THỰC TẠI VÀ HOANG ĐƯỜNG 14/a
THỰC TẠI VÀ HOANG ĐƯỜNG (II)
ĐẠI CHÚNG
--------------------------------
CHƯƠNG II:
PHÁC THẢO
“Tương phản với không gian thì có nguyên
lý về chất, về sự phân biệt và về “vật”. Dù sao thì chẳng có gì có thể tồn tại
mà không có không gian. Không gian là điều kiện tiên quyết của mọi vật đang tồn
tại, bất kể là dưới dạng vật chất hay phi vật chất, bởi vì chúng ta không thể tưởng
tượng ra một vật hay một hữu tính mà thiếu không gian”.
Lama Anagark
Govinda
CHƯƠNG II: PHÁC THẢO
“Tương
phản với không gian thì có nguyên lý về chất, về sự phân biệt và về
“vật”. Dù sao thì chẳng có gì có thể tồn tại mà không có không gian.
Không gian là điều kiện tiên quyết của mọi vật đang tồn tại, bất kể là
dưới dạng vật chất hay phi vật chất, bởi vì chúng ta không thể tưởng
tượng ra một vật hay một hữu tính mà thiếu không gian”.
Lama Anagark Govinda
Tồn
Tại là vốn dĩ thế rồi, là toàn thể những gì chúng ta quan sát thấy hoặc
không thấy, dù quan sát chính xác hay không chính xác, dù nhận thức
đúng hay không đúng. Tồn Tại có nghĩa là Có, Có một cái gì đó , có một
điều gì đó. Có thì phải thể hiện. Thể hiện là đặc tính cơ bản nhất, đặc
tính tuyệt đối của Tồn Tại và cũng chính là Tồn Tại. Hư vô theo định
nghĩa là không có gì. Không có gì tuyệt đối thì gọi là Hư Vô (viết hoa).
Không có gì tương đối gọi là hư vô (viết thường). Vì Hư Vô cũng phải
thể hiện (thể hiện sự không có gì) nên Nó cũng chính là Tồn Tại. Một hư
vô thể hiện trước Tồn Tại (tuyệt đối) là Hư Vô (tuyệt đối); một hư vô
tồn tại trước nhận thức (tồn tại tương đối) là hư vô (tương đối). Vì
chúng ta đang “có mặt” nên chúng ta tồn tại, vì chúng ta tồn tại nên là
bộ phận của Tồn Tại. Lúc này Hư Vô không thể xuất hiện bên cạnh cái Duy
Nhất mà cũng không thể là bộ phận của Tồn Tại, vì nếu thế hư vô đó sẽ
không tuyệt đối được nữa. Khi chúng ta không có mặt thì có nghĩa rằng
chúng ta là hư vô, là bộ phận của Hư Vô. “Lúc này” Tồn Tại không thể
xuất hiện cái cũng là Duy Nhất, mà cũng không thể là bộ phận của Hư Vô,
vì nếu thế tồn tại đó sẽ không tuyệt đối nữa.
Thể hiện có nghĩa
là phân biệt được so với xung quanh, so với bên ngoài của cái tồn tại
đang thể hiện. Tồn tại là thể hiện, nên Tồn Tại (tuyệt đối) phải thể
hiện đến tận “chân tơ, kẽ tóc” của nó, làm cho nó cũng “tuyệt đối rời
rạc”, phá vỡ tính duy nhất, thống nhất keo sơn tuyệt đối của chính nó.
Do đó, đồng thời với quá trình làm dị biệt hóa là quá trình đồng nhất
hóa nhằm xóa đi sự dị biệt. Thể hiện và không thể hiện chính là “thủy
tổ” của “có - không có”; đến lượt “có - không có” là giềng mối của một
đặc tính tương tự của tồn tại, đó là sự tương phản.
Hai
quá trình đồng hóa và dị hóa thực chất ra là hai mặt không thể tách rời
của một quá trình vĩ đại: sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các mặt tương
phản, hay chúng ta cũng thường gọi là “sự vận động”. Do đó chúng ta nói
Tồn Tại (tuyệt đối) là phải Vận Động (tuyệt đối) và mọi tồn tại, muốn
duy trì tồn tại của chúng thì đều phải vận động và vận động (xét theo
nghĩa tuyệt đối) cũng phải đến tận “chân tơ kẽ tóc”.
Tồn
Tại là phải Vận Động, Tồn Tại là vốn dĩ thế rồi nên Vận Động cũng vốn
dĩ thế rồi. Vận Động đảm bảo cho Tồn Tại được… tuyệt đối và nhờ thế mà
Tồn Tại cũng làm cho Vận Động trở nên tuyệt đối. Tồn tại tuyệt đối là
không có thêm tồn tại mà cũng không mất bớt tồn tại, vừa vô thủy vô
chung mà cũng đồng thời có giới hạn… nghĩa là Nó là tất cả mà cũng chẳng
là gì, vừa là cả hai mà cũng không phải cả hai. Tồn Tại tự thân (!) Vận
Động và Vận Động để thể hiện ra bản chất ấy. Cho nên Vận Động cứ thế
mà… Vận Động, Vận Động một cách tự nhiên, vừa “hồn nhiên” tuyệt đối vừa
“gò bó” tuyệt đối, vừa là cả hai mà cũng không phải cả hai. Như vậy, ta
có thể gọi Vận Động là Tự Nhiên, Tự Nhiên là Tồn Tại, Tồn Tại là Vận
Động và gọi theo cách chúng ta là Tự Nhiên Tồn Tại. Tự Nhiên Tồn Tại
tương tự như khái niệm Đạo của Lão Tử, vừa có nghĩa là bản thể Tồn Tại,
vừa có nghĩa là nguyên lý Tồn Tại. Tồn Tại là theo nguyên lý Tự Nhiên.
Nguyên lý Tự Nhiên là nguyên lý chung nhất, tuyệt đối mà mọi tồn tại đều
phải tuân thủ, là nguyên lý cội nguồn, là nền tảng của mọi nguyên lý
tương đối, mọi qui luật, định luật trong tự nhiên mà con người đã khám
phá ra hoặc chưa khám phá ra. Nội dung nguyên lý tuyệt đối ấy là:
Mọi
tồn tại vừa là nguyên nhân, vừa là kết quả tạo dựng của nhau; là thể
hiện của những tồn tại quá khứ và đồng thời là mầm mống của những tồn
tại tương lai; chúng có quyền được an hưởng từ Tồn Tại nên cũng có nghĩa
vụ phụng sự, hiến dâng cho Tự Nhiên, nghĩa là mọi khả năng đều là tồn
tại và mọi tồn tại đều là khả năng, sinh ra là để mất đi và mất đi làm
tiền đề cho sự sinh thành, tạo nên những chu trình, biến hóa phong phú
và bất diệt.
Một
nguyên lý vĩ đại mà phát biểu như thế thật rườm rà, có cái vẻ quá “ẻo
lả” văn chương và sặc mùi chính trị, chẳng mang tính khoa học chút nào.
Có lẽ phải phát biểu lại cho giản dị, trong sáng hơn (vì Tồn Tại là tối
giản?!). Chúng ta phát biểu lại như thế này:
Mọi
tồn tại đều là nguyên nhân và là kết quả của tồn tại. Mỗi tồn tại đều
tạo dựng. Tạo dựng là để duy trì tồn tại mà cũng là chấm dứt tồn tại.
Cách phát biểu này có gọn hơn nhưng cũng chẳng sáng sủa gì, thậm chí còn mù mịt hơn. Hay là nói theo “kiểu” Lão Tử:
Cái gì phù hợp với tự nhiên thì tồn tại, không phù hợp thì không tồn tại.
Cũng
chẳng hơn gì! Hình như trước đây (lâu lắm rồi!) chúng ta đã từng một
lần phát biểu nguyên lý tuyệt đối này thì phải? Thôi, kệ, mai này, khi
nào gặp Tạo Hóa chúng ta sẽ hỏi xem chính xác nội dung nguyên lý là như
thế nào!
***
Eddington nói:
A. Einstein nói:
W. Heisenberg nói:
S. Aurobino nói:
Vừa mới đây chúng
ta còn nói đến vật chất, coi vật chất là tất cả những gì có trong Vũ
Trụ. Vậy mà bây giờ chúng ta đột ngột phủi tay, quay ngoắt đi, chỉ nói
đến tồn tại, chỉ cho rằng Vũ Trụ này không gì khác ngoài những tồn tại
vận động. Chúng ta đã tự mâu thuẫn với mình chăng? Không, ở đây phải
hiểu vật chất ''thấp hơn'' TồnTại, chỉ là ''một phần'', là bộ phận của
Tồn Tại!
