra ở Trung kỳ, nhằm chống chính sách xâu thuế của Pháp và Nam triều. Kết cuộc, hàng loạt nhân sĩ bị lưu đày, bị tử hình, bị tù tội. Trong thời điểm đó, Trương Gia Mô cũng bị tù giam ở ngục Khánh Hòa vì tội đã tham gia "đảng kín". Bị giam một thời gian rồi được thả, ông trở lại Bình Thuận khi tuổi đã ngoài bốn mươi.

Năm 1910, một thanh niên tên Nguyễn Tất Thành (sau này là Hồ Chí Minh) cầm thư giới thiệu của cha là Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc đến gặp ông ở làng Hà Thủy, tổng Đa Phước, tỉnh Bình Thuận. Được sự gửi gắm của bạn, lại thấy Tất Thành có chí hướng, nên ông viết thư giới thiệu Thành với ông Hồ Tá Bang - một trong các sĩ phu sáng lập viên của Liên Thành Thương Quán và trường Dục Thanh ở Phan Thiết. Sau đó, ông Hồ Tá Bang đã cho người ra đón Nguyễn Tất Thành vào dạy học tại Trường Dục Thanh.

Tháng 3 năm 1911, ông Hồ Tá Bang và Trần Lê Chất đưa Nguyễn Tất Thành vào Sài Gòn để tìm cách sang Pháp.

Trở vào Nam Kỳ, Trương Gia Mô đi khắp miền Tây, liên hệ với nhiều bạn chí sĩ, nhà thơ, bạn cũ như Nguyễn Sinh Sắc, Trần Chánh Chiếu, Nguyễn An Cư, Nguyễn An Khương, Đông Hồ,...

Những năm cuối đời, phần vì tuổi cao, nhiều bệnh, phần bị mật thám theo rình rập, thêm nỗi luôn sống trong tâm trạng phẫn uất của một người bất đắc chí, nên Trương Gia Mô đã tự tìm quên trong men rượu và thuốc phiện. 
 Cuối cùng, vào đêm ngày 2 tháng 11 (âm lịch) năm Kỷ Tỵ (1929), ông đã lao mình từ Pháo đài trên đỉnh núi Sam (Châu Đốc) xuống vực sâu để kết thúc đời mình. 
                              
                                                      Trương Gia Mô
 
Sau chuyến đi này, Võ Duy Lập về quê, lấy Trương Gia Hương làm vợ, vợ ông sinh đứa con đầu lòng, đặt tên là Võ Duy Cung. Năm 1858, bà sinh người con thứ hai, đặt tên là Võ Duy Phụng.
Năm 1857, hưởng ứng chính sách khai hoang, chiêu dân lập ấp của triều đình Huế (mà người trực tiếp phát động phong trào là Nguyễn Tri Phương), Võ Duy Lập cùng bạn bè và những người có tâm huyết xuôi thuyền vượt biển vào Nam, đến đất Ba Giồng, Tiền Giang ven Đồng Tháp Mười, khai khẩn. Vì là cuộc đi khai khẩn vùng đất mới có thể gặp rừng thiêng nước độc nên Võ Duy Lập đã để vợ con ở lại quê nhà (lúc này vợ ông đã cấn thai người con thứ hai), và có thể vì lý do không muốn ai biết mình là con của vị quan lớn Võ Duy Ninh nên ông cũng đổi họ thành Nguyễn Duy Dương (thậm chí là Nguyễn Văn Dương, trở về họ gốc).
Khi được biết Võ Duy Ninh đã vào Gia Định nhận chức Hộ đốc, Lập đến ra mắt cha mình. Người cha biết được cuộc khẩn hoang, lập ấp của con ở đất Ba Giồng, nhưng không biết được Lập đã đổi họ tên. Chính lần gặp gỡ này đã cho Nguyễn Duy Dương biết cha mình được phái vào Nam mộ quân ở các tỉnh Long - Tường - An – Hà (Vĩnh Long, Định Tường, An Giang, Hà Tiên), tăng cường phòng thủ cho Gia Định thành. Từ đây, ngoài việc vận động dân ở các địa phương, nhất là dân các tỉnh miền Trung tụ về làm hình thành nên khu vực định cư mới ở đất Ba Giồng, Nguyễn Duy Dương còn phải nhanh chóng chiêu mộ lập nên một đội nghĩa binh, tích cực rèn chí, luyện gan theo lời cha dặn.
Ngày Pháp đánh Gia Định thành, Nguyễn Duy Dương kéo số dân binh ít ỏi của mình đến trợ chiến quân triều đình. Sau khi thành Gia Định thất thủ, ông cùng số dân binh đó trở về lại Ba Giồng, xây dựng Lý Nhơn thành căn cứ địa, quyết tâm chống Pháp. Nghe tin cha tuẫn tiết, ông đã bí mật lặn lội đến Phước Lý chịu tang, đồng thời bí mật vận động được một số binh lính triều đình ở đó theo về cùng ông tiếp tục chiến đấu.
Cũng trong khoảng thời gian này, Quản cơ Trương Công Định đem quân bản bộ của mình (gồm lính đồn điền và nông dân được chiêu mộ) về Lý Nhơn, hợp sức với người bạn trẻ Nguyễn Duy Dương gấp rút xây dựng thành một căn cứ địa vững chắc, rồi lấy đó làm bàn đạp, nhanh chóng xuất quân trở lại Gia Định tổ chức đánh phục kích tiêu hao lực lượng quân Pháp.
                          Danh tướng Nguyễn Tri Phương đã hy sinh bi tráng ra sao? - Ảnh 1.       
                 Chân dung Nguyễn Tri Phương qua nét vẽ của người Pháp. Ảnh: Gothere.
Sau đó, khi Nguyễn Tri Phương (được triều đình Huế cử vào thay Tôn Thất Hiệp, chỉ huy cuộc kháng Pháp ở Gia Định) kêu gọi quân dân hợp sức chống giặc (tập trung chủ yếu vào việc xây dựng đại đồn Chí Hòa, đồn này rộng 300m, dài 1000m, chia làm 5 khu ngăn cách nhau bằng bờ rào gỗ, rào tre, đào hào cắm chông, 150 cỗ đại bác các loại, bắn bằng đạn gang được bố trí trên mặt thành), thì các toán quân “ứng nghĩa”, trong đó có quân của Quản cơ Trương Công Định và của Nguyễn Duy Dương, đều qui tụ về Chí Hòa, đầu quân dưới sự chỉ huy của ông. Chính trong dịp này, Quản cơ Trương Công Định được triều đình thăng lên chức Phó lãnh binh, còn Nguyễn Duy Dương được phong chức Thiên Hộ (chức này cũng như một chức võ quan có lực lượng dân binh riêng hàng ngàn người, cai quản một khu vực dân cư khoảng ngàn gia đình)).
Đến đây, họ tên Võ Duy Lập đã mất hút từ lâu và đến tên Lập cũng chẳng ai còn nhớ nữa. Võ Duy Lập, con Tổng trấn Võ Duy Ninh coi như đã bặt vô âm tín. Ngay cả đối với bà con họ hàng ruột thịt của Võ Duy Ninh ngụ tại Bình Dương cũng coi như thế. Mối liên hệ giữa Võ Duy Lập và Thiên hộ Nguyễn Duy Dương đã hoàn toàn bị xóa sạch. Thậm chí, cái họ Nguyễn Duy cũng rất ít người biết vì trong đời sống hàng ngày, không ai gọi tên họ cả mà chỉ gọi tên, kèm theo thứ tự anh em trong gia đình (người miền Nam không gọi người con đầu là “cả” mà là “hai”), hoặc kèm theo chức vụ, phẩm hàm… Ví dụ đối với Nguyễn Duy Dương, người ta chỉ gọi: Dương, Ba Dương (vì có anh hai là Ngọc), Năm Linh, Thiên Hộ Dương. Chỉ có những người thân tín nhất, theo sát ông nhất, vào sinh ra tử cùng ông, mới biết Thiên hộ Dương chính là con trai của quan Tổng trấn Võ Duy Ninh, từ đó mà suy ra họ của ông phải là Võ Duy, thế thôi chứ không hề hay biết Dương cũng là Lập.
Sau khi đại đồn Chí Hòa thất thủ, Nguyễn Tri Phương cùng quân triều đình rút chạy. Phó lãnh binh Trương Công Định và Thiên Hộ Dương cũng rút quân về Lý Nhơn. Tại đây Trương Công Định cùng Nguyễn Duy Dương và Âu Dương Lân cắt máu ăn thề kết làm huynh đệ sống chết có nhau và bàn tính phương kế liên kết chống Pháp. Dù căn cứ địa Lý Nhơn đã được bố trí, tạo dựng vững vàng nhưng thấy tập trung quân vào một chỗ là hạ sách nên Trương Công Định để lại một phần quân số tăng cường cho Thiên Hộ Dương ở lại Lý Nhơn, rồi cùng Âu Dương Lân dẫn hơn một ngàn nghĩa binh về Gò Công, xây dựng căn cứ địa, củng cố lực lượng và tích cực chiêu mộ thêm nghĩa binh. Lực lượng của Trương Công Định nhanh chóng lớn mạnh, và cùng với Thiên hộ Dương, tiếp tục gây cho giặc Pháp nhiều thiệt hại, làm cho chúng mất ăn mất ngủ.
Ngày 5-6-1862, Triều đình Huế bạc nhược ký hòa ước (thực chất là hàng ước!) dâng ba tỉnh miền Đông (gồm Biên hòa, Gia Định, Định Tường) và đảo Côn Lôn cho Thực dân Pháp. Tháng 9-1862, triều đình Huế ra lệnh cho Trương Công Định và Nguyễn Duy Dương phải bãi binh, điều Trương Công Định đi lãnh nhiệm vụ mới ở An Giang. Trương Công Định cưỡng lệnh, giương cao ngọn cờ “Bình Tây Đại Nguyên Soái” tiếp tục chống Pháp. Lực lượng Thiên Hộ Dương tiếp tục đi theo ngọn cờ được nhân dân suy tôn đó.
Trong những tháng ngày rong ruổi dẫn dân binh đi “ứng nghĩa”, hộ chiến cho quân triều đình ở Gia Định và bước đầu xây dựng căn cứ Lý Nhơn, Nguyễn Duy Dương đem lòng yêu một người con gái ở Gia Định và coi nàng như vợ bé. Việc kết giao giữa hai người trong thời buổi loạn lạc, lòng người khó dò, là việc cần được giấu kín nên trong số những người tâm phúc nhất của Thiên Hộ Dương cũng rất ít người biết được tường tận, còn hầu như là chỉ biết mơ mơ hồ hồ, và dù có biết thì họ cũng có ý thức không mảy may tiết lộ ra ngoài.
(Về truyền thuyết người vợ bé của Thiên Hộ Dương, có nhiều câu chuyện còn lan truyền trong dân gian rất đáng được quan tâm, suy nghĩ.
Chuyện thứ nhất:
Ngày xưa, ở thôn Hòa An (phủ Tân Thành, An Giang) có một ông bá hộ ăn ở nhân hậu. Gia đình ông hiếm hoi, chỉ có một người con gái. Nàng duyên dáng, mặn mà, đã đến tuổi cập kê nhưng chưa chịu lấy chồng. Giống tính cha, dù là con nhà khá giả song nàng sống chan hòa với bà con tá điền và thường hay giúp đỡ những người nghèo khó. Nàng rất yêu hoa, thường thơ thẩn trong vườn hoa trước nhà, nên mọi người gọi nàng là Bướm.
Một hôm, có một đoàn thương lái lỡ đường, ghé nhà xin bữa cơm. Trong đoàn có một thanh niên diện mạo khôi ngô, vạm vỡ, cốt cách oai phong như một vị tướng. Thấy đây không phải là đám lái buôn bình thường, ông bá hộ bèn mời vào nhà thết đãi tử tế và gọi nàng Bướm ra hầu rượu.
Cơm nước xong, chàng thanh niên ấy mở lời cảm ơn và xin hoàn lại tiền bữa ăn. Ông bá hộ ngăn lại, đoạn bảo nàng Bướm lấy ra một túi bạc và nói:
- Theo chỗ lão xét đoán thì ngài không phải là lái buôn mà là tráng sĩ đang lo việc dân việc nước. Xin cho lão được góp phần nhỏ mọn này.
Sau một thoáng ngạc nhiên, người thanh niên thú thực:
- Quả thật là cụ tinh đời. Chúng tôi là nghĩa quân của ngài Thiên Hộ… Tôi xin thay mặt nghĩa quân nhận số bạc và hết sức cảm ơn nghĩa cử hào hiệp của cụ.
- Chẳng hay quí danh tráng sĩ là chi?
- Dạ, tên tôi là Kiều, họ Nguyễn.
- Té ra tráng sĩ là ngài Đốc binh Kiều. Thật là vạn hạnh cho lão. Nghe tiếng tráng sĩ đã lâu, hôm nay lão mới được diện kiến. Bây giờ lão có một đề nghị này: số là lão chỉ có mỗi một mụn con gái đây, nhiều thanh niên trong vùng ngấp nghé nhưng nó chưa ứng đám nào; xin tráng sĩ nhận làm thê thiếp cho nó có dịp nâng khăn sửa túi bậc anh hùng.
Người thanh niên vội nói:
- Thưa lão gia, tôi xin cảm ơn lòng tốt của lão gia một lần nữa. Nhưng về việc này thì cho tôi xin thất lễ vì tôi đã có hiền thê ở nhà. Hơn nữa, chốn lửa đạn có nữ nhi kề bên e bất tiện.
Ông bá hộ nài nỉ mãi làm người thanh niên không thể từ chối được nữa và hôm đó được coi như ngày đính ước.
Từ đó, nàng Bướm tự coi mình là gái đã có chồng. Ít lâu sau, được tin Đốc binh Kiều tử trận ở Gò Tháp, nàng lặng lẽ chít khăn tang, lập bàn thờ chồng rồi cứ thế sống thủ tiết với chồng chưa cưới cho đến lúc qua đời.
Tấm lòng nhân hậu và trung trinh tiết liệt của nàng được dân quanh vùng ngợi ca và con rạch chảy qua vườn nhà nàng được gọi là rạch Bà Bướm từ thuở đó.
Câu chuyện này làm bật ra câu hỏi: phải chăng trường hợp có vợ bé của Thiên Hộ Dương đã xảy ra tương tự như thế hoặc đó chính là câu chuyện có xuất phát trực tiếp từ trường hợp có thực của Thiên Hộ Dương vì Nguyễn Kiều chưa chắc là Nguyễn Tấn Kiều - Đốc binh Kiều mà chỉ là một cái tên che đậy tung tích? Rất tiếc là cho đến nay, chưa ai biết đích xác họ và quê quán cụ thể của Đốc binh Kiều. Dân gian thường gọi ông là Lê Công Kiều, Trần Phú Kiều hoặc Nguyễn Tấn Kiều nhưng phổ biến nhất là quan lớn Thượng. Tương truyền ông gốc miền Trung, vào Nam sinh sống ở huyện Kiến Đăng, tỉnh Định Tường.
Câu chuyện thứ hai:
Ông Nguyễn Văn Biểu gốc người làng Tân Phú, tổng Kiến Phong, huyện Kiến Đăng, tỉnh Định Tường (nay thuộc huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp), là con thứ tám trong một gia đình nông dân. Lúc nhỏ có theo học võ nghệ và chữ nho. Tương truyền, ông có vóc người cao lớn, rất khỏe, da đen, môi chì, tướng tá bặm trợn, trông rất dữ dằn.
Đến khi trưởng thành, ông cùng người anh thứ bảy là Nguyễn Văn Phương theo người cậu về làng Mỹ Thọ (thuộc huyện Cao Lãnh) để kiếm việc làm.
Lúc đầu ông sinh sống bằng cách làm mướn và theo người cậu đóng cối xay đi bán dạo. Thấy ông khỏe mạnh lại làm lụng siêng năng, trông tướng dữ mà té ra tính tình nhân hậu nên một gia đình khá giả, có nhiều ruộng đất ở Rạch Miễu, cũng thuộc làng Mỹ Thọ, kêu gả con gái cho. Từ đó, ông Biểu thôi đi làm mướn, quay sang trông nom ruộng đất cho nhà vợ.
Khi được tin Thiên Hộ Dương kéo quân về lấy Đồng Tháp Mười làm căn cứ chống Pháp, ông liền từ giã vợ con lên đường gia nhập hàng ngũ nghĩa quân. Nhờ khỏe mạnh, giỏi võ, gan dạ và một lòng trung thành nên được Thiên Hộ Dương chọn làm chỉ huy đội phòng vệ. Vì thế mọi người lúc bấy giờ thường gọi ông là Phòng Biểu hay Phòng Tám (vì ông thứ tám). Từ đó, tiếng tăm ông vang dội khắp vùng Cao Lãnh.
Trong suốt thời gian theo nghĩa quân, trải qua bao trận mạc, lúc nào ông cũng tỏ ra là người chỉ huy có tài, dốc lòng hy sinh cho đại cuộc. Thiên Hộ Dương rất tin cậy ông và ông trở thành người hộ vệ thân tín bên cạnh vị chủ tướng.
Khi Đốc binh Kiều nắm binh quyền thay Thiên Hộ Dương tiếp tục chống Pháp ở Đồng Tháp Mười thì Phòng Biểu trở thành cánh tay đắc lực của Đốc binh Kiều trong việc cố gắng xây dựng lại căn cứ và củng cố lại lực lượng nghĩa quân. Trong một trận đánh, Đốc binh Kiều bị thương nặng rồi hy sinh. Sau khi chôn cất đâu đó Đốc binh Kiều, ông Phòng Biểu rút quân qua Sình Lớn, về cố thủ ở ngã ba Thông Bình (Tân Thành). Mặc dù quân số ít, vũ khí thiếu thốn, thô sơ và bị Pháp tập trung càn quét liên miên, ông vẫn cùng nghĩa quân chiến đấu cầm cự kéo dài suốt bốn năm liền. Tuy nhiên, vì lực lượng ngày một hao mòn, thấy không thể duy trì được nữa nên ông ra lệnh giải tán nghĩa quân. Riêng ông phiêu bạt rày đây mai đó.
Pháp và tay sai truy lùng tìm bắt ông ráo riết nhưng không có kết quả. Chúng bèn quay sang tìm cách bắt con cháu ông để bức ông ra hàng. Túng thế, ông phải cải họ người con trai duy nhất của ông từ họ Nguyễn sang họ Võ và giao cho bà Nguyễn Thị Chung là cháu gái của ông (lúc bấy giờ đã theo chồng về ở rạch Cái Da, xã Nhị Mỹ) trông nom giúp.
Ông Phòng Biểu tiếp tục sống đời ẩn dật đến năm 1914 thì mất, thọ 84 tuổi. Phần mộ của ông hiện ở xóm Giồng, rạch Cao Miên, thuộc xã An Bình, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.
Câu chuyện thứ hai này bật ra câu hỏi: người con trai duy nhất của ông Phòng Biểu lớn lên rồi ra sao và sao ông Phòng Biểu không đổi họ cho con từ Nguyễn sang bất cứ họ nào khác mà phải là họ Võ? Hay phải chăng đứa con trai đó chính là con của Thiên Hộ Dương có với người vợ bé và đã gửi gắm lại cho gia đình ông Phòng Biểu, một trong những thủ hạ thân tín nhất của mình? Có thể nào cha vợ của Phòng Biểu cũng là cha vợ của Thiên Hộ Dương và vợ bé của Thiên Hộ Dương là chị ruột của vợ Phòng Biểu?
Câu chuyện thứ ba được lan truyền trong dân gian vùng Bình Cách:
Ông Năm Linh (tức Ngũ Linh Dương?) người miền Trung, võ nghệ cao cường, tính tình cương trực, hay làm việc nghĩa, giao du rộng, …, vào Nam lập nghiệp. Lúc Tây xâm lược Nam Kỳ, ông đứng ra chiêu mộ nghĩa dũng, quyên góp lúa gạo, mua súng đạn đánh Tây, được nhiều người hưởng ứng. Bá hộ Học (Trần Văn Học) là điền chủ giàu có nhất nhì trong vùng chẳng những ủng hộ lúa gạo mà còn bán ruộng lấy tiền bạc mua súng đạn ủng hộ nghĩa quân. Để khích lệ người anh hùng có chí lớn, bá hộ Học đem đứa con gái duy nhất là Trần Thị Vàng (bà Bảy Vàng) gả cho ông Năm Linh. Từ khi về với ông Năm Linh, dù là gái đưa chứ không phải là vợ chính thức có cưới hỏi, nhưng bà Bảy Vàng chẳng những một lòng chung thủy mà còn giúp chồng nhiều việc trong công cuộc quốc sự. Khi ông Năm Linh cùng nghĩa quân rút vào Đồng Tháp Mười, bà cũng theo chồng để lo việc tiếp tế lương thực nuôi quân. Đến khi Đại đồn Tháp Mười thất thủ, ông Năm Linh theo ghe bầu về Huế cầu viện, bà ở lại nuôi con chờ chồng. Khi ông Năm Linh bị chết ngoài biển, bà Bảy Vàng nghe tin, buồn rầu mà mất.
Câu hỏi đặt ra cho câu chuyện này là: ông bá hộ Học phải chăng cũng là ông bá hộ ở câu chuyện thứ nhất? Phải chăng bà Bảy Vàng đã quá yêu người anh hùng mà tình nguyện đi theo nghĩa quân và đã có với người anh hùng một đứa con gái?
Câu chuyện thứ tư là theo lời kể của Võ Quế (85 tuổi vào năm 1989), cháu nội của Võ Duy Dương:
Trong thời gian ở Nam Kỳ, Võ Duy Dương có lấy vợ hai và đã sinh hạ được hai người con trai tên là Võ Châu và Võ Phong. Nhưng tên tuổi và quê quán của bà này thì chưa xác định được. Sau khi Võ Duy Dương qua đời, có một người đàn bà ở trong Nam ra Huế tâu với triều đình về hoạt động chống Pháp và gia đình của Võ Duy Dương trong Nam. Sau đó bà này tìm đến dòng tộc của Võ Duy Dương ở Nhơn Tân (An Nhơn, Bình Định), sống một thời gian rồi qua đời tại đây. Hiện nay mộ của bà vẫn nằm chung trong khu mộ gia đình họ Võ dưới chân núi Thơm. Ngôi mộ này được gọi là mộ của bà Đồng Nai (vì bà là người xứ Đồng Nai, tức miền Nam).
Câu hỏi đặt ra ở đây là: Phải chăng bà Đồng Nai chính là Trần Thị Vàng và bà này đã mang người con gái của bà với Võ Duy Dương ra Bình Định, đến nhà bà vợ cả rồi nghe tin Võ Duy Dương đã chết thì buồn rầu ngã bệnh mà mất? Phải chăng người con gái đó lại là Võ Thị Thắm (tên đổi lại từ Võ Châu)? Còn Võ Phong chính là Võ Sắc, con trai của Võ Duy Dương với một người vợ thứ nữa? Vậy, có thể Thiên Hộ Dương khi hoạt động đã có 2 người vợ thứ? Chuyện nhiều vợ ngày xưa là thường tình! Cũng có thể người vợ thứ sinh thành ra Võ Sác chính là Trương Gia Hương còn bà vợ cả tên là Phạm Thị Liệu, người thôn Tráng Long cùng huyện nay thuộc xã Nhơn Tân? Hay bà Liệu cũng chỉ là vợ thứ sau này của ông Thiên Hộ, khi ông từ Nam ra mới tác hợp?)
Sau hàng ước của triều đình Huế, lực lượng quân triều đình rút khỏi 3 tỉnh miền Đông làm cho sức mạnh kháng Pháp bị suy giảm đáng kể. Sự quay lưng của triều đình Huế đã tạo điều kiện cho thực dân Pháp rảnh tay đàn áp quân ứng nghĩa. Biết không thể lung lạc được Trương Công Định và Nguyễn Duy Dương, quân Pháp tập trung lực lượng, với sự tham gia cúc cung, chỉ đường mách lối của đám tay sai phản dân hai nước người Việt, tổ chức hành quân đánh chiếm, quyết tâm tiêu diệt cuộc kháng chiến do Trương Công Định lãnh đạo.
Trong tháng 1-1863, nghĩa quân tổ chức chiến đấu, cản phá có hiệu quả các cuộc hành quân càn quét của địch bằng những trận đột kích, phục kích, tập kích chớp nhoáng… trên địa bàn khắp 3 tỉnh miền Đông. Quân Pháp bị tiêu hao nhiều binh lực, buộc phải dừng cuộc tiến công, chia nhau đóng giữ những nơi hiểm yếu.
Sau khi đã có thêm viện binh, Thực dân Pháp tập trung đánh vào Gò Công - Căn cứ đầu não của cuộc kháng chiến do Trương Công Định chỉ huy. Mở đầu cuộc tiến công, quân Pháp đánh Gò Đen, Đồng Sơn, Vĩnh Lợi (là hệ thống tiền đồn bảo vệ căn cứ). Ngày 26-2-1863, đại binh Pháp tiến về Trại Lá (Bến Chùa). Trương Công Định khéo léo tổ chức các trận đánh ngăn chặn, tiêu hao địch, đồng thời bí mật tổ chức cho đại bộ phận lực lượng vượt ra khỏi vòng vây. Khi quân Pháp lọt được vào đại bản doanh thì nghĩa quân đã rút đi tự bao giờ.
Rời căn cứ Gò Công, Trương Công Định cùng toàn bộ nghĩa quân bí mật trở lại căn cứ Lý Nhơn, hợp binh với Thiên hộ Dương, tiếp tục tổ chức đánh du kích chống Pháp. Với một căn cứ Lý Nhơn chắc chắn không thể trụ vững đánh lâu dài trước một đội quân viễn chinh và tay sai đông đảo, được trang bị vượt trội hơn hẳn về vũ khí. Do đó trong thời gian này, Trương Định và Thiên Hộ Dương cùng các bộ tướng thân tín bàn thảo và quyết định tạo dựng 2 căn cứ mới để tránh bị co cụm và tạo khả năng phát triển thêm lực lượng nghĩa binh. Căn cứ thứ nhất dự định thành lập tại khu vực giữa làng Tân Phước và Kiểng Phước thuộc đất Gò Công. Đó là nơi cây lá rậm rạp bên hữu ngạn sông Soài Rạp nên cũng được dân chúng gọi nôm na là vùng “Đám lá tối trời”. Căn cứ thứ hai được dự định xây dựng trong Đồng Tháp Mười mênh mông, lấy Gò Tháp làm vị trí trung tâm (và đây cũng được xác định là căn cứ chính). Thiên Hộ Dương, với tài tổ chức, xây dựng căn cứ ở Lý Nhơn mà chính Trương Công Định đã công nhận, trở thành nhân vật chính khẩn trương tạo dựng căn cứ địa Gò Tháp và đồng thời cũng là người lãnh đạo nghĩa quân ở căn cứ này. Đi đôi với việc đó, Thiên Hộ Dương đã cử người tâm phúc đi các tỉnh Định Tường, An Giang, Hà Tiên, Vĩnh Long, Cà Mau, để vận động quyên góp tiền bạc, mua súng đạn. Đến giữa năm 1863, ông giao trọng trách này cho Thủ khoa Nguyễn Hữu Huân, người tâm phúc và cũng là trợ thủ đắc lực của ông. (Đến giữa năm 1864, đám quan lại trung quân mù quáng, răm rắp chấp hành Hiệp ước 1862 đã bắt giam Thủ khoa Huân tại Châu Đốc rồi giao cho thực dân Pháp trước áp lực của chúng. Thực dân Pháp sau đó đã xử tử ông. Khẩu khí và khí phách của hàng loạt văn thân như Thủ khoa Huân vẫn còn vang vọng đến tận ngày nay, qua lời thơ của Mai Xuân Thưởng:
               Cửa trường tiếng dạ miệng còn hơi
               Cờ nghĩa treo lên đã ngất trời
Đạo trọng vua tôi mình dám quản
               Oán hờn người Pháp có đâu vơi
Đúng là bất khuất, đúng là anh hùng!)
Được Việt gian mật báo, ngày 25-9-1863, quân Pháp bất ngờ bao vây tập kích Lý Nhơn. Nghĩa quân chống trả quyết liệt, chọc thủng vòng vây, nghi binh đánh lạc hướng địch. Một bộ phận nghĩa quân theo Trương Định bí mật rút về vùng “Đám lá tối trời”, bộ phận còn lại theo Thiên Hộ Dương bí mật rút vào Đồng Tháp Mười. Người đời sau, may mắn đã ghi tạc được lời nói lúc bấy giờ của ông Thiên Hộ: “Tôi sẽ rút lui về Tháp Mười ẩn nấp, chờ đợi thời cơ để quật trả một trận mới… Tôi luôn sẵn sàng đáp ứng lời kêu gọi của nhân dân”.
Khoảng cuối năm 1862, khi còn ở căn cứ Lý Nhơn, Thiên Hộ Dương, từ một nguồn tin bí mật, biết được người thiếu nữ mà ông coi là vợ bé đã sinh hạ cho ông một người con trai. Ông bèn đặt tên con là Nguyễn Duy Sác (ám chỉ rừng sác, nơi có căn cứ Lý Nhơn?).
Nhận thấy rằng cuộc chiến đấu chống Pháp sẽ ngày càng ác liệt, có thể sống nay chết mai, nên Thiên Hộ Dương cử người thuộc hạ thân tín nhất trong hàng thân tín, bí mật đi gặp người vợ trẻ của ông để chu cấp, dặn dò kỹ lưỡng, phòng khi có biến, bị tai ương đe dọa thì biết đi đâu, gặp ai để mà nhờ cậy. Người hầu cận thân tín này về sau đã hy sinh trong chiến đấu nên thông tin về người vợ bé của Thiên Hộ Dương cũng trở nên nhạt nhòa huyền hoặc.
Vừa chân ướt chân ráo đến Đồng Tháp Mười, Thiên Hộ Dương tức tốc tiếp tục xây dựng căn cứ qui mô hơn, kiên cố hơn để tạo nên một khu vực có sức đề kháng mạnh mẽ. Ông đặt đại bản doanh tại Gò Tháp, xây dựng đồn Trung ở đó, với nhiều trạm gác ở bốn phía và đài quan sát trên đỉnh gò. Ngoài đồn Trung, ông còn dựng thêm 3 đồn chính án ngữ 3 “con đường gạo”: Đồn Tiền trên đường Cái Nứa, Đồn Tả trên đường Mộc Hóa hướng Gò Bắc Chiêng, đồn Hữu trên đường Cần Lố, khoảng từ 200 - 300 quân trấn giữ một đồn.
Năm 1864, nghe tin đồn Thiên Hộ Dương chiêu binh khởi nghĩa ở Đồng Tháp Mười, nhiều bậc quân tử, mã thượng, tinh thông võ nghệ, nổi tiếng trong dân dã kéo thuộc hạ tới đầu quân. Trong đó, có những người như: hai anh em Hùynh Lực, Huỳnh Thất (lưu dân gốc Quảng Nam ở Đồng Nai), Thủ Chiến, Phòng Biểu, Nhiêu Bá, Nhiêu Chấn (là chiến hữu của anh em họ Huỳnh, ở Mộc Hóa), đặc biệt có bốn người là: Trần Công Thuận, Nguyễn Thanh Long, Ngô Tấn Đức, Trương Văn Rộng đến từ Cai Lậy mà sau này lừng lẫy với danh thơm: “Tứ Kiệt Cai Lậy” (ngày nay vẫn còn miếu thờ tứ kiệt ở thị trấn Cai lậy, tỉnh Tiền Giang và nhân dân vẫn gìn giữ, nhang khói quanh năm)…
Cũng trong năm 1864, khi giặc Pháp đánh vào “Đám lá tối trời”, Trương Công Định hy sinh, các bộ tướng dưới quyền và hầu hết số nghĩa quân còn lại đã vượt thoát được vòng vây, như đã hẹn trước, bí mật lần về Đồng Tháp Mười theo Thiên Hộ Dương tiếp tục chống Pháp. Trong số nhiều chỉ huy nghĩa quân của Trương Định đến được Đồng Tháp Mười, có : Đốc binh Dương, Trần Kỳ Phong, Thống Bình, Thương Chấn, Thống Đa, Quản cơ Văn, Quản cơ Là (Bùi Quang Diệu)…
Nhờ đó lực lượng nghĩa quân của Thiên hộ Dương lớn lên nhanh chóng, thực sự trở thành trung tâm kháng chiến mới, thu hút hầu hết lực lượng chống Pháp ở Nam Kỳ vào những năm 1864 - 1866.
Ngay những tháng cuối năm 1864, nghĩa quân của Thiên Hộ Dương đã bắt đầu tăng cường hoạt động chiến đấu, tuy nhiên chủ yếu là tổ chức đánh du kích, tiêu hao sinh lực địch, giữ vững thế phòng ngự. Sang năm 1865, nghĩa quân mở rộng địa bàn hoạt động, tổ chức những trận đánh lớn hơn, tấn công những đồn bốt quan trọng của địch như Mỹ Trà, Mỹ Quí, Cái Bè, Thủ Thừa, gây cho địch nhiều tổn thất về người và vũ khí. Nhất là tại hướng Cái Bè, Mỹ Quí, nghĩa quân đã có lúc chọc thủng phòng tuyến địch.
Năm 1865, nghĩa quân Thiên Hộ Dương thực sự đã gây cho Pháp và tay sai nhiều khốn đốn. Nhân dân Nam Kỳ, đặc biệt là nhân dân miền Tây, ngày càng ủng hộ, ngày càng tích cực đóng góp khí giới, lương thực cho nghĩa quân. Tuy đã xuất hiện xu thế và triển vọng nhưng thời gian là quá ngắn để cuộc kháng chiến của Thiên Hộ Dương bùng lên, lan tỏa rộng khắp thành cuộc chiến tranh nhân dân đúng nghĩa.
Ngày 14-4-1866, thực dân Pháp huy động một lực lượng áp đảo, hơn hẳn nghĩa quân, gồm hơn 1.000 lính viễn chinh với nhiều tàu chiến và đại bác, chưa kể lực lượng mã tà (ngụy quân), chia ra làm 3 đạo đồng loạt tiến công căn cứ Đồng Tháp Mười theo 3 hướng Cần Lố, Cái Nứa và Gò Bắc Chiêng.
Nghĩa quân trong các đồn Sa Tiền, Ấp Lý, Tiến đã chống trả rất quyết liệt nhưng dưới tầm công phá mãnh liệt của đại bác địch, họ yếu dần đi, buộc phải bỏ đồn, lần lượt rút ra, về phía sau. Dù chiếm được các đồn đó nhưng địch đã phải chịu thiệt hại nặng.
Đạo quân Pháp thứ ba, sau khi chiếm được đồn Gò Bắc Chiêng thì không còn sức tiến sâu hơn, phải chờ viện binh tới để đánh đồn Tả.
Đồn Tả lúc này có 350 nghĩa quân, 40 khẩu đại bác, do Thiên hộ Dương đích thân chỉ huy. Nghĩa quân chiến đấu từ trưa đến chiều tối thì hết đạn, phải bỏ đồn, tản về phía sau.
Khi địch chiếm được đồn Trung thì nghĩa quân đã rút đi hết. Tuy nhiên chúng không đám tiến sâu hơn và cũng không dám ở lại đồn.
Căn cứ kháng chiến Gò Tháp đến ngày 18-4-1866 coi như không còn nữa. Lực lượng nghĩa quân Thiên Hộ Dương dần tan rã, tứ tán: nhóm của Tứ Kiệt Cai Lậy rút về Thuộc Nhiêu (Cai Lậy), tiếp tục lập mặt trận đánh Pháp, nhóm trong đó có anh em họ Huỳnh thì kéo về với Quản cơ Trần Văn Thành ở Láng Linh (Châu Đốc), riêng nhóm của Đốc binh Kiều thì ở lại bám trụ, tiếp tục chiến đấu. Sau một thời gian ngắn, khi Đốc binh Kiều hy sinh thì nhóm này cũng tan rã. Ngọn cờ kháng chiến chống Pháp của nhân dân Nam Kỳ lúc này được nhân dân miền Tây đón nhận và tiếp tục giương cao.
Vì sao khởi nghĩa Thiên Hộ Dương đã có lúc bật dậy khá mạnh như thế nhưng vẫn phải chịu thất bại cay đắng? Có thể cho rằng cuộc kháng chiến đó đều khiếm khuyết cả 3 yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Nếu có một chút thiên thời nào thì triều đình Huế cũng đã chặn đứng mất rồi. Căn cứ địa Gò Tháp đúng là có tính lợi hại, nghĩa là nếu biết vận dụng địa hình, áp dụng cách đánh phù hợp với địa hình đó thì nó có lợi, còn không nó sẽ trở nên tai hại. Đồng Tháp Mười vào mùa khô là một vùng tương đối bằng phẳng, làm cho hiệu quả công phá bằng đại bác được phát huy tối đa. Dùng đồn trại cố thủ, khi đồn vỡ thì mất luôn cả thế đứng, đành phải chạy dài. Muốn duy trì cuộc chiến đấu lâu dài ở căn cứ Đồng Tháp, thì phải kết hợp giữa cố thủ trong đồn và vận động chiến bên ngoài trên cơ sở lấy chiến tranh du kích làm nền tảng: rút nhưng không chạy dài, tiến mà địch không hay, đánh xuất kỳ bất ý, kết hợp đánh từ trong ra, đánh từ ngoài vào (không cần phân biệt đâu là trong, đâu là ngoài), nếu cần bảo toàn lực lượng thì dứt khoát phá đồn, rút ngay; thậm chí bỏ luôn căn cứ (vì đâu cũng là căn cứ!)… Muốn làm được điều đó thì phải có đủ nhân hòa, vì chỉ khi có đủ nhân hòa mới tạo ra địa lợi và thậm chí trong chừng mực nào đó là cả thiên thời. Cuộc khởi nghĩa của Thiên Hộ Dương (và trước đó là của Trương Định) cũng như các cuộc nổi lên đánh Pháp khác ở Nam Kỳ - Lục Tỉnh là hoàn toàn chính nghĩa, nhưng chúng chưa đủ thời gian (hay chưa thể) để trở nên hoàn toàn sáng tỏ, nên chưa kịp bám rễ sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân thì đã sớm bị tiêu diệt, đánh bại. Mặt khác hàng ngũ chỉ huy nghĩa quân hầu hết là những dân binh nghĩa hiệp trưởng thành lên qua trận mạc nên họ thiếu hẳn kiến thức về nghệ thuật quân sự. Đến cả những người chỉ huy xuất thân từ quân đội chính qui của triều đình cũng bị lối đánh máy móc lạc hậu với những vũ khí cổ lỗ, lấy thành quách làm nơi phân định thắng bại, luôn bị cuốn hút vào lối đánh trận tuyến của quân đội viễn chinh, thiện chiến, có vũ khí đầy đủ và hiện đại hơn hẳn. Ngay Nguyễn Tri Phương vẫn lẩn quẩn với cách đánh lạc hậu đó thì còn nói tới ai? Đại đồn Chí Hòa to thế, có quân đông thế mà chỉ “đùng một phát” là thất thủ. Thật quá rõ! Sự dũng cảm tuyệt vời của nghĩa quân, sự bất khuất của các thủ lĩnh nghĩa quân, là không thể phủ nhận được. Nhưng như thế thôi chưa đủ. Cần phải có một lãnh tụ có tài năng kiệt xuất, biết qui tụ bốn phương về một mối, biết lôi kéo quần chúng về mình, đánh lâu dài để ngày một tỏ rõ chính nghĩa, tiến hành một cuộc chiến tranh toàn diện chống quân xâm lược.
Ngày nay, khi nhìn lại thời kỳ ấy, chúng ta thấy cái tinh thần lăn xả đánh giặc, “vì nước quên thân” mà bất chấp tất cả của các sĩ phu, hào kiệt, dân binh, là bất hủ, nhưng cũng có cả cái tình cảm bùi ngùi thương tiếc dâng ngập cõi lòng.
Con người Thiên Hộ Dương và cuộc khởi nghĩa do ông lãnh đạo đã được nhân dân Nam Kỳ lúc bấy giờ nói riêng và cả nước nói chung kính phục, mến mộ và tôn vinh, chúng ta sẽ mượn lời của những chiến hữu của Thiên Hộ Dương, từng theo Thiên Hộ Dương vào sinh ra tử nói về ông:
Huỳnh Trung Thu, cháu nội Huỳnh Thất có để lại di bút, nội dung có đoạn:
“…
Ngài Thiên Hộ Dương dũng lược vô song, được nhân dân vùng Nam Kỳ - Lục tỉnh tôn thờ và ngưỡng mộ. Đâu đâu cũng gọi ngài là “quan lớn”, mặc dầu ngài không hề thích làm quan.
Dòng họ Huỳnh chúng tôi đời đời tôn thờ ngài Võ và nguyện theo gương ngài…”.
Đây là một đoạn trong di bút của Huỳnh Kim Trọng, cha của Huỳnh Trung Thu:
“Trước lúc lâm chung, cha tôi (Huỳnh Thất) còn căn dặn con cháu: “Dòng họ ta tuy không sinh ra ở miền Nam Kỳ - Lục tỉnh này, nhưng đã coi như đây là quê hương. Bởi miền Trung có công sinh, thì nơi này có công nuôi dưỡng, hun đúc cho ta thành người. Vậy các con phải xem đây là đất tổ, là ngôi nhà chung. Điều quan trọng nữa mà các con phải ghi lòng, tạc dạ, đó là nghĩa vụ phải thờ cúng ông Thiên Hộ Võ Duy Dương, người mà ta coi như người anh em ruột thịt của mình, người chủ tướng kính yêu của cả quê hương lục tỉnh này… Nay ông đã ra người thiên cổ mà không còn ai thờ phượng. Vậy các con hãy giữ bài vị với mấy chữ “Võ Duy Dương vị quốc vong thân” này để thờ như thờ cha vậy…
Nguyện hương hồn người vị quốc vong thân
Sinh vi tướng, tử vi thần
Xin gia hộ chúng dân an lạc”.
Ông Ba Đương, người thân cận của Thiên Hộ Dương ở chiến khu Đồng Tháp, có để lại thủ bút như sau:
“Cuộc đời tôi may mắn gặp được người họ Võ, đồng hương Nghĩa Hành, Quảng Ngãi. Tôi vốn là một nông dân, tưởng suốt đời sẽ mãi mãi là dân đen bị áp bức, chỉ khi gặp được ông Võ thì mọi thứ mới đổi thay. Chính Võ gia đã cứu gia đình tôi, nhân dân tôi…”.
Sau khi căn cứ Gò Tháp vỡ lở, thực dân Pháp loan tin hai vị, chủ tướng Thiên Hộ Dương và phó tướng Đốc binh Kiều đã bị giết chết. Đốc binh Kiều hy sinh là điều có thật, nhưng trường hợp ông Thiên Hộ thì mờ mịt hơn nhiều. Pháp nói Thiên Hộ Dương đã bỏ xác cùng nhiều nghĩa quân khi chiến khu Đồng Tháp Mười thất thủ, nhưng không trưng ra được bằng chứng. Sau đó chúng lại tung tin Thiên Hộ Dương đã bị một tên cướp biển là Lý Sen giết chết tại cửa biển Thần Phù, khi ông định vượt biển ra Bình Thuận. Tung tin như thế nhưng Pháp vẫn tổ chức lùng sục ráo riết. Tin đó cũng có thể là tin giả do chính ông Thiên Hộ bày ra để đánh lừa mật thám Pháp.
Dư luận xã hội hồi đó nói chung đều thừa nhận Thiên Hộ Dương đã chết và vì ông là một người cô độc, không có bất cứ người thân nào ở cạnh nên sau khi chết, mồ mả của ông cũng không có người chăm sóc, nhang khói. Vì vậy mà có câu hò não ruột và đầy thương cảm đối với một người anh hùng:
Ai về Đồng Tháp mà coi
Mả ông Thiên Hộ trăng soi lạnh lùng…
Sự thực thì ở Gò Tháp chỉ có mộ Đốc binh Kiều. Khắp Nam Kỳ - Lục tỉnh chẳng nơi nào có mộ Thiên Hộ Dương.
Thế thì sau khi căn cứ kháng chiến Đồng Tháp Mười bị tan vỡ, Thiên Hộ Dương đã anh dũng hy sinh hay còn sống? Ông Trương Hiếu Nghĩa, người xã Cần Đăng, An Giang có viết:
“Theo ông ngoại tôi kể lại thì xưa, lúc ông Quản Thành khởi nghĩa ở Láng Linh, ông tôi có theo ngài Cố quản để đánh Tây. Thời gian này, ông ngoại tôi có liên lạc với ngài Nhiêu Chấn, vốn là một quan triều đình ở An Giang trấn, sau bỏ theo ngài Thiên Hộ Dương ở Đồng Tháp Mười để đánh Tây.
Có lúc ông Võ Duy Dương về An Giang trấn để bắt liên lạc với nghĩa quân Láng Linh và với ông Thủ khoa Huân nhưng không thành. Sau nghe nói ngài Võ Duy Dương rời Đồng Tháp Mười trở về quê ở Quảng Ngãi ngoài miền Trung.
Đây là những việc tôi biết khá chính xác nên ghi lại để người sau nhớ”.
Vậy thì Thiên Hộ Dương, sau thất bại của cuộc khởi nghĩa Đồng Tháp Mười vẫn còn sống và đã vượt thoát sự truy lùng của Pháp để trở về ẩn náu tại quê nhà. Nhiều nhà nghiên cứu sử ngày nay, qua những tài liệu quan trọng thu thập được, qua những nhân chứng đáng tin cậy tiếp xúc được, đều thừa nhận như vậy.
Và chúng ta tiếp tục xây dựng truyền thuyết của mình:
Nghe tin chồng mình, Thiên Hộ Dương đã bị sát hại, người vợ trẻ vô cùng đau đớn. Từ nay, nàng đã mất người chồng mà nàng tôn thờ, kính phục.
Mật thám Pháp và tay sai trong khi tích cực dò la tung tích của Thiên Hộ Dương (xem thực sự còn sống hay đã chết và ở đâu) cũng cố gắng xác định danh tính và chỗ ở của người phụ nữ mà theo nguồn tin phong phanh, là vợ lẽ của ông.
Để bảo vệ giọt máu đào của Thiên Hộ Dương, người phụ nữ xinh đẹp, tuổi đời còn rất trẻ và đáng thương, nghe theo lời dặn xưa kia của chồng mình, đã bế con lần tìm đến gặp một người ở Bình Dương, vùng đất định cư ở phía nam của dòng họ Võ Duy. Vị thân tộc, sau khi nghe người phụ nữ trình bày, lần đầu tiên mới biết Thiên Hộ Dương chẳng phải ai xa lạ: chính là Võ Duy Lập. Tuy nhiên sau đó ông luôn giấu kín điều này vì có thể gây nguy hại khó lường.
Vị thân tộc nghe xong câu chuyện, đã khẩn trương thu xếp; bí mật tổ chức đưa vợ con ông Thiên Hộ Dương ra Hòa Đa - Bình Thuận, lúc này vẫn là “đất riêng” của triều đình Huế nên cũng tương đối an toàn hơn, tìm gặp một người họ Trương, thân tộc bên vợ cả của ông Thiên Hộ.
Thân tộc họ Võ và thân tộc họ Trương định tìm cách đưa hai mẹ con ra Nghĩa Hành - Quảng Ngãi. Nhưng người phụ nữ xin ở lại vì chồng thì chết rồi, thân gái dặm trường mù mịt quá. Hai người kia nghe thấy có lý, nhưng nếu người phụ nữ không đi thì cũng phải gửi đứa con ra ngoài đó, vừa đảm bảo an toàn cho nó, vừa đưa nó về với dòng tộc quê hương. Người phụ nữ tuy buồn khổ nhưng cũng đành chấp nhận. Nàng nghĩ rằng mai kia, khi sóng yên biển lặng, sẽ còn có dịp ra đó thăm con.
Tuy nhiên, việc gửi đứa bé ra Quảng Ngãi chưa hẳn đã hay, vì nếu mật thám Pháp dò biết được quê của Thiên Hộ Dương ở Nghĩa Hành và vợ con ông đang sống ở đó thì rất có thể đứa bé phải chịu vạ lây. (Đến lúc này mật thám Pháp vẫn chưa biết quê Thiên Hộ Dương ở đâu. Ngay cả triều đình Huế, mãi đến năm Tự Đức thứ 32, tức năm 1879, trong một sắc phong mới thấy nói đến tổ quán Võ Duy Dương ở Quảng Ngãi). Hơn nữa, Thiên Hộ Dương mất rồi (họ nghĩ thế), gửi đứa bé về đó có được sống trong tình bao bọc không, hay là bị hắt hủi, hoặc cũng có thể người vợ cả của ông không còn ở Nghĩa Hành nữa mà đã lẳng lặng về quê mẹ chồng (vợ Võ Duy Ninh) đâu đó ở An Nhơn - Bình Định tá túc, tránh sự rủi ro. Suy đi tính lại, họ cho rằng gửi đứa bé ra Nghệ An, nhờ gia đình danh sư Hoàng Đường cưu mang là hợp tình hợp lý hơn cả, vì Hoàng Đường có quan hệ ruột thịt với Hoàng Diệu, Hoàng Diệu là bạn thân của Võ Duy Ninh, trong khi đó Hoàng Đường cũng là bạn tâm giao của Trương Gia Hội, mà Trương Gia Hội vừa là anh họ vợ, vừa là bạn thân của Võ Duy Dương.
Thế là đứa bé được đưa về Nghệ An. Gia đình Hoàng Đường đã mở rộng vòng tay yêu thương đón nhận và nuôi dạy đứa bé nên người. Cái tên Sác được dân địa phương đọc trại ra, hiểu là Sắc; cái họ Nguyễn Duy được đổi thành Nguyễn Sinh để tuyệt đối không cho dính dáng gì đến ông Thiên Hộ nữa. Từ đó cậu bé mang một họ tên mới: Nguyễn Sinh Sắc (họ Nguyễn sinh ra Sắc?). Có thể rằng, trước khi chuyển họ Nguyễn Duy sang Nguyễn Sinh, trong thực tế đã có một sự dàn xếp bí mật nào đó để danh chính ngôn thuận, Nguyễn Duy Sắc trở thành con em ruột thịt thuộc dòng họ Nguyễn Sinh. Chính sự dàn xếp bí mật này đã làm cho tông tích của Nguyễn Sinh Sắc trở thành uẩn khúc, khó hiểu đối với chúng ta.
Sinh Sắc lớn lên được ông Hoàng Đường gả con gái là Hoàng Thị Loan cho. Họ tác hợp và sinh ra người con mà cả dân tộc Việt đang mỏi mòn chờ đợi: Nguyễn Sinh Cung, người mà sau này trở thành vị đại anh hùng dân tộc có tên Hồ Chí Minh.
Sau khi gửi gắm đứa con, người vợ bé của Thiên Hộ Dương trở về bản quán (có thể là ở đâu đó thuộc Định Tường mà cụ thể có thể là ở …, theo như cách gọi ngày nay là Cao Lãnh - Đồng Tháp, còn Gia Định chỉ là tạm cư). Năm tháng qua đi, người thiếu phụ trẻ và xinh đẹp ấy đã đi bước nữa, sinh con đẻ cái, sống cuộc đời thường tình như bao người phụ nữ khác. Câu chuyện thầm kín của nàng đã không một lần được thổ lộ. Người dân địa phương không thể ngờ được nàng đã từng làm vợ một vị anh hùng nổi tiếng khắp Nam Kỳ - Lục Tỉnh, người đã lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp kiên cường ở Đồng Tháp Mười. Tuy nhiên, khả năng nhiều hơn là sau khi gửi con đi và nghĩ rằng ông Thiên Hộ đã hy sinh, nàng quá đau buồn nên lâm bệnh, mất sớm.
Truyền thuyết kể tiếp:
Trong trận tấn công tổng lực của quân Pháp vào căn cứ Đồng Tháp Mười, Thiên Hộ Dương bị thương nặng khi trực tiếp chỉ huy nghĩa quân chiến đấu ở đồn Tả. Một vài thuộc hạ tâm phúc nhất khiêng ông ra khỏi đồn về phía sau rồi bí mật tìm đường thoát khỏi vòng cuộc chiến, đưa đến một cơ sở tuyệt đối tin cậy để chữa trị. Trong thời gian chữa trị, Thiên Hộ Dương đã định quyên sinh một phen bởi quá đau buồn trước sự thất bại của cuộc kháng chiến, trước tin tức các chiến hữu cùng mình vào sinh ra tử đã hy sinh, nhất là sự hy sinh của Đốc binh Kiều và tin thủ khoa Nguyễn Hữu Huân - bạn chiến đấu và trợ thủ đắc lực của nghĩa quân Đồng Tháp bị bắt. Tuy nhiên, nhờ có sự ngăn chặn kịp thời của một thuộc tín tâm phúc túc trực nên cuộc quyên sinh bất thành. Sự kiện này xảy ra vào tháng 10-1866. Thuộc tín này cũng chính là bạn chiến hữu trong số các bạn bè chiến hữu theo ông rời quê hương vượt biển vào Nam đi khai hoang lập ấp năm 1857.
(Có thể rằng sau khi căn cứ địa Đồng Tháp Mười thất thủ, một cánh nghĩa quân do Võ Duy Dương chỉ huy rút về phía đông và bị Pháp chặn đánh. Trận đánh lớn giữa hai bên diễn ra mấy ngày liền tại vùng Cái Thia thuộc quận Cái Bè và Thiên Hộ Dương bị thương nặng trong trận này. Cánh quân này tiếp tục rút về Mỹ Tho, Cai Lậy, sang Cao Lãnh, lên Ba Thằng Minh, rồi Gò Bắc Chiêng. Tại đây, cánh quân này đã hợp được với cánh nghĩa quân rút về phía tây (lên Hồng Ngự - Lăng Xăng - Thông Bình) do Nguyễn Văn Cẩn chỉ huy và một vài toán nhỏ khác của Trương Tấn Minh, Phòng Biểu… chỉ huy.
Ở đó, nghĩa quân đã củng cố lại lực lượng nhưng chỉ huy chung và trực tiếp không còn là Thiên Hộ Dương nữa mà là một nhân vật khác. Tuy nhiên, để giữ vững tinh thần nghĩa quân và cũng nhằm cố gắng phát triển lực lượng về sau mà những thủ lĩnh nghĩa quân lúc này đã thống nhất ý kiến và loan tin rằng Thiên Hộ Dương vẫn trực tiếp cầm quân chiến đấu.
Củng cố lực lượng xong, nghĩa quân của Thiên Hộ Dương tích cực bố trí lại thế trận, chọn những cách đánh linh hoạt hơn. Trung tâm kháng chiến được chuyển về khu vực tổng Cầu An Hạ ở Bắc Đức Hòa, liền với Trảng Bàng - Tây Ninh. Thủ lĩnh nghĩa quân cũng đã tìm gặp Trương Quyền (còn gọi là Trương Tuệ, con Trương Định), thủ lĩnh phong trào kháng chiến tại đây để bàn bạc phối hợp và liên minh với Poucombo, một thủ lĩnh kháng chiến khác, người Khơ-me.
Mở màn cuộc liên minh Việt - Khơme này là chiến thắng Tây Ninh vào ngày 7-6-1866. Nghĩa quân tiêu diệt tại trận 12 quân Pháp, trong đó có chủ tỉnh Tây Ninh là Larclauze và viên thiếu úy Le Sage. Ngày 14-6-1866, Marchaise, trung tá thủy quân lục chiến Pháp, chỉ huy 150 lính với hai cỗ đại bác tìm diệt nghĩa quân. Trong lúc lội qua rạch Dinh, đội hình quân Pháp bị lọt ổ phục kích. Bằng cung nỏ, gươm giáo và một ít súng trường, nghĩa quân đã dũng cảm đánh giáp lá cà, giết chết Marchaise và nhiều lính Pháp, số còn lại bỏ chạy tán loạn.
Hai chiến thắng đó đã tạo được tiếng vang lớn, làm nức lòng những người yêu nước. Về tinh thần chiến đấu của nghĩa quân thời kỳ đó, một học giả người Pháp tên là Paulin Vial có viết: “Người An Nam với vũ khí thô sơ chống với súng carbine, họ cứ việc nhào vô và đánh với một nghị lực mù quáng, chứng tỏ rằng họ can đảm và quyết tâm một cách phi thường…”.
Ngày 24-6-1866, nghĩa quân lại tấn công đồn Thuận Kiều và Trảng Bàng.
Ngày 27-6-1866, Pháp điều một lực lượng mạnh gồm 200 lính Pháp, 100 lính mã tà và một pháo thuyền do thiếu tá Rosse chỉ huy đến bao vây căn cứ Cầu An Hạ. Nghĩa quân chủ động đánh mở ra ba mặt. Tuy nhiên, do tương quan lực lượng và vũ khí quá chênh lệch, dù đã kháng cự quyết liệt nhưng cuối cùng cũng phải chịu thiệt hại nặng ở ấp Bình Thủy, Ba Hầm và Bình Điền. Nguyễn Văn Tài, một trong số những thủ lĩnh nghĩa quân bị bắt. Căn cứ địa kháng chiến bị san bằng. Nghĩa quân phải rút lên Tây Ninh. Từ ngày 2 đến ngày 11-7-1866, liên quân Việt - Khơme còn chạm trán với quân Pháp trong các trận: Trà Vang (Tây Ninh), Củ Chi, Hóc Môn, Trảng Bàng, Long Trì (Tân An), Bình Thới)…
Sau một thời gian khá dài chữa trị vết thương, Thiên Hộ Dương dần bình phục nhưng sức khỏe của ông đã giảm sút nhiều, không được như trước nữa. Ông và thuộc tín bắt đầu lần mò theo dọc sông Vàm Nao nghe ngóng và tìm hiểu tình hình. Lúc này, Thiên Hộ Dương lấy tên mới là Võ Qua. Truyền khẩu riết rồi Qua thành Quá, nên cuối cùng gọi là Võ Quá. Võ Quá cũng đã ghé Lý Nhơn và Gò Công. Tình hình cho Võ Quá thấy phong trào kháng chiến ở ba tỉnh miền Đông, trước sự đàn áp của địch đã lắng hẳn xuống. Các anh hùng hào kiệt từng là chiến hữu của ông, số thì ngã xuống, số bị cầm tù, số còn lại thì đã dồn sang 3 tỉnh miền Tây tiếp tục chống Pháp. Ở ba tỉnh miền Đông, bộ máy cai trị của Pháp đã được củng cố ngày một mạnh. Như vậy việc gầy dựng lại từ đầu một đội ngũ nghĩa quân đủ mạnh để nổi dậy khởi nghĩa một lần nữa là điều vô vọng, nếu may lắm không bị tiêu diệt ngay từ trứng nước thì trước sau gì cũng lại chuốc lấy thất bại. Thời thế đã đổi thay! Không còn cách nào khác, Võ Quá quyết định trở về quê hương bản quán, muốn thế trước hết là phải ra Bình Thuận. Ông cùng thuộc tín theo thuyền dọc sông Vàm Nao ra biển…
Bàu Trắng, Mũi Né, Bình Thuận là nơi mà ngày xưa dân đi biển từ Ngũ Quảng vào và từ Nam Kỳ - Lục Tỉnh ra thường dùng làm nơi cặp thuyền (đóng vai trò như một trạm trung chuyển). Võ Quá và thuộc tín đặt bàn chân đầu tiên lên đất Bình Thuận khi theo thuyền từ Nam ra chính là tại chốn này.
Vừa bước chân lên bờ là hai người khẩn trương đến ngay một địa chỉ ở Hòa Đa nhưng đã không gặp được người họ Trương nọ (có thể lúc đó người họ Trương nọ đang ở đâu đó trên chặng đường Bình Thuận - Nghệ An để thực hiện cái công việc ân tình mà bạn bè đã gửi gắm!). Võ Quá dò hỏi người xung quanh và chỉ biết mơ hồ rằng: cũng chưa lâu lắm, có một người phụ nữ bồng một đứa con khoảng 4 tuổi ra đây, được mấy bữa thì cô ta đi đâu không rõ, hình như là ra Trung, đến Quảng Ngãi, còn người họ Trương thì nghe nói có việc ở quê phải về gấp và chưa thấy trở lại. Cho rằng nấn ná ở lại chỉ vô ích và nhất là dễ lộ chuyện nên Võ Quá quyết định bỏ đi. Từ đây, Võ Quá và thuộc tín - đồng thời cũng là bạn chiến hữu chí cốt, sau khi giao ước và hứa hẹn với nhau xong thì chia tay, tìm đường, kẻ trước người sau, ai về quê nấy.
Võ Quá không về Quảng Ngãi mà ghé Bình Định, về tổ quán ở An Nhơn tá túc. Lúc này Võ Quá đã chuyển thành Võ Bông. Sau bao nhiêu năm xa cách, Võ Duy Lập, mà bây giờ là Võ Bông đã đoàn tụ với vợ con tại đây. Võ Bông đã kể cho vợ nghe nhiều điều bí mật trong quãng đời hoạt động tại Nam Kỳ của ông, kể cả việc ông có đứa con riêng mà không biết đang ở phương trời nào. Để phù hợp với cái tên hiện tại là Võ Bông, ông đã cải lại họ hai người con trai của mình, bỏ chữ Duy đi, để rồi: Võ Duy Cung thành Võ Tường và Võ Duy Phụng thành Võ Ký, thêm Nguyễn Duy Sác thành Võ Sác, Võ Châu thành Võ Thị Thắm. Sau này ông còn có thêm 1 người con gái nữa, được đặt tên là Võ Thị Lan…
Ẩn mình ở Bình Định một thời gian, Võ Bông trở về Nghĩa Hành, Quảng Ngãi, nơi chôn nhau cắt rốn của ông và cũng là nơi chôn cất di hài người cha của ông. Trước đó khá lâu, vợ con ông đã về đó để lo nhang khói mồ mả, thờ phượng cho người cha tiết nghĩa - Tổng trấn Võ Duy Ninh (hiện nay mộ phần vị Tổng trấn này vẫn được bảo lưu tại làng Đại An, xã Hành Thuận, huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi). Về đến quê cha thì cái tên Võ Bông đã hóa thành Võ Sen. Nếu ghép hai cái tên đó lại thì sẽ có được một… Bông - Sen. Ở Đồng Tháp Mười xưa kia, dù là bao la mùa khô hay mênh mông mùa nước nổi, bao giờ cũng hiển hiện sen và tràm. Đặc biệt, hoa sen đã trở thành biểu tượng bất tử về sự thuần khiết của tâm hồn con người chân phác và của đất trời hoang vắng ở xứ sở đó. Chắc hẳn trong lòng ông Thiên Hộ không bao giờ nguôi ngoai được nỗi niềm thương nhớ về một vùng dung dị mà khoáng đạt, hiền lành mà kiên trung, nơi ông đã từng lăn lộn, vẫy vùng, anh dũng chiến đấu chống quân xâm lược để trả thù cho cha, báo đền cho nước, cùng với các chiến hữu và những “dân ấp, dân lân, mến nghĩa làm quân chiêu mộ”; nơi mà ông đã có thêm một mối tình phu - phụ với người thiếu nữ có tên là Sen (hoặc cũng có thể là Bông). Như là thể hiện của sự cảm ứng huyền linh, sau này, trong văn học sử Việt Nam có hai câu thơ được đặt vào vị trí rất trang trọng, ngầm mách bảo rằng có thể coi hai cuộc kháng chiến chống Pháp lần thứ nhất và lần thứ hai là một cuộc kháng chiến duy nhất có tính truyền đời truyền kiếp rất thiêng liêng mà cũng thật lạ lùng:
“Tháp Mười đẹp nhất Bông Sen
Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ”
(Kể thêm: ngôi làng ôm ấp quãng đời thơ ấu của Hồ Chí Minh cũng có tên là Sen. Hòa Đa, thủ phủ của tỉnh Bình Thuận có tên xưa kia là  Liên Thành (nghĩa là: thành hoa sen). Ở đây, tháng 3-1906 xuất hiện tổ chức Liên Thành Thương quán, hoạt động kinh tế nhằm gây quỹ cho phong trào Duy Tân; tháng 5-1906 xuất hiện Liên Thành Thư xã nhằm truyền bá sách báo có nội dung yêu nước, mở mang dân trí. Đó là kết quả vận động của các nhà yêu nước Bình Thuận, trong đó hạt nhân gồm Nguyễn Trọng Lợi, Nguyễn Quí Anh (hai người con của Nguyễn Thông), Trương Gia Mô, Hồ Tá Bang và một số người khác. Xa xưa hơn nữa, ít ra cũng cả ngàn năm, ngay trong kinh thành Thăng Long đã xuất hiện biểu tượng trác tuyệt về hoa sen: Chùa Một Cột. Phải chăng đó là kiến tạo từ hồi ức đã khắc tạc không thể phai mờ trong tâm trí dân tộc Việt về một thời xa xưa hơn nữa, khi mà một vùng rộng lớn bao gồm cả Thăng Long còn mênh mang nước nổi với bát ngát những đầm sen, và phải chăng bông sen đã là đặc trưng của những vùng duyên hải nước ngập lầy lội tràn lan?
Và phải chăng hoa sen cũng đã từng được coi là một biểu tượng của sự thơm tho, thanh khiết của nền văn minh sông Hồng thời cổ đại?)
Võ Sen về sinh quán nhưng không về làng Đại An sum họp với vợ con mà về ở đâu đó tại Chợ Chùa. Thiên Hộ Nguyễn Duy Dương - Võ Duy Lập, vĩnh viễn mai danh ẩn tích. Trong phả đồ có ghi ông mất vào năm 1923.
Sau này, trên bước đường hành phương nam, phó bảng Nguyễn Sinh Sắc (còn có tên là Nguyễn Sinh Huy) có ghé lần lượt qua Nghĩa Hành - Quảng Ngãi thăm quê cha đất tổ, ghé Hòa Đa - Bình Thuận, nơi xưa kia đã ly biệt mẹ mình. Đích đến cuối cùng của ông là Cao Lãnh - Đồng Tháp. Ông hoạt động yêu nước và hành nghề bốc thuốc ở đây cho đến cuối đời. Phải chăng Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc đến sống ở Cao Lãnh - Đồng Tháp còn với mục đích sâu xa là muốn về quê mẹ để tìm hiểu tung tích người mẹ đồng thời cũng thăm lại nơi người cha của mình đã khai hoang lập ấp, về chiến trường xưa để tìm hiểu cuộc chiến đấu chống Pháp của người cha mà ông nghĩ rằng đã hy sinh anh dũng tại đó?
Ngày nay, bên đường Phạm Hữu Lầu, gần cầu Cái Tôm, cách trung tâm thị xã Cao Lãnh 1 km có khuôn viên rộng khoảng 1 mẫu, đó chính là khu mộ của Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc - thân phụ của vị đại anh hùng Hồ Chí Minh.
***
Đứng đây, trên cái vị thế cao vút và lồng lộng gió ngàn này, dự định ban đầu của chúng ta là thực hiện chương trình “Trên đỉnh Trường Sơn ta hát” thật xúc tích, thật ngắn gọn như một chương trình “mini” với đôi ba bài ngợi ca Thăng Long - Hà Nội, thủ đô ngàn năm văn vật của nước Việt Nam trường tồn mà chúng ta vô vàn yêu mến và xiết bao tự hào, như là một lời chào tạm biệt đối với Tổ Quốc trước khi bước vào một cuộc bôn ba vô tiền khoáng hậu (có lẽ thế!) mà chúng ta đã sửa soạn xong hành trang. Nào ngờ cái chương trình chia tay dự định là “ngắn thôi” ấy lại dàn trải thậm thượt đến tận lúc này cũng chưa dứt, đến mất luôn cả cảm giác về sự trôi của thời gian. Chúng ta đã không thể khẳng định được thời gian trôi qua nhanh hay chậm và đã bao lâu rồi: một năm hay mười năm, một thế kỷ hay đã vài thiên niên kỷ? Hay thời gian đã đứng lại từ lâu vì quanh chúng ta lúc nào cũng như lúc nào, luôn biêng biếc màu xanh của núi rừng, của trời biển? Cũng có thể cả thời gian lẫn chúng ta cùng vùn vụt trôi đi để chúng ta chỉ có thể cảm giác được hiện tại mà thôi?...
Thú thực, cũng như mọi con dân hết mực yêu thương quê hương, đất nước mình, chúng ta không bao giờ muốn rời xa Tổ Quốc. Nhưng cuộc hành trình vĩ đại (đi tìm cái gì đó) còn quá nhiều dang dở nên buộc chúng ta không còn cách nào khác là đành phải chia lìa, tạm biệt Tổ Quốc một thời gian. Tuy nhiên, trong cuộc bôn ba muôn dặm, không ai có thể biết được điều gì đang chờ đợi phía trước. Nếu chẳng may gặp rủi ro, có thể vĩnh viễn chúng ta không còn bao giờ gặp lại Tổ Quốc mình nữa. Chính điều lo lắng này đã làm cho cuộc chia tay trở nên sướt mướt, da diết, lê thê giãi bày và tràng giang đại hải kể lể. Hình như những cuộc chia ly thấm đẫm tình yêu thương bao giờ cũng kéo dài, khó dứt. Dù sao thì chúng ta đã có một cuộc chia ly dài lâu nhất thế giới tự cổ chí kim.
Dài thế mà cũng chưa nói cạn được nỗi niềm. Cũng là một điều lạ: muốn kể về lịch sử Thăng Long - Hà Nội thì không thể không kể về lịch sử dựng nước và giữ nước Việt Nam và ngược lại, không thể hiểu được lịch sử Việt Nam nếu không kể ra lịch sử tồn tại của Thăng Long - Hà Nội. Rốt cuộc, kể chuyện lịch sử Thăng Long - Hà Nội thì phải kể luôn cả lịch sử Việt Nam, muốn kể lịch sử Việt Nam thì không thể không kể đến quá trình đấu tranh chế ngự thiên nhiên, chống cự giặc ngoại xâm của dân tộc Việt, mà quá trình đó lại được bắt đầu bằng công cuộc trị thủy và đánh tan giặc Ân ở khu vực Cổ Loa, vùng được coi là “tổ quán” của Thăng Long - Hà Nội. Muốn kể về cuộc đấu tranh “ngàn đời” chống ngoại xâm của dân tộc Việt mà không kể đến lịch sử chiến tranh thế giới hoặc ngược lại thì thật là phiến diện, gây khó hiểu và thậm chí là không thể… kể được. Đó cũng là lý do khiến chúng ta phải đứng chôn chân đến tê cứng trên đỉnh Trường Sơn đại ngàn này.
Chúng ta thanh minh như thế và… thôi, không thanh minh tiếp nữa, kẻo lại làm cho cái sự lỡ lê thê lại càng… lê thê thêm…
Dù sao thì cũng cố lên chút nữa, nói vắn tắt vài điều nữa để kết thúc câu chuyện cho có đầu đuôi mà yên tâm, thỏa nguyện lên đường, mở cuộc hành trình mới. Cuộc hành trình mà chúng ta cho là quái lạ nhất trong tất cả các cuộc hành trình quái lạ của mình đi đến (thực ra là trở về) với Tự Nhiên Vĩ Đại (đồng thời cũng là Vi Tiểu).
Dễ chừng cũng ngót 30 năm rồi, chúng ta chưa một lần trở lại thăm thủ đô Hà Nội. Nhờ đã dồi dào tiền bạc, sẵn đá của núi non, sẵn đất cát của sông nước mà Hà Nội, tuy không phình nhanh như thành phố Hồ Chí Minh, nhưng chắc bây giờ, với công cuộc bê tông hóa, cũng đã rộng lắm, to lắm và cao lắm. Qui hoạch mở rộng Hà Nội vừa được “nhất trí thông qua” chắc sẽ làm cho Hà Nội trở nên đồ sộ “vật vã” hơn bao giờ hết. Rồi đây, thủ đô Hà Nội mới sẽ là hợp nhất Hà Nội hiện nay với tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh (Vĩnh Phúc) và 4 xã Đông Xuân, Tiến Xuân, Yên Bình, Yên Trung (huyện Lương Sơn, Hòa Bình), sẽ có 334.470 ha diện tích tự nhiên và 6.232.940 nhân khẩu. Từ chỗ chỉ có 14, thành phố Hà Nội sẽ có 29 đơn vị hành chính cấp huyện. Trong đó có 9 quận thuộc nội thành Hà Nội cũ, 2 thành phố (Hà Đông, Sơn Tây) và 18 huyện.
Trên báo “Người Lao Động” ra ngày 4-8-2008, chúng ta đọc thấy bài báo nhỏ của tác giả B. T. B. Chúng ta trích đoạn:
“Theo Thông tấn xã Việt Nam, công ty Arata Irozaki kết hợp với Metropolitan Architecture đã đề xuất ý tưởng từ thành phố Thủ đô đến thành phố lớn đa cực và mô hình phát triển Hà Nội là thành phố đa cực phát triển phát triển bền vững. Theo nhà thầu thì mô hình phát triển Hà Nội là tối ưu với mối liên kết của ba hệ thống: giao thông, thông tin liên lạc và các tuyến đường chính (đồng thời là hành lang kinh tế kỹ thuật sẽ tạo ra một thành phố hiện đại của thế kỉ XXI). Công ty Posco E&C liên doanh với Công ty Jina Architect, Petkins Eastman nhấn mạnh Hà Nội cần có hành lang xanh với mật độ 60%, đất xây dựng đô thị nằm xen kẽ hành lang xanh và được phân bố tương đối đều phụ thuộc vào tăng trưởng của từng thời kỳ cụ thể, đến năm 2030, Hà Nội sẽ là thủ đô phát triển bền vững vào bậc nhất thế giới. Công ty RTKL đề xuất ý tưởng xây dựng mô hình thành phố bền vững: mô hình phát triển tổng hợp, trong đó có sự kết hợp giữa các chức năng quản lý nhà nước với yếu tố văn hóa xã hội, phát triển hạ tầng giao thông, phát triển đất giúp thành phố trở nên năng động, mạnh mẽ…”.
Nghe các bác nhà thầu nước ngoài “tán” mà mát lòng mát dạ: Hà Nội nếu để cho các bác thầu xây dựng thì chỉ có hiện đại và bền vững bậc nhất thế giới mà thôi. Rồi đây, thay cho những làng hoa, làng nghề truyền thống, những thửa rau xanh là những tòa nhà chọc trời nguy nga, những công viên “thượng uyển” được tỉa xén sắc sảo đến từng chi tiết và cũng thật tráng lệ. Các bác nông dân nhà ta tha hồ mà tít mắt, trầm trồ nhé!
Nhưng thôi, cũng không nên quá lo lắng kiểu lo “con bò trắng răng” làm gì. Tàn phá và dựng xây là hai mặt của một quá trình biến đổi có tính liên tục và tất yếu tùy vào yêu cầu khách quan cũng như ý chí chủ quan của con người. Còn hợp lý hay không,...hậu xét!. Thăng Long - Hà Nội không thể không biến đổi theo thời gian dù có làm cho nó bền vững đến mấy chăng nữa. Nó biến đổi theo hướng nào là tùy thuộc vào sự biến đổi của môi trường chứa nó, trong đó có bàn tay con người và bộ não của con người hiểu như thế nào về khái niệm “dựng xây” cũng như “tàn phá”. Đó cũng chính là số phận có tính chất định mệnh của Thăng Long - Hà Nội, và nếu Thăng Long - Hà Nội vẫn là nơi còn long mạch tỏa ra khí thiêng sông núi, vẫn là vùng địa linh hun đúc nên nhân kiệt thì trước sau gì nó cũng biến đổi phù hợp với ước nguyện của Đại Chúng, vẫn trở về với biểu tượng hồn hậu, khiêm cung và kiên trinh của linh hồn dân tộc Việt.
Ai ơi, hãy đừng để cho những thế hệ người Hà Nội mai sau cũng lại như Bà Huyện Thanh Quan, cách nay hàng trăm năm, trong thời Pháp thuộc xô bồ xô bộn, đã phải thổn thức trong bài thơ “Thăng Long thành hoài cổ” của mình:
“Tạo hóa gây chi cuộc hý trường
Đến nay thấm thoát mấy tinh sương
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương
Ngàn năm gương cũ soi kim cổ
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường”.
Tổ quốc Việt Nam là nơi trú ngụ của dân tộc Việt. Khi đã làm ăn no đủ rồi, sung túc rồi thì dân tộc Việt có quyền được xây dựng nơi trú ngụ của mình khang trang hơn, tiện nghi hơn. Đó là lẽ tự nhiên và cũng là điều hoàn toàn chính đáng. Chỉ có điều cần nhấn mạnh ở đây là dựng xây đến mức độ nào thì gọi là vừa đủ, như thế nào thì gọi là phù hợp, ưu tiên theo hướng nào thì gọi là tối ưu. Xây dựng một cách mù quáng (chưa nói đến vì mục đích mưu cầu đen tối), xây dựng để thỏa niềm kiêu hãnh, để cho “bằng chị, bằng em”, xây dựng lấn hết cả đất đai, ruộng đồng, sông núi… coi chừng lại hóa ra phá hoại, mắc tội với hậu thế.
Hãy bình tâm mà nhìn nhận lại: nước Việt Nam đang đứng trước nạn thiên nhiên xâm lăng mới: biển dâng, và dân tộc Việt muốn sống còn thì không thể không đứng lên đấu tranh trị thủy. Đó cũng chính là một cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện mà dân tộc Việt phải chuẩn bị lực lượng và thậm chí là phải bắt đầu tiến hành ngay từ ngày hôm nay.
Theo tính toán, nhiệt độ trung bình ở Việt Nam sẽ tăng lên 3oC và mực nước biển sẽ dâng lên 1 m vào năm 2100. Theo đánh giá của Ngân hàng thế giới (năm 2007), Việt Nam là một trong năm nước sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
Nếu mực nước biển dâng lên 1 m thì sẽ có 40% dân số ảnh hưởng trực tiếp, khoảng 90% diện tích trồng lúa ở đồng bằng sông Cửu Long, 11% diện tích đồng bằng sông Hồng bị ngập mặn hoàn toàn, 4,4% lãnh thổ Việt Nam sẽ bị nhấn chìm vĩnh viễn (hoặc đến thời kỳ biển thoái hàng ngàn năm nữa), đồng nghĩa với khoảng 20% xã trên cả nước, 9.200 km đường bộ bị xóa sổ… Nước biển dâng 1 m sẽ có 1.668 km2 đất thuộc đồng bằng sông Hồng bị ngập.
Theo các nhà nghiên cứu thì đối với thành phố Đà Nẵng, trong 30 năm nữa, khi mực nước biển dâng lên 0,3 m, sẽ có 30.000 hộ dân với hơn 170.000 người ở 18 xã phường ven biển mất nhà ở…
Những biểu hiện của hiểm họa tương lai đó đã bắt đầu bộc lộ từ hôm nay. Hiện nay ở nhiều địa phương Nam Bộ đã xuất hiện hiện tượng triều cường dâng cao phá vỡ đê phòng hộ, biển lấn chồm cả qua đê, tràn vào trong mà người dân gọi là “biển đuổi”. Chẳng hạn ở tỉnh Sóc Trăng thời gian gần đây biển dâng cao bất thường. Năm 2008, tại các huyện ven biển như Vĩnh Châu, Cù Lao Dung… tình trạng biển “nuốt chửng” đất liền đã đến mức báo động… Theo số liệu của chi cục Bảo vệ môi trường khu vực Tây - Nam Bộ, những năm gần đây, diện tích đất trồng lúa ở khu vực này đã có xu hướng suy giảm; năm 2000 diện tích trồng lúa của vùng là trên 3,94 triệu ha, đến năm 2006 chỉ còn 3,77 triệu ha. Mặt khác, tính đa dạng sinh học ở những khu rừng ngập mặn ven biển; những mô hình nuôi, trồng thủy sản cũng sẽ bị ảnh hưởng nặng nề bởi biển dâng.
Trong nội dung tờ trình Thủ tướng Chính phủ của Bộ Nông nghiệp - Phát triển nông thôn về chiến lược phát triển thủy lợi đến năm 2020 có nhấn mạnh: “Đến năm 2070, mực nước biển có thể dâng cao lên 0,9 m so với hiện nay; 0,5 triệu ha đất của Đồng bằng sông Hồng và 1,5 - 2,6 triệu ha đất của Đồng bằng sông Cửu Long sẽ bị ngập bởi thủy triều nếu không có hệ thống công trình bảo vệ”.
Có đúng không nếu ngay từ bây giờ, chúng ta nên điều chỉnh lại các dự án xây dựng, chuyển hướng ưu tiên bê tông hóa vào việc củng cố xây mới hệ thống đê điều, đưa bê tông hóa ra các vùng duyên hải chống sự xâm lấn của nước biển, bảo vệ các vựa lúa của Việt Nam trước nạn biển dâng?
Với truyền thống trị thủy hàng ngàn năm của mình và nếu nghiêm túc dự trù từ sớm, chắc chắn dân tộc Việt sẽ thành công trong việc chống nước mặn xâm lăng trong kỳ biển dâng này và đồng thời qua đó sẽ tạo nên được sự phồn thịnh vượt bậc và lâu bền. Một trong những yếu tố sẽ làm nên sự thắng lợi của công cuộc đấu tranh chống biển lấn là nó xảy ra trong điều kiện tình hình chính trị thế giới đã có nhiều lắng dịu.
Dựa trên những quan niệm cực đoan, giáo điều về kinh tế - xã hội, Liên Bang Xô Viết đã không chịu nổi những căng thẳng nảy sinh trong lòng nó, đã tự nhiên tan vỡ (Goócbachốp và Enxin chỉ là hai nhân vật thừa hành của sự biến đổi tất yếu ấy của xã hội). Liên Bang Xô Viết tan rã thành các quốc gia độc lập và tất cả các quốc gia này cũng như tất cả các nước làm hình thành nên hệ thống xã hội chủ nghĩa châu Âu đều từ bỏ con đường Xã hội chủ nghĩa. Trung Quốc và Việt Nam tuy không nói từ bỏ nhưng để vực dậy nền kinh tế, tránh đổ vỡ, đã đổi mới ngày một triệt để cách thức điều hành nền kinh tế theo hướng giống với nền kinh tế tư bản chủ nghĩa hơn bao giờ hết.
Tuy nhiên đó không phải là kết quả đấu tranh chống cộng sản thắng lợi của hệ thống các nước phe Tư bản chủ nghĩa. Bản thân quan niệm Tư bản chủ nghĩa về kinh tế - xã hội cũng có những cực đoan và giáo điều của nó. Chính vì vậy mà ở các nước tư bản chủ nghĩa luôn xảy ra khủng hoảng kinh tế như một căn bệnh mãn tính, chỉ có thể chữa trị như một giải pháp tình thế mà chưa có bài thuốc chữa trị rốt ráo, tổng quát. Nhờ có các cuộc khủng hoảng ấy, đồng thời trước tình hình thế giới sau chiến tranh thế giới thứ hai đã có nhiều biến đổi, nhất là phong trào đấu tranh giành độc lập của các nước thuộc địa dâng cao mạnh mẽ; mà các nhà nghiên cứu kinh tế tư sản đã đưa ra nhiều học thuyết để nỗ lực phân tích nguyên nhân cũng như tìm biện pháp khắc phục nhằm chấm dứt suy thoái kinh tế. Xu thế giải quyết khủng hoảng của các nhà kinh tế tư sản là trước sau gì cũng phải hướng tới khống chế cạnh tranh mù quáng ở tầm vĩ mô, khống chế độc quyền, tăng khả năng điều tiết vĩ mô của chính quyền nhà nước bằng biện pháp kinh tế và cả bằng mệnh lệnh trong trường hợp cần thiết, nghĩa là tăng cường sự quản lý điều hành tập trung cho nhà nước. Như thế, từ một nền kinh tế tự do cạnh tranh mù quáng, qua thời gian, để sống còn, nền kinh tế đó cũng dần phải giảm bớt tính tự do mù quáng của nó và trong chừng mực nhất định, tăng tính kế hoạch và chỉ đạo tập trung nhà nước. Rõ ràng nền kinh tế tư bản chủ nghĩa đã mặc nhiên ngày một nhích đến gần hơn với phương thức điều hành kinh tế của chủ nghĩa xã hội. Vì như chúng ta biết, đặc trưng của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa là có tính kế hoạch cao độ, tập trung quản lý điều hành trong tay nhà nước (một cách duy ý chí, bất chấp qui luật cung cầu).
Ngày nay, hầu hết và có thể là ở tất cả các nước, dù mang nhãn mác nào, tư sản hay cộng sản, tư bản chủ nghĩa hay xã hội chủ nghĩa đều có nền kinh tế mang bản chất na ná nhau và nếu dựa trên lập trường của chủ nghĩa cộng sản “chính thống” thì đều là nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, không thể chối cãi được dù có biện minh giỏi cách mấy đi chăng nữa.
Các nền kinh tế đã như thế thì các quan niệm chính trị cũng bớt hẳn đối đầu. Vấn đề nóng bỏng trước đây, sự đối đầu đến mức tưởng như một mất một còn giữa cộng sản và tư sản, giữa Xã hội chủ nghĩa và Tư bản chủ nghĩa, đến đây, đã không còn đặt ra (công khai) nữa.
Nước Nga, kế thừa cái nền tảng đạo đức vô sản đẹp đẽ của Liên Bang Xô Viết, đang trở thành mẫu mực trong quan hệ quốc tế. Nước Mỹ năm 2009, sau khi Barack Obama, người Mỹ da đen đầu tiên lên làm tổng thống, đã có những biến đổi làm yên lòng thế giới: hữu nghị hơn, cởi mở hơn, cao thượng hơn.
Có một câu chuyện thú vị liên quan đến Tổng thống Obama. Chính phủ mới của Mỹ thực hiện các chính sách như: nắm giữ phần lớn cổ phiếu của các ngân hàng, điều khiển ngành công nghiệp ô tô, tìm cách quốc hữu hóa lĩnh vực chăm sóc y tế… đã làm cho một số nghị sĩ đảng Cộng Hòa công khai chỉ trích tổng thống Obama đang thực hiện những chính sách mang tính chất xã hội chủ nghĩa. Vấn đề này ngay lập tức diễn ra trên khắp nước Mỹ. Công ty truyền thông chuyên thực hiện các cuộc thăm dò dư luận có uy tín của nước Mỹ là Rasmussen Reports lập tức quyết định tiến hành cuộc thăm dò ý kiến có qui mô toàn quốc với câu hỏi: “Giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, hệ thống nào tốt hơn?”. Kết quả công bố ngày 9-4-2009 cho thấy chỉ có 53% người Mỹ trưởng thành tin rằng chủ nghĩa tư bản tốt hơn; 20% tin rằng chủ nghĩa xã hội tốt hơn và 27% phân vân không biết chọn hệ thống nào. Đây là kết quả gây ngạc nhiên cho chính những người thực hiện, bởi trong cuộc khảo sát cũng do họ thực hiện vào cuối tháng 12-2008, có đến 70% người Mỹ trưởng thành ủng hộ nền kinh tế thị trường tự do (một cách hiểu khác về chủ nghĩa tư bản). Mặc dù kết quả cho thấy đa số người Mỹ vẫn ủng hộ chủ nghĩa tư bản, nhưng 53% là một tỷ lệ được cho là quá thấp trong một quốc gia luôn coi chủ nghĩa tư bản là chìa khóa phát triển để được như Mỹ ngày nay.
Câu chuyện kể cũng thú vị đấy chứ?
Có thể đoán rằng; thế giới đang bước vào thời kỳ hòa dịu và hợp tác hòa bình, các nước dần một xích lại gần nhau hơn nữa và cùng chung sống trong bầu không khí bình đẳng, tương trợ, và tôn trọng lẫn nhau. Xu thế này chắc chắn cũng làm cho chủ nghĩa khủng bố lụi tàn dần.
Cuối cùng, chúng ta hy vọng rằng trong tương lai không xa, trên thế giới sẽ không còn bất cứ loại vũ khí hóa học nào, bất cứ thứ vũ khí hạt nhân nào. Nhưng trước hết, vũ khí hạt nhân, cái biểu tượng về trí tuệ siêu việt đáng tự hào và đồng thời cũng là biểu tượng mù quáng và độc ác đáng hổ thẹn của loài người phải bị tiêu hủy ngay lập tức và không có quyền được xuất hiện trở lại.
Tuy nhiên, cái tương lai không xa ấy chắc vẫn còn… xa vời lắm! Vào cuối tháng 5-2011, trong một chuyến công du qua nước Anh, tổng thống Obama đã phát biểu trước hai viện Quốc hội Anh: “Mỹ, Anh đang bước vào một giai đoạn quan trọng mới và ngày nay là thời đại mà Mỹ và Châu Âu phải giữ vai trò lãnh đạo thế giới”.
Lời phát biểu gây sốc đó không hề làm chúng ta ngạc nhiên. Obama vẫn chưa thoát được lối tư duy kẻ cả, hợm hĩnh thường thấy ở những chính khách “tai to mặt lớn” của những nước lớn!

                                                ***

 Ôn lại:

       Giữa thế kỷ XIX, sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế đã thúc đẩy các nước tư bản phương Tây mở những cuộc chiến tranh giành giật thuộc địa. Các quốc gia phương Đông nói chung và Việt Nam nói riêng đã trở thành nạn nhân trực tiếp của cuộc chiến tranh đó. 

      Trước khi bị thực dân Pháp xâm lược, Việt Nam là một quốc gia độc lập, có chủ quyền, đạt dược những tiến bộ nhất định về kinh tế, văn hoá. Tuy nhiên, ở giai đoạn này, chế độ phong kiến Việt Nam đang có những biểu hiện khủng hoảng, suy yếu nghiêm trọng.

     Nông nghiệp sa sút. Nhiều cuộc khẩn hoang được tổ chức khá quy mô, nhưng cuối cùng đất đai khai khẩn được lại rơi vào tay địa chủ, cường hào. Hiện tượng dân lưu tán trở nên phổ biến. Đê điều không được chăm sóc. Nạn mất mùa, đói kém xảy ra liên miên.

    Công thương nghiệp bị đình đốn; xu hướng độc quyền công thương của Nhà nước đã hạn chế sự phát triển của sản xuất và thương mại. Chính sách "bế quan cảng" của nhà Nguyễn khiến cho nước ta bị cô lập với thế giới bên ngoài.

    Quân sự lạc hậu, chính sách đối ngoại có những sai lầm, nhất là việc "cấm đạo", đuổi giáo sĩ phương Tây, đã gây ra những mâu thuẫn, làm rạn nứt khối đoàn kết dân tộc, gây bất lợi cho sự nghiệp kháng chiến sau này.

     Trong xã hội mâu thuẫn ngày càng dâng cao giữa nhân dân và địa chủ. Hiện tượng dân lưu tán trở nên phổ biến. Do đó nông dân đứng lên khởi nghĩa, chống triều đình ở khắp nơi. Nhiều cuộc khởi nghĩa chống triều đình đã nổ ra như: khởi nghĩa Phan Bá Vành ở Nam Định, Thái Bình (1821), của Lê Duy Lương ở Ninh Bình (1833), Lê Văn Khôi ở Gia Định (1833), của Nông Văn Vân ở Tuyên Quang, Cao Bằng (1833 1835)...

      Có thể thấy tình hình Việt Nam thời bấy giờ chế độ phong kiến Việt Nam khủng hoảng nghiêm trọng, mâu thuẫn xã hội ngày càng sâu sắc, kinh tế chậm phát triển.

      Có thể khẳng định, sự khủng hoảng của chính quyền phong kiến ở Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX đã làm cho xã hội Việt Nam rệu rã, suy yếu về mọi mặt, tạo thành một trong những nguyên nhân hàng đầu khiến quân Pháp xâm lược Việt Nam.

      Do sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hợp pháp, nhu cầu thị trường và thuộc địa tăng lên nên các nước phương Tây đẩy mạnh việc xâm lược các nước phương Đông để mở rộng thị trường và vơ vét tài nguyên.  Chúng thấy Việt Nam là nơi có vị trí chiến lược quan trọng, giàu tài nguyên, khoảng sản. Việt Nam được coi là miếng mồi ngon mà người Pháp đã nhắm tới trước đó. Cùng với đó là nguyên nhân chủ quan được nêu trên, đó là lúc mà chế độ phong kiến Việt Nam đã lâm vào khủng hoảng trầm trọng và dễ bề thôn tính hơn.

        Ngoài ra, Việt Nam là ngã ba của Đông Dương, vận chuyển hàng hóa ven biển rất thuận lợi nên dễ bị xâm lược. Xâm lược Việt Nam trước, âm mưu sau đó là các nước láng giềng thân cận

       Việt Nam có dân số đông nhưng trình độ dân trí thấp, là nguồn cung cấp số lượng lớn người rẻ. Trong thời kỳ phong kiến, nhân dân ta phải chịu cảnh áp bức, lầm than. Ăn không đủ no, mặc không đủ ấm thì không học được. Đây là một thiệt thòi rất lớn. Thực dân Pháp thấy điều này có lợi, nếu chúng thống trị được Việt Nam thì đây sẽ là lực lượng sản xuất chủ lực.

        Ngoài ra, Lợi dụng các mối quan hệ đã có từ thời chúa Nguyễn Ánh và sự suy yếu của chế độ phong kiến Việt Nam, Pháp và Tây Ban Nha đã viện cớ Nhà Nguyễn cấm đạo Thiên Chúa và bắt bớ, giết hại nhiều giáo sĩ, giáo dân để tiến hành cuộc chiếm cứ nước Việt.

  Bởi Đà Nẵng là một hải cảng sâu và rộng, thuận tiện cho tàu chiến vào ra, lại nằm trên trục đường Bắc – Nam, có thể sang Lào, Căm Bốt và chỉ cách kinh đô Huế khoảng 100 km, rất thuận lợi cho việc "đánh nhanh thắng nhanh" của liên quân Pháp – Tây Ban Nha (gọi tắt là liên quân). Ngoài ra, Đà Nẵng còn có cánh đồng Nam – Ngãi để nuôi quân, còn có nhiều giáo sĩ và giáo dân thân Pháp.

         Cho nên đánh chiếm được Đà Nẵng, vượt đèo Hải Vân, rồi tấn công ra Huế chính là con đường ngắn nhất, nhanh chóng nhất, ít hao tốn tiền của và nhân lực nhất để thực hiện được ý đồ của Pháp và Tây Ban Nha. Tuy nhiên, phải chờ đến sau khi Hiệp ước Thiên Tân (28 tháng 6 năm 1858) được ký kết, quân đội Pháp ở Viễn Đông mới có thể rảnh tay chuyển sang mặt trận khác.

       Sau hai trận thăm dò và thử sức lực lượng phòng thủ của Nhà Nguyễn ở Đà Nẵng (Quảng Nam) vào ngày 15 tháng 4 năm 1847 và ngày 26 tháng 9 năm 1857, một ủy ban có tên là Commission de la Cochinchine do Nam tước Brenien đứng đầu đã đệ trình và đã được Hoàng đế Napoléon III chấp thuận, chọn Đà Nẵng làm điểm khởi đầu trong kế hoạch đánh chiếm, mở đầu cho thời kì xâm lược và thống trị thực dân ở Việt Nam.

      Trận Đà Nẵng (1858 – 1859) hay Liên quân Pháp – Tây Ban Nha tấn công Đà Nẵng lần thứ nhất là trận đánh kéo dài nhiều ngày, khởi sự từ ngày 31 tháng 8 năm 1858 và kết thúc vào ngày 2 tháng 2 năm 1859, để chuyển sang một giai đoạn khác.       

       Lực lượng liên quân có khoảng 3.000 quân (450 binh sĩ Tây Ban Nha), được bố trí trên 14 tàu chiến (lúc đầu, theo Đại Nam thực lục là 12 chiếc tàu), trong số đó có soái hạm Némésis và những tàu lớn được trang bị tới 50 khẩu đại bác, có sức công phá lớn và sát thương cao.

      Lực lượng quân Nhà Nguyễn ở Đà Nẵng có khoảng 2.070 lính chính quy (theo Đại Nam thực lục) dưới quyền chỉ huy của Tổng đốc Nam Ngãi Trần Hoằng, khi trận chiến nổ ra được chi viện thêm, do Hữu quân Đô thống Lê Đình Lý chỉ huy từ Huế vào, tổng cộng có hơn 7.000 người. Ở các pháo đài, có nhiều đại bác và vũ khí các loại...

     Xuất phát từ đảo Hải Nam (Trung Quốc), Phó Đô đốc Hải quân Charles Rigault de Genouilly (gọi tắt là De Genouilly) được lệnh phối hợp với đạo quân Tây Ban Nha do Đại tá Lanzarotte chỉ huy, đưa tàu chiến xuống phía Nam. Chiều tối ngày 31 tháng 8 năm 1858, toàn bộ lực lượng trên đã có mặt trước cửa biển Đà Nẵng.

       Sáng ngày 1 tháng 9 năm 1858, De Genouilly gửi tối hậu thư buộc quan Trấn thủ Đà Nẵng trong hai giờ phải giao nộp tỉnh thành. Nhưng không đợi trả lời, đại bác của liên quân đã tập trung hỏa lực bắn tới tấp hàng trăm quả vào cửa sông Đà Nẵng và các đồn ở bán đảo Sơn Trà.

       Ngay hôm đó (1 tháng 9), đồn Đông bị vỡ. Sáng hôm sau (2 tháng 9) liên quân tiếp tục nã đại bác chiếm lấy đồn Tây, rồi đổ bộ lên bán đảo Sơn Trà, chiếm đồn An Hải và đồn Điện Hải chỉ nội một ngày. Trước vũ khí mạnh hơn, quân Việt vừa đánh vừa lui dần ra sau, lập phòng tuyến Liêu Trì trước huyện Hòa Vang để ngăn liên quân vào nội địa.

                         
                                          Súng thần công tại Thành cổ Điện Hải

        Nhận được tin liên quân đánh Đà Nẵng, vua Tự Đức liền sai Chưởng vệ Đào Trí vào Đà Nẵng để hiệp cùng Tổng đốc Nam Ngãi Trần Hoằng chống ngăn, nhưng khi Đào Trí đến nơi thì hai đồn trên đã mất. Nhà vua lại sai Hữu quân đô thống Lê Đình Lý và Tham tri bộ Hộ Phạm Khắc Thận đem 2.000 quân vào ứng cứu, cử Tham tri nội các Nguyễn Duy giữ chức chỉ huy quân thứ ở Quảng Nam, và ra lệnh cách chức Trần Hoằng vì lỗi đã án binh bất động, đưa Đào Trí lên thay...  

      Đánh chiếm được Sơn Trà, liên quân Pháp – Tây Ban Nha tiến vào nội địa, đánh tan phòng tuyến bằng ụ đất, rào tre của quân Việt ở xã Mỹ Thị, rồi tràn sang chiếm xã Cẩm Lệ. Tướng Lê Đình Lý bị trọng thương rồi mất trong trận chiến này. Xét công tội, tướng Hồ Đức Tư, trấn giữ đồn Hóa Khuê, bị vua Tự Đức sai bắt giam và bị cách chức vì lỗi không tiếp ứng và án binh bất động.

       Hữu quân Lê Đình Lý mất, nhà vua cử Thống chế Chu Phúc Minh làm Tổng đốc quân vụ thay Lê Đình Lý. Rồi điều tướng Nguyễn Tri Phương, khi ấy đang làm Kinh lược sứ Nam Kỳ, về làm Tổng thống quân vụ Quảng Nam; cử thêm Phạm Thế Hiển làm Tham tán để cùng gấp rút chấn chỉnh quân chánh và thống nhất phương thức chống ngoại xâm.

       Ngày 10 tháng 10 năm 1859, Nguyễn Tri Phương gửi báo cáo về Huế, trong đó ông mô tả về tình hình lực lượng quân Pháp và quân triều đình:

      "- Quân Pháp có vũ khí tinh xảo, súng đạn đầy đủ khi đánh.

- Quân Triều đình ở Quảng Nam có hơn 7.000 người thì bỏ trốn, bị sa thải, bệnh hoạn hoặc dùng để sai phái đã hết quá nửa, chỉ còn 3.200 người tại ngũ.".

        Trước tình thế đó, Nguyễn Tri Phương không chủ trương đánh chính diện để tránh sức mạnh hỏa lực của đối phương mà cho phục kích, thực hiện "vườn không, nhà trống" (để cô lập và triệt đường tiếp tế) và cho đắp lũy dài từ Hải Châu vào tới Phúc Ninh, Thanh Giản để bao vây liên quân ngoài mé biển.

         Suốt 5 tháng giao tranh, cái đói, cái bệnh, cái nóng bức... đã khiến liên quân mệt mỏi và hao mòn. Mặc dù được giáo sĩ Pellerin khuyên nên đem quân ra chiếm Bắc Kỳ, vì ở đó có giáo sĩ và giáo dân Thiên Chúa giáo, và những người còn tôn phù Nhà Lê nổi lên góp sức, nhưng sau khi cân nhắc, tướng De Genouilly không tán thành.

       Ngày 2 tháng 2 năm 1859, chỉ để lại một phần ba số quân (khoảng 1.000 người) và 6 tàu chiến, bàn giao cho Đại tá Faucon nắm giữ, còn bao nhiêu De Genouilly cho rút hết vào Nam, mở mặt trận mới ở Gia Định.

                       
                                           Một đoạn thành tại Thành cổ Điện Hải

       Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu, thì Liên quân Pháp – Tây Ban Nha đã bị cầm chân và bị thiệt hại, cho nên đây chính là một khởi đầu thắng lợi lớn, nhưng duy nhất trong hơn một phần tư thế kỷ (1858–1884) chống ngoại xâm của quân và dân Việt Nam.

 Mô tả lại tình cảnh khó nhọc của liên quân lúc bấy giờ, giáo sư Trần Văn Giàu viết: 

"Sau năm tháng giao tranh, liên quân Pháp – Tây Ban Nha chỉ chiếm được một ngọn núi không người và vài làng ven biển không người. Họ không dám tiến sâu... Họ mong chờ một cuộc nổi loạn của nhân dân Nam – Ngãi theo lời hứa hẹn của các giáo sĩ Pháp, mà không thấy. Trong lúc tiến thoái lưỡng nan ấy, thì liên quân bị đau ốm và chết chóc khá nhiều, căn bản không phải vì súng đạn, mà chính vì phong thổ khí hậu. Thức ăn lại rất khó tìm, thuốc men không đủ dùng, thỉnh thoảng bị quân Việt đến tập kích, bắn tỉa..."

Phó Đô đốc De Genouilly đã viết thư về Pháp rằng:

"Chính phủ bị đánh lừa về bản chất của cuộc đi đánh lấy nước Nam Kỳ (Việt Nam); người ta trình bày rằng việc viễn chinh này chỉ là một việc dễ dàng thôi, nho nhỏ thôi; thực ra, nó không dễ, cũng không nhỏ... Người ta (…) cho rằng dân chúng sẽ nổi lên hưởng ứng, thật ra... trái hẳn lại với sự dự đoán đó... Người ta báo cáo rằng quân đội Việt không có gì, sự thật thì quân chính quy rất đông, còn dân quân... thì không đau ốm và không tàn tật... Trên bộ thì không hành quân lớn được, dù là chỉ hành quân ngăn ngắn mà thôi; binh lính không chịu đựng nổi..."

Trích báo cáo của De Genouilly đề ngày 4 tháng 1 năm 1859:

"Chúng ta đang xuống dốc đến kiệt quệ ở Đà Nẵng. Mọi phương tiện cải thiện tình hình bộ binh và hải quân đều hết sạch và vô hiệu."

Hơn 10 ngày sau (15 tháng 1), viên tướng này gửi tiếp một báo cáo nữa, để nói rõ "số lính chết vì bị bệnh kiết lỵ lên đến mức đáng sợ. Trong số 800 lính bộ binh, chỉ còn nhiều nhất là 500 người có thể cầm khí giới, nhưng không đủ sức để mở một cuộc hành quân..."  

        Bị sa lầy ở mặt trận Đà Nẵng, Pháp phải thay đổi kế hoạch tấn công và đem quân vào đánh Gia Định. Do cuộc kháng Pháp rộng khắp và bền bỉ của nhân dân ta, kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh của ngườiPháp bị thất bại và việc xâm chiếm Việt Nam phải kéo dài gần ba thập kỉ. Trong quá trình đó, Pháp đã thực hiện phương châm “tằm ăn lá”, là chiếm dần đất, lấn dần chủ quyền và từng bước thiết lập bộ máy cai trị.

      Với sự nhát sợ, không biết dựa vào dân chúng và thậm chí còn mang tư tưởng thủ hòa, thỏa hiệp, triều đình nhà Nguyễn dần dần đầu hàng thực dân Pháp. Đến Hiệp ước Patơnốt (hay còn gọi là Hòa ước Giáp Thân) ngày 6 - 6 - 1884 thì chính thức bán nước, trở thành tay sai cho chúng. Nhưng với truyền thống chống xâm lăng hàng ngàn năm của mình, dân tộc Việt ngay từ đầu, dù không được triều đình ủng hộ, đã tự phát đứng lên "ung dung tựu nghĩa", một lòng vì nước, hết cuộc này tới cuộc khác, đúng như lời nói khí phách của Nguyễn Trung Trực, anh hùng kháng Pháp còn vang vọng đến ngày nay: "Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam mới hết người Nam đánh Tây". Có thể liệt kê những cuộc khởi nghĩa vũ trang chủ yếu của thời kỳ đầu chống Pháp (trước khi Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời, ngày 3 - 2 - 1930):

        1. Khởi nghĩa Trương Định (1859 – 1864)
Năm 1859, thực dân Pháp chiếm thành Gia Định. Trương Định tổ chức nghĩa quân chống giặc ở Gò Công, Tân An, được triều đình Huế giao chức Lãnh binh. Năm 1862, vua quan nhà Nguyễn hàng giặc, ra lệnh giải binh, nhưng Trương Định cương quyết kháng Pháp đến cùng, được nhân dân suy tôn là Bình Tây đại nguyên soái. Ngày 20/8/1864, Trương Định bị thương nặng đã rút gươm tự sát. Con trai là Trương Quyền tiếp tục chiến đấu đến năm 1867.

                        thanh_go_den_cua_truong_dinh_500                                                          Thành Gò Đen ( Trương Định)

                                cn_cu_nghia_quan_truong_dinh_bi_phap_danh_chiem_500
                            Căn cứ của nghĩa quân Trương Định bị Pháp đánh chiếm  (1863)
 
  2. Khởi nghĩa Nguyễn Trung Trực (1861 – 1868)
Năm 1861, Nguyễn Trung Trực (tức Nguyễn Văn Lịch) nổi dậy ở Tân An, chỉ huy nghĩa quân đốt cháy tàu Hy Vọng (Espérance) của giặc Pháp trên sông Vàm Cỏ Đông (12/1861), rồi lập căn cứ kiên trì chống giặc khắp vùng Rạch Giá, Hà Tiên và đảo Phú Quốc. Năm 1868, bị giặc bắt và đưa đi hành hình, ông đã hiên ngang nói thẳng vào mặt chúng: “Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam thì mới hết người nước Nam đánh Tây”.
     3. Khởi nghĩa Ba Đình (1886 – 1887)
Năm 1886, Đinh Công Tráng cùng một số văn thân, thổ hào yêu nước: Phạm Bành, Nguyễn Khế, Hà Văn Mao, Cầm Bá Thước... lập chiến khu ở Ba Đình (Nga Sơn, Thanh Hóa) tổ chức chống giặc, gây cho chúng nhiều thiệt hại. Năm 1887, cuộc khởi nghĩa thất bại.
    4. Khởi nghĩa Bãi Sậy (1885 – 1889)
Nguyễn Thiện Thuật (tức Tân Thuật) dựng cờ khởi nghĩa lập căn cứ kháng Pháp ở Bãi Sậy (thuộc hai huyện Văn Giang và Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên cũ), suốt mấy năm trời kiên trì đánh du kích tiêu hao, diêu diệt địch. Đến năm 1889, cuộc khởi nghĩa bị dập tắt.
     5. Khởi nghĩa Hùng Lĩnh (1886 – 1892)
Tống Duy Tân cùng với Cao Điền dựng cờ khởi nghĩa ở Hùng Lĩnh (Thanh Hóa) cùng lúc với cuộc khởi nghĩa Phạm Bành, Đinh Công Tráng... Sau khi nghĩa quân Ba Đình bị tan rã, Tống Duy Tân tạm thời giấu lực lượng rồi lánh sang Trung Quốc. Năm 1888, ông trở về Thanh Hóa, tổ chức lại nghĩa quân, xây cứ điểm, đánh địch sáu năm ròng, lập nhiều chiến công. Năm 1892, cuộc khởi nghĩa bị đàn áp, Tống Duy Tân bị giặc bắt và hy sinh anh dũng.
      6. Khởi nghĩa Hương Khê (1885 - 1896)
Năm 1885, Phan Đình Phùng hưởng ứng "Chiếu Cần Vương", mộ quân đánh Pháp, lập căn cứ ở vùng núi hai huyện Hương Sơn, Hương Khê (Hà Tĩnh), cầm cự với giặc trên mười năm. Cuối năm 1895, Phan Đình Phùng lâm bệnh từ trần. Cuộc khởi nghĩa Hương Khê tàn lụi dần. Đến đây cũng chấm dứt phong trào Văn thân chống Pháp ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ (1885 - 1896).
     7. Khởi nghĩa Yên Thế (1887 – 1913)
Hoàng Hoa Thám (tức Đề Thám) là một cố nông, quê ở làng Dị Chế (Tiên Lữ, Hưng Yên) tham gia khởi nghĩa ở Sơn Tây rồi lên Yên Thế, theo Đề Năm chống Pháp trở thành lãnh tụ của nghĩa quân Yên Thế, bền bỉ chiến đấu suốt 25 năm, gây cho giặc Pháp nhiều tổn thất. Bọn thực dân Pháp nhiều lần mở những cuộc tiến công lớn, hai lần phải đình chiến và dùng mọi thủ đoạn mua chuộc, dụ dỗ nhưng đều thất bại. Cuối cùng chúng phải lập mưu sát hại Hoàng Hoa Thám (10/12/1913) mới dập tắt được cuộc khởi nghĩa Yên Thế.
    8. Khởi nghĩa Thái Nguyên (1917 – 1918)
Ngày 30/8/1917, Trịnh Văn Cấn (tức Đội Cấn) lãnh đạo binh lính yêu nước khởi nghĩa ở Thái Nguyên, phá nhà lao thả tù chính trị, làm chủ thị xã trong 6 ngày. Đến ngày 10/1/1918, cuộc khởi nghĩa  bị thực dân Pháp dập tắt (cuộc khởi nghĩa này có Lương Ngọc Quyến, con trai cụ Lương Văn Can, tham gia lãnh đạo).
     9. Cuộc bạo động Lạng Sơn (1921)
Mùa Thu năm 1921, Đội Ấn (người Tày) huyện Cao Lộc, Lạng Sơn tổ chức cuộc bạo động, nghĩa binh đánh vào trại lính khố xanh gần Kỳ Lừa, nghĩa quân diệt được tên Cung Khắc Đản, Tuần phủ ở Pắc Lương, huyện Yên Lãng, ít ngày sau cuộc bạo động cũng bị thực dân Pháp dập tắt.
     10. Cuộc bạo động Yên Bái (1930)
Ngày 10/2/1931, cuộc bạo động của Việt Nam Quốc dân đảng do Nguyễn Thái Học và Nguyễn Khắc Nhu chỉ huy, nổ ra ở Yên Bái và một vài địa phương khác nhưng đã bị thực dân Pháp dập tắt nhanh chóng và đàn áp dã man.
 
  ...  
 
      Phải đến khi Hồ Chí Minh, với nhãn quan sáng suốt và tâm linh cách mạng thiên bẩm tìm ra đường cứu nước vạch đường chỉ lối, ngày 2 - 9 - 1945 dân tộc Việt mới giành được độc lập trên danh nghĩa. Kể từ đó cho đến ngày 30 - 4 - 1975, tức ngót ngét 30 năm, dưới sự lãnh đạo tài tình của Hồ Chí Minh và đảng cộng sản Việt Nam, dân tộc Việt còn phải một đỗi vạn dặm trường chinh, đầy gian lao và anh dũng, viết nên hai bản thiên anh hùng ca bằng máu xương nữa, mà bản thứ nhất là "chín năm kháng chiến trường kỳ" chống thực dân Pháp, đi đến chiến thắng Điện Biên Phủ lẫy lừng, đập tan chủ nghĩa thực dân cũ, và bản thứ hai là "xẻ dọc Trường Sơn đi chống Mỹ cứu nước" đậm nét thần thánh, đập tan chủ nghĩa thực dân mới và âm mưu chia cắt lâu dài đất nước của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai Việt Nam Cộng Hòa, mới thực sự giành được  độc lập, thống nhất, qui giang sơn về một mối. 
      Ngỡ tưởng từ đây đất nước sẽ im tiếng súng, dân tộc Việt sẽ được sống trong hòa bình, yên ổn làm ăn, "xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn". Nhưng không, dân tộc Việt còn phải đi nốt chặng đường trường chinh bất khuất vô song mà đầy tự hào, mã thượng và tuyệt đẹp của mình.
       Theo tư liệu mà chúng ta góp nhặt trên mạng internet thì thế kỷ 20 đã chứng kiến một sự kiện nhân đạo và chính nghĩa hiếm có: Quân đội và nhân dân Việt Nam đã tự cứu mình và đồng thời cứu nhân dân Cam-pu-chia anh em thoát khỏi họa diệt chủng, thực hiện hồi sinh một dân tộc. 
      Tháng 2-1963, tại đại hội lần thứ hai của Đảng Công nhân Cam-pu-chia (trước tên là Đảng Nhân dân Cách mạng Cam-pu-chia), Pôn Pốt (PolPot) được chọn kế vị đồng chí Tu Sa-mút, đã bị sát hại trước đó, trở thành Tổng Bí thư của đảng. Từ đây, việc tiếm quyền trong đảng của Pôn Pốt hoàn tất. Tháng 7-1963, Pôn Pốt và hầu hết thành viên ủy ban trung ương rời Phnôm Pênh để thành lập một căn cứ tại tỉnh Ra-ta-na-ki-ri phía Đông Bắc Cam-pu-chia. Pôn Pốt và đồng bọn trưởng thành từ nhóm sinh viên tại Pa-ri nắm quyền kiểm soát Trung ương đảng, loại bỏ các cựu binh lớn tuổi, những người tích cực ủng hộ sự nghiệp cách mạng ở cả ba nước trên bán đảo Đông Dương.    Tháng 9-1966, chúng bí mật đổi tên đảng thành Đảng Cộng sản Cam-pu-chia, những đảng viên cấp thấp của đảng không được thông báo về điều này và các đảng viên cũng không biết cho tới nhiều năm sau. Trong rừng rậm Cam-pu-chia, chúng bắt đầu thực hiện những mưu đồ mang nặng chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, cực đoan.
 
                                  
                               Lũ Khmer Đỏ nhí - tuy còn bé nhưng đã thành thạo việc giết người
 
       Quyền lực tối cao trong tập đoàn phản động ở Cam-pu-chia tập trung hầu hết vào 5 tên: "anh Cả" Pôn Pốt (Sa-lốt Sa), Tổng Bí thư từ năm 1963 tới khi chết; "anh Hai" Nuôn Chia (Long Bun-ruốt), "cánh tay phải" của Pôn Pốt; "anh Ba" Iêng Xa-ri, anh em đồng hao của Pôn Pốt; “anh Tư" Khiêu Xam-phon; "anh Năm" Tà Mốc (Chờ-hít Chờ-hun). 
      Pôn Pốt sinh năm 1928 tại tỉnh Kông-pông Thom. Năm 1953, y tham gia Mặt trận Việt Minh, nhưng không chú trọng đến công việc chung, chỉ mưu đồ chia rẽ nội bộ, tranh quyền lãnh đạo trong Đảng Nhân dân Cách mạng Cam-pu-chia. Ngày 17-4-1975, cuộc kháng chiến chống Mỹ kết thúc ở Cam-pu-chia. Tập đoàn phản động do Pôn Pốt đứng đầu lập nên nhà nước Cam-pu-chia Dân chủ. Ngày 20-5-1975, Thường vụ Trung ương đảng Pôn Pốt họp quyết định 3 chủ trương lớn: Làm trong sạch nội bộ nhân dân; xác định Việt Nam là kẻ thù số 1, là kẻ thù truyền kiếp; xây dựng xã hội mới của Cam-pu-chia không chợ, không tiền, không trường học, không đô thị, không trí thức, không tôn giáo… Ngày 1-2-1978, y nói rõ trong Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương đảng của y: “Chiến tranh giữa ta và Việt Nam là lâu dài, có tính chất gặm nhấm, ta không đánh nó trước thì sẽ không thắng… Chỉ cần mỗi ngày diệt vài chục, mỗi tháng diệt vài ngàn, mỗi năm diệt vài ba vạn thì có thể đánh 10-15-20 năm. Thực hiện 1 diệt 30, hy sinh 2 triệu người Cam-pu-chia để tiêu diệt 60 triệu người Việt Nam. Phải đưa chiến tranh sang đất nó”.
     Nuôn Chia sinh năm 1926 tại tỉnh Bát-tam-bang, là một người gốc Hoa. Khi tập đoàn Pôn Pốt thành lập Cam-pu-chia Dân chủ, y được người Cam-pu-chia biết đến với tên gọi "anh Hai", “nhà tư tưởng” thiết kế mô hình nhà nước, đồng thời là nhà đạo diễn “cánh đồng chết”. Nuôn Chia được Pôn Pốt giao phụ trách công tác đảng và an ninh quốc gia từ năm 1960 khi y giữ chức Phó tổng Bí thư Trung ương đảng. An ninh quốc gia ở đây chủ yếu là trừ khử những “thành phần chống phá cách mạng trong và ngoài đảng”. Khi tập đoàn Pôn Pốt giành được chính quyền năm 1975, Nuôn Chia được làm Chủ tịch Quốc hội, có lúc làm Thủ tướng trong một tháng khi Pôn Pốt tạm nghỉ. Chính Nuôn Chia trực tiếp chỉ đạo quản tù tra tấn và hành quyết những cán bộ bị tình nghi chống lại Pôn Pốt bị giam cầm ở nhà tù Tuôl Sleng.
        Iêng Xa-ri sinh năm 1925 tại tỉnh Trà Vinh, Việt Nam. Năm 1957, y tham gia Đảng Nhân dân Cách mạng Cam-pu-chia, giữ các chức vụ chủ chốt trong Thành ủy Phnôm Pênh và Trung ương Đảng. Năm 1963, Iêng Xa-ri được chỉ định vào Bộ Chính trị giữ vị trí thứ tư trong đảng đã đổi tên. Từ năm 1970 đến 1975, y là "cố vấn đặc biệt" bên cạnh Quốc vương Nô-rô-đôm Xi-ha-núc khi ở Bắc Kinh. Sau ngày 17-4-1975, Iêng Xa-ri giữ chức Phó thủ tướng phụ trách đối ngoại trong chính phủ Cam-pu-chia Dân chủ, cùng với Pôn Pốt, Iêng Xa-ri đã gây ra nạn diệt chủng khủng khiếp đối với nhân dân Cam-pu-chia.
        Khiêu Xam-phon sinh năm 1931, trong một gia đình nông dân, cha là người Khơ-me, mẹ người Hoa. Sau cuộc đảo chính tháng 3-1970, y tuyên bố ủng hộ Mặt trận Thống nhất Dân tộc Cam-pu-chia do Hoàng thân Nô-rô-đôm Xi-ha-núc đứng đầu, được cử làm Phó thủ tướng kiêm Bộ trưởng Quốc phòng và Tổng chỉ huy các lực lượng vũ trang giải phóng trong Chính phủ Vương quốc đoàn kết dân tộc Cam-pu-chia do Pen Nút làm Thủ tướng. Năm 1976, y là Chủ tịch Đoàn chủ tịch Nhà nước Cam-pu-chia Dân chủ. Khiêu Xam-phon được coi là kiến trúc sư của Cam-pu-chia Dân chủ.
       Tà Mốc, tên thật là Chơ-hít Chờ-hun, sinh năm 1926 trong một gia đình nông dân tại tỉnh Ta-keo, miền Nam Cam-pu-chia. Trước năm 1975, y là ủy viên Quân ủy Trung ương, thường vụ Trung ương Đảng của tập đoàn phản động Pôn Pốt. Tháng 7-1975, Pôn Pốt triệu tập đại hội các bí thư khu ủy để thống nhất quân đội và phân định lại ranh giới. Cam-pu-chia được chia ra làm 7 khu và Tà Mốc phụ trách khu Tây Nam. Năm 1977, Tà Mốc lên nắm chức vụ Tổng Tư lệnh quân đội và đóng vai trò chủ đạo trong một loạt vụ thanh trừng và gây ra nhiều vụ thảm sát. Là “anh Năm” trong lực lượng Pôn Pốt, Tà Mốc đóng vai trò quan trọng trong nạn diệt chủng khiến hàng triệu người chết.
     Đối với Việt Nam, tập đoàn phản động do Pôn Pốt đứng đầu đã có những biểu hiện phản bội ngay khi hai nước đang tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
     Từ cuối năm 1971 đã có những cuộc đụng độ giữa lực lượng vũ trang của bọn Pôn Pốt với Quân tình nguyện Việt Nam. Rất nhiều kho vũ khí của ta bị quân của Pôn Pốt đến lấy trộm, nhiều cán bộ, chiến sĩ đi công tác lẻ, hoặc đơn vị nhỏ đi công tác sâu trong đất Cam-pu-chia, bị chúng bí mật thủ tiêu. Đến cuối năm 1972, chúng yêu cầu Quân tình nguyện Việt Nam ở các vùng, các địa phương Cam-pu-chia rút hết về nước. Đến cuối năm 1973, quân ta về nước hết. Năm 1975, khi Việt Nam vừa thống nhất đất nước, bè lũ Pôn Pốt đã cho quân tiến công đánh sang các đảo, biên giới đất liền Tây Nam đất nước ta. Ngày 3-5-1975, quân Pôn Pốt đổ bộ lên đảo Phú Quốc và đã bị quân và dân ta trừng trị đích đáng, buộc phải rút chạy. Ngày 10-5-1975, quân Pôn Pốt lại đánh chiếm đảo Thổ Chu, bắt đi và thủ tiêu 500 dân thường. Những tháng ngày sau đó, chúng tiếp tục mở rộng chiến tranh xâm lấn ra trên toàn tuyến biên giới Tây Nam của ta.
      Nhưng tại sao bè lũ Pônpốt - Iêng Xary tự nhiên đi làm cái việc trái với đạo lý tự nhiên, vô cùng tàn bạo, khùng điên bậc nhất nhân loại là giết chóc đến mức diệt chủng chính dân tộc của mình như vậy?
Muốn trả lời câu hỏi đó một cách suôn sẻ, phải hướng về Mao Trạch Đông, tên đồ tể số một của nhân loại trong thế kỷ XX, kẻ vô cùng đam mê quyền lực và muốn xây dựng ở Trung Quốc một "đế quốc CNXH" hùng mạnh bằng những cách ngu muội nhất.
       Các triều đại Trung Quốc , từ hàng ngàn năm trước, với tư tưởng Đại Hán đã không ngừng tham vọng mở rộng lãnh thổ quốc gia bằng cách xâm lược, bành trướng sang  lãnh thổ của đất nước khác, với sức mạnh về nhiều mặt như : Kinh tế, Văn Hóa, Quân sự… hòng biến các nước láng giềng trở thành của mình hoặc trở thành “vệ tinh” chịu sự chi phối của “thiên triều” và lệ thuộc vào họ.
     Nói về Mao Trạch Đông, báo "Đại kỷ nguyên viết: "...Ông ta cao giọng: “Thà lấy cỏ của Chủ nghĩa Xã hội, không lấy mạng của Chủ nghĩa Tư bản”. Trong 26 năm cầm quyền, nền kinh tế Trung Quốc bại hoại, nhân dân sống tạm cho qua ngày, hàng chục triệu người dân bị chết đói. Điều này có lẽ suốt các thời đại trong lịch sử Trung Quốc, hoặc bất kể một quốc gia trên thế giới nào khác, cũng tuyệt không thể có.
        Ông Mao Trạch Đông xem thường giáo dục, chửi rủa tri thức là “cục phân”, đại đa số tri thức bị sỉ nhục hoặc dày vò cho đến chết. Ông ta tuyên bố “chế độ giáo dục phải rút ngắn lại, phải làm cách mạng giáo dục”. Vào thời “Cách mạng Văn hóa“, giáo dục bậc cao của Trung Quốc hoàn toàn bị triệt tiêu, giáo dục trung và tiểu học cũng hoàn toàn hoang phế. 
         Cách mạng kiểu Mao tóm lại là: Lấy nông dân thay cho trí thức, lấy văn mù thay cho văn nhân, nếu ta nói không bằng ngươi thì ta không cần nói nữa mà dùng vũ lực, kẻ nào thắng kẻ đó chuyên chính, ta là lưu manh mặt dày tâm đen thì còn sợ ai.
        Lý Nhuệ, một thư ký của ông Mao Trạch Đông tiết lộ, khẩu hiệu “Mao Chủ tịch vạn tuế” có từ năm 1950. Vào năm đó khi ông ta phê duyệt khẩu hiệu chào mừng ngày Quốc tế Lao động 1/5 đã tự mình bổ sung thêm vào, hơn chục năm sau thì khẩu hiệu này phổ biến khắp Trung Quốc.
         Ông Mao Trạch Đông và ĐCSTQ tự xưng là tin vào “Chủ nghĩa Duy vật“, nhưng hành động lại tự mâu thuẫn, khiến người ta phải dở khóc dở cười. Ví như vừa ca lên một câu rằng xưa nay không tồn tại Chúa cứu thế, không có thần thánh, nhưng lại ngay lập tức lại tung hô ta chính là thần thánh của nhân dân!".
                         “Số người Trung Quốc chết vì một quả bom nguyên tử của Mao gấp trăm lần số người chết vì hai quả bom nguyên tử do Mỹ ném xuống Nhật Bản.” (Ảnh: internet)
“Số người Trung Quốc chết vì một quả bom nguyên tử của Mao gấp trăm lần số người chết vì hai quả bom nguyên tử do Mỹ ném xuống Nhật Bản.” (Ảnh: internet)
 Cựu Chủ tịch Mao Trạch Đông được Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) phong là sư tổ, từng có bài thơ «Thấm viên xuân – Tuyết» thể hiện sự xem thường các bậc đế vương trong lịch sử. Các vua chúa như Tần Thủy Hoàng, Hán Vũ Đế, Đường Thái Tông, Tống Thái Tổ, thậm chí Thành Cát Tư Hãn, tất cả đều không đáng để ông ta để mắt đến.
        Khởi đầu từ năm 1949, Mao Trạch Đông làm ‘hoàng đế’ được 27 năm, tàn sát hơn 60 triệu người Trung Quốc. Ông ta dùng thủ đoạn để cướp chính quyền. Là kẻ điên cuồng với quyền lực, Mao Trạch Đông đã có âm mưu lại có cả dương mưu, lừa gạt dân chúng và khống chế các đối thủ trong Đảng, độc tài cho đến tận hơi thở cuối cùng.
      Mao Trạch Đông vượt qua cả Hitler về vai trò đồ tể. Từ năm 1958 đến năm 1962, chính sách Đại Nhảy Vọt của ông ta đã làm chết tới 45 triệu người – làm cho nó trở thành giai đoạn có nhiều người bị giết nhất từng được ghi nhận.
         Nhà sử học Frank Dikötter, tác giả cuốn Mao’s Great Famine, (tạm dịch: Nạn đói lớn của Mao) vừa mới cho đăng bài báo trên trang History Today, tóm tắt sự kiện đã xảy ra:
      "Mao nghĩ rằng ông có thể đẩy đất nước của mình qua mặt các đối thủ bằng cách xua nông dân trên khắp cả nước vào những công xã nhân dân có quy mô cực kì hoành tráng Công ăn việc làm, nhà cửa, đất đai, đồ đạc và sinh kế của người dân đều do công xã cung cấp. Trong các bếp ăn tập thể, thực phẩm - được phân phối bằng thìa, tùy theo đức hạnh của từng người – đã trở thành vũ khí được sử dụng để buộc người dân phải tuân theo mọi chỉ thị của đảng. Vì động cơ lao động đã không còn, thay vào đó, ép buộc và bạo lực được sử dụng để buộc người nông dân đói khát phải làm việc trên những công trình thủy lợi được quy hoạch chẳng ra làm sao, trong khi đồng ruộng bị bỏ hoang.

         Thảm họa khủng khiếp đã xảy ra. Từ các số liệu thống kê dân số được công bố, các nhà sử học đã ngoại suy ra rằng, hàng chục triệu người đã bị chết đói. Nhưng đến nay, nhờ những báo cáo tỉ mỉ của Đảng trong giai đoạn diễn ra nạn đói, người ta mới biết quy mô thật sự của thảm hoạ…

        Hồ sơ đồ sộ và chi tiết này kể cho ta nghe câu chuyện kinh hoàng, trong đó Mao xuất hiện như một trong những kẻ giết người hàng loạt lớn nhất trong lịch sử nhân loại, ông ta phải chịu trách nhiệm về cái chết của ít nhất 45 triệu người, đấy là mới nói trong giai đoạn từ năm 1958 đến 1962".
 
                                 
           Mao Trạch Đông (1893-1976) kẻ giết nhiều người nhất thế giới. Ảnh: fee.org/ internet
 
      Mặt khác, âm mưu thâm độc của đảng cộng sản Trung Quốc muốn chiếm Đông Nam - Á đã có từ thời Mao Trạch Đông.
     Sưu tầm được bài trên mạng "Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua":
     Tại Hội nghị Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 1956, Chủ tich Mao Trạch Đông đã nói:Chúng ta phải trở thành quốc gia hàng đầu về phát triển văn hoá, khoa học kỹ thuật và công nghiệp…Không thể chấp nhận rằng sau một vài chục năm, chúng ta vẫn chưa trở thành cường quốc số một trên thế giới
     Sau đó, tháng 9  năm 1959, tại Hội nghị của Quân uỷ trung ương, chủ tịch Mao Trạch Đông lại nói:Chúng ta phải chinh phục trái đất. Đó là mục tiêu của chúng ta”.
     Cũng như sau Hiệp định Giơnevơ 1954 về Đông Dương, những người lãnh đạo Trung Quốc sau Hiệp định Pari tháng 1 năm 1973 về Việt Nam, muốn duy trì nguyên trạng ở miền nam Việt Nam. “Cách mạng Trung Quốc và Đảng cộng sản Trung Quốc” của chủ tịch Mao Trạch Đông viết năm 1939 do hiệu sách Tân Hoa thư điếm (Dực Nam) tái bản tháng 6 năm 1949. Trong đó có đoạn viết:Sau khi dùng chiến tranh đánh bại Trung Quốc, các nước đế quốc đã cướp đi nhiều nước phụ thuộc và một bộ phận của lãnh thổ Trung Quốc: Nhật chiếm Triều Tiên, Đài Loan, Lưu Cầu, quần đảo Bành Hồ và Lữ Thuận. Anh chiếm Miến Điện, Butan, Nêpan và Hương Cảng. Pháp chiếm An Nam…”.
 
                                
        Đường vẽ chấm là “biên giới” của Trung Quốc theo quan điểm bành trướng, những vùng đánh số là những lãnh thổ mà nhà cầm quyền Bắc Kinh cho là đã bị nước ngoài “chiếm mất” bao gồm: một phần lớn đất vùng Viễn Đông và Trung Á của Liên Xô (số 1, 17, 18), Át Xam (số 6), Xích Kim (số 4), Butan (số 5), Miến Điện (số 7), Nêpan (số 3), Thái Lan (số 10), Việt Nam (số 11), Lào, Campuchia…

Ngay từ năm 1936, chủ tịch Mao Trạch Đông kể chuyện với nhà báo Mỹ Etga Xnâu ở Diên An về thời trẻ của mình, đã bộc lộ ý nghĩ sau khi đọc một cuốn sách nhỏ nói đến việc Nhật chiếm Triều Tiên và Đài Loan, việc mất “chủ quyền”  Trung Hoa ở Đông Dương, Miến Điện và nhiều nơi khác:Đọc xong, tôi lấy làm thất vọng đối với tương lai đất nước tôi và tôi bắt đầu nhận thức rằng bổn phận của mọi người là phải đóng góp cứu nước”. (Ét-ga Xnâu: Ngôi sao đỏ trên đất Trung Hoa, Nhà xuất bản Pen-guyn, Lân đơn, 1972, tr. 159)
      Tài liệu của Đảng cộng sản Trung Quốc do chủ tịch Mao Trạch Đông viết mang tên Cách mạng Trung Quốc và Đảng cộng sản Trung Quốc, xuất bản năm 1939 có viết:Các nước đế quốc sau khi đánh bại Trung Quốc, đã chiếm các nước phụ thuộc của Trung Quốc: Nhật chiếm Triều Tiên, Đài Loan, Lưu Cầu, quần đảo Bành Hồ và Lữ Thuận. Anh chiếm Miến Điện, Butan, Hương Cảng, Pháp chiếm An Nam…”
       Ý đồ bành trướng của những người lãnh đạo Trung Quốc đặc biệt lộ rõ ở câu nói của chủ tịch Mao Trạch Đông trong cuộc hội đàm với đại biểu Đảng Lao động Việt Nam ở Vũ Hán năm 1963:Tôi sẽ làm chủ tịch của 500 triệu bần nông đưa quân xuống Đông Nam châu Á”.
         Mao Trạch Đông còn khẳng định trong cuộc họp của Bộ Chính trị ban chấp hành trung ương Đảng cộng sản Trung Quốc, tháng 8 năm 1965:Chúng ta phải giành cho được Đông Nam châu Á, bao gồm cả miền nam Việt Nam, Thái Lan, Miến Điện, Malayxia và Singapo…Một vùng như Đông Nam châu Á rất giàu, ở đấy có nhiều khoáng sản…xứng đáng với sự tốn kém cần thiết để chiếm lấy…Sau khi giành được Đông Nam châu Á, chúng ta có thể tăng cường được sức mạnh của chúng ta ở vùng này, lúc đó chúng ta sẽ có sức mạnh đương đầu với khối Liên Xô-Đông Âu, gió Đông sẽ thổi bạt gió Tây…”.
      Về việc sử dụng lực lượng Hoa kiều, ý đồ của Bắc Kinh đã được thể hiện rõ nhất trong ý kiến của bộ trưởng Bộ Ngoại giao Trần Nghị:Singapore có trên 90% là người Trung Quốc, trong số dân hơn 1 triệu người thì hơn 90 vạn là người Trung Quốc. Cho nên Singapore hoàn toàn trở thành một quốc gia do người Trung Quốc ở đó tổ chức”. 
      Những người lãnh đạo Trung Quốc âm mưu nắm Việt Nam để nắm toàn bộ bán đảo Đông Dương, mở đường đi xuống Đông Nam châu Á. Trong cuộc gặp giữa đại biểu bốn đảng cộng sản Việt Nam, Trung Quốc, Inđônêxia và Lào tại Quảng Đông tháng 9 năm 1963, thủ tướng Chu Ân Lai nói:Nước chúng tôi thì lớn nhưng không có đường ra, cho nên rất mong Đảng Lao động Việt Nam mở cho một con đường mới xuống Đông Nam châu Á”.
      Để làm suy yếu và nắm lấy Việt Nam, họ ra sức phá sự đoàn kết giữa ba nước ở bán đảo Đông Dương, chia rẽ ba nước với nhau, đặc biệt là chia rẽ Lào và Campuchia với Việt Nam. Đồng thời họ cố lôi kéo các nước khác ở Đông Nam châu Á đối lập với Việt Nam, vu khống, bôi xấu, hòng cô lập Việt Nam với các nước trên thế giới.
        Những người cầm quyền Bắc Kinh rêu rao cái gọi là “chủ quyền” của họ đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đầu năm 1974, với sự đồng tình của Mỹ, họ đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa, bộ phận lãnh thổ của Việt Nam để từng bước kiểm soát biển Đông, khống chế Việt Nam và toàn bộ Đông Nam châu Á, đồng thời khai thác tài nguyên phong phú ở vùng biển Đông.
      Những năm 1960 Những người lãnh đạo Trung Quốc ra sức tập hợp lực lượng ở các khu vực Á, Phi, Mỹ latinh để nắm quyền “lãnh đạo cách mạng thế giới” và chống Liên Xô. Để đạt mục tiêu đó, từ năm 1963 họ ráo riết vận động họp 11 đảng cộng sản, trong đó có 8 đảng ở Đông Nam châu Á hòng lập ra một thứ “Quốc tế cộng sản” mới do họ khống chế, xây dựng cái gọi là “trục Bắc Kinh- Giacacta-Phnông Pênh-Bình Nhưỡng-Hà Nội”, thông qua Inđônêxia vận động triệu tập “Hội nghị các lực lượng mới trỗi dậy” (CONEFO) để thành lập một tổ chức quốc tế đối lập với Liên hợp quốc; đồng thời vận động tổ chức Hội nghị Á-Phi lần thứ hai (dự định họp ở Angiê năm 1965). Nhưng những người lãnh đạo Trung Quốc đã không thành công trong các kế hoạch đen tối này. Đó là vì họ đi ngược lại lợi ích của cách mạng thế giới là tăng cường hệ thống xã hội chủ nghĩa và phong trào độc lập dân tộc, dân chủ, vì họ vấp phải đường lối độc lập tự chủ trước sau như một của Việt Nam. Họ tập trung mọi cố gắng để dấy lên một cuộc “thập tự chinh quốc tế” của các lực lượng đế quốc và phản động chống Liên Xô dưới chiêu bài “chống bá quyền” theo công thức của chủ tịch Mao Trạch Đông “Ngồi trên núi xem hổ đánh nhau”. Như nhiều nhà chính trị và báo chí Tây Âu nhận định, Trung Quốc quyết tâm “đánh Liên Xô đến người Tây Âu cuối cùng” cũng như Trung Quốc trước đây đã quyết tâm “đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng”.
      Những người lãnh đạo Trung Quốc coi Việt Nam là một trong những nhân tố quan trọng hàng đầu đối với chiến lược của họ, luôn luôn tìm cách nắm Việt Nam. Muốn như vậy, nước Việt Nam phải là một nước không mạnh, bị chia cắt, không độc lập và lệ thuộc Trung Quốc. Trái lại, một nước Việt Nam độc lập, thống nhất và giàu mạnh, có đường lối độc lập tự chủ và đường lối quốc tế đúng đắn là một cản trở lớn cho chiến lược toàn cầu của những người lãnh đạo Trung Quốc, trước hết là cho chính sách bành trướng của họ ở Đông Nam châu Á. Đó là nguyên nhân vì sao trước đây họ vừa giúp, vừa kiềm chế cách mạng Việt Nam, mỗi khi Việt Nam đánh thắng đế quốc thì họ lại buôn bán, thoả hiệp với đế quốc trên lưng nhân dân Việt Nam; vì sao từ chỗ giấu mặt chống Việt Nam họ đã chuyển sang công khai thù địch với Việt Nam và đi tới trắng trợn tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam.
      Chiến lược quốc tế ngày nay của những người lãnh đạo Trung Quốc, mặc dù núp dưới chiêu bài nào, đã phơi trần tính chất cực kỳ phản cách mạng của nó và những người lãnh đạo Trung Quốc đã hiện nguyên hình là những người theo chủ nghĩa sô vanh nước lớn, những người dân tộc chủ nghĩa tư sản. 
      Pháp đến Hội nghị Giơnevơ cũng nhằm đạt được một cuộc ngừng bắn theo kiểu Triều Tiên để cứu đội quân viễn chinh Pháp, chia cắt Việt Nam, duy trì chủ nghĩa thực dân Pháp ở Đông Dương.
     Rõ ràng lập trường của Trung Quốc khác hẳn lập trường của Việt Nam, nhưng lại rất phù hợp với lập trường của Pháp.
“Chính quyền vươn lên từ nòng súng” — Mao Trạch Đông đẩy học thuyết đấu tranh vốn có của chủ nghĩa cộng sản lên đến một đỉnh cao mới trong thực nghiệm chủ nghĩa cộng sản tại Trung Quốc: “bạo chính”, nô dịch nhân dân bằng khủng bố.
 
                                                                            Mao Trạch Đông tuyên bố thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa hiện đại vào ngày 1 tháng 10 năm 1949. 
 