Từ
thời xa xưa, ở những bước đầu tiên của nhận thức thực tại, do “chưa đủ
kinh nghiệm”, tổ tiên chúng ta đã đưa ra khái niệm vật chất chỉ để gọi
bao gồm tất cả các sự vật - hiện tượng thấy được, cảm nhận được, sờ mó
được, cân đong đo đếm được,… nghĩa là tất cả những cái có hình dạng kích
thước nhất định, “chứa đầy” nội dung có thể cảm nhận được ở bên trong,
cái thực thể, cái hiện hữu cụ thể… Khái niệm vật chất được hiểu chỉ có
thế, mà có khi còn hẹp hơn thế, Những cái gì không thuộc về vật chất thì
được họ gọi là phi vật chất.
Vật
chất được hiểu nôm na là có một cái gì đó cụ thể, cách hiểu như vậy
cũng coi như tạm ổn và vật chất được hình dung dễ dàng. Nhưng phi vật
chất lại khó hiểu hơn nhiều. Trước tiên, phi vật chất được hiểu như
không có gì, chẳng hạn như khoảng rỗng tuếch của Vũ Trụ giữa các thiên
thể là không có gì, do đó nó là phi vật chất. Rồi phi vật chất được hiểu
thêm như là có một cái gì đó hiển hiện mà không có cấu trúc, không thể
nắm bắt được, chẳng hạn như không gian với khả năng chứa đựng vật chất
của nó và thời gian với khả năng làm cho vật chất biến đổi của nó…
Có
thể lúc đầu, khái niệm vật chất và khái niệm phi vật chất chỉ mang
những ý nghĩa hạn hẹp hợp lý và dễ hiểu vì phù hợp với nhận thức thời
bấy giờ. Nhưng nhận thức của con người luôn có xu hướng ngày càng sâu
rộng trước một hiện thực biến hóa “uyển chuyển” khôn lường, cho nên hai
khái niệm ấy ngày càng được mở rộng ý nghĩa đến mức không còn gì phù hợp
với nhận thức thực tại nữa và trở nên sai lạc, “ai muốn hiểu sao thì
hiểu” và tha hồ mà ''luyến thoắng triết học'', nhưng chẳng ai...hiểu
đúng về nó cả. Thế mới lạ!
Có
rất nhiều nguyên nhân, trong đó sự phát triển của nhận thức cùng với
tính “ì ạch”, “không theo kịp”, bảo thủ của khái niệm là nguyên nhân hết
sức quan trọng làm cho nhận thức triết học của con người về hiện thực ở
mọi thời đều mang nặng trăn trở hoang mang dẫn đến đòi hỏi phải nhận
thức lại, thậm chí là từ đầu.
Tính
hợp lý và đúng đắn, phù hợp với những buổi đầu tiên của khái niệm vật
chất đã giúp cho con người nhận chân được rất nhiều điều từ hiện thực.
Nhưng vô tình nó cũng chìa ra cái “lỗ hổng” phi vật chất đủ lớn cho cái
gọi là “tinh thần”, không biết từ đâu đến (từ nhận thức chăng?!) chiếm
lấy, trị vì. (Chúng ta cho rằng hiện lên trong nhận thức đầu tiên của
con người là thế giới vạn vật, chỉ sau đó mới xuất hiện thêm thế giới
thần linh, vì thần linh hay thượng đế không phải là những biểu tượng dễ
dàng từ trực giác để mà nhận thức ngay được! Và nền văn minh đầu tiên
của nhân loại có thể là ở đâu đó trong quá khứ, sâu xa hơn nhiều so với
nhận định ngày nay).
Cũng
từ đó mà hình thành và phát triển song song hai nhận thức tương phản
nhau, hai trường phái chủ đạo trong triết học là duy vật và duy tâm.
Triết học duy tâm cho rằng tinh thần là thứ có trước, làm xuất hiện và
qui định thế giới vạn vật - hiện tượng. Triết học duy vật cho rằng thế
giới này không có gì khác ngoài vật chất và vận động, thể hiện ra theo
những qui luật vốn có của nó.
Hai
trường phái triết học đó vừa học hỏi nhau vừa bài bác nhau, vừa cố tự
biện minh đến… “sùi bọt mép” vừa đều thiếu thực chứng, cho nên cả hai
đều có đúng có sai, vừa là cả hai mà cũng không phải cả hai và vì thế mà
làm nảy sinh ra biết bao nhiêu quan niệm có khi thật đúng đắn, có khi
thật kỳ dị; biết bao nhiêu phái triết học khoác cái vỏ trung dung mà
thực ra là ngụy tạo, lắp ghép “đầu Ngô mình Sở”, làm cho xã hội đầy phè
“đủ mọi thứ” triết học mà như chúng ta nói tếu là “triết học mắc bệnh
béo phì”.
Chúng
ta, rõ rồi, về mặt nhận thức tự nhiên, đứng về phía bất cứ học thuyết
nào chủ trương duy nhiên, còn về mặt nhận thức xã hội, chúng ta ủng hộ
tất cả những học thuyết hướng tới duy ái, kể cả duy tâm lẫn duy vật, kể
cả tín ngưỡng hay không tín ngưỡng, miễn những học thuyết đó tôn trọng
đại chúng, tỏ rõ được tình yêu thương con người và biết hành động một
cách thiết thực để làm dịu đi những đau thương, khốn khổ trong xã hội
loài người…
Ngày
nay, khái niệm vật chất đã không thể mang vác nổi cái nội dung “nặng”
như Vũ Trụ và “rộng đến cùng cực” (từ của Lê Nin) mà người ta đã cố tình
chất chồng lên nó nữa. Có lẽ nên cho nó ra khỏi đời sống khoa học, gắn
cho nó tấm huân chương ghi công rồi cho nó “về hưu” nghỉ ngơi, còn không
thì cũng nên giải phóng nó khỏi những ý nghĩa “to tát” đi, phân nó ra
thành hai cá thể là “vật”, “chất” và hiểu theo cái nghĩa thông thường
nhất. Không những khái niệm vật chất mà nhiều khái niệm khác nữa cũng
cần phải xem xét lại, cái nào sau thời gian dài phục vụ, đã quá “rệu rã”
còn sử dụng được thì nên sửa chữa, tân trang “mông má” lại cho phù hợp
với “thời cuộc”. Chẳng hạn như khái niệm vận động, trái với khái niệm
vật chất, vẫn còn giữ nguyên cái nghĩa thời “trung cổ”, quá lạc hậu rồi,
muốn sử dụng nữa, phải gán cho nó cái nghĩa là chuyển hóa (chuyển động,
biến hóa, cảm ứng…). Ý kiến của chúng ta là thế, nhưng nếu mọi người
không đồng ý thì… thôi. Nhận thức vẫn đi theo đúng đường của nó, không
lựa chọn và Tự Nhiên Tồn Tại thì cứ vốn dĩ thế, không cần đến nhận thức.
Ha, ha...ha!...
Phê phán khái niệm vật chất một cách mạnh miệng như thế ắt phải có lý do chứ? Tất nhiên, nhiều nữa là khác!
Triết
học duy vật nói rằng trong Vũ Trụ, không có gì khác ngoài vật chất và
vận động vật chất. Thế thì quan niệm như thế nào về một khoảng thể tích
rỗng tuếch trong cái rỗng tuếch của không gian? Nếu cho nó là vật chất
thì nó phải vận động. Có quan sát được điều đó không? Đến nay vẫn chưa
quan sát được điều gì “ở đó” cả. Như vậy, tạm cho nó là phi vật chất. Mà
phi vật chất thì có vận động không? Chắc là không vì không thể quan
niệm được không có gì lại vận động lung tung. Nếu thế thì có thể gọi thể
tích không gian đó là hư vô được không? Đây chính là điểm nhạy cảm của
triết học Duy Vật và cũng là của triết lý Phật Giáo. Và cả hai học
thuyết, không hẹn mà đồng thanh: Không phải hư vô! Triết học Duy Vật coi
không gian là đặc tính cơ bản của vật chất (đặc tính vật chất nằm ngoài
vật chất?!), gán cho nó cái chức năng có yếu tố vật chất để tránh hư
vô. Phật giáo thì đồng ý không gian là trống rỗng nhưng… không phải là
không có gì và cho rằng không thể bàn luận được vấn đề này vì nó đã vượt
qua mọi khái niệm, chỉ có tu tập mới “giác ngộ” được mà thôi(!!!). Nói
chung là bế tắc. Nhưng thà bế tắc còn hơn là sụp đổ! Và may thay, nhờ
vật lý học mà triết học Duy Vật đã vượt thoát được điểm yếu ấy và quan
niệm trên của Phật Giáo cũng được chứng thực rực rỡ. Không gian theo vật
lý học là có thể co giãn được và vì vậy là không gian cũng vận động và
có thể coi nó là một dạng vật chất đặc biệt. Cũng theo vật lý học thì
không gian trống rỗng không phải là thực sự trống rỗng mà cũng đầy lượng
tử thăng giáng liên tục. Nhưng vật chất “lồng” vào cái không gian vật
chất ấy bằng cách nào?