                                    mao zhedong, mao trạch đông, mao trach đông, mao trach đong, mao trach dong, mao trạch đông ngàn năm công tội, mao trạch đông là ai, tiểu sử mao trạch đông, mao trachj ddoong, mao trạch đông trung quốc, chủ tịch mao trạch đông, tư tưởng mao trạch đông, mao chủ tịch, hình ảnh mao trạch đông, mao trạch đông mất năm nào, tìm hiểu về mao trạch đông, hình mao trạch đông, thông tin về mao trạch đông, lý lịch mao trạch đông, mao trạch đông tiểu sử, tìm hiểu mao trạch đông, mao trạch đông bao nhiêu tuổi, chủ tịch trung quốc mao trạch đông, mao trạch đông quê ở đâu, tiểu sử ông mao trạch đông, quê mao trạch đông, mao trạch đông tên đầy đủ, mao trạch đông đọc tuyên ngôn độc lập, sau mao trạch đông là ai, tiểu sử mao trạch đông trung quốc, mao trạch đông sinh năm bao nhiêu, mao trạch đông ngày sinh
                        Chủ tịch Mao Trạch Đông và Đảng cộng sản thao túng truyền thông nhằm phục vụ mục đích của mình
 
     Như vậy, “trường kỳ mai phục” có nghĩa là nhân dân Việt Nam thủ tiêu đấu tranh cách mạng, để mặc cho Mỹ Diệm thả sức đàn áp nhân dân Việt Nam.
      Lợi dụng vị trí là một nước viện trợ quân sự chủ yếu và nắm con đường vận chuyển duy nhất chi viện cho Việt Nam, đồng thời lợi dụng việc Pháp không muốn nói chuyện trên thế yếu với Việt Nam, những người lãnh đạo Trung Quốc đã tự cho phép mình đàm phán trực tiếp với Pháp để thoả thuận về những điểm cơ bản của một giải pháp về vấn đề Đông Dương.
      Đáng chú ý là cuộc tiếp xúc lần thứ ba ngày 17 tháng 6 năm 1954, thủ tướng Chu Ân Lai gặp trưởng đoàn đại biểu Pháp G.Biđô, đưa ra những nhân nhượng chính trị có tính chất cơ bản, có hại cho nhân dân ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia: Trung Quốc có thể chấp nhận Việt Nam có hai chính quyền (Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà và Chính phủ bù nhìn Bảo Đại), công nhận Chính phủ Vương quốc Lào và Chính phủ Vương quốc Campuchía, từ bỏ yêu cầu có đại biểu của Cính phủ kháng chiến Lào và Chính phủ kháng chiến Campuchia tham gia Hội nghị Giơnevơ, và đưa ra vấn đề quân đội nước ngoài, kể cả quân tình nguyện Việt Nam phải rút khỏi Lào và Campuchia.
        Những điểm mà những người lãnh đạo Trung Quốc đã thoả thuận với Pháp rất phù hợp với giải pháp 7 điểm của Anh-Mỹ đưa ra ngày 29 tháng 6 năm 1954, tức là 6 ngày sau cuộc tiếp xúc giữa Chu Ân Lai và Măngđét Phranxơ.
     Từ tháng 5 năm 1954, đoàn đại biểu Trung Quốc đưa ra phương án lấy vĩ tuyến 16 làm giới tuyến giữa hai miền Việt Nam, và còn muốn Việt nam nhân nhượng nhiều hơn nữa, thậm chí muốn Việt Nam bỏ cả thủ đô Hà Nội, thành phố Hải Phòng và đường số 5 (đường nối liền Hà Nội với Hải Phòng):Đánh giá (phương án vĩ tuyến 16) khó có thể thoả thuận, nếu không được thì sẽ lấy Hải Phòng làm cửa bể tự do, ở gần đấy cho Pháp đóng một số quân nhất định, nếu không được nữa thì đem đường số 5 và Hà Nội, Hải Phòng làm khu công quản và phi quân sự…”.
      Sau Điện Biên Phủ, rõ ràng là với sự giúp đỡ của hệ thống xã hội chủ nghĩa, nhất là của Trung Quốc, quân và dân Việt Nam có khả năng giải phóng cả nước, nhưng giải pháp mà Đoàn đại biểu Trung Quốc đã thoả thuận với Đoàn đại biểu Pháp ở Giơnevơ không phản ảnh so sánh lực lượng trên chiến trường, cũng không đáp ứng đầy đủ những yêu cầu chính trị của giải pháp do Đoàn đại biểu Việt Nam đề ra.

       Sau khi cùng với đế quốc thoả hiệp trong giải pháp Giơnevơ năm 1954, tạo được khu đệm an toàn ở phía nam, những người lãnh đạo Trung Quốc yên tâm thúc đẩy việc hoàn thành kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1953-1957), và từ năm 1958 đề ra kế hoạch “đại nhảy vọt”  với tham vọng đuổi kịp và vượt một số cường quốc về kinh tế trong một thời gian ngắn và ra sức xây dựng lực lượng hạt nhân.
     Về đối ngoại họ đi vào con đường hoà hoãn với đế quốc Mỹ, tiến hành những cuộc nói chuyện với Mỹ ở Giơnevơ từ tháng 8 năm 1955; đồng thời tìm cách mở rộng ảnh hưởng ở châu Á, nhất là ở Đông Nam châu Á và Nam Á.

     Xuất phát từ đường lối đối nội, đối ngoại đó, những người cầm quyền Bắc Kinh đã hành động ngược lại lợi ích của nhân dân Việt Nam, phù hợp với lợi ích của đế quốc Mỹ ở Việt Nam nói riêng và Đông Dương nói chung.

     Tháng 11 năm 1956, chủ tịch Mao Trạch Đông nói với những người lãnh đạo Việt Nam:  “Tình trạng nước Việt Nam bị chia cắt không thể giải quyết được trong một thời gian ngắn mà cần phải trường kỳ… nếu 10 năm chưa được thì phải 100 năm”.

     Tháng 7 năm 1955, Tổng bí thư Đảng cộng sản Trung Quốc Đặng Tiểu Bình dọa: “Dùng lực lượng vũ trang để thống nhất nước nhà sẽ có hai khả năng: một là thắng và một khả năng nữa là mất cả miền Bắc”.

        Tháng 7 năm 1957, chủ tịch Mao Trạch Đông lại nói: “Vấn đề là phải giữ biên giới hiện có. Phải giữ vĩ tuyến 17…Thời gian có lẽ dài đấy. Tôi mong thời gian dài thì sẽ tốt.”

        “Giữ vĩ tuyến 17”, “trường kỳ mai phục”, “tích trữ lực lượng”, “chờ đợi thời cơ”… đó chẳng qua là luận điệu quanh co nhằm che dấu ý đồ của Bắc Kinh muốn duy trì nguyên trạng chính trị ở Việt Nam, công nhận Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà và ngụy quyền Sài Gòn song song tồn tại. Ngày 22 tháng 7 năm 1954, khi ăn cơm với Ngô Đình Luyện, em ruột của Ngô Đình Diệm tại Giơnevơ, thủ tướng Chu Ân Lai đã gợi ý đặt một công sứ quán của Sài Gòn tại Bắc Kinh. Dù Ngô Đình Diệm đã bác bỏ gợi ý đó, nhưng đây là một bằng chứng rõ ràng là chỉ 24 giờ sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, những người lãnh đạo Bắc Kinh đã lộ rõ ý họ muốn chia cắt lâu dài nước Việt Nam.

      Những người cầm quyền Bắc Kinh bên trong thì ra sức củng cố quyền lãnh đạo của chủ tịch Mao Trạch Đông, ổn định tình hình, đẩy mạnh sản xuất, bên ngoài thì thi hành mọi biện pháp để đẩy nhanh quá trình nhích lại gần đế quốc Mỹ nhằm ngoi lên địa vị một cường quốc lớn, bình thường hoá quan hệ Trung Mỹ và giải quyết vấn đề Đài Loan. Họ mưu toan dùng con bài Việt Nam để đạt mục tiêu đối ngoại đó.

       Theo hiệp định Pari về Việt Nam, Mỹ phải rút hết đội quân viễn chinh của Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam, cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam, thừa nhận ở miền Nam Việt Nam có hai vùng, hai chính quyền, hai quân đội và ba lực lượng chính trị, và các bên Việt Nam cùng thành lập một Chính phủ liên hiệp ba thành phần ở miền Nam Việt Nam. Đó là thắng lợi của đường lối độc lập, tự chủ và cuộc chiến đấu ngoan cường của nhân dân Việt Nam, là thắng lợi của phong trào nhân dân thế giới đoàn kết với nhân dân Việt Nam. Đó là thất bại của sự mua bán bẩn thỉu trên lưng nhân dân Việt Nam giữa chính quyền Níchxơn và những người lãnh đạo Trung Quốc thể hiện trong Thông cáo Thượng Hải

     Tháng 5 năm 1960, hội đàm với phía Việt Nam, họ nói về miền Nam Việt Nam như sau:     “ Không nên nói đấu tranh chính trị hay đấu tranh quân sự là chính…Đấu tranh chính trị hay đấu tranh quân sự không phải là cướp chính quyền ngay, mà cuộc đấu tranh vẫn là trường kỳ. ..Dù Diệm có đổ cũng không thể thống nhất ngay được, vì đế quốc mỹ không chịu để như vậy đâu…

      Miền Bắc có thể ủng hộ về chính trị cho miền Nam, giúp miền Nam đề ra các chính sách nhưng chủ yếu là bồi dưỡng tinh thần tự lực cánh sinh cho anh em miền Nam…Khi ăn chắc, miền Bắc có thể giúp quân sự cho miền Nam, nghĩa là khi hoàn toàn chắc chắn không xảy ra chuyện gì, có thể cung cấp một số vũ trang mà không cho ai biết. Nhưng nói chung là không giúp.”

      Như vậy, khi không cản được nhân dân miền Nam Việt Nam “đồng khởi” thì họ cho rằng hình thức chiến đấu ở miền Nam là đánh du kích, đánh nhỏ từng đơn vị trung đội, đại đội. Làm chủ vận mệnh của mình, nhân dân Việt Nam đã đưa cuộc chiến tranh cách mạng ở miền Nam tiến lên vững mạnh. Cuối năm 1963, chế độ độc tài phát xít Ngô Đình Diệm sụp đổ, “chiến tranh đặc biệt” của Mỹ phá sản hoàn toàn.
      Đầu những năm  1960, trong khi ngăn cản nhân dân Việt Nam đẩy mạnh chiến đấu chống Mỹ, những người lãnh đạo Bắc Kinh giơ cao cùng một lúc hai chiêu bài chống đế quốc Mỹ và chống Liên Xô, nhưng trên thực tế họ tiếp tục hoà hoãn với đế quốc Mỹ ở châu Á, đánh lạc hướng cuộc đấu tranh chống Mỹ của nhân dân thế giới để thực hiện mưu đồ chống Liên Xô, xoá bỏ hệ thống xã hội chủ nghĩa, nắm quyền “lãnh đạo cách mạng thế giới”, chuẩn bị tích cực cho việc hoà hoãn và câu kết với đế quốc Mỹ.
     Trong những cuộc hội đàm với phía Việt Nam năm 1963, họ tìm cách thuyết phục Việt Nam chấp nhận quan điểm của họ là phủ nhận hệ thống xã hội chủ nghĩa và mở cho họ “một con đường” xuống Đông Nam châu Á. Cũng trong năm 1963, những người lãnh đạo Trung Quốc đưa ra cái gọi là Cương lĩnh 25 điểm về đường lối chung của phong trào cộng sản quốc tế và đề nghị triệu tập cái gọi là hội nghị 11 đảng cộng sản, thực tế là để nắm vai trò “lãnh đạo cách mạng thế giới” và lập một “Quốc tế cộng sản” mới do Bắc Kinh khống chế. Nhằm mục đích này, họ còn hứa hẹn viện trợ ồ ạt để lôi kéo Việt Nam. Tổng bí thư đảng cộng sản Trung Quốc Đặng Tiểu Bình thông báo với lãnh đạo Viẹt Nam ý kiến của lãnh đạo Trung Quốc sẽ viên trợ 1 ti nhân dân tệ nếu Việt Nam khước từ mọi viện trợ của Liên Xô. 
      Tháng 1 năm 1965, qua nhà báo Mỹ Étga Xnâu , chủ tịch Mao Trạch Đông nhắn Oasinhtơn:Quân đội Trung Quốc sẽ không vượt biên giới của mình để đánh nhau. Đó là điều hoàn toàn rõ ràng. Chỉ khi nào Mỹ tấn công, người Trung Quốc mới chiến đấu. Phải chăng như vậy là không rõ ràng? Người Trung Quốc rất bận về công việc nội bộ của mình. Đánh nhau ngoài biên giới nước mình là phạm tội ác. Tại sao người Trung Quốc phải làm như vậy? Người Nam Việt Nam có thể đương đầu với tình hình.” (Ét-ga Xnâu: Cuộc cách mạng lâu dài, Nhà xuất bản Hớt xin xơn, Lân đơn, 1973, tr. 216).
       Sau đó bằng nhiều cách, phía Trung Quốc làm cho Mỹ hiểu rõ câu nói của chủ tịch Mao Trạch Đông và yên tâm rằng: “người không đụng đến ta thì ta không đụng đến người”.

      Câu nói của thủ tướng Chu Ân Lai với tổng thống Ai Cập A. Nátxe ngày 23 tháng 6 năm 1965, do ông Môhamét Hátxenen Hâycan, người bạn thân thiết và cố vấn riêng của tổng thống A. Nátxe kể lại là một bằng chứng hùng hồn:Mỹ càng đưa nhiều quân vào Việt Nam thì chúng tôi càng vui lòng vì chúng tôi biết rằng chúng tôi nắm chúng trong tay, chúng tôi có thể lấy máu chúng. Nếu Ngài muốn giúp đỡ người Việt Nam thì cần khuyến khích Mỹ ném càng nhiều lính Mỹ vào Việt Nam càng tốt” (Mô-ha-mét Hát-xe-nen Hây-can: “Những tài liệu từ Cai-rô” Nhà xuất bản Phia-ma-ri-ông, Paris, 1972, tr. 238).

         Trong cuộc hội đàm ở Bắc Kinh tháng 6 năm 1973, Chủ tịch Mao Trạch Đông nói với Tổng bí thư Lê Duẩn và Thủ tướng Phạm Văn Đồng:
        “Ở miền Nam Việt Nam cần ngừng (chiến đấu) nửa năm, một năm, một năm rưỡi, hai năm càng tốt”. Cách mạng miền Nam nên “chia làm hai bước  . Gộp lại làm một, người Mỹ không chịu đâu. Vấn đề là trong tay chính quyền Nguyễn Văn Thiệu còn có mấy chục vạn quân”.
         Họ hằn học nhìn thắng lợi của nhân dân Việt Nam, cho nên, từ khi nhân dân Việt Nam giành được toàn thắng, họ càng ngày càng công khai và điên cuồng thực hành một chính sách thù địch toàn diện và có hệ thống chống nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.
        Đây là một văn kiện tuyệt mật của Quân ủy trung ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc do Lê Xuân Thành, sinh ngày 20-3-1949 tại Quảng Đông Trung Quốc cung khai.
         Thành là công an của Trung Quốc, trú quán tại 165 đường Hồng Ký, khu Tuyên Vũ, thành phố Bắc Kinh. Tháng 3 năm 1973 chạy sang Việt Nam làm gián điệp. Ngày 30-3-1973 bị bắt ở xã Ngư Thủy, huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình. Trong văn kiện đó có một đoạn như sau:
“…Nước ta và nhân dân Việt Nam có mối hận thù dân tộc hàng nghìn năm nay.
… Chúng ta không được coi họ là đồng chí chân chính của mình, đem tất cả vốn liếng của ta trao cho họ. Ngược lại chúng ta phải tìm mọi cách làm cho nước họ ở trong tình trạng không mạnh, không yếu mới có thể buộc họ ở trong tình trạng hiện nay.
… Vẽ bề ngoài chúng ta đối xử với họ như đồng chí của mình, nhưng trên tinh thần ta phải chuẩn bị họ trở thành kẻ thù của chúng ta…”

Một thư của sứ quán Trung Quốc ở Hà Nội xúi giục người Hoa ở Đà nẵng chống Việt Nam, tịch thu được của can phạm Hàng Phú Quang bị bắt tháng 7 năm 1978.
Chỉ thị của Kiều Ủy trung ương Trung Quốc về công tác đối với người Hoa ở Việt Nam năm 1996.
Chỉ thị của Kiều Ủy trung ương Trung Quốc về công tác đối với người Hoa ở Việt Nam năm 1996.
Đây là một văn kiện tuyệt mật của Quân ủy trung ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc do Lê Xuân Thành, sinh ngày 20-3-1949 tại Quảng Đông Trung Quốc cung khai.
Đây là một văn kiện tuyệt mật của Quân ủy trung ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc do Lê Xuân Thành, sinh ngày 20-3-1949 tại Quảng Đông Trung Quốc cung khai.

      Để Việt Nam buộc phải lệ thuộc vào Trung Quốc, những người cầm quyền Bắc Kinh ra sức ngăn cản mọi hành động thống nhất của các lực lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới ủng hộ Việt Nam chống Mỹ.
       Nhưng những người cầm quyền Trung Quốc lại muốn thành lập một cái gọi là Mặt trận nhân dân thế giới do họ khống chế:Cần phải thành lập Mặt trận thống nhất thế giới rộng rãi nhất chống đế quốc Mỹ và tay sai…Tất nhiên Mặt trận đó không thể bao gồm họ (Liên Xô) được…” (Nghị quyết Hội nghị lần thứ 11 khóa 8 Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc, tháng 8 năm 1956).
       Đi đôi với việc phá hoại mọi hành động thống nhất ủng hộ Việt Nam, họ gây khó khăn rất lớn cho việc vận chuyển hàng viện trợ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác quá cảnh đất Trung Quốc và tìm cách điều chỉnh sự viện trợ đó để hạn chế khả năng đánh lớn của nhân dân Việt Nam, đặc biệt trong các mùa khô.
        Ở Campuchia, từ trước năm 1965, những người cầm quyền Trung Quốc đã trắng trợn vu cáo Việt Nam hy sinh lợi ích của cách mạng Campuchia tại Hội nghị Giơnevơ 1954 về Đông Dương, mặc dù sự thật rõ ràng là chính họ đã bán rẻ những lợi ích đó. Từ năm 1965, họ nắm Pôn Pốt, thúc đẩy y cùng đồng bọn tiến hành đấu tranh vũ trang chống chính quyền Xihanúc đang liên minh với các lực lượng kháng chiến Việt Nam và Lào. Nửa cuối năm 1969, sau khi Lon Non lên làm thủ tướng, những người cầm quyền Trung Quốc ủng hộ quan điểm của Lon Non là Quân giải phóng miền Nam Việt Nam phải rút khỏi các căn cứ ở Campuchia và không được dùng cảng Xihanucvin vào việc vận chuyển hậu cần. Chính trong thời gian này, bè lũ Pôn Pốt Iêngxary cũng đòi Quân giải phóng miền Nam Việt Nam rút khỏi các căn cứ ở Campuchia.
        Trong cuộc đàm phán với phía Việt Nam tháng 4 năm 1968, phía Trung Quốc thừa nhận rằng Tuyên bố ngày 28 tháng 1 năm 1967 của Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà về việc đàm phán với Mỹ đã gây ảnh hưởng tốt: “Ngay đồng minh của Mỹ, cả Đờ Gôn cũng đòi chấm dứt ném bom không điều kiện”. Nhưng họ vẫn cho rằng:Lúc này Việt Nam chấp nhận đàm phán chưa phải là thời cơ và trên tư thế cao, ta đã nhân nhượng một cách vội vã”.
      Từ ngày 13 tháng 5 năm 1968, ngày khai mạc Hội nghị Pari đến trung tuần tháng 10 năm 1968, bộ máy tuyên truyền của Bắc Kinh không đưa một tin nào về cuộc đàm phán giữa Việt Nam và Mỹ, nhưng lại nhấn mạnh rằng nhân dân Việt Nam cần giải quyết số phận cuộc đấu tranh của mình “không phải trên bàn hội nghị mà trên chiến trường”, thậm chí còn đe doạ rằng: “nếu miền Nam Việt Nam không được bảo đảm thì cuối cùng sẽ đưa đến chỗ mất toàn bộ Việt Nam”.
 Ngày 9 tháng 10 năm 1968, một nhà lãnh đạo Trung Quốc đã gặp Thứ trưởng Bộ Ngoại thương Việt Nam tại Bắc Kinh và yêu cầu báo cáo với lãnh đạo Việt Nam rằng họ coi việc Mỹ chấm dứt ném bom miền Bắc Việt Nam là “sự thoả hiệp của Việt Nam và Mỹ”, “là một thất bại lớn, tổn thất lớn đối với nhân dân Việt Nam giống như cuộc đàm phán ký Hiệp nghị Giơnevơ năm 1954 là một sai lầm”; họ đề nghị phía Việt Nam “nên để cho Mỹ bắn phá trở lại khắp miền bắc, làm như vậy là để Mỹ phân tán mục tiêu oanh tạc, đồng thời cũng chia sẻ bớt khó khăn cho miền Nam”.
      Ngăn cản nhân dân Việt Nam thương lượng với Mỹ, khuyến khích Mỹ tăng cường ném bom miền Bắc Việt Nam, đây chính là cái mà tướng Mỹ M. Taylơ gọi là quyết tâm của những người lãnh đạo Trung Quốc “đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng”, nhằm làm suy yếu Việt Nam, có lợi cho chính sách bành trướng của họ.
        Trong cuộc gặp Thứ trưởng Bộ Ngoại thương Việt Nam nói trên, phía Trung Quốc còn trắng trợn vu khống Việt Nam đàm phán với Mỹ là do “nghe lời của Liên Xô” và yêu cầu phía Việt Nam lựa chọn:
Hoặc là muốn đánh thắng Mỹ thì phải cắt quan hệ với Liên Xô, hoặc là muốn thoả hiệp với Mỹ, dùng viện trợ của Trung Quốc đánh Mỹ để đạt mong muốn đàm phán với Mỹ thì sự viện trợ của Trung Quốc sẽ mất hết ý nghĩa của nó”. 
        Đối với việc giải quyết vấn đề Lào tại Giơnevơ năm 1961-1962, họ còn chủ trương chia nước Lào theo chiều ngang thành hai vùng: vùng giải phóng ở phía bắc, vùng do nguỵ quyền Viêng Chăn kiểm soát ở phía nam. Đó là một âm mưu thâm độc nhằm buộc lực lượng cách mạng Lào phải lệ thuộc vào Trung Quốc và cô lập cách mạng miền nam ViệtNam.
        Nhưng những nhà lãnh đạo cách mạng Lào kiên quyết giữ vững đường lối riêng của mình, lực lượng kháng chiến Lào ngày càng giành nhiều thắng lợi buộc đế quốc Mỹ và tay sai phải ký Hiệp nghị Giơnevơ năm 1962 công nhận nền trung lập của Lào và nhận có đại biểu của Mặt trận Lào yêu nước trong Chính phủ liên hiệp thứ hai ở Lào.

      Sau khi thuyết phục và gây sức ép yêu cầu Đảng ta từ bỏ Liên Xô đi theo Trung Quốc không được, Đặng Tiểu Bình rất bực bội. Buổi ông ta rời Hà Nội, Bác và mấy đồng chí đến tiễn tại nhà khách. Lúc Bác tới ông Đặng đang ngồi trên ghế, nhưng khi thấy Bác vào ông ta không đứng dậy theo phép lịch sự. Mấy đồng chí đi theo Bác không ngờ lại có chuyện đó, trong khi chưa biết xử trí ra sao thì thấy Bác nhanh nhẹn bước tới chỗ ông Đặng ngồi, một tay chìa ra bắt tay ông Đặng, một tay vỗ nhẹ mấy cái vào vai ông ta rồi từ từ kéo ông ta đứng đậy. Tất nhiên là ông Đặng phải đứng lên theo. 

        Cần phải nói thêm kẻo một số bạn trẻ không rõ, đối với người Việt Nam (và Trung Quốc), chỉ có những bậc bề trên, hoặc nhiều tuổi hơn mới được quyền vỗ nhẹ vào vai người được coi như bậc dưới hoặc ít tuổi hơn. Hành động nhỏ này thể hiện rõ bản lĩnh, nghệ thuật ứng xử tuyệt vời của Hồ Chí Minh"...

       Ngày 17 tháng 10 năm 1968, bộ trưởng Bộ Ngoại giao Trần Nghị gặp đại diện Việt Nam thông báo tuyên bố của những người lãnh đạo Trung Quốc về cuộc đàm phán giữa Việt Nam và Mỹ:Lần này nếu các đồng chí chấp nhận bốn bên đàm phán tức là giúp cho Giônxơn và Hămphơrây đoạt được thắng lợi trong bầu cử, để cho nhân dân miền Nam Việt Nam vẫn ở dưới sự đô hộ của đế quốc Mỹ và bù nhìn, không được giải phóng, làm cho nhân dân miền Nam Việt Nam còn có khả năng bị tổn thất lớn hơn…Như vậy giữa hai Đảng và hai nước chúng ta còn cần nói chuyện gì nữa?”.
       Đe dọa cắt quan hệ giữa hai Đảng là một thủ đoạn trắng trợn, một sức ép lớn nhất của những người lãnh đạo Trung Quốc đối với Việt Nam.
        Năm 1968, khi bàn vấn đề viện trợ cho Việt Nam trong năm 1969, những người cầm quyền Bắc Kinh đã giảm kim ngạch viện trợ hơn 20% so với kim ngạch viện trợ năm 1968. Hơn thế nữa, tháng 8 năm 1969 họ trắng trợn nói: “Thế Việt Nam đánh hay hoà để Trung Quốc tính việc viện trợ?”. Thực tế họ đã giảm kim ngạch viện trợ năm 1970 hơn 50% so với năm 1968.
      Sự thật là không phải đến năm 1968 những người lãnh đạo Bắc Kinh mới dùng vấn đề viện trợ để ép Việt Nam. Tháng 4 năm 1966, Tổng bí thư Đảng cộng sản Trung Quốc Đặng Tiểu Bình đã nói với một nhà lãnh đạo Việt Nam rằng năm 1964 “đồng chí Mao Trạch Đông có phê bình chúng tôi là quá nhiệt tâm đối với vấn đề Việt Nam. Bây giờ chúng tôi mới thấy rõ đồng chí Mao nhìn xa”.
Phía Việt Nam đã trả lời: “Sự nhiệt tình của một nước xã hội chủ nghĩa đói với một nước xã hội  chủ nghĩa khác là xuất phát từ tinh thần quốc tế vô sản. Chúng tôi không bao giờ nghĩ nhiệt tâm là có hại. Nếu các đồng chí nhiệt tâm giúp đỡ thì chúng tôi có thể đỡ hy sinh 2 hay 3 triệu người … Miền Nam chúng tôi sẽ chống Mỹ đến cùng và chúng tôi vẫn giữ vững tinh thần quốc tế vô sản”.
       Từ tháng 11 năm 1968, Bộ Ngoại giao Trung Quốc đã ra tuyên bố tỏ ý muốn nối lại các cuộc đàm phán Trung Mỹ ở Vácsava và cùng với Mỹ ký một thoả thuận cùng tồn tại hoà bình. Tiếp đó phía Trung Quốc đã tích cực đáp ứng những tín hiệu của phía Mỹ. Sau khi lên làm tổng thống, Níchxơn báo cho phía Trung Quốc là các cuộc thảo luận giữa Mỹ và Trung Quốc có thể tiến hành ở Trung Quốc. Phía Trung Quốc đã trả lời là “ bản thân Níchxơn có thể đến Bắc Kinh hoặc cử một phái viên đến để thảo luận về vấn đề Đài Loan” (Ét-ga Xnâu: Cuộc cách mạng lâu dài, Nhà xuất bản Hớt xin xơn, Lân đơn, 1973, tr. 11).
      Thông báo cho phía Việt Nam biết cuộc đi thăm Bắc Kinh lần thứ nhất của Kítxinhgiơ, ngày 13 tháng 7 năm 1971 Đoàn đại biểu cấp cao Trung Quốc đã nói: “Vấn đề Đông Dương là quan trọng nhất trong cuộc gặp gỡ giữa chúng tôi và Kítxinhgiơ. Kítxinhgiơ nói rằng Mỹ gắn việc giải quyết vấn đề Đông Dương với việc giải quyết vấn đề Đài Loan. Mỹ nói có rút được quân Mỹ ở Đông Dương thì mới rút quân Mỹ ở Đài Loan. Đối với Trung Quốc, vấn đề rút quân Mỹ khỏi miền Nam Việt Nam là vấn đề số 1. Còn vấn đề Trung Quốc vào Liên hợp quốc là vấn đề số 2”.
       Phía Trung Quốc dùng “củ cà rốt” viện trợ: nếu năm 1968 vì phản đối Việt Nam đàm phán với Mỹ họ đã giảm kim ngạch viện trợ cho Việt Nam thì năm 1971 và năm 1972, để lôi kéo Việt Nam đi vào chiều hướng của Bắc Kinh thoả hiệp với Mỹ, họ đã dành cho Việt Nam viện trợ cao nhất của họ so với những năm trước đó. Đây cũng là thủ đoạn nhằm che đậy sự phản bội của họ nhằm xoa dịu sự công phẩn của nhân dân Việt Nam.
      Đi đôi với tăng thêm viện trợ là sự thúc ép liên tục để Việt Nam chấp nhận giải pháp của Mỹ. Ngày 18 tháng 7 năm 1971, phía Trung Quốc thông báo cho phía Việt Nam phương án bốn điểm của Mỹ: rút quân và thả tù binh Mỹ trong 12 tháng kể từ ngày 1 tháng 8 năm 1971, ngừng bắn toàn Đông Dương và giải pháp theo kiểu Giơnevơ năm 1954. Về rút quân, “vì thể diện” Mỹ muốn để lại một số cố vấn kỹ thuật; về chính trị “Mỹ không muốn bỏ Nguyễn Văn Thiệu cũng như không muốn bỏ Xirích Matắc”
      Trong cuộc hội đàm với phía Việt Nam tháng 11 năm 1971 họ nói:Việt Nam nên tranh thủ thời cơ giải quyết trước vấn đề rút quân Mỹ và quan tâm giải quyết vấn đề tù binh Mỹ, việc đánh đổ nguỵ quyền Sài Gòn là lâu dài”.
       Sau khi Níchxơn kết thúc chuyến đi thăm Trung Quốc, Kítxinhgiơ nói với các nhà báo ngày 1 tháng 3 năm 1972 rằng từ nay Níchxơn và bản thân y “chỉ còn việc nhìn về Mátxcơva và nghiền nát Việt Nam” (Me-vin và Béc -na Can-bê: Kít-xinh-giơ. Nhà xuất bản Lít-tơn Brao, Tô-rông-tô, 1974, tr.283).
      Từ tháng 4 năm 1972, Mỹ ném bom lại và thả mìn phong toả các cảng miền bắc Việt Nam và đánh phá ác liệt miền Nam Việt Nam nhằm đối phó với cuộc tiến công chiến lược mùa xuân năm 1972 của nhân dân Việt Nam, cứu vãn sự sụp đổ của chế độ Nguyễn Văn Thiệu.  Bước phiêu lưu quân sự này chính là hậu quả rõ ràng của sự đồng loã giữa những người cầm quyền Trung Quốc và Níchxơn.
Và ngày 5 tháng 12 năm 1972, đại sứ Trung Quốc Hoàng Chấn chuyển tới phía Việt Nam lời đe doạ của Kitxinhgiơ:Đàm phán đã đến lúc có hậu quả nghiêm trọng: Bắc Việt Nam đòi Mỹ hoặc trở lại hiệp định cũ, hoặc nhận một hiệp định xấu hơn: Mỹ không thể chấp nhận cả hai điều kiện đó. Nếu Việt Nam cứ giữ lập trường đó thì đàm phán đứt quãng và Mỹ sẽ có mọi hành động bảo vệ nguyên tắc của mình”.
      Trước sự câu kết của Bắc Kinh với Oasinhtơn phản bội nhân dân Việt Nam , nhân dân Việt Nam vẫn kiên cường đẩy mạnh cuộc kháng chiến chống Mỹ và tin tưởng vào thắng lợi của mình.
       Khi phía Trung Quốc thông báo với phía Việt Nam rằng trong chuyến thăm Trung Quốc, Níchxơn cũng sẽ cùng những người lãnh đạo Trung Quốc bàn về vấn đề Việt Nam, những người lãnh đạo Việt Nam đã thẳng thắn nói:Việt Nam là của chúng tôi; các đồng chí không được bàn với Mỹ về vấn đề Việt Nam . Các đồng chí đã nhận sai lầm năm 1954 rồi, bây giờ không nên sai lầm một lần nữa”.
       Khi phía Trung Quốc thông báo chuyến đi thăm Trung Quốc của Níchxơn, những người lãnh đạo Việt Nam nói:Trong cuộc chiến đấu chống Mỹ, nhân dân Việt Nam phải thắng. Tới đây, đế quốc Mỹ có thể đánh phá trở lại miền bắc ác liệt hơn nữa, nhưng nhân dân Việt Nam không sợ, nhân dân Việt Nam nhất định thắng”.
       Bất chấp mọi sức ép của Bắc Kinh và Oasinhtơn, nhân dân Việt Nam không những không nhân nhượng về những vấn đề có tính nguyên tắc, mà còn trừng trị đích đáng đế quốc Mỹ về những tội ác của chúng và cuối cùng buộc Mỹ phải ký Hiệp định Pari về Việt Nam ngày 27 tháng 1 năm 1973.
       Dư luận còn nhớ bọn đế quốc và phản động đã gây ra cuộc đảo chính ngày 18 tháng 3 năm 1970, lật đổ chính phủ của ông hoàng Nôrôđôm Xihanúc, đưa lon Non lên cầm quyền. Lon Non vốn là người Campuchia gốc Hoa, lại là người của Mỹ, cho nên những người lãnh đạo Trung Quốc muốn dùng y và bỏ rơi ông Xihanúc. Tại Bắc Kinh, Bộ Ngoại giao Trung quốc nói với đại sứ Việt Nam:Xihanúc không có lực lượng. Việt Nam cần ủng hộ Lon Non; Trung Quốc đón Xihanúc  nhưng vẫn quan hệ tốt với đại sứ quán của PhnômPênh “.

                             
                                                                  Đặng và Carter
 
 Theo giáo sư sử học Nayan Chanda trong sách "Brother Enemy, The War after the War", NXB Harcourt Brace Jovanovich xuất bản năm 1986 và nhiều trí thức, chuyên gia, nhà nghiên cứu khác thì Hoa Kỳ chính là quốc gia duy nhất trên thế giới gần như ủng hộ công khai cuộc xâm lược Việt Nam của Trung Quốc; trái với lời lên án việc Việt Nam tiến đánh Khmer Đỏ là "một mối đe dọa cho hòa bình và ổn định", tuyên bố của Mỹ về cuộc xâm lăng của Trung Quốc có hàm ý bào chữa rằng "việc Trung Quốc tấn công Việt Nam là kết quả của việc Việt Nam xâm lược Campuchia", "Việt Nam ráng chịu", "Việt Nam gieo gió gặt bão". Ngoài Hoa Kỳ thì đa số các quốc gia trên thế giới đều phản đối mạnh mẽ hành động thô bạo của Trung Quốc, sự cô lập này đã ảnh hưởng khá lớn tới chính sách ngoại giao bước đầu mở cửa của Bắc Kinh khi đó.

                   Bức ảnh này chụp buổi lễ tiễn Pol Pot tại Bắc Kinh ngày 22 tháng 10 năm 1977-  là hình ảnh cuối cùng của Pol Pot khi ông ta đang nắm quyền trước khi bị đẩy vào các khu rừng nhiệt đới hơn hai năm sau đó vào ngày 07 tháng 1 năm 1979. Với hình ảnh Pol Pot mỉm cười vẫy tay ở phía trước, Đặng Tiểu Bình ở bên trái và Hoa Quốc Phong ở phía trước. Giữa Hoa và Pol Pot là Ieng Sary, Bộ trưởng ngoại giao và cũng là em (anh) rể của ông ta . Trong khi Việt Nam chú thích bức ảnh này này như là chuyển thăm của Pol Pot tới  Bắc Kinh, Đặng Tiểu Bình đã vắng mặt trong ngày tổ chức lễ  đón Pol Pot. Việt Nam đã sử dụng bức ảnh chính thức này của Trung Quốc vào mục đích tuyên truyền để chứng minh sự thông đồng giữa Khmer Đỏ và Bắc Kinh.
             Bức ảnh này chụp buổi lễ tiễn Pol Pot tại Bắc Kinh ngày 22 tháng 10 năm 1977- là hình ảnh cuối cùng của Pol Pot khi ông ta đang nắm quyền trước khi bị đẩy vào các khu rừng nhiệt đới hơn hai năm sau đó vào ngày 07 tháng 1 năm 1979. Với hình ảnh Pol Pot mỉm cười vẫy tay ở phía trước, Đặng Tiểu Bình ở bên trái và Hoa Quốc Phong ở phía trước. Giữa Hoa và Pol Pot là Ieng Sary, Bộ trưởng ngoại giao và cũng là em (anh) rể của ông ta . Trong khi Việt Nam chú thích bức ảnh này này như là chuyển thăm của Pol Pot tới Bắc Kinh, Đặng Tiểu Bình đã vắng mặt trong ngày tổ chức lễ đón Pol Pot. Việt Nam đã sử dụng bức ảnh chính thức này của Trung Quốc vào mục đích tuyên truyền để chứng minh sự thông đồng giữa Khmer Đỏ và Bắc Kinh.

                          Trong chuyến thăm Trung Quốc, Pol Pot (bên trái) đã nhận được sự ủng hộ của Đặng Tiểu Bình cho sự  "thành công" của "Kampuchea Dân chủ" trong (việc xây dựng) một thiết chế xã hội "phi giai cấp" và trong cuộc chiến chống lại Việt Nam. Ảnh lưu hành chính thức của Trung Quốc (không ghi thời điểm chụp).
       Trong chuyến thăm Trung Quốc, Pol Pot (bên trái) đã nhận được sự ủng hộ của Đặng Tiểu Bình cho sự “thành công” của “Kampuchea Dân chủ” trong (việc xây dựng) một thiết chế xã hội “phi giai cấp” và trong cuộc chiến chống lại Việt Nam. Ảnh lưu hành chính thức của Trung Quốc (không ghi thời điểm chụp).
 
                Đại sứ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tại Campuchia, Sun Hua, bên trái, cùng với Ieng Sary nâng cốc chúc mừng nhau tại Phnom Penh – Bác ảnh không ghi ngày tháng được Quân đội Việt Nam tìm thấy trong các tài liệu lưu trữ trong tháng 1 năm 1979  bị  Khmer Đỏ bỏ lại khi họ chạy trốn khỏi Phnom Penh.
         Đại sứ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tại Campuchia, Sun Hua, bên trái, cùng với Ieng Sary nâng cốc chúc mừng nhau tại Phnom Penh – Bức ảnh không ghi ngày tháng được Quân đội Việt Nam tìm thấy trong các tài liệu lưu trữ trong tháng 1 năm 1979 bị Khmer Đỏ bỏ lại khi họ chạy trốn khỏi Phnom Penh.
 
Pol Pot, bên trái phía trước, đi với phái đoàn Trung Quốc do Uông Đông Hưng (phía trước, bên phải) trong chuyến thăm của phái đoàn này đến Kampuchea Dân chủ vào ngày 05 Tháng Mười Một 1978. Khieu Samphan và Noun Chea đi theo phía sau. Trong chuyến thăm này, diễn ra hai tháng trước khi những người này chạy trốn xe tăng Việt Nam để vào rừng, Pol Pot được cho là đã yêu cầu viện trợ quân sự khẩn cấp từ Trung Quốc, nhưng yêu cầu này đã bị từ chối.
        Pol Pot, bên trái phía trước, đi với phái đoàn Trung Quốc do Uông Đông Hưng (phía trước, bên phải) trong chuyến thăm của phái đoàn này đến Kampuchea Dân chủ vào ngày 05 Tháng Mười Một 1978. Khieu Samphan và Noun Chea đi theo phía sau. Trong chuyến thăm này, diễn ra hai tháng trước khi những người này chạy trốn xe tăng Việt Nam để vào rừng, Pol Pot được cho là đã yêu cầu viện trợ quân sự khẩn cấp từ Trung Quốc, nhưng yêu cầu này đã bị từ chối.
                    Ieng Sary, Pol Pot, và Son Sen (trái sang phải) cùng nhau tại Bình Nhưỡng. Bức ảnh không đề ngày này đã được các nhà báo thu thập được sau một cuộc tấn công (của Việt Nam) vào các căn cứ của Khmer Đỏ.
       Ieng Sary, Pol Pot, và Son Sen (trái sang phải) cùng nhau tại Bình Nhưỡng. Bức ảnh không đề ngày này đã được các nhà báo thu thập được sau một cuộc tấn công (của Việt Nam) vào các căn cứ của Khmer Đỏ.

       Ngay sau khi nổ ra cuộc đảo chính ở PhnômPênh và ông Xihanúc tới Bắc Kinh, thủ tướng Phạm Văn Đồng đã sang Trung Quốc thuyết phục những người lãnh đạo Trung Quốc nên ủng hộ ông Xihanúc, đồng thời trực tiếp biểu thị với ông Xihanúc sự ủng hộ mạnh mẽ của Việt Nam đối với ông ta và lực lượng kháng chiến Khơme.
        Ngày 23 tháng 3 năm 1970, ông Xihanúc công bố bản tuyên cáo 5 điểm lên án cuộc đảo chính của Lon Non và kêu gọi nhân dân Campuchia đoàn kết chống đế quốc Mỹ và bè lũ Lon Non.
       Ngày 25 tháng 3 năm 1970, Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà tuyên bố hoàn toàn ủng hộ bản Tuyên cáo đó.
       Ngày 7 tháng 4 năm 1970, Chính phủ Trung Quốc mới ra tuyên bố ủng hộ Tuyên cáo của ông Xihanúc. Tuy vậy, họ tiếp tục có những cuộc tiếp xúc bí mật với chính quyền Lon Non.  Chỉ sau khi Níchxơn đưa quân Mỹ xâm lược Campuchia, gây nên một làn sóng phản đối mạnh mẽ trên thế giới và ngay cả ở Mỹ, Chính phủ Trung Quốc mới cắt đứt quan hệ với chính quyền Lon Non ngày 5 tháng 5 năm 1970.       Trong lúc tìm cách nắm trọn vấn đề Campuchia, những người lãnh đạo Trung Quốc còn mưu toan nắm con đường vận chuyển quân sự qua ba nước Đông Dương. Trong mấy năm liền cho đến năm 1972, họ đề nghị giúp làm đường và vận chuyển hàng phục vụ chiến trường từ miền bắc đến miền Nam Việt Nam, Lào và Campuchia trên con đường mòn Hồ Chí Minh và hứa cung cấp cho Việt Nam đủ xe, người lái và khoảng 20 vạn quân nhân Trung Quốc để bảo đảm công việc này. Ý đồ của họ là qua đó nắm toàn bộ vấn đề Đông Dương để buôn bán với Mỹ và chuẩn bị bàn đạp đi xuống Đông Nam châu Á.   Tất nhiên phía Việt Nam không chấp nhận đề nghị đó.
       Nếu trước đây họ ngấm ngầm chia rẽ nhân dân ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia nhằm cô lập Việt Nam thì trong thời kỳ này họ bắt đầu dùng bè lũ Pôn Pốt-Iêng Xary để phá hoại cách mạng ba nước Đông Dương, tích cực chuẩn bị biến Campuchia thành bàn đạp để tiến công Việt Nam, khống chế bán đảo Đông Dương, từ đó bành trướng xuống Đông Nam châu Á sau này.
        Họ đã phơi trần bộ mặt ghê tởm của kẻ phản bội: phản bội nhân dân Việt Nam cũng như phản bội nhân dân Lào và nhân dân Campuchia.
       Trong cuộc hội đàm ở Bắc Kinh tháng 6 năm 1973, chủ tịch Mao Trạch Đông nói với Tổng bí thư Lê Duẩn và Thủ tướng Phạm Văn Đồng: “Ở miền Nam Việt Nam cần ngừng (chiến đấu) nửa năm, một năm, một năm rưỡi, hai năm càng tốt”. Cách mạng miền Nam nên “chia làm hai bước  . Gộp lại làm một, người Mỹ không chịu đâu. Vấn đề là trong tay chính quyền Nguyễn Văn Thiệu còn có mấy chục vạn quân”.
Thủ tướng Chu Ân Lai thì nói: “Trong một thời gian chưa có thể nói dứt khoát là 5 năm hay 10 năm, Việt Nam và Đông Dương nghỉ ngơi được thì càng tốt; tranh thủ thời gian đó mà nhân dân miền Nam Việt Nam, Lào, Campuchia thực hiện hoà bình, trung lập một thời gian”.
      Những người cầm quyền Bắc Kinh còn khuyên Mỹ “đừng thua ở Việt Nam, đừng rút lui khỏi Đông Nam châu Á”. (Theo tướng A. Hai-gơ, báo Mỹ Người hướng dẫn khoa học cơ đốc, ngày 20 tháng 6 năm 1979.)
      Thâm độc hơn nữa, họ tìm cách lôi kéo nhiều tướng tá và quan chức nguỵ quyền Sài Gòn hợp tác với họ, thậm chí cho người thuyết phục tướng Dương Văn Minh, “tổng thống” vào những ngày cuối của chế độ Sài Gòn để tiếp tục chống lại cuộc tổng tiến công và nổi dậy của quân và đan miền Nam Việt Nam.
        Từ năm 1973, những người cầm quyền Trung Quốc tăng cường những hành động khiêu khích và lấn chiếm đất đai ở những tỉnh biên giới phía bắc Việt Nam, nhằm làm yếu những cố gắng của nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu trang giải phóng hoàn toàn miền Nam.
        Đồng thời họ ngăn cản Việt Nam thăm dò, khai thác tài nguyên thiên nhiên của mình để nhanh chóng khôi phục và phát triển kinh tế. Ngày 26 tháng 12 năm 1973, phía Việt Nam đề nghị mở cuộc đàm phán để xác định chính thức đường biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc trong vịnh Bắc Bộ, nhằm sử dụng phần biển thuộc Việt Nam phục vụ công cuộc xây dựng đất nước. Ngày 18 tháng 1 năm 1974 phía Trung Quốc trả lời chấp thuận đề nghị trên, nhưng họ đòi không được tiến hành việc thăm dò trong một khu vực rộng 20.000 km2 trong vịnh Bắc Bộ do họ tự ý định ra. Họ còn đòi “không để một nước thứ ba vào thăm dò vịnh Bắc Bộ”, vì việc đưa nước thứ ba vào thăm dò “không có lợi cho sự phát triển kinh tế chung của hai nước và an ninh quân sự của hai nước”. Đó chỉ là một lý do để che đậy ý đồ đen tối của họ. Cũng vì vậy cuộc đàm phán về đường biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc trong vịnh Bắc Bộ từ tháng 8 đến tháng 11 năm 1974 đã không đi đến kết quả tích cực nào. Cũng với thái độ trịch thượng nước lớn như vậy, họ làm bế tắc cuộc đàm phán về vấn đề biên giới trên bộ và trong vịnh Bắc Bộ bắt đầu từ tháng 10 năm 1977 nhằm mục đích tiếp tục xâm phạm biên giới, lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam để duy trì tình hình căng thẳng ở biên giới Việt Trung.


                                Những hố chôn tập thể người dân vô tội bị bọn diệt chủng Pol Pot – Ieng Sary sát hại, được phát hiện sau ngày giải phóng 7/1/1979 tại “Cánh đồng chết” Choeung Ek, Campuchia. (Ảnh: TTXVN)                               Những hố chôn tập thể người dân vô tội bị bọn diệt chủng Pol Pot – Ieng Sary sát hại, được phát hiện sau ngày giải phóng 7/1/1979 tại “Cánh đồng chết” Choeung Ek, Campuchia. (Ảnh: TTXVN)


                     Bài 2: Thực hiện quyền tự vệ chính đáng                                      Pháo binh ta bảo vệ biên giới Tây Nam tháng 9/1977. Ảnh: TTXVN 
Bộ đội ta truy kích lính Pôn Pốt bảo vệ biên giới Tây Nam cuối năm 1978. Ảnh: Vũ Xuân Bân
 
       Hơn nữa, ngày 19 tháng 1 năm 1974, tức là một ngày sau khi phía Trung Quốc nhận đàm phán với phía Việt Nam về vấn đề vịnh Bắc Bộ, họ sử dụng lực lượng hải quân và không quân tiến đánh quân nguỵ Sài Gòn và chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa từ lâu vốn là bộ phận lãnh thổ Việt Nam. Họ nói là để tự vệ, nhưng thực chất đó là một hành động xâm lược, một sự xâm chiếm lãnh thổ Việt Nam để khống chế Việt Nam từ mặt biển và từng bước thực hiện mưu đồ độc chiếm biển Đông.
Sau Hiệp định Pari về Việt Nam, theo lệnh của Bắc Kinh, bè lũ Pôn Pốt-Iêng Xary thi hành một chính sách hai mặt đối với Việt Nam: vừa dựa vào Việt Nam vừa chống Việt Nam.
        Mặt khác, bè lũ Pôn Pốt Iêng Xary tìm mọi cách chống Việt Nam. Chúng vu cáo Việt Nam ký kết Hiệp định Pari là “phản bội Campuchia một lần nữa” để kích động hận thù dân tộc, gây tâm lý chống Việt Nam và kiếm cớ thanh trừng những người Campuchia không tán thành đường lối của chúng. Nhiều lần chúng tổ chức những vụ đánh phá, cướp bóc kho tàng, vũ khí, tiến công bệnh viện và nơi trú quân của Quân giải phóng miền Nam Việt Nam đặt trên đất Campuchia. Bằng những thủ đoạn rất thâm độc, kể cả việc thủ tiêu bí mật những cán bộ cách mạng chân chính, chúng ra sức củng cố vị trí trong Đảng, nắm toàn bộ quyền lực để biến Đảng cộng sản Campuchia thành một đảng phụ thuộc Bắc Kinh.
Về phần những người cầm quyền Trung Quốc, xuất phát từ lợi ích dân tộc, họ có giúp Việt Nam khi nhân dân Việt Nam chiến đấu chống Mỹ, nhưng cũng xuất phát từ lợi ích dân tộc, họ không muốn Việt Nam thắng Mỹ và trở nên mạnh, mà chỉ muốn Việt Nam yếu, lệ thuộc Trung Quốc.
       Họ muốn Việt Nam bị chia cắt lâu dài, nhưng nhân dân Việt Nam đã đánh cho “Mỹ cút, ngụy nhào”, giải phóng hoàn toàn miền nam và thống nhất nước nhà.
        Năm 1975, khi chào mừng nhân dân Việt Nam giải phóng hoàn toàn miền Nam Việt Nam, những người lãnh đạo Trung Quốc cũng nói “sẽ tiếp tục làm tròn nghĩa vụ quốc tế của mình, kiên quyết ủng hộ sự nghiệp chính nghĩa nhằm củng cố thành quả thắng lợi, thống nhất và xây dựng Tổ Quốc của nhân dân Việt nam”. Thật ra đây chỉ là lời tuyên bố giả dối để che dấu sự hằn học của họ đối với sự thắng lợi lịch sử của nhân dân Việt Nam đang làm nức lòng tất cả những lực lượng cách mạng và tiến bộ trên toàn thế giới, che giấu những kế hoạch đen tối của họ nhằm chống lại Nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam.
       Giấu mặt chống Việt Nam không đạt kết quả mong muốn, những người cầm quyền Trung Quốc quay ra công khai chống Việt Nam bằng mọi thủ đoạn, kể cả bằng đe dọa vũ lực và dùng vũ lực.
      Ngay từ lúc mới giải phóng Miền Nam, lợi dụng lòng tin của quân dân ta, Khmer Đỏ đã lộ rõ âm mưu lấn chiếm Việt Nam. Ngày 10/5/1975, Khmer Đỏ dùng tàu đổ bộ LSM và 3 tàu tuần tra PCF đưa quân đánh chiếm đảo Thổ Chu, dồn hơn 500 người dân Việt Nam trên đảo đưa về Campuchia và tàn sát toàn bộ. Một số người dân trên đảo dùng xuồng máy chạy trốn vào bờ và báo tin cho chính quyền.

Sau tin báo của dân, quân đội đã điều máy bay L-19 đi trinh sát hiện trường các đảo thì phát hiện các đảo này đã bị quân Khmer Đỏ chiếm đóng.

Ngày 20-5-1975, trung tướng Lê Trọng Tấn - phó tổng tham mưu trưởng QĐND Việt Nam - thay mặt Bộ Quốc phòng đã giao nhiệm vụ cho Quân khu 9 phải đánh chiếm lại toàn bộ các đảo và đất đai của Việt Nam bị quân Khmer Đỏ chiếm đóng. Việt Nam quyết định dùng sức mạnh quân sự để tái chiếm lại đảo Thổ Chu.

                               
      Sơ đồ (phỏng đoán) trận đánh giải phóng đảo Thổ Chu của lực lượng hỗn hợp HQNDVN và Quân khu 9 (24-27/5/1975)
 
         Lúc bấy giờ, lực lượng hải quân ta còn gặp rất nhiều khó khăn. Tám ngày sau khi Khmer Đỏ đánh chiếm đảo Thổ Chu, căn cứ hải quân An Thới, Phú Quốc mới được Quân khu 9 bàn giao cho Quân chủng Hải quân. Nhưng với quyết tâm bằng bất cứ giá nào cũng phải bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc, Đoàn Hải quân Phú Quốc vẫn dốc toàn bộ lực lượng, phối hợp cùng bộ binh của Quân khu 9 tiến hành giành lại đảo Thổ Chu, trả nợ máu cho hàng trăm đồng bào bị quân Khmer Đỏ tàn sát.
            Quần đảo Thổ Chu cách bờ trên 200km, gồm 8 đảo, trong đó Thổ Chu là đảo lớn nhất, rộng khoảng 10km2, các đảo còn lại có diện tích khoảng 1km2.
      Thông tin về lực lượng địch còn rất sơ lược, chủ yếu thông qua những người dân trốn thoát về cho biết: Trên đảo Thổ Chu có khoảng 1 tiểu đoàn địch được tăng cường hỏa lực mạnh, có 3 trọng liên 12,7mm, 3 súng cối 60, 81 và 82mm, 1 khẩu ĐKZ 75mm và 1 khẩu ĐKZ 106,7mm. Ở bãi Ngự phía tây nam đảo Thổ Chu có 1 trung đội địch, ở bãi Mun và bãi Giang phía đông nam đảo có 1 trung đội, ở bãi Cao và Hòn Từ có 2 trung đội.

        19 giờ 35 phút ngày 23-5-1975, lực lượng tham gia chiến đấu tái chiếm đảo Thổ Chu đã tập hợp đội hình ở Bãi Cao Cát - chuẩn bị xuất phát đổ bộ. Hải quân Nhân dân Việt Nam tung vào trận 2 tàu vận tải (T-643 và T-657) của Đoàn 125, chở theo một phân đội đặc công 39 người, cùng với đó là 3 tàu tuần tiễu PCF (lượng giãn nước 16 tấn, trang bị trọng liên 12,7mm và súng cối 81mm).

Lực lượng đổ bộ là 2 đại đội (140 người) của tiểu đoàn bộ binh 410, trung đoàn 95, Quân khu 9, cùng 1 trung đội địa phương (25 người) của đảo Phú Quốc và 11 cán bộ và dân địa phương đi cùng để dẫn đường. Lực lượng này được chở trên hai tàu đổ bộ cơ giới LCM-8 (lượng giãn nước 113 tấn, trang bị 2 trọng liên 12,7mm) của Rạch Giá. Do các tàu PCF, tàu LCM-8 mới tiếp thu được của chế độ cũ, nên ta phải sử dụng lái tàu và pháo thủ của Hải quân VNCH trước đây.

       Trên mỗi tàu tuần tiễu PCF có 4 lính chế độ cũ và 3 chiến sĩ đặc công đi kèm. Theo kế hoạch, quân ta sẽ bí mật đổ bộ lên đảo, sau đó đồng loạt nổ súng tấn công các vị trí phòng ngự của quân Khmer Đỏ, dưới sự yểm hộ của hỏa lực trên tàu chiến.   

       21 giờ 15 phút, tàu vận tải T-643 bắt đầu tiến vào bờ biển phía đông bắc đảo Thổ Chu, đưa phân đội đặc công lên chiếm bãi đổ bộ. 15 phút sau, đặc công chiếm bãi đổ bộ thành công, 2 tàu đổ bộ LCM-8 bắt đầu đưa bộ binh tiến vào. Sau 45 phút, các phân đội bộ binh đổ bộ xong. Tuân thủ kế hoạch đã được vạch ra, phân đội đặc công sẽ tiến công bãi Mun, trung đội địa phương Phú Quốc sẽ chiếm bãi Giang, còn tiểu đoàn 410 sẽ giải quyết hai mục tiêu là bãi Ngự và bãi Nhất.

Biên đội tàu tuần tiễu K-62 của HQNDVN

Biên đội tàu tuần tiễu K-62 của HQNDVN

       3 giờ 45 phút sáng 24-5-1975, Sở Chỉ huy lệnh cho 2 tàu đổ bộ LCM-8 ở lại cảnh giới phía bắc đảo Thổ Chu, cách bãi đổ bộ chừng 1 hải lí. 3 tàu tuần tiễu PCF vòng qua hướng tây, dừng lại ở Hòn Khô, sẵn sàng chi viện cho mũi tiến công bãi Ngự. 2 tàu vận tải quân sự vòng qua hòn Cao Cát sang phía đông nam.

       5 giờ 15 phút sáng 24-5-1975, tiểu đoàn 410 nổ súng đánh chiếm bãi Ngự. Các mũi khác cũng đồng loạt nổ súng theo hợp đồng. Ba tàu tuần tiễu PCF tiến vào trước bãi Ngự, dùng hỏa lực trên tàu chi viện cho bộ binh tiến công địch. Từ trên bờ, quân Khmer Đỏ bắn trả tàu hải quân ta bằng súng cối và ĐKZ, song hỏa lực không mạnh. Ngay từ những phút đầu trận đánh, phân đội đặc công đã làm chủ bãi Mun. Đến 7 giờ sáng, trung đội địa phương đảo Phú Quốc cũng đã làm chủ được một phần bãi Đông, buộc địch phải co cụm trong công sự chống trả.

     7 giờ 15 phút sáng, hai tàu LCM-8 cảnh giới ở phía bắc đảo phát hiện thấy một tàu lạ tiến tới. Lập tức, 3 tàu tuần tiễu PCF được lệnh vòng lên phía bắc để kiểm tra, nắm tình hình, sẵn sàng đánh địch. Từ hướng đông nam, tàu T-643 cũng chở theo một tổ đặc công đến chi viện. 3 tàu PCF tăng tốc tiếp cận và báo cáo: Trên tàu lạ có nhiều người, có vũ khí và treo cờ đỏ. Hải quân ta lập tức tổ chức vây bắt. Dưới sự yểm hộ của đồng đội, tàu T-643 và một tàu LCM-8 cập sát tàu lạ, bắt sống tàu cùng 40 tên địch. Tàu T-657 tiến về bãi Đông cũng phát hiện một thuyền máy của địch đi từ hòn Từ sang, lập tức nổ súng tiêu diệt. Đến 8 giờ 30 phút sáng, quân ta làm chủ bãi Đông. Nhưng cuộc chiến đấu vẫn diễn ra rất quyết liệt ở bãi Ngự trong suốt buổi sáng 24-5-1975. Quân địch dựa vào hai điểm tựa ở phía bắc và phía đông nam bãi Ngự để chống trả bộ đội ta.

     14 giờ 30 phút chiều, tàu T-643 và 3 tàu tuần tiễu PCF bắt đầu nổ súng chi viện hỏa lực cho tiểu đoàn 410 trên bãi Ngự. Quân địch vẫn ngoan cố bắn trả tàu ta bằng súng cối và ĐKZ. Đến 16 giờ chiều, để nhanh chóng giải quyết trận đánh, Sở Chỉ huy tăng viện thêm cho lực lượng tái chiếm đảo 2 tàu tuần tiễu K-62 (lượng giãn nước 135 tấn, trang bị 2 pháo 37mm 2 nòng và 2 pháo 25mm 2 nòng). Tàu T-657 lập tức đi đón hai tàu tuần tiễu.

        9 giờ sáng 25-5-1975, quân ta tiếp tục tấn công bãi Ngự. Được tăng cường thêm hai tàu tuẫn tiễu, hỏa lực yểm hộ bộ binh mạnh lên rõ rệt. Hải quân ta kiên quyết dùng pháo 37mm khống chế cao điểm đông nam bãi Ngự, và dùng 25mm bắn bộ binh địch. Kinh hoàng trước hỏa lực của tàu ta, quân Khmer Đỏ nhanh chóng tan rã. Điểm tựa phía bắc bãi Ngự bị chiếm, hơn 100 tên địch ra hàng. Đến 12 giờ trưa, điểm tựa phía đông nam cũng bị hạ, 56 tên địch ra hàng. 18 tên khác chạy ra bãi Mun cũng đã phải đầu hàng bộ đội đặc công ta ở đây. Quân ta giành lại đảo Thổ Chu, và sau đó triển khai đánh chiếm nốt các đảo còn lại. Đến ngày 27-5-1975, trận đánh kết thúc.

          Như vậy, sau 3 ngày chiến đấu, lực lượng hỗn hợp của Hải quân Nhân dân Việt Nam và Quân khu 9 đã loại khỏi vòng chiến 1 tiểu đoàn tăng cường của địch, thu toàn bộ vũ khí, khí tài và trang thiết bị. Phía ta hi sinh 4 người, bị thương 14 người. Trong hoàn cảnh vừa hoàn thành giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, mới tiếp quản các tàu chiến, căn cứ hải quân của chế độ cũ, nhưng Quân đội Nhân dân Việt Nam đã thể hiện tinh thần kiên quyết tiến công, thực hiện hàng loạt các trận đánh tái chiếm các đảo trên vùng biển Tây Nam, bước đầu làm thất bại âm mưu xâm lược của bè lũ diệt chủng

        Ở phía tây nam, Ngày 13 tháng 12 năm 1978, được sự trang bị và hậu thuẫn của Trung Quốc, Khmer Đỏ đã huy động 19 trong 23 sư đoàn (khoảng 80.000 đến 100.000 quân), có xe tăng và pháo binh yểm trợ, tiến công xâm lược Việt Nam trên toàn tuyến biên giới. Ba sư đoàn đánh vào Bến Sỏi với mục tiêu chiếm thị xã Tây Ninh, 2 sư đoàn đánh vào Hồng Ngự (Đồng Tháp), 2 sư đoàn đánh khu vực Bảy Núi (An Giang), 1 sư đoàn đánh Trà Phô, Tà Teng (xã Phú Mỹ, huyện Giang Thành, tỉnh Kiên Giang), cách Sài gòn 100 km, với ý đồ đánh chiếm chớp nhoáng thị xã Tây Ninh, mở đường tiến sâu vào miền Nam Việt Nam, đồng thời làm yếu Việt Nam để quân Trung Quốc đánh vào Việt Nam từ phía bắc. 
        Tại những vùng chiếm đóng, Khmer Đỏ đã thực hiện sách lược diệt chủng đối với người Việt, như đã làm với người Khmer.  Quân đội Việt Nam đã chống trả quyết liệt và đã kìm chân bước tiến, đồng thời tiêu hao sinh lực của quân Khmer Đỏ. Các hướng tiến quân của Khmer Đỏ bị chặn lại và không thể tiến lên. Ngoại trừ Hà Tiên bị chiếm giữ trong thời gian ngắn, không một thị xã nào của Việt Nam bị chiếm. Theo thống kê từ Việt Nam, từ tháng 6-1977 đến tháng 12/1978, họ đã tiêu diệt 38.563 quân Khmer Đỏ, bắt sống 5.800 lính khác. Theo Tạp chí Time, quân Việt Nam tiến hành các cuộc không kích và giao tranh trên bộ, đánh vào các đơn vị quân Khmer Đỏ dọc biên giới nhằm làm suy yếu quân Khmer Đỏ trước khi quân Việt Nam bắt đầu chiến dịch đã tiêu diệt khoảng 17.000 quân Khmer Đỏ.
 


Một nhóm trong đội thanh niên xung kích ĐHSP Hà Nội 1 trên đường trở về
sau chuyến đi biên giới năm 1979 (Ảnh: Mạnh Thường).

                                H 4 ill 639759 cambodia-phnom penh-1979-61.jpg
                               Quân đội Nhân dân Việt Nam tiến vào Phnom Penh năm 1979



Xe tăng Trung Quốc bị bộ đội ta bắn cháy trong cuộc chiến tranh biên giới (Ảnh: Mạnh Thường).
 
   Ở phía bắc, những người cầm quyền Trung Quốc đã huy động 60 vạn quân, gồm nhiều quân đoàn và sư đoàn độc lập, nhiều đơn vị binh chủng kỹ thuật với gần 800 xe tăng, hàng ngàn khẩu pháo, hàng trăm máy bay các loại của hầu hết các quân khu của Trung Quốc, điên cuồng phát động chiến tranh xâm lược Việt Nam ngày 17 tháng 2 năm 1979 trên toàn tuyến biên giới dài hơn 1000 km. Quân của bọn phản động Trung Quốc đi đến đâu là tàn sát dân thường, kể cả phụ nữ, trẻ sơ sinh, phá hủy triệt để các bản làng, chùa chiền, nhà thờ, trường học, vườn trẻ, bệnh viện, nông trường, lâm trường v.v.. Chúng đã hành động với sự man rợ của một đạo quân ăn cướp thời trung cổ kết hợp với những thủ đoạn tinh vi của các đội quân xâm lược của đế quốc ngày nay.
      Trái với mọi tính toán của Bắc Kinh, cuộc chiến tranh xâm lược của họ đã thất bại thảm hại, đã bị toàn thế giới lên án và một bộ phân nhân dân Trung Quốc phản đối. Ngày 5 tháng 3 năm 1979 họ đã buộc phải tuyên bố rút quân, và sau đó đã phải nhận ngồi đàm phán với phía Việt Nam.
        Chính sách ngày nay của những người lãnh đạo Trung Quốc đối với Việt Nam, mặc dù được nguỵ trang khéo léo như thế nào, vẫn chỉ là chính sách của những hoàng đế “thiên triều” trong mấy nghìn năm qua, nhằm thôn tính Việt Nam, biến Việt Nam thành một chư hầu của Trung Quốc.
 
 
viet nam trung quoc
             Cuốn sách Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua là một văn kiện quan trọng của Bộ Ngoại giao nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được công bố ngày 4 tháng 10 năm 1979 nhằm vạch trần bộ mặt phản động của bọn bành trướng Bắc Kinh đối với nước ta trong suốt một thời gian dài. Cuốn sách này gồm toàn văn bản văn kiện nói trên.  
           Hà Nội /Tháng 10 năm 1979/Nhà Xuất Bản Sự Thật.

      Khi một đoàn khách du lịch đến thăm Bảo tàng Diệt chủng Tuol Sleng, nơi trước kia từng là trường học sau đó chuyển thành nhà tù và trung tâm tra tấn dưới thời Khơ me Đỏ, người hướng dẫn viên dừng lại và hỏi có ai trong đoàn đến từ Trung Quốc không?

      Khi không thấy cánh tay nào giơ lên, anh tiếp tục kể về vai trò của chính quyền Trung Quốc trong nạn diệt chủng do Khơ me Đỏ gây ra từ năm 1975-1979, khiến ít nhất 1.7 triệu người Campuchia thiệt mạng.

      Sau đó người hướng dẫn viên giải thích vì sao anh hỏi xem có ai trong đoàn đến từ Trung Quốc không: “Vì người Trung Quốc rất tức giận khi tôi nói rằng chính vì chính quyền Trung Quốc nên Pol Pot mới có thể giết hại nhiều người như vậy. Họ nói đó không phải sự thật và: “Giờ chúng ta là bạn rồi, đừng nói về quá khứ.””
Trong một phát biểu trên truyền hình vào tháng 3/2015, Thủ tướng Trung Quốc Lý Khắc Cường nói:  “Là lãnh đạo của một quốc gia, khi thừa kế thành quả từ những người tiền nhiệm, họ cũng cần phải gánh vác trách nhiệm về những tội ác của thế hệ trước". Đối chiếu với phát biểu đó, một số nhà sử học độc lập từ Trung Quốc đã nhấn mạnh vai trò của Đảng Cộng Sản Trung Quốc (ĐCSTQ) trong tội ác diệt chủng tại Campuchia thời Khơ me Đỏ. Nhà sử học Zhang Lifan phát biểu: “Chính quyền Trung Quốc luôn tuyên truyền những việc mà họ thấy có lợi và tránh né những vấn đề mà họ có thể bị chỉ trích, bằng cách kiểm duyệt truyền thông và cấm xuất bản sách”.
      Theo bài viết của tác giả Dan Levin trên Thời báo New York, trong thập niên 70, ông Mao Trạch Đông muốn tạo dựng một nước chư hầu trong thế giới các nước đang phát triển để đối chọi với sự ảnh hưởng của Mỹ và Liên Xô. Ra sức mua chuộc và bức hại Việt Nam, muốn biến Việt Nam thành kẻ thần phục,thành tên lính xung kích của mình để dần khống chế, lấn chiếm cả Đông Nam - Á không được, lũ cầm quyền Trung Quốc quay sang sử dụng con bài Pol Pot – Ieng Sary.
     Trong một cuộc phỏng vấn, ông Andrew Mertha, tác giả cuốn sách “Brothers in Arms: China’s Aid to the Khmer Rouge, 1975-1979,” (tạm dịch: “Huynh đệ sát cánh: Viện trợ của Trung Quốc cho Khmer Đỏ, 1975-1979”) cho biết: “Để chứng tỏ là một thế lực đang trỗi dậy, chính quyền Trung Quốc cần thiết lập vây cánh, và họ chọn Campuchia.” Theo ông Mertha, Giám đốc chương trình Nghiên cứu Trung Quốc và châu Á Thái Bình Dương tại Đại học Cornell, Trung Quốc đã cung cấp ít nhất 90% viện trợ nước ngoài cho Khơ me Đỏ, từ lương thực và thiết bị xây dựng đến xe tăng, máy bay và trọng pháo. Thậm chí khi Khơ me Đỏ đang tàn sát người dân Campuchia thì các kỹ sư Trung Quốc và các cố vấn quân sự tiếp tục đào tạo đồng minh Cộng sản này ở Campuchia. Ông nói: “Nếu không có trợ giúp của chính quyền Trung Quốc thì chính quyền Khơ me Đỏ đã không thể tồn tại được 1 tuần.”.
     Theo lời khai của cựu viên chức Khơ me Đỏ, Youk Chhang, một người còn sống sót thời diệt chủng và từng là giám đốc Trung tâm Tài liệu Campuchia, thì: “Các cố vấn Trung Quốc đã ở đây, sát cánh cùng Khơ me Đỏ, từ cai ngục đến các lãnh đạo cao nhất. Nhưng chính quyền Trung Quốc chưa bao giờ thừa nhận và xin lỗi về điều này.” Theo tờ The Diplomat, các học giả cho rằng có khoảng 5.000 cố vấn và kỹ thuật viên của Trung Quốc có mặt tại Campuchia thời điểm đó để hỗ trợ chính quyền Khơ me Đỏ.
Lao Mong Hay, cựu giám đốc của Viện Dân chủ Khmer tại Phrom Penh nói: “Trung Quốc nợ người dân Campuchia một lời xin lỗi. Họ đã ủng hộ Khơ me Đỏ trước và trong khi nắm chính quyền bất kể điều gì xảy ra với người dân Campuchia.” Theo ông Mong Hay, Trung Quốc đã viện trợ 1 tỷ USD cho Khơ me Đỏ trước năm 1979 và thêm 1 tỷ USD nữa sau năm 1979 để họ đánh lại quân Việt Nam ở Campuchia.
 
                     Quân Việt Nam ở Campuchia
                      Năm nay tròn 25 năm ngày quân đội Việt Nam triệt thoái khỏi Campuchia.


                     Bộ đội Việt Nam tại Campuchia
Hơn 39.000 binh lính VN đã thiệt mạng trong khoảng mười năm can thiệp ở Campuchia.
                              Các lãnh đạo Khmer Đỏ
        Liên Hợp Quốc từng cho phép chính quyền Khmer Đỏ sau khi bị sụp đổ được giữ ghế ở LHQ.

                   Xét xử Khmer Đỏ

Trung Quốc không ủng hộ nhiều cho phiên tòa xét xử Khmer Đỏ, theo nhà nghiên cứu người Campuchia
 
     Nguyên nhân của diệt chủng đã được thế giới phân tích kỹ, phần lớn chuyên gia cho rằng chính quyền Pol Pot đã nóng vội thực thi Chủ nghĩa Cộng sản một cách cực đoan và bạo lực. Mong muốn của chính quyền Khơ me Đỏ là hoàn thành Chủ nghĩa Cộng sản “trong sạch” trong vài ba năm, tiêu diệt hết những gì khác biệt. Dù vậy nguồn gốc phải xuất phát từ những học thuyết và tư tưởng ảnh hưởng đến Pol Pot từ ban đầu.
    Thực tế, Pol Pot là người tôn thờ Mao Trạch Đông. Đầu năm 1965, Pol Pot đến thăm Trung Quốc 4 lần để đích thân nghe Mao Trạch Đông thuyết giảng. Có lẽ đó là một mớ hổ lốn lý luận cách mạng vô sản và cách hiểu sai nghĩa những câu nói của Lão Tử. Chẳng hạn, Lão Tử từng nói: "Dứt thánh bỏ trí dân lợi gấp trăm, dứt nhân bỏ nghĩa dân lại hiếu từ, dứt xảo bỏ lợi, không có trộm giặc", "Thời xưa, người khéo dùng đạo trị nước thì không làm cho dân khôn lanh cơ xảo, mà làm cho dân đôn hậu, thuần phác, dân sở dĩ khó trị là vì nhiều trí mưu", và: "Chính lệnh rõ ràng thì dân kiêu bạc", hay:  "Dân không sợ chết thì sao lại dùng tử hình dọa dân? Nếu làm cho dân luôn sợ chết mà có kẻ nào phạm pháp ta cũng bắt được và giết hết thì ai còn dám phạm pháp nữa?".   
      Ngay từ tháng 11/1965, Pol Pot đã ở Trung Quốc 3 tháng để đàm luận với các lãnh đạo Trung Quốc về các lý thuyết như “quyền lực chính trị lớn lên từ nòng súng”, “đấu tranh giai cấp”, “chuyên chính vô sản” v.v… Sau đó, những điều này đã trở thành cơ sở cho cách thức Pol Pot cai trị Campuchia. Sau khi quay trở về Campuchia, Pol Pot đổi tên đảng của mình thành Đảng Cộng sản Campuchia và dựng lên các cơ sở cách mạng theo mô hình quây tròn các thành phố khỏi các vùng nông thôn của ĐCSTQ. Có thể coi Trung Quốc đã ‘xuất khẩu’ những ‘Cách mạng văn hóa’, ‘Đại nhảy vọt’ sang đất nước Campuchia dưới thời Khơ me Đỏ.
      Sau chiến thắng của Đảng Cộng sản Campuchia năm 1975, Pol Pot đã vội vã bắt đầu thiết lập Chủ nghĩa xã hội — một thiên đường trong xã hội loài người — không có khác biệt giai cấp, không có cách biệt giữa thành thị và nông thôn, không có tiền tệ và thương mại. Cuối cùng thì, các gia đình đã bị xé nát và thay thế bằng các đội lao động nam và các đội lao động nữ. Tất cả đều phải làm việc và ăn chung, và mặc các bộ quần áo đồng phục cách mạng màu đen hoặc quần áo bộ đội. Các cặp vợ chồng chỉ được gặp nhau một tuần một lần khi được duyệt. Tuyên bố rằng đất nước bắt đầu lại từ đầu và gọi là “Năm số 0”, Pol Pot đã cách ly người dân khỏi thế giới và biến các thành phố trở lên hoang vắng, loại bỏ tiền tệ và sở hữu cá nhân, loại bỏ tôn giáo và thiết lập các hợp tác xã nông thôn. Bất cứ ai bị coi là trí thức đều bị giết, ngay cả những người đeo kính hoặc biết ngoại ngữ. Các bệnh viện và các bác sỹ cũng bị xóa sổ.
 
                        Ảnh: Lính Trung Quốc bị quân dân Việt Nam bắt năm 1979. Nguồn Internet 
  
       ĐCSTQ không chỉ ảnh hưởng đến Khơ me Đỏ về tư tưởng mà còn các biện pháp thực thi bạo lực. Các nhà tù thời Khơ me Đỏ nổi tiếng các hình thức tra tấn và giết người vô tội vạ. Những ít người biết rằng chính các “các chuyên gia và các kỹ thuật viên chuyên nghiệp” của chính quyền Trung Quốc đã truyền dạy cho Khơ me Đỏ tất cả các cách tra tấn này. Trung Quốc thậm chí còn đào tạo những người chụp ảnh để chuyên chụp ảnh các tù nhân trước lúc họ bị giết chết để lưu lại làm hồ sơ hoặc là để giải trí. Các hình thức tra tấn khủng khiếp còn được ĐCSTQ tiếp tục khai thác trong nhà tù ở chính đất nước họ trong nhiều năm về sau.
      Rõ ràng là, nếu tội ác diệt chủng của Khơ me Đỏ mà không dựa vào các lý thuyết và hỗ trợ vật chất của ĐCSTQ, thì nó đã không thể thực hiện được. Như vậy Trung Quốc đã đóng vai trò lớn trong việc 1,7 triệu người dân Campuchia bị giết hại dã man, một trong những vụ tàn sát lớn nhất của thế kỷ 20. 
 

                                          Phỏng vấn chủ tịch Hồ Chí Minh - Tháng 6/1964

         Lãnh tụ thiên tài của dân tộc Việt, người lấy "dĩ bất biến, ứng vạn biến" làm phương châm hành động.

                                                                            *** 
 
       Không còn con đường nào khác, nhân dân Việt Nam lại phải đứng lên cầm súng chiến đấu để tự bảo vệ mình và cứu dân tộc Cămpuchia thoát nạn diệt chủng. Sau đây, dựa vào tài liệu mạng (mà nói ăn cắp cũng được!), chúng ta sẽ kể về hai cuộc chiến đấu chẳng đặng đừng ấy:
       Chiến tranh biên giới Việt Nam – Campuchia thì như đã kể, có nguồn gốc từ thảm họa diệt chủng ở Campuchia do Khmer Đỏ gây ra, xuất hiện sau năm 1975, là hiện tượng chưa từng có trong khu vực Đông Nam Á thời hiện đại. So sánh trước và sau đó sẽ thấy: Thảm họa diệt chủng Holocaust của Đức Quốc xã trong 4 năm (1941-1945) giết hại khoảng 5 triệu người Do Thái trên tổng số hơn 7 triệu người (chiếm 60 – 75% dân cư Do Thái ở châu Âu); thảm họa diệt chủng của chính quyền người Hutu ở Rwanda trong khoảng 100 ngày năm 1994 giết hại trên 800.000 người Tutsi (chiếm 70% dân số Tutsi); Pol Pot-Ieng Sary trong thời gian cầm quyền 3 năm 8 tháng 20 ngày (1975-1979), giết hại hơn 2 triệu người dân Campuchia (tương đương 25% dân số đất nước).
       Sự dã man tàn bạo của các đồ tể Angkar do Pol Pot – Ieng Sary lập ra không thua kém Gestapo của Đức Quốc xã và đội quân hung bạo người Hutu ở Rwanda. Chúng đều giết người không chỉ thông dụng bằng cách bỏ đói, khát, bắt lao động kiệt sức, hoặc xử bắn hàng loạt, dùng chất nổ, súng máy, hơi ngạt, mà còn có cách dã man như thời Trung cổ: Dùng cuốc, mai, xẻng, dao rựa, dùi cui đánh đến chết. Ở Campuchia, chúng tàn sát trong các trại giam, nhà tù, trường học, nhà chùa, giống như tàn sát ngay tại các giáo đường, các điểm dừng giao thông, chợ, tại các gia đình ở Rwanda, hay Đức Quốc xã sát nhân ở phòng thí nghiệm, phòng tập bắn, phòng áp lực, xe chứa, phòng tắm hơi…
         Cuộc chiến có duyên cớ từ việc quân Khmer Đỏ tấn công quân sự vào lãnh thổ Việt Nam, giết chóc người dân, đặc biệt là vụ thảm sát Ba Chúc khiến hơn 3.000 dân thường Việt Nam thiệt mạng. Cuộc chiến bắt đầu vào ngày 13/12/1978 khi Quân đội Khmer Đỏ được sự trang bị và hậu thuẫn của Trung Quốc tiến công xâm lược Việt Nam trên toàn tuyến biên giới.

       Từ cuối Chiến tranh Việt Nam, Việt Nam và Campuchia xuất hiện nhiều mâu thuẫn. Đại tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam Phạm Văn Trà cho biết: năm 1972, nhiều đơn vị của Quân khu 9 sang Campuchia đã bị Khmer Đỏ giết hại. Một bệnh viện của Sư đoàn 1 tại Takéo cũng bị Pol Pot phá hủy. Tính 6 tháng đầu năm 1972, riêng Quân khu 203 (Quân khu Đông Nam của Campuchia) đã xảy ra 26 vụ giết bộ đội Việt Nam, 17 vụ cướp vũ khí, 385 vụ bắt cóc, 413 vụ tịch thu hàng hóa. Sáu tháng đầu năm 1973, quân Khmer Đỏ gây ra 102 vụ, giết và làm bị thương 103 bộ đội Việt Nam, cướp hàng chục tấn lương thực, vũ khí.

        Từ năm 1970 đến 1973, khi Quân đội Nhân dân Việt Nam tập trung lực lượng đánh Mỹ và chế độ Việt Nam cộng hòa thì Khmer Đỏ đã gây ra 174 vụ khiêu khích, tập kích các hậu cứ, cướp vũ khí, lương thực, giết hơn 600 cán bộ và binh lính của họ.
        Ngay trong nội tình Khơmer Đỏ cũng có nhiều cuộc truy sát, cưỡng bức.
 
      Tức nước vỡ bờ, ngay từ năm 1975, trong đất nước Cam-pu-chia đã nhóm lên những ngọn lửa phản kháng. Bắt đầu từ chính những cán bộ, đảng viên trong hàng ngũ của Pôn Pốt, sau đó, lan dần sang các tầng lớp công nhân, trí thức, nông dân. Từ năm 1975 đến 1978, không chịu nổi chế độ hà khắc của bọn Pôn Pốt, nhân dân Cam-pu-chia ở nhiều vùng nổi dậy chống lại chúng. Các phong trào tự phát nổi lên với các khẩu hiệu: “Đòi lật đổ chính quyền xã, huyện”, “Hòa bình rồi, đừng chiến tranh nữa” ở Kông-pông Thom, Xiêm Riệp, “Đòi cho tự lập gia đình”, “Bãi bỏ hôn nhân tập thể”, “Cải thiện đời sống cho chúng tôi” ở vùng Tây Nam Cam-pu-chia, “Đừng giết người Chàm” ở Kông-pông Chàm, “Đòi tự do đi lại”, “Đòi đoàn kết dân tộc”, “Đòi cứu nguy cho Quốc vương Xi-ha-núc”, “Yêu cầu quốc tế can thiệp” ở Phnôm Pênh... Nhưng càng đấu tranh, nhân dân Cam-pu-chia càng bị đàn áp, giết chóc, số người ly khai ra rừng lánh nạn đến hơn 10 vạn.
     Trong hàng triệu người Cam-pu-chia phản kháng chế độ Pôn Pốt, sự phản kháng của những người là lãnh đạo đảng các cấp, chỉ huy quân đội, đảng viên của chế độ Pôn Pốt mang ý nghĩa đặc biệt. Chính họ là những người nhen lại ngọn lửa cách mạng ở đất nước Cam-pu-chia, những người xác định con đường cứu nhân dân Cam-pu-chia thoát khỏi họa diệt chủng, lãnh đạo nhân dân Cam-pu-chia hồi sinh đất nước, xây dựng xã hội mới.

  
   Nhận Diện Bọn Sát Nhân Và Những Kẻ Giấu Mặt : Khmer Đỏ | Nghiên Cứu Lịch Sử                             Nhận Diện Bọn Sát Nhân Và Những Kẻ Giấu Mặt : Khmer Đỏ
 
Chế độ quái thai mà tập đoàn Pol Pot – Ieng Sary lập nên đã biến cả đất nước Campuchia thành nhà tù khổng lồ, thành cánh đồng chết. Hơn một nửa dân số Campuchia thời đó bị chấm dứt sự sống trong điều kiện khổ sai hoặc bị khủng bố, hành hình.

        Không dừng lại ở việc tàn sát đồng bào của chính mình, Khơ me Đỏ còn xua quân gây hấn, xâm chiếm lãnh thổ Việt Nam, buộc Việt Nam phải sử dụng vũ lực đáp trả, sau những nỗ lực đàm phán hòa bình bị thất bại.
         Khmer Đỏ tăng cường xâm lấn vùng tây sông Sa Thầy, nam đường 19 thuộc tỉnh Gia Lai - Kon Tum. Đêm 3/1/1976, Khmer Đỏ tràn sang làng Xộp (xã Mo Ray, huyện Sa Thầy) đốt hết nhà cửa, cướp phá tài sản và bắt đi 130 dân làng. Đến tháng 6/1976, Khmer Đỏ tăng cường lực lượng ra sát biên giới, xâm canh lấn đất ở các tỉnh Long An, Bình Phước, Tây Ninh... và thực hiện các hành động khiêu khích như bắn vào đội tuần tra, uy hiếp nhân dân đang đi lại làm ăn gần đường biên, tập kích, đốt phá, bắt cóc, gài mìn gây sát thương. Do bị Khmer Đỏ truy sát, hàng chục ngàn người Campuchia đã chạy trốn sang Lào, Thái Lan, Việt Nam. Trong 2 năm (1975 - 1976), đã có trên 15.000 người Campuchia chạy sang Việt Nam.
       Tranh chấp và xung đột biên giới xảy ra liên tục trong các năm 1977 và 1978, nhưng cuộc xung đột thực ra đã bắt đầu ngay sau khi quân Giải phóng tiến vào Sài Gòn. Ngày 4 tháng 5 năm 1975, một toán quân Khmer Đỏ đột kích đảo Phú Quốc, 6 ngày sau quân Khmer Đỏ đánh chiếm và hành quyết hơn 500 dân thường ở đảo Thổ Chu. Tức giận vì hành vi gây hấn của Khmer Đỏ, chính quyền Hà Nội phản công giành lại các đảo này. Trận đánh ở Phú Quốc làm nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam mới thành lập lo ngại, vì cùng thời gian đó, quan hệ Việt Nam và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đang xấu đi. Mối lo ngại này càng tăng thêm vì sự hiện diện của cố vấn Trung Quốc ở Campuchia và Trung Quốc tăng cường viện trợ quân sự cho lực lượng vũ trang Khmer Đỏ.
        Từ đầu năm 1977, quân Pol Pot lại mở cuộc tiến công vào các đồn biên phòng Việt Nam ở Bu Prăng (Đắc Lắc), vùng Mỏ Vẹt (Long An) và một số nơi ở Tây Ninh, Đồng Tháp, An Giang. Tiếp theo sau cuộc đột kích vào các đảo Thổ Chu và Phú Quốc, bên cạnh nhiều cuộc đột kích nhỏ, Khmer Đỏ tiến hành hai cuộc xâm nhập quy mô lớn vào Việt Nam. Cuộc xâm lược lớn đầu tiên diễn ra vào đêm 30 tháng 4 năm 1977, quân chính quy Khmer Đỏ sử dụng lực lượng cấp sư đoàn và lực lượng địa phương các tỉnh biên giới, bất ngờ đồng loạt tiến sâu 10 km vào lãnh thổ Việt Nam. Khmer Đỏ đánh vào 13 đồn công an vũ trang và 14/16 xã trên dọc tuyến biên giới, từ Vĩnh Gia đến Vĩnh Xương, chiếm một số vùng ở tỉnh An Giang và tàn sát một số lớn dân thường. Phía Việt Nam ghi nhận việc Khmer Đỏ đã giết hại 222 người, làm bị thương 614 người, bắt đi 10 người, đốt cháy 552 nhà dân, cướp 134 tấn lúa, phá hoại hàng trăm héc-ta lúa đang đến mùa gặt; cướp phá nhiều tài sản của người dân Việt Nam...Ngay trong đêm 30/4/1977, Sư đoàn 330 của Việt Nam được lệnh cơ động chiến đấu trên biên giới tỉnh An Giang, phối hợp với lực lượng vũ trang An Giang thực hiện nhiều trận đánh phản kích, khôi phục những địa bàn bị Khmer Đỏ chiếm đóng. Tháng 6-1977, lãnh đạo Khmer Đỏ ra nghị quyết coi Việt Nam “là kẻ thù số một, kẻ thù vĩnh cửu” của Campuchia và từ đây, Khmer Đỏ chính thức mở rộng xung đột thành cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.
        Cuộc tấn công lớn thứ hai diễn ra vào ngày 25 tháng 9 năm 1977, 9 sư đoàn chủ lực Khmer Đỏ cùng lực lượng địa phương mở cuộc tiến công đánh sang các tỉnh An Giang, Kiên Giang, Long An, Đồng Tháp lên hướng Tây Ninh. Riêng ở tỉnh Tây Ninh, 4 sư đoàn quân Khmer Đỏ đánh chiếm nhiều điểm ở các huyện Tân Biên, Bến Cầu, Châu Thành, đốt phá 471 ngôi nhà, làm gần 800 người dân bị giết, bị thương hoặc mất tích. 
       Tính từ ngày 30 tháng 4 năm 1975 đến tháng 6 năm 1977, quân Khmer Đỏ đã xâm phạm biên giới Việt Nam trên 2.000 lần, sát hại hơn 4.000 người dân. Tính từ tháng 5-1975 đến giữa năm 1978, Khmer Đỏ đã tàn sát hơn 5.000 dân thường Việt Nam, làm bị thương gần 5.000 người, bắt và đưa đi hơn 20.000 người; hàng nghìn trường học, bệnh viện, cơ sở y tế, nhà thờ, chùa chiền bị đốt phá, trâu, bò bị cướp, giết, hoa màu bị phá hoại; hàng vạn héc-ta ruộng đất và đồn điền cao su ở vùng biên giới Tây Nam Việt Nam bị bỏ hoang; khoảng nửa triệu dân sát biên giới với Campuchia phải bỏ nhà, bỏ đất, bỏ ruộng chạy sâu vào nội địa. 

        Để trả đũa, ngày 31 tháng 12 năm 1977, Quân đội Nhân dân Việt Nam tập trung 8 sư đoàn mở đợt phản công, đánh thiệt hại 5 sư đoàn Khmer Đỏ, đánh vào sâu 20–30 km trong đất Campuchia đến tận Neak Luong rồi mới rút lui từ ngày 5 tháng 1 năm 1978. Cuộc tấn công này được xem là lời "cảnh cáo" cho Khmer Đỏ. Đến thời điểm này Việt Nam vẫn tin rằng ban lãnh đạo Khmer Đỏ chia thành hai phái thân Việt Nam và chống Việt Nam và chưa rõ phái nào sẽ thắng thế. Phía Việt Nam đề nghị một giải pháp ngoại giao nhằm thiết lập một vùng phi quân sự dọc biên giới, nhưng Pol Pot từ chối. Ngày 31 tháng 12 năm 1977, Pol Pot đơn phương cắt đứt quan hệ ngoại giao với Việt Nam và giao tranh tiếp diễn.

        Ngày 1 tháng 2 năm 1978, Trung ương Đảng Cộng sản của Pol Pot họp bàn chủ trương chống Việt Nam và quyết định thành lập 15 sư đoàn. Trong nghị quyết của họ có ghi: "Chỉ cần mỗi ngày diệt vài chục, mỗi tháng diệt vài ngàn, mỗi năm diệt vài ba vạn thì có thể đánh 10, 15, đến 20 năm. Thực hiện 1 diệt 30, hy sinh 2 triệu người Campuchia để tiêu diệt 50 triệu người Việt Nam". Pol Pot đã điều 13 trong số 17 sư đoàn chủ lực và một số trung đoàn địa phương liên tục tấn công vào lãnh thổ Việt Nam, có nơi vào sâu tới 15–20 km. 

       Tính từ tháng 5/1975 đến ngày 23/12/1978, quân Khmer Đỏ đã giết hại hơn 5.230 dân thường Việt Nam, làm bị thương gần 5.000 người, bắt cóc hoặc đưa đi thủ tiêu hơn 20.000 người.

      Việt Nam cố gắng giải quyết cuộc xung đột một cách hòa bình thông qua đàm phán ngoại giao, nhưng Khmer Đỏ từ chối đàm phán, Trung Quốc không chịu làm trung gian hòa giải, còn Liên Hợp Quốc không có biện pháp gì phản hồi lại các phản đối của chính quyền Việt Nam về các hành động gây hấn của Khmer Đỏ. Việt Nam phải chuyển sang sử dụng vũ lực để giải quyết cuộc xung đột.        Từ tháng 12 năm 1977 đến 14 tháng 6 năm 1978, hơn 30 vạn thường dân Việt Nam phải tản cư vào sâu trong nội địa, bỏ hoang 6 vạn ha đất sản xuất, hàng nghìn nhà cửa bị đốt phá. Theo cuốn "Cuộc chiến tranh bắt buộc" của Đại tá Quân đội Nhân dân Việt Nam Nguyễn Văn Hồng, trong các trận đánh dọc biên giới trong giai đoạn này, ước tính Việt Nam bị thương vong 8.500 bộ đội, trong đó số chết là gần 3.000 người.
     Theo Tạp chí Time, quân Việt Nam tiến hành các cuộc không kích và giao tranh trên bộ, đánh vào các đơn vị quân Khmer Đỏ dọc biên giới nhằm làm suy yếu quân Khmer Đỏ trước khi quân Việt Nam bắt đầu chiến dịch đã tiêu diệt khoảng 17.000 quân Khmer Đỏ.
 
                                                                             *** 
 
Tháng 6-1977, ông Hun Xen, một cán bộ chỉ huy trung đoàn, ly khai quân Pôn Pốt, dẫn đầu 16 người chạy sang Việt Nam. Cũng trong năm 1977, nhiều cán bộ Cam-pu-chia các tỉnh Đông Bắc chạy sang Gia Lai, Kon Tum. Đó là số cán bộ tập kết ra miền Bắc, về nước thấy sự phản đảng của bọn Pôn Pốt nên chạy trở lại Việt Nam, gồm đồng chí Bu Thoong, Xoi Keo, Đi Phin… Các ông Pen Gút, Hưu Xem, Phách Xem, Pen Ủng, đoàn của ông  Úc Bun-xươn chạy sang Tây Ninh; ông Chăn Ven, ông Xim Sông chạy sang Quân khu 9. Tiếp đó là các ông Hêng Xom-rin, Chia Xim. Đến gần cuối năm 1978, đã có 107 người là lãnh đạo từ cấp trung đoàn tới cấp quân khu Cam-pu-chia chống chế độ Pôn Pốt sang Việt Nam.
     Được sự giúp đỡ tận tình của Việt Nam, những người ly khai chế độ Pôn Pốt mà hầu hết là đảng viên Đảng Nhân dân Cách mạng Cam-pu-chia tiến hành tập hợp lực lượng, xây dựng đường lối giải phóng nhân dân Cam-pu-chia. Từ ngày 26 đến 29-11-1978, ban tổ chức Đại hội Ủy ban Trung ương Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Cam-pu-chia tại Trường Công an Thủ Đức (TP Hồ Chí Minh), có 108 đại biểu gồm: Đoàn cán bộ tập kết ra miền Bắc năm 1954 rồi ở lại Việt Nam công tác có 42 người, đoàn Quân khu Đông: 35 người, đoàn sang từ tháng 6-1977: 16 người, đoàn Đông Bắc: 11 người, nhân sĩ: 4 người. 
      Đại hội đã bầu Ủy ban Trung ương Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Cam-pu-chia gồm 15 người, do ông Hêng Xom-rin làm Chủ tịch, ông Chia Xim làm Phó chủ tịch và ông Rua Xa-may làm Tổng thư ký. Ngày 2-12-1978, Mặt trận Đoàn kết dân tộc cứu nước Cam-pu-chia ra mắt. Buổi lễ ra mắt tổ chức ở vùng Snun, tỉnh Kra-chê, vừa được giải phóng khá rầm rộ. Có đại diện của các tiểu đoàn và đội công tác vũ trang của bạn, hàng trăm người Cam-pu-chia có đại diện các giai cấp, tôn giáo, dân tộc, tầng lớp nhân dân ở Cam-pu-chia đến dự. Khi thấy Đoàn chủ tịch mặt trận xuất hiện, có cả nhà sư mặc áo cà sa, mọi người dự lễ đều quỳ xuống vái lạy rất trọng thị. Ai cũng tỏ lòng phấn khởi có người lãnh đạo, nhất định nhân dân Cam-pu-chia sẽ thoát khỏi ách diệt chủng do bọn Pôn Pốt-Iêng Xa-ri gây nên.
 
           Trong thời gian từ tháng 5 đến tháng 11/1978, Việt Nam đã giúp lực lượng Campuchia thân Việt Nam phát triển 15 tiểu đoàn, 5 khung tiểu đoàn, 24 đội công tác, xây dựng được các tổ chức đảng, chuẩn bị thành lập mặt trận và bộ máy lãnh đạo sau khi đánh đổ Khmer Đỏ. 

                   Trang sử theo thực đơn: Khmer đỏ và mạch sống Trung Quốc
 Chủ tịch Mao Trạch Đông tiếp đón cấp lãnh đạo Khmer Đỏ tại Bắc Kinh, từ trái: Mao Trạch Đông, Pol Pot và Ieng Sary. Khmer Đỏ rập khuôn theo Mao, được hậu thuẫn và viện trợ tối đa của Bắc Kinh, đã tiến chiếm Nam Vang 17.04.1975 khởi đầu một chế độ diệt chủng với 2 triệu người chết, trong đó không ít nạn nhân là người Việt, người Chăm Islam trong khoảng thời gian từ 1975-1979. [nguồn: photo AFP]

Làm nòng cốt lãnh đạo sự nghiệp cách mạng Cam-pu-chia trên đất Việt Nam là những người đảng viên chân chính của Đảng Nhân dân Cách mạng Cam-pu-chia. Ngày 4 và 5-1-1979, các đảng viên cũ của Đảng Nhân dân Cách mạng Cam-pu-chia tập trung về trạm 66B, cư xá Mỹ cạnh dinh Độc Lập, ở TP Hồ Chí Minh để tiến hành đại hội khôi phục lại đảng, bầu ra Ban Chấp hành Trung ương mới và công nhận đảng viên của đảng. Cũng tại đại hội này, Đảng Nhân dân Cách mạng Cam-pu-chia cử ra Chủ tịch nước và thành phần Chính phủ để về ra mắt nhân dân Cam-pu-chia ngay khi đất nước được giải phóng, tiến hành Đại hội đại biểu lần thứ III, gồm 62 đại biểu. Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành Trung ương gồm 7 người: Pen Xô-van làm Tổng Bí thư, các đồng chí Hêng Xom-rin, Chia Xim làm Ủy viên thường vụ, các đồng chí Hun Xen, Bu Thoong, Văn Son, Chăn Xi làm Ủy viên Trung ương.

      Từ đây, cách mạng Cam-pu-chia có lực lượng lãnh đạo. Đó là những con người được tôi luyện trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, kinh qua chiến tranh gian khổ chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, trung thành với lợi ích của dân tộc và nhân dân, nắm vững xu thế phát triển của thời đại, có tinh thần quốc tế, tin tưởng Đảng Cộng sản Việt Nam, đoàn kết chặt chẽ với nhân dân Việt Nam. Sự đúng đắn trong chủ trương, đường lối của các nhà lãnh đạo cách mạng ly khai chế độ Pôn Pốt đã tập hợp được nhân dân Cam-pu-chia, những người đã sống uất hận trong chế độ diệt chủng vùng lên đấu tranh, sát cánh cùng quân và dân Việt Nam lật đổ tập đoàn phản động Pôn Pốt cùng chế độ quái thai do chúng dựng lên.
  Ngày 3-11-1978, được sự giúp đỡ của nhân dân, lực lượng nổi dậy chống lại chế độ Pôn Pốt-Iêng Xa-ri tiến công căn cứ Sê-rê-ca của quân Pôn Pốt ở phía Tây Bắc Đầm Be (Công-pông Chàm). Sau một giờ chiến đấu, lực lượng nổi dậy làm chủ căn cứ, tiêu diệt hơn 100 tên, thu một kho vũ khí, đạn dược và đồ dùng quân sự. Phong trào nổi dậy chống lại chế độ diệt chủng Pôn Pốt-Iêng Xa-ri lan rộng khắp cả nước, không chỉ lớn về quy mô mà còn có bước chuyển mới về tổ chức và phương thức đấu tranh. Đã có sự phối hợp giữa các lực lượng, giữa thành thị với nông thôn; đã biết kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, giữa nổi dậy của quần chúng với binh biến của binh lính.

     Tháng 11-1978, tại Quân khu Đông, lực lượng nổi dậy hoạt động mạnh ở các huyện Cam-chơ-rích, Tơ-nang Khơ-mun (Công-pông Chàm). Tại Quân khu Đông Bắc, hàng trăm nhân dân vùng Siêng-pạng (Stung Treng) và vùng Bô-keo (Ra-ta-na-ki-ri) nổi dậy chống lại việc bắt thanh niên đi lính cho Pôn Pốt. Nhiều truyền đơn kêu gọi nhân dân khu Đông và Đông Bắc cùng đồng bào cả nước đoàn kết, đấu tranh đánh đổ chế độ diệt chủng Pôn Pốt-Iêng Xa-ri, phản đối việc chính quyền Pôn Pốt-Iêng Xa-ri gây chiến tranh biên giới với Việt Nam, đòi xây dựng nước Cam-pu-chia hòa bình, độc lập, tự do, hạnh phúc.

      Cuối tháng 11, đầu tháng 12-1978, phong trào đấu tranh cách mạng của nhân dân Cam-pu-chia phát triển ngày càng mạnh mẽ và giành nhiều thắng lợi. Đầu tháng 12-1978, lực lượng vũ trang cách mạng tỉnh Môn-đôn-ki-ri đánh chiếm một căn cứ địch, diệt hơn 100 tên, thu nhiều súng đạn và lương thực. Tiếp đó, nhân dân hai huyện Sơ-lông và Crô-chơ-mia (Công-pông Chàm) nổi dậy giành quyền làm chủ ở một số xã. Ở Quân khu 203 và Quân khu Đông Bắc, nổ ra nhiều vụ binh biến của binh lính.

    Sau Chiến tranh Việt Nam, Việt Nam và Campuchia xuất hiện nhiều mâu thuẫn. Tranh chấp và xung đột biên giới xảy ra liên tục trong các năm 1977 và 1978, nhưng cuộc xung đột thực ra đã bắt đầu ngay sau khi giải phóng Sài Gòn. 

  
                           
{ Thanh niên xung phong Thành phố tham gia chiến đấu trên chiến trường biên giới Tây Nam, năm 1978 (Nguồn: Tư liệu Trung tâm Thông tin Triển lãm).}

                                 Nguyễn Ngọc Chiến và đồng đội năm 1978
                             Nguyễn Ngọc Chiến và đồng đội năm 1978 (Ảnh Phóng viên Báo QĐND)

                                Nguyễn Ngọc Chiến tại mặt trận biên giới An Giang năm 1978 <br />(Ảnh Phóng viên Báo QĐND))
     Nguyễn Ngọc Chiến tại mặt trận biên giới An Giang năm 1978 (Ảnh Phóng viên Báo QĐND)

Trong các đợt tấn công đó, Khmer Đỏ đã thực hiện thảm sát đối với người Việt Nam, một ví dụ là vụ thảm sát Ba Chúc vào tháng 4 năm 1978 với 3157 dân thường bị giết hại. Từ năm 1975 cho tới năm 1978, có tới 30 ngàn người Việt Nam bị Khmer Đỏ sát hại trong các cuộc tấn công dọc biên giới. Việt Nam cố gắng giải quyết cuộc xung đột một cách hòa bình thông qua đàm phán ngoại giao, nhưng Khmer Đỏ từ chối đàm phán, Trung Quốc không chịu làm trung gian hòa giải, còn Liên Hợp Quốc không có biện pháp gì phản hồi lại các phản đối của chính quyền Việt Nam về các hành động gây hấn của Khmer Đỏ. Việt Nam phải chuyển sang sử dụng vũ lực để giải quyết cuộc xung đột.
      Từ tháng 12 năm 1977 đến 14 tháng 6 năm 1978, hơn 30 vạn thường dân Việt Nam phải tản cư vào sâu trong nội địa, bỏ hoang 6 vạn ha đất sản xuất. Theo cuốn "Cuộc chiến tranh bắt buộc" của Đại tá Quân đội Nhân dân Việt Nam Nguyễn Văn Hồng, trong các trận đánh dọc biên giới trong giai đoạn này, Việt  Nam bị thương vong 8.500 bộ đội, trong đó số chết là gần 3.000 người.
       Ngày 13 tháng 12 năm 1978, được sự trang bị và hậu thuẫn của Trung Quốc, Khmer Đỏ đã huy động 19 trong 23 sư đoàn (khoảng 80.000 đến 100.000 quân) tiến công xâm lược Việt Nam trên toàn tuyến biên giới. Ba sư đoàn đánh vào Bến Sỏi với mục tiêu chiếm thị xã Tây Ninh, 2 sư đoàn đánh vào Hồng Ngự (Đồng Tháp), 2 sư đoàn đánh khu vực Bảy Núi (An Giang), 1 sư đoàn đánh Trà Phô, Tà Teng (xã Phú Mỹ huyện Giang Thành tỉnh Kiên Giang). Tại những vùng chiếm đóng, Khmer Đỏ đã thực hiện sách lược diệt chủng đối với người Việt, như đã làm với người Khmer.

                                  H 4 ill 639759 cambodia-phnom penh-1979-61.jpg
Quân đội Nhân dân Việt Nam tiến vào Phnom Penh năm 1979
 
      Quân đội Việt Nam đã chống trả quyết liệt và đã kìm chân bước tiến, đồng thời tiêu hao sinh lực của quân Khmer đỏ. Các hướng tiến quân của Khmer Đỏ bị chặn lại và không thể phát triển được. Ngoại trừ Hà Tiên bị chiếm giữ trong thời gian ngắn, không một thị xã nào của Việt Nam bị chiếm. Theo thống kê từ Việt Nam, từ tháng 6-1977 đến tháng 12-1978, họ đã tiêu diệt 38.563 quân Khmer đỏ, bắt sống 5.800 lính khác. Theo Tạp chí Time, quân Việt Nam tiến hành các cuộc không kích và giao tranh trên bộ, đánh vào các đơn vị quân Khmer Đỏ dọc biên giới nhằm làm suy yếu quân Khmer Đỏ trước khi quân Việt Nam bắt đầu chiến dịch đã tiêu diệt khoảng 17 ngàn quân Khmer Đỏ.
        Tới đầu tháng 12 năm 1978, quân đội Việt Nam được hỗ trợ bởi một số tiểu đoàn Khmer thân Việt Nam đã kiểm soát một vùng đệm dọc biên giới trong lãnh thổ Campuchia, từ Mimot đến Snuol ở các tỉnh Kampong Cham và Kratié. Ở phía Bắc, quân Việt Nam cũng kiểm soát một vùng rộng thuộc lãnh thổ Campuchia dọc theo đường 19. Ngày 23 tháng 12 năm 1978, sau khi được tăng viện, với 80.000 quân, quân đội Việt Nam đã tiến hành phản công trên toàn bộ mặt trận, đẩy lùi quân Khmer Đỏ. Sư đoàn 2 cùng trung đoàn chủ lực tỉnh Tây Ninh mở cuộc tấn công nhằm đánh bật các Trung đoàn 23 thuộc Sư đoàn 304 và Trung đoàn 13 thuộc Sư đoàn 221 của Campuchia ra khỏi các vị trí dọc theo tỉnh lộ 13 sát biên giới. Tuy nhiên chiến cuộc chưa chấm dứt, quân đội Việt Nam quyết định mở cuộc tấn công phòng ngừa vào Campuchia.

                                
        Những đại diện vùng đông bắc Campuchia, tháng 10-1977. Bu Thoong - người mặc sơmi trắng - sau này trở thành bộ trưởng quốc phòng Campuchia - Ảnh: tư liệu Trần Tiến Cung
                                 Kết quả hình ảnh cho Lính Khmer Đỏ bị thương
Cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam đã lùi xa nhưng chắc chắn nhiều người vẫn sẽ phải lạnh sống lưng khi đọc lại những toan tính thâm độc và rất phiêu lưu của tập đoàn Pol Pot năm nào.
                                  Kết quả hình ảnh cho cuộc chiến biên giới tây nam                                                   Bản đồ các mũi tiến công của QĐND Việt Nam tiêu diệt tập đoàn Pol Pot.

Hàng trăm binh sĩ Khmer Đỏ bị quân ta bắt khi chúng xâm lấn biên giới Việt Nam ở 2 huyện Bảy Núi và Tịnh Biên, tỉnh An Giang 19/1/1978
                                   Kết quả hình ảnh cho chiến trường k: hoang tưởng của pol pot                                                         Lính Khmer Đỏ bị thương trong các cuộc giao tranh ở biên giới. 
 
Sau khi đánh tan sức kháng cự của quân Khmer Đỏ, các lực lượng Việt Nam thuộc Quân khu 5 nhanh chóng hành tiến theo đường 19, sư đoàn 309 quét sạch tỉnh Ratanakiri, phía Bắc tỉnh Mondolkiri và tiến vào phía Bắc tỉnh Stung Treng. Sư đoàn 307 tiến theo đường 19, dùng cầu phao vượt sông Srepok và sông Mekong. Tới ngày 1 tháng 1 năm 1979, lực lượng Quân khu 5 tiến dọc sông Mekong chiếm được Stung Treng.
       Cùng thời gian, Sư đoàn 5 thuộc Quân khu 7 tiến từ hướng đông, cùng Sư đoàn 303 tiến theo hướng tây bắc từ Snuol cùng đánh vào Kratié do Sư đoàn 260 và 2 trung đoàn địa phương của đặc khu 505 phòng thủ. Các sư đoàn này gặp phải sức kháng cự quyết liệt từ phía quân Khmer Đỏ. Trong cuộc tiến quân, hai Tiểu đoàn 1 và 2 Trung đoàn 316 Sư đoàn 303 bị tập kích bất ngờ nên bị tiêu diệt. Trung đoàn này, cũng như Trung đoàn 33, sau một tháng hành quân, quân số hao hụt mất một nửa. 
       Các đơn vị quân Khmer Đỏ tấn công Sư đoàn 303 gây nhiều tổn thất và suýt chiếm được sở chỉ huy sư đoàn. Tuy nhiên, sau khi không chặn được quân Việt Nam, quân Khmer Đỏ phải rút lui, và tới ngày 29 tháng 12, thành phố Kratié rơi vào tay quân đội Việt Nam. Cùng lúc, Sư đoàn 302 tiến về phía Tây đã chiếm được Kampong Cham. Sau đó, hai Sư đoàn 302 và 303 cùng quay lại đánh chiếm thị xã Chhlong do Sư đoàn 603 Khmer Đỏ chống giữ. Ngày 4 tháng 1, họ chiếm được Chhlong. Kể từ lúc đó, toàn bộ lãnh thổ Campuchia ở phía đông sông Mekong coi như bị mất.
       Sáng ngày 31 tháng 12, được pháo binh bắn yểm trợ, xe tăng và bộ binh Quân đoàn 3 Việt Nam tiến công và nhanh chóng đánh tan 5 sư đoàn quân Khmer Đỏ trên toàn tuyến phòng thủ dọc theo biên giới ở tỉnh Kampong Cham. Tới cuối ngày, trừ sở chỉ huy quân Khmer Đỏ, toàn bộ các cứ điểm còn lại thất thủ, quân Khmer Đỏ rút chạy về thị trấn Kampong Cham ở bờ tây sông Mekong, bị quân Việt Nam truy kích ráo riết.
       Không quân Việt Nam cũng tham chiến, tấn công vào tuyến phòng thủ của Khmer Đỏ và ném bom phá hủy một sân bay mà từ đó máy bay T-28 Khmer Đỏ xuất kích ném bom vào các toán quân tiền phương Việt Nam. Sáng ngày 1 tháng 1 năm 1979, sau khi tập hợp lại lực lượng, Quân đoàn 3 đánh chiếm sở chỉ huy Khmer Đỏ sau một giờ giao chiến quyết liệt. Tướng Kim Tuấn hạ lệnh cho các đơn vị dưới quyền truy quét và tiêu diệt các lực lượng Khmer Đỏ còn sót lại. Tới ngày 3 tháng 1, Sư đoàn 320 đã tiến tới bờ đông của bến phà Kampong Cham bên bờ sông Mekong. Tại đây sư đoàn dừng lại, rồi dùng 2 đại đội xe bọc thép mở đường, đánh về phía nam chiếm thủ phủ tỉnh Prey Veng.

                                          anh cả Pônpốt - Pol Pot (/pɒl pɒt/; Khmer: ប៉ុល ពត; Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Campuchia;<br />Thủ tướng Chính phủ Campuchia Dân chủ,<br />kẻ chủ mưu tàn sát dân tộc Campuchia và trực tiếp gây ra cuộc chiến tranh<br />biên giới Tây - Nam, giết hại đồng bào Việt Nam tại biên giới.
                        Pônpốt - Pol Pot (/pɒl pɒt/; Khmer: ប៉ុល ពត; 19/05/1925 – 15/04/1998)
  • Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Campuchia;
  • Thủ tướng Chính phủ Campuchia Dân chủ
  • Kẻ chủ mưu tàn sát dân tộc Campuchia và trực tiếp gây ra cuộc chiến tranh biên giới Tây - Nam, giết hại đồng bào Việt Nam tại biên giới.
  • Biệt danh anh Cả Khmer Đỏ
  • Người Khmer gốc Hoa
                                              anh Hai Nuon Chea Khmer: នួន ជា Lau Ben Kon 劉平坤 Lưu Bình Khôn
                                                  Nuon Chea (Khmer: នួន ជា; 07/07/1926).
  • Phó tổng bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Campuchia;
  • Biệt danh anh Hai Khmer Đỏ
  • Người Khmer gốc Hoa, tên tiếng Hoa là Lau Ben Kon 劉平坤 Lưu Bình Khôn
                                              anh ba Ieng Sary Khmer: អៀង សារី - Phó Thủ tướng; Bộ trưởng Ngoại giao chế độ Khmer đỏ<br /> Thạch Rẹm, Kim Trang. Con ông Thạch Trân (Kim Riem - người Khmer Nam Bộ) và bà Trần Thị Lợi (người Việt lai Hoa)
                                       Ieng Sary (Khmer: អៀង សារី; 24/10/1925 – 14/03/2013)
  • Phó Thủ tướng; Bộ trưởng Ngoại giao chế độ Khmer đỏ
  • Biệt danh anh Ba Khmer Đỏ
  • Tên khác là Thạch Rẹm, Kim Trang. Con ông Thạch Trân (Kim Riem - người Khmer Nam Bộ) và bà Trần Thị Lợi (người Việt lai Hoa), sinh ở xã Lương Hòa, huyện Châu Thành, tỉnh Trà Vinh.
                                                      Ta Mok 塔莫 Khmer: តាម៉ុក; tên lúc nhỏ Chhit Choeun- Tổng Tư lệnh mặt trận Đông - Nam quân đội Khmer đỏ.
             Ta Mok 塔莫 (Khmer: តាម៉ុក; tên lúc nhỏ Chhit Choeun 切春 Thiết Xuân, 1926 – 21/07/2006)
  • Tổng Tư lệnh mặt trận Đông - Nam quân đội Khmer đỏ.
  • Tổng tư lệnh quân đội
  • Biệt danh anh Tư, Đồ Tể
  • Người Khmer gốc Hoa. Tên tiếng Hoa là Ta Mok 塔莫 Tháp Mạc, có thể là cách gọi của 莫爺 Mạc Gia, ông Mạc, (thằng) cha họ Mạc.
                                                Khieu Samphan(tiếng Khmer: ខៀវ សំផន
                                       Khieu Samphan (tiếng Khmer: ខៀវ សំផន; sinh năm 1931)
  • Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Campuchia Dân chủ
  • Biệt danh anh Năm
  • Người Khmer gốc Hoa. Tên tiếng Hoa là 乔森潘 Kiều Sâm Phan.
                                   Duch hoặc 康克由 Khang Khắc Do Khang Khek Ieu, Kaing Guek Eav 江玉耀  Giang Ngọc Diệu (កាំង ហ្គេកអ៊ាវ), còn gọi là Đồng chí D[e]uch (មិត្តឌុច); hay Hang Pin Chỉ huy nhà tù Tuol Sleng giết hại 16.000 tù nhân Campuchia
                                                   Duch (sinh 17 tháng 11 năm 1942)
  • Chỉ huy nhà tù Tuol Sleng giết hại 16.000 tù nhân Campuchia
  • Người Khmer gốc Hoa, tên tiếng Hoa là Khang Khek Ieu, Kaing Guek Eav 康克由 Khang Khắc Do hoặc 江玉耀 Giang Ngọc Diệu (កាំង ហ្គេកអ៊ាវ), còn gọi là Đồng chí D[e]uch (មិត្តឌុច); hay Hang Pin
                                 Nhà mồ Ba Chúc, thuộc xã Ba Chúc, huyện Bảy Núi, tỉnh An Giang
                             Nhà mồ Ba Chúc, thuộc xã Ba Chúc, huyện Bảy Núi, tỉnh An Giang
                                    Thiết giáp chở quân M-113 - thiết vận xa M-113
                                            Thiết giáp chở quân M-113 - thiết vận xa M-113
                                    Xe tăng lội nước Type-63, do Trung quốc chế tạo, tuy nhiên Việt Nam thường gọi chung loại này là PT-85.
Xe tăng lội nước Type-63, do Trung quốc chế tạo, tuy nhiên Việt Nam thường gọi chung loại này là PT-85.
                                   A-37 Dragonfly là máy bay cường kích phản lực hạng nhẹ 2 động cơ với tổ bay hai người
             A-37 Dragonfly là máy bay cường kích phản lực hạng nhẹ 2 động cơ với tổ bay hai người.
                                   trực thăng quân sự đa năng Bell UH-1 Iroquois UH-1 Huey UH-1A
                              Trực thăng quân sự đa năng Bell UH-1 Iroquois UH-1 Huey UH-1A
                                   61-K (tiếng Nga: 37-мм автоматическая зенитная пушка образца 1939 года (61-К)) là một loại pháo phòng không có cỡ nòng 37 mm do Liên Xô sản xuất từ năm 1939
       61-K (tiếng Nga: 37-мм автоматическая зенитная пушка образца 1939 года (61-К)) là một loại pháo phòng không có cỡ nòng 37 mm do Liên Xô sản xuất từ năm 1939

      Trong thời gian đó, ngày 28 tháng 12, ở hạ lưu đồng bằng sông Mekong, lực lượng Khmer Đỏ thuộc Quân khu Đông Nam mở cuộc tấn công phòng ngừa dọc biên giới. Quân Khmer Đỏ tiêu diệt một số đơn vị Quân khu 9 bảo vệ biên giới và chiếm một vùng rộng lãnh thổ Việt Nam dọc theo kênh Vĩnh Tế. Cuộc tấn công này làm cho tình hình Quân đoàn 2 của tướng Nguyễn Hữu An trở nên rất khó khăn. Quân Khmer Đỏ đã chiếm được khu vực đầu cầu mà Quân đoàn 2 và lực lượng Quân khu 9 định dùng để tiến vào Campuchia, đồng thời giành được một chiến lũy tự nhiên cản đường tiến của quân Việt Nam.
        Sau khi nhận được sự chấp thuận từ Bộ chỉ huy, sáng ngày 31 tháng 12, sư đoàn 4 của Quân khu 9 và Trung đoàn 9 của Sư đoàn 304 phối thuộc mở cuộc phản công. Sau 24 giờ giao tranh kịch liệt, quân Việt Nam đã đánh lui quân Khmer Đỏ khỏi bờ tây kênh Vĩnh Tế. Chiều ngày 1 tháng 1, được pháo binh và không quân yểm trợ, Lữ đoàn công binh 219 thuộc Quân đoàn 2 bắc cầu phao vượt sông. Sư đoàn 304 và Lữ đoàn xe bọc thép 203 mở đường tiến vào đất Campuchia. Tới trưa ngày 3 tháng 1, Quân đoàn 2 và Quân khu 9 đã tiêu diệt hoặc đánh tan tất cả các lực lượng Khmer Đỏ ở hạ lưu sông Mekong dọc biên giới. Sở chỉ huy Quân khu Tây Nam của Khmer Đỏ phải rút về Takéo.
     Sau ba ngày tấn công, tại hướng chủ yếu Tây Ninh, Quân đoàn 4 với sự yểm trợ của không quân, trực thăng, pháo binh, hải quân, thiết giáp... quân Việt Nam đánh bật được quân Khmer Đỏ khỏi các vị trí Năm Căn, Hòa Hội dọc theo tỉnh lộ 13, và các đơn vị của các Sư đoàn 703, 340, 221 của Khmer Đỏ phải rút về thành lập một tuyến phòng thủ mới tại Svay Rieng, tập trung ở cầu Don So.
Được 15 xe tăng và xe bọc thép mở đường, cùng với pháo 105mm, 155mm bắn yểm trợ, Sư đoàn 7 của Quân đoàn 4 mở cuộc tấn công vào quân Khmer Đỏ ở Don So. Tuy nhiên sau hai ngày giao chiến với nhiều tổn thất, Sư đoàn 7 vẫn chưa chọc thủng được tuyến phòng phủ của Khmer Đỏ. Tới đêm ngày 1 tháng 1, tướng Hoàng Cầm hạ lệnh cho Sư đoàn 7 tung hết lực lượng dự bị vào trận.
       Quân Khmer Đỏ kháng cự dữ dội, nhưng sau khi bị đánh thua ở Tây Ninh, quân Khmer Đỏ đã bị mất tinh thần, hơn nữa, do phải chấp nhận một trận đánh quy ước với một địch thủ có hoả lực, quân số và kinh nghiệm chiến trường trội hơn quá nhiều, nên quân Khmer Đỏ bị tan rã. Tuyến phòng thủ Svay Rieng bị vỡ ngày 2 tháng 1 năm 1979, quân Khmer Đỏ phải rút về Prey Veng và Neak Luong, chỉ để lại một số đơn vị đánh cầm chân Quân đoàn 4.
      Tới ngày 2 tháng 1 năm 1979, quân đội Việt Nam đánh tan các sư đoàn chủ lực của Khmer Đỏ án ngữ các trục đường số 1, 7 và 2 ở lối vào Phnom Penh. Chiều ngày 3 tháng 1, Sư đoàn 7 chiếm được cầu Don So và tới ngày 4 tháng 1 đã làm chủ toàn bộ vùng phía đông sông Mekong. Tới ngày 5 tháng 1, Sư đoàn 7 tiến đến Neak Luong.
       Ngày 6 tháng 1, các đơn vị Việt Nam vượt sông Mekong qua ngả Neak Luong và bắc Kompong Cham. Chín sư đoàn quân Việt Nam làm thành hai gọng kìm tiến vào Phnom Penh từ phía Đông Nam và phía Bắc: Sư đoàn 7 và Sư đoàn 2 di chuyển theo quốc lộ 1, Sư đoàn 9 tiến song song bảo vệ sườn phía nam và Sư đoàn 341 bảo vệ sườn phía bắc. Một toán đặc công nhảy dù xuống Phnom Penh để giải cứu Hoàng thân Sihanouk nhưng bị Khmer Đỏ phát hiện và tiêu diệt hết, chỉ duy nhất một người sống sót.
       Tại Kompong Cham, Quân đoàn 3 của tướng Kim Tuấn cũng giao tranh quyết liệt với quân Khmer Đỏ để vượt sông. Quân Khmer Đỏ thiết lập trận địa phòng ngự dọc bờ tây sông Mekong với nhiều ổ súng máy, súng cối bắn trùm lên mặt sông để ngăn thuyền chở quân Việt Nam đổ bộ. Xa hơn một chút, quân Khmer Đỏ bố trí xe tăng, xe bọc thép, pháo 105mm, 122mm và 155mm để bắn vào quân Việt Nam đang tập trung ở bờ đông sông Mekong. Đêm ngày 5 tháng 1, một toán quân gồm lính trinh sát, công binh và bộ binh định vượt qua bờ sông chiếm một đầu cầu nhỏ, nhưng quân Khmer Đỏ đánh bật họ lại. Tướng Kim Tuấn quyết định dùng hỏa lực áp đảo bắn vào trận địa phòng thủ của quân Khmer Đỏ, rồi cho thả khói mù, dùng thuyền chuyển quân sang bờ tây. Mặc dù rất nhiều thuyền bị trúng đạn của quân Khmer Đỏ, Quân đoàn 3 cuối cùng cũng đã thiết lập được một đầu cầu. Một đại đội xe lội nước vượt sông và tỏa ra để đánh vào thị trấn; 2 tiểu đoàn bộ binh cũng vượt được sông, đến 8:30 sáng, Kampong Cham thất thủ.
 
                                                       

Điểm danh đồng đội 
 
 Hãy sắp hàng vào cho tao điểm danh 
Những thằng lính ở miền xa rất trẻ 
Hãy sắp hàng vào để nghe tao kể. 
Chuyện đánh nhau và chuyện... yêu nhau 
A! Có thằng nào còn mang băng trắng trên đầu 
Tiến một bước, nếu thấy còn chỗ trống 
Đừng băn khoăn nếu có thằng hi sinh và thằng... 
chạy trốn 
Còn lại tụi mình thì vẫn cứ thương nhau 
Hãy vì nhau mà đừng để lòng sầu 
Bởi cái chết chẳng thể nào tự đến  
Đêm vượt Mê-kông có thằng nào ngờ tới bến 
Nhưng vẫn qua rồi lại... vẫn qua 
Thằng Vinh, thằng Hùng, thằng Dũng đi xa 
Cho những Thắng, những Thân vào đội ngũ 
Khi ở Sài Gòn bọn đỏ đen bày trò ăn thua đủ 
Thì tụi mình nhịn khát hành quân 
Có thằng mới từ thành phố lên khóc vì rộp bàn chân 
Lâu cũng quen và tự chê mình yếu đuối 
Giặc bao vây mỗi thằng được dành dăm quả cối 
Vài trái B.40 và hàng ngàn đạn AK 
Bình yên thì xa và chiến tranh thì gần trong ngón tay cò súng 
Vì chẳng thể bỏ nhau nên tụi mình mưu dũng 
Hết khói đạn rồi điểm mặt vẫn đủ tên 
Có thể có thằng cho đó là điều hên 
Mà số phận chẳng thằng nào biết được 
Cha mẹ nhớ thương con, người yêu nhớ người yêu - phía trước 
Còn tụi mình nhớ nhất số quân 
Mất hay còn chỉ là một dấu chân 
Trên bãi cát băng từ của cô nhân viên điện toán 
Tụi mình sống với nhau có phút nào thấy chán 
Những gương mặt phong trần mà rất đỗi dễ thương 
Lính 76, lính 78, lính 80 rồi cũng bình thường 
Cũng là lính với trái tim tràn nỗi nhớ 
Hãy để chỗ sâu lắng trong tim trong những thằng xanh cỏ 
Tụi mình còn mắc nợ đời, mắc nợ với nhau 
Hành quân điểm danh không có trực ban báo cáo 
Không có Có, không có Vắng, chỉ có tiếng cười 
Rồi tụi mình ôm nhau cho rõ mặt bạn đời 
Dẫu có đứa chưa từng ôm một người con gái 
Chưa từng yêu nên nói chuyện tình yêu: nói đại 
Thằng nào không tin cứ về thành phố kiểm tra 
Bị phát hiện bèn mở miệng cười khà: 
- Tao không biết thì rồi tao sẽ biết 
Và mầy hi sinh không còn thời gian để biết 
Ai sẽ tiếc thương mầy ngoài đồng đội, mẹ cha 
Điểm danh xong hãy uống ít đế và ca 
Những bài lý mênh mông mùa nước lớn 
Xuống câu xề trầm hơn tiếng nấc 
Và khua bình-tông khi hát nhạc trẻ, nhạc già 
Hát múa cho đã đi rồi vào uống trà 
Để chống ngủ vì đêm còn phải gác 
Tụi mình sinh ra vào thời trận mạc 
Nên núi rừng bè bạn có sao đâu 
Nên sương gió tụi mình dãi dầu 
Mặc áo lính phải sống cho ra là lính 
        
 Ni-mít, tháng 3-1981 
 
                                Tác giả: Phạm Sĩ Sáu
 
       Ngay trong sáng ngày 6 tháng 1, lực lượng đột kích Phnom Penh, gồm Trung đoàn 28 của Sư đoàn 10 và các đơn vị phối thuộc, dẫn đầu bởi 6 xe lội nước và một số xe thiết giáp M-113 vượt sông, tổng cộng lực lượng lên đến 120 xe quân sự. Lực lượng đột kích vừa hành quân vừa giao chiến với các ổ phục kích của quân Khmer Đỏ, tới chiều tối đã tới bờ sông Tonglé Sap và tổ chức đánh vượt sông để tiến vào Phnom Penh.
      Trong khi đó, ngày 6 tháng 1 năm 1979, những đơn vị đầu tiên của Sư đoàn 7 Quân đoàn 4 được 1 tiểu đoàn UFNSK hỗ trợ chiếm được bờ phía đông của bến phà Neak Luong. Quân Campuchia trong khi rút lui vội vã đã không kịp thiết lập công sự phòng thủ. Trong đêm, cách bến phà khoảng hai cây số về phía nam, Trung đoàn 113 cùng Trung đoàn 14 của Sư đoàn 7 được tàu đổ bộ đưa sang bên kia sông, tiến chiếm bờ phía tây của bến phà. Ngày 7 tháng 1, toàn bộ đội hình Quân đoàn 4 tiến hành vượt sông. Do sự tan rã nhanh chóng của lực lượng phòng thủ biên giới và sự chủ quan của Pol Pot, quân đội Việt Nam tiến vào Phnom Penh từ Neak Luong mà không gặp sức chống cự đáng kể nào. Trưa ngày 4 tháng 1, Quân đoàn 4 đã có thể bắt tay với Quân đoàn 3 ở ngoại ô phía bắc Phnom Pênh. Tuy nhiên Quân đoàn 3 đã đến muộn, không kịp chặn đường Chính phủ Polpot rút chạy khỏi Phnom Penh.
       Việc quân Việt Nam tiến quá nhanh khiến cho Khmer Đỏ chỉ kịp sơ tán bộ máy lãnh đạo. Son Sen chạy xuyên qua mặt trận ngược về phía Việt Nam để tập hợp tàn quân của các sư đoàn thuộc quân khu miền Đông. Pol Pot, Nuon Chea và Khieu Samphan được vài xe Jeep chở quân bảo vệ chạy về Pursat. Ieng Sary chạy về Battambang trên một chuyến xe lửa đặc biệt chở vài trăm nhân viên Bộ ngoại giao. Việc rút lui khẩn khiến nhiều Bộ khác cùng hàng ngàn nhân viên không được thông báo về cuộc rút lui. Các chuyến xe tiếp theo sơ tán Phnom Penh bị tắc nghẽn bởi quá nhiều người tìm cách bỏ chạy. Như vậy với việc ban lãnh đạo sơ tán, khoảng 40 ngàn dân chúng và binh lính Khmer Đỏ tại Phnom Penh, cũng như các đơn vị quân phòng thủ các mục tiêu lân cận bị bỏ mặc tự thân vận động.
        Ngày 7 tháng 1, quân Việt Nam chiếm sân bay Kampong Chonang và bắt được mười máy bay A-37, ba C-123K, sáu C-47, ba Alouette III cùng một số T-28. Ngoài ra Khmer Đỏ cũng bỏ lại hàng trăm xe tăng và xe bọc thép, rất nhiều đạn dược và lương thực dự trữ chiến lược mà họ không kịp mang theo.
       Ngày 8 tháng 1, Hội đồng Nhân dân Cách mạng Campuchia do Heng Samrin làm Chủ tịch đã được thành lập với sự hậu thuẫn của Việt Nam.
     Ở phía Bắc, các sư đoàn của Quân đoàn 3 cũng tiến xuống Phnom Penh, sau đó Sư đoàn 320 theo quốc lộ 4 xuống bình định các tỉnh phía nam. Các sư đoàn còn lại theo các quốc lộ 5 và 6 tiến về hướng Tây và hướng Bắc. Họ gặp sức chống cự đáng kể của quân Khmer Đỏ tại Battambang và Siem Reap.
       Tại mặt trận phía nam, từ An Giang, quân Việt Nam bắt đầu vượt biên giới vào ngày 3 tháng 1 năm 1979 và tấn công theo hai hướng. Hướng thứ nhất, Sư đoàn 325 và Sư đoàn 8 tiến về phía Tây, dọc theo quốc lộ số 2. Ngày 5 tháng 1 năm 1979, trong khi lực lượng Quân khu 9 tiến đánh Takéo, sư đoàn 325 bắt đầu hành tiến theo hướng Tây Bắc. Lực lượng Khmer Đỏ của Quân khu Tây Nam do Ta Mok chỉ huy khét tiếng cuồng tín đã chuẩn bị công sự phòng thủ ở Tuk Meas trên đường 16, ở khoảng giữa biên giới và Chhuk. Phải mất hai ngày giao chiến, Sư đoàn 325 mới có thể đánh tan tuyến phòng ngự của Khmer Đỏ và chiếm được khu vực Tuk Meas. Cùng lúc đó tướng Nguyễn Hữu An cũng tung Sư đoàn 8 theo hướng tây để đánh chiếm quận lỵ Kampong Trach, nằm ở giao điểm với đường quốc lộ ven biển.
image
      Đó là một cuộc chiến mà quân đội Việt Nam, lúc đầu được triển khai như những vị cứu tinh nhưng ngay sau đó lại bị xem là những kẻ xâm lược, đã trả một cái giá cao ngất về nhân mạng trong một cuộc chiến du kích tàn khốc kéo dài cả chục năm.
 
image
Khmer Đỏ đã đẩ̀y hàng triệu người dân Campuchia đến chỗ chết
Việt Nam bắt đầu đưa quân vào Campuchia vào cuối tháng 12 năm 1978 để lật đổ Pol Pot. Hai triệu người Campuchia đã chết dưới tay Khmer Đỏ.

image
Đơn vị của ông Hiếu đã truy đuổi quân Khmer Đỏ đến biên giới với Thái Lan. Ông nhớ lại ông đã nhìn thấy người dân Campuchia nằm chết đói bên vệ đường.

image
Việt Nam không muốn lãng quên hoàn toàn cuộc chiến với Campuchia, ông Nhân nói, mà Việt Nam chỉ muốn nhớ cuộc chiến này như là một cuộc tấn công thần tốc, thắng lợi để lật đổ Pol Pot.
image
“Đôi khi tôi nghĩ rằng những người đã chết là may mắn. Họ đã yên nghỉ. Còn chúng tôi phải sống khổ mỗi ngày. Chúng tôi vẫn phải tiếp tục sống.”


Nắm quyền chỉ huy trực tiếp trung đoàn xung kích 24, tướng Nguyễn Hữu An dẫn trung đoàn tiến từ Tuk Meas về Chhuk. Các quân xa của Việt Nam gồm xe tăng hạng nặng, xe tải và trọng pháo di chuyển khó khăn trên đường đất và ruộng lúa nên đã bị quân Khmer Đỏ phục kích phá hủy một số xe và pháo, sở chỉ huy của tướng An cũng bị tổn thất và tạm thời mất liên lạc với các lực lượng còn ở phía sau. Tới chiều ngày 7 tháng 1, lực lượng xung kích đã ra đến đường số 3, và trong quá trình tiến công đã đánh tan sư đoàn quân Khmer Đỏ phòng ngự Chhuk.
Trong hai ngày 4, 5 tháng 1 năm 1979, từ đảo Phú Quốc, hai phân đội Hải quân Việt Nam gồm một số tàu tuần tiễu loại lớn của Mỹ, hai tàu khu trục Petya của Nga, cùng nhiều tàu chiến nhỏ chuẩn bị chuyển Lữ đoàn Hải quân 101 và 126 đổ bộ. Hải quân cũng lập trận địa pháo 130mm ở mũi đảo Phú Quốc để yểm trợ cho lực lượng đổ bộ.
Sẩm tối ngày 6 tháng 1, toán quân đặc công gồm 87 người bí mật đổ bộ và tấn công chiếm một trận địa pháo Khmer Đỏ bảo vệ bờ biển, cùng lúc, pháo 130mm bắt đầu bắn phá các vị trí quân Khmer Đỏ. Lập tức các thuyền tuần tiễu loại nhỏ của Khmer Đỏ xuất kích từ quân cảng Ream và các bến cảng nhỏ tấn công vào Hải quân Việt Nam. Sau một trận giao chiến trên biển, do có ưu thế về số lượng và hỏa lực, Hải quân Việt Nam đẩy lùi hoặc đánh chìm hầu hết các tàu Khmer Đỏ, nhưng một tàu của Việt Nam cũng bị trúng đạn, khiến nhiều thủy thủ bị thương vong. Số tàu phóng lôi Khmer Đỏ chạy thoát khỏi cuộc hải chiến và các cuộc không kích của không quân Việt Nam, đến ngày 16 tháng 1 lại bị Hải quân Việt Nam chặn đánh trong vịnh Thái Lan và bị tiêu diệt gần hết.
Tối ngày 7 tháng 1, Lữ đoàn hải quân đánh bộ 126 tiến hành đổ bộ ở chân núi Bokor, nằm ở khoảng giữa thị xã Kampot và cảng Sihanoukville. Lữ đoàn đổ bộ được toàn bộ 3 tiểu đoàn và số xe lội nước, xe bọc thép, nhưng do thủy triều lên cao, không có đủ chỗ triển khai đội hình, nên không đổ bộ được số xe tải, và đến tối, 3 tiểu đoàn nữa theo dự định cũng sẽ đổ bộ lại phải rút ra ngoài.

image
Người lính Nguyễn Thành Nhân ở hàng ngồi thứ hai từ trái qua


image
Ngày nay, nhiều người ở Campuchia vẫn muốn quên rằng Việt Nam đã cứu đất nước của họ khỏi cuộc cách mạng tàn ác của Pol Pot.
Cứ mỗi vài tháng, một hội cựu chiến binh tham chiến ở Campuchia lại gặp gỡ ở Thành phố Hồ Chí Minh.