Chưa
hết, còn rất nhiều cái phi vật chất đe dọa triết học Duy Vật. Chẳng hạn
tiếng chó tru, lời người nói có phải phi vật chất không? Tâm trạng buồn
vui, hạnh phúc, khổ đau của con người có phải phi vật chất không? Thể
xác chắc chắn là vật chất, nhưng linh hồn có phải là vật chất không?
Dựa
trên quan niệm của triết học Duy Vật về Tự Nhiên và theo khái niệm vật
chất mà nói đưa ra như đã nói ở trên để trả lời những câu hỏi đó là
không dễ dàng gì, thậm chí là bất khả. Còn nếu cho rằng trong Vũ Trụ có
cả những ''thứ khác'' ngoài vật chất nữa thì lại phải hướng tới sự
''có mặt'' của...thần thánh.
Nếu
thừa nhận có phi vật chất tồn tại bên cạnh vật chất thì triết học Duy
Vật, vì không bao giờ chấp nhận có Thượng Đế, phải gộp phi vật chất vào
vật chất để đưa ra một khái niệm mới tổng quát hơn, thực chất hơn thay
cho khái niệm vật chất.
Suy
ra từ khái niệm vật chất thì con voi là một bộ phận của vật chất, hay
gọi giản đơn là vật chất. Nếu con voi là vật chất thì cái bên trong nó,
cái lục phủ, ngũ tạng, xương máu của nó có phải là vật chất không? Không
thể không đồng ý chúng cũng là vật chất. Mà đã là vật chất thì phải vận
động, như vậy nội tại con voi là “các loại” vật chất và vận động. Vì
con voi là vật chất nên chúng ta có thể nói vật chất được tạo bởi vật
chất và vận động vật chất. Nói như thế thì “khó xử” quá! Hay cần phải
cho rằng các vật chất trong nội tại con voi vì không phải là con voi nên
để phân biệt, có thể gọi chúng là những tiền vật chất con voi của vật
chất con voi. Nhưng tiền vật chất con voi thì vẫn cứ phải là vật chất
chứ là cái gì, không lẽ là phi vật chất? Cũng tương tự, không thể quan
niệm được tiền vật chất của cái tiền vật chất lại không phải là vật
chất.
Cấu tạo
của vật chất là vật chất và vận động là câu nói “phi phàm” nhất làm
chúng ta phải bật cười… ngao ngán, và chợt nhớ đến một câu chuyện của
ngàn xưa (từ thế kỷ II trCN):
“Bấy giờ, Vua Dĩ Lan Da (Menandre) hỏi Na Tiên (Nagasena):
- Bạch thượng tọa, tên Ngài là chi?
Na Tiên đáp:
-
Người ta gọi bần tăng là Na Tiên, cha mẹ đã cho bần tăng cái tên Na
Tiên. Có khi cha mẹ đặt tên cho tôi là Na Tiên, hay là Duy Tiên, hay là
Thư La Tiên, hay là Duy Gia Tiên. Cứ như thể là mọi người biết tôi. Đấy
chẳng qua chỉ là những “tên tự” các người mang ở thế gian này.
Nhà vua hỏi Na Tiên:
- Na Tiên là ai? Cái đầu có phải Na Tiên không?
- Không phải cái đầu là Na Tiên.
- Mắt, tai, mũi, mồm có phải là Na Tiên không? Cái cổ, cằm, gáy, vai, cánh tay, chân, bàn tay có phải là Na Tiên?
- Không phải là Na Tiên.
- Dạ dày có phải là Na Tiên?
- Không phải là Na Tiên
- Nhan sắc có phải là Na Tiên?
- Không phải.
- Khổ và lạc, thiện và ác, thân, tâm, ngũ uẩn, hợp lại có phải là Na Tiên không?
- Chúng không phải là Na Tiên.
-
Giả sử không có nhan sắc ngoại diện; không có khổ và lạc, thiện và ác,
thân tâm thì cũng không có ngũ uẩn, vậy có phải là Na Tiên không?
- Không phải Na Tiên.
- Na Tiên là cái gì?
Na Tiên bèn hỏi lại nhà vua rằng:
- Nay có cái người gọi là cái xe. Cái xe là gì? Gọng có phải là xe không?
- Không phải.
- Cây cốt có phải là xe không?
- Không phải.
- Vành bánh có phải là xe không?
- Không phải.
- Tay hoa (nan hoa) có phải là xe không?
- Không phải.
- Càng xe có phải là xe không?
- Không phải.
- Bệ gác chân có phải là xe không?
- Không phải.
- Trụ tán xe có phải là xe không?
- Không phải.
- Những bộ phận ấy có phải là xe không?
- Không phải.
- Giả sử người ta không lắp lại những bộ phận ấy có phải là xe không?
- Không phải.
- Tiếng khua động có phải là xe không?
- Không phải.
- Vậy thì cái gì là xe?
Nhà vua im lặng không trả lời được. Na Tiên bèn nói:
- Trong Kinh Phật giảng rằng:
Cũng
như hợp các món kia lại đặng làm thành một cái mà người ta có được cái
xe; thì sự hợp lại một cái đầu, một cái mặt, hai mắt, hai tai, một mũi,
một mồm, một cổ, một gáy, hai vai, hai cánh tay, sườn, thịt, tay, chân,
gan, phổi, tim, lá lách, mạch máu, ruột, dạ dày, ngoại diện, tiếng nói,
hơi thở, khổ lạc, thiện ác, đấy là cái người ta gọi là một người, một
hữu thể”.
Na
Tiên không thể được tạo nên từ những Na Tiên, cái xe không thể được tạo
nên từ những cái xe. Đó cũng là điều mà chúng ta muốn nói: vật chất
không thể được tạo nên từ vật chất và vận động được. Nhưng nếu chúng ta
bỏ chữ “vật” đi, chỉ còn chữ “chất” thôi thì vấn đề trở nên dễ hiểu và
tự nhiên hơn nhiều. Chất A “hòa trộn” hay phản ứng với chất B sẽ tạo nên
chất C, trong hóa học thường thấy như vậy.
Các
chất A, B, C có cội nguồn là vật chất nhưng không phải vật chất; mọi
tồn tại đều có gốc gác từ Tồn Tại, nhưng không phải là Tồn Tại. Hiểu như
vậy có hợp lý không?
Ôi, sự lầm lạc vô bờ và sự đại ngộ sao “gần gũi” nhau đến thế nhỉ?!
Thôi chúng ta hãy để cho các nhà vật lý, những người “trực diện” với vật chất nhiều hơn chúng ta, nói về nó:
Eddington nói:
“Khái niệm của chúng ta về vật chất chỉ sống động chừng nào chúng ta chưa đối mặt với nó. Khái niệm này bị mất đi khi chúng ta phân tích nó. Chúng ta có thể vứt bỏ đi rất nhiều thuộc tính được giả thiết kia – chúng hiển nhiên là phóng tác của các cảm nhận của tri giác về thế giới bên ngoài”.
A. Einstein nói:
“Chúng ta dự đoán vật chất như là cái gì đó không thể được tạo ra, cũng không thể bị hủy diệt”.
“Vậy là chúng ta có thể nhìn nhận vật chất được tạo thành bởi các vùng trong không gian, trong đó trường cực kỳ mạnh… Trong thể loại vật lý mới này, không thể có sự tồn tại cùng một lúc cho trường và vật chất, bởi vì trường là thực tại duy nhất”.
W. Heisenberg nói:
“Các hạt cơ bản… tự chúng không được hình thành từ vật chất, tuy nhiên, chúng là dạng duy nhất có thể có của vật chất. Năng lượng trở thành vật chất dưới dạng hạt cơ bản và biểu hiện dưới dạng này”.
S. Aurobino nói:
“Vật chất thì không thật và không tồn tại… Khi khoa học khám phá ra rằng vật chất nằm dưới các dạng năng lượng thì khoa học đã nắm được một chân lý phổ biến và cơ bản”.
Sự tồn tại của khái
niệm vật chất đã ở vào “tình thế hiểm nghèo” như thế đấy. Một điều nhận
thấy rõ ràng là Cơ Học Lượng Tử đã từ lâu, loại bỏ khái niệm vật chất
ra khỏi những lập luận lý thuyết của nó. Hình như ở thế giới vi mô, khái
niệm vật chất bỗng trở nên hơi bị thừa…
***
Chúng ta đã ngấu
nghiến sách vở, soi mói tư liệu, nghe ngóng ý kiến của mọi phương chiều
và thấy rằng chỉ có một sự nhất trí cao độ là không có hư vô, còn thì…
không biết nói sao cho phải. Chúng ta càng cố tò mò muốn biết được mọi
điều để cho lòng trở thành hồn nhiên như Hoàng Tử Bé thì lại càng rối
như tơ vò. Nhìn cái khoảng không bao la và tĩnh lặng, “chỉ có nghiêm
nghị và nghiêm nghị mà thôi” kia, trong chúng ta đầy ắp những hoang mang
gào thét, rên rỉ, thốt ra những lời toàn là “chỉ có hoài nghi và hoài
nghi mà thôi”
Cần phải làm một chuyến du hành đến tận nơi đó để “tai nghe mắt thấy” để
”tắm mình” trong đó, may ra mới dịu đi nỗi hoài nghi đang hình thành dữ dội trong tâm can.