     Theo kế hoạch, lực lượng Hải quân đánh bộ phải triển khai một lực lượng lớn, theo vùng ven biển đánh chiếm cùng lúc hai cây cầu quan trọng và giao điểm Veal Renh dẫn về bán đảo Kampong Som. Tuy nhiên, một chỉ huy lực lượng lính thủy đánh bộ do nóng vội, đã tập hợp tiểu đoàn của mình, chở trên 12 xe tăng và xe bọc thép tiến về Sihanoukville trước khi trời sáng. Đơn vị này bị một lực lượng lớn Khmer Đỏ vây đánh từ chiều, qua đêm đến suốt ngày hôm sau và cuối cùng bị tiêu diệt gần như hoàn toàn. Đến đêm ngày 7 tháng 1, Hải quân mới đổ bộ thêm được 3 tiểu đoàn của Lữ đoàn 126 và 2 tiểu đoàn của Lữ đoàn 101 lên bãi biển, nhưng số xe tải phải đến ngày 8 tháng 1 mới lên bờ được.
         Sư đoàn 304 vốn được dùng làm dự bị để tham gia đánh về Phnom Penh, nhưng do Quân đoàn 3 và 4 đã đánh được Phnom Penh từ ngày 7 tháng 1, nên tướng An dùng sư đoàn này để nhanh chóng giải cứu lực lượng lính thủy đánh bộ và đánh chiếm Sihanoukville. Dẫn đầu bởi một đơn vị xe M-113, Trung đoàn 66 của sư đoàn, kế tiếp là Trung đoàn 9 hành quân suốt đêm ngày 9.
       Ngày 9 tháng 1, Trung đoàn 66 sau khi gặp lực lượng Hải quân đánh bộ, chuẩn bị giao chiến: không lặp lại sai lầm của Hải quân, Trung đoàn 66 tổ chức chiếm cao điểm xung quanh thành phố trước khi phối hợp với hải quân đánh bộ đánh vào thành phố. Sau khi đánh tan được Sư đoàn 230 Campuchia, quân Việt Nam chiếm được Kampot. Trung đoàn 9 không đến kịp vì một cây cầu sụp đổ khi xe tăng dẫn đầu trung đoàn đi qua. Khi Trung đoàn 9 và Lữ đoàn xe tăng 203 đến thành phố thì Kampot đã rơi vào tay quân Việt Nam, nên lực lượng này được đưa đi đánh quân cảng Ream. Được sự trợ lực của pháo hải quân bắn từ bến cảng lên, cánh quân này chiếm được quân cảng Ream và hải cảng Kampong Som. Tuy nhiên, vì không chuẩn bị kịp về tiếp liệu, quân Khmer Đỏ đã có thể phản công chiếm lại Kampong Som ngày 14 tháng 1, nhưng quân Việt Nam tái chiếm lại vào ngày hôm sau.
     Hướng thứ hai, Quân khu 9 phụ trách, tiến về phía Bắc đánh chiếm hai thị xã Tan và Takéo. Các sư đoàn Khmer Đỏ trấn giữ quân khu Tây Nam như Sư đoàn 2, 210, 230, 250, bị tan rã và rút lui vào rừng.
Cuối tháng 1 năm 1979 cuộc phản công kết thúc thắng lợi. Đến ngày 17 tháng 1 thị xã cuối cùng là Ko Kong rơi vào tay quân đội Việt Nam và chính quyền mới của Campuchia. Cho tới cuối tháng 3, quân đội Việt Nam coi như chiếm được hết những thành phố và tỉnh lỵ quan trọng của Campuchia và tiến sát tới biên giới Thái Lan. Tuy nhiên tàn quân Pol Pot vẫn tiếp tục chống cự và quấy nhiễu, gây ra nhiều thương vong cho quân đội Việt Nam đồn trú tại Campuchia.
      Trên chiến trường Campuchia, vì quân Việt Nam tiến quá nhanh chóng, nên quân Khmer Đỏ chỉ bị tan rã chứ chưa bị tiêu diệt hẳn. Nhiều đơn vị đã tập trung lại thành những đơn vị nhỏ, tiếp tục đánh du kích và quấy phá.








                                  Photo Sharing and Video Hosting at Photobucket
     Xương người và sọ người được cất giữ đền tưởng niệm nạn nhân bị Khmeđỏ thảm sát tại Ba Chúc

      Sau khi Quân đoàn 4 chiếm được Phnom Penh, các đơn vị của Quân đoàn 3, Quân khu 5 và Quân khu 7 cũng vượt sông Mekong tiến chiếm và bình định lãnh thổ phía bắc Biển Hồ và sông Tonlé Sap. Quân Khmer Đỏ đã cố gắng kháng cự gần tỉnh Battambang nhưng cũng chỉ có thể làm chậm đà tiến quân của Việt Nam. Họ đã phân tán thành nhiều đơn vị nhỏ tiếp tục đánh du kích.
      Quân đoàn 2 và các sư đoàn của Quân khu 9 sau khi chiếm được vùng duyên hải cũng tiến dọc theo quốc lộ 4 về hướng Bắc. Mấy ngày sau khi Trung Quốc tiến đánh biên giới Việt-Trung, Quân đoàn 2 rút về bảo vệ Hà Nội. Việt Nam bắt đầu tổng động viên, một số các trung đoàn độc lập được tăng cường lên thành cấp sư đoàn, như các trung đoàn Gia Định 1 và 2, Quyết Thắng 1 và 2, trở thành các Sư đoàn 317, 318 để gửi sang tăng cường mặt trận Campuchia. Trách nhiệm chính trong công tác hành quân vẫn là các đơn vị của Quân đoàn 4.
     Ngày 8 tháng 1, Sư đoàn 10 theo lệnh của tướng Kim Tuấn thực hiện cuộc hành quân chớp nhoáng truy kích quân Khmer Đỏ. Tới ngày 9, Trung đoàn 24 đã chiếm được Kampong Thom, Trung đoàn 26 cũng đã kiểm soát được đường 6 nối Kampong Thom và Phnom Penh, Trung đoàn 66 được lệnh vượt lên trước hai đơn vị này đánh chiếm thành phố Siem Reap ở phía tây bắc biển hồ Tongle Sap. Dùng 36 xe tải chở quân, được xe tăng yểm trợ, trung đoàn nhanh chóng hành quân, tiến được 100 km chỉ trong vòng 2 giờ, đồng thời đánh tan các trạm kiểm soát của Khmer Đỏ dọc đường. 
      Trên đường đi, một đoàn xe chở quân Khmer Đỏ cũng nhập vào đội hình trung đoàn do tưởng nhầm là tàn quân Khmer Đỏ tháo chạy. Do trời tối, không ai phát hiện ra sự nhầm lẫn này. Mãi đến khi hai bên nhận ra nhau thì một trận đánh khốc liệt mới nổ ra, quân Việt Nam tiêu diệt và chiếm toàn bộ đoàn xe gồm 23 xe tải chở quân Khmer Đỏ. Rạng sáng ngày 10, quân Việt Nam đến Siem Reap, quân Khmer Đỏ bị bất ngờ, phải tháo chạy ra bốn phía. Tới khi trời tối thì Trung đoàn 24 thuộc Sư đoàn 10 và Sư đoàn 5 của Quân khu 7 cũng đã tới nơi.

image
Đài tưởng niệm những người lính Việt Nam ở Phnom Penh
  image
        Tro cốt của những ngườ lính Việt Nam cũng được đem về nước khi Việt Nam rút quân khỏi Campuchia
 
      Ngày hôm sau, Trung đoàn 24 lại hành quân 100 km nữa đánh chiếm thị xã Sisophon nằm cách biên giới Thái Lan 50 km. Ngày 12 tháng 1, (sau khi trao lại thị xã cho lực lượng Quân khu 5) trung đoàn 24 một tiểu đoàn của Trung đoàn 66 cùng một đại đội xe M-113, pháo phòng không và trọng pháo theo theo đường 5 phía nam Sisophon đánh vào các lực lượng Khmer Đỏ đang tập trung về Battambang và chiếm thành phố ngay trong ngày hôm đó.
      Ngày 13 tháng 3 năm 1979, tướng Kim Tuấn di chuyển Bộ chỉ huy Quân đoàn 3 đến Battambang để trực tiếp chỉ huy chiến dịch truy quét tàn quân Pol Pot tập trung ở vùng tây nam gần biên giới Thái Lan. Ba ngày sau, ông rời Battambang để đi Siem Reap, trên đường đi khoảng 40 km về hướng bắc Battambang, đoàn xe của ông bị Khmer Đỏ phục kích. Mặc dù lực lượng phục kích bị đè bẹp, chiếc com-măng-ca thứ 3 có Tư lệnh Kim Tuấn ngồi bên cạnh người lái xe bị trúng đạn M79 khiến ông bị thương nặng vùng cột sống và mất ngày hôm sau, ngày 17 tháng 3. Ông là sĩ quan cao cấp nhất của Quân đội Nhân dân Việt Nam hy sinh khi tham chiến ở Campuchia. Ba tháng sau, tháng 6 năm 1979, Quân đoàn 3 của ông rời Campuchia để tham gia phòng thủ biên giới phía bắc với Trung Quốc.
      Trận đánh quan trọng đầu tiên trong chiến dịch bình định diễn ra tại Kampong Speu, nằm trên quốc lộ 4 nối hải cảng Kampong Som với Phnom Penh, cách Phnom Penh khoảng 50 km. Thị xã này, sau khi quân Khmer Đỏ di tản vội vã, do Trung đoàn 10 thuộc Sư đoàn 339 Việt Nam chiếm đóng. Nhưng ít ngày sau, các lực lượng còn lại của các Sư đoàn 703, 340, 221 từ tuyến phòng thủ Svay Rieng chạy về đã tập trung lại và dự định tái chiếm thị xã. Được tin, Bộ tư lệnh Quân đoàn 4 điều động Sư đoàn 341 đến tăng cường. Trận đánh bắt đầu ngày 21 tháng 1 năm 1979 đến ngày 7 tháng 2 mới kết thúc. Dù bị tổn thất nặng, quân Việt Nam vẫn giữ được Kampong Speu, các lực lượng của 3 sư đoàn Campuchia bị tan rã, chỉ còn là những nhóm nhỏ hoặc tiếp tục đánh du kích, hoặc rút về biên giới Thái Lan.
      Giữ vững được Kampong Speu, bảo đảm được giao thông trên quốc lộ 4, quân Việt Nam tiến đánh căn cứ Amleng, nơi mà bộ chỉ huy quân sự của Pol Pot từ Phnom Penh rút về trú đóng. Căn cứ này nằm trong một vùng rừng núi hiểm trở, cách Phnom Penh khoảng 100 km về phía tây nam. Lực lượng tấn công gồm Sư đoàn 2, Sư đoàn 7, Sư đoàn 9, Sư đoàn 341 của Quân đoàn 4, được tăng cường thêm Sư đoàn 5 của Quân khu 7. Vì lực lượng tấn công quá hùng hậu, quân Khmer Đỏ rút lui, bỏ lại căn cứ Amleng, nhưng họ tìm đủ cách để gây khó khăn và tổn thất cho quân Việt Nam khi họ rút lui khỏi căn cứ bằng đủ mọi cách như phục kích, bắn tỉa, gài mìn, đốt rừng...
      Chiếm xong được Amleng, quân Việt Nam mở chiến dịch đánh chiếm thị xã Leach. Leach là một thị xã nhỏ nằm gần quốc lộ số 5 là con đường từ Phnom Penh đi Battambang, cách biên giới Thái Lan khoảng 80 km. Trước ngày 7 tháng 1, Leach được Khmer Đỏ sử dụng làm căn cứ tiếp liệu. Sau khi Phnom Penh thất thủ, khi quân Việt Nam chưa có đủ thì giờ để chiếm đóng hết các vị trí, Khmer Đỏ dự định biến Leach thành một căn cứ phản công. 
      Một phần lớn những lực lượng còn lại được tập trung tại đây. Tuy quân số gồm nhiều sư đoàn (104, 210, 260, 264, 460, 502), nhưng trên thực tế, mỗi sư đoàn chỉ còn chưa tới một ngàn quân. Lực lượng phòng thủ cũng có vài khẩu pháo 105 ly và vài xe thiết giáp.
      Để tấn công Leach, quân Việt Nam đã sử dụng một lực lượng lớn và tấn công làm bốn hướng. Hướng thứ nhất, do Sư đoàn 341 thay thế Sư đoàn 330 đã bị hao hụt quân số quá nhiều khi giải toả quốc lộ số 5, đánh chiếm thị xã Pursat để từ đó đánh vào mặt bắc của Leach. Hướng thứ hai do Sư đoàn 9 từ căn cứ Amleng mới chiếm được đánh vào phía đông. Hướng thứ ba do Quân khu 9 phụ trách được tàu đổ bộ chở đến tỉnh Kokong, rồi từ đó, tấn công mặt nam. Hướng thứ tư, do Sư đoàn 31, Quân đoàn 3, từ biên giới Thái Lan theo tỉnh lộ 56 đánh ngược về mặt tây của Leach.
      Vì đây là một trận quyết định, nên trận đánh đã kéo dài trên một tháng. Tất cả các sư đoàn tham chiến đều bị tổn thất nặng. Cuối cùng, vì hoả lực thua kém, bệnh tật, bị hao hụt lực lượng mà không được bổ sung nên căn cứ Leach của Khmer Đỏ bị Sư đoàn 9 chiếm được ngày 29 tháng 4 năm 1979. Trận đánh tại căn cứ Leach là trận đánh có quy mô lớn cuối cùng trên đất Campuchia. Sau khi Leach bị mất, các đơn vị còn lại của Khmer Đỏ rút về các mật khu ở Pailin và Tasanh sát biên giới Thái Lan. Một số khác phân tán thành những đơn vị nhỏ tiếp tục đánh du kích.
        Giữa tháng 3, quân Việt Nam mở chiến dịch mới đánh chiếm căn cứ Tasanh, nằm ở phía nam Pailin. Tới 28 tháng 3, căn cứ này thất thủ, khiến cho "đại sứ quán" Trung Quốc đóng tại đây phải sơ tán về vùng núi cao. Ban lãnh đạo Khmer Đỏ tại đây cũng bỏ chạy, bỏ lại một phần tài liệu, xe cộ, vũ khí, lương thực dự trữ và 3.000 tấn đạn dược.
      Các đơn vị của Việt Nam bắt đầu phân nhiệm để hành quân bình định. Nhiều sư đoàn thiện chiến đã bị hao hụt nặng được rút về nước. Những sư đoàn tân lập được gửi qua tăng cường hay thay thế. Phía Việt Nam cho biết, tới cuối tháng 1 năm 1979, quân Việt Nam đã có tới 8.000 thương vong. Về phía quân Khmer Đỏ dù bị thiệt hại nặng vẫn còn khoảng 30.000 quân có còn khả năng quấy phá, phục kích, gây mất ổn định khiến Việt Nam phải duy trì một lực lượng quân sự lớn tại Campuchia.
     Ngày 5 tháng 1 năm 1979, 66 đại biểu Campuchia được triệu tập họp ở Mimot để bàn về việc thành lập một đảng cộng sản Campuchia mới. Đảng này lấy lại tên Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia có từ thời 1951. Pen Sovann, một cán bộ Campuchia tập kết về Hà Nội năm 1954, được đề cử giữ chức chủ tịch đảng. Những Uỷ viên thường vụ của đảng gồm Hun Sen, Bou Thang, Chan Kiri, Heng Samrin và Chia Soth.
     Ngày 8 tháng 1 năm 1979, đài phát thanh Phnom Penh loan báo Phnom Penh đã được giải phóng bởi những lực lượng cách mạng và nhân dân Campuchia. Một Hội đồng cách mạng được thành lập do Heng Samrin làm chủ tịch. Khoảng mười ngày sau, hội đồng này ký một hiệp ước với Việt Nam, hợp thức hóa sự hiện diện của quân đội Việt Nam trên đất Campuchia.
     Tới mùa xuân 1981, hiến pháp mới của Campuchia được thông qua, sau đó là cuộc bầu cử toàn quốc để chọn ra 117 đại biểu quốc hội. Hun Sen được bầu làm Bộ trưởng Ngoại giao, Heng Samrin làm Chủ tịch nước. Ba sư đoàn mới được thành lập và đặt dưới Bộ Quốc phòng, nhưng an ninh vẫn được duy trì chủ yếu dựa vào sự hiện diện của 180.000 quân Việt Nam (mà lực lượng chủ chốt là Quân đoàn 4) do thượng tướng Lê Đức Anh chỉ huy.
     Chính quyền mới của Campuchia chỉ được một số nước thuộc khối xã hội chủ nghĩa công nhận. Chính phủ của Pol Pot tiếp tục được các nước phương Tây, Trung Quốc và khối ASEAN công nhận và vẫn là thành viên Liên hiệp quốc.
     Campuchia bị mất, Thái Lan trở nên một địa bàn chiến lược quan trọng để Trung Quốc có thể giúp đỡ cho Khmer Đỏ tiếp tục cuộc chiến. Sau khi họp xong với Ieng Sary, Đặng Tiểu Bình bí mật cử Cảnh Biểu, Ủy viên Bộ Chính trị, cùng Thứ trưởng ngoại giao Hàn Niệm Long sang Bangkok hội đàm với Thủ tướng Thái Kriangsak Chomanan tại căn cứ không quân Utapao. Sau khi Việt Nam liên minh với Liên Xô và tấn công Campuchia, Thái Lan không còn giữ thái độ trung lập nữa, Kriangsak đồng ý để Trung Quốc dùng lãnh thổ Thái Lan tiếp tế cho Khmer Đỏ.
     Thủ tướng Thái Kriangsak cũng tìm kiếm hỗ trợ từ Washington nhằm ngăn ngừa Hà Nội. Để biểu thị sự ủng hộ Thái Lan, Hoa Kỳ chuyển giao cho Thái số lượng đạn dược trị giá $11.3 triệu dollar tồn kho tại Thái từ thời chiến tranh Việt Nam. Chính quyền Carter cũng hứa hẹn thúc đẩy việc chuyển giao chiến đấu cơ F-5E và các loại vũ khí hiện đại khác mà Thái đã đặt mua, và tăng lượng vũ khí bán cho Thái từ mức 30 triệu dollar một năm lên 50 triệu. Tuy vậy, trong trường hợp chiến tranh nổ ra, quân Thái vẫn không phải là đối thủ của Việt Nam. Với lực lượng 141.000 quân, số lượng quân Thái chỉ bằng 1/4 quân Việt Nam, và họ không có được kinh nghiệm chiến đấu như quân Việt Nam.
       Việt Nam hy vọng có thể nhanh chóng truy quét và tiêu diệt tàn quân Khmer Đỏ trước khi mùa khô 1979-1980 kết thúc, nhưng tàn quân Khmer Đỏ đã phân tán rải rác trong các trại tị nạn dọc biên giới Thái Lan-Campuchia.
     Tổ chức cứu trợ khẩn cấp Campuchia của Mỹ, dựa vào đại sứ quán Mỹ tại Bangkok, đã nuôi dưỡng và hỗ trợ Khmer đỏ để tiếp tục chống lại chính phủ mới của Campuchia do Việt Nam hậu thuẫn. Dưới sức ép của Mỹ, Chương trình Lương thực thế giới đã cung cấp lương thực cho 20.000 đến 40.000 lính Khmer đỏ. Suốt một thập kỷ sau đó, cơ quan tình báo quân đội Mỹ đã giúp Khmer đỏ do thám qua vệ tinh, đồng thời các lực lượng đặc nhiệm của Mỹ và Anh hướng dẫn quân Khmer đỏ đặt hàng triệu quả mìn bộ binh khắp miền Tây Campuchia
    Hoa Kỳ và Trung Quốc cũng dùng quyền của mình ở Liên Hiệp quốc để giữ ghế đại diện cho Khmer Đỏ. Chính quyền Pol Pot dù chỉ còn là một nhóm du kích trong rừng nhưng lại được coi là đại diện hợp pháp duy nhất của người dân Campuchia.

        Đại tướng Phạm Văn Trà (thứ tư từ trái sang) trong một lần đi kiểm tra tình hình đảo Thổ Chu - Ảnh tư liệu gia đình đại tá Đào Phúc Lâm, nguyên đảo trưởng Thổ Chu
 
      Đọc cuốn sách Đời chiến sĩ của đại tướng Phạm Văn Trà, chúng tôi cứ ám ảnh mãi bởi một câu chuyện bi thương nhắc lại trong hồi ký của ông:
    “Với tâm trạng rất buồn, anh Ba Trung (phó tư lệnh Quân khu 9, chỉ huy trưởng chiến dịch giải phóng các đảo thuộc vùng biển Tây Nam) truyền đạt nhiệm vụ mà như tâm sự, như giãi bày một phẫn uất: “Tình hình xấu quá rồi. Quân Pol Pot đã chiếm một số đảo của ta hơn một tháng nay. Chúng tàn sát đồng bào ta rất dã man. Được Tư lệnh Quân khu phân công trực tiếp giải quyết tình hình các đảo, vừa rồi tôi đã sử dụng một lực lượng của quân khu, có hải quân tăng cường đổ bộ bí mật lên đảo Thổ Chu, bất ngờ tiêu diệt gọn một tiểu đoàn Pol Pot, bắt 300 tên. Nhưng điều đáng buồn là khi ta giải phóng đảo, quân Pol Pot đã sát hại trên 500 bà con ta sinh sống lâu đời ở đây”. 
 
     Trung Quốc tích cực hỗ trợ Khmer Đỏ với ngân khoản 80 triệu dollar hàng năm, và vận động Hoa Kỳ viện trợ cho các phe đối lập. Hoa Kỳ tiếp tục tiến hành cấm vận kinh tế với Việt Nam, và từ khi quân Việt Nam tiến vào Phnom Penh, hủy bỏ đàm phán bình thường hóa quan hệ với Việt Nam. Các khoản viện trợ cho Việt Nam và chính quyền Phnom Penh đều bị ngưng lại. 
     Hoa Kỳ và đồng minh gây áp lực để cả Ngân hàng phát triển châu Á (Asian Development Bank) và Ngân hàng thế giới (World Bank) ngưng các khoản vay cho Việt Nam và Campuchia. Thái Lan đồng ý cho lực lượng Khmer Đỏ thiết lập căn cứ tại vùng biên giới. Để hỗ trợ Khmer Đỏ, liên minh không chính thức giữa Trung Quốc và Thái Lan đã thiết lập một tuyến đường bí mật trên đất Thái tiếp tế cho Khmer Đỏ. 
       Tàu Trung Quốc chở vũ khí đạn dược đến các cảng Sattahip và Klong Yai, từ đó, quân đội Thái chuyển hàng đến cho các trại đóng quân của Khmer Đỏ dọc theo biên giới Thái Lan - Campuchia. Sứ quán Trung Quốc tại Bangkok phối hợp với các thương gia người Thái gốc Hoa cùng quân đội Thái chịu trách nhiệm cung cấp lương thực, thuốc men, và hàng dân dụng cho Khmer Đỏ. Đổi lại, Trung Quốc trả phí vận chuyển cho quân đội Thái và cho phép quân đội Thái giữ lại một phần vũ khí. Trung Quốc cũng chuyển giao cho Thái công nghệ chế tạo vũ khí chống tăng với điều kiện một phần sản lượng sẽ được chuyển cho Khmer Đỏ.
       Ngoài hỗ trợ khổng lồ mà Bắc Kinh dành cho Khmer Đỏ, Trung Quốc cũng cung cấp viện trợ cho các phe phái đối lập khác ở Campuchia như KPNLF. Nhờ đó, lực lượng quân sự của các phái này có lúc đã phát triển lên gần 30 ngàn. Lực lượng Việt Nam vừa phải chống lại Khmer Đỏ, vừa phải chống lại quân đội của các phe phái đối lập này.
        Nhờ có sự giúp đỡ về vũ khí, lương thực của Trung Quốc, Hoa Kỳ và các căn cứ do Thái Lan cung cấp, từ tình trạng chỉ còn là những nhóm du kích hồi cuối năm 1979, đến cuối năm 1980 lực lượng Khmer Đỏ đã hồi phục sức mạnh, với quân số tăng lên khoảng 20.000 tới 40.000. Đến cuối năm 1981, chiến tranh du kích của Khmer Đỏ thực hiện tại Campuchia đã lan rộng mạnh mẽ tại những khu vực rộng lớn.
         Được Việt Nam hậu thuẫn, ngày 8 tháng 1 năm 1979 Hội đồng Nhân dân Cách mạng nước Cộng hòa Nhân dân Campuchia do Heng Samrin làm Chủ tịch đã được thành lập. Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia về danh nghĩa là đảng cầm quyền tại Campuchia. Nhưng tổ chức này mới được thành lập nên chưa đủ sức bảo vệ chính phủ mới khỏi trước sức mạnh quân sự của Khmer Đỏ.
       Hàng ngàn công chức và kỹ thuật viên Việt Nam đã được đưa sang Campuchia để khôi phục hệ thống điện, nước ở Phnom Penh, đưa hệ thống đường sắt vào hoạt động trở lại. Các bệnh viện và trạm xá được mở lại với các bác sĩ dân y và quân y Việt Nam cùng một số bác sĩ Campuchia còn sống sót qua thời Khmer Đỏ. Hàng trăm người Campuchia được gửi sang Việt Nam học các khóa cấp tốc về chăm sóc sức khỏe, giáo dục, ngân hàng, ngoại thương, và an ninh.
     Từ năm 1979 đến giữa năm 1985, quân đội Việt Nam thực hiện các chiến dịch quân sự truy quét đánh phá các căn cứ của Khmer Đỏ. Tháng 1 năm 1980, chiến dịch quân sự nhằm vào Khmer Đỏ tại Phnom Chhat bắt đầu. Các cuộc đụng độ giữa các lực lượng NCR và quân Việt Nam cũng diễn ra và lan sang cả lãnh thổ Thái Lan. Thời gian này, Khmer Đỏ bắt đầu tái xâm nhập Campuchia từ Thái Lan với khoảng 3-4 ngàn quân. Khi mùa mưa tới, Khmer Đỏ đã tái tổ chức lực lượng, chỉ huy và huấn luyện, bắt đầu các cuộc giao tranh quy mô nhỏ như đánh du kích, phục kích, pháo kích quấy rối.
      Lực lượng Việt Nam và chính phủ Phnom Phênh tiếp tục truy đuổi và giáng những đòn nặng nề vào các nhóm chống đối. Năm 1982, trong một chiến dịch dữ dội nhất kể từ khi quân Việt Nam tiến vào lật đổ Khmer Đỏ, sư đoàn 7 Việt Nam đánh vào trại Sokh San của KPNLF, buộc họ phải bỏ chạy vào Thái Lan. Tới tháng 7 năm 1982, Việt Nam tuyên bố sẽ rút quân từng phần khỏi Campuchia đơn phương và vô điều kiện. Ngay lập tức, các lực lượng đối lập tăng cường các hoạt động quân sự. Quân Khmer Đỏ tăng cường hoạt động vũ trang tại các tỉnh Kampot, Takeo, Kampong Cham và Kampong Thom Sự yếu ớt của quân đội chính phủ Phom Penh khiến họ không thể chống đỡ được sự trỗi dậy của Khmer Đỏ. Tình hình quân sự tại Campuchia trong năm 1983 trở nên xấu đi, buộc Việt Nam phải ngừng việc rút quân khỏi Compuchia.
      Tương quan lực lượng năm 1984 là Việt Nam có khoảng 180 ngàn quân tại Campuchia, so với khoảng 17 ngàn quân của KPNLF, và khoảng 30-50 ngàn quân Khmer Đỏ và khoảng 5 ngàn quân thuộc lực lượng Sihanouk.
      Càng tiến sâu vào Campuchia, tội ác của bè lũ Pol Pot càng hiện rõ trước mắt. Ông Đinh Trọng Vinh cùng những đồng đội không khỏi ứa nước mắt căm phẫn.
     Tới mùa khô năm 1984 - 1985, Việt Nam huy động khoảng 60 ngàn quân cho chiến dịch tấn công quyết định nhằm triệt hạ các căn cứ của Khmer Đỏ nằm gần Thái Lan, cùng với hàng chục ngàn dân công Campuchia xây đường và mở rộng các sân bay dã chiến tại khu vực biên giới. Cuối tháng 12 năm 1984, khoảng 1.000 quân Việt Nam đánh hạ căn cứ Nong Samet. Tháng 1 năm 1985, khoảng 4.000 quân Việt Nam, với hơn 30 xe tăng và xe bọc thép hỗ trợ, đánh vào căn cứ Ampil của lực lượng Mặt trận Nhân dân Giải phóng Quốc gia Campuchia (KPNLF) với 5.000 quân phòng ngự và triệt hạ hoàn toàn căn cứ này sau 36 giờ. 
      Quân Việt Nam và quân chính phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia cũng mở chiến dịch tấn công căn cứ lớn có gần 10.000 quân Khmer Đỏ đóng giữ tại Phnom Malai, nơi mà họ từng định đánh chiếm năm 1982 nhưng bất thành, và đã triệt hạ căn cứ này sau 2 ngày giao tranh. Chiến dịch mùa khô năm 1984-85 là chiến dịch lớn chưa từng có của Việt Nam kể cả về quy mô, thời gian và mức độ thành công.

      Tuyến phòng thủ Svay Rieng bị vỡ ngày 2 tháng 1 năm 1979.

      Sau các chiến dịch 1984-85 của Việt Nam, lực lượng đối lập bị nhiều tổn thất. Liên quân KPNLF và Khmer Đỏ ước tính đã bị mất khoảng 1/3 lực lượng do thương vong và đào ngũ. Liên minh này mất toàn bộ các căn cứ trên đất Campuchia, trong đó có thủ đô lâm thời đặt tại một ngôi làng có tên Phum Thmei trong rừng sát biên giới Thái Lan. Khmer Đỏ rút một phần về Thái Lan, một phần chia nhỏ và ẩn trong nội địa. Hai phe Sihanouk và Son Sann rút hẳn vào trong lãnh thổ Thái Lan. Chiến dịch truy quét quy mô lớn kéo dài 5 tháng của Việt Nam đã chấm dứt hy vọng lật ngược tình thế của Khmer Đỏ và KPNLF. Kể từ cuối năm 1985, các lực lượng này về cơ bản không thể là mối đe dọa lớn đối với chính phủ Cộng hòa Nhân dân Campuchia được nữa.
        Ngày 16 tháng 8 năm 1985, thông cáo của cuộc họp các bộ trưởng ngoại giao ba nước Đông Dương tại Phnom Penh tuyên bố Việt Nam sẽ rút quân hoàn toàn khỏi Campuchia, quá trình rút quân sẽ hoàn thành năm 1990.
       Tháng 06 năm 1988, trên cơ sở trưởng thành của quân đội Campuchia và với sự thỏa thuận của giữa Việt Nam và Campuchia, Việt Nam đã rút toàn bộ chuyên gia dân sự và đến tháng 9 năm 1989, Việt Nam rút toàn bộ quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam về nước. Sau khi quân tình nguyện Việt Nam rút hết, lúc đầu phía Campuchia có lúng túng trước các hoạt động giành dân, chiếm đất của Khmer Đỏ và đồng minh nhưng dần dần Campuchia vươn lên làm chủ tình hình, kiểm soát trên 90% lãnh thổ.
        Năm 1992-1993, lực lượng gìn giữ hòa bình Liên Hợp Quốc Campuchia (UNTAC - United Nations Transitional Authority in Cambodia) tạm thời quản lý Campuchia.
          Trong thời kỳ đóng quân tại Campuchia, quân đội và chuyên gia Việt Nam đã giúp hàng chục vạn, hàng triệu dân tiều tụy đói khát, trở về quê cũ, khôi phục sản xuất, làm lại nhà cửa, trường học, chùa chiền. Nhân dân Campuchia đã dấy lên một cao trào quần chúng hồi sinh từng người, từng gia đình, từng thôn ấp và hồi sinh toàn dân tộc. Quân đội và chuyên gia Việt Nam đã giúp những người dân này sửa lại nhà, ai không còn nhà thì dựng lại nhà, làm sạch giếng cho người dân Campuchia uống, nhường gạo cho người dân Campuchia ăn, khôi phục và sửa chữa lại trường học. 
        Lực lượng ngành y của Việt Nam đi cùng bộ đội thời bấy giờ thì chữa bệnh cho người dân Campuchia. Dần dần trường lớp, làng mạc, bệnh viên, trường học… được khôi phục lại. Bộ quốc Phòng đã chỉ đạo hành động theo từng giai đoạn. Theo đó, giai đoạn đầu do người dân Campuchia chưa có gì, Việt Nam sẽ thực hiện “Việt Nam làm giúp Campuchia”- nghĩa là đánh giặc cũng Việt Nam, giúp dân sản xuất cũng Việt Nam, xây dựng chính quyền cũng Việt Nam (bởi khi đó chính quyền của Campuchia đã bị Khmer Đỏ phá hủy). 
      Khi người dân Campuchia đã có cơ sở, Việt Nam chuyển sang khẩu hiệu “Ta, bạn cùng làm”. Giai đoạn ba là “Bạn làm ta giúp”- nghĩa là người dân Campuchia đã đủ khả năng, người dân Campuchia yêu cầu tới đâu Việt Nam giúp tới đó. Cuối cùng, khi người dân Campuchia thực sự lớn mạnh thì Việt Nam rút toàn bộ quân tình nguyện về nước để người dân Campuchia tự đảm đương.

 hoang tưởng của Khmer Đỏ



         
       Việt Nam và Campuchia từ trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ đã có tình đoàn kết chiến đấu. Tuy nhiên, khi kháng chiến chống Mỹ vừa kết thúc, tập đoàn Khmer đỏ liền phản bội. Chúng đã đưa quân đánh sang biên giới Việt Nam gây xung đột rồi phát triển thành chiến tranh tổng lực. Xuất phát từ đâu mà Pol Pot trở mặt như vậy? Chúng ta hãy đọc bản nghị quyết ra hồi tháng 6/1977 của tập đoàn Pol Pot: “Duôl (An Nam) sau chiến tranh còn gặp nhiều khó khăn chồng chất, kinh tế kiệt quệ, chính trị thì nội bộ mâu thuẫn, ở miền Nam chính quyền chưa vững, tàn quân và tổ chức chính trị chống đối của Thiệu còn nhiều, đang hoạt động phá hoại…
          Về quân sự, Duôl có quân đội mạnh, có kinh nghiệm chiến đấu, trang bị phương tiện nhiều, song sau khi thống nhất thì tinh thần quân đội sút kém…. Tuy mạnh về quân sự nhưng yếu về chính trị, đang gặp nhiều khó khăn nên không đủ sức mạnh đánh lại chúng ta…Về chiến lược thì bị kiềm chế, không dám tấn công sâu qua đất nước Kampuchia…”
      Thiếu tướng Bùi Cát Vũ trong thiên ký sự Đường vào Phnom Penh kể rằng, ông đã đọc được bản nghị quyết của tập đoàn Pol Pot. Ông có nó từ một sĩ quan Campuchia.


  1. [​IMG]

    Lính Khmer Đỏ chuẩn bị giết 1 tù nhân. Hình ảnh hãi hùng khiến người xem căm giận đến tột độ.​

  2. [​IMG]

    Tôi không rõ những bức tượng kim loại trong chiếc cũi sắt kia là ai và cũng không kịp hỏi song có vẻ chúng là hình ảnh của những "lãnh tụ" khơme đỏ.Cuối cùng chúng cũng bị nhốt chung vào một rọ ở chính nơi mà họ đã tạo ra thảm họa diệt chủng tàn sát chính dân tộc mình.Đúng là nhân quả,gieo gió ắt phải gặp bão !​ 

  3. [​IMG]

    Quá khứ rồi sẽ lùi sâu vào dĩ vãng,song tội ác diệt chủng với gần 2 triệu người bị ghết mà Tuol Sleng là điển hình của sự dã man tàn bạo sẽ mãi là vết nhơ trong lich sử một dân tộc.​ 
                                                                *** 

      Trong khi Quân đội Nhân dân Việt Nam đang dồn sức tiêu diệt Khơ me đỏ, bảo vệ biên giới Tây - Nam của Tổ quốc mình đồng thời cứu dân tộc Căm - Pu - Chia khỏi nạn diệt chủng, thì bất thình lình, không có tuyên chiến chính thức, ban lãnh đạo Trung Quốc, đứng đầu là Đặng Tiểu Bình, xua quân xâm lược dọc tuyến biên giới Việt - Trung. Tại sao Trung Quốc lại hành động bất chấp đạo lý và điên rồ đến như vậy? Mọi biến cố đều có nguyên nhân sâu xa và duyên cớ trực tiếp của nó.

       Nhưng nói ngay, dù nguyên nhân nào và duyên cớ nào, dù có giải thích này nọ hay ngụy biện cỡ nào thì Việt Nam, một nước nhỏ bé vừa qua cuộc chiến tranh khốc liệt chống Mỹ giành độc lập và đang tiếp tục chiến đấu cứu thoát dân tộc Cămpuchia khỏi nạn diệt chủng, cũng thuộc về chính nghĩa, còn Đặng Tiểu Bình và bè lũ bá quyền nước lớn là thuộc về phi nghĩa. Chính vì vậy, thực chất của cuộc chiến tranh Việt - Trung theo cách gọi của ViệtNam là "chiến tranh bảo vệ biên giới phía bắc, 1979" hay "cuộc chiến chống bè lũ bành trướng phương bắc", còn theo cách gọi dối trá của Trung Quốc là "chiến tranh đánh trả tự vệ trước Việt Nam" (Đối Việt tự vệ hoàn kích chiến) (trên nghĩa rộng là chỉ xung đột biên giới Việt-Trung trong gần mười năm từ năm 1979 đến năm 1989), bởi vì cho đến bây giờ họ vẫn cho là chỉ chống trả cuộc tấn công của Việt Nam.

                                                               Dân binh Trung Quốc trong các đội tải thương. Ước tính có khoảng 4.000 lính Trung Quốc tử trận chỉ trong 2 ngày đầu của cuộc chiến.

                                

                Quân Trung Quốc đang di chuyển tại Cao Bằng. Đi đầu là xe bọc thép Kiểu 63 (K                                 

Tuy được sự giúp đỡ rất lớn của Trung Quốc trong chiến tranh Đông Dương và Chiến tranh Việt Nam, các rạn nứt trong quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Trung Quốc đã bắt đầu thể hiện từ năm 1968. Hà Nội nhất định cùng lúc giữ mối quan hệ nồng ấm với cả Moskva lẫn Bắc Kinh trong khi mâu thuẫn giữa Liên Xô và Trung Quốc đã lên cao. Bất đồng quan điểm giữa Hà Nội và Bắc Kinh về cách tiến hành cuộc chiến tại miền Nam Việt Nam trở nên rõ rệt. Bắc Kinh muốn Hà Nội chỉ tiếp tục chiến tranh du kích có giới hạn chống Hoa Kỳ, trong khi Hà Nội muốn tiến hành chiến tranh quy mô để thống nhất đất nước. Và hơn thế nữa, Hà Nội muốn trực tiếp đàm phán với Hoa Kỳ, không cần thông qua một nước nào làm trung gian. Sau sự kiện Tết Mậu Thân, Hà Nội bắt đầu đàm phán với Hoa Kỳ, trong khi đó Bắc Kinh phản đối.
       Năm 1972, chuyến thăm của tổng thống Mỹ Nixon tới Bắc Kinh và thỏa thuận giữa Mỹ và Trung Quốc được Việt Nam Dân chủ Cộng hoà xem là một sự phản bội. Từ năm 1973, Ban lãnh đạo Trung Quốc đã có chỉ thị: "Bề ngoài ta đối xử tốt với họ (Việt Nam) như đối xử với đồng chí mình, nhưng trên tinh thần phải chuẩn bị họ sẽ trở thành kẻ thù của chúng ta". Năm 1974, Trung Quốc cho quân đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa trong sự làm ngơ của Hoa Kỳ.
       Năm 1975, trong chuyến thăm Bắc Kinh, Tổng Bí thư Đảng Lao động Việt Nam Lê Duẩn nêu ra vấn đề Hoàng Sa, phản ứng không nhượng bộ của Trung Quốc làm nhà lãnh đạo Việt Nam khó chịu. Lê Duẩn thẳng thừng từ chối đưa Việt Nam Dân chủ Cộng hoà vào liên minh chống Liên Xô của Trung Quốc, ông cũng phủ nhận quan niệm của Trung Quốc rằng "chủ nghĩa bành trướng của Liên Xô là mối đe dọa đối với các nước cộng sản châu Á". Ông rút ngắn thời gian thăm Trung Quốc và rời nước này mà không tổ chức tiệc đáp lễ Trung Quốc theo truyền thống, cũng không ký thỏa thuận chung, không đưa ra bất cứ một phát biểu hoặc thông cáo nào về cuộc viếng thăm. 

          Cũng trong chuyến thăm này, Trung Quốc thông báo rằng sẽ không giữ mức viện trợ như đã hứa năm 1973. Bắc Kinh bắt đầu nói về một Việt Nam "hắc tâm", "vô ơn", "ngạo ngược". Viện trợ của Trung Quốc sau đó giảm mạnh và đến năm 1978 thì cắt toàn bộ. Điều kiện đầu tiên Trung Quốc đặt ra cho Việt Nam để nối lại viện trợ là phải từ chối tất cả các khoản viện trợ của Liên Xô.

 
                                                                                       Tù binh Trung Quốc 

          Khi Việt Nam ngày càng có quan hệ chặt chẽ hơn với Liên Xô, Trung Quốc thấy mình bị đe dọa từ hai phía. Đồng thời, Việt Nam cũng đang cố gắng xây dựng mối quan hệ đặc biệt chặt chẽ giữa 3 nước Đông Dương trong đó Việt Nam giữ vị thế đứng đầu. Cùng với thực tế rằng nước Việt Nam thống nhất đã trở thành một sức mạnh quan trọng trong vùng, làm giảm ảnh hưởng của Trung Quốc. Những điều này làm cho Trung Quốc lo ngại về một "tiểu bá quyền" Việt Nam và việc bị Liên Xô bao vây từ phía bắc. Một nước Campuchia chống Việt Nam đã trở thành một đồng minh quan trọng đối với Trung Quốc.
      Ngày 1/11/1977, tờ Nhân dân Nhật báo, cơ quan ngôn luận của đảng cộng sản Trung Quốc, trong một bài xã luận đã gọi Liên Xô như một kẻ thù nguy hiểm nhất của Trung Quốc, đồng thời coi Mỹ như là một đồng minh. Ngày 30/7/1977, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Hoàng Hoa phát biểu: "Chúng tôi ủng hộ lập trường chống đế quốc xét lại Liên Xô của Campuchia... và sẽ không thể ngồi nhìn bất cứ sự can thiệp nào đối với chủ quyền Campuchia hoặc thèm khát lãnh thổ nào bởi đế quốc xã hội. Chúng tôi sẽ ủng hộ Campuchia trong cuộc đấu tranh và có các hành động nhằm bảo vệ lãnh thổ, chủ quyền quốc gia Campuchia bằng mọi sự giúp đỡ có thể".

Với lý do cần kinh phí để hỗ trợ Hoa kiều hồi hương, tháng 5 năm 1978, lần đầu tiên Trung Quốc tuyên bố cắt một phần viện trợ (72 trong số 111 công trình viện trợ) không hoàn lại đã ký cho Việt Nam và rút bớt chuyên gia về nước. Ngày 29/6/1978 Việt Nam gia nhập Hội đồng Tương trợ Kinh tế. Tháng 7, Trung Quốc tuyên bố cắt hết viện trợ và rút hết chuyên gia đang làm việc tại Việt Nam về nước.
         Ngày 3/11/1978, Việt Nam ký Hiệp ước hữu nghị và hợp tác giữa Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Liên bang Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xô Viết. Ngoài các điều khoản về hợp tác thương mại và văn hóa, hiệp ước có những thoả thuận về quốc phòng như một hiệp ước về "phòng thủ chung" có nghĩa là "tham khảo ý kiến ​​chung và hành động hiệu quả để đảm bảo an ninh quốc phòng của cả hai nước". Ngày 22 tháng 12 năm 1978, Trung Quốc ngừng tuyến xe lửa liên vận tới Việt Nam. Đầu tháng 1 năm 1979, đường bay Bắc Kinh - Hà Nội cũng bị cắt.
         Theo các nguồn tin chính thức của Mỹ vào tháng 8/1978, Việt Nam có 4.000 cố vấn và chuyên gia Liên Xô và đến giữa năm 1979 con số đã tăng lên đến 5.000-8.000. Tháng 9/1978, Liên Xô bắt đầu cung cấp vũ khí mới (máy bay, tên lửa phòng không, xe tăng và vũ khí, đạn dược, cơ sở vật chất phục vụ chiến tranh) cho Việt Nam bằng đường hàng không và đường biển.
     Liên Xô cũng tăng cường áp lực lên Trung Quốc với mục đích đạt được sự kéo dài Hiệp định Xô – Trung có giới hạn 30 năm về quan hệ Liên minh, Hợp tác hữu nghị và giúp đỡ lẫn nhau, được ký vào ngày 14/2/1950 (hết hạn vào ngày 15/2/1979). Ngày 16/2/1979, Đặng Tiểu Bình tuyên bố khả năng một cuộc chiến tranh tổng lực chống Liên Xô. Dọc tuyến biên giới Xô - Trung đã tập trung khoảng 1,5 triệu quân Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc trên tổng số quân thường trực chiến đấu là 3,6 triệu người, phía Liên Xô đã triển khai hơn 40 sư đoàn Hồng quân.
       Tháng 5/1979 trên biên giới Liên Xô - Trung Quốc xảy ra một xung đột quân sự nghiêm trọng có sự tham gia của cả máy bay trực thăng chiến đấu. Cũng trong tháng 5/1979, các tàu chiến Liên Xô bắt đầu đi vào hải phận Cam Ranh. Ít lâu sau, các máy bay của Hạm đội Thái Bình Dương bắt đầu hạ cánh xuống Cam Ranh.
                                                 
       Ngoài ra, theo một số nhà nghiên cứu quân sự Tây phương, về mặt chiến lược, Trung Quốc thử nghiệm một cuộc chiến tranh biên giới có giới hạn với Việt Nam để thăm dò khả năng tương trợ của Liên Xô, sau khi Việt Nam gia nhập Hội đồng Tương trợ Kinh tế (SEV), và ký hiệp ước hữu nghị và hợp tác với Liên Xô (1978) có giá trị trong 25 năm, trong đó có điều khoản về tương trợ quân sự. Nếu thỏa ước này được tuân thủ nghiêm ngặt, theo nhận định của Quân ủy Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, nó sẽ là hiểm họa quốc phòng lớn vì đặt Trung Quốc vào tình thế lưỡng đầu thọ địch khi xảy ra chiến tranh với Việt Nam hoặc Liên Xô.
      Về phía Liên Xô, nguy cơ bị cô lập về ngoại giao sau khi quan hệ Trung Quốc - Hoa Kỳ trở nên nồng ấm khiến Moskva buộc phải tìm cách tăng cường quan hệ đối với Việt Nam. Viện trợ kinh tế của Liên Xô cho Việt Nam tăng đều từ năm 1975 đến 1979 từ 450 triệu USD lên 1,1 tỷ USD, viện trợ quân sự cũng tăng mạnh do sự kiện xung đột Việt Nam Campuchia (từ 125 triệu USD năm 1977 lên 600 triệu năm 1978 và 890 triệu năm 1979).
       Năm 1975, sau khi lên nắm quyền, Khmer Đỏ bác bỏ đề nghị đàm phán xây dựng mối quan hệ đặc biệt từ phía Việt Nam do lo ngại nước này âm mưu áp đảo Campuchia và lôi kéo Campuchia vào một Liên bang Đông Dương. Khmer Đỏ tìm đến Trung Quốc để có được sự hậu thuẫn của nước này dù rằng Trung Quốc từng ủng hộ Hoàng thân Norodom Sihanouk chống lại Khmer Đỏ suốt những năm 1960 và không nhiệt tình ủng hộ họ chống Lon Nol. 
       Trung Quốc đồng ý ủng hộ Khmer Đỏ, nhưng tuyên bố rằng chính phủ mới sẽ được dẫn dắt bởi Sihanouk. Trung Quốc ủng hộ Khmer Đỏ do nước này cần một đồng minh tại Đông Nam Á để thay thế cho Việt Nam trong lúc quan hệ Việt - Trung ngày càng xấu đi, đồng thời Trung Quốc cho rằng Việt Nam sẽ bành trướng ở Đông Dương nên cần phải ngăn chặn "nguy cơ bá quyền của Việt Nam"
         Theo một điện tín từ Đại sứ quán Mỹ ở Malaysia gửi Bộ Ngoại giao Mỹ vào ngày 27 tháng 4 năm 1978, sau một cuộc họp với một thành viên của chính phủ Thụy Điển vừa đến thăm Trung Quốc, “(Ngoại trưởng Trung Quốc) Hoàng Hoa lưu ý rằng khi người Việt đã đánh bại Mỹ và thu được số lượng lớn vũ khí của Mỹ, họ đã trở nên ‘tự cao tự đại’ và họ đã ấp ủ từ lâu những kế hoạch cho một Liên bang Đông Dương”. Ngược lại Khmer Đỏ tuyên bố "kiên quyết và dứt khoát phản đối các thế lực bên ngoài có hành động can thiệp dưới mọi hình thức vào những vấn đề nội bộ của Campuchia". 
        Đại sứ quán Trung Quốc ở Phnom Penh mở cửa trở lại. Khmer Đỏ nhận được viện trợ của Trung Quốc, đổi lại họ sẽ ủng hộ tư tưởng “Ba Thế giới” của Trung Quốc và hậu thuẫn Bắc Kinh chống lại Liên Xô. Tuy nhiên Khmer Đỏ luôn nghi ngờ Trung Quốc vì sợ nước này sẽ biến Campuchia thành vệ tinh của Trung Quốc.
       Lực lượng phòng thủ không được chi viện nhưng đã chiến đấu đến những người cuối cùng, trụ được cho đến ngày 22. Ngày cuối cùng tại Pháo Đài, nơi có hệ thống phòng thủ kiên cố nhất, không gọi được đối phương đầu hàng, quân Trung Quốc chở bộc phá tới đánh sập cửa chính, dùng súng phun lửa, thả lựu đạn, bắn đạn hóa chất Đđộc vào các lỗ thông hơi làm thiệt mạng cả thương binh cũng như dân quanh vùng đến đây lánh nạn.
       Ngày 19 tháng 2, Đặng Tiểu Bình trong cuộc gặp với giới ngoại giao Argentina tuyên bố đây là cuộc chiến tranh hạn chế và Trung Quốc sẽ rút quân ngay sau khi đạt được mục tiêu giới hạn.        Đến 21 tháng 2, Trung Quốc tăng cường thêm 2 sư đoàn và tiếp tục tấn công mạnh hơn nữa. Ngày 22, các thị xã Lào Cai và Cao Bằng bị chiếm. Quân Trung Quốc chiếm thêm một số vùng tại Hà Tuyên, Cao Bằng, Lạng Sơn, và Quảng Ninh. Chiến sự lan rộng tới các khu đô thị ven biển ở Móng Cái. Về phía Việt Nam, cùng lúc với việc triển khai phòng ngự quyết liệt, khoảng từ 3 đến 5 sư đoàn (gồm 30.000 quân) cũng được giữ lại để thành lập một tuyến phòng ngự cánh cung từ Yên Bái tới Quảng Yên với nhiệm vụ bảo vệ Hà Nội và Hải Phòng.
      Ngày 23 tháng 2, Đặng Tiểu Bình nhắc lại tuyên bố về "cuộc chiến tranh hạn chế" và nói sẽ rút quân trong vòng 10 ngày hoặc hơn. Đây được xem là thông điệp nhằm ngăn Liên Xô can thiệp quân sự, đáp lại kêu gọi rút quân của Mỹ, xoa dịu các nước đang lo ngại về một cuộc chiến lớn hơn, và gây khó hiểu cho Việt Nam. Trong khi đó, một tuần dương hạm Sverdlov và một khu trục hạm Krivak của Liên Xô đã rời cảng từ ngày 21 tiến về phía vùng biển Việt Nam. Liên Xô cũng đã bắt đầu dùng máy bay giúp Việt Nam chở quân và vũ khí ra Bắc. Hai chuyến bay đặc biệt của Liên Xô và Bulgaria chở vũ khí, khí tài bay tới Hà Nội.
     Ngày 26 tháng 2, thêm nhiều quân Trung Quốc tập kết quanh khu vực Lạng Sơn chuẩn bị cho trận chiến đánh chiếm thị xã này. Sau khi thị sát chiến trường, Bộ tổng tham mưu Quân đội Nhân dân Việt Nam đề xuất điều động một quân đoàn từ Campuchia cùng một tiểu đoàn pháo phản lực BM-21 vừa được Liên Xô viện trợ về Lạng Sơn. Đồng thời tổ chức và huy động lại các đơn vị và các phân đội, biên chế lại một sư đoàn vừa rút lui từ chiến trường, tiến hành các hoạt động tác chiến vào sâu trong hậu phương địch.
      Phi đoàn máy bay vận tải An-12 của Liên Xô đã tiến hành không vận Quân đoàn 2, Quân đội Nhân dân Việt Nam từ Campuchia về Lạng Sơn.
     Ngày 25 tháng 2, tại Mai Sao, Quân đoàn 14 thuộc Quân khu 1, Quân đội Nhân dân Việt Nam cùng Bộ chỉ huy thống nhất Lạng Sơn được thành lập, lực lượng bao gồm các Sư đoàn 3, 327, 338, 337 (đang từ Quân khu 4 ra) và sau này có thêm Sư đoàn 347 cùng các đơn vị trực thuộc khác.
    Trong giai đoạn đầu đến ngày 28 tháng 2 năm 1979, quân Trung Quốc chiếm được các thị xã Lào Cai, Cao Bằng, và một số thị trấn. Các cơ sở vật chất, kinh tế ở những nơi này bị phá hủy triệt để. Tuy nhiên, do vấp phải sự phòng ngự có hiệu quả của Việt Nam cũng như có chiến thuật lạc hậu so với phía Việt Nam nên quân Trung Quốc tiến rất chậm và bị thiệt hại nặng. Quân Việt Nam còn phản kích đánh cả vào hai thị trấn biên giới Ninh Minh (Quảng Tây) và Malipo (Vân Nam) của Trung Quốc, nhưng chỉ có ý nghĩa quấy rối.

                                   
         Phụ nữ, trẻ em và dân quân Việt Nam bị Trung Cộng thảm sát trong ngoài động Thạnh Sơn. Nguồn: Lịch sử diễn đàn Trung Quốc.
 
                                        
          Quân Trung Cộng không tha bất cứ già trẻ, giật sập cửa động, dùng khí độc, chất hóa học thả xuống các lỗ thông hơi giết sạch mọi người trong động. Nguồn: Lịch sử diễn đàn Trung Quốc.
 
  
              Hai lính TQ, Dương Minh (Yang Ming-) và Hoàng (Huang-) chính tay họ cắt xén thân thể của nữ tù binh Việt Nam. Nguồn: tài liệu Huỳnh Tâm.
 
                                   Trại nữ tù binh tại Bác Lý Hà. Lịch sử diễn đàn Trung Quốc loan tải. Nguồn: Tài liệu Huỳnh Tâm.
                               Trại nữ tù binh tại Bác Lý Hà. Lịch sử diễn đàn Trung Quốc loan tải. 
                     Nguồn: Tài liệu Huỳnh Tâm.



                    Một nữ tù binh Việt Nam còn mặc quần áo bệnh xá, bị lính Trung Quốc hãm hiếp tập thể,chúng đang gọi điện báo cho đồng bọn đến tiếp tục cưỡng dâm. Người nữ tù binh này được giải vây và cứu thoát. Ảnh: NF3.86.



               Thi thể của nữ tù binh Việt Nam bị lính Trung Quốc hãm hiếp tập thể, sau đó cắt lấy bộ ngực, bộ ngũ tạng, đôi bắp đùi chân tay để ăn thịt. Thi thể tại hiện trường đang nằm trên băng ca cứu thương của bệnh xá Tập đoàn 25. Ảnh:


             Nữ tù binh Việt Nam, sau khi bị lính Trung Quốc hãm hiếp tập thể, và ức bách cho đến chết, áo ngược bị xé rách toang từng mảnh, cho thấy cự tuyệt thất vọng, thi thể vứt bỏ tại bìa rừng núi 227, cách bệnh xá Tập đoàn 25, 2 km. Ảnh: NF3.86
 
     Giai đoạn 2 bắt đầu từ ngày 27 tháng 2. Chiến sự tập trung tại Lạng Sơn tuy giao tranh tại Lào Cai, Cao Bằng, và Móng Cái vẫn tiếp diễn. Trận đánh chiếm thị xã Lạng Sơn bắt đầu lúc 6 giờ sáng cùng ngày. Trung Quốc điều tới đây thêm 2 sư đoàn từ Đồng Đăng và Lộc Bình (phía đông nam Lạng Sơn), tiếp tục đưa thêm quân mới từ Trung Quốc thâm nhập Việt Nam để tăng viện. Tại Lạng Sơn, các Sư đoàn 3, 337, của Việt Nam đã tổ chức phòng thủ chu đáo và phản ứng mãnh liệt trước các đợt tấn công lớn của quân Trung Quốc. Từ ngày 2 tháng 3, Sư đoàn 337 trụ tại khu vực cầu Khánh Khê. Sư đoàn 3 chống trả 3 sư đoàn bộ binh 160, 161, 129, cùng nhiều tăng, pháo, tiến công trên một chiều dài 20 km từ xã Hồng Phong huyện Văn Lãng đến xã Cao Lâu huyện Cao Lộc. 
        Suốt ngày 27, ở hướng Cao Lộc, sư đoàn 129 Trung Quốc không phá nổi trận địa phòng thủ của trung đoàn 141; ở hướng đường 1B, sư đoàn 161 bị trung đoàn 12 ghìm chân; ở hướng đường 1A, trung đoàn 2 vừa chặn đánh sư đoàn 160 từ phía bắc vừa chống lại cánh quân vu hồi của sư đoàn 161 từ hướng tây bắc thọc sang. Nhưng 14 giờ ngày hôm đó, 1 tiểu đoàn Trung Quốc bí mật luồn qua phía sau bất ngờ đánh chiếm điểm cao 800, nơi đặt đài quan sát pháo binh của sư đoàn 3 Sao Vàng. 
        Mất điểm cao 800, thế trận phòng ngự của Việt Nam ở phía tây đường 1A từ Cốc Chủ đến điểm cao 417 bị chọc thủng. Chiếm được điểm cao 800 và Tam Lung, nhưng trong suốt các ngày từ 28 tháng 2 đến 2 tháng 3, quân Trung Quốc vẫn không vượt qua được đoạn đường 4 km để vào thị xã Lạng Sơn, tuy đã dùng cho hướng tiến công này gần 5 sư đoàn bộ binh. Sau nhiều trận đánh đẫm máu giành giật các điểm cao quanh Lạng Sơn, mà có trận quân phòng thủ Việt Nam đánh đến viên đạn cuối cùng, quân Trung Quốc bắt đầu bao vây thị xã Lạng Sơn ngày 2 tháng 3 sử dụng thêm sư đoàn 162 dự bị chiến dịch của quân đoàn 54 và dùng 6 sư đoàn tấn công đồng loạt trên nhiều hướng.
        Chiều ngày 4, một cánh quân Trung Quốc đã vượt sông Kỳ Cùng, chiếm điểm cao 340 và vào tới thị xã Lạng Sơn, một cánh quân khác của sư đoàn 128 Trung Quốc cũng chiếm sân bay Mai Pha, điểm cao 391 ở phía tây nam thị xã.
      Đến đây, phía Việt Nam đã điều động các sư đoàn chủ lực có xe tăng, pháo binh, không quân hỗ trợ áp sát mặt trận, chuẩn bị phản công giải phóng các khu vực bị chiếm đóng. Quân đoàn 14 với các sư đoàn 337, 327, 338 hầu như còn nguyên vẹn đang bố trí quân quanh thị xã Lạng Sơn. Quân đoàn 2, chủ lực của Quân đội Nhân dân Việt Nam, đã tập kết sau lưng Quân đoàn 14.
       Ngày 5 tháng 3 năm 1979, Việt Nam ra lệnh tổng động viên toàn quốc. Cùng ngày, Bắc Kinh tuyên bố đã "hoàn thành mục tiêu chiến tranh", "chiến thắng" và bắt đầu rút quân.
      Ngày 6 tháng 3 năm 1979, Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ra Chỉ thị số 69, nhận định về tình hình và đưa ra chủ trương trong điều kiện Trung Quốc rút quân. Chỉ thị này khẳng định: "Trong khi chấp nhận cho địch rút quân, chúng ta luôn luôn phải nâng cao cảnh giác, tăng cường quốc phòng, sẵn sàng giáng trả địch đích đáng, nếu chúng lật lọng, trở lại xâm lược nước ta lần nữa (...) Không được một chút mơ hồ nào đối với âm mưu cơ bản của bọn phản động Trung Quốc là thôn tính nước ta, khuất phục nhân dân ta (...) luôn luôn sẵn sàng chuẩn bị chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, đập tan bọn xâm lược (...) cần giương cao chính nghĩa của ta, bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc và bảo vệ hòa bình, xúc tiến việc hình thành mặt trận nhân dân thế giới ủng hộ, bảo vệ Việt Nam".
      Ngày 7 tháng 3, Việt Nam tuyên bố rằng để thể hiện "thiện chí hòa bình", Việt Nam sẽ cho phép Trung Quốc rút quân.
     Mặc dù Trung Quốc tuyên bố rút quân, chiến sự vẫn tiếp diễn ở một số nơi. Dân thường Việt Nam vẫn tiếp tục bị giết, chẳng hạn như vụ thảm sát ngày 9 tháng 3 tại thôn Đổng Chúc, xã Hưng Đạo, huyện Hòa An, Cao Bằng, khi quân Trung Quốc đã dùng búa và dao giết 43 người, gồm 21 phụ nữ và 20 trẻ em, trong đó có 7 phụ nữ đang mang thai, rồi ném xác xuống giếng hoặc chặt ra nhiều khúc rồi vứt hai bên bờ suối. Trong thời gian chuẩn bị rút quân, Trung Quốc còn phá hủy một cách có hệ thống toàn bộ các công trình xây dựng, từ nhà dân hay cột điện, tại các thị xã thị trấn Sapa, Đồng Đăng, Lạng Sơn,...
     Sư đoàn 337 của Việt Nam, lên tham chiến từ ngày 2 tháng 3 tại khu vực cầu Khánh Khê ở Lạng Sơn để chi viện cho các đơn vị đang chặn đánh quân Trung Quốc. Sư đoàn này đến nơi quá muộn để thay đổi cục diện trận đánh tại Lạng Sơn, nhưng đã cùng sư đoàn 338 tổ chức phản kích đánh vào quân Trung Quốc rút lui qua ngả Chi Mã.
     Ngày 16 tháng 3 năm 1979, Trung Quốc tuyên bố hoàn tất việc rút quân khỏi Việt Nam. Cả Việt Nam và Trung Quốc đều tuyên bố mình chiến thắng, nhưng xung đột vũ trang tại biên giới Việt - Trung phải mất một thời gian dài nữa và phải tốn không ít máu xương của cả hai phía nữa mới chấm dứt hẳn.
       Đánh giá thiệt hại sau cuộc chiến, tháng 4 năm 1979, Báo Quân đội Nhân dân của Việt Nam ước lượng tổng thương vong của quân Trung Quốc là 62.500 người. Phía Việt Nam có hàng nghìn dân thường chết và bị thương, theo tạp chí Time thì có khoảng dưới 10.000 lính Việt Nam thiệt mạng (con số này phía Trung Quốc là trên 20.000). Phía Trung Quốc bắt được khoảng 1.600 tù binh trong tổng số hơn 50.000 quân Việt Nam tham chiến tại mặt trận Lào Cai, Cao Bằng, Lạng Sơn.
        Tướng Ngũ Tu Quyền, phó tổng tư lệnh Quân giải phóng Trung Quốc, tuyên bố rằng số quân Việt Nam bị chết và bị thương là 50.000, trong khi con số tương ứng của Trung Quốc là 20.000. Một nguồn khác của Trung Quốc thống kê tổn thất của quân Trung Quốc là 8.531 chết và khoảng 21.000 bị thương.
Theo tuyên bố của Việt Nam, kết quả chiến đấu của họ như sau:
  • Mặt trận Lạng Sơn: diệt 19.000 lính Trung Quốc, phá hủy 76 xe tăng, thiết giáp và 52 xe quân sự, 95 khẩu pháo-cối và giàn phóng hoả tiễn, tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 3 trung đoàn, 4 tiểu đoàn (có hơi khác biệt so với ký sự Sư đoàn Sao Vàng).
  • Mặt trận Cao Bằng: diệt 18.000 lính Trung Quốc, phá hủy 134 xe tăng, thiết giáp và 23 xe quân sự, tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 7 tiểu đoàn.
  • Mặt trận Hoàng Liên Sơn (Lào Cai): diệt 11.500 lính Trung Quốc, phá hủy 66 xe tăng, thiết giáp và 189 xe quân sự, tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 4 tiểu đoàn.
  • Mặt trận Quảng Ninh, Lai Châu và Hà Tuyên: diệt 14.000 lính Trung Quốc, phá hủy 4 xe tăng, thiết giáp, 6 xe quân sự, tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 3 tiểu đoàn.
Cuộc chiến cũng đã gây ra những thiệt hại nặng nề về kinh tế cho Việt Nam: các thị xã Lạng Sơn, Cao Bằng, thị trấn Cam Đường bị hủy diệt hoàn toàn, 320/320 xã, 735/904 trường học, 428/430 bệnh viện, bệnh xá, 41/41 nông trường, 38/42 lâm trường, 81 xí nghiệp, hầm mỏ và 80.000 ha hoa màu bị tàn phá, 400.000 gia súc bị giết và bị cướp. Khoảng một nửa trong số 3,5 triệu dân bị mất nhà cửa, tài sản và phương tiện sinh sống. Để được Liên Xô tăng cường viện trợ, từ 27 tháng 3 năm 1979, Việt Nam quyết định cho tàu quân sự Liên Xô đóng ở cảng Cam Ranh. 
    Về phía Trung Quốc, cuộc chiến ngắn ngày đã tiêu tốn của nước này khoảng 1,3 tỷ USD và làm ảnh hưởng lớn tới quá trình cải tổ kinh tế. Khi quân Trung Quốc rút khỏi Việt Nam tháng 3 năm 1979, Trung Quốc tuyên bố họ không tham vọng dù "chỉ một tấc đất lãnh thổ Việt Nam". Trên thực tế, quân Trung Quốc chiếm đóng khoảng 60 km2 lãnh thổ có tranh chấp mà Việt Nam kiểm soát trước khi chiến sự nổ ra. Tại một số nơi như khu vực quanh Hữu Nghị Quan gần Lạng Sơn, quân Trung Quốc chiếm đóng các lãnh thổ không có giá trị quân sự nhưng có giá trị biểu tượng quan trọng. Tại các nơi khác, quân Trung Quốc chiếm giữ các vị trí chiến lược quân sự làm bàn đạp để từ đó có thể tiến đánh Việt Nam. 
 Sau khi chiến tranh kết thúc, Việt Nam và Trung Quốc nối lại đàm phán về vấn đề biên giới. Cuộc đàm phán Việt – Trung lần ba diễn ra vào năm 1979 với hai vòng đàm phán. Trong vòng đàm phán thứ nhất phía Việt Nam cho rằng, trước hết cần vãn hồi hòa bình, tạo không khí thuận lợi để giải quyết những vấn đề khác. Đoàn Việt Nam đưa ra phương án ba điểm để giải quyết vấn đề biên giới: chấm dứt chiến sự, phi quân sự hóa biên giới; khôi phục giao thông, vận tải bình thường trên "cơ sở tôn trọng đường biên giới lịch sử mà các Hiệp định Trung - Pháp năm 1887 và 1895 đã thiết lập". Phía Trung Quốc kiên quyết từ chối những đề nghị của Việt Nam, đưa ra đề nghị tám điểm của mình, bác bỏ việc phi quân sự hóa biên giới, đề nghị giải quyết các vấn đề lãnh thổ trên "cơ sở những công ước Trung - Pháp" chứ không phải trên cơ sở đường ranh giới thực tế do các Hiệp định đó đưa lại. Trung Quốc cũng đòi Việt Nam thừa nhận các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là "một bộ phận không thể tách rời của lãnh thổ Trung Quốc"; Việt Nam phải rút quân ra khỏi Trường Sa, thay đổi chính sách với Lào và Campuchia, giải quyết vấn đề Campuchia. Trung Quốc cũng yêu cầu Việt Nam nhận lại những người Hoa đã ra đi. Trong quan hệ với các nước khác: "Không bên nào sẽ tham gia bất cứ khối quân sự nào chống bên kia, cung cấp căn cứ quân sự hoặc dùng lãnh thổ và các căn cứ các nước khác chống lại phía bên kia"; "Việt Nam không tìm kiếm bá quyền ở Đông Dương hay ở bất cứ nơi nào" làm điều kiện để tiến hành thương lượng.

Vị trí và lực lượng của Hải quân nhân dân Việt Nam trong trận chiến bảo vệ Trường Sa 14-3-1988
Vị trí và lực lượng của Hải quân nhân dân Việt Nam trong trận chiến bảo vệ Trường Sa 14-3-1988
Tàu HQ-604 dưới làn đạn tàn ác của kẻ thù
Tàu HQ-604 dưới làn đạn tàn ác của kẻ thù

Tàu HQ-505 ủi bãi bảo vệ Cô Lin
Tàu HQ-505 ủi bãi bảo vệ Cô Lin
Dưới họng súng của Trung Quốc, chiến sỹ hải quân Việt Nam đã chiến đấu đến hoi thở cuối cùng cho chủ quyền của Tổ quốc
Dưới họng súng của Trung Quốc, chiến sỹ hải quân Việt Nam đã chiến đấu đến hơi thở cuối cùng cho chủ quyền của Tổ quốc
Đảo Len Đao, hòn đảo nơi đầu sóng ngọn gió
Đảo Len Đao, hòn đảo nơi đầu sóng ngọn gió

      Vòng đàm phán thứ hai được tổ chức tại Bắc Kinh từ ngày 8/6/1979. Đoàn đại biểu Việt Nam đề nghị hai bên cam kết không tiến hành các hoạt động thám báo và trinh sát dưới mọi hình thức trên lãnh thổ của nhau; không tiến hành bất cứ hoạt động tiến công, khiêu khích vũ trang nào, không nổ súng từ lãnh thổ bên này sang bên kia, cả trên bộ, trên không, trên biển; không có bất cứ hành động gì uy hiếp an ninh của nhau. Việt Nam cũng đưa ra những quan điểm của mình về "chống bá quyền" với ba nội dung chính: Không bành trướng lãnh thổ dưới bất cứ hình thức nào, chấm dứt ngay việc chiếm đoạt đất đai của nước kia, không xâm lược, không dùng vũ lực để "trừng phạt" hoặc để "dạy bài học"; không can thiệp vào quan hệ của một nước với nước khác, không can thiệp vào công việc nội bộ của nước khác, không áp đặt tư tưởng, quan điểm, đường lối của mình cho nước khác; không liên minh với các thế lực phản động khác chống lại hòa bình, độc lập dân tộc. Trong vòng đàm phán này, Trung Quốc chủ yếu chỉ trích Việt Nam về việc "buộc" Trung Quốc phải thực hiện "chiến tranh tự vệ", đề cập đến một số vấn đề liên quan đến quan hệ hai nước và lập trường tại khu vực, không tập trung giải quyết thực chất vấn đề biên giới. Đầu năm 1980, Trung Quốc đơn phương đình chỉ vòng ba, không nối lại đàm phán. Việt Nam liên tiếp gửi công hàm yêu cầu họp tiếp vòng ba, nhưng Trung Quốc làm ngơ. Trong những năm 1979-1982, Việt Nam nhiều lần đề nghị nối lại các cuộc đàm phán đã bị Trung Quốc đơn phương bỏ dở, nhưng Trung Quốc vẫn một mực khước từ.
       Từ tháng 3/1979 đến hết tháng 9/1983, Trung Quốc đã cho lực lượng vũ trang xâm nhập biên giới Việt Nam 48.974 vụ, trong đó xâm nhập biên giới trên bộ 7.322 vụ có nổ súng, khiêu khích; xâm nhập vùng biển 28.967 vụ; xâm nhập vùng trời biên giới 12.705 vụ (với hơn 2.000 tốp máy bay).
      Trung Quốc bắn pháo thường xuyên vào các vùng dân cư, tiếp tục lấn chiếm đất đai, xâm canh, xâm cư, di chuyển, đập phá cột mốc, dựng bia, chôn mộ trong đất Việt Nam. Tính đến tháng 3/1983, Trung Quốc còn chiếm giữ 89 điểm của Việt Nam. Việc Trung Quốc chiếm đóng các lãnh thổ biên giới làm cho Việt Nam căm giận, và giữa hai phía nổ ra một loạt trận giao tranh nhằm giành quyền kiểm soát các khu vực đó. Xung đột biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc vẫn tiếp diễn cho đến năm 1988, lên cao vào các năm 1984-1985. Trong tháng 5 - tháng 6 năm 1981, quân Trung Quốc mở cuộc tấn công vào đồi 400 (mà Trung Quốc gọi là Pháp Tạp Sơn) ở huyện Cao Lộc, Lạng Sơn, xa hơn về phía tây, quân Trung Quốc cũng vượt biên giới đánh vào các vị trí quanh đồi 1688 ở tỉnh Hà Tuyên. Giao tranh diễn ra hết sức đẫm máu với hàng trăm người thuộc cả hai bên thiệt mạng. Ngày 1/2/1984, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc Hồ Diệu Bang cùng đoàn cán bộ cao cấp đã đến thăm cao điểm 400 (mà Trung Quốc đặt tên là Pakhason) để động viên quân đội. Tới năm 1984, quân Trung Quốc lại dùng nhiều tiểu đoàn mở các đợt tấn công lớn vào Lạng Sơn. Đặc biệt tại Hà Tuyên, trong tháng 4 - tháng 7 năm 1984, quân Trung Quốc đánh vào dải đồi thuộc huyện Vị Xuyên, tỉnh Hà Giang mà Trung Quốc gọi là Lão Sơn. Quân Trung Quốc chiếm một số ngọn đồi thuộc dải đồi này, giao tranh kéo dài dằng dai, nhưng không có nơi nào quân Trung Quốc tiến sâu được hơn vào lãnh thổ Việt Nam quá 5 km, dù quân đông hơn nhiều. 
        Các nhà quan sát nước ngoài ghi nhận từ tháng 7/1980 đến tháng 8/1987, dọc biên giới Việt Nam - Trung Quốc đã xảy ra 6 cuộc xung đột vũ trang lớn vào các tháng 7/1980, tháng 5/1981, tháng 4/1983, tháng 6/1985, tháng 12/1986 và tháng 1/1987. Theo tuyên bố của Ngoại Trưởng Trung Quốc Ngô Ngọc Khiêm trong buổi họp báo ở Singapore ngày 29/1/1985, trong năm 1985, Trung Quốc đã điều thêm 8 sư đoàn bộ binh cùng gần 20 sư đoàn tại chỗ áp sát biên giới Việt – Trung; đồng thời, triển khai hơn 650 máy bay chiến đấu, ném bom các sân bay gần biên giới. Còn theo Báo Nhật Bản Sankei Shimbun ra ngày 14/1/1985, Trung Quốc đã đưa số máy bay đến gần biên giới Việt - Trung lên gần 1.000 chiếc. Đài BBC ngày 6/2/1985 cho biết: Trung Quốc có 400.000 quân đóng dọc biên giới Việt – Trung. Tạp chí Nghiên cứu vấn đề quốc tế của Trung Quốc số 2/1982 lý giải mục đích của việc bố trí một lực lượng lớn quân đội ở sát biên giới với Việt Nam "là để kìm giữ một phần binh lực của Việt Nam ở tuyến biên giới phía Bắc, do đó làm lợi cho cuộc chiến tranh chống xâm lược của nhân dân Campuchia". Trung Quốc cũng thường xuyên khiêu khích vũ trang, lấn chiếm, phá hoại phòng tuyến bảo vệ biên giới, tung gián điệp, thám báo, biệt kích vào nội địa, kích động các dân tộc thiểu số dọc biên giới Việt Trung ly khai, xây dựng cơ sở vũ trang, gây phỉ. Từ cuối năm 1980, Trung Quốc hỗ trợ Fulro và tàn quân Polpot, lập căn cứ ở Đông Bắc Campuchia, lập hành lang Tây Nguyên- Campuchia –Thái Lan.
       Trong các ngày 22/2/1980, 27/2/1980 và 2/3/1980 tại vùng biển Tây Nam quần đảo Hoàng Sa, Hải quân Trung Quốc bắt giữ một số thuyền đánh cá của ngư dân hai tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng và Nghĩa Bình. Từ năm 1979 đến năm 1982, diễn ra các sự kiện đáng chú ý như Tổng cục Hàng không Dân dụng Trung Quốc công bố một thông cáo quy định "bốn vùng nguy hiểm" ở Tây Nam đảo Hải Nam, trong đó có vùng trời của quần đảo Hoàng Sa và buộc máy bay dân dụng của các nước khác phải bay qua đây vào những giờ do Trung Quốc quy định; thành lập lữ đoàn Hải quân đầu tiên ở đảo Hải Nam (12/1979); cho máy bay ném bom H-6 của Hải quân Trung Quốc thực hiện cuộc tuần tra trên không đầu tiên ở quần đảo Trường Sa (1/1980); năm 1982, Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Trung Quốc Dương Đắc Chí viếng thăm quần đảo Hoàng Sa và tàu hải quân của Trung Quốc, Việt Nam đã đụng độ ở ngoài khơi quần đảo Hoàng Sa.

      Ngày 15/4/1987, Trung Quốc đã ra tuyên bố lên án quân đội Việt Nam chiếm đóng đảo đá Ba Tiêu thuộc quần đảo Trường Sa. Trung Quốc cho rằng mục đích của Việt Nam khi triển khai quân đội một cách bất hợp pháp ở đảo Ba Tiêu là để chiếm hữu thềm lục địa gần đó và mở đường cho việc khai thác dầu trong tương lai. Trung Quốc yêu cầu Việt Nam rút khỏi Ba Tiêu và 9 hòn đảo khác, bảo lưu quyền thu hồi các đảo này vào một thời điểm thích hợp. Từ ngày 15/5 đến ngày 6/6/1987, Hải quân Trung Quốc diễn tập lớn và tổ chức các cuộc nghiên cứu hải dương học ở khu vực quần đảo Trường Sa. Tháng 1/1988, một lực lượng lớn tàu chiến của Trung Quốc hoạt động xâm chiếm tại bãi đá Chữ Thập và Châu Viên, xây nhà, cắm cờ Trung Quốc trên hai đảo này. Ngày 26/2/1987, lực lượng của Trung Quốc đã đổ bộ lên hai đảo san hô trong quần đảo Trường Sa. Ngày 14 tháng 3 năm 1988 xảy ra Hải chiến Trường Sa giữ Việt Nam và Trung Quốc gần cụm đảo Sinh Tồn, khiến 3 tàu vận tải của Việt Nam bị bắn chìm, 20 người chết và 74 người khác bị mất tích. Trong năm 1988, Trung Quốc chiếm 6 điểm trên quần đảo Trường Sa, xây dựng hệ thống nhà giàn. Tháng 5/1988, tờ Nhật báo Quân đội Nhân dân thuộc quân đội Trung Quốc có bài viết, trong đó tuyên bố: Hiện nay Hải quân Trung Quốc có thể bảo vệ lãnh hải gần bờ Trung Quốc, cả chủ quyền trên quần đảo Trường Sa và biển khơi xa lục địa hàng trăm hải lý.
Các ngày 17 và 23, 26 tháng 3 năm 1988, Chính phủ Việt Nam đã liên tục gửi công hàm phản đối đến Bắc Kinh, đề nghị Trung Quốc cử đại diện đàm phán, thương lượng để giải quyết những bất đồng liên quan đến quần đảo Trường Sa, cũng như những vấn đề tranh chấp khác về biên giới và quần đảo Hoàng Sa; đề nghị hai bên không dùng vũ lực và tránh mọi đụng độ để không làm tình hình xấu thêm. Việt Nam cũng thông báo cho Liên Hợp Quốc về tình trạng tranh chấp giữa hai bên song phía Trung Quốc vẫn tiếp tục chiếm giữ các nơi đã chiếm được và khước từ thương lượng, giữ quan điểm về "chủ quyền không thể tranh cãi của mình đối với quần đảo Nam Sa" (Trường Sa).

image075
Vùng biển Cô Lin - Gạc Ma - Len Đao

image088
Nhìn bằng mắt thường từ đảo Cô Lin từ khoảng cách 3 hải lý, có thể thấy rõ các công trình xây dựng mở rộng trái phép của TQ trên đảo Gạc Ma.
 
        Ngày 13/4/1988, Quốc hội Trung Quốc khóa VI đã phê chuẩn thành lập Khu hành chính Hải Nam, có địa giới hành chính rộng lớn trên biển Đông, bao trùm cả hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam. Tháng 4/1988, Trung Quốc đặt lại tên cho các đảo, đá, bãi cạn thuộc quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và sáp nhập hai quần đảo vào địa phận Hải Nam - Trung Quốc. Từ tháng 1/1989 đến tháng 9/1990, Trung Quốc liên tục có các hành động như: đặt bia chủ quyền trên các đảo đã chiếm được; tập trận, khảo sát khoa học trong lãnh hải quần đảo Trường Sa.
                            
                                        Lính Trung Quốc đe dọa phóng viên chụp hình 
      
      Những năm 1982, 1983 và 1984, tại diễn đàn đàm phán bình thường hóa quan hệ Xô – Trung ở cấp Thứ trưởng Ngoại giao, Trung Quốc nêu vấn đề quân đội Việt Nam ở Campuchia, đề nghị Liên Xô phải thúc đẩy Việt Nam rút quân ra khỏi Campuchia, coi việc Liên Xô tiếp tục ủng hộ quân đội Việt Nam tại Campuchia là trở ngại lớn nhất cho việc bình thường hóa quan hệ Trung - Xô.
        Cuộc chiến năm 1979 cho Trung Quốc thấy sự lạc hậu của vũ khí cũng như chiến thuật mà quân đội nước này sử dụng, do đó, sau cuộc chiến là bắt đầu của một cuộc cải cách và hiện đại hóa mạnh đối với Quân giải phóng Trung Quốc, ngày nay công cuộc hiện đại hóa này vẫn tiếp tục. Ảnh hưởng trực tiếp có thể thấy là ngân sách dành cho quốc phòng của Trung Quốc tăng từ 15% năm 1978 lên 18% năm 1979.
       Quan hệ xấu với Trung Quốc đã làm Việt Nam đã phải trả một cái giá rất đắt. Việc Trung Quốc duy trì áp lực quân sự tại vùng biên giới trong suốt mười năm sau đó buộc Việt Nam cũng phải duy trì lực lượng phòng thủ lớn ở biên giới và miền Bắc. Cùng với việc bị sa lầy với chiến sự dai dẳng ở Campuchia mà Trung Quốc muốn kéo dài, Việt Nam bị cô lập trong mười năm đó trên trường quốc tế. Nền kinh tế yếu kém và bị Mỹ cấm vận phải căng ra duy trì một lực lượng quân đội lớn, và phải phụ thuộc vào sự giúp đỡ của Liên Xô. Sau năm 1979, tình hình kinh tế miền Bắc Việt Nam tệ hại đi rất nhiều so với thời kỳ trước đó. Trong khi đó, Trung Quốc phát triển mạnh từ năm 1978 do công cuộc cải tổ kinh tế của Đặng Tiểu Bình. 7 năm sau chiến tranh biên giới, Việt Nam bắt đầu thời kì Đổi Mới. Sau khi Liên Xô tan rã và Việt Nam rút quân khỏi Campuchia, đến năm 1992 quan hệ giữa hai nước chính thức được bình thường hóa.

                                                    ***
Đến đây, cuộc trường chinh dài dặc đi đòi độc lập dân tộc của dân tộc Việt trên con đường đầy gian lao và thấm đẫm biết bao máu xương mới thực sự kết thúc. Sau khi sự nghiệp cứu nước hoàn thành, dân tộc Việt lại bước vào công cuộc kiến thiết, xây dựng Tổ Quốc  ngày một giàu mạnh. Có thể coi đây là cuộc trường chinh mới, cũng đầy khó khăn gian khổ tuy không tốn máu xương, với tên gọi "xây dựng thành công Chủ Nghĩa Xã Hội". Con đường này chắc dài lắm, vì cho đến nay, hàng chục năm qua rồi mà hình bóng xã hội thiên đường ấy chưa thấy tăm hơi đâu. Và bất giác chúng ta tự hỏi: chúng ta đã "định hướng Chủ Nghĩa Xã Hội"....đúng chưa?
Theo hiểu biết chúng ta thì mục đích đầu tiên, trực tiếp và duy nhất của Nguyễn Tất Thành (tên thời trẻ của Hồ Chí Minh) khi ông ra đi "tìm đường cứu nước" là tìm cách đánh đuổi Thực dân Pháp xâm lược, giành lại chủ quyền Dân Tộc. Chỉ thế thôi!
Tình hình thực tế thời bấy giờ cho thấy sự xâm lược của thực dân gắn liền với quần chúng thuộc địa bị nô dịch, bị áp bức bóc lột thậm tệ. Cho nên việc đánh đuổi thực dân cũng đồng thời thực hiện được mục đích thứ hai là giải phóng nô dịch, xóa bỏ bóc lột, xây dựng một xã hội dân giàu nước mạnh. Thực ra đó là hai cuộc cách mạng độc lập nhau nhưng cùng chiều.
Trong bối cảnh đó, Lênin đã soạn thảo những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa. Tác phẩm ngắn gọn, vô cùng quan trọng này đã củng cố những nguyên tắc mácxít về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa. Những luận cương đó đã được Đại hội II Quốc tế Cộng sản thông qua và coi là cương lĩnh hành động của Quốc tế Cộng sản và các Đảng Cộng sản trong tình hình lúc bấy giờ. Mười hai luận điểm trong Luận cương toát lên 5 tư tưởng chiến lược lớn: Một là, đặt vấn đề dân tộc đi đôi với vấn đề thuộc địa; quyền tự quyết của các dân tộc gồm quyền tự quyết của các dân tộc thuộc địa phải đi đến công nhận, thực hiện quyền độc lập tự chủ chứ không chỉ có tự trị văn hóa. Hai là, chỉ rõ trách nhiệm trọng đại của các Đảng Cộng sản ở các nước đế quốc là phải ủng hộ, giúp đỡ một cách tích cực nhất đối với phong trào giải phóng của các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc. Ba là, khẳng định các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc không những có nhiệm vụ giải phóng khỏi ách thống trị của nước ngoài, mà còn phải đấu tranh chống lại các lực lượng phản động ở ngay trong nước mình, những lực lượng đó thường là đồng minh của đế quốc thực dân. Bốn là, đề ra một nhiệm vụ lớn của cách mạng thế giới là sự đoàn kết chặt chẽ giữa phong trào giải phóng các dân tộc thuộc địa bị áp bức với các nước đã làm cách mạng XHCN thành công. Năm là, Quốc tế III đóng vai trò bộ tham mưu chung của cách mạng thế giới, nước Nga xô viết là ngọn cờ đầu, căn cứ địa, thành trì của cách mạng thế giới.
Luận cương Lênin có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định việc lựa chọn con đường cách mạng của Nguyễn Ái Quốc (tên thời trẻ của Hồ Chí Minh), bởi lẽ: Đây là văn bản chính thức đầu tiên bênh vực cho các nước thuộc địa, các dân tộc “nhược tiểu”. Những tư tưởng cơ bản trong Luận cương có nhiều điểm phù hợp với tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc, đặc biệt là sự đau xót trước nỗi thống khổ của quần chúng lao động khắp thế giới và sự quan tâm đến vấn đề giải phóng các dân tộc thuộc địa cũng như tinh thần đoàn kết của quần chúng lao động trong đấu tranh. Chính điều này đã làm cho Nguyễn Ái Quốc phấn khởi và tin theo, dứt khoát đi theo Quốc tế III. Dưới ánh sáng Luận cương của Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã nhận thấy rằng, tinh thần yêu nước, tinh thần dân tộc cần phải gắn bó chặt chẽ với tinh thần quốc tế vô sản và vấn đề độc lập dân tộc của Việt Nam cần phải gắn bó khăng khít với phong trào cách mạng vô sản thế giới. Người đã tìm thấy ở Luận cương của Lênin con đường giải phóng đất nước và nhân dân mình. Nguyễn Ái Quốc đã rút ra kết luận quan trọng: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Có thể khẳng định, Luận cương của Lênin đã mở ra con đường đưa Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác - Lênin.  
Như vậy, chính Luận cương của Lênin đã tạo ra bước ngoặt căn bản về chất trong sự phát triển nhận thức, tư tưởng và lập trường chính trị của Nguyễn Ái Quốc: Từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác - Lênin.
Ngày nay chúng ta đều thấy "định hướng XHCN" không phải là con đường duy nhất tiến lên dân giàu nước mạnh! Tiến lên dân giàu nước mạnh mục đích không nhiều thì ít, là nỗ lực có xu thế hầu như tất yếu của hầu hết các thể chế, các chính quyền nhà nước trên thế giới. Nguyên do, thứ nhất là vì lẽ sống còn, thứ hai là vì có như thế mới có văn minh! Các nước Trung Quốc, Triều Tiên...có định hướng XHCN không, nếu có định hướng thì sao lạ thế? Còn Singapore và các nước Bắc Âu...thì sao?
 Có lẽ con đường định hướng tiến lên dân giàu nước mạnh duy nhất đúng là con đường xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh mà thực chất là của dân, do dân và vì dân. Và lúc đó, nên vứt bỏ nhãn mác "định hướng XHCN" đi vì thừa, không cần thiết nữa!
                                         
                                           ***
 
Trần Phú
Tran Phu.gif
Chức vụ
Nhiệm kỳ 27 tháng 10 năm 1930 – 6 tháng 9 năm 1931
0 năm, 314 ngày
Tiền nhiệm Tổng Bí thư đầu tiên
Kế nhiệm Lê Hồng Phong
Thông tin chung
Đảng phái
  • Tân Việt Cách mạng Đảng
  • Quốc tế Cộng sản
  • Đảng Cộng sản Đông Dương
Sinh 1 tháng 5, 1904
Tuy An, Phú Yên, Liên bang Đông Dương
Mất 6 tháng 9, 1931 (27 tuổi)
Sài Gòn, Liên bang Đông Dương

   Tháng 10 năm 1930, Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp ở Hương Cảng (Trung Quốc) đã thông qua bản Luận cương Chính trị và bầu Ban Chấp hành Trung ương chính thức, ông được bầu Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng.
Tháng 3 năm 1931, với bí danh Anh Năm, ông chủ trì Hội nghị Trung ương lần thứ 2 tại Sài Gòn bàn việc chấn chỉnh Đảng sau đợt khủng bố của thực dân Pháp. Hội nghị khẳng định: "Đảng [Cộng sản Việt Nam] là đảng tiền phong của giai cấp vô sản, Đảng chiến đấu cho lợi ích sống còn của dân tộc, cho quyền lợi các giai cấp bị bóc lột, bị áp bức, nhưng không phải là đảng của Công Nông. Kiên quyết chống tả khuynh, chống hữu khuynh". Hội nghị đã vạch ra nghị quyết về nhiệm vụ hiện tại của Đảng, nghị quyết về tổ chức của Đảng, nghị quyết về cổ động tuyên truyền. Tại hội nghị này, một quyết định về "Tổ chức ra cộng sản thanh niên Đoàn là một nhiệm vụ thâu phục một bộ phận quan trọng của vô sản giai cấp, là một vấn đề cần kíp của Đảng phải giải quyết". Đây được xem là tiền đề để hình thành Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh về sau này. Theo Sophie Quinn-Judge, tác giả cuốn "Hồ Chí Minh: Những năm chưa biết đến" (Hochiminh: The missing years), mối quan hệ giữa Ban chấp hành trung ương với ông Hồ Chí Minh, lúc đó đã xuống dốc rất nhiều. Ông Hồ lúc đó bị chỉ trích vì người ta bắt đầu xem ông là một nhà cải cách theo xu hướng quốc gia

Tấm biển trên căn hầm tại ngôi nhà số 90 phố Thợ Nhuộm, Hà Nội ghi: Tại đây đồng chí Trần Phú đã viết bản "Luận cương về cách mạng tư sản dân quyền" của ĐảngTuy nhiên, ngay sau Hội nghị, do sự phản bội của Ngô Đức Trì, ngày 19 tháng 4 năm 1931, ông bị thực dân Pháp bắt tại nhà số 66 đường Champagne (đường Lý Chính Thắng hiện nay), Sài Gòn.
Biết ông là cán bộ cao cấp, chính quyền thực dân tìm cách dụ dỗ và tra tấn để khai thác thông tin. Nhưng với chí khí kiên cường, ông không bị khuất phục, dù bị đày ải nhiều lần. Ngày 6 tháng 9 năm 1931, ông qua đời tại Nhà thương Chợ Quán ở tuổi 27 với lời nhắn nhủ bạn bè "Hãy giữ vững chí khí chiến đấu".
Anh chị em tù chính trị ở khám lớn Sài Gòn năm 1931 đã làm thơ:

Ngày 12 tháng 1 năm 1999, hài cốt ông được di dời về an táng tại quê hương Đức Thọ, Hà Tĩnh. Mộ của ông được đặt trên đồi cao xã Tùng Ảnh, phía trước mộ là hàng chữ "Hãy giữ vững chí khí chiến đấu".
Về phụng sự “dưới trướng” một lãnh tụ thiên tài, kiệt xuất thường là những cá nhân có năng lực nổi trội, có biệt tài xuất chúng. Hồ Chí Minh đã có được một tập thể những con người ưu tú như vậy, chẳng hạn là: Trần Phú, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh, Trần Văn Trà… Một lãnh tụ thiên tài và một tập thể lãnh đạo tài giỏi, hết lòng vì sự nghiệp giải phóng dân tộc cũng là một trong những nguyên nhân quyết định cho sự thành công vang dội trong cuộc kháng chiến cứu nước ngót 30 năm của Cách mạng Việt Nam. Trong niềm vui và tự hào khôn xiết của cả Dân tộc là niềm vui và tự hào khôn xiết của cả tập thể ấy vì đối với họ, đúng như câu thơ Trần Văn Trà đã viết:
                           “Ra đi hai bàn tay trắng
                           Khi về một dải giang sơn”

 Nguyễn Chí Thanh
Daituong Nguyen Chi Thanh.jpg
Tiểu sử
Biệt danh Sáu Vi, Trường Sơn
Quốc tịch Flag of Vietnam.svg Việt Nam
Sinh 1 tháng 1, 1914
Quảng Điền, Thừa Thiên, Liên bang Đông Dương
Mất 6 tháng 7, 1967 (53 tuổi)
Hà Nội, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
Binh nghiệp
Thuộc Flag of the People's Army of Vietnam.svg Quân đội nhân dân Việt Nam
Năm tại ngũ 1950 - 1967
Cấp bậc Vietnam People's Army General.jpg Đại tướng
Chỉ huy Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam
Khen thưởng Huân chương Sao vàng (truy tặng)
Huân chương Hồ Chí Minh,
Huân chương Quân công hạng Nhất
Huân chương Chiến thắng hạng Nhất
...
Công việc khác Ủy viên Hội đồng Quốc phòng
Trưởng ban Nông nghiệp Trung ương
Bí thư Trung ương Cục miền Nam
Chính ủy Quân Giải phóng miền Nam
Từ năm 1965 đến năm 1967, ông được phân công vào Nam, giữ chức Bí thư Trung ương Cục miền Nam, kiêm Chính ủy Quân Giải phóng miền Nam. Thời gian này ông lấy bí danh là Sáu Vi. Khi viết báo, ông thường lấy bút danh là Trường Sơn.
Tại chiến trường, ông là người đề ra chiến thuật đánh áp sát của Quân Giải phóng miền Nam với phương châm "Nắm thắt lưng địch mà đánh", lối đánh này dùng phương châm cơ động áp sát nhằm hạn chế ưu thế hỏa lực của quân Mỹ.
Ông mất ngày 6 tháng 7 năm 1967 tại Hà Nội do một cơn nhồi máu cơ tim khi ra Hà Nội để báo cáo với Chủ tịch Hồ Chí Minh về tình hình miền Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đại tướng Nguyễn Chí Thanh tại Đại hội Đảng bộ Quân đội năm 1960

Tranvantra.jpg Thượng tướng Trần Văn Trà (1919-1996)  
 
      
Tiểu sử
Biệt danh Tư Chi, Tư Nguyễn, Ba Trà
Quốc tịch Flag of Vietnam.svg Việt Nam
Sinh 1919
Tịnh Long, Sơn Tịnh, Quảng Ngãi, Liên bang Đông Dương
Mất 20 tháng 4, 1996 (76–77 tuổi)
Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam
Binh nghiệp
Thuộc Flag of the People's Army of Vietnam.svg Quân đội Nhân dân Việt Nam
Năm tại ngũ 1946–1982
Cấp bậc Vietnam People's Army Colonel General.jpg Thượng tướng
Chỉ huy Flag of the People's Army of Vietnam.svg Quân đội Nhân dân Việt Nam
Tham chiến Chiến tranh Đông Dương
Chiến tranh Việt Nam
Khen thưởng Huân chương Hồ Chí Minh
Huân chương Quân công hạng nhất, hạng ba
Huân chương Chiến thắng hạng nhất
Công việc khác Tư lệnh Quân giải phóng miền Nam
Thứ trưởng Bộ Quốc phòng
Ủy viên Trung ương Đảng
Phó Chủ tịch Hội Cựu chiến
Ông lập gia đình với tiến sĩ sinh hóa nguyên Phó Giám đốc Viện Pasteur Thành phố Hồ Chí Minh Lê Thị Thoa, con gái luật sư Lê Đình Chi (1912-1949), Trưởng ban Quân pháp Nam Bộ. Sau khi nghỉ hưu, ông tập trung viết hồi ký và tham gia nhiều hoạt động xã hội.
Năm 1982, ông cho in cuốn Kết thúc cuộc chiến tranh 30 năm, trong đó có ghi những nhận định chủ quan của nhiều lãnh đạo Đảng Lao động, khi đã đánh giá quá cao khả năng quân sự của mình và đánh giá quá thấp khả năng của quân đội Mỹ và Việt Nam Cộng hòa trước và trong dịp Tổng tấn công Tết Mậu Thân. Sách mới in đến tập 5 thì bị thu hồi do quan điểm bị coi là không chính thống, nên các tập sau không được xuất bản.
Tuy nhiên hai câu thơ đó làm cho chúng ta ngậm ngùi nhớ về nhiều con người hữu danh cũng như vô danh đã gục ngã, đã khuất trên dọc đường trường chinh ấy, nhất là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ông thực sự đã “ra đi hai bàn tay trắng” để giành lại giang sơn cho dân tộc Việt, nhưng ông đã không có mặt trong ngày Toàn Thắng.
Ngay từ năm 1960, Hồ Chí Minh đã tiên đoán rằng chậm nhất là 15 năm nữa, miền Nam sẽ được giải phóng, Nam - Bắc sẽ xum họp một nhà và thường trực trong ông một mong ước tột cùng là đến ngày đó ông sẽ vào thăm hỏi đồng bào Miền Nam. Mong ước đó đã không bao giờ thành hiện thực: Hồ Chí Minh từ trần vào ngày 2-9-1969 (đúng vào ngày Quốc Khánh của nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa - cuộc đời của những thiên tài thường hay có những điểm kỳ lạ mà chỉ có thể giải thích được bằng con đường tâm linh).
Hồ Chí Minh chưa bao giờ kể về đời mình, chắc rằng không phải ông “làm cao” mà có lẽ ông định sau khi thống nhất nước nhà, thực sự mãn nguyệt rồi, lúc đó ông sẽ kể? Hay là vì điều này: Hồ Chí Minh là một vĩ nhân và những bậc vĩ nhân thường phải hội đủ hai mặt: danh tiếng “nổi như cồn” đồng thời cuộc đời có nhiều uẩn khúc? Và phải chăng địa linh nhân kiệt hun đúc nên vĩ nhân, anh hùng và đồng thời cũng bày ra sự trái ngược ấy để vĩ nhân, anh hùng đi vào lịch sử, bất tử ở đó với những câu chuyện truyền kỳ đượm sắc thái lung linh, huyền thoại liên quan đến thân thế, sự nghiệp họ?
Trong chính sử, điều rõ ràng là ở xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An có phó bảng Nguyễn Sinh Sắc lấy vợ là Nguyễn Thị Loan, sinh được ba người con: Nguyễn Sinh Khiêm, Nguyễn Thị Thanh và Nguyễn Sinh Cung. Cả ba người con ấy sau này đều không lấy vợ (hay chồng) nên cũng không có con. Lịch sử không nói đến thân phụ của Nguyễn Sinh Sắc là ai và cũng không cho biết Nguyễn Sinh Sắc là con một. Lịch sử về thân thế dòng họ Nguyễn Sinh, cơ bản chỉ có vậy. Người ta có cảm giác một dòng họ đột ngột được sinh ra từ trời đất, duy trì được 2 đời rồi tuyệt nhiên trở về trời đất, mất hút. Thật kỳ lạ!

Nguyensinhsac.jpg
Thông tin chung
thường gọi cụ Phó bảng
thường gọi Nguyễn Sinh Huy
Chức quan cao nhất Thừa biện bộ Lễ
Thê thiếp Hoàng Thị Loan
Hậu duệ Nguyễn Thị Thanh
Nguyễn Sinh Khiêm
Nguyễn Sinh Cung
Vương Chí Nghĩa
Thân phụ Nguyễn Sinh Nhậm
Thân mẫu Hà Thị Hy
Sinh 1862
Mất 1929 (66–67 tuổi)
Nguyễn Sinh Sắc (còn gọi là Nguyễn Sinh Huy), báo chí thường gọi bằng tên cụ Phó bảng; 1862–1929) là cha đẻ của chủ tịch Hồ Chí Minh.
 
Hình Ảnh đẹp về bác Hồ Chí Minh
Nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc năm 30 tuổi, khi ở Pháp.

Hình Ảnh đẹp về bác Hồ Chí Minh
Tại Đại hội toàn quốc Đảng Xã hội Pháp ở thành phố Tua (nước Pháp), tháng 12/1920, đồng chí Nguyễn Ái Quốc trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp.   
Hình Ảnh đẹp về bác Hồ Chí Minh
Giữa năm 1923, Người sang Liên Xô.
 
Hình Ảnh đẹp về bác Hồ Chí Minh
Sau Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ 5, đồng chí Nguyễn Ái Quốc về Quảng Châu tham gia cách mạng Trung Quốc, đồng thời lo xây dựng phong trào cách mạng Việt Nam và Đông Dương.
 
Hình Ảnh đẹp về bác Hồ Chí Minh
Đồng chí Nguyễn Ái Quốc năm 1930.
 
Hình Ảnh đẹp về bác Hồ Chí Minh
Hồ Chủ tịch năm 1945.
 
Hình Ảnh đẹp về bác Hồ Chí Minh
Ngày 31/5/1945, Người dẫn đầu Đoàn đại biểu Chính phủ ta sang đàm phán chính thức với chính phủ Pháp.
 
Ngưỡng mộ và kính phục Hồ Chí Minh, trong một thời gian dài, chúng ta đã cố gắng tìm hiểu nguồn gốc, dòng họ của Nguyễn Sinh Cung (tên lúc còn nhỏ của Hồ Chí Minh), từ Nguyễn Sinh Sắc - thân phụ ông, trở về trước và không thu được một manh mối thực sự đáng tin nào. Đành rằng ở Nam Đàn, Nghệ An cũng có một dòng họ Nguyễn Sinh, và cũng có thông tin kiểu “rỉ tai, truyền khẩu” rằng Nguyễn Sinh Sắc là con em ruột thịt của dòng họ này. Nhưng vì thông tin đó tỏ ra manh mún, mờ nhạt và hơn nữa ẩn chứa nhiều mâu thuẫn nên rất khó lòng mà tin được. Thời Nguyễn Sinh Sắc so với ngay thời nay vẫn là một quá khứ “rất gần”, so với thời Hồ Chí Minh còn sống, còn gần hơn nữa. Sao trong thực tế lịch sử thấy mối quan hệ giữa cha con Nguyễn Sinh Sắc với dòng họ Nguyễn Sinh có vẻ hời hợt, thiếu mật thiết? Chưa từng nghe Hồ Chí Minh có chú, bác ruột. Điều đó phải chăng vì Nguyễn Sinh Sắc là con trai một? Nếu thế sao không thấy Nguyễn Sinh Sắc lập bàn thờ, ít ra là thờ cha mẹ mình theo truyền thống dân tộc Việt. Tại sao lúc về già, Nguyễn Sinh Sắc giã từ con cái (ông Khiêm, bà Thanh), rời bỏ quê hương bản quán, hành phương Nam, đến Cao Lãnh - Đồng Tháp xa xôi hành nghề bốc thuốc và hoạt động yêu nước rồi mất tại đó?
Dứt khoát thông tin “rỉ tai, truyền khẩu” nói trên chưa xuất hiện khi ông Khiêm, bà Thanh và Hồ Chí Minh còn sống, vì không ai trong số họ, như mọi người dân Việt khác lại vô cớ chối bỏ dòng họ, ông bà mình. Nếu lúc đó đã có thông tin đó thì nó phải là sự thực, có tính công khai và phải có rất nhiều người biết, còn không, chỉ là một sự vu khống. Mà ai lúc đó dám mở miệng vu khống? Có thể nghĩ rằng đó là một thông tin thất thiệt, mãi về sau mới được tung ra và đơn giản là chỉ vì một ước muốn háo danh thầm kín nào đó chăng?
Như vậy, nếu suy luận của chúng ta có lý thì họ Nguyễn Sinh của Nguyễn Sinh Sắc và dòng họ Nguyễn Sinh ở Nam Đàn - Nghệ An chỉ là một sự trùng hợp ngẫu nhiên, còn không, nó phải hàm chứa một uẩn khúc nào đó. Để giải tỏa cái uẩn khúc đó thì trước tiên phải trả lời được câu hỏi: Nguyễn Sinh Sắc thực sự là ai, tại sao lại mang họ Nguyễn Sinh? Theo một bài viết (theo tác giả, "Đây là những lời truyền miệng nhân gian, cho nên cùng lắm, chúng chỉ có thể coi là những giai thoại mà, nếu không khó tính lắm, ta cũng có thể gọi là những giai thoại lịch sử.") của giáo sư Trần Quốc Vượng, là một trong những nhà khảo cổ học và nghiên cứu sử Việt Nam hàng đầu: 
"Nhưng đây không phải là chuyện cụ Hồ, tuy cũng có dính dáng đến cụ. Hồ. Mà vì đây là chuyện cụ thân sinh ra cụ Hồ, cụ Nguyễn Sinh Huy, mà cũng là chuyện truyền miệng thôi, nghĩa là thuộc phạm trù giai thoại, Folklore, chứ không thuộc phạm trù lịch sử, như tôi đã nói từ đầu bài này.
Người dân Kim Liên đồn rằng Nguyễn Sinh Huy không phải là thuộc dòng máu mủ của họ. Nguyễn Sinh làng này. Mà là con của một người khác: ông đồ nho - cử nhân - Hồ Sĩ Tạo.
Cử nhân Hồ Sĩ Tạo thuộc dòng họ Hồ nổi tiếng ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An (đây là quê gốc của Hồ Quý Ly, nhân vật lịch sử cuối thế kỷ XIV đầu thế kỷ XV, đây cũng là quê gốc của anh em Tây Sơn thế kỷ XVIII, vốn họ Hồ ở xứ Nghệ, đây cũng là quê hương Hoàng Văn Hoan, người đồng chí thân cận một thời của cụ Hồ Chí Minh, được cụ Hồ giao phụ trách công tác đối ngoại của Đảng Cộng Sản Việt Nam và chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa thời kháng chiến chống Pháp và là Đại sứ Việt Nam đầu tiên ở Cộng Hòa nhân dân Trung Hoa, hiện sống lưu vong ở Trung Hoa, có viết một tài liệu lịch sử làng Quỳnh Đôi, quê ông. Bà vợ nhà văn lớn Đặng Thái Mai - người một thời làm Viện trưởng viện Văn Học - là Hồ Thị Toan, cũng thuộc dòng họ Hồ này ở làng Quỳnh Đôi). Khoảng đầu những năm 60 của thế kỷ trước (thế kỷ XIX) cử nhân Hồ Sĩ Tạo có thời gian ngồi dạy học ở một nhà họ Hà, người làng Sài, cùng một xã Chung Cự, tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Đàn, với làng Sen (Kim Liên). Đó là một nhà nghệ nhân dân gian, trong nhà có "phường hát ả đào".
Nhà họ Hà có cô con gái tên là Hà Thị Hy, tài hoa, nhan sắc, đàn ngọt, hát hay, múa khéo, đặc biệt là múa Đèn (đội đèn trên đầu, để đèn trên hai cánh tay, vừa hát vừa múa mà dầu trong đĩa không sánh ra ngoài) nên người làng thường gọi là cô Đèn. Người ta thường bảo: má hồng thì mệnh bạc (như Đặng Trần Côn viết mở đầu khúc Chinh Phụ Ngâm "hồng nhan đa truân" - gái má hồng nhiều nỗi truân chuyên. Hay như Nguyễn Du than thở dùm người đẹp tài hoa trong truyện Kiều "chữ tài chữ Mệnh khéo là ghét nhau", "rằng hồng nhan tự thuở xưa, cái điều bạc mệnh có chừa ai đâu"). Vả ở thời ấy, dưới chế độ quân chủ nho giáo, lấy Tứ Dân (Sĩ, Nông, Công, Thương) làm gốc, người ta vẫn xem thường nghề ca xướng và con nhà ca xướng ("xướng ca vô loài"). Cô Đèn Hà Thị Hy tài hoa nhan sắc là thế mà rồi ba mươi tuổi vẫn chưa lấy được chồng. Mà trong nhà thì lại luôn có bậc văn nhân: ông cử Hồ Sĩ Tạo. "Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén" là lẽ thường theo tâm lý dân gian, huống chi là giữa văn nhân - tài tử - giai nhân. "Trai tài gái sắc" mà! Và cô Hà Thị Hy bỗng dưng "không chồng mà chửa". Mà ông cử Tạo thì đã có vợ, có con rồi! Lệ làng ngày trước phạt vạ rất nặng nề, sỉ nhục hạng gái "chửa hoang", hạng "gian phu dâm phụ". Để tránh nỗi nhục cho con gái mình và cho cả ông cử Tạo đang làm "thầy đồ" được hết sức kính trọng trong nhà mình, họ Hà phải bù đầu suy tính...
Lúc bấy giờ ở làng Sen cùng xã có ông Nguyễn Sinh Nhậm, dân cày, tuổi cao mà góa vợ (bà vợ trước đã có một con trai - Nguyễn Sinh Thuyết - và người con trai này cũng đã có vợ). Nhà họ Hà bèn cho gọi ông Nguyễn Sinh Nhậm đến điều đình, "cho không" cô Hy làm vợ kế ông này - như một người con gái xướng ca, quá lứa, lỡ thì, lấy ông già góa vợ - mong ém nhém việc cô gái đã "to bụng".
Công việc rồi cũng xong. Cô Hy ôm bụng về nhà chồng, có cưới, có cheo cẩn thận. Việc phạt vạ của làng không thể xảy ra. Nhưng cô gái tài hoa nhan sắc thì bao đêm khóc thầm vì bẽ bàng, hờn duyên tủi phận. Và ông lão nông dốt nát tuy được không cô gái đẹp nhưng cũng buồn vì đâu có đẹp đôi, lại cắn răng chịu đựng cái tiếng ăn "của thừa", "người ăn ốc (ông cử Tạo), kẻ đổ vỏ (cụ lão nông Nhậm)". "Miệng tiếng thế gian xì xầm", ai mà bịt miệng nổi dân làng. Mà trước hết là lời "nói ra, nói vào", lời chì chiết của nàng dâu - vợ anh Thuyết - vốn nổi tiếng ngoa ngoắt, lắm điều. Ông Nhậm đành cho con trai và vợ anh ta ra ở riêng, và mình ở riêng với bà vợ kế.
Chỉ ít tháng sau, bà vợ kế này đã sinh nở một mụn con trai, được ông đặt tên là Nguyễn Sinh Sắc, lấy họ ông mặc dù ông biết rõ hơn ai hết đó không phải là con ông, con nhà họ Nguyễn Sinh này. Nàng dâu ông càng "tiếng bấc, tiếng chì" hơn trước, vì ngoài việc bố chồng "rước của tội, của nợ", "lấy đĩ làm vợ" thì nay còn nỗi lo": người con trai này - được ông nhận làm con - lớn lên sẽ được quyền chia xẻ cái gia tài vốn cũng chẳng nhiều nhặn gì của một gia đình nông phu thôn dã. Việc ấy xảy ra vào năm Quý Hợi, đời vua Tự Đức thứ 16 (1863).
Vì trọng tuổi, lại vì lo phiền, vài năm sau cụ Nhậm qua đời và cũng chỉ ít lâu sau đó, bà Hy cũng mất. Nguyễn Sinh Sắc trở thành đứa trẻ mồ côi. Lên bốn, về ở với người anh gọi là "cùng cha khác mẹ" mà thật ra là "khác cả cha lẫn mẹ", cùng với bà chị dâu ngoa ngoắt, khó tính, lúc nào cũng chỉ muốn tống cổ cái thằng "em hờ" của chồng này đi cho "rảnh nợ".
Không cần nói, ta cũng hiểu Nguyễn Sinh Sắc khổ tâm về tinh thần, khổ cực về vật chất như thế nào trong cái cảnh nhà Nguyễn Sinh như vậy. Ta cảm thấy vô cùng thương xót một đứa trẻ mồ côi sớm chịu cảnh ngang trái của cuộc đời. Bên ngoại thì ông bà đều đã mất, họ Hà chẳng còn ai chịu cưu mang đứa trẻ có số kiếp hẩm hiu này.
May có ông tú đồ nho Hoàng Xuân Đường, người làng Chùa (Hoàng Trù) gần đó, xót thương đứa trẻ, dù sao cũng là hòn máu rơi của một nhà nho khác, lại có vẻ sáng dạ, nên đã đón về làm con nuôi, cho ăn học. Và đến khi Nguyễn Sinh Sắc 18 tuổi, ông bà đồ họ Hoàng lại gả cho cô con gái đầu lòng - Hoàng Thị Loan - mới 13 tuổi đầu, cho làm vợ, lại làm cho căn nhà tranh ba gian ở ngay làng Chùa, để vợ chồng Nguyễn Sinh Sắc ở riêng.
Ta dễ hiểu vì sao Nguyễn Sinh Sắc gắn bó với họ hàng làng quê bên vợ - làng Chùa - hơn là với làng Sơn "quê nội", quê cha "hờ". Con cái ông, từ người con gái đầu Nguyễn Thị Thanh, qua người con trai đầu Nguyễn Sinh Khiêm (tục gọi ông cả Đạt) đến người con trai thứ Nguyễn Sinh Côn (hay Nguyễn Tất Thành - sau này là Nguyễn Ái Quốc rồi Hồ Chí Minh) đều được sinh ra và bước đầu lớn lên ở làng Chùa bên quê Mẹ hay là quê "ngoại". Khi cụ tú Hoàng (Hoàng Xuân Đường) mất, vợ chồng con cái Nguyễn Sinh Sắc lại về ăn ở chung với bà đồ (tú) Hoàng. Các cháu đều quấn quít quanh bà ngoại.
Qua giỗ đầu cụ tú Hoàng, Nguyễn Sinh Sắc đi thi Hương khoa Giáp Ngọ và đậu cử nhân (1894). Ông được nhận ruộng "học điền", ruộng công của làng Chùa chia cho những người có học (nhằm khuyến khích việc học) để học thêm - chứ không phải nhận ruộng học của làng Sen. Khoa thi Hội Ất Mùi (1895), ông thi trượt.
Nhờ sự vận động gửi gấm của ông Hồ Sĩ Tạo - người cha thực của Nguyễn Sinh Sắc - với các quan lại đồng liêu quen biết ở triều đình Huế, Nguyễn Sinh Sắc được coi như ấm sinh, để được nhận vào học Quốc Tử Giám ở kinh đô Huế. (Ai cũng biết: để được nhận vào học Quốc Tử Giám và làm Giám sinh phải là con cháu của những gia đình có thế lực, gọi là "danh gia tử đệ". Nếu không có sự "can thiệp" của ông Hồ Sĩ Tạo là bậc khoa bảng cao quan thì làm sao Nguyễn Sinh Sắc được nhận? Thế là dù sao Hồ Sĩ Tạo vẫn còn có một "cử chỉ đẹp" với đứa con mà mình không dám nhận). Nguyễn Sinh Sắc - đổi tên là Nguyễn Sinh Huy - đem vợ và hai con trai vào Huế và đi học Quốc Tử Giám. Khoa thi Hội Mậu Tuất (1898), ông lại trượt.
Ngày 22 tháng chạp năm Canh Tý (10-2-1901) bà Hoàng Thị Loan ốm mất ở kinh đô Huế, sau khi sinh đứa con trai út (đứa con trai này ít ngày sau cũng chết). Nguyễn Sinh Côn (Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh ngày nay) trở thành con trai út.
Nguyễn Sinh Huy đem hai con trai về làng Chùa gửi mẹ vợ nuôi nấng chăm sóc dùm rồi trở vào Kinh thi Hội. Khoa Tân Sửu (1901) này, ông đậu phó bảng và được "vinh quy bái tổ" về làng.
Theo thể thức triều đình, lễ vinh quy này phải diễn ra ở quê nội - dù là quê nội danh nghĩa - tức là làng Sen - Kim Liên. Hội đồng Hương lý và dân xã đã dựng nhà tranh năm gian (chứ không phải nhà ngói) trên một khoảnh đất vườn làng Sen, để đón quan phó bảng tân khoa Nguyễn Sinh Huy về làng.
Thế là buộc lòng ông phải về "quê nội". Ông cũng đón hai con trai về ở cùng ông. Lần đầu tiên Nguyễn Sinh Côn - Hồ Chí Minh ngày sau - về ở quê nội nhưng thân ông, lòng ông vẫn hướng về quê ngoại là cái gì "đích thực" và gắn bó với tuổi tho ông. Ông phó bảng có đến thăm cụ Hồ Sĩ Tạo.
Nhưng gia đình ông phó bảng cùng hai con trai cũng không ở lâu tại Kim Liên. Chưa đầy ba năm! Sau khi mẹ vợ mất, ông vào kinh đô Huế nhận chức quan (1904) ở bộ Lễ, đem theo hai con trai vào Huế học. Năm 1907, ông bị đổi đi tri huyện Bình Khê ... Rồi sau khi bỏ quan (hay mất quan), khoảng 1910, ông phiêu bạt vô Sài gòn rồi lục tỉnh Nam Kỳ. Không bao giờ ông về làng Sen trở lại nữa.
Ở làng Sen sau này, chỉ có bà Thanh và ông Cả Đạt (Khiêm), cả hai đều không lập gia đình riêng.
Người ta bảo lúc sau khi cụ Hồ Sĩ Tạo đã qua đời, năm nào bà Thanh cũng qua Quỳnh Đôi góp giỗ cụ Hồ Sĩ Tạo. Thế nghĩa là cái "bí mật" về cội nguồn của cụ phó bảng Huy, trong số các con cụ, ít nhất có bà con gái đầu biết. Người ta bảo: ông Cả Đạt cũng biết, tuy không bao giờ ông sang Quỳnh Đôi nhận họ.
Còn Nguyễn Sinh Côn - Nguyễn Tất Thành - có biết không? Từ khoảng 11 đến 14 tuổi, ông ở làng Sen, có nhẽ nào không ai nói cho ông biết? Hay là trước đó nữa, khi ông ở làng Chùa quê ngoại gần gụi với làng Sen! Hay là sau đó nữa chả nhẽ không khi nào cụ phó bảng hay bà Thanh hay ông Cả Đạt lại không kể với ông về "bí mật" của gốc tích phụ thân mình?
Không có chứng cớ gì về việc ông Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc - biết hay không biết chuyện này...
Sau này, khi hoạt động cách mạng, ông còn mang nhiều tên khác nữa.
Nhưng đến đầu thập kỷ 40 của thế kỷ này, thì người ta thấy ông mang tên Hồ Chí Minh.
Sau cách mạng tháng tám 1945, khi tên tuổi Hồ Chí Minh trở thành công khai thì cũng bắt đầu từ đó dân gian Việt Nam - từ trí thức đến người dân quê - lại âm thầm bàn tán: vì sao Nguyễn Ái Quốc lại đổi tên là Hồ Chí Minh? Và tên này cụ giữ mãi cho tới khi "về với Các Mác, Lê-nin" năm 1969.
Cuộc đời thực của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh - còn quá nhiều dấu hỏi chứ phải đâu riêng gì một cái tên! Và biết làm sao được khi cụ Hồ - tôi nói lại một lần nữa theo cảm thức của người Ấn Độ - đã trở thành "huyền thoại" (myth). Huyền thoại Hồ Chí Minh được hình thành trong vô thức dân gian (popular inconscience) mà Carl Gustav Jung gọi là vô thức tập thể. Nhưng nó cũng có phần được hình thành một cách hữu thức, bởi một số cán bộ gần cận cụ Hồ. Nghĩa là một phần cuộc đời cụ Hồ đã được huyền thoại hóa (mystified).
Ngay sau cách mạng tháng Tám, người ta còn in cả cuốn sách (mỏng thôi!) về Sấm Trạng Trình có những câu vận vào cụ Hồ và sự nghiệp cách mạng tháng Tám. Và Sấm Trạng Trình vẫn được vận vào cụ Hồ còn lâu về sau nữa, ở miền Nam Việt Nam và hiện nay ở một số người Việt lưu vong, dù là với hậu ý (arrière-pensée) không ưa gì cụ Hồ.

Những câu nói hay bất hủ và ý nghĩa nhất của chủ tịch Hồ Chí Minh 1

Những câu nói hay bất hủ và ý nghĩa nhất của chủ tịch Hồ Chí Minh 2

Những câu nói hay bất hủ và ý nghĩa nhất của chủ tịch Hồ Chí Minh 3

Những câu nói hay bất hủ và ý nghĩa nhất của chủ tịch Hồ Chí Minh 4

Những câu nói hay bất hủ và ý nghĩa nhất của chủ tịch Hồ Chí Minh 5

Những câu nói hay bất hủ và ý nghĩa nhất của chủ tịch Hồ Chí Minh 6

Những câu nói hay bất hủ và ý nghĩa nhất của chủ tịch Hồ Chí Minh 7

Những câu nói hay bất hủ và ý nghĩa nhất của chủ tịch Hồ Chí Minh 8

Những câu nói hay bất hủ và ý nghĩa nhất của chủ tịch Hồ Chí Minh 9

Những câu nói hay bất hủ và ý nghĩa nhất của chủ tịch Hồ Chí Minh 10

Những câu nói hay bất hủ và ý nghĩa nhất của chủ tịch Hồ Chí Minh 11

Những câu nói hay bất hủ và ý nghĩa nhất của chủ tịch Hồ Chí Minh 12

Những câu nói hay bất hủ và ý nghĩa nhất của chủ tịch Hồ Chí Minh 13


Nhưng đó lại không phải là chủ đề của bài viết này.
Trở lại với cái tên Hồ Chí Minh, lời truyền miệng dân gian bảo rằng: Nguyễn Ái Quốc sau cùng đã lấy lại họ Hồ vì cụ biết ông nội đích thực của mình là cụ Hồ Sĩ Tạo, chứ không phải cụ Nguyễn Sinh Nhậm.
Và dân làng Sen cũng bảo: Thì cứ xem, lần đầu tiên về thăm quê hương, sau cách mạng, sau mấy chục năm xa quê (15-6-1957), từ thị xã Vinh - tỉnh Nghệ An - cụ Hồ đã về làng Chùa trước, rồi sau mới sang làng Sen "quê nội".
Riêng tôi nghĩ, thì cũng phải thôi. Vì như ở trên ta đã thấy, cả một thời thơ ấu của cụ Hồ là gắn bó với quê ngoại làng Chùa, nơi cụ sinh ra và bước đầu lớn lên. Chứ đâu phải làng Sen, là nơi cụ chỉ ở có vài năm, lại là khi đã bắt đầu khôn lớn?
Tôi không muốn có bất cứ kết luận "khoa học" gì về bài viết này. Vì nó không phải là một luận văn khoa học. Đây chỉ là việc ghi lại một số lời truyền miệng dân gian về nỗi bất hạnh hay là cái khổ tâm, hay là cái "mặc cảm" của một số nhà trí thức Nho gia từ đầu thế kỷ XIV (Trương Hán Siêu, Chu Văn An) đến đầu thế kỷ XX (Nguyễn Sinh Huy) đối với làng quê...".
  Thế rồi, như một sự tình cờ dễ chịu, mới đây, chúng ta có trong tay một cuốn sách cũ có tựa đề: “Anh hùng Võ Duy Dương chống Pháp ở Đồng Tháp Mười” do nhà nghiên cứu Thượng Hồng chủ biên (NXB Thanh niên, 2005), và hơn nữa, đọc được bài “Địa linh tam giác hợp, nhân kiệt nhị tộc giao” của Nguyễn Thế Kỷ trong tạp chí “Thế giới mới” số 818, năm 2009. Đọc hai bản văn đó, trong lòng chúng ta trỗi dậy một niềm vui khôn tả. Thì ra trong dân gian miền Trung và Nam Việt Nam, từ lâu đã lưu truyền câu chuyện về thân thế, gốc gác dòng họ của phó bảng Nguyễn Sinh Sắc (cũng là của Chủ tịch Hồ Chí Minh) và câu chuyện đó rất giàu sự thực. Chưa cần nói đến nội dung, chỉ cần nhìn thấy chân dung truyền thần của Võ Duy Dương thôi, thì ngay lập tức chúng ta đã mường tượng đến khuôn mặt của thanh niên Nguyễn Ái Quốc được chụp trong dịp hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Pháp; khuôn mặt của Lyn ở Mátxcơva, khuôn mặt của Tống Văn Sơ ở Trung Quốc và khuôn mặt Hồ Chí Minh cùng bộ râu của ông trong ngày Tuyên ngôn Độc Lập tại Hà Nội. Giống nhau “ghê gớm”, chỉ có khác là mắt Hồ Chí Minh cực sáng như có tia sáng phát ra từ bên trong và sâu thẳm nỗi niềm.
 

                             Hồ Chủ tịch sống mãi trong sự nghiệp chúng ta.
  

Theo Nguyễn Thế Kỷ thì Vũ Kỳ, người từng là thư ký của Hồ Chí Minh, lúc còn sống đã nói với ông rằng: Hồ Chí Minh thường nhắc nhiều đến Quảng Ngãi; khi bàn đến việc kết nghĩa giữa hai tỉnh với nhau, nhiều người hỏi tại sao Nghệ An phải kết nghĩa với Quảng Ngãi chứ không phải tỉnh nào khác, Hồ Chí Minh chỉ cười, và Vũ Kỳ còn nói: “Chuyện Bác (tức Hồ Chí Minh) nói về Quảng Ngãi, về Nghĩa Hành thì dài lắm, sâu nặng lắm, đợi đến khi nước nhà thống nhất, Bắc Nam xum họp, Bác mới nói được và sẽ về thăm làng Đại An, Quảng Ngãi và về Đồng Tháp Mười viếng mộ cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, Thiên Hộ Dương…”
Tại Đồng Tháp, nơi Võ Duy Dương tụ nghĩa chống Pháp, từ lâu trong dân gian đã xôn xao lời đồn “Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc là con ông Thiên Hộ Dương”.
Trong bài viết của mình, Nguyễn Thế Kỷ còn kể rằng thạc sĩ Võ Kim Chi và Võ Duy Ngô có đưa cho ông xem bản phả đồ phả hệ sơ lược của dòng họ Võ thì thấy:
Võ Duy Ninh - Tổng trấn Gia Định có hai con là Võ Duy Lập và Võ Duy Ngọc. Võ Duy Ninh và Hoàng Diệu là hai bạn thân cùng xuất phát từ Hưng Yên. Khi thành Gia Định thất thủ và Võ Duy Ninh tuẫn tiết (sử gia Nguyễn Quang Thắng và Nguyễn Bá Thế, tác giả cuốn Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, đã viết về danh sĩ Võ Duy Ninh: "Ông là vị tướng lãnh cao cấp hy sinh đầu tiên trong Nam thời giặc Pháp cướp nước ta"), thì Võ Duy Lập lập tức đứng ra chiêu mộ hàng ngàn người lập ấp, cùng Trương Định, Thủ khoa Huân tiếp tục chống Pháp. 
Nhờ chiêu mộ được hàng ngàn hộ dân nên ông được triều đình Huế phong chức Thiên Hộ Vương. Người Nam bộ nói Vương thành Dương nên tên Lập dần bị quên đi. Từ đó người ta gọi ông là Võ Duy Dương, Thiên Hộ Dương. Sau khi thất thủ ở căn cứ Đồng Tháp Mười, Võ Duy Dương vượt thoát vòng vây, cải trang đánh lừa mật thám Pháp, ra được Phan Thiết - Bình Thuận, rồi từ đó lần về quê ở Đại An - Hành Thuận - Nghĩa Hành… Sau lên chợ chùa mai danh ẩn tích. Võ Duy Dương có 5 người con là Võ Cường, Võ Kỳ, Võ Sắc, Võ Thị Thắm, Võ Thị Lan. Khi Võ Sắc lên 4 tuổi thì được cha Võ Duy Dương tìm cách đưa ra Nghệ An gửi gắm ông Hoàng Đường. Hoàng Đường là người có quan hệ ruột thịt với Tổng Trấn Hoàng Diệu, cũng từ Hưng Yên vào dạy học ở Nghệ An. 
Để tránh mọi hệ lụy trước sự dò la của mật thám Pháp, Hoàng Đường đã cố gắng cho Võ Sắc có cha mới và người này có họ là Nguyễn Sinh. Từ đó Võ Sắc trở thành Nguyễn Sinh Sắc. Sau này, Hoàng Đường đã gả con gái đầu là Hoàng thị Loan cho Nguyễn Sinh Sắc. Sự tác hợp này chính là cái duyên “Nhân kiệt nhị tộc giao”, sinh ra Nguyễn Sinh Cung để rồi Nguyễn Sinh Cung hóa thân thành một đại anh hùng của dân tộc Việt, thành danh nhân của thế giới với cái tên Hồ Chí Minh bất diệt. 

Nhưng tại sao lại là Hồ Chí Minh? Cái tên đó được chọn tình cờ hay có ẩn ý? Chúng ta tin rằng một con người ôm ấp nhiều nỗi niềm và tư duy một cách sâu sắc như thế không bao giờ làm những điều tình cờ.
 Sự thật lịch sử là có những người con của dòng họ Võ Duy đã từ Quảng Ngãi vào định cư ở Gia Định từ thời Thiệu Trị và Tự Đức. Năm 1842 (Thiệu Trị năm thứ 2), trong số 16 người đỗ cử nhân ở cuộc thi hương tại Gia Định có Võ Duy Quang (ngụ ở huyện Bình Dương). Năm 1848 (Tự Đức năm thứ nhất), thi hương tại Gia Định có 20 người đỗ cử nhân, trong đó có Võ Duy Hiền (ngụ huyện Bình Dương). Năm 1852 (Tự Đức năm thứ 5), trong số 13 người đỗ cử nhân tại kỳ thi hương ở Gia Định có Võ Duy Hương (ngụ huyện Bình Dương). 
Thời ấy huyện Bình Dương thuộc Gia Định thành. Võ Duy Hương là con ruột của Võ Duy Thành, mà Võ Duy Thành chính là anh ruột của Võ Duy Ninh (Thành và Ninh lúc bấy giờ đều là quan của triều đình Huế).
Tuy nhiên, điều rất lạ là trong suốt quãng thời gian đó và cho đến tận ngày Võ Duy Ninh tuẫn tiết, không thấy bất cứ một trang sách báo còn lưu lại nào, không có bất cứ một dòng sử liệu nào nhắc đến cái tên Võ Duy Dương cũng như mối quan hệ giữa Võ Duy Ninh và Võ Duy Dương, mặc dù Võ Duy Dương đã xuất hiện ở Nam Bộ, muộn nhất cũng vào năm 1857. 
Phải chăng lúc đó Võ Duy Lập đã đổi tên họ thành Nguyễn Duy Dương và chỉ sau khi triều đình phong cho chức Thiên Hộ Vương thì người ta mới biết gốc tích họ Võ Duy của ông mà từ đó gọi là Võ Duy Dương?
Chúng ta không có dịp được tận mắt xem gia phả họ Võ Duy nên xin đặt thêm câu hỏi: Vậy thân phụ Võ Duy Ninh là ai? Trong phả đồ, phả hệ sơ lược của dòng họ Võ Duy chỉ thấy bắt đầu từ Võ Duy Ninh và điều đáng chú ý hơn cả là, đúng thật, Võ Duy Lập còn có tên là Nguyễn Duy Dương.
Tại sao Võ Duy Lập lại “thích” họ Nguyễn Duy? Có lẽ nào dòng họ Võ Duy là từ dòng họ Nguyễn Duy, hay nói cho đúng hơn nữa là từ họ Nguyễn cải sang và từ ai đó mà Võ Duy Lập đã biết được điều (có thể là tuyệt mật) đó? Chúng ta đoán sự cải họ là tuyệt mật vì sống dưới triều Nguyễn, chẳng có động cơ nào để phải làm như thế. 
Chúng ta biết rằng khi triều Tây Sơn bị đánh đổ, dưới sự truy sát trả thù khốc liệt của Nguyễn Ánh, nhiều người có liên quan mật thiết với triều Tây Sơn đã phải cải họ, đổi tên, mai danh ẩn tích để sống còn (như trường hợp “Sinh Đào tử Đinh” mà chúng ta đã kể). Vậy, nếu dòng họ Võ Duy thực tế được cải sang từ họ Nguyễn và phải giữ kín như một điều tuyệt mật liên quan đến sống còn thì dòng họ này phải có quan hệ rất mật thiết với triều Tây Sơn, thậm chí là có mối thân tộc với dòng họ của ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ.
Bây giờ, chúng ta sẽ tập trung cao độ vào sự suy tưởng để “đoán mò” những ẩn ý sau những danh xưng Nguyễn Sinh Cung đã chọn cho mình mà chúng ta biết. Rõ ràng, cái tên Nguyễn Sinh Cung nếu có một ẩn ý nào đó thì chỉ có thể là ẩn ý của vợ chồng Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc.
Trong hồi ký “Tôi được làm người học trò nhỏ của Bác” của Lê Thiết Hùng, một vị tướng của Quân đội nhân dân Việt Nam, có kể là theo lời ông Nguyễn Sinh Khiêm (anh ruột Nguyễn Sinh Cung, quen gọi là Cả Khiêm) thì một bận, ông Giải San (Phan Bội Châu) muốn đưa Nguyễn Sinh Cung sang Nhật cùng với một số thanh niên khác. 
Trước mặt ông Đặng Thái Thân vừa thay mặt Hội, vừa như bậc cha chú, Nguyễn Sinh Cung trân trọng nói đại ý: Cháu rất quí trọng tấm lòng yêu nước thương nòi của các bác, nhưng con đường đi của các bác thì cháu không thể theo được, cháu sẽ tìm con đường đi khác.
Chuyện đó cho thấy ngay từ thời niên thiếu, Nguyễn Sinh Cung đã cảm nhận được sự bế tắc của cuộc giải phóng dân tộc do các nhà cách mạng tiền bối tiến hành. Do đó, Nguyễn Sinh Cung đã nung nấu đi tìm một con đường cứu nước khác, đúng đắn nhất, muốn thế, trước hết phải xuất bôn, tự mình quan sát, tìm hiểu trực tiếp thế giới. Để tỏ rõ sự quyết chí của mình, ngay từ những bước đi đầu tiên tới Phan Thiết trong cuộc hành trình vạn dặm và dài lâu, Nguyễn Sinh Cung đã đổi tên thành Nguyễn Tất Thành. Tất Thành là phải thành công, chắc chắn thành công, nếu chưa thành công thì có nghĩa là khát vọng mãnh liệt vào sự thành công!
Vào đến Sài Gòn, khi bước chân xuống một tàu buôn Pháp nhận vai phụ bếp, chính thức rời Tổ quốc đi vòng quanh thế giới, Nguyễn Tất Thành lại đổi tên thành Nguyễn Văn Ba. Cái tên này giản dị và thông thường quá, khó mà có một ẩn ý nào. Nhưng chúng ta, vốn là những kẻ “cứng đầu cứng cổ”, vẫn cố “nghĩ ngợi” một phen.
Tại sao lại là Ba? Ngoài người anh ruột là Cả Khiêm, Tất Thành còn có người chị ruột là bà Nguyễn Thị Thanh - Hai Thanh. Vậy có thể gọi Tất Thành là Ba Thành. Ba có nghĩa là người anh em thứ ba chăng? Có thể suy diễn Ba là bôn ba, nhưng suy diễn đến thế thì e quá lố mất rồi! 
Trong cuộc sống thường ngày, người dân Nam Bộ thường dùng cách xưng hô theo thứ rất giản dị mà cũng thân mật như: Anh Hai (người Bắc gọi là anh Cả), Chị Ba, Ông Tư… Đặt tên là Ba chắc chỉ hàm ý như vậy thôi. Thế còn tại sao lại đổi từ Sinh thành Văn? Khi lớn lên không lẽ Nguyễn Sinh Cung không một lần thắc mắc về dòng họ nội của mình? Chắc rằng, như sau này chúng ta thấy, Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc đã biết rất rõ quê hương bản quán bên nội của mình là ở Quảng Ngãi, có thể cả bên ngoại là ở Cao Lãnh - Đồng Tháp hoặc Bình Dương - Gia Định. 
Tuy nhiên có lẽ ông không biết tung tích mẹ và người cha Nguyễn Duy Dương của mình, hoặc tin rằng cha mình đã mất. Hơn nữa, có thể Nguyễn Sinh Sắc cũng biết mối quan hệ rất gần gũi, mật thiết của dòng họ nội với ba anh em nhà Tây Sơn (mà chúng ta đã giả định). Những thông tin này chẳng lẽ Nguyễn Sinh Cung không biết? Sách “Tây Sơn lương tướng ngoại truyện” của tiến sĩ Nguyễn Trọng Trì (1854-1922), viết về lai lịch, tư chất, sự nghiệp công huân, phẩm hàm của 14 vị võ tướng Tây Sơn, trong đó có 8 vị quê ở Nghĩa - Bình (Quảng Ngãi - Bình Định) là:
Đô đốc Nguyễn Văn Tuyết
Đô đốc Đặng Văn Long
Đô đốc Nguyễn Văn Lộc
Tướng quân Lê Văn Hưng
Tướng quân Lê Văn Trung
Tướng quân Phạm Cầu Chính
Tướng quân Võ Đình Tú
Tướng quân Đặng Xuân Phong
Chưa kể nữ đô đốc Bùi Thị Xuân và có thể còn thêm vài người nữa…
Phải chăng Võ Duy Lập, một con người khí phách, đã cải họ trở lại từ Võ thành Nguyễn và Nguyễn Tất Thành, một con người đang quyết chí, đã cải họ lót từ Sinh thành Văn vì nguyên nhân (mà chúng ta đã giả định) này?
Khi hoạt động trên đất Pháp, Nguyễn Tất Thành đổi tên thành Nguyễn Ái Quốc. Ái Quốc chính là sự bày tỏ nỗi niềm nhớ thương, tình yêu nồng nàn đối với Tổ Quốc của một con người ra đi tìm đường cứu nước biền biệt mà vẫn mịt mù sương khói.
Năm 1920, tiếp xúc được với “Những luận cương” của Lênin đăng trên báo “Nhân đạo” ở Pari, Nguyễn Ái Quốc đã thốt lên: “…Đây là con đường giải phóng chúng ta!”, và: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”.
Tháng 6-1923, Nguyễn Ái Quốc bí mật sang nước Nga-Xôviết. Tại đây ông lấy bí danh là Lyn. Ẩn ý của bí danh này, theo chúng ta, là sự ngưỡng mộ Cách mạng Tháng Mười, khâm phục Lênin và tự nhận là học trò của Lênin.
Cuối năm 1924, Nguyễn Ái Quốc về đến Quảng Châu, mang một cái tên mới: Lý Thụy. Ẩn ý của Lý Thụy là gì? Theo tự điển, nghĩa của từ "thụy" là viên ngọc, tốt lành, điềm lành ngủ, tên cúng cơm. Khi dùng nó đặt tên cho ai đó thì có nghĩa: đa tài, đại cát, thành công.  Thế còn họ Lý? Chúng ta biết rằng Nguyễn Ái Quốc là một người hết mực yêu nước thương nòi, đã tìm hiểu đến am tường lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, đồng thời cũng rất tự hào về dân tộc Việt của mình. Thời xa xưa, dân tộc Việt có ba vị anh hùng tạo được 3 mốc son không thể phai mờ trong lòng con cháu hôm nay và mai sau, đó là:
- Lý Bí: Lý Bí là người đã phất cờ khởi nghĩa, kháng chiến đánh tan ách đô hộ và sự xâm lược của nhà Lương (Trung Quốc), giành lại độc lập thực sự cho đất nước sau thời Văn Lang, Âu Lạc và đặt quốc hiệu là Vạn Xuân, “có ý mong xã tắc được bền vững muôn đời” (Đại Việt sử ký). Ông là người Việt Nam đầu tiên tự xưng hoàng đế (Nam Đế). Ông cũng bãi bỏ lịch Trung Hoa, đặt niên hiệu riêng là Thiên Đức, đúc tiền riêng… tỏ rõ ý thức tự chủ dân tộc, công khai phủ nhận quyền bá chủ thiên hạ của triều đại phong kiến phương Bắc.
- Lý Công Uẩn: Năm 1010, Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế, lấy niên hiệu là Thuận Thiên. Công lao lớn nhất của ông đối với dân tộc Việt là dời đô từ Hoa Lư về thành Đại La, trở lại với nơi đắc thế, địa linh nhân kiệt để hình thành nên một kinh đô Thăng Long mà ngày nay là Hà Nội ngàn năm văn vật, với bản hùng văn “Chiếu dời đô” vang vọng non sông.
- Lý Thường Kiệt: là vị tướng lừng danh của triều đại nhà Lý, người trực tiếp chỉ huy cuộc kháng chiến chống cuộc xâm lăng lần thứ hai của nhà Tống - Trung Quốc (Cuộc kháng chiến chống Tống thắng lợi lần thứ nhất do Lê Hoàn thực hiện) và giành thắng lợi với hai chiến công hiển hách: đại phá thành Ung Châu, đại phá quân Tống trên phòng tuyến sông Như Nguyệt. Cũng chính tại phòng tuyến này, bài thơ “Nam quốc sơn hà…” bất hủ của Lý Thường Kiệt đã vang lên dõng dạc và đanh thép. Bài thơ đó cũng chính là bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của nước Đại Việt - Việt Nam.