”tắm mình” trong đó, may ra mới dịu đi nỗi hoài nghi đang hình thành dữ dội trong tâm can.
Chúng
ta sẽ tới đó một mình, không rủ ai theo, không cần bất cứ phương tiện
gì để tránh đi những ảnh hưởng không cần thiết mà còn tai hại của “bụi
trần” lên sự quan sát “tại thực địa” của mình. Việc du hành thực ra
không khó khăn gì mấy vì chúng ta đã có đôi cánh kỳ diệu (hay kỳ quặc?)
của sự hoang tưởng. Đó là thiết bị bay tối tân nhất, tinh xảo nhất với
vận tốc lớn đến độ vận tốc ánh sáng chẳng nhằm nhò gì, mà các nhà vật lý
thiên văn có “thèm khát” đến mấy cũng không thể có được vì loài người
vĩnh viễn không bao giờ chế tạo được. Xin nói thêm cho rõ để khỏi bị mấy
tay ăn trộm dòm ngó: đôi cánh ấy có chất liệu từ hư vô nên không thấy
nó được; chỉ có vài kẻ trong số những kẻ hoang tưởng mới cảm được nó
nhưng cũng chỉ sử dụng được nó vài lần trong đời khi sự hoang tưởng kịch
phát đến trạng thái cỡ… tột độ. Chúng ta là những kẻ may mắn ở trong số
ấy nhưng vì chỉ có thể là như vừa nói nên hầu hết các chặng hành trình,
chúng ta vẫn cứ phải cuốc bộ.
Bây
giờ thì chúng ta đã đến nơi rồi, ở ngay trung tâm của cái rỗng tuếch,
không có bất cứ một hiện hữu nào (quên chúng ta đi!), không có ánh sáng,
không có trường điện từ, không có trường hấp dẫn, im ắng tuyệt đối, đen
tối tuyệt đối; tất cả là sự bất động tuyệt đối (quên sự biến đổi nội
tại của chúng ta đi!). Chúng ta “biết” gì về cái rỗng tuếch ấy?
Từ
những “kinh nghiệm” đã tích lũy được trước khi du hành, chúng ta biết
rằng nó là một tồn tại chứ không phải hư vô. Nó là tồn tại vì có chúng
ta và thể hiện trước chúng ta. Nó thể hiện ra bằng sự im lặng tuyệt đối,
bằng sự đen tối tuyệt đối, bằng sự bất động tuyệt đối. Sự thể hiện đặc
thù ấy làm chúng ta ngạc nhiên và thích thú (hoảng sợ đến vãi đái thì
đúng hơn!) vì trước đó chưa từng được ở trong một cảnh giới nào giống
thế. Và nếu chúng ta đung đưa nhè nhẹ cánh tay thì ngay lập tức chúng ta
cảm nhận ra ngay hai thứ nữa vô cùng quen thuộc là không gian và thời
gian. Đến ngay cả sự rỗng tuếch cũng là một sự thể hiện. Rõ ràng là
chúng ta đã phân biệt được nó với thế giới thường nhật mà chúng ta vừa
rời bỏ để thực hiện cuộc hành trình.
Đồng
ý là có những sự thể hiện, nhưng chưa đủ điều kiện để gọi nó là tồn tại
vì như chúng ta đã “phán” rằng tồn tại là phải vận động, và chỉ có vận
động mới làm nên sự thể hiện. Ở đây sự thể hiện là có nhưng sự vận động
thì chẳng “thấy” đâu cả.
Vì
là người theo “phe” duy vật nên chúng ta vắt óc suy nghĩ để bênh vực
bằng được cho phe duy vật, và rồi chúng ta “phán” (lại phán!): tồn tại
mà không vận động chỉ có thể là hư vô, nhưng một hư vô mà lại thể hiện
được thì đó là thứ hư vô thể hiện sự tồn tại, “có tính tồn tại”, và
chúng ta đặt tên cho nó là “hư vô tương đối” để phân biệt với Hư Vô
(tuyệt đối vì tuyệt đối không thể hiện bất cứ điều gì, cả sự im lặng, cả
sự rỗng tuếch, cả sự… nghiêm nghị).
Chúng
ta xoa tay vì đã thỏa được một “đống tò mò”, nhẹ cả người. Chúng ta vui
mừng quay trở về và có phần hơi “kênh kênh”vì nghĩ rằng đã có công lao
bảo vệ được phe duy vật.
Sự
mừng vui và kiêu ngạo tồn tại trong chúng ta không lâu. Khi về đến
“trần tục”, chúng ta bỗng chột dạ: Có chúng ta ở đó thì nó thể hiện ra
như thế nhưng khi không có chúng ta ở đó thì nó có là như thế nữa không,
cái rỗng tuếch ấy?
Với
đầy ấm ức, chúng ta lại ngỏng cổ lên, “đay nghiến” nhìn chằm chặp về
phía nó. Khoảng rỗng rang vẫn còn ngự trị ở đó, vẫn hiện hữu một cách
đen ngòm trước mắt chúng ta. Như thế thì cái không gian ấy vẫn tồn tại,
tồn tại như một… hư vô. Nhưng thời gian có còn ở đó không? Khi chúng ta ở
đó và lúc lắc cánh tay thì chúng ta cảm nhận có thời gian. Khi chúng ta
đi rồi thì cũng chẳng còn cánh tay lúc lắc nữa, thời gian có bỏ “xứ đó”
mà đi theo chúng ta không? Nếu chúng ta đi rồi mà ở đó bất động hoàn
toàn thì không thể còn thời gian được. Hay vẫn còn thời gian dù bất
động? Mà sự bất động hoàn toàn thì cần đến thời gian làm gì nhỉ?
Chúng ta lại chằm chằm nhìn về nó như thôi miên và… tất cả bỗng bừng sáng!
Cái
đen kịt tuyệt đối của khoảng không gian rỗng tuếch mà chúng ta gọi là
hư vô tương đối ấy bừng sáng trước mắt chúng ta. Khi chúng ta mở rộng
tầm nhìn ra để vừa thấy nó vừa bao quát được xung quanh. Hơn cả mặt trời
khi nhật thực toàn phần, nó bừng lên đậm đặc, chắc nịch, phô diễn cái
màu đen tuyệt đối đến bóng loáng và không một chút tỳ vết. Không biết
nên tả thế nào cho đúng nữa. Sau này, có lần chúng ta kể cho một nhà vật
lý thiên văn nghe về cái khối đen tuyệt đối mà bóng loáng hơn cả mặt
trời lúc không bị mặt trăng che khuất ấy, ông ta đã phá lên cười sặc
sụa:
- Lũ các
ông không phải là điên rồ thì cũng là những kẻ bịa đặt trắng trợn. Đối
với ai thôi chứ với tôi thì đừng có giở trò bịp bợm… Đen tuyệt đối may
ra chỉ có thể là Lỗ Đen và vì quá đen nên khó mà thấy được; bóng loáng
thì ít ra là phải như mặt trời và cứ phải sáng mãi như thế cho đến khi
nó hóa thành “thằng Lùn Nâu” (sao Lùn Nâu là một loại sao trong thiên
văn học). Làm gì có một thiên thể nào vừa đen kịt lại vừa sáng ngời?
Sau đó chúng ta gặp Hoàng Tử Bé (ở đâu nhỉ?) một cách tình cờ và có hỏi về điều này. Chàng ta cười tươi như một đóa hoa hồng:
-
Ôi, các chú cũng thấy được điều đó à? Thật là tuyệt diệu khi cũng có
người thấy được như cháu!... Cũng bình thường thôi mà. Vì bên trong nó
không có gì cả nên chúng ta sẽ nhìn thấy nó đen nhất trong những cái
đen. Bên trong không có gì cả là vì nó chẳng cho cái thế giới vận động
một cách sôi nổi quanh nó xâm nhập vào. Mọi thứ, bức xạ điện từ, bức xạ
hấp dẫn, các dòng ánh sáng, sao băng, sao chổi… “đổ dồn” đến gần nó để
rồi lại bị “bật” ra, làm thành một lớp bên ngoài nó bóng loáng hơn mọi
cái bóng loáng… Những ngôi sao sáng nhất đều lấp lánh!