                                 Đền thiêng thờ vị vua đầu tiên xưng Đế trong lịch sử dân tộc Việt Nam
 
Đền thờ vua Lý Nam Đế - xã Văn Lương ( Nay là xã Vạn Xuân, Tam Nông, Phú Thọ)
Đặc biệt, Văn Lương có tên làng cổ là Văn Lang nổi tiếng với những câu chuyện cười hài hước, di sản được nhiều người biết đến. Nơi đây, tại động Khuất Lão (Khuất Liêu) gò Cổ Bồng - Rừng Cấm xã Văn Lương địa danh đã gắn liền với lịch sử dân tộc đó là cuộc khởi nghĩa Lý Bôn (Lý Bí) năm 541 -  548 chống quân xâm lược nhà Lương. Sau khi lên ngôi Lý Bí tự xưng là Lý Nam Đế và lấy tên nước là Vạn Xuân. Năm 548 Vua Lý Nam Đế băng hà, điện mộ được thờ tại gồ Cổ Bồng - Rừng Cấm nay thuộc khu 2 xã Văn Lương
Vua lý Nam Đế. Ảnh: internet
Cổng chùa Cổ Pháp, nay thuộc làng Đình Bảng tỉnh Bắc Ninh,
nơi tương truyền Lý Công Uẩn từng sống thời bé.
Ảnh tư liệu
Tượng đài vua Lý Thái Tổ, một trong những công trình kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội.
                                           
                                        Tượng Lý Thái Tổ và Lý Thái Tông ở đền Lý Bát Đế
Đền Lý Thường Kiệt làng Như Nguyệt 
                                  
                                         Tượng Lý Thường Kiệt trong Đại Nam Quốc Tự 
Phải chăng Nguyễn Ái Quốc chọn họ Lý là vì thế?
Năm 1933, Lý Thụy lại đổi thành Tống Văn Sơ. Sơ có thể là sơ khởi, sơ khai, thuở ban sơ, sơ kỳ… Còn chữ Tống, nếu suy diễn kiểu như trên thì phải nghĩ ngay đến nhà Tống bên Trung Quốc. Nếu tạm bỏ chữ Văn đi thì chúng ta có Tống Sơ. Nếu Tống Sơ ám chỉ về thời kỳ đầu của nhà Tống thì chỉ có thể là thời Bắc Tống (960-1127). Nhưng tại sao Lý Thụy, một người Việt Nam yêu nước chân chính lại chọn cái tên nhắc đến một triều đại Trung Quốc đã đem quân xâm lược nước ta đến 2 lần, và suy diễn như vậy có phải là quá hồ đồ không?
Mùa xuân năm 1940, Nguyễn Ái Quốc từ nước Nga Xôviết về tới Côn Minh, lấy bí danh là Hồ Quang (nhà báo). “Quang” phải chăng là quang đãng, sáng sủa? Tháng 7-1942, Nguyễn Ái Quốc viết báo cáo gửi Quốc Tế Cộng Sản, bản báo cáo gồm 17 trang có ký tên người dịch là Lý Tuấn. “Tuấn” ở đây có thể gợi nhớ đến Trần Quốc Tuấn và “Lý Tuấn” có thể hiểu là “Lý - Trần”, hai thời đại kế tiếp nhau cực kỳ hào hùng trong công cuộc chống ngoại xâm của dân tộc Việt?
Sau đó, cũng trong năm 1942, Nguyễn Ái Quốc đổi tên lần cuối cùng thành Hồ Chí Minh. Trải qua một cuộc hành trình dài đăng đẳng, bôn ba khắp chốn, vượt qua bao gian nguy, vượt qua những năm tháng đau buồn bởi sự nghi kỵ trong nội bộ của phong trào Quốc Tế Vô Sản, đến đây, Nguyễn Ái Quốc đã thấy rõ được con đường tất yếu phải đi để cứu dân cứu nước, thấy rõ được thời cơ đang đến, thấy rõ được tương lai sáng lạn của công cuộc giải phóng dân tộc mà mình suốt đời theo đuổi đã ở rất gần. Chính vì vậy mà Ái Quốc đã chuyển thành Chí Minh. Chí Minh là hoàn toàn minh bạch (về chí khí), hoàn toàn sáng tỏ (về nhận thức) và hoàn toàn sáng lạn (về công cuộc cách mạng). (Có một sự kiện đáng lưu ý: Hầu Chí Minh, thiếu tướng Quốc Dân Đảng là người trực tiếp thả Hồ Chí Minh ra khỏi tù theo lệnh Tưởng Giới Thạch vào năm 1943, tuy nhiên Nguyễn Ái Quốc đã mang tên Hồ Chí Minh vào tháng 8-1942, tức là trước khi bị bắt. Nếu cho rằng ông đã mượn tên như một sự hàm ơn thì phải đổi lại thời điểm đặt tên đã ghi trong lịch sử).
Còn họ Hồ thì mang ý nghĩa gì đây? Chúng ta nhớ lại rằng trước khi băng hà, vua Quang Trung đã căn dặn Trần Quang Diệu phải khẩn trương dời đô từ Phú Xuân ra Nghệ An. Có thể Nghệ An là khu vực mà dưới nhãn quan quân sự của Quang Trung, có địa thế công - thủ về mặt chiến lược ưu việt hơn Phú Xuân. Có thể là vì cả điều này: lòng dân Nghệ An luôn sắt son hướng về triều đại Quang Trung - Tây Sơn. Trước đây, mỗi lần ra Bắc, vào Nam, Quang Trung - Nguyễn Huệ đều dừng chân ở đất Nghệ An, nhất là trước khi ra Thăng Long đại phá quân Thanh, ông đã dừng chân ở Nghệ An để tuyển thêm một lực lượng quân sĩ đáng kể và được nhân dân, các bô lão trong vùng nhiệt thành ủng hộ. Và vì cả điều này nữa: Nghệ An là đất tổ của dòng họ Hồ tại Việt Nam mà họ Hồ lại là họ gốc của ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ. Vậy, nếu phỏng đoán rằng dòng họ Võ Duy có liên quan một cách “thân bằng quyến thuộc” với dòng họ ba anh em nhà Tây Sơn là đúng, thì cũng phải cho rằng việc chọn họ Hồ của Nguyễn Ái Quốc là hành động lấy lại họ gốc của mình.
Chúng ta đoán rằng ẩn ý của cái tên Hồ Chí Minh là như vậy.
Đến đây, dựa vào những tư liệu lịch sử có được cùng với những suy diễn võ đoán của mình, chúng ta đã thấy tạm đủ để tạo dựng nên truyền thuyết lịch sử, huyền thoại về một cuộc tích tụ nên một nhân vật tinh hoa của hồn thiêng dân tộc Việt từ khí thiêng sông núi nước Việt. Trước hết, đã là truyền thuyết, huyền thoại thì phải có hư có thực, có huyền có chân, do đó mà cũng có đúng có sai. Duy có một điều hoàn toàn tin cậy được là chúng ta làm việc này với cái tâm chân thực, trong sáng nhất và coi đó như là một nhiệm vụ thiêng liêng trong cuộc hành trình tìm kiếm những viên ngọc của lịch sử đã từng tồn tại trong thế giới loài người.
 
Theo "Sử họ Hồ Việt Nam" của Hồ Bá Hiền thì: "Viễn Tổ xa xưa của họ Hồ là Vua Ngu Thuấn cách đây khoảng 43 thế kỷ rồi đến Hồ Công (Ngu Vĩ Mãn) khoảng hơn 30 thế kỷ trước. Vì vậy khi Hồ Quý Ly lên ngôi, lập ra triều đại nhà Hồ đã đặt Quốc hiệu nước ta là Đại Ngu. Ngu đây theo danh từ cổ là sự yên vui (Hồ Quý Ly muốn xây dựng đất nước ta thành một nước thịnh trị, yên vui theo gương một vua hiền thời thượng cổ Trung quốc mà người Trung Hoa xưa nay vẫn tôn thờ).
 Nhà thờ họ Hồ Quỳnh Đôi có câu đối “Cổ nguyệt môn cao hệ xuất thần minh Ngu Đế trụ”nghĩa là họ Hồ gốc từ vua Ngu Thuấn. (Phụ lục I sẽ nói kỹ về vua Ngu Thuấn và ngài Ngu Vĩ Mãn)
I. Nguồn gốc sự nghiệp Nguyên tổ: Theo Đại Việt sử ký toàn thư (ĐVSKTT) của các sử thân nhà Lê (NXB KHXH 1971 - Tập II trang 224): “Tổ tiên họ Hồ là Hồ Hưng Dật vốn người Chiết Giang, thời Hậu Hán Ngũ Quý sang làm Thái thú Châu Diễn, sau nhà ở hương Bào Đột rồi làm trại chủ” (Chú ý: Quốc sử ghi là sang làm,không ghi là được cử sang. Vì lúc này nước ta đã độc lập tự chủ (sau Ngô Quyền xưng vương năm 939 nên bọn phong kiến Trung Quốc không thể cử Ngài sang đươc). Theo “Hồ tông thế phả” phần nói về Nguyên Tổ Hồ Hưng Dật (dịch nghĩa-đại ý): “Đức Nguyên Tổ Trạng nguyên Hồ Hưng Dật, người Vũ Lâm -Tích Giang - Phúc Kiến thời Ngũ Đại còn gọi là Ngũ Quý hậu Hán Ẩn Đế là Nho thần sang nước ta thời hậu Ngô (1)làm Thái thú lộ (2) Diễn Châu, đến thời nước ta có loạn 12 sứ quân, Ngài lui về làm trại chủ hương Bào Đột (Bào Trạch) nay là Bào Giang Về sau các chi phái phồn thịnh, các người họ Hồ trong châu đều là con cháu của Ngài….”.

       Còn chúng ta kể: 
Trên đất nước Trung Hoa trong giai đoạn cuối thời kỳ “Ngũ đại, Thập quốc”, đầu thời Bắc Tống, tồn tại tình trạng chia cắt, cát cứ trầm trọng, chiến tranh thôn tính lẫn nhau xảy ra triền miên. Ở những nơi có chiến tranh, thây người chết đầy đường, ruộng đồng bỏ hoang, cảnh vật tiêu điều, có khi cả ngàn dặm cũng không thấy bóng người. Đời sống nhân dân Trung Quốc lúc bấy giờ vô cùng khốn khổ, nhiều người, nhiều gia đình đã phải rời bỏ quê hương bản quán đi xa, ly tán, chạy trốn chiến tranh, lang thang đây đó tìm nơi nương náu, tìm chốn dung thân.
 
                          A map showing the territory of the Song, Liao, and Xia dynasties. The Song dynasty occupies the east half of what constitutes the territory of the modern People's Republic of China, except for the northernmost areas (modern Inner Mongolia province and above). The Xia occupy a small strip of land surrounding a river in what is now Inner Mongolia, and the Liao occupy a large section of what is today northeast China.
                                                                  Bắc Tống năm 1111
Vào khoảng thời gian từ năm 960-980 có một bầu đoàn thê tử họ Hồ, do trưởng họ là trạng nguyên (đang bị triều đình truy đuổi vì có những hành động chống đối) Hồ Hưng Dật dẫn dắt, từ vùng Triết Giang - Trung Quốc ra khơi, dong buồm lánh nạn xuống phương Nam và đã cập vào bờ biển Nghệ An. Người Việt ở xứ Nghệ vốn mang bản tính nhân hậu, bao dung từ ngàn xưa thời các vua Hùng của dân tộc Việt, đã sẵn lòng dung nạp, cưu mang đoàn người. Đoàn người Trung Quốc ấy chính là gốc gác họ Hồ bên cạnh nhiều dòng họ khác của dân tộc Việt, chung sống hòa thuận trên đất nước Việt. Dần dần, giọt máu họ Hồ tan hòa vào dòng máu người Việt, lan tỏa ra Thanh Hóa, cả những nơi khác nữa và con em họ Hồ sau này đã trở thành con em của dân tộc Việt, đấu tranh cho quyền lợi dân tộc Việt. Nhiều người trong số họ đã có công lao đối với dân tộc Việt.
Vào thời Việt Nam xảy ra nạn Trịnh - Nguyễn phân tranh, có một vài người họ Hồ ở Nghệ An do bị bắt làm tù binh hoặc đơn thuần là mưu sinh đã xuất hiện tại xứ Quảng Nam - Đàng Trong khai khẩn đất hoang, định cư, lạc nghiệp.
Những người họ Hồ ấy đã phải cải sang họ khác để dễ bề làm ăn, sinh sống. Chủ yếu là cải sang họ Nguyễn và trong số này có cụ tổ bốn đời của anh em nhà Tây Sơn, đồng thời cũng có (hoặc cũng là) cụ tổ của một võ tướng họ Nguyễn của phong trào Tây Sơn, người mà sau này trở thành cái gốc xuất phát của dòng họ Võ Duy (?). Vị tướng này phải trạc tuổi anh em nhà Tây Sơn để có con trạc tuổi con đầu Nguyễn Huệ là Nguyễn Quang Toản (vua Cảnh Thịnh) hoặc có thể lớn hơn một chút để cho ra đời Võ Duy Ninh vào năm 1804 và trước đó là Võ Duy Thành. (Năm 1792, khi Quang Trung mất, Quang Toản mới 10 tuổi!).
Như vậy vị võ tướng nói trên chính là ông nội của anh em nhà Võ Duy. Khi triều Cảnh Thịnh bị tiêu diệt, thân phụ của anh em Võ Duy Thành, Võ Duy Ninh đã phải mai danh ẩn tích, cải họ thành Võ Duy (không biết miếu hiệu của Quang Trung là Thái Tổ Vũ Hoàng Đế có liên quan gì đến việc cải họ thành Võ Duy này không? Vì Vũ, nói trại đi để kiêng húy thành Võ).

                       cangdanangkhiphapvao_500
Đến năm 1857, vua Tự Đức vẫn duy trì chính sách cấm đạo nghiệt ngã; tư bản phương Tây mượn cớ đó bèn đẩy mạnh việc vũ trang xâm lược nước ta. Giữa năm 1858, chiến hạm Pháp và chiến hạm Tây Ban Nha đến hội quân tại Hải Nam để chuẩn bị xâm lược Việt Nam.
                            Pháp tấn công và đổ bộ vào bán đảo Sơn Trà

tranchien
Một bức tranh của người Pháp từ cuối TK19
mô tả trận chiến 1858 tại bán đảo Sơn Trà
 
Võ Duy Ninh sinh năm 1804 tại làng Đại An, xã Hành Thuận, huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi. Tuy nhiên, tổ quán của Võ Duy Ninh là ở Bình Định. Nghe đâu cụ tổ năm đời của Võ Duy Ninh là Võ Hữu Man. (Có thể là Hồ Hữu Man cải thành Nguyễn Hữu Man, rồi sau này, khi triều Tây Sơn sụp đổ, trong cuộc lùng sục đàn áp trả thù những người theo Tây Sơn của Nguyễn Ánh, con cháu đã sửa lại thành họ Võ. Rất tiếc dòng họ Võ này có gia phả nhưng đã bị thiêu hủy vào năm 1972). Hữu Man là người Đàng Ngoài vào khai khẩn lập nghiệp tại Cù Lâm Nam (thôn Nam Tượng, xã Nhơn Tân, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định; hiện nay Nam Tượng chỉ là một thôn nhỏ với mươi nóc nhà, sau lưng là núi Thơm, trước mặt là núi Hòn Giang, bên trái là núi An Tượng, bên phải là sông Côn, cách làng Kiên Mỹ (quê hương Nguyễn Huệ) 12 km, xa xa về phía trước mặt là núi chàng Lía). Có thể cha của Võ Duy Ninh đã ra Quảng Ngãi lánh nạn rồi lấy vợ và sống ẩn dật ở đó, hoặc cũng là sự thường tình xưa nay, trên con đường binh nghiệp của mình, ông đã có vợ bé ở làng Đại An? Năm 30 tuổi (năm Giáp Ngọ - 1834, Minh Mạng thứ 15), ông đỗ cử nhân tại Huế, là một trong 11 vị khoa bảng đầu tiên của đất Quảng Ngãi. Ngay sau khi đỗ cử nhân, Võ Duy Ninh được triều đình Huế giao cho nhiều trọng trách: Hành tẩu Bộ Lại (năm 1834), Bố chánh Hưng Yên (năm 1847), Hữu Tham tri Bộ Lại (năm 1852), Phó Chủ khảo trường thi hương Thanh Hóa (năm 1850), Quan duyệt quyển khoa thi Hội năm Bính Thìn (năm 1856). Tháng 7-1858 (tức năm Mậu Ngọ - Tự Đức thứ 11), trước tình hình Thực dân Pháp lăm le đánh Đà Nẵng và các tỉnh Nam Kỳ, triều đình Huế đã điều động Võ Duy Ninh vào giữ chức Hộ đốc thành Gia Định, sau thăng lên chức Tổng trấn Định Biên. Ông là một vị quan bản lĩnh, hiểu biết về quân sự và có đức độ nên được quân sĩ dưới quyền nể phục, dân chúng địa phương tôn kính.
Thực dân Pháp nổ súng đánh Đà Nẵng vào ngày 31-8-1858, với âm mưu thực hiện đánh nhanh thắng nhanh hòng “giáng cho Huế một đòn quyết định”. Nhưng âm mưu đó bất thành trước sự phản ứng quyết liệt và có hiệu quả của quân dân Đà Nẵng - Quảng Nam, dưới sự chỉ huy của Nguyễn Tri Phương , Tổng đốc quân thứ Quảng Nam. Tướng Pháp là Đô đốc Giơnuy phải thay đổi kế hoạch, quyết định kéo quân xuống phía nam đánh chiếm Gia Định.
Ngày 10-2-1859, tàu chiến Pháp bắn đại bác vào Vũng Tàu. Trong vòng 6 ngày (từ ngày 10-2 đến 15-2), quân Pháp tiến từ Cần Giờ đến Nhà Bè (sát thành Gia Định), triệt phá được 12 đồn trong hành tiến.
Ngày 17-2-1859, quân Pháp tấn công thành Gia Định, dùng chất nổ phá tường thành, đánh thủng Cửa Đông. Pháo thần công của quân triều đình bắn xuống tàu chiến và bộ binh Pháp nhưng không hiệu quả. Quân Pháp xông được vào thành, hai bên cận chiến, xáp lá cà. Quân triều đình không chống cự nổi, đến trưa đành phải rút đi, bỏ lại nhiều xác chết, hầu hết súng đạn, thóc gạo và hơn 100 chiến thuyền gỗ trên sông Thị Nghè. Đô đốc Trần Trí, Bố chánh Vũ Trực, Lãnh binh Tôn Thất Năng lui quân về ụ Tây Thái, án sát Lê Tứ tự vẫn, còn Tổng trấn Võ Duy Ninh thì dẫn một cánh quân rút về làng Phước Lý, huyện Phước Lộc, Biên Hòa. Quân Pháp kéo tới bao vây, dụ hàng. Trong cảnh binh hao, lực tận và bản thân đã bị thương, Tổng đốc Võ Duy Ninh biết rằng chống cự nữa là điều không thể, chỉ gây thêm những cái chết vô ích cho quân lính triều đình đã thiếu hẳn vũ khí tự vệ. Để tỏ lòng trung quân ái quốc, khí phách không khiếp sợ của mình, ông đã chọn con đường tuẫn tiết chứ không chịu rơi vào tay giặc, trở thành tấm gương bất khuất, sáng ngời cho con em đời sau. Những người tâm phúc đã âm thầm chôn cất và giấu kín tung tích mộ phần của Tổng trấn Võ Duy Ninh để về sau thân nhân đưa hài cốt ông về táng ở quê nhà. Nhân dân Gia Định - Biên Hòa và toàn cõi Nam Kỳ vô cùng chua xót và kính phục Võ Duy Ninh khi biết ông tuẫn tiết.

                      Giadinh.jpg
      
Tháng 11 năm 1858, triều đình cử ông vào Nam Kỳ giữ chức Hộ đốc thành Gia Định. Sau đó một năm, đầu năm 1859, ông được thăng làm Tổng đốc Định - Biên, cai quản hai tỉnh Gia Định và Biên Hòa. Tuy nhiên, khi ông vừa đến Gia Định nhậm chức Tổng đốc mới vẻn vẹn được hai ngày thì quân Pháp nổ súng tấn công Cần Giờ - Gia Định. Cuộc chiến đấu chống giặc Pháp từ Cần Giờ đến thành Gia Định diễn ra trong gần một tháng trời với ưu thế về vũ khí nghiêng hẳn về phía quân Pháp.
Nhận thức được tiềm lực của quân Pháp, một mặt Võ Duy Ninh tìm cách gọi quân cứu viện từ các tỉnh đến cứu thành, một mặt chấn chỉnh đội ngũ và tinh thần binh lính. Khi quân Pháp ồ ạt tiến vào cửa thành, bắn phá các pháo đài dọc sông và tiến thẳng vào thành Gia Định, Võ Duy Ninh đốc thúc quân đội kháng cự dũng mãnh, song không giữ nổi thành trước binh lực mạnh áp đảo của địch. Kể từ khi Pháp nổ súng đánh thành Gia Định, chỉ sau vài ngày, quân Pháp đã vào được thành. Tổng đốc Võ Duy Ninh cũng trúng đạn trọng thương bất tỉnh.
Ông được quân sĩ cõng về làng Phước Lý thuộc huyện Phước Lộc. Sau khi tỉnh dậy, biết được quân Pháp đã chiếm được thành Gia Định, ông đã rút gươm tự sát vào ngày 17 tháng 2 năm 1859.
Về gia đình, Võ Duy Ninh có hai người vợ và bốn người con gồm hai trai, hai gái. Bà chánh thất Đào Thị Thạnh là con gái của Thượng thư Bộ lại Đào Nguyên Phổ (không thể được vì 1861 ông Phổ mới đẻ mà! NV), quê ở Bà Chiểu, Gia Định.
                       .
Đại bác của hải quân Pháp, được đúc năm 1868, bên cạnh những khẩu "Thần uy tướng quân" của quân đội nhà Nguyễn.
Võ Duy Ninh có vợ là người huyện An Nhơn - Bình Định. Họ sinh được 2 người con trai, người con đầu tên Ngọc, người thứ hai tên Lập.
Võ Duy Lập được sinh ra tại Hành Thuận, Nghĩa Hành, Quảng Ngãi vào năm 1827. Là hậu duệ của một võ tướng, ông thích võ hơn văn, tuy học văn rất giỏi nhưng không ứng thí vì không thích chốn quan trường. Ông học võ từ rất sớm và ngay từ thuở nhỏ đã được tặng biệt danh Ngũ Linh Dương nhờ một lúc cử được 5 trái linh (mỗi trái 60 cân) trong một kỳ thi võ. Ở tuổi thanh niên, dáng vóc ông to lớn, mạnh mẽ và rất giỏi võ nghệ. Ông cũng thường giao du với những thanh niên có lòng yêu nước cùng lứa và cả lớp đàn anh như: Trương Định, Trương Gia Mô, Nguyễn Thông, Âu Dương Lân, thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa…
Trong khoảng những năm từ 1840 đến 1845, có lần Võ Duy Lập đã theo cha mình là Võ Duy Ninh vào Gia Định như một chuyến được ngao du và với mục đích là thăm thú bà con họ hàng đang sống và làm ăn ở đó (vì trước đó đã có một bộ phận dòng họ Võ Duy từ Quảng Ngãi vào định cư tại huyện Bình Dương - Gia Định). Trong thời gian thăm thú Gia Định, Võ Duy Lập gặp một người con gái (có thể là do mai mối) tên là Trương Gia Hương, thuộc dòng dõi thế gia rất nổi tiếng ở Gia Định, Bến Tre và Bình Thuận. Nàng là em họ của cử nhân Trương Gia Hội, là cô họ của Trương Gia Mô, nhà cách mạng đồng thời với Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc và cũng là người sau này dẫn lối cho Nguyễn Tất Thành vào Sài Gòn. Năm 1910, một thanh niên tên Nguyễn Tất Thành (sau này là Hồ Chí Minh) cầm thư giới thiệu của cha là ông Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc đến gặp ông ở làng Hà Thủy, tổng Đa Phước, tỉnh Bình Thuận. Được sự gửi gắm của bạn, lại thấy Tất Thành có chí hướng, nên ông viết thư giới thiệu Thành với ông Hồ Tá Bang - một trong các sĩ phu sáng lập viên của Liên Thành Thương Quán và trường Dục Thanh ở Phan Thiết. Sau đó, ông Hồ Tá Bang đã cho người ra đón Nguyễn Tất Thành vào dạy học tại Trường Dục Thanh. Tháng 3 năm 1911, ông Hồ Tá Bang và Trần Lê Chất đưa Nguyễn Tất Thành vào Sài Gòn để tìm cách sang Pháp.
Sau chuyến đi này, Võ Duy Lập về quê, lấy Trương Gia Hương làm vợ, vợ ông sinh đứa con đầu lòng, đặt tên là Võ Duy Cung. Năm 1858, bà sinh người con thứ hai, đặt tên là Võ Duy Phụng.
Năm 1857, hưởng ứng chính sách khai hoang, chiêu dân lập ấp của triều đình Huế (mà người trực tiếp phát động phong trào là Nguyễn Tri Phương), Võ Duy Lập cùng bạn bè và những người có chí tang bồng xuôi thuyền vượt biển vào Nam, đến đất Ba Giồng, Tiền Giang ven Đồng Tháp Mười, khai khẩn. Vì là cuộc đi khai khẩn vùng đất mới có thể gặp rừng thiêng nước độc nên Võ Duy Lập đã để vợ con ở lại quê nhà (lúc này vợ ông đã cấn thai người con thứ hai), và có thể vì lý do không muốn ai biết mình là con của vị quan lớn Võ Duy Ninh nên ông cũng đổi họ thành Nguyễn Duy Dương (thậm chí là Nguyễn Văn Dương, trở về họ gốc).
Khi được biết Võ Duy Ninh đã vào Gia Định nhận chức Hộ đốc, Lập có đến ra mắt cha mình. Người cha biết được cuộc khẩn hoang, lập ấp của con ở đất Ba Giồng, nhưng không biết được Lập đã đổi họ tên. Chính lần gặp gỡ này đã cho Nguyễn Duy Dương biết cha mình được phái vào Nam mộ quân ở các tỉnh Long - Tường - An – Hà (Vĩnh Long, Định Tường, An Giang, Hà Tiên), tăng cường phòng thủ cho Gia Định thành. Từ đây, ngoài việc vận động dân ở các địa phương, nhất là dân các tỉnh miền Trung tụ về làm hình thành nên khu vực định cư mới ở đất Ba Giồng, Nguyễn Duy Dương còn phải nhanh chóng chiêu mộ lập nên một đội nghĩa binh, tích cực rèn chí, luyện gan theo lời cha dặn.
Ngày Pháp đánh Gia Định thành, Nguyễn Duy Dương kéo số dân binh ít ỏi của mình đến trợ chiến quân triều đình. Sau khi thành Gia Định thất thủ, ông cùng số dân binh đó trở về lại Ba Giồng, xây dựng Lý Nhơn thành căn cứ địa, quyết tâm chống Pháp. Nghe tin cha tuẫn tiết, ông đã bí mật lặn lội đến Phước Lý chịu tang, đồng thời bí mật vận động được một số binh lính triều đình ở đó theo về cùng ông tiếp tục chiến đấu, trả thù cho cha.
 
 Lý do Pháp lại đánh Gia Định, chứ không đánh ra Bắc Kì

+Giáo sĩ Pellerin (đóng vai trò cố vấn chính trị và quân sự) khuyên nên đem quân ra chiếm Bắc Kỳ, vì ở đó có giáo sĩ và giáo dân Thiên Chúa giáo, và những người tôn phù nhà Lê nổi lên góp sức, nhưng sau khi cân nhắc, tướng De Genouilly không tán thành.
Theo thư, ngày 29 tháng 1 năm 1859 của viên tướng này gửi Bộ trưởng Hải quân Pháp ở Paris, thì “Sài Gòn nằm trên một con sông mà chiến thuyền của chúng ta dễ vào, và hễ quân lên bộ thì đánh thành ngay, không phải lưng cõng, vai mang, băng đồng mệt nhọc. Sài Gòn lại là một vựa thóc. Nhân dân và binh lính ở kinh thành Huế sống một phần nhờ gạo Sài Gòn. Đến tháng Ba thì thuyền chở thóc gạo, sẽ kéo buồm từ Sài Gòn ra Huế. Chúng tôi quyết chặn thóc gạo đó lại…”.
 
+ Gia Định xa Trung Quốc sẽ tránh được sự can thiệp của nhà Thanh.
+ Xa kinh đô Huế sẽ tránh được sự tiếp viện của triều đình Huế.
+Chiếm được Gia Định coi như là chiếm được kho lúa gạo của triều đình Huế, gây khó khăn cho triều đình.
+ Đánh xong Gia Định sẽ theo đường sông Cửu Long, đánh ngược lên Campuchia (Cao Miên) làm chủ lưu vực sông Mê Kông.
+ Hơn nữa lúc này người Pháp phải hành động gấp vì tư bản Anh sau khi chiếm Singapo và Hương Cảng cũng đang ngấp nghé chiếm Sài Gòn để nối liền cửa biển quan trọng trên.
+ Sau khi bị bại trận ở Đà Nẵng, tháng 1/1859, Rigault de Genouilly đề nghị Bộ Hải quân một cuộc chiến đánh chiếm Gia Định ở Nam Kỳ, một thành phố có ý nghĩa chiến lược quan trọng như một nguồn cung cấp thực phẩm cho quân đội Việt Nam.
 
Bị cầm chân ở Đà Nẵng, Charles Rigault de Genouilly (gọi tắt là De Genouilly) buộc phải thay đổi kế hoạch, là rút đi hai phần ba số quân (tức 2.000 người) [Sách Gia Định xưa (tr. 96) ghi là 2.176 quân.] và 8 trong số 14 chiến thuyền ở mặt trận này để vào đánh chiếm Gia Định.
                                                         
Hình: Thành Phụng theo mô tả trong một sơ đồ quy hoạch của Pháp năm 1867.

                               
Hình: Charles_Rigault_de_Genouilly, chỉ huy quân đội Pháp tấn công Gia Định năm 1859. Hình chụp khoảng năm 1870.
 Ngày 11 tháng 2, đoàn tàu chiến Pháp vào sông Cần Giờ. Quân Pháp vừa đi vừa tháo gỡ những chướng ngại vật trên sông và triệt phá 12 đồn trại của quân Việt ở hai bên bờ, nên mãi tới chiều 15 tháng 2, quân Pháp mới đến được ụ Hữu Bình [ụ Hữu Bình vốn là một đồn nhỏ nằm bên hữu ngạn sông Sài Gòn đắp từ thời chúa Nguyễn Ánh (1789) và gọi là đồn Thảo Câu. Sau lại gọi là đồn Giao Khẩu. Năm Minh Mệnh thứ 15 (1834) đổi tên là pháo đài Hữu Bình. Năm Thiệu Trị thứ 7 (1847), cho tu bổ, đắp thêm núi đất và lập riêng xưởng pháo (theo Đại Nam nhất thống chí, tập 31: “tỉnh Gia Định”, mục: “Cửa quan và tấn sở”). Theo Nguyễn Đình Đầu, đồn còn có tên là đồn Vàm Cỏ, khi quân Pháp chiếm gọi là Fort du Sud (người Việt dịch là Đồn Nam). Đồn này nằm ở cuối kho Thương cảng, góc sông Sài Gòn với cầu Tân Thuận ngày nay. Đối diện với đồn Vàm Cỏ là đồn Giác Ngư (hay Dốc Ngư, tục gọi là đồn Cá Trê) đắp năm 1789, sau đổi là Tả Định, quân Pháp gọi là Fort du Nord (người Việt dịch là Đồn Nam). Đồn này nằm bên Thủ Thiêm trên bờ tả ngạn sông Sài Gòn (Địa chí văn hóa TP. HCM, tập 1, tr. 172).]. Cuộc đấu pháo đã diễn ra dữ dội suốt đêm. Quân Việt dùng thuyền nhỏ chở đầy thuốc súng và rơm khô, định dùng kế hoả công nhưng bị quân Pháp biết, sai người lén đốt trước.

Ngày 16 tháng 2, bảy tàu chiến Pháp dàn trận, ra sức bắn phá cho đến khi quân Việt phải bỏ chạy và quân Pháp xông lên chiếm được pháo đài.
      
                          
Hình: Tàu chiến của lực lượng viễn chinh Pháp và Tây Ban Nha từ sông Sài Gòn bắn vào thành Gia Định (tranh của Antoine Léon Morel-Fatio) – Năm 1859
              
         Hình: Thần công thành Gia Định, đang được trưng bày tại Lăng Ông Bà Chiểu.
              
Hình:Quân Pháp đánh chiếm thành Gia Định (Đại Nam) – năm 1859.
Sáng sớm ngày 17 tháng 2, tướng De Genouilly cho đại bác trên tất cả các tàu chiến bắn yểm hộ rồi cho một cánh quân đổ bộ. Đội quân ấy đi theo con đường mà sau này (1865), Pháp đặt tên là đường Citadelle rồi dùng chất nổ phá thành. Pháo trên thành bắn xuống tàu đối phương nhưng không mấy hiệu quả. Và khi đánh thủng được cửa Đông, quân Pháp dùng thang cao leo vào thành, thì đôi bên liền xông vào đánh xáp lá cà. Đến khoảng 10 giờ trưa, Hộ đốc Võ Duy Ninh [3], đang giữ trọng trách trấn thủ thành, ra lệnh lui quân, bỏ lại hầu hết súng đạn, thóc gạo và hơn trăm chiến thuyền gỗ trên sông Thị Nghè.

Sau khi Pháp đã chiếm được thành Gia Định, ông đã rút gươm tự sát vào đêm 17-2-1859. Bộ tướng của ông là án sát Lê Từ cũng tự vẫn. Pháp chiếm được hơn 200 khẩu pháo, 20.000 vũ khí cầm tay như súng, súng ngắn và kiếm, 100 tấn đạn dược, 80.000 tấn gạo và 130.000 franc tiền mặt. Tổng thiệt hại vật chất ước tính vào khoảng 20 triệu franc khi đó.

Trận đánh này được bắt đầu vào rạng sáng ngày 17 tháng 2 năm 1859 và kết thúc khoảng 10 giờ trưa cùng ngày.

Tuy thắng trận, nhưng thực dân Pháp không đủ quân để giữ thành, không nhận được sự hỗ trợ từ các giáo sĩ và giáo dân Thiên Chúa giáo và luôn bị các đội nghĩa quân ngày đêm bám sát, tìm cách bao vây, nên quân Pháp đã phải quyết định phá hủy thành Gia Định. 
                                                                
    Hình: Tướng Võ Duy Ninh
  Võ Duy Ninh (1804-1859) tên tự là Trọng Chí, biệt hiệu Trúc Nghiêm Võ Chí Hiên, sinh năm 1804 tại làng Đại An, xã Hành Phong (nay là xã Hành Thuận, huyện Nghĩa Hành), tỉnh Quảng Ngãi. Năm Minh Mạng thứ 15 (1834), ông đỗ cử nhân khoa Giáp Ngọ. Tháng 11-1858, triều đình cử ông vào Nam Kỳ giữ chức hộ đốc thành Gia Định. Đầu năm 1859 ông được thăng làm tổng đốc Định – Biên, cai quản hai tỉnh Gia Định và Biên Hòa. Tuy nhiên, khi ông vừa đến Gia Định nhậm chức tổng đốc vỏn vẹn được hai ngày thì quân Pháp nổ súng tấn công Cần Giờ – Gia Định. Hài cốt của ông hiện an táng tại xã Hành Thuận, huyện Nghĩa Hành (Quảng Ngãi).
 
Theo sách Sài Gòn xưa và nay, sau khi chiếm được thành Gia Định (thành Phụng do vua Minh Mạng xây), để tránh quân triều đình nhà Nguyễn đánh chiếm lại, ngày 8/3/1859 tướng De Genouilly cho đặt 32 ổ mìn đánh sập thành Phụng. Đồng thời, quân Pháp cũng cho tiêu hủy toàn bộ kho bên trong, đốt cả thóc lúa.

Chuyện này được nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu ghi lại:

“Bến Nghé của tiền tan bọt nước,
Đồng Nai tranh ngói nhuộm màu mây…“.

Phá tan thành Gia Định xong, De Genouilly chỉ để lại một số quân đóng giữ ở đồn Nam (đồn Hữu Bình), còn bao nhiêu rút hết xuống các tàu chiến.

Ngày 20 tháng 4 năm 1859, viên tướng trên giao quyền cho Đại tá hải quân Jauréguibery chiếm giữ Gia Định, rồi lui tàu trở lại mặt trận Đà Nẵng với phần lớn lực lượng của mình để tăng cường lực lượng bảo vệ của Thoyon. Vào ngày 8 tháng 5 năm 1859, ông ta trực tiếp dẫn đầu một cuộc tấn công của Pháp vào các cuộc bao vây của Việt Nam tại Đà Nẵng. Cuộc tấn công đạt được thành công hạn chế, nhưng người Pháp không thể phá vỡ cuộc bao vây.
Trong một báo cáo gửi về Bộ Hải quân Pháp ở Paris, tướng De Genouilly đã than rằng: “Bây giờ tôi không biết bằng cách gì và đến chừng nào cái sự việc Nam Kỳ này mới được giải quyết” và “Không thể không thừa nhận rằng cuộc chiến tranh ở xứ này còn khó hơn cuộc chiến tranh với Trung Hoa”. “Người Việt Nam tự vệ mạnh mẽ, đường đạn của họ không phải là không chính xác, tàu La Dragonne bị trúng ba phát đạn, tàu Avalanche bị 7 phát…”.
 
Theo sử gia Trần Trọng Kim:
Ở Gia Định, bấy giờ tuy có nhiều binh khí, nhưng quân lính không luyện tập, việc võ bị bỏ trễ nải, cho nên khi quân Pháp ở cửa Cần Giờ tiến lên, quan hộ đốc là Vũ Duy Ninh vội vàng tự đi các tỉnh lấy binh về cứu viện; nhưng chỉ trong hai ngày thì thành vỡ…

Theo GS. Trần Văn Giàu:
Lúc Pháp đến đánh, trong thành Gia Định chỉ có hơn một nghìn quân thủ thành, trong thành có đủ khí giới, lương thực cho mười ngàn quân đóng giữ trong một năm. Điều đó chứng tỏ rằng, triều đình thờ ơ với sự phòng vệ. Mặc dầu, năm sáu tháng nay Pháp đánh Đà Nẵng, và từ hơn tuần nay đối phương vào Cần Giờ liên tiếp… 
 
Đại đồn Chí Hòa - kỳ 1: Trận chiến không thể quên - Ảnh 4.
Quân Pháp tấn công Đại đồn Chí Hòa             
        GS. Trần Văn Giàu viết:
Đại đồn là một cái đồn rộng quá, chiều dài 3.000 mét, chiều ngang 1.000 mét. Nó thiếu cao thừa rộng, mặt thì yếu (hai bên hông), mặt thì mạnh (mặt tiền ngó ra sông Sài Gòn), nên quân của đối phương dễ leo vào, đánh xuyên hông, đánh bọc hậu.
Về vũ khí, trên mặt tường đồn, có 150 đại bác đủ loại, nhưng phần nhiều là đại bác bắn đạn gang, trúng ai nấy chết. Nếu là chiến tranh thời trung cổ với vũ khí thô sơ, thì đại đồn có thể xem như khá kiên cố...nhưng ở đây nó phải đối chọi với những vũ khí hiện đại, hùng hậu, có sức công phá mãnh liệt...
Tuy có chủ trương "vừa công vừa thủ", nhưng không hơn gì Tôn Thất Hiệp, Thống tướng Nguyễn Tri Phương vẫn án binh bất động, chỉ khác một điều là ông tập trung sức lực quân dân (khoảng 30.000 người) không phải vào việc đánh mà vào việc xây dựng Đại đồn Chí Hòa nhằm bao vây địch chặt chẽ hơn, tính không cho địch bung ra rộng hơn nữa...(Để rồi) Đại đồn xây dựng gần một năm với công sức của mấy vạn quân và dân, chỉ bảo vệ được hơn một ngày thì mất!. Đại đồn Chí Hòa, biểu hiện chiến lược phòng thủ tai hại của tướng Nguyễn Tri Phương...

Qua Chí Hòa hoài cổ

Tiện bước qua thăm cảnh Chí Hòa
Đây nơi chiến địa buổi can qua.
Đống xương vô định sương vùi lấp,
Giọt máu hy sanh cỏ nhuộm lòa.
Cứu nước chẳng nề thân sống thác,
Liều mình không quản sức xông pha!
Người xưa, cảnh cũ nay còn nhớ?
Tang hải buồn thay nỗi nước nhà!
  
Nguyễn Trung Trực: tên thật là Nguyễn Văn Lịch, người phủ Tân An, Định Tường ( nay thuộc Long An ). Khi Pháp xâm lược Nam Kì, ông đã cùng nhân dân đứng lên chống Pháp. Trận đánh nổi tiếng của ông là vụ đốt cháy chiến hạm Hi Vọng của Pháp trên sông Vàm Cỏ Đông trưa ngày 10/12/1862. Ông đã cùng một toán nghĩa quân dụ giặc lên bờ rồi cầm đầu 5 chiếc thuyền áp tới khiến bọn giặc trên tàu không kịp trở tay, bị tiêu diệt hầu hết. Sau trận đánh đó ông được triều đình phong chức Quân cơ coi giữ vùng Hà Tiên. Trận đánh trên sông Nhật Tảo khích lệ mạnh mẽ tinh thần cứu nước của nhân dân lục tỉnh. Thực dân Pháp đã thú nhận:“Đây là một trận đau đớn làm cho tinh thần người Việt phấn khởi và gây cảm xúc sâu sắc trong một số người Pháp”.
Năm 1867 triều đình phong cho ông chức Lãnh Binh, rồi điều ông ra miền Trung nhưng ông đã chống lệnh, lập căn cứ ở Hòn Chông. Rạng sáng ngày 16/6/1868 ông đưa quân đánh úp đồn Kiên Giang ( nay là thị xã Rạch Giá ) tiêu diệt toàn bộ quân địch ở đó. Tháng 9/1868 ông bị giặc bắt, dụ dỗ nhưng ông kiên quyết không đầu hàng, ông đã nói một câu nổi tiếng: ”Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam mới hết người Nam đánh Tây”.Ngày 27/10/1868 giặc Pháp đã hành hình ông ở Rạch Giá.
 

Chân dung anh hùng Nguyễn Trung Trực.
 
Nguyễn Trung Trực đánh chìm tàu chiến Pháp ngay trên sông Vàm Cỏ Đông
Đó là trận đánh chìm tàu chiến Et-phê-răng ( Hi vọng ) của địch trên sông Vàm Cỏ Đông (đoạn chảy qua thôn Nhật Tảo) của nghĩa quân Nguyễn Trung Trực.
Cũng trong khoảng thời gian này, Quản cơ Trương Công Định đem quân bản bộ của mình (gồm lính đồn điền và nông dân được chiêu mộ) về Lý Nhơn, hợp sức với người bạn trẻ Nguyễn Duy Dương gấp rút xây dựng thành một căn cứ địa vững chắc, rồi lấy đó làm bàn đạp, nhanh chóng xuất quân trở lại Gia Định tổ chức đánh phục kích tiêu hao lực lượng quân Pháp.
Sau đó, khi Nguyễn Tri Phương (được triều đình Huế cử vào thay Tôn Thất Hiệp, chỉ huy cuộc kháng Pháp ở Gia Định) kêu gọi quân dân hợp sức chống giặc (tập trung chủ yếu vào việc xây dựng đại đồn Chí Hòa, đồn này rộng 300m, dài 1000m, chia làm 5 khu ngăn cách nhau bằng bờ rào gỗ, rào tre, đào hào cắm chông, 150 cỗ đại bác các loại, bắn bằng đạn gang được bố trí trên mặt thành), thì các toán quân “ứng nghĩa”, trong đó có quân của Quản cơ Trương Công Định và của Nguyễn Duy Dương, đều qui tụ về Chí Hòa, đầu quân dưới sự chỉ huy của ông. Chính trong dịp này, Quản cơ Trương Công Định được triều đình thăng lên chức Phó lãnh binh, còn Nguyễn Duy Dương được phong chức Thiên Hộ (chức này cũng như một chức võ quan có lực lượng dân binh riêng hàng ngàn người, cai quản một khu vực dân cư khoảng ngàn gia đình)).
Đến đây, họ tên Võ Duy Lập đã mất hút từ lâu và đến tên Lập cũng chẳng ai còn nhớ nữa. Võ Duy Lập, con Tổng trấn Võ Duy Ninh coi như đã bặt vô âm tín. Ngay cả đối với bà con họ hàng ruột thịt của Võ Duy Ninh ngụ tại Bình Dương cũng coi như thế. Mối liên hệ giữa Võ Duy Lập và Thiên hộ Nguyễn Duy Dương đã hoàn toàn bị xóa sạch. Thậm chí, cái họ Nguyễn Duy cũng rất ít người biết vì trong đời sống hàng ngày, không ai gọi tên họ cả mà chỉ gọi tên, kèm theo thứ tự anh em trong gia đình (người miền Nam không gọi người con đầu là “cả” mà là “hai”), hoặc kèm theo chức vụ, phẩm hàm… Ví dụ đối với Nguyễn Duy Dương, người ta chỉ gọi: Dương, Ba Dương (vì có anh hai là Ngọc), Năm Linh, Thiên Hộ Dương. Chỉ có những người thân tín nhất, theo sát ông nhất, vào sinh ra tử cùng ông, mới biết Thiên hộ Dương chính là con trai của quan Tổng trấn Võ Duy Ninh, từ đó mà suy ra họ của ông phải là Võ Duy, thế thôi chứ không hề hay biết Dương cũng là Lập.
Sau khi đại đồn Chí Hòa thất thủ, Nguyễn Tri Phương cùng quân triều đình rút chạy. Phó lãnh binh Trương Công Định và Thiên Hộ Dương cũng rút quân về Lý Nhơn. Tại đây Trương Công Định cùng Nguyễn Duy Dương và Âu Dương Lân cắt máu ăn thề kết làm huynh đệ sống chết có nhau và bàn tính phương kế liên kết chống Pháp. Dù căn cứ địa Lý Nhơn đã được bố trí, tạo dựng vững vàng nhưng thấy tập trung quân vào một chỗ là hạ sách nên Trương Công Định để lại một phần quân số tăng cường cho Thiên Hộ Dương ở lại Lý Nhơn, rồi cùng Âu Dương Lân dẫn hơn một ngàn nghĩa binh về Gò Công, xây dựng căn cứ địa, củng cố lực lượng và tích cực chiêu mộ thêm nghĩa binh. Lực lượng của Trương Công Định nhanh chóng lớn mạnh, và cùng với Thiên hộ Dương, tiếp tục gây cho giặc Pháp nhiều thiệt hại, làm cho chúng mất ăn mất ngủ.
Ngày 5-6-1862, Triều đình Huế bạc nhược ký hòa ước (thực chất là hàng ước!) dâng ba tỉnh miền Đông (gồm Biên hòa, Gia Định, Định Tường) và đảo Côn Lôn cho Thực dân Pháp. Tháng 9-1862, triều đình Huế ra lệnh cho Trương Công Định và Nguyễn Duy Dương phải bãi binh, điều Trương Công Định đi lãnh nhiệm vụ mới ở An Giang. Trương Công Định cưỡng lệnh, giương cao ngọn cờ “Bình Tây Đại Nguyên Soái” tiếp tục chống Pháp. Lực lượng Thiên Hộ Dương tiếp tục đi theo ngọn cờ được nhân dân suy tôn đó.
Trong những tháng ngày rong ruổi dẫn dân binh đi “ứng nghĩa”, hộ chiến cho quân triều đình ở Gia Định và bước đầu xây dựng căn cứ Lý Nhơn, Nguyễn Duy Dương đem lòng yêu một người con gái ở Gia Định và coi nàng như vợ bé. Việc kết giao giữa hai người trong thời buổi loạn lạc, lòng người khó dò, là việc cần được giấu kín nên trong số những người tâm phúc nhất của Thiên Hộ Dương cũng rất ít người biết được tường tận, còn hầu như là chỉ biết mơ mơ hồ hồ, và dù có biết thì họ cũng có ý thức không mảy may tiết lộ ra ngoài.
(Về truyền thuyết người vợ bé của Thiên Hộ Dương, có nhiều câu chuyện còn lan truyền trong dân gian rất đáng được quan tâm, suy nghĩ.
Chuyện thứ nhất:
Ngày xưa, ở thôn Hòa An (phủ Tân Thành, An Giang) có một ông bá hộ ăn ở nhân hậu. Gia đình ông hiếm hoi, chỉ có một người con gái. Nàng duyên dáng, mặn mà, đã đến tuổi cập kê nhưng chưa chịu lấy chồng. Giống tính cha, dù là con nhà khá giả song nàng sống chan hòa với bà con tá điền và thường hay giúp đỡ những người nghèo khó. Nàng rất yêu hoa, thường thơ thẩn trong vườn hoa trước nhà, nên mọi người gọi nàng là Bướm.
Một hôm, có một đoàn thương lái lỡ đường, ghé nhà xin bữa cơm. Trong đoàn có một thanh niên diện mạo khôi ngô, vạm vỡ, cốt cách oai phong của một vị tướng. Thấy đây không phải là đám lái buôn bình thường, ông bá hộ bèn mời vào nhà thết đãi tử tế và gọi nàng Bướm ra hầu rượu.
Cơm nước xong, chàng thanh niên ấy mở lời cảm ơn và xin hoàn lại tiền bữa ăn. Ông bá hộ ngăn lại, đoạn bảo nàng Bướm lấy ra một túi bạc và nói:
- Theo chỗ lão xét đoán thì ngài không phải là lái buôn mà là tráng sĩ đang lo việc dân việc nước. Xin cho lão được góp phần nhỏ mọn này.
Sau một thoáng ngạc nhiên, người thanh niên thú thực:
- Quả thật là cụ tinh đời. Chúng tôi là nghĩa quân của ngài Thiên Hộ… Tôi xin thay mặt nghĩa quân nhận số bạc và hết sức cảm ơn nghĩa cử hào hiệp của cụ.
- Chẳng hay quí danh tráng sĩ là chi?
- Dạ, tên tôi là Kiều, họ Nguyễn.
- Té ra tráng sĩ là ngài Đốc binh Kiều. Thật là vạn hạnh cho lão. Nghe tiếng tráng sĩ đã lâu, hôm nay lão mới được diện kiến. Bây giờ lão có một đề nghị này: số là lão chỉ có mỗi một mụn con gái đây, nhiều thanh niên trong vùng ngấp nghé nhưng nó chưa ứng đám nào; xin tráng sĩ nhận làm thê thiếp cho nó có dịp nâng khăn sửa túi bậc anh hùng.
Người thanh niên vội nói:
- Thưa lão gia, tôi xin cảm ơn lòng tốt của lão gia một lần nữa. Nhưng về việc này thì cho tôi xin thất lễ vì tôi đã có hiền thê ở nhà. Hơn nữa, chốn lửa đạn có nữ nhi kề bên e bất tiện.
Ông bá hộ nài nỉ mãi làm người thanh niên không thể từ chối được nữa và hôm đó được coi như ngày đính ước.
Từ đó, nàng Bướm tự coi mình là gái đã có chồng. Ít lâu sau, được tin Đốc binh Kiều tử trận ở Gò Tháp, nàng lặng lẽ chít khăn tang, lập bàn thờ chồng rồi cứ thế sống thủ tiết với chồng chưa cưới cho đến lúc qua đời.
Tấm lòng nhân hậu và trung trinh tiết liệt của nàng được dân quanh vùng ngợi ca và con rạch chảy qua vườn nhà nàng được gọi là rạch Bà Bướm từ thuở đó.
 
                                     
                                   Tượng Đốc binh Nguyễn Tấn Kiều trong Bảo tàng Đồng Tháp

                                 
                  Đền thờ Võ Duy Dương và Đốc Binh Kiều ở Gò Tháp, xã Tân Kiều, huyện Tháp Mười
Câu chuyện này làm bật ra câu hỏi: phải chăng trường hợp có vợ bé của Thiên Hộ Dương đã xảy ra tương tự như thế hoặc đó chính là câu chuyện có xuất phát trực tiếp từ trường hợp có thực của Thiên Hộ Dương vì Nguyễn Kiều chưa chắc là Nguyễn Tấn Kiều - Đốc binh Kiều mà chỉ là một cái tên che đậy tung tích? Rất tiếc là cho đến nay, chưa ai biết đích xác họ và quê quán cụ thể của Đốc binh Kiều. Dân gian thường gọi ông là Lê Công Kiều, Trần Phú Kiều hoặc Nguyễn Tấn Kiều nhưng phổ biến nhất là quan lớn Thượng. Tương truyền ông gốc miền Trung, vào Nam sinh sống ở huyện Kiến Đăng, tỉnh Định Tường.
Câu chuyện thứ hai:
Ông Nguyễn Văn Biểu gốc người làng Tân Phú, tổng Kiến Phong, huyện Kiến Đăng, tỉnh Định Tường (nay thuộc huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp), là con thứ tám trong một gia đình nông dân. Lúc nhỏ có theo học võ nghệ và chữ nho. Tương truyền, ông có vóc người cao lớn, rất khỏe, da đen, môi chì, tướng tá bặm trợn, trông rất dữ dằn.
Đến khi trưởng thành, ông cùng người anh thứ bảy là Nguyễn Văn Phương theo người cậu về làng Mỹ Thọ (thuộc huyện Cao Lãnh) để kiếm việc làm.
Lúc đầu ông sinh sống bằng cách làm mướn và theo người cậu đóng cối xay đi bán dạo. Thấy ông khỏe mạnh lại làm lụng siêng năng, trông tướng dữ mà té ra tính tình nhân hậu nên một gia đình khá giả, có nhiều ruộng đất ở Rạch Miễu, cũng thuộc làng Mỹ Thọ, kêu gả con gái cho. Từ đó, ông Biểu thôi đi làm mướn, quay sang trông nom ruộng đất cho nhà vợ.
Khi được tin Thiên Hộ Dương kéo quân về lấy Đồng Tháp Mười làm căn cứ chống Pháp, ông liền từ giã vợ con lên đường gia nhập hàng ngũ nghĩa quân. Nhờ khỏe mạnh, giỏi võ, gan dạ và một lòng trung thành nên được Thiên Hộ Dương chọn làm chỉ huy đội phòng vệ. Vì thế mọi người lúc bấy giờ thường gọi ông là Phòng Biểu hay Phòng Tám (vì ông thứ tám). Từ đó, tiếng tăm ông vang dội khắp vùng Cao Lãnh.
Trong suốt thời gian theo nghĩa quân, trải qua bao trận mạc, lúc nào ông cũng tỏ ra là người chỉ huy có tài, dốc lòng hy sinh cho đại cuộc. Thiên Hộ Dương rất tin cậy ông và ông trở thành người hộ vệ thân tín bên cạnh vị chủ tướng.
Khi Đốc binh Kiều nắm binh quyền thay Thiên Hộ Dương tiếp tục chống Pháp ở Đồng Tháp Mười thì Phòng Biểu trở thành cánh tay đắc lực của Đốc binh Kiều trong việc cố gắng xây dựng lại căn cứ và củng cố lại lực lượng nghĩa quân. Trong một trận đánh, Đốc binh Kiều bị thương nặng rồi hy sinh. Sau khi chôn cất đâu đó Đốc binh Kiều, ông Phòng Biểu rút quân qua Sình Lớn, về cố thủ ở ngã ba Thông Bình (Tân Thành). Mặc dù quân số ít, vũ khí thiếu thốn, thô sơ và bị Pháp tập trung càn quét liên miên, ông vẫn cùng nghĩa quân chiến đấu cầm cự kéo dài suốt bốn năm liền. Tuy nhiên, vì lực lượng ngày một hao mòn, thấy không thể duy trì được nữa nên ông ra lệnh giải tán nghĩa quân. Riêng ông phiêu bạt rày đây mai đó.
Pháp và tay sai truy lùng tìm bắt ông ráo riết nhưng không có kết quả. Chúng bèn quay sang tìm cách bắt con cháu ông để bức ông ra hàng. Túng thế, ông phải cải họ người con trai duy nhất của ông từ họ Nguyễn sang họ Võ và giao cho bà Nguyễn Thị Chung là cháu gái của ông (lúc bấy giờ đã theo chồng về ở rạch Cái Da, xã Nhị Mỹ) trông nom giúp.
Ông Phòng Biểu tiếp tục sống đời ẩn dật đến năm 1914 thì mất, thọ 84 tuổi. Phần mộ của ông hiện ở xóm Giồng, rạch Cao Miên, thuộc xã An Bình, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.
Câu chuyện thứ hai này bật ra câu hỏi: người con trai duy nhất của ông Phòng Biểu lớn lên rồi ra sao và sao ông Phòng Biểu không đổi họ cho con từ Nguyễn sang bất cứ họ nào khác mà phải là họ Võ? Hay phải chăng đứa con trai đó chính là con của Thiên Hộ Dương có với người vợ bé và đã gửi gắm lại cho gia đình ông Phòng Biểu, một trong những thủ hạ thân tín nhất của mình? Có thể nào cha vợ của Phòng Biểu cũng là cha vợ của Thiên Hộ Dương và vợ bé của Thiên Hộ Dương là chị ruột của vợ Phòng Biểu?
Câu chuyện thứ ba được lan truyền trong dân gian vùng Bình Cách:
Ông Năm Linh (tức Ngũ Linh Dương?) người miền Trung, võ nghệ cao cường, tính tình cương trực, hay làm việc nghĩa, giao du rộng, …, vào Nam lập nghiệp. Lúc Tây xâm lược Nam Kỳ, ông đứng ra chiêu mộ nghĩa dũng, quyên góp lúa gạo, mua súng đạn đánh Tây, được nhiều người hưởng ứng. Bá hộ Học (Trần Văn Học) là điền chủ giàu có nhất nhì trong vùng chẳng những ủng hộ lúa gạo mà còn bán ruộng lấy tiền bạc mua súng đạn ủng hộ nghĩa quân. Để khích lệ người anh hùng có chí lớn, bá hộ Học đem đứa con gái duy nhất là Trần Thị Vàng (bà Bảy Vàng) gả cho ông Năm Linh. Từ khi về với ông Năm Linh, dù là gái đưa chứ không phải là vợ chính thức có cưới hỏi, nhưng bà Bảy Vàng chẳng những một lòng chung thủy mà còn giúp chồng nhiều việc trong công cuộc quốc sự. Khi ông Năm Linh cùng nghĩa quân rút vào Đồng Tháp Mười, bà cũng theo chồng để lo việc tiếp tế lương thực nuôi quân. Đến khi Đại đồn Tháp Mười thất thủ, ông Năm Linh theo ghe bầu về Huế cầu viện, bà ở lại nuôi con chờ chồng. Khi ông Năm Linh bị chết ngoài biển, bà Bảy Vàng nghe tin, buồn rầu mà mất.
Câu hỏi đặt ra cho câu chuyện này là: ông bá hộ Học phải chăng cũng là ông bá hộ ở câu chuyện thứ nhất? Phải chăng bà Bảy Vàng đã quá yêu người anh hùng mà tình nguyện đi theo nghĩa quân và đã có với người anh hùng một đứa con gái?
Câu chuyện thứ tư là theo lời kể của Võ Quế (85 tuổi vào năm 1989), cháu nội của Võ Duy Dương:
Trong thời gian ở Nam Kỳ, Võ Duy Dương có lấy vợ hai và đã sinh hạ được hai người con trai tên là Võ Châu và Võ Phong. Nhưng tên tuổi và quê quán của bà này thì chưa xác định được. Sau khi Võ Duy Dương qua đời, có một người đàn bà ở trong Nam ra Huế tâu với triều đình về hoạt động chống Pháp và gia đình của Võ Duy Dương trong Nam. Sau đó bà này tìm đến dòng tộc của Võ Duy Dương ở Nhơn Tân (An Nhơn, Bình Định), sống một thời gian rồi qua đời tại đây. Hiện nay mộ của bà vẫn nằm chung trong khu mộ gia đình họ Võ dưới chân núi Thơm. Ngôi mộ này được gọi là mộ của bà Đồng Nai (vì bà là người xứ Đồng Nai, tức miền Nam).
Câu hỏi đặt ra ở đây là: Phải chăng bà Đồng Nai chính là Trần Thị Vàng và bà này đã mang người con gái của bà với Võ Duy Dương ra Bình Định, đến nhà bà vợ cả rồi nghe tin Võ Duy Dương đã chết thì buồn rầu ngã bệnh mà mất? Phải chăng người con gái đó lại là Võ Thị Thắm (tên đổi lại từ Võ Châu)? Còn Võ Phong chính là Võ Sắc, con trai của Võ Duy Dương với một người vợ thứ nữa? Vậy, có thể Thiên Hộ Dương khi hoạt động đã có 2 người vợ thứ? Chuyện nhiều vợ ngày xưa là thường tình! Cũng có thể người vợ thứ sinh thành ra Võ Sác chính là Trương Gia Hương còn bà vợ cả tên là Phạm Thị Liệu, người thôn Tráng Long cùng huyện nay thuộc xã Nhơn Tân? Hay bà Liệu cũng chỉ là vợ thứ sau này của ông Thiên Hộ, khi ông từ Nam ra mới tác hợp?)
Sau hàng ước của triều đình Huế, lực lượng quân triều đình rút khỏi 3 tỉnh miền Đông làm cho sức mạnh kháng Pháp bị suy giảm đáng kể. Sự quay lưng của triều đình Huế đã tạo điều kiện cho thực dân Pháp rảnh tay đàn áp quân ứng nghĩa. Biết không thể lung lạc được Trương Công Định và Nguyễn Duy Dương, quân Pháp tập trung lực lượng, với sự tham gia cúc cung, chỉ đường mách lối của đám tay sai phản dân hại nước người Việt, tổ chức hành quân đánh chiếm, quyết tâm tiêu diệt cuộc kháng chiến do Trương Công Định lãnh đạo.
Trong tháng 1-1863, nghĩa quân tổ chức chiến đấu, cản phá có hiệu quả các cuộc hành quân càn quét của địch bằng những trận đột kích, phục kích, tập kích chớp nhoáng… trên địa bàn khắp 3 tỉnh miền Đông. Quân Pháp bị tiêu hao nhiều binh lực, buộc phải dừng cuộc tiến công, chia nhau đóng giữ những nơi hiểm yếu.
Sau khi đã có thêm viện binh, Thực dân Pháp tập trung đánh vào Gò Công - Căn cứ đầu não của cuộc kháng chiến do Trương Công Định chỉ huy. Mở đầu cuộc tiến công, quân Pháp đánh Gò Đen, Đồng Sơn, Vĩnh Lợi (là hệ thống tiền đồn bảo vệ căn cứ). Ngày 26-2-1863, đại binh Pháp tiến về Trại Lá (Bến Chùa). Trương Công Định khéo léo tổ chức các trận đánh ngăn chặn, tiêu hao địch, đồng thời bí mật tổ chức cho đại bộ phận lực lượng vượt ra khỏi vòng vây. Khi quân Pháp lọt được vào đại bản doanh thì nghĩa quân đã rút đi tự bao giờ.
                      Đám lá tối trời (dừa nước) 
Đám lá tối trời (dừa nước,gọi đám lá tối trời để chỉ đám dừa nước rậm rạp, kín bưng ). 
 
Nguyễn Liên Phong – một người thân Pháp, tác giả cuốn Nam Kỳ phong tục nhân vật diễn ca (1909) – từng ca tụng ông:

Tiếng đồn Đám Lá Tối Trời
Có ông Trương Định trải phơi gan vàng
Hiền vi cơ chưởng nan minh
Lưỡi gươm đâm bụng liều mình như chơi
Nên hư số hệ ở trời
Khá đem thành bại luận người hùng anh.
 
Để bảo vệ Cửa Tiểu, năm Minh Mạng thứ 15 (1834) triều đình nhà Nguyễn cho xây dựng tại đây một Bảo bằng đất gọi là Đồn Từ Linh, chu vi 60 trượng (378mét), cao 5 thước 5 tấc (2,57 mét), mở hai cửa. Năm Thiệu Trị thứ 3 và thứ 7 (1834-1847) được sửa chữa lại.

  Di tích Lũy Pháo Đài được đưa vào tuyến tham quan truyền thống với các cụm di tích quốc gia khác ở Gò Công như Đền thờ Trương Định, Nhà Đốc Phủ Hải, Đám lá tối trời.
ao dinh gò công Di tích Ao Dinh Gò Công ngày nay

Xem bài viết gốc tại: http://mamgocong.com/news/go-cong/ve-go-cong-tham-lang-mo-binh-tay-dai-nguyen-soai-truong-dinh-90.html
Copyright © Mắm Gò Công Trường Thủy
Đường%20dẫn%20vào%20Chiến%20lũy%20Pháo%20Đài.                                               Đường dẫn vào Chiến lũy Pháo Đài.
ao dinh gò công Di tích Ao Dinh Gò Công ngày nay

Xem bài viết gốc tại: http://mamgocong.com/news/go-cong/ve-go-cong-tham-lang-mo-binh-tay-dai-nguyen-soai-truong-dinh-90.html
Copyright © Mắm Gò Công Trường Thủy
Rời căn cứ Gò Công, Trương Công Định cùng toàn bộ nghĩa quân bí mật trở lại căn cứ Lý Nhơn, hợp binh với Thiên hộ Dương, tiếp tục tổ chức đánh du kích chống Pháp. Với một căn cứ Lý Nhơn chắc chắn không thể trụ vững đánh lâu dài trước một đội quân viễn chinh và tay sai đông đảo, được trang bị vượt trội hơn hẳn về vũ khí. Do đó trong thời gian này, Trương Định và Thiên Hộ Dương cùng các bộ tướng thân tín bàn thảo và quyết định tạo dựng 2 căn cứ mới để tránh bị co cụm và tạo khả năng phát triển thêm lực lượng nghĩa binh. Căn cứ thứ nhất dự định thành lập tại khu vực giữa làng Tân Phước và Kiểng Phước thuộc đất Gò Công. Đó là nơi cây lá rậm rạp bên hữu ngạn sông Soài Rạp nên cũng được dân chúng gọi nôm na là vùng “Đám lá tối trời”. Căn cứ thứ hai được dự định xây dựng trong Đồng Tháp Mười mênh mông, lấy Gò Tháp làm vị trí trung tâm (và đây cũng được xác định là căn cứ chính). Thiên Hộ Dương, với tài tổ chức, xây dựng căn cứ ở Lý Nhơn mà chính Trương Công Định đã công nhận, trở thành nhân vật chính khẩn trương tạo dựng căn cứ địa Gò Tháp và đồng thời cũng là người lãnh đạo nghĩa quân ở căn cứ này. Đi đôi với việc đó, Thiên Hộ Dương đã cử người tâm phúc đi các tỉnh Định Tường, An Giang, Hà Tiên, Vĩnh Long, Cà Mau, để vận động quyên góp tiền bạc, mua súng đạn. Đến giữa năm 1863, ông giao trọng trách này cho bạn mình tên là Thủ khoa Nguyễn Hữu Huân, người tâm phúc và cũng là trợ thủ đắc lực của ông. 
(Đến giữa năm 1864, đám quan lại trung quân mù quáng, răm rắp chấp hành Hiệp ước 1862 đã bắt giam Thủ khoa Huân tại Châu Đốc rồi giao cho thực dân Pháp trước áp lực của chúng. Thực dân Pháp sau đó đã xử tử ông. Khẩu khí và khí phách của hàng loạt văn thân như Thủ khoa Huân vẫn còn vang vọng đến tận ngày nay, qua lời thơ của Mai Xuân Thưởng:
               Cửa trường tiếng dạ miệng còn hơi
               Cờ nghĩa treo lên đã ngất trời
Đạo trọng vua tôi mình dám quản
               Oán hờn người Pháp có đâu vơi
Đúng là bất khuất, đúng là anh hùng!