- À, ra thế! Những người lớn bao giờ cũng chỉ nhìn thấy cái mũ phớt… Xin cảm ơn Hoàng Tử Bé!
***
Giật mình, ngó
quanh! Hóa ra là một giấc mộng! Chúng ta đã chợp mắt, ngủ mơ một lúc mà
không biết. Giấc mơ thật kỳ lạ và gây nhiều tiếc nuối.
Cứ
giả sử rằng đó là hiện thực… Không! Không cần phải giả sử! Cảnh giới ấy
chính là một hiện thực, hiện thực của giấc mộng và đòi hỏi chúng ta
phải lý giải nghiêm túc. Một học thuyết triết học được cho là tuyệt đích
khi và chỉ khi về mặt lý luận, nó giải quyết được tất cả, từ A tới Z
những vấn đề Tự Nhiên Tồn Tại và ngay chính Tự Nhiên Tồn Tại một cách
hồn nhiên nhất, giản dị nhất và… nên thơ nhất.
Hàng
ngày, chúng ta vẫn thường thấy những bong bóng khí hiện hữu trong nước.
Chúng ta quan niệm khí “chả là cái gì cả” so với nước, hoặc vì chính
chúng ta cũng chẳng nhìn thấy không khí nếu nó không thể hiện như một
bong bóng khí trong nước, nên có thể gọi nó là một hư vô, chính xác hơn
là hư vô tương đối. Bong bóng khí là một khối hư vô, chẳng “kiếm chác”
được gì trong nội tại nó cả, ấy vậy mà nước không thể xâm nhập vào nó
được, ấy vậy mà nó long lanh. Cảnh giới này chẳng khác mấy so với cảnh
giới trong giấc mộng vừa qua của chúng ta.
“Khảo
sát” hiện tượng bong bóng khí trong nước, các nhà bác học (chứ không
phải chúng ta!) khẳng định rằng cái hư vô trong nội tại bong bóng là hư
vô vì chúng ta không quan sát thấy chứ thực ra là không Hư Vô (tuyệt
đối). Trong đó vẫn tồn tại “đủ thứ” trường và hạt vận động, chuyển hóa
nhau không ngừng, nghĩa là trong đó tồn tại một “lực lượng” đủ sức chống
trả sự “xâm lược” của nước. Cái hư vô mà không phải Hư Vô ấy, hỏi ai
cũng biết, đó là không khí. Không khí và nước nhìn bằng “mắt thịt” là
hai chất khác nhau, nhưng nhìn kiểu “cơ học cổ điển” (quên trường đi!)
thì cả hai chất đều gồm các điện tử và các nuclon, và nếu không biết
chừng các điện tử cũng như pozitron là hai trạng thái tương phản của một
hạt trung tính nào đó và các nuclon cũng do những hạt này tạo nên thì
nước và không khí đều có cùng một “tổ tông” nhưng nước vẫn là nước và
không khí vẫn là không khí, qua bao nhiêu đời rồi nên chúng chẳng bao
giờ là họ hàng bà con với nhau cả. Tương tự, giới hữu sinh trên Trái Đất
đều có cùng “tổ tông” nhưng không nhất thiết phải là bà con họ hàng với
nhau. Người là người, khỉ là khỉ chứ không thể “thấy kẻ sang bắt quàng
làm họ” được.
Theo
hướng giải quyết vấn đề nêu trên, cần phải khẳng định rằng cái khối hư
vô mà chúng ta thấy trong giấc mộng phải là một lực lượng. Chỉ có điều
lực lượng đó là gì thì cho đến nay chưa một người nào “thấy” được mà vẫn
toàn là đoán già đoán non.
Dù
chưa thể biết lực lượng ấy là gì nhưng chắc chắn là nó nhiều vô kể. Khi
nhìn lên bầu trời đêm, nếu loại bỏ sự chiếm chỗ không đáng kể của vạn
vật (các thiên thể) và giả sử bắt được chúng tạm ngừng bức xạ hấp dẫn,
điện từ… (một giả thiết còn ngông cuồng hơn cả những cái đầu phiêu lưu
nhất!) thì cái còn lại chính là lực lượng mà chúng ta đang nói tới. Cái
còn lại ấy, dù là “còn lại” nhưng vô cùng lớn lao. Những thiên hà kỳ vĩ
nhất mà con người đã quan sát được chỉ đáng như con cá nhỏ xíu so với
đại dương. Nó đóng vai trò môi trường, nền tảng của Vũ Trụ, là mầm mống
của tất cả các vật, các chất, là tổ tông của mọi tổ tông, vừa là “đực”,
vừa là “cái”, vừa “đồng giới tính”, vừa không phải, vừa siêu thực và
vừa… tầm phào!
Một
lực lượng mà không thể hình dung ra được bất cứ cấu trúc nào của nó,
không biết được xây dựng nên từ cái gì thì “món đó” rất hợp khẩu vị của
triết học duy tâm và là “trái đắng” của triết học duy vật. Dùng vũ khí
“vật chất” đã lỗi thời của triết học Duy Vật để bênh vực triết học Duy
Vật quả là việc làm bất khả. Nội tại của một khúc gỗ là gỗ; gỗ là vật
chất nên phải vận động. Nhưng gỗ vận động để làm nên gỗ hay vật chất vận
động để làm nên vật chất thì… phí phạm quá! Tạo hóa không đến nỗi “ngu
ngốc” như vậy. Tuy nhiên triết học duy tâm cũng không “gặm” được cái lực
lượng hợp khẩu vị ấy. Lực lượng ấy nếu không phải là vật chất thì chỉ
có thể là tinh thần (nếu không muốn nó là Hư Vô!), không thể hiểu được
một tinh thần thiếu… suy nghĩ, thụ động đề kháng và thường bất lực trước
sự tấn công liên tục, ồ ạt của “lũ” vật chất vừa vô tri vừa “xấc xược”.
Đành
“thú nhận trước bình minh” rằng lập trường duy vật của chúng ta trong
“tình hình mới” này đã bắt đầu lung lay. Cần xem xét lại!
Triết
học, với vai trò là lý luận nhận thức của con người về Tự Nhiên Tồn
Tại, là một thể thống nhất, không tách rời được. Nó tồn tại và vận động
tuân theo nguyên lý Tự Nhiên, nghĩa là tự phân định nội tại thành hai
rồi từ đó thành nhiều mặt, bộ phận tương phản với nhau, làm tiền đề hiện
hữu của nhau, chuyển hóa nhau và cùng nhau làm cho triết học đến một
lúc nào đó trở nên… béo phì, đạt đến mức hoang mang tột độ của nó, để
rồi lại tự giải quyết, tự chữa trị; trở về với cái dáng vẻ “thon thả”,
“dễ nhìn” ban đầu của nó. Từ giản đơn đến phức tạp rồi trở thành hết mực
trong sáng bình dị, đó là quá trình tiến triển không chỉ của riêng
triết học. Dù sao đi nữa, đã tồn tại thì phải thống nhất, đã vận động
thì phải phân định thành tương phản để chuyển hóa. Triết học không thể
là ngoại lệ, nó luôn là một “thực thể” thống nhất của sự tương phản. Dù
có lúc bị… béo phì; nhưng triết học luôn là vì sao long lanh của trí tuệ
con người; là huyền thoại hay nhất của mọi huyền thoại; là “thiên cổ kỳ
thư” của mọi “thiên cổ kỳ thư”.
Từ
nay, chúng ta không “bênh vực” triết học duy vật một cách cực đoan nữa.
Chúng ta theo duy vật nhưng không khước từ duy tâm. Hay để cho rõ ràng
hơn, chúng ta “lớn tiếng”: chúng ta theo triết học Duy… Tồn Tại đến hết
đời và khi sang “thế giới bên kia”, chúng ta sẽ vĩnh viễn theo triết học
duy… hư vô!
Thế
thì triết học duy tồn tại nói thế nào về lực lượng tưởng chừng như hư
vô trên kia? Nó nói rằng: lực lượng đó là một tồn tại, cũng vận động và
thể hiện “bình thường” như bất cứ một tồn tại nào khác. Chỉ vì năng lực
quan sát quá kém cỏi mà con người chỉ “thấy được” mặt liên tục và “không
có gì” của nó. Thực ra ở tầng sâu thẳm, sâu nhất của mọi cái sâu (tầng
điện tử vẫn còn rất “nông”) nó còn thể hiện ra như một thực thể có cấu
trúc, mang tính gián đoạn. Để tránh từ “hư vô” gây ngộ nhận không cần
thiết, triết học Duy Tồn (bớt chữ “Tại” đi cho... “nhẹ”!) gọi toàn thể
lực lượng ấy là Không Gian (ký hiệu KG); gọi bộ phận của nó là Thể tích
Không Gian hay Thể Tích (ký hiệu là V, không có thứ nguyên, để phân biệt
với các chất khác, có thứ nguyên) và gọi đơn vị làm nên “chất” Không
Gian và cũng làm nên cấu trúc của Không Gian, đơn vị được coi là nhỏ
nhất của mọi đơn vị, đơn vị tuyệt đối của Vũ trụ, là Điểm Không Gian (ký
hiệu là ).