Trần Bá Lộc dụ hàng, Mai Xuân Thưởng khẳng khái nói: Chỉ có đoạn đầu tướng quân, chứ không có hàng đầu tướng quân. Biết không thể khuất phục được, đối phương đã đưa ông cùng các thuộc hạ ra xử trảm tại Gò Chàm (phía đông thành Bình Định cũ). Thi hài ông sau đó được đưa về táng tại Cây Muồng (nơi cha ông đã yên nghỉ), thuộc thôn Phú Lạc.
Và theo báo cáo do Tirant thiết lập ngày 11 tháng 6 năm 1887 gửi Thống đốc Nam Kỳ (tư liệu số Aix11.929), thì:
Có ba đợt hành quyết: ngày 1 tháng 6 có năm người, trong đó có Lê Khanh; ngày 7 tháng 6 có 12 người, trong đó có Phạm Xuân Thưởng và Bùi Điền; ngày 12 tháng 6 có chín người và ngày 13 tháng 6 có một người. Tổng cộng có 27 người bị hành quyết, trong đó có một vài người là thủ lĩnh lớn nhất của phong trào Bình Định-Phú Yên.
Căn cứ vào đây thì Mai Xuân Thưởng bị xử chém vào đợt thứ hai, ngày 7 tháng 6 năm 1887, chứ không phải ngày 6 tháng 6 như tài liệu lâu nay đã ghi.
Năm 1961, nhà thơ Quách Tấn và nhiều người dân đã đứng ra vận động xây dựng lăng mộ nhà Phạm Xuân Thưởng và các lãnh tụ Cần Vương khác của quê hương Bình Định. Ngày 22 tháng 1 năm đó (1961), nhân dân ở Tây Sơn đã làm lễ đưa hài cốt ông từ Phú Lạc về lăng mộ trên một quả đồi cao thuộc thôn Hòa Sơn, xã Bình Tường. Đây cũng chính là căn cứ mà lúc
sinh thời, ông dựng cờ khởi nghĩa chống Pháp

Thơ Mai Xuân Thưởng

Thơ làm trong lúc chiến đấu:
Chết nào có sợ, chết như chơi,
Chết bởi vì dân, chết bởi thời.
Chết hiếu chi nài xương thịt nát,
Chết trung bao quản cổ đầu rơi.
Chết nhân tiếng để vang nghìn thủa,
Chết nghĩa danh thơm vọng mấy đời.
Thà chịu chết vinh hơn sống nhục
Chết nào có sợ, chết như chơi.
Thơ làm trước lúc bị hành hình:
Không tính làm chi việc mất còn,
Nợ trai lo trả ấy là khôn.
Gió đưa hồn nghĩa gươm ba thước,
Ðá tạc lòng trung quý mấy hòn.
Tái ngắt mặt gian xương tợ giá,
Ðỏ loè bia sách máu là son.
Rồi đây thoi ngọc đưa xuân tới,
Một nhánh mai già nảy rậm non      )
 
Được Việt gian mật báo, ngày 25-9-1863, quân Pháp bất ngờ bao vây tập kích Lý Nhơn. Nghĩa quân chống trả quyết liệt, chọc thủng vòng vây, nghi binh đánh lạc hướng địch. Một bộ phận nghĩa quân theo Trương Định bí mật rút về vùng “Đám lá tối trời”, bộ phận còn lại theo Thiên Hộ Dương bí mật rút vào Đồng Tháp Mười. Người đời sau, may mắn đã ghi tạc được lời nói lúc bấy giờ của ông Thiên Hộ: “Tôi sẽ rút lui về Tháp Mười ẩn nấp, chờ đợi thời cơ để quật trả một trận mới… Tôi luôn sẵn sàng đáp ứng lời kêu gọi của nhân dân”.
Khoảng cuối năm 1862, khi còn ở căn cứ Lý Nhơn, Thiên Hộ Dương, từ một nguồn tin bí mật, biết được người thiếu nữ mà ông coi là vợ bé đã sinh hạ cho ông một người con trai. Ông bèn đặt tên con là Nguyễn Duy Sác (ám chỉ rừng sác, nơi có căn cứ Lý Nhơn?).
Nhận thấy rằng cuộc chiến đấu chống Pháp sẽ ngày càng ác liệt, có thể sống nay chết mai, nên Thiên Hộ Dương cử người thuộc hạ thân tín nhất trong hàng thân tín, bí mật đi gặp người vợ trẻ của ông để chu cấp, dặn dò kỹ lưỡng, phòng khi có biến, bị tai ương đe dọa thì biết đi đâu, gặp ai để mà nhờ cậy. Người hầu cận thân tín này về sau đã hy sinh trong chiến đấu nên thông tin về người vợ bé của Thiên Hộ Dương cũng trở nên nhạt nhòa huyễn hoặc.
Vừa chân ướt chân ráo đến Đồng Tháp Mười, Thiên Hộ Dương tức tốc tiếp tục xây dựng căn cứ qui mô hơn, kiên cố hơn để tạo nên một khu vực có sức đề kháng mạnh mẽ. Ông đặt đại bản doanh tại Gò Tháp, xây dựng đồn Trung ở đó, với nhiều trạm gác ở bốn phía và đài quan sát trên đỉnh gò. Ngoài đồn Trung, ông còn dựng thêm 3 đồn chính án ngữ 3 “con đường gạo”: Đồn Tiền trên đường Cái Nứa, Đồn Tả trên đường Mộc Hóa hướng Gò Bắc Chiêng, đồn Hữu trên đường Cần Lố, khoảng từ 200 - 300 quân trấn giữ một đồn.
Năm 1864, nghe tin đồn Thiên Hộ Dương chiêu binh khởi nghĩa ở Đồng Tháp Mười, nhiều bậc quân tử, mã thượng, tinh thông võ nghệ, nổi tiếng trong dân dã kéo thuộc hạ tới đầu quân. Trong đó, có những người như: hai anh em Hùynh Lực, Huỳnh Thất (lưu dân gốc Quảng Nam ở Đồng Nai), Thủ Chiến, Phòng Biểu, Nhiêu Bá, Nhiêu Chấn (là chiến hữu của anh em họ Huỳnh, ở Mộc Hóa), đặc biệt có bốn người là: Trần Công Thuận, Nguyễn Thanh Long, Ngô Tấn Đức, Trương Văn Rộng đến từ Cai Lậy mà sau này lừng lẫy với danh thơm: “Tứ Kiệt Cai Lậy” (ngày nay vẫn còn miếu thờ tứ kiệt ở thị trấn Cai lậy, tỉnh Tiền Giang và nhân dân vẫn gìn giữ, nhang khói quanh năm)…
Cũng trong năm 1864, khi giặc Pháp đánh vào “Đám lá tối trời”, Trương Công Định hy sinh, các bộ tướng dưới quyền và hầu hết số nghĩa quân còn lại đã vượt thoát được vòng vây, như đã hẹn trước, bí mật lần về Đồng Tháp Mười theo Thiên Hộ Dương tiếp tục chống Pháp. Trong số nhiều chỉ huy nghĩa quân của Trương Định đến được Đồng Tháp Mười, có : Đốc binh Dương, Trần Kỳ Phong, Thống Bình, Thương Chấn, Thống Đa, Quản cơ Văn, Quản cơ Là (Bùi Quang Diệu)…
Nhờ đó lực lượng nghĩa quân của Thiên hộ Dương lớn lên nhanh chóng, thực sự trở thành trung tâm kháng chiến mới, thu hút hầu hết lực lượng chống Pháp ở Nam Kỳ vào những năm 1864 - 1866.
Ngay những tháng cuối năm 1864, nghĩa quân của Thiên Hộ Dương đã bắt đầu tăng cường hoạt động chiến đấu, tuy nhiên chủ yếu là tổ chức đánh du kích, tiêu hao sinh lực địch, giữ vững thế phòng ngự. Sang năm 1865, nghĩa quân mở rộng địa bàn hoạt động, tổ chức những trận đánh lớn hơn, tấn công những đồn bốt quan trọng của địch như Mỹ Trà, Mỹ Quí, Cái Bè, Thủ Thừa, gây cho địch nhiều tổn thất về người và vũ khí. Nhất là tại hướng Cái Bè, Mỹ Quí, nghĩa quân đã có lúc chọc thủng phòng tuyến địch.
Năm 1865, nghĩa quân Thiên Hộ Dương thực sự đã gây cho Pháp và tay sai nhiều khốn đốn. Nhân dân Nam Kỳ, đặc biệt là nhân dân miền Tây, ngày càng ủng hộ, ngày càng tích cực đóng góp khí giới, lương thực cho nghĩa quân. Tuy đã xuất hiện xu thế và triển vọng nhưng thời gian là quá ngắn để cuộc kháng chiến của Thiên Hộ Dương bùng lên, lan tỏa rộng khắp thành cuộc chiến tranh nhân dân đúng nghĩa.
Ngày 14-4-1866, thực dân Pháp huy động một lực lượng áp đảo, hơn hẳn nghĩa quân, gồm hơn 1.000 lính viễn chinh với nhiều tàu chiến và đại bác, chưa kể lực lượng mã tà (ngụy quân), chia ra làm 3 đạo đồng loạt tiến công căn cứ Đồng Tháp Mười theo 3 hướng Cần Lố, Cái Nứa và Gò Bắc Chiêng.
Nghĩa quân trong các đồn Sa Tiền, Ấp Lý, Tiến đã chống trả rất quyết liệt nhưng dưới tầm công phá mãnh liệt của đại bác địch, họ yếu dần đi, buộc phải bỏ đồn, lần lượt rút ra, về phía sau. Dù chiếm được các đồn đó nhưng địch đã phải chịu thiệt hại nặng.
Đạo quân Pháp thứ ba, sau khi chiếm được đồn Gò Bắc Chiêng thì không còn sức tiến sâu hơn, phải chờ viện binh tới để đánh đồn Tả.
Đồn Tả lúc này có 350 nghĩa quân, 40 khẩu đại bác, do Thiên hộ Dương đích thân chỉ huy. Nghĩa quân chiến đấu từ trưa đến chiều tối thì hết đạn, phải bỏ đồn, tản về phía sau.
Khi địch chiếm được đồn Trung thì nghĩa quân đã rút đi hết. Tuy nhiên chúng không đám tiến sâu hơn và cũng không dám ở lại đồn.
Căn cứ kháng chiến Gò Tháp đến ngày 18-4-1866 coi như không còn nữa. Lực lượng nghĩa quân Thiên Hộ Dương dần tan rã, tứ tán: nhóm của Tứ Kiệt Cai Lậy rút về Thuộc Nhiêu (Cai Lậy), tiếp tục lập mặt trận đánh Pháp, nhóm trong đó có anh em họ Huỳnh thì kéo về với Quản cơ Trần Văn Thành ở Láng Linh (Châu Đốc), riêng nhóm của Đốc binh Kiều thì ở lại bám trụ, tiếp tục chiến đấu. Sau một thời gian ngắn, khi Đốc binh Kiều hy sinh thì nhóm này cũng tan rã. Ngọn cờ kháng chiến chống Pháp của nhân dân Nam Kỳ lúc này được nhân dân miền Tây đón nhận và tiếp tục giương cao.
Trong dân gian còn lưu truyền bài thơ ca ngợi Đốc binh Kiều  như sau:

"Vì nước quên mình bởi chữ trung,
Thương dân chi sá chốn sình bùn,
Mấy năm Đồng Tháp danh vang dội,
Cọp rống ngoài truông, cáo hãi hùng,
Hai thước im lìm nơi thạch động,
Đồng bào tưởng nhớ đứng thờ chung,
Nỗi lòng nghĩ đến nhiều năm trước,
Hương lửa đều không cảnh lạnh lùng."
Vì sao khởi nghĩa Thiên Hộ Dương đã có lúc bật dậy khá mạnh như thế nhưng vẫn phải chịu thất bại cay đắng? Có thể cho rằng cuộc kháng chiến đó đều khiếm khuyết cả 3 yếu tố thiên thời, địa lợi, nhân hòa. Nếu có một chút thiên thời nào thì triều đình Huế cũng đã chặn đứng mất rồi. Căn cứ địa Gò Tháp đúng là có tính lợi hại, nghĩa là nếu biết vận dụng địa hình, áp dụng cách đánh phù hợp với địa hình đó thì nó có lợi, còn không nó sẽ trở nên tai hại. Đồng Tháp Mười vào mùa khô là một vùng tương đối bằng phẳng, làm cho hiệu quả công phá bằng đại bác được phát huy tối đa. Dùng đồn trại cố thủ, khi đồn vỡ thì mất luôn cả thế đứng, đành phải chạy dài. Muốn duy trì cuộc chiến đấu lâu dài ở căn cứ Đồng Tháp, thì phải kết hợp giữa cố thủ trong đồn và vận động chiến bên ngoài trên cơ sở lấy chiến tranh du kích làm nền tảng: rút nhưng không chạy dài, tiến mà địch không hay, đánh xuất kỳ bất ý, kết hợp đánh từ trong ra, đánh từ ngoài vào (không cần phân biệt đâu là trong, đâu là ngoài), nếu cần bảo toàn lực lượng thì dứt khoát phá đồn, rút ngay; thậm chí bỏ luôn căn cứ (vì đâu cũng là căn cứ!)… Muốn làm được điều đó thì phải có đủ nhân hòa, vì chỉ khi có đủ nhân hòa mới tạo ra địa lợi và thậm chí trong chừng mực nào đó là cả thiên thời. Cuộc khởi nghĩa của Thiên Hộ Dương (và trước đó là của Trương Định) cũng như các cuộc nổi lên đánh Pháp khác ở Nam Kỳ - Lục Tỉnh là hoàn toàn chính nghĩa, nhưng chúng chưa đủ thời gian (hay chưa thể) để trở nên hoàn toàn sáng tỏ, nên chưa kịp bám rễ sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân thì đã sớm bị tiêu diệt, đánh bại. Mặt khác hàng ngũ chỉ huy nghĩa quân hầu hết là những dân binh nghĩa hiệp trưởng thành lên qua trận mạc nên họ thiếu hẳn kiến thức về nghệ thuật quân sự. Đến cả những người chỉ huy xuất thân từ quân đội chính qui của triều đình cũng bị lối đánh máy móc lạc hậu với những vũ khí cổ lỗ, lấy thành quách làm nơi phân định thắng bại, luôn bị cuốn hút vào lối đánh trận tuyến của quân đội viễn chinh, thiện chiến, có vũ khí đầy đủ và hiện đại hơn hẳn. Ngay Nguyễn Tri Phương vẫn lẩn quẩn với cách đánh lạc hậu đó thì còn nói tới ai? Đại đồn Chí Hòa to thế, có quân đông thế mà chỉ “đùng một phát” là thất thủ. Thật quá rõ! Sự dũng cảm tuyệt vời của nghĩa quân, sự bất khuất của các thủ lĩnh nghĩa quân, là không thể phủ nhận được. Nhưng như thế thôi chưa đủ. Cần phải có một lãnh tụ có tài năng kiệt xuất, biết qui tụ bốn phương về một mối, biết lôi kéo quần chúng về mình, đánh lâu dài để ngày một tỏ rõ chính nghĩa, tiến hành một cuộc chiến tranh toàn diện chống quân xâm lược.
Ngày nay, khi nhìn lại thời kỳ ấy, chúng ta thấy cái tinh thần lăn xả đánh giặc, “vì nước quên thân” mà bất chấp tất cả của các sĩ phu, hào kiệt, dân binh, là bất hủ, nhưng cũng có cả cái cảm giác quặn thắt, bùi ngùi xót thương, tiếc  nuối, dâng ngập cõi lòng.
Con người Thiên Hộ Dương và cuộc khởi nghĩa do ông lãnh đạo đã được nhân dân Nam Kỳ lúc bấy giờ nói riêng và cả nước nói chung kính phục, mến mộ và tôn vinh, chúng ta sẽ mượn lời của những chiến hữu của Thiên Hộ Dương, từng theo Thiên Hộ Dương vào sinh ra tử nói về ông:
Huỳnh Trung Thu, cháu nội Huỳnh Thất có để lại di bút, nội dung có đoạn:
“…
Ngài Thiên Hộ Dương dũng lược vô song, được nhân dân vùng Nam Kỳ - Lục tỉnh tôn thờ và ngưỡng mộ. Đâu đâu cũng gọi ngài là “quan lớn”, mặc dầu ngài không hề thích làm quan.
Dòng họ Huỳnh chúng tôi đời đời tôn thờ ngài Võ và nguyện theo gương ngài…”.
Đây là một đoạn trong di bút của Huỳnh Kim Trọng, cha của Huỳnh Trung Thu:
“Trước lúc lâm chung, cha tôi (Huỳnh Thất) còn căn dặn con cháu: “Dòng họ ta tuy không sinh ra ở miền Nam Kỳ - Lục tỉnh này, nhưng đã coi như đây là quê hương. Bởi miền Trung có công sinh, thì nơi này có công nuôi dưỡng, hun đúc cho ta thành người. Vậy các con phải xem đây là đất tổ, là ngôi nhà chung. Điều quan trọng nữa mà các con phải ghi lòng, tạc dạ, đó là nghĩa vụ phải thờ cúng ông Thiên Hộ Võ Duy Dương, người mà ta coi như người anh em ruột thịt của mình, người chủ tướng kính yêu của cả quê hương lục tỉnh này… Nay ông đã ra người thiên cổ mà không còn ai thờ phượng. Vậy các con hãy giữ bài vị với mấy chữ “Võ Duy Dương vị quốc vong thân” này để thờ như thờ cha vậy…
Nguyện hương hồn người vị quốc vong thân
Sinh vi tướng, tử vi thần
Xin gia hộ chúng dân an lạc”.
Ông Ba Đương, người thân cận của Thiên Hộ Dương ở chiến khu Đồng Tháp, có để lại thủ bút như sau:
“Cuộc đời tôi may mắn gặp được người họ Võ, đồng hương Nghĩa Hành, Quảng Ngãi. Tôi vốn là một nông dân, tưởng suốt đời sẽ mãi mãi là dân đen bị áp bức, chỉ khi gặp được ông Võ thì mọi thứ mới đổi thay. Chính Võ gia đã cứu gia đình tôi, nhân dân tôi…”.
Sau khi căn cứ Gò Tháp vỡ lở, thực dân Pháp loan tin hai vị, chủ tướng Thiên Hộ Dương và phó tướng Đốc binh Kiều đã bị giết chết. Đốc binh Kiều hy sinh là điều có thật, nhưng trường hợp ông Thiên Hộ thì mờ mịt hơn nhiều. Pháp nói Thiên Hộ Dương đã bỏ xác cùng nhiều nghĩa quân khi chiến khu Đồng Tháp Mười thất thủ, nhưng không trưng ra được bằng chứng. Sau đó chúng lại tung tin Thiên Hộ Dương đã bị một tên cướp biển là Lý Sen giết chết tại cửa biển Thần Phù, khi ông định vượt biển ra Bình Thuận. Tung tin như thế để "an dân", nhưng Pháp vẫn tổ chức lùng sục ráo riết vì chính Pháp cũng không biết đích xác. Như vậy, tin đó cũng  chỉ có thể là tin giả do chính ông Thiên Hộ bày ra để đánh lừa mật thám Pháp.
Dư luận xã hội hồi đó nói chung đều thừa nhận Thiên Hộ Dương đã chết và vì ông là một người cô độc, không có bất cứ người thân nào ở cạnh nên sau khi chết, mồ mả của ông cũng không có người chăm sóc, nhang khói. Vì vậy mà có câu hò não ruột và đầy thương cảm đối với một người anh hùng:
Ai về Đồng Tháp mà coi
Mả ông Thiên Hộ trăng soi lạnh lùng…
Sự thực thì ở Gò Tháp chỉ có mộ Đốc binh Kiều. Khắp Nam Kỳ - Lục tỉnh chẳng nơi nào có mộ Thiên Hộ Dương.
Thế thì sau khi căn cứ kháng chiến Đồng Tháp Mười bị tan vỡ, Thiên Hộ Dương đã anh dũng hy sinh hay còn sống? Ông Trương Hiếu Nghĩa, người xã Cần Đăng, An Giang có viết:
“Theo ông ngoại tôi kể lại thì xưa, lúc ông Quản Thành khởi nghĩa ở Láng Linh, ông tôi có theo ngài Cố quản để đánh Tây. Thời gian này, ông ngoại tôi có liên lạc với ngài Nhiêu Chấn, vốn là một quan triều đình ở An Giang trấn, sau bỏ theo ngài Thiên Hộ Dương ở Đồng Tháp Mười để đánh Tây.
Có lúc ông Võ Duy Dương về An Giang trấn để bắt liên lạc với nghĩa quân Láng Linh và với ông Thủ khoa Huân nhưng không thành. Sau nghe nói ngài Võ Duy Dương rời Đồng Tháp Mười trở về quê ở Quảng Ngãi ngoài miền Trung.
Đây là những việc tôi biết khá chính xác nên ghi lại để người sau nhớ”.
Vậy thì Thiên Hộ Dương, sau thất bại của cuộc khởi nghĩa Đồng Tháp Mười vẫn còn sống và đã vượt thoát sự truy lùng của Pháp để trở về ẩn náu tại quê nhà. Nhiều nhà nghiên cứu sử ngày nay, qua những tài liệu quan trọng thu thập được, qua những nhân chứng đáng tin cậy tiếp xúc được, đều thừa nhận như vậy.
Và chúng ta tiếp tục xây dựng truyền thuyết của mình:
Nghe tin chồng mình, Thiên Hộ Dương đã bị sát hại, người vợ trẻ vô cùng đau đớn. Từ nay, nàng đã mất người chồng mà nàng tôn thờ, kính phục.
Mật thám Pháp và tay sai trong khi tích cực dò la tung tích của Thiên Hộ Dương (xem thực sự còn sống hay đã chết và ở đâu) cũng cố gắng xác định danh tính và chỗ ở của người phụ nữ mà theo nguồn tin phong phanh, là vợ lẽ của ông.
Để bảo vệ giọt máu đào của Thiên Hộ Dương, người phụ nữ xinh đẹp, tuổi đời còn rất trẻ và đáng thương, nghe theo lời dặn xưa kia của chồng mình, đã bế con lần tìm đến gặp một người ở Bình Dương, vùng đất định cư ở phía nam của dòng họ Võ Duy. Vị thân tộc, sau khi nghe người phụ nữ trình bày, lần đầu tiên mới biết Thiên Hộ Dương chẳng phải ai xa lạ: chính là Võ Duy Lập. Tuy nhiên sau đó ông luôn giấu kín điều này vì có thể gây nguy hại khó lường.
Vị thân tộc nghe xong câu chuyện, đã khẩn trương thu xếp; bí mật tổ chức đưa vợ con ông Thiên Hộ Dương ra Hòa Đa - Bình Thuận, lúc này vẫn là “đất riêng” của triều đình Huế nên cũng tương đối an toàn hơn, tìm gặp một người họ Trương, thân tộc bên vợ cả của ông Thiên Hộ.
Thân tộc họ Võ và thân tộc họ Trương định tìm cách đưa hai mẹ con ra Nghĩa Hành - Quảng Ngãi. Nhưng người phụ nữ xin ở lại vì chồng thì chết rồi, thân gái dặm trường mù mịt quá. Hai người kia nghe thấy có lý, nhưng nếu người phụ nữ không đi thì cũng phải gửi đứa con ra ngoài đó, vừa đảm bảo an toàn cho nó, vừa đưa nó về với dòng tộc quê hương. Người phụ nữ tuy buồn khổ nhưng cũng đành chấp nhận. Nàng nghĩ rằng mai kia, khi sóng yên biển lặng, sẽ còn có dịp ra đó thăm con.
Tuy nhiên, việc gửi đứa bé ra Quảng Ngãi chưa hẳn đã hay, vì nếu mật thám Pháp dò biết được quê của Thiên Hộ Dương ở Nghĩa Hành và vợ con ông đang sống ở đó thì rất có thể đứa bé phải chịu vạ lây. (Đến lúc này mật thám Pháp vẫn chưa biết quê Thiên Hộ Dương ở đâu. Ngay cả triều đình Huế, mãi đến năm Tự Đức thứ 32, tức năm 1879, trong một sắc phong mới thấy nói đến tổ quán Võ Duy Dương ở Quảng Ngãi). Hơn nữa, Thiên Hộ Dương mất rồi (họ nghĩ thế), gửi đứa bé về đó có được sống trong tình bao bọc không, hay là bị hắt hủi, hoặc cũng có thể người vợ cả của ông không còn ở Nghĩa Hành nữa mà đã lẳng lặng về quê mẹ chồng (vợ Võ Duy Ninh) đâu đó ở An Nhơn - Bình Định tá túc, tránh sự rủi ro. Suy đi tính lại, họ cho rằng gửi đứa bé ra Nghệ An, nhờ gia đình danh sư Hoàng Đường cưu mang là hợp tình hợp lý hơn cả, vì Hoàng Đường có quan hệ ruột thịt với Hoàng Diệu, Hoàng Diệu là bạn thân của Võ Duy Ninh, trong khi đó Hoàng Đường cũng là bạn tâm giao của Trương Gia Hội, mà Trương Gia Hội vừa là anh họ vợ, vừa là bạn thân của Võ Duy Dương.
Thế là đứa bé được đưa về Nghệ An. Gia đình Hoàng Đường đã mở rộng vòng tay yêu thương đón nhận và nuôi dạy đứa bé nên người. Cái tên Sác được dân địa phương đọc trại ra, hiểu là Sắc; cái họ Nguyễn Duy được đổi thành Nguyễn Sinh để tuyệt đối không cho dính dáng gì đến ông Thiên Hộ nữa. Từ đó cậu bé mang một họ tên mới: Nguyễn Sinh Sắc (họ Nguyễn sinh ra Sắc?). Có thể rằng, trước khi chuyển họ Nguyễn Duy sang Nguyễn Sinh, trong thực tế đã có một sự dàn xếp bí mật nào đó để danh chính ngôn thuận, Nguyễn Duy Sắc trở thành con em ruột thịt thuộc dòng họ Nguyễn Sinh. Chính sự dàn xếp bí mật này đã làm cho tông tích của Nguyễn Sinh Sắc trở thành uẩn khúc, khó hiểu đối với chúng ta.
Sinh Sắc lớn lên được ông Hoàng Đường gả con gái là Hoàng Thị Loan cho. Họ tác hợp và sinh ra người con mà cả dân tộc Việt đang mỏi mòn chờ đợi: Nguyễn Sinh Cung, người mà sau này trở thành vị đại anh hùng dân tộc có tên Hồ Chí Minh.
Sau khi gửi gắm đứa con, người vợ bé của Thiên Hộ Dương trở về bản quán (có thể là ở đâu đó thuộc Định Tường mà cụ thể có thể là ở …, theo như cách gọi ngày nay là Cao Lãnh - Đồng Tháp, còn Gia Định chỉ là tạm cư). Năm tháng qua đi, người thiếu phụ trẻ và xinh đẹp ấy đã ở vậy, lặng lẽ sống đến cuối đời thường tình như bao người phụ nữ khác. Câu chuyện thầm kín của nàng đã không một lần được thổ lộ. Người dân địa phương không thể ngờ được nàng đã từng làm vợ một vị anh hùng nổi tiếng khắp Nam Kỳ - Lục Tỉnh, người đã lãnh đạo cuộc kháng chiến chống Pháp kiên cường ở Đồng Tháp Mười. Tuy nhiên, khả năng nhiều hơn là sau khi gửi con đi và nghĩ rằng ông Thiên Hộ đã hy sinh, nàng quá đau buồn nên lâm bệnh, mất sớm.
Truyền thuyết kể tiếp:
Trong trận tấn công tổng lực của quân Pháp vào căn cứ Đồng Tháp Mười, Thiên Hộ Dương bị thương nặng khi trực tiếp chỉ huy nghĩa quân chiến đấu ở đồn Tả. Một vài thuộc hạ tâm phúc nhất khiêng ông ra khỏi đồn về phía sau rồi bí mật tìm đường thoát khỏi vòng cuộc chiến, đưa đến một cơ sở tuyệt đối tin cậy để chữa trị. Trong thời gian chữa trị, Thiên Hộ Dương đã định quyên sinh một phen bởi quá đau buồn trước sự thất bại của cuộc kháng chiến, trước tin tức các chiến hữu cùng mình vào sinh ra tử đã hy sinh, nhất là sự hy sinh của Đốc binh Kiều và tin thủ khoa Nguyễn Hữu Huân - bạn chiến đấu và trợ thủ đắc lực của nghĩa quân Đồng Tháp bị bắt. Tuy nhiên, nhờ có sự ngăn chặn kịp thời của một thuộc tín tâm phúc túc trực nên cuộc quyên sinh bất thành. Sự kiện này xảy ra vào tháng 10-1866. Thuộc tín này cũng chính là bạn chiến hữu trong số các bạn bè chiến hữu theo ông rời quê hương vượt biển vào Nam đi khai hoang lập ấp năm 1857.
 
               Hình ảnh các vị anh hùng trong lịch sử Việt Nam
Chúa Nguyễn Hoàng (1525-1613) người có công khai phá, mở rộng bờ cõi đất nước xuống phía Nam. Tranh miêu tả chúa Nguyễn cùng dân di cư xuống miền Nam. Y phục dựa theo tượng của ông tại đền thờ.

    Hình ảnh các vị anh hùng trong lịch sử Việt Nam
Nguyễn Huỳnh Đức: Ông là một trong những hổ tướng của vua Gia Long (Ngũ hổ tướng Gia Định). Cảnh vẽ Nguyễn Huỳnh Đức đã dũng cảm cứu Nguyễn Ánh khi ông bị quân Tây Sơn vây (lúc Nguyễn Ánh còn trẻ) Trong rừng sâu, Nguyễn Ánh đã gối đầu lên đùi Nguyễn Huỳnh Đức ngủ vì tin cậy vào vị tướng này.

  Hình ảnh các vị anh hùng trong lịch sử Việt Nam
Nguyễn Thiện Thuật cùng nghĩa binh căn cứ Bãi Sậy trong cuộc kháng chiến chống Pháp, hưởng ứng Hịch Cần Vương. Tranh vẽ mô phỏng theo di ảnh của ông.

  Hình ảnh các vị anh hùng trong lịch sử Việt Nam
Nguyễn Tri Phương: Tranh thể hiện hình ảnh Nguyễn Tri Phương đôn đốc quân chống giặc Pháp đang tấn công thành. Tranh vẽ dựa theo di ảnh chân dung của ông.

  Hình ảnh các vị anh hùng trong lịch sử Việt Nam
Nguyễn Trung Trực: Tranh thể hiện chiến tích khi ông cùng nghĩa quân cải trang thương buôn đột kích đốt cháy tàu Pháp trên sông Vàm Cỏ. Di ảnh chân dung ông được dùng trong tranh và các bó đuốc lá dừa đặc trưng của miền Nam.

   Hình ảnh các vị anh hùng trong lịch sử Việt Nam
Phan Đình Phùng và Cao Thắng: Tranh vẽ được họa theo di ảnh của Phan Đình Phùng. Cao Thắng bên cạnh, tay cầm súng trường vì ông là người đã sáng chế súng cho nghĩa quân.

  Hình ảnh các vị anh hùng trong lịch sử Việt Nam
Tống Duy Tân là một nghĩa sỹ đã lãnh đạo nghĩa binh nội dậy tại Thanh Hóa nhằm hưởng ứng lời kêu gọi Hịch Cần Vương.Tranh vẽ dựa theo di ảnh thật của ông.

  Hình ảnh các vị anh hùng trong lịch sử Việt Nam
Đinh Công Tráng và Phạm Bành cùng nghĩa quân tại căn cứ Ba Đình được bao bọc bởi lũy tre dày. Lá cờ của triều Nguyễn và phong trào hưởng ứng hịch Cần Vương.
(Có thể rằng sau khi căn cứ địa Đồng Tháp Mười thất thủ, một cánh nghĩa quân do Võ Duy Dương chỉ huy rút về phía đông và bị Pháp chặn đánh. Trận đánh lớn giữa hai bên diễn ra mấy ngày liền tại vùng Cái Thia thuộc quận Cái Bè và Thiên Hộ Dương bị thương nặng trong trận này. Cánh quân này tiếp tục rút về Mỹ Tho, Cai Lậy, sang Cao Lãnh, lên Ba Thằng Minh, rồi Gò Bắc Chiêng. Tại đây, cánh quân này đã hợp được với cánh nghĩa quân rút về phía tây (lên Hồng Ngự - Lăng Xăng - Thông Bình) do Nguyễn Văn Cẩn chỉ huy và một vài toán nhỏ khác của Trương Tấn Minh, Phòng Biểu… chỉ huy.
Ở đó, nghĩa quân đã củng cố lại lực lượng nhưng chỉ huy chung và trực tiếp không còn là Thiên Hộ Dương nữa mà là một nhân vật khác. Tuy nhiên, để giữ vững tinh thần nghĩa quân và cũng nhằm cố gắng phát triển lực lượng về sau mà những thủ lĩnh nghĩa quân lúc này đã thống nhất ý kiến và loan tin rằng Thiên Hộ Dương vẫn trực tiếp cầm quân chiến đấu.
Củng cố lực lượng xong, nghĩa quân của Thiên Hộ Dương tích cực bố trí lại thế trận, chọn những cách đánh linh hoạt hơn. Trung tâm kháng chiến được chuyển về khu vực tổng Cầu An Hạ ở Bắc Đức Hòa, liền với Trảng Bàng - Tây Ninh. Thủ lĩnh nghĩa quân cũng đã tìm gặp Trương Quyền (còn gọi là Trương Tuệ, con Trương Định), thủ lĩnh phong trào kháng chiến tại đây để bàn bạc phối hợp và liên minh với Poucombo, một thủ lĩnh kháng chiến khác, người Khơ-me.
Mở màn cuộc liên minh Việt - Khơme này là chiến thắng Tây Ninh vào ngày 7-6-1866. Nghĩa quân tiêu diệt tại trận 12 quân Pháp, trong đó có chủ tỉnh Tây Ninh là Larclauze và viên thiếu úy Le Sage. Ngày 14-6-1866, Marchaise, trung tá thủy quân lục chiến Pháp, chỉ huy 150 lính với hai cỗ đại bác tìm diệt nghĩa quân. Trong lúc lội qua rạch Dinh, đội hình quân Pháp bị lọt ổ phục kích. Bằng cung nỏ, gươm giáo và một ít súng trường, nghĩa quân đã dũng cảm đánh giáp lá cà, giết chết Marchaise và nhiều lính Pháp, số còn lại bỏ chạy tán loạn.
Hai chiến thắng đó đã tạo được tiếng vang lớn, làm nức lòng những người yêu nước. Về tinh thần chiến đấu của nghĩa quân thời kỳ đó, một học giả người Pháp tên là Paulin Vial có viết: “Người An Nam với vũ khí thô sơ chống với súng carbine, họ cứ việc nhào vô và đánh với một nghị lực mù quáng, chứng tỏ rằng họ can đảm và quyết tâm một cách phi thường…”.
Ngày 24-6-1866, nghĩa quân lại tấn công đồn Thuận Kiều và Trảng Bàng.
Ngày 27-6-1866, Pháp điều một lực lượng mạnh gồm 200 lính Pháp, 100 lính mã tà và một pháo thuyền do thiếu tá Rosse chỉ huy đến bao vây căn cứ Cầu An Hạ. Nghĩa quân chủ động đánh mở ra ba mặt. Tuy nhiên, do tương quan lực lượng và vũ khí quá chênh lệch, dù đã kháng cự quyết liệt nhưng cuối cùng cũng phải chịu thiệt hại nặng ở ấp Bình Thủy, Ba Hầm và Bình Điền. Nguyễn Văn Tài, một trong số những thủ lĩnh nghĩa quân bị bắt. Căn cứ địa kháng chiến bị san bằng. Nghĩa quân phải rút lên Tây Ninh. Từ ngày 2 đến ngày 11-7-1866, liên quân Việt - Khơme còn chạm trán với quân Pháp trong các trận: Trà Vang (Tây Ninh), Củ Chi, Hóc Môn, Trảng Bàng, Long Trì (Tân An), Bình Thới)…
Sau một thời gian khá dài chữa trị vết thương, Thiên Hộ Dương dần bình phục nhưng sức khỏe của ông đã giảm sút nhiều, không được như trước nữa. Ông và thuộc tín bắt đầu lần mò theo dọc sông Vàm Nao nghe ngóng và tìm hiểu tình hình. Lúc này, Thiên Hộ Dương lấy tên mới là Võ Qua. Truyền khẩu riết rồi Qua thành Quá, nên cuối cùng gọi là Võ Quá. Võ Quá cũng đã ghé Lý Nhơn và Gò Công. Tình hình cho Võ Quá thấy phong trào kháng chiến ở ba tỉnh miền Đông, trước sự đàn áp của địch đã lắng hẳn xuống. Các anh hùng hào kiệt từng là chiến hữu của ông, số thì ngã xuống, số bị cầm tù, số còn lại thì đã dồn sang 3 tỉnh miền Tây tiếp tục chống Pháp. Ở ba tỉnh miền Đông, bộ máy cai trị của Pháp đã được củng cố ngày một mạnh. Như vậy việc gầy dựng lại từ đầu một đội ngũ nghĩa quân đủ mạnh để nổi dậy khởi nghĩa một lần nữa là điều vô vọng, nếu may lắm không bị tiêu diệt ngay từ trứng nước thì trước sau gì cũng lại chuốc lấy thất bại. Thời thế đã đổi thay! Không còn cách nào khác, Võ Quá quyết định trở về quê hương bản quán, muốn thế trước hết là phải ra Bình Thuận. Ông cùng thuộc tín theo thuyền dọc sông Vàm Nao ra biển…
Bàu Trắng, Mũi Né, Bình Thuận là nơi mà ngày xưa dân đi biển từ Ngũ Quảng vào và từ Nam Kỳ - Lục Tỉnh ra thường dùng làm nơi cặp thuyền (đóng vai trò như một trạm trung chuyển). Võ Quá và thuộc tín đặt bàn chân đầu tiên lên đất Bình Thuận khi theo thuyền từ Nam ra chính là tại chốn này.
Vừa bước chân lên bờ là hai người khẩn trương đến ngay một địa chỉ ở Hòa Đa nhưng đã không gặp được người họ Trương nọ (có thể lúc đó người họ Trương nọ đang ở đâu đó trên chặng đường Bình Thuận - Nghệ An để thực hiện cái công việc ân tình mà bạn bè đã gửi gắm!). Võ Quá dò hỏi người xung quanh và chỉ biết mơ hồ rằng: cũng chưa lâu lắm, có một người phụ nữ bồng một đứa con khoảng 4 tuổi ra đây, được mấy bữa thì cô ta đi đâu không rõ, hình như là ra Trung, đến Quảng Ngãi, còn người họ Trương thì nghe nói có việc ở quê phải về gấp và chưa thấy trở lại. Cho rằng nấn ná ở lại chỉ vô ích và nhất là dễ lộ chuyện nên Võ Quá quyết định bỏ đi. Từ đây, Võ Quá và thuộc tín - đồng thời cũng là bạn chiến hữu chí cốt, sau khi giao ước và hứa hẹn với nhau xong thì chia tay, tìm đường, kẻ trước người sau, ai về quê nấy.
Võ Quá không về Quảng Ngãi mà ghé Bình Định, về tổ quán ở An Nhơn tá túc. Lúc này Võ Quá đã chuyển thành Võ Bông. Sau bao nhiêu năm xa cách, Võ Duy Lập, mà bây giờ là Võ Bông đã đoàn tụ với vợ con tại đây. Võ Bông đã kể cho vợ nghe nhiều điều bí mật trong quãng đời hoạt động tại Nam Kỳ của ông, kể cả việc ông có đứa con riêng mà không biết đang ở phương trời nào. Để phù hợp với cái tên hiện tại là Võ Bông, ông đã cải lại họ hai người con trai của mình, bỏ chữ Duy đi, để rồi: Võ Duy Cung thành Võ Tường và Võ Duy Phụng thành Võ Ký, thêm Nguyễn Duy Sác thành Võ Sác, Võ Châu thành Võ Thị Thắm. Sau này ông còn có thêm 1 người con gái nữa, được đặt tên là Võ Thị Lan…
Ẩn mình ở Bình Định một thời gian, Võ Bông trở về Nghĩa Hành, Quảng Ngãi, nơi chôn nhau cắt rốn của ông và cũng là nơi chôn cất di hài người cha của ông. Trước đó khá lâu, vợ con ông đã về đó để lo nhang khói mồ mả, thờ phượng cho người cha tiết nghĩa - Tổng trấn Võ Duy Ninh (hiện nay mộ phần vị Tổng trấn này vẫn được bảo lưu tại làng Đại An, xã Hành Thuận, huyện Nghĩa Hành, tỉnh Quảng Ngãi). Về đến quê cha thì cái tên Võ Bông đã hóa thành Võ Sen. Nếu ghép hai cái tên đó lại thì sẽ có được một… Bông - Sen. Ở Đồng Tháp Mười xưa kia, dù là bao la mùa khô hay mênh mông mùa nước nổi, bao giờ cũng hiển hiện sen và tràm. Đặc biệt, hoa sen đã trở thành biểu tượng bất tử về sự thuần khiết của tâm hồn con người chân phác và của đất trời hoang vắng ở xứ sở đó. Chắc hẳn trong lòng ông Thiên Hộ không bao giờ nguôi ngoai được nỗi niềm thương nhớ về một vùng dung dị mà khoáng đạt, hiền lành mà kiên trung, nơi ông đã từng lăn lộn, vẫy vùng, anh dũng chiến đấu chống quân xâm lược để trả thù cho cha, báo đền cho nước, cùng với các chiến hữu và những “dân ấp, dân lân, mến nghĩa làm quân chiêu mộ”; nơi mà ông đã có thêm một mối tình phu - phụ với người thiếu nữ có tên là Sen (hoặc cũng có thể là Bông). Như là thể hiện của sự cảm ứng huyền linh, sau này, trong văn học sử Việt Nam có hai câu thơ được đặt vào vị trí rất trang trọng, ngầm mách bảo rằng có thể coi hai cuộc kháng chiến chống Pháp lần thứ nhất và lần thứ hai là một cuộc kháng chiến duy nhất có tính truyền đời truyền kiếp rất thiêng liêng mà cũng thật lạ lùng:
“Tháp Mười đẹp nhất Bông Sen
Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ”
(Kể thêm: ngôi làng ôm ấp quãng đời thơ ấu của Hồ Chí Minh cũng có tên là Sen. Hòa Đa, thủ phủ của tỉnh Bình Thuận có tên xưa kia là  Liên Thành (nghĩa là: thành hoa sen). Ở đây, tháng 3-1906 xuất hiện tổ chức Liên Thành Thương quán, hoạt động kinh tế nhằm gây quỹ cho phong trào Duy Tân; tháng 5-1906 xuất hiện Liên Thành Thư xã nhằm truyền bá sách báo có nội dung yêu nước, mở mang dân trí. Đó là kết quả vận động của các nhà yêu nước Bình Thuận, trong đó hạt nhân gồm Nguyễn Trọng Lợi, Nguyễn Quí Anh (hai người con của Nguyễn Thông), Trương Gia Mô, Hồ Tá Bang và một số người khác. Xa xưa hơn nữa, ít ra cũng cả ngàn năm, ngay trong kinh thành Thăng Long đã xuất hiện biểu tượng trác tuyệt về hoa sen: Chùa Một Cột. Phải chăng đó là kiến tạo từ hồi ức đã khắc tạc không thể phai mờ trong tâm trí dân tộc Việt về một thời xa xưa hơn nữa, khi mà một vùng rộng lớn bao gồm cả Thăng Long còn mênh mang nước nổi với bát ngát những đầm sen, và phải chăng bông sen đã là đặc trưng của những vùng duyên hải nước ngập lầy lội tràn lan?
Và phải chăng hoa sen cũng đã từng được coi là một biểu tượng của sự thơm tho, thanh khiết của nền văn minh sông Hồng thời cổ đại?).

Chùa Một Cột

Võ Sen về sinh quán nhưng không về làng Đại An sum họp với vợ con mà về ở đâu đó tại Chợ Chùa. Thiên Hộ Nguyễn Duy Dương - Võ Duy Lập, vĩnh viễn mai danh ẩn tích. Trong phả đồ có ghi ông mất vào năm 1923.
Sau này, trên bước đường hành phương nam, phó bảng Nguyễn Sinh Sắc (còn có tên là Nguyễn Sinh Huy) có ghé lần lượt qua Nghĩa Hành - Quảng Ngãi thăm quê cha đất tổ, ghé Hòa Đa - Bình Thuận, nơi xưa kia đã ly biệt mẹ mình. Đích đến cuối cùng của ông là Cao Lãnh - Đồng Tháp. Ông hoạt động yêu nước và hành nghề bốc thuốc ở đây cho đến cuối đời. Phải chăng Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc đến sống ở Cao Lãnh - Đồng Tháp còn với mục đích sâu xa là muốn về quê mẹ để tìm hiểu tung tích người mẹ đồng thời cũng thăm lại nơi người cha của mình đã khai hoang lập ấp, về chiến trường xưa để tìm hiểu cuộc chiến đấu chống Pháp của người cha mà ông nghĩ rằng đã hy sinh anh dũng tại đó?
Ngày nay, bên đường Phạm Hữu Lầu, gần cầu Cái Tôm, cách trung tâm thị xã Cao Lãnh 1 km có khuôn viên rộng khoảng 1 mẫu, đó chính là khu mộ của Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc - thân phụ của vị đại anh hùng Hồ Chí Minh.
     ***

Chúng ta đã kể xong câu chuyện về lịch sử cần cù như chú dã tràng xe cát. Đó là những tóm tắt cô đọng nhất mà chúng ta thu lượm được trên mạng. Người ta cho đó là công việc rỗi hơi, chán phè, vô tích sự. Không ai ép buộc chúng ta cả mà chúng ta làm điều đó chỉ vì thích và yêu. Nói thực lòng, mấy ai yêu nước mà không thấu hiểu lịch sử nước mình. Còn mù tịt về lịch sử nước nhà mà nói yêu nước, thì phải chăng chỉ là "chót lưỡi, đầu môi"? Có đúng không, kể sử cũng là yêu nước?

Vì si mê khiến chúng ta nói dài, nói dai (nhưng không nói dại). Dù sao thì cũng cố lên chút nữa, nói vắn tắt vài điều nữa để kết thúc câu chuyện cho có đầu đuôi mà yên tâm, thỏa nguyện lên đường, mở cuộc hành trình mới.  

***
Đứng đây, trên cái vị thế cao vút và lồng lộng gió ngàn này, dự định ban đầu của chúng ta là thực hiện chương trình “Trên đỉnh Trường Sơn ta hát” thật xúc tích, thật ngắn gọn như một chương trình “mini” với đôi ba bài ngợi ca Thăng Long - Hà Nội, thủ đô ngàn năm văn vật của nước Việt Nam trường tồn mà chúng ta vô vàn yêu mến và xiết bao tự hào, như là một lời chào tạm biệt đối với Tổ Quốc trước khi bước vào một cuộc bôn ba vô tiền khoáng hậu (có lẽ thế!) mà chúng ta đã sửa soạn xong hành trang. Nào ngờ cái chương trình chia tay dự định là “ngắn thôi” ấy lại dàn trải thậm thượt đến tận lúc này cũng chưa dứt, đến mất luôn cả cảm giác về sự trôi của thời gian. Chúng ta đã không thể khẳng định được thời gian trôi qua nhanh hay chậm và đã bao lâu rồi: một năm hay mười năm, một thế kỷ hay đã vài thiên niên kỷ? Hay thời gian đã đứng lại từ lâu vì quanh chúng ta lúc nào cũng như lúc nào, luôn biêng biếc màu xanh của núi rừng, của trời biển? Cũng có thể cả thời gian lẫn chúng ta cùng vùn vụt trôi đi để chúng ta chỉ có thể cảm giác được hiện tại mà thôi?..Ôi, Việt Nam, hình thể như nàng tiên đội nón quai thao, đang múa thắt đáy lưng ong bên bờ biển Thái Bình Dương muôn năm lộng gió, sao mà đáng yêu đến thế?... 
Thú thực, cũng như mọi con dân hết mực yêu thương quê hương, đất nước mình, chúng ta không bao giờ muốn rời xa Tổ Quốc. Nhưng cuộc hành trình vĩ đại (đi tìm cái gì đó) còn quá nhiều dang dở nên buộc chúng ta không còn cách nào khác là đành phải chia lìa, tạm biệt Tổ Quốc một thời gian. Tuy nhiên, trong cuộc bôn ba muôn dặm, không ai có thể biết được điều gì đang chờ đợi phía trước. Nếu chẳng may gặp rủi ro, có thể vĩnh viễn chúng ta không còn bao giờ gặp lại Tổ Quốc mình nữa. Chính điều lo lắng này đã làm cho cuộc chia tay trở nên sướt mướt, da diết, lê thê giãi bày và tràng giang đại hải kể lể. Hình như những cuộc chia ly thấm đẫm tình yêu thương bao giờ cũng kéo dài, khó dứt. Dù sao thì chúng ta đã có một cuộc chia ly dài lâu nhất thế giới tự cổ chí kim.
Dài thế mà cũng chưa nói cạn được nỗi niềm. Cũng là một điều lạ: muốn kể về lịch sử Thăng Long - Hà Nội thì không thể không kể về lịch sử dựng nước và giữ nước Việt Nam và ngược lại, không thể hiểu được lịch sử Việt Nam nếu không kể ra lịch sử tồn tại của Thăng Long - Hà Nội. Rốt cuộc, kể chuyện lịch sử Thăng Long - Hà Nội thì phải kể luôn cả lịch sử Việt Nam, muốn kể lịch sử Việt Nam thì không thể không kể đến quá trình đấu tranh chế ngự thiên nhiên, chống cự giặc ngoại xâm của dân tộc Việt, mà quá trình đó lại được bắt đầu bằng công cuộc trị thủy và đánh tan giặc Ân ở khu vực Cổ Loa, vùng được coi là “tổ quán” của Thăng Long - Hà Nội. Muốn kể về cuộc đấu tranh “ngàn đời” chống ngoại xâm của dân tộc Việt mà không kể đến lịch sử chiến tranh thế giới hoặc ngược lại thì thật là phiến diện, gây khó hiểu và thậm chí là không thể… kể được. Đó cũng là lý do khiến chúng ta phải đứng chôn chân đến tê cứng trên đỉnh Trường Sơn đại ngàn này.
Chúng ta thanh minh như thế để mãn nguyện và… thôi, không thanh minh tiếp nữa, kẻo lại làm cho cái sự lỡ lê thê lại càng… lê thê thêm, sướt mướt thêm…                           

Dù sao thì cũng cố lên chút nữa, nói vắn tắt vài điều nữa để kết thúc câu chuyện cho có đầu đuôi mà yên tâm, thỏa nguyện lên đường, mở cuộc hành trình mới. Cuộc hành trình mà chúng ta cho là quái lạ nhất trong tất cả các cuộc hành trình quái lạ của mình đi đến (thực ra là trở về) với Tự Nhiên Tồn Tại Vĩ Đại.
Dễ chừng cũng ngót 30 năm rồi, chúng ta chưa một lần trở lại thăm thủ đô Hà Nội. Nhờ đã dồi dào tiền bạc, sẵn đá của núi non, sẵn đất cát của sông nước mà Hà Nội, tuy không phình nhanh như thành phố Hồ Chí Minh, nhưng chắc bây giờ, với công cuộc phá - xây hóa, bê tông hóa, cũng đã rộng lắm, to lắm và cao lắm. Qui hoạch mở rộng Hà Nội vừa được “nhất trí thông qua” chắc sẽ làm cho Hà Nội trở nên đồ sộ “vật vã” hơn bao giờ hết. Rồi đây, thủ đô Hà Nội mới sẽ là hợp nhất Hà Nội hiện nay với tỉnh Hà Tây, huyện Mê Linh (Vĩnh Phúc) và 4 xã Đông Xuân, Tiến Xuân, Yên Bình, Yên Trung (huyện Lương Sơn, Hòa Bình), sẽ có 334.470 ha diện tích tự nhiên và 6.232.940 nhân khẩu. Từ chỗ chỉ có 14, thành phố Hà Nội sẽ có 29 đơn vị hành chính cấp huyện. Trong đó có 9 quận thuộc nội thành Hà Nội cũ, 2 thành phố (Hà Đông, Sơn Tây) và 18 huyện.
Trên báo “Người Lao Động” ra ngày 4-8-2008, chúng ta đọc thấy bài báo nhỏ của tác giả B. T. B. Chúng ta trích đoạn:
“Theo Thông tấn xã Việt Nam, công ty Arata Irozaki kết hợp với Metropolitan Architecture đã đề xuất ý tưởng từ thành phố Thủ đô đến thành phố lớn đa cực và mô hình phát triển Hà Nội là thành phố đa cực phát triển phát triển bền vững. Theo nhà thầu thì mô hình phát triển Hà Nội là tối ưu với mối liên kết của ba hệ thống: giao thông, thông tin liên lạc và các tuyến đường chính (đồng thời là hành lang kinh tế kỹ thuật sẽ tạo ra một thành phố hiện đại của thế kỉ XXI). Công ty Posco E&C liên doanh với Công ty Jina Architect, Petkins Eastman nhấn mạnh Hà Nội cần có hành lang xanh với mật độ 60%, đất xây dựng đô thị nằm xen kẽ hành lang xanh và được phân bố tương đối đều phụ thuộc vào tăng trưởng của từng thời kỳ cụ thể, đến năm 2030, Hà Nội sẽ là thủ đô phát triển bền vững vào bậc nhất thế giới. Công ty RTKL đề xuất ý tưởng xây dựng mô hình thành phố bền vững: mô hình phát triển tổng hợp, trong đó có sự kết hợp giữa các chức năng quản lý nhà nước với yếu tố văn hóa xã hội, phát triển hạ tầng giao thông, phát triển đất giúp thành phố trở nên năng động, mạnh mẽ…”.
Nghe các bác nhà thầu nước ngoài “tán” mà mát lòng mát dạ: Hà Nội nếu để cho các bác thầu xây dựng thì chỉ có hiện đại và bền vững bậc nhất thế giới mà thôi. Rồi đây, thay cho những làng hoa, làng nghề truyền thống, những thửa rau xanh là những tòa nhà chọc trời nguy nga, những công viên “thượng uyển” được tỉa xén sắc sảo đến từng chi tiết và cũng thật tráng lệ. Các bác nông dân nhà ta tha hồ mà tít mắt, trầm trồ nhé!
Nhưng thôi, cũng không nên quá lo lắng kiểu lo “con bò trắng răng” làm gì. Tàn phá và dựng xây là hai mặt của một quá trình biến đổi có tính liên tục và tất yếu. Thăng Long - Hà Nội không thể không biến đổi theo thời gian dù có làm cho nó bền vững đến mấy chăng nữa. Nó biến đổi theo hướng nào là tùy thuộc vào sự biến đổi của môi trường chứa nó, trong đó có bàn tay con người và bộ não của con người hiểu như thế nào về khái niệm “dựng xây” cũng như “tàn phá”. Đó cũng chính là số phận có tính chất định mệnh của Thăng Long - Hà Nội, và nếu Thăng Long - Hà Nội vẫn là nơi còn long mạch tỏa ra khí thiêng sông núi, vẫn là vùng địa linh hun đúc nên nhân kiệt thì trước sau gì nó cũng biến đổi phù hợp với ước nguyện của Đại Chúng, vẫn trở về với biểu tượng hồn hậu, khiêm cung và kiên trinh của linh hồn dân tộc Việt.                                   
Ai ơi, hãy đừng để cho những thế hệ người Hà Nội mai sau cũng lại như Bà Huyện Thanh Quan, cách nay hàng trăm năm, trong thời Pháp thuộc xô bồ xô bộn, đã phải thổn thức trong bài thơ “Thăng Long thành hoài cổ” của mình:
“Tạo hóa gây chi cuộc hý trường
Đến nay thấm thoát mấy tinh sương
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương
Ngàn năm gương cũ soi kim cổ
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường”.
Tổ quốc Việt Nam là nơi trú ngụ của dân tộc Việt. Khi đã làm ăn no đủ rồi, sung túc rồi thì dân tộc Việt có quyền được xây dựng nơi trú ngụ của mình khang trang hơn, tiện nghi hơn. Đó là lẽ tự nhiên và cũng là điều hoàn toàn chính đáng. Chỉ có điều cần nhấn mạnh ở đây là dựng xây đến mức độ nào thì gọi là vừa đủ, như thế nào thì gọi là phù hợp, ưu tiên theo hướng nào thì gọi là tối ưu. Xây dựng một cách mù quáng (chưa nói đến vì mục đích mưu cầu đen tối), xây dựng để thỏa niềm hãnh tiến, để cho “bằng chị, bằng em”, xây dựng lấn hết cả đất đai, ruộng đồng, sông núi… coi chừng lại hóa ra phá hoại, mắc tội với hậu thế.
Hãy bình tâm mà nhìn nhận lại: nước Việt Nam đang đứng trước nạn thiên nhiên xâm lăng mới: biển dâng, và dân tộc Việt muốn sống còn thì không thể không đứng lên đấu tranh trị thủy. Đó cũng chính là một cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện mà dân tộc Việt phải chuẩn bị lực lượng và thậm chí là phải bắt đầu tiến hành ngay từ ngày hôm nay.
Theo tính toán, nhiệt độ trung bình ở Việt Nam sẽ tăng lên 3oC và mực nước biển sẽ dâng lên 1 m vào năm 2100. Theo đánh giá của Ngân hàng thế giới (năm 2007), Việt Nam là một trong năm nước sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
Nếu mực nước biển dâng lên 1 m thì sẽ có 40% dân số ảnh hưởng trực tiếp, khoảng 90% diện tích trồng lúa ở đồng bằng sông Cửu Long, 11% diện tích đồng bằng sông Hồng bị ngập mặn hoàn toàn, 4,4% lãnh thổ Việt Nam sẽ bị nhấn chìm vĩnh viễn (hoặc đến thời kỳ biển thoái hàng ngàn năm nữa), đồng nghĩa với khoảng 20% xã trên cả nước, 9.200 km đường bộ bị xóa sổ… Nước biển dâng 1 m sẽ có 1.668 km2 đất thuộc đồng bằng sông Hồng bị ngập.
Theo các nhà nghiên cứu thì đối với thành phố Đà Nẵng, trong 30 năm nữa, khi mực nước biển dâng lên 0,3 m, sẽ có 30.000 hộ dân với hơn 170.000 người ở 18 xã phường ven biển mất nhà ở…
Những biểu hiện của hiểm họa tương lai đó đã bắt đầu bộc lộ từ hôm nay. Hiện nay ở nhiều địa phương Nam Bộ đã xuất hiện hiện tượng triều cường dâng cao phá vỡ đê phòng hộ, biển lấn chồm cả qua đê, tràn vào trong mà người dân gọi là “biển đuổi”. Chẳng hạn ở tỉnh Sóc Trăng thời gian gần đây biển dâng cao bất thường. Năm 2008, tại các huyện ven biển như Vĩnh Châu, Cù Lao Dung… tình trạng biển “nuốt chửng” đất liền đã đến mức báo động… Theo số liệu của chi cục Bảo vệ môi trường khu vực Tây - Nam Bộ, những năm gần đây, diện tích đất trồng lúa ở khu vực này đã có xu hướng suy giảm; năm 2000 diện tích trồng lúa của vùng là trên 3,94 triệu ha, đến năm 2006 chỉ còn 3,77 triệu ha. Mặt khác, tính đa dạng sinh học ở những khu rừng ngập mặn ven biển; những mô hình nuôi, trồng thủy sản cũng sẽ bị ảnh hưởng nặng nề bởi biển dâng.
Trong nội dung tờ trình Thủ tướng Chính phủ của Bộ Nông nghiệp - Phát triển nông thôn về chiến lược phát triển thủy lợi đến năm 2020 có nhấn mạnh: “Đến năm 2070, mực nước biển có thể dâng cao lên 0,9 m so với hiện nay; 0,5 triệu ha đất của Đồng bằng sông Hồng và 1,5 - 2,6 triệu ha đất của Đồng bằng sông Cửu Long sẽ bị ngập bởi thủy triều nếu không có hệ thống công trình bảo vệ”.
Có đúng không nếu ngay từ bây giờ, chúng ta nên điều chỉnh lại các dự án xây dựng, chuyển hướng ưu tiên bê tông hóa vào việc củng cố xây mới hệ thống đê điều, đưa bê tông hóa ra các vùng duyên hải chống sự xâm lấn của nước biển, bảo vệ các vựa lúa của Việt Nam trước nạn biển dâng?
Với truyền thống trị thủy hàng ngàn năm của mình và nếu nghiêm túc dự trù từ sớm, chắc chắn dân tộc Việt sẽ thành công trong việc chống nước mặn xâm lăng trong kỳ biển dâng này và đồng thời qua đó sẽ tạo nên được sự phồn thịnh vượt bậc và lâu bền. Một trong những yếu tố sẽ làm nên sự thắng lợi của công cuộc đấu tranh chống biển lấn là nó xảy ra trong điều kiện tình hình chính trị thế giới đã có nhiều lắng dịu.
Dựa trên những quan niệm cực đoan, giáo điều về kinh tế - xã hội, Liên Bang Xô Viết đã không chịu nổi những căng thẳng nảy sinh trong lòng nó, đã tự nhiên tan vỡ (Goócbachốp và Enxin chỉ là hai nhân vật thừa hành của sự biến đổi tất yếu ấy của xã hội). Liên Bang Xô Viết tan rã thành các quốc gia độc lập và tất cả các quốc gia này cũng như tất cả các nước làm hình thành nên hệ thống xã hội chủ nghĩa châu Âu đều từ bỏ con đường Xã hội chủ nghĩa. Trung Quốc và Việt Nam tuy không nói từ bỏ nhưng để vực dậy nền kinh tế, tránh đổ vỡ, đã đổi mới ngày một triệt để cách thức điều hành nền kinh tế theo hướng giống với nền kinh tế tư bản chủ nghĩa hơn bao giờ hết. Trong hàng ngũ cán bộ lãnh đạo đất nước hiện nay, bao nhiêu người được đào tạo chính qui từ các trường kinh tế của các nước TBCN? Từ đó suy ra phải chăng kiến thức hoạt động kinh tế TBCN là có tính chân lý?

Trận mưa vừa gây ngập lụt ở Hà Nội lớn nhất lịch sử 45 năm qua - Ảnh 1.


         Tuy nhiên đó không phải là kết quả đấu tranh chống cộng sản thắng lợi của hệ thống các nước phe Tư bản chủ nghĩa. Bản thân quan niệm Tư bản chủ nghĩa về kinh tế - xã hội cũng có những cực đoan và giáo điều của nó. Chính vì vậy mà ở các nước tư bản chủ nghĩa luôn xảy ra khủng hoảng kinh tế như một căn bệnh mãn tính, chỉ có thể chữa trị như một giải pháp tình thế mà chưa có bài thuốc chữa trị rốt ráo, tổng quát. Nhờ có các cuộc khủng hoảng ấy, đồng thời trước tình hình thế giới sau chiến tranh thế giới thứ hai đã có nhiều biến đổi, nhất là phong trào đấu tranh giành độc lập của các nước thuộc địa dâng cao mạnh mẽ; mà các nhà nghiên cứu kinh tế tư sản đã đưa ra nhiều học thuyết để nỗ lực phân tích nguyên nhân cũng như tìm biện pháp khắc phục nhằm chấm dứt suy thoái kinh tế. Xu thế giải quyết khủng hoảng của các nhà kinh tế tư sản là trước sau gì cũng phải hướng tới khống chế cạnh tranh mù quáng ở tầm vĩ mô, khống chế độc quyền, tăng khả năng điều tiết vĩ mô của chính quyền nhà nước bằng biện pháp kinh tế và cả bằng mệnh lệnh trong trường hợp cần thiết, nghĩa là tăng cường sự quản lý điều hành tập trung cho nhà nước. Như thế, từ một nền kinh tế tự do cạnh tranh mù quáng, qua thời gian, để sống còn, nền kinh tế đó cũng dần phải giảm bớt tính tự do mù quáng của nó và trong chừng mực nhất định, tăng tính kế hoạch và chỉ đạo tập trung nhà nước. Rõ ràng nền kinh tế tư bản chủ nghĩa đã mặc nhiên ngày một nhích đến gần hơn với phương thức điều hành kinh tế của chủ nghĩa xã hội. Vì như chúng ta biết, đặc trưng của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa là có tính kế hoạch cao độ, tập trung quản lý điều hành trong tay nhà nước (một cách duy ý chí, bất chấp qui luật cung cầu).
Ngày nay, hầu hết và có thể là ở tất cả các nước, dù mang nhãn mác nào, tư sản hay cộng sản, tư bản chủ nghĩa hay xã hội chủ nghĩa đều có nền kinh tế mang bản chất na ná nhau và nếu dựa trên lập trường của chủ nghĩa cộng sản “chính thống” thì đều là nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, không thể chối cãi được dù có biện minh giỏi cách mấy đi chăng nữa.
Các nền kinh tế đã như thế thì các quan niệm chính trị cũng bớt hẳn đối đầu. Vấn đề nóng bỏng trước đây, sự đối đầu đến mức tưởng như một mất một còn giữa cộng sản và tư sản, giữa Xã hội chủ nghĩa và Tư bản chủ nghĩa, đến đây, đã không còn đặt ra (công khai) nữa.
Nước Nga, kế thừa cái nền tảng đạo đức vô sản đẹp đẽ của Liên Bang Xô Viết, đang trở thành mẫu mực trong quan hệ quốc tế. Nước Mỹ năm 2009, sau khi Barack Obama, người Mỹ da đen đầu tiên lên làm tổng thống, đã có những biến đổi làm yên lòng thế giới: hữu nghị hơn, cởi mở hơn, cao thượng hơn.
Có một câu chuyện thú vị liên quan đến Tổng thống Obama. Chính phủ mới của Mỹ thực hiện các chính sách như: nắm giữ phần lớn cổ phiếu của các ngân hàng, điều khiển ngành công nghiệp ô tô, tìm cách quốc hữu hóa lĩnh vực chăm sóc y tế… đã làm cho một số nghị sĩ đảng Cộng Hòa công khai chỉ trích tổng thống Obama đang thực hiện những chính sách mang tính chất xã hội chủ nghĩa. Vấn đề này ngay lập tức diễn ra trên khắp nước Mỹ. Công ty truyền thông chuyên thực hiện các cuộc thăm dò dư luận có uy tín của nước Mỹ là Rasmussen Reports lập tức quyết định tiến hành cuộc thăm dò ý kiến có qui mô toàn quốc với câu hỏi: “Giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa xã hội, hệ thống nào tốt hơn?”. Kết quả công bố ngày 9-4-2009 cho thấy chỉ có 53% người Mỹ trưởng thành tin rằng chủ nghĩa tư bản tốt hơn; 20% tin rằng chủ nghĩa xã hội tốt hơn và 27% phân vân không biết chọn hệ thống nào. Đây là kết quả gây ngạc nhiên cho chính những người thực hiện, bởi trong cuộc khảo sát cũng do họ thực hiện vào cuối tháng 12-2008, có đến 70% người Mỹ trưởng thành ủng hộ nền kinh tế thị trường tự do (một cách hiểu khác về chủ nghĩa tư bản). Mặc dù kết quả cho thấy đa số người Mỹ vẫn ủng hộ chủ nghĩa tư bản, nhưng 53% là một tỷ lệ được cho là quá thấp trong một quốc gia luôn coi chủ nghĩa tư bản là chìa khóa phát triển để được như Mỹ ngày nay.
Câu chuyện kể cũng thú vị đấy chứ?
Có thể đoán rằng; thế giới đang bước vào thời kỳ hòa dịu và hợp tác hòa bình, các nước dần xích lại gần nhau hơn nữa và cùng chung sống trong bầu không khí bình đẳng, tương trợ, và tôn trọng lẫn nhau. Xu thế này chắc chắn cũng làm cho chủ nghĩa khủng bố lụi tàn dần.

              
                    Mặc dù tiềm lực quốc phòng của Việt Nam đã được nâng cao
                           nhưng chúng ta không nên ảo tưởng về sức mạnh của mình

                        
                     Hải quân và Không quân nhân dân Việt Nam huấn luyện hiệp đồng chiến đấu.

Tàu hộ vệ tên lửa Đinh Tiên Hoàng mang số hiệu HQ-011. Ảnh: Trọng Thiết.

 
                   Sức mạnh Tăng-Thiết giáp Việt Nam so với láng giềng
                                           Lực lượng tăng thiết giáp Việt Nam.

      





                                                                   Tàu ngầm Kilo

Chiếc cuối cùng trong lô tàu ngầm được chuyên chở về vịnh Cam Ranh sáng 20/1/2017, mang phiên hiệu HQ-187 Bà Rịa-Vũng Tàu.

Cuối cùng, chúng ta hy vọng rằng trong tương lai không xa, trên thế giới sẽ không còn bất cứ loại vũ khí hóa học nào, bất cứ thứ vũ khí hạt nhân nào. Nhưng trước hết, vũ khí hạt nhân, cái biểu tượng về trí tuệ siêu việt đáng tự hào và đồng thời cũng là biểu tượng mù quáng và độc ác đáng hổ thẹn của loài người phải bị tiêu hủy ngay lập tức và không có quyền được xuất hiện trở lại.
Tuy nhiên, cái tương lai không xa ấy chắc vẫn còn… xa vời lắm! Vào cuối tháng 5-2011, trong một chuyến công du qua nước Anh, tổng thống Obama đã phát biểu trước hai viện Quốc hội Anh: “Mỹ, Anh đang bước vào một giai đoạn quan trọng mới và ngày nay là thời đại mà Mỹ và Châu Âu phải giữ vai trò lãnh đạo thế giới”.
Lời phát biểu gây sốc đó không hề làm chúng ta ngạc nhiên. Obama vẫn chưa thoát được lối tư duy kẻ cả, hợm hĩnh thường thấy ở những chính khách “tai to mặt lớn” của những nước lớn!
Mặt khác, nhìn sang láng giềng, nước Trung Quốc, một "đại ca" cộng sản, với quan niệm "đại nhảy vọt" đầy lầm lạc của mình, đã trở thành đại đế quốc, đang ngày đêm chạy đua vũ trang, âm mưu độc chiếm biển Đông, thực hiện dã tâm thôn tính cả Đông Nam Á, khuynh đảo thế giới. Do vậy, khả năng bao lực ở biển Đông đang nóng lên từng ngày, bùng nổ chiến tranh bất cứ lúc nào.
Chúng ta không thể không đặt câu hỏi: ngòi nổ chiến tranh thế giới thứ ba có bao giờ lại là biển Đông và Trung Quốc chính là kẻ châm ngòi hay không?
Đối với chúng ta Trung Quốc chưa bao giờ là nước cộng sản. Cộng sản gì mà làm cuộc "Đại cách mạng văn hóa" vô cùng quái dị, làm chết một cách oan uổng hàng chục triệu con người như vậy? Cộng sản gì mà có tinh thần quốc tế vô sản kỳ quặc, đầy vụ lợi và ích kỷ như vậy?
Đối với Việt Nam, Trung Quốc bao giờ cũng là một kẻ láng giềng thâm hiểm, khổng lồ mà cư xử không mã thượng. Hàng ngàn năm nay, Trung Quốc luôn thường trực ý chí thôn tính và đồng hóa dân tộc Việt. Phải luôn đề cao ý thức cảnh giác, không cho chúng thực hiện ý đồ ấy. Hãy dõng dạc và đanh thép nói như Hồ Chí Minh khi trả lời phỏng vấn của nhà báo Pháp năm 1964: "KHÔNG BAO GIỜ!".
 

                                    TỔ QUỐC GOI TÊN MÌNH  

(Hết chương XXXII và hết phần III)
 

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

NGẬM SẦU (ĐL)

BÍ ẨN ĐƯỜNG ĐỜI 156

KÝ ỨC CHÓI LỌI 126