Không có bất cứ một lực lượng nào phân chia Điểm Không Gian được, ngoài
chính Nó. Xét về mặt lực lượng, nếu toàn thể Vũ Trụ là I thì Nó là 101 (?), và:
I = 101 . 101 … 101 = 10N
(N là số tự nhiên lớn nhất trong mọi số tự nhiên, là số tự nhiên lớn tuyệt đối! Tuy nhiên N vẫn có thể vô hạn!!!)
Xét theo nghĩa đơn vị thì:
I = 101 . 101 … 101 = 10N = 11 . 11 … 11 = 1N = 1
(N
không tồn tại, hay là N = 0: Tự Nhiên Tồn Tại không cần nhận thức, hay
“ngoài” nhận thức! Không có nhận thức thì 1 + 1 + … +1 = N cũng chỉ là…
vô nghĩa. Nhưng không có nhận thức, hay nhận thức đã “sang thế giới bên
kia” thì Tự Nhiên Tồn Tại vẫn còn đó, duy nhất; vẫn là Cái Có không
chẵn, không lẻ, không nguyên tố, không âm không dương, không biết nhưng
là tất cả, vừa chẳng có hồn vía gì vừa lung linh huyền diệu!)
***
Theo triết học duy
tồn thì điểm KG lấp đầy Vũ Trụ. Các điểm KG liên kết chặt chẽ với nhau
(đến nỗi Hư Vô phải “chào thua”, không “chen chân” vào được), làm nên
lực lượng KG hữu hạn nhưng vô biên, liên tục mà gián đoạn, bền chặt đồng
thời cũng lỏng lẻo. Lực lượng KG là đại dương dung túng vạn vật - chất -
hiện tượng; là khối cấu trúc cứng hơn mọi khối kim cương (cứng tuyệt
đối), vì vậy có thể gọi Nó là Mạng KG, hay cũng có thể gọi theo cách của
Lão Tử: Lưới trời lồng lộng, tuy thưa (vạn vật tha hồ “bay nhảy” trong
đó) nhưng không lọt (Hư Vô “đừng hòng” mà xuất hiện). Chất KG là chất
gốc, chất nguyên thủy, chất làm nên mọi chất, mọi vật trong Vũ Trụ. Bằng
cách nào đó, theo một cách chuyển hóa nào đó mà từ chất KG sẽ hình
thành nên chất (hoặc những chất) mới khác nó. Từ sự kết hợp nào đó mà từ
các đơn vị KG hình thành nên đơn vị (hay những đơn vị) có nội dung chất
lớn hơn nó. Từ những chất mới, đơn vị mới lại hình thành nên những
chất, đơn vị mới khác nữa và lớn hơn nữa. Và cứ thế mà cũng nhờ thế nên ở
tầm quan sát của chúng ta mới xuất hiện vạn vật - chất - hiện tượng,
mới có được những thiên thể khổng lồ, những vì sao lấp lánh tình tứ và
những thiên hà lộng lẫy đến mức choáng ngợp. Như vậy, trong Vũ Trụ có
rất nhiều chất khác nhau, mỗi chất là sự tập hợp, liên kết của nhiều đơn
vị đặc trưng cho chất ấy mà chất KG và điểm KG được coi là nguồn cội,
tổ tông (kiểu tổ tông tồn tại đồng thời với con cháu, hậu duệ xa lắc của
mình?) của tất cả các chất khác, đơn vị khác.
Trên cơ sở nhận định đó, triết học duy tồn tiếp tục đưa ra những nhận định mới.
Do
tính hữu hạn của số lượng điểm KG (nhưng ''khó'' đếm được, thậm chí
là...không thể đếm!) mà sự hình thành nên đa dạng chất và dạng đơn vị
chất cũng hữu hạn. Do đặc tính đó và với lý do đầy đủ mà quá trình hình
thành nên các chất, đơn vị chất có tính mới, tính kế thừa, tính tương
tự và từ đó mà cũng bộc lộ ra tính chu kỳ, có lớp có lang, phân biệt
tương đối được…
Do
tính vô biên của lực lượng KG mà đồng thời với những biểu hiện trên,
việc hình thành nên các chất và đơn vị chất lại mang tính liên tục,
phong phú, đa dạng và không thể phân biệt dứt khoát được giữa các chất
với nhau và các đơn vị chất với nhau.
Ngược
lại với quá trình hình thành là quá trình phân rã. Tất cả các chất và
đơn vị chất được hình thành nên từ sự tích hợp của chất KG và điểm KG,
do đó bất cứ chất nào và đơn vị chất nào, khi bị phân rã liên tục đến
tận cùng cũng trở lại thành một bộ phận lực lượng KG và một tập hợp các
điểm KG.
Tích
hợp và phân rã là hai quá trình tương phản nhau, là tiền đề tồn tại của
nhau nhưng đồng thời lại cũng không phân biệt được. Một quá trình đối
với đối tượng này là tích hợp thì đối với đối tượng khác lại là phân rã.
Để chính xác hơn, chúng ta nói rằng: tích hợp và phân rã là hai mặt của
một quá trình thống nhất, cơ bản có tính “sống còn” đối với Vũ Trụ. Vũ
Trụ không thể tồn tại được nên không có quá trình này. Tự Nhiên Tồn Tại
là Có, yêu cầu của Có tuyệt đối là phải thể hiện đến “chân tơ kẽ tóc”.
Muốn thể hiện đến “chân tơ kẽ tóc” từ sự đồng nhất và bị khống chế bởi
khả năng lặp lại của biến cố xác suất (tính hữu hạn của khả năng tích
hợp) thì lực lượng KG phải chuyển hóa cũng đến tận “chân tơ kẽ tóc”, đến
từng điểm KG. Quá trình chuyển hóa ấy chính là cái quá trình vĩ đại
tích hợp và phân rã.
Có
thể cho rằng quá trình vĩ đại nêu trên đã làm nên thêm cánh phát biểu
về nội dung nguyên lý Tự Nhiên Tồn Tại của nhận thức. Chúng ta thử phát
biểu nó như sau:
Không
Gian là vốn dĩ thế, không tự nhiên được sinh ra thêm và cũng không tự
nhiên mà mất bớt đi, Nó chỉ có thể chuyển hóa từ dạng này sang dạng
khác. Mọi sự vật - hiện tượng (theo một nghĩa nào đó thì kể cả Vũ Trụ)
đều là nguyên nhân và kết quả đối với nhau trong quá trình tạo dựng và
phá hủy, chúng luôn luôn bị biến đổi và làm biến đổi lẫn nhau làm nên
cái quá trình phải theo, vừa tương đối vừa tuyệt đối, vừa ép buộc vừa tự
nhiên, của mọi tồn tại, mọi hiện thực, mọi hiện hữu: sinh ra, phát
triển, suy tàn và tiêu vong; hay: xuất hiện, biến hóa (tăng - giảm), mất
đi; (đối với con người là sinh, lớn, già, chết, và có lẽ đó là điều nên
suy nghĩ tới nhiều nhất trên con đường mưu cầu danh lợi cho đời sống?!)
Đó
là lời phát biểu mới về nguyên lý Tự Nhiên Tồn Tại. Vì phát biểu vụng
về nên lại “na ná” như cách phát biểu thứ nhất. Cũng có thể không phải
là vì vụng về mà vì điều này: chỉ có một nguyên lý tuyệt đối, một chân
lý “bất di bất dịch” mà thôi, con người nhận thức muốn “đẻ ra” bao
nhiêu nguyên lý cơ bản để gán cho Tự Nhiên Tồn Tại cũng được, tùy
thích. Hay là đến một nguyên lý cũng không có nốt? Thôi kệ, chúng ta
theo triết học duy tồn. Triết học duy tồn, đến đây, cho rằng có hai
nguyên lý cơ bản: nguyên lý thứ nhất gọi là nguyên lý Tự Nhiên, nguyên
lý thứ hai gọi là nguyên lý Chuyển Hóa (thực ra là cách phát biểu khác
của nguyên lý Tự Nhiên).
Thực
ra chất cũng là một khái niệm tương đối để có cơ may, nhận thức được
xác thực nhất đối với thế giới khách quan. Ở vật lý vi mô, khái niệm
chất dần trở nên phù phiếm. Ở đó không ai gọi điện tử, và proton… là
chất cả. Chúng ta đừng lệ thuộc quá nhiều vào khái niệm chất kẻo sẽ xảy
ra nhiều bất cập không đáng có. Đối với khái niệm đơn vị chất cũng vậy.
Một chất có thể được xây dựng nên từ nhiều đơn vị chất mà mỗi đơn vị
chất lại có thể được coi như một chất khác. Chẳng hạn như khí oxy, trong
“hoàn cảnh” nào đó, được gọi là một chất, nhưng ở hoàn cảnh khác, do
tính “rời rạc” của các nguyên tố oxy mà cũng có thể gọi nó là một tập
hợp của nguyên tố oxy, và còn có thể gọi là một môi trường, một thực thể
và thậm chí là một vật. Khí quyển là hỗn hợp của nhiều chất khí như
nitơ, hidrô, ôxy… Chúng ta gọi nó là một vật cũng được, môi trường cũng
được (bầu khí quyển) nhưng cũng có thể gọi nó là một chất (chất khí).
Nhưng đơn vị làm nên khí quyển cũng chính là những đơn vị của các chất
khí nêu trên, những nguyên tố khí (phân tử khí), nhưng cũng có thể coi
các thành phần khí (về mặt lượng) là những đơn vị làm nên nó.
Tương tự như vậy, nếu được coi là một chất mà đơn vị của nó là sự kết hợp của hai chất khác nhau là hidrô và ôxy (H2O),
nhưng cũng có thể gọi nó là một thực thể, một môi trường. Ở nhiệt độ
thấp nhất định, nước đóng thành băng. Thành phần của băng rõ ràng cũng
là thành phần của nước nên người ta gọi băng là một trạng thái của nước
nhưng cũng có thể gọi là một chất khác nước (vì thực ra băng cũng có
những tính chất khác nước và thành phần của chúng không hoàn toàn giống
nhau mà có sự khác nhau về thành phần gọi là nhiệt lượng). Băng rõ ràng
còn có thể gọi là vật.
Nước đường là một hỗn hợp của chất nước và chất đường. Nó là một thực thể, một tập hợp chất và đồng thời cũng là chất lỏng.
Ngoài
ra còn có những khái niệm nói về chất như đơn chất, hợp chất, tạp chất…
Ôi thôi, chọc vào khái niệm là chọc vào tổ ong vò vẽ. Phải hết sức cảnh
giác và tốt hơn cả là chỉ nên “ngắm” nó ở cự ly không quá “gần”.
Từ
những lập luận “không thể cãi lại được” ấy, chúng ta giật mình thấy
rằng sự phân chia vật chất đến tận cùng mà chúng ta từng tiến hành một
cách “thuận lợi” trước đây quả thực là tùy tiện và giản đơn đến nực
cười. Có lẽ nên nói thêm chút ít nữa về sự phân chia cho… vui.
Vật
chất, vì nằm trong quá trình Chuyển hóa vĩ đại nên luôn luôn biến đổi.
Sự biến đổi là kết quả của quá trình tương tác lẫn nhau giữa chúng ở
tầng qui mô “thấy được” của chúng ta, đồng thời là kết quả của quá trình
tích tụ và phân tán, hấp thụ và bức xạ ở tầng vi mô mà chúng ta không
quan sát được. Mức độ biến đổi của vật chất tùy thuộc vào những nguyên
nhân nhất định có thể nhanh, có thể chậm. Do đó trong thế giới cảm nhận
đã được “trời ban cho”, của chúng ta, có một số vật, chất được cho là có
tính ổn định, tồn tại tương đối lâu dài, đôi khi tưởng là vĩnh cửu. Tuy
nhiên cần phải khẳng định rằng không có vật nào, chất nào lại không
“già” đi theo thời gian, dù có thể là “rất thọ”.
Như
thế, có thể nói rằng bản thân Vũ Trụ luôn có quá trình tự phân chia.
Nhưng đồng thời với quá trình tự phân chia là quá trình tích hợp. Cho
nên quá trình phân chia tự nhiên của Vũ Trụ là không triệt để vì không
thể tách biệt được với quá trình tích hợp. Không thể làm ngưng được một
cách tuyệt đối, một trong hai quá trình tự nhiên ấy của sự Chuyển hóa.
Nhưng
một cách tương đối, mang tính qui ước và trong một phạm vi hạn chế,
chúng ta nói rằng vật chất là có thể phân chia (chỉ có thể phân chia
triệt để Vũ Trụ đã qua nhận thức, Vũ Trụ ảo hay còn có thể gọi là Vũ Trụ
nhân tạo!!!). Việc phân chia ấy đương nhiên là phải “tùy cơ ứng biến”
và phải “lượng sức”.
Giả
sử có một đống sỏi. Chúng ta muốn phân chia nó ra thì làm cách nào? Dễ
nhất là làm một phép toán! Nếu chúng ta muốn chia đều thì chỉ việc lấy
đống sỏi ấy chia cho một số n bất kỳ nào đó (tùy vào sự lựa chọn ngông
cuồng của chúng ta!). Chia như thế có thể hết hoặc không hết tùy qui ước
của chúng ta đối với đống sỏi. Mặt khác khi “đem” đống sỏi ấy “vào”
phép toán, chúng ta đã biến nó thành một tồn tại ảo. Chúng ta không
“thích” cách chia này vì nó không phù hợp với “thực tiễn” và vì sau khi
chia nó vẫn lù lù ở đó mà không bị chia ra tí nào. Chúng ta dùng cách
chia vật lý hay đúng hơn là cách chia cơ giới: cân, đong, đo, đếm để khi
chia xong thì đống sỏi đó sẽ không còn tồn tại nữa chứ đừng nói đến
hiện hữu. Nhưng trước hết, thử hỏi nó là một vật hay một chất? Nó là một
vật vì nó là một… đống. Nói như thế là đúng nhưng cũng không hoàn toàn
đúng. Phải nói rằng nó là một thực thể, một vật, một tập hợp các vật thể
và cũng là một… chất. Ủa, tại sao lại cho đống sỏi là một chất được?
Nếu có thể gọi khối khí nào đó là khối chất khí thì cũng có thể gọi được
đống sỏi là một đống chất sỏi với những phần tử đơn vị tạo thành là
viên sỏi. Ở một cảnh giới đặc thù nào đó, nhờ có tương tác hấp dẫn mà
các viên sỏi sẽ liên kết được chặt chẽ với nhau và lúc đó tính “vật” của
nó thể hiện rõ rệt. Những phân tử nước, không phải là nước nhưng làm
nên nước; viên sỏi không phải là chất sỏi nhưng làm nên chất sỏi. Y như
chuyện tiếu lâm, đáng cười quá, thật đấy!
Khi
chia đống sỏi theo cách cơ giới, chúng ta “múc” ra từng phần định lượng
tương đối, đổ gần đâu đó và chúng ta được các phần chia, tuy có thể
không bằng nhau lắm nhưng số lượng viên sỏi trong mỗi lần bao giờ cũng
nguyên. Nếu chúng ta tiếp tục chia các phần đó thành những phần nhỏ hơn
nữa và cứ thế, chúng ta sẽ chia được đến tận cùng mà mỗi phần là đúng
một viên sỏi. Đến đây việc phân chia đống sỏi được cho là hoàn thành nếu
không muốn làm mất chất sỏi. Đống sỏi chấm dứt tồn tại, bị biến đổi
thành “bãi sỏi”. Sự “suy tàn” và mất đi của đống sỏi cùng với sự tiêu
hao và mất đi của “công chia” đã là nguyên nhân sinh ra sự tồn tại của
bãi sỏi.
Việc
chia đống sỏi thành những phần là những viên sỏi đã làm biến đổi vật
nhưng chất vẫn chưa bị biến đổi. Có thể đập méo mó một thỏi sắt, dát
mỏng nó thì vật sắt bị biến đổi chứ chất sắt thì vẫn còn đó, không biến
đổi (tương đối thôi!).
Chúng
ta có thể chia tiếp bãi sỏi đó bằng cách nghiền nát các viên sỏi. Giai
đoạn phân chia này làm cho sỏi của bãi sỏi biến đổi thành chất khác tạm
gọi là cát và bãi sỏi sẽ “hóa” thành bãi cát. Đến lượt sự suy tàn và mất
đi của bãi sỏi cùng với sự tiêu hao và mất đi của “ công nghiền” đã làm
phát sinh, phát triển và sự tồn tại của bãi cát cùng với một chất mới
ra đời là cát mà những đơn vị làm nên cát là hạt cát.
Tiếp tục phân chia nữa cũng được thôi nhưng vì biết “lượng sức” mình, chúng ta không phân chia nữa!
Thí
dụ trên cho chúng ta thấy rằng trong khi sự phân chia thuần túy toán
học (mang đầy tính chủ quan tùy tiện) không làm cho vật và chất biến đổi
thì sự phân chia vật lý luôn làm thay đổi vật và chất. Tuy vậy cả hai
cách phân chia đều “tốn công sức” mà cách thứ hai tốn nhiều hơn.
Nếu
có thể thực hiện được sự phân chia thì cũng có thể thực hiện được sự
tập hợp. Về mặt toán học thuần túy thì chẳng khó khăn gì, chỉ cần làm
phép toán ngược lại là xong. Nhưng về mặt vật lý thì việc thực hiện sẽ
gặp khó khăn hơn, đôi khi là rất nhiều và thậm chí là bất khả.
Một
cách tương đối, chúng ta có thể gom bãi sỏi lại thành đống sỏi, nhưng
đó là đống sỏi mới, không phải đống sỏi ban đầu dù “rất giống” đi nữa.
(một trong những trạng thái xác suất có thể có của đống sỏi). Chúng ta
cứ cho rằng đã gặp may và đã gom được thành đống sỏi “y hệt” như ban
đầu, nhưng chắc chắn, chúng ta không tài nào gom bãi cát thành đống sỏi
được mà chỉ có thể là đống cát, trước tiên chúng ta phải phục hồi chất
sỏi từ chất cát, tích hợp lại những phần tử có được từ sự nghiền các
viên sỏi thành lại những viên cát. Có thể tạo dựng lại bình sứ cũ bằng
cách gắn kết những mảnh vỡ của nó một cách đơn thuần được không? Vĩnh
viễn không bao giờ! (Chúng ta có thể có được một cuộc đời thứ hai nữa
không? Điều này chắc phải hỏi… Thượng Đế!)
Sự
tổng hợp nếu có thể xảy ra “suông sẻ” thì không những không “thu hồi”
được công sức bị tốn khi phân chia mà trái lại còn tốn thêm một công sức
mới.
Thí dụ
trên đã giúp chúng ta rút ra được một nhận định “cực kỳ”: phân chia và
tổng hợp là hai quá trình trái ngược nhau, muốn thực hiện chúng đều phải
tốn công sức và nếu coi chúng là những bộ phận của một chu trình thì
chu trình đó là không thuận nghịch. Cho dù chu trình đó được thực hiện
một cách toán học thuần túy thì cũng phải tốn công sức tính toán, suy
nghĩ và… tưởng tượng.
Một nhận định rất có “hơi hám” của nguyên lý thứ hai nhiệt động học!
Nếu
ai đó gàn bướng cố duy trì cái chu trình từ đống sỏi rải ra thành bãi
sỏi rồi gom lại thành đống sỏi… cứ thế đến suốt đời một cách vô tích sự
như vậy sẽ phải tốn rất nhiều công sức đến mức có thể “tán gia bại sản”
thành “thân tàn ma dại”. Chúng ta bị hoang tưởng nhưng không phải là quá
khờ khạo để làm chuyện ấy!
Phân
chia và tổng hợp, xét ra cũng là phân rã và tích hợp. Phân rã và tích
hợp là hai mặt của quá trình chuyển hóa vĩ đại và theo nhận thức thì là
không ngừng đến vĩnh viễn (trong thời gian!). Như thế, một ý kiến “chọc
gậy bánh xe” bật ra: quá trình vĩ đại ấy sẽ tiêu tốn một “lượng công
sức” còn vĩ đại hơn đến vô tận. Lượng công sức ấy ở đâu ra mà “nhiều”
đến thế và ai phải tốn công sức phi phàm ấy nếu không phải là Thượng Đế?
Không, Thượng Đế không đủ sức. Phải là Tạo Hóa mới làm được điều đó và
như vậy Tạo Hóa, xin lỗi đã phạm thượng, trở thành “anh chàng khờ khạo”.
Chỉ có điều hoàn toàn bí hiểm là Tạo Hóa ở đâu và công sức của Tạo Hóa
“tốn đi đâu” khi Vũ Trụ là không có ngoài?!
Triết
học duy tồn trả lời ra sao trường hợp “hi hữu” này? Triết học duy tồn
trả lời rằng: Vũ Trụ là vốn dĩ thế cho nên một cách tổng thể, Nó tự thân
vận động. Vì vậy quá trình chuyển hóa (tích hợp và phân rã) cũng là quá
trình tự thân. Quá trình tự thân vĩ đại đó là đồng thời của hai hành
động tích hợp và phân rã. Tích hợp và phân rã tuy đều phải tiêu tốn công
sức nhưng đồng thời cũng tích tụ và phân tán công sức. Tích tụ và phân
tán công sức xét trên bình diện tổng thể là cân bằng với tiêu tốn công
sức và lượng công sức toàn phần luôn luôn ổn định tuyệt đối, không thêm
ra mà cũng không bớt đi. Nhìn ở góc độ khác, có thể nói quá trình chuyển
hóa vĩ đại là một cuộc xoay vần vô tiền khoán hậu, gồm vô vàn những chu
trình vừa tiêu tốn công sức vừa sản sinh ra công sức; xét về toàn bộ
thì sự sản sinh công sức và tiêu tốn công sức luôn cân bằng nhau, không
thêm không bớt làm cho cuộc xoay vần vô tiền khoán hậu ấy, xét về mặt
nhiệt động học, luôn luôn thuận nghịch và “a lê hấp”, entrôpi của nó
luôn bằng không (chỉ người ta dạy là nó không bằng không!).
Trong
trường hợp ở phạm vi hẹp của chúng ta, quá trình phân chia và tổng
hợp, vì là bộ phận của tổng thể cho nên dù có biểu hiện cá biệt nhưng
tất yếu cũng phải tuân theo tổng thể, chỉ có điều chúng ta không nhận
ra (chẳng hạn, bảo toàn Tồn Tại là nguyên lý phổ quát của Tự Nhiên,
nhưng không phải trong bất cứ hiện thực nào cũng dễ dàng ''thấy'' nó,
hoặc theo bất cứ nhận thức nào cũng suy ra được nó). Có thể cho rằng
việc tiêu tốn công sức của chúng ta khi thực hiện phân chia đã được bãi
sỏi “giữ” cho mặt đất (cho môi trường) và việc tiêu tốn công sức để
thực hiện việc tổng hợp lại thành đống sỏi có một phần giữ cho mặt đất
và một phần tích tụ trong đống sỏi (thế năng?). Tất cả những công sức
tiêu tốn của chúng ta lại được môi trường bù đắp bằng sự ăn uống. Về
mặt công sức, chúng ta mất rồi lại có, do đó không đi đâu mà… mất.
Nhưng của đáng tội, ăn uống thì phải có… tiền. Nếu chúng ta làm điều vô
ích, không ra tiền mà cứ ăn tiền thì như đã nói lúc nãy, chúng ta sẽ bị
“khuynh gia bại sản” trở thành “thân tàn ma dại”; danh lợi không thành
mà còn bị người đời chê là khờ khạo. Nhớ lấy điều này nhé, hỡi những
người anh em!.
Nhưng
công sức là gì, hả triết học duy tồn? Công sức là một chất, là một vật,
là một loại đơn vị, là một lượng, muốn gọi thế nào cũng được, nhưng
phải luôn nhớ rằng nó có gốc rễ từ Không Gian, Không Gian là tổ tông của
nó, không thể khác được; và muốn hiểu cụ thể hơn, đi mà hỏi vật lý học!
Triết học duy tồn trả lời như thế đấy, và vội vã bỏ đi mất dạng. Có
chuyện gì mà bỏ đi vội vội vàng vàng đến thế nhỉ?!
***
--------------------------------------
Nếu không có một
nguyên nhân hoặc “vớ vẩn”, hoặc cao cả nào thì một sinh linh chẳng bao
giờ chịu hy sinh thân mình, vì hành động đó là dù có hợp Đạo Lý thì cũng
trái với Đức Huyền Diệu.
Không
thể có một tồn tại nào, một hiện hữu nào tự chấm dứt “cuộc đời” mình
nếu không có nguyên nhân tác động từ bên ngoài. Sự phân rã phóng xạ tự
nhiên cũng không thể nằm ngoài nhận định đó, dù rằng chúng ta tưởng đó
là quá trình tự phát, có nguyên nhân từ bên trong. Có thể cho rằng phân
rã phóng xạ là căn bệnh “ung thư” của các chất phóng xạ, là sự “trả giá”
vì sự “ăn chơi vô độ” trong quá khứ của chúng không? Hay chúng chỉ là
những “thành quả” của suốt một “thai kỳ” xa xưa, “thừa mứa” về áp suất,
nhiệt độ và gì gì đó nữa, nhưng đến những thời kỳ tiếp theo, chúng đã
không thể phù hợp với điều kiện hoàn cảnh mới, đành phải thích nghi bằng
cách “hào phóng cho đi” và “uể oải nhận về”?
Cuối
năm 1895, nhà bác học người Đức, W.Rơngen (W. Roentgen) đã phát hiện ra
một tia kỳ lạ. Tia này tuy không nhìn thấy được nhưng có khả năng xuyên
thấu mạnh. Nó có khả năng xuyên qua giấy, gỗ, cơ thể người và cả những
tấm kim loại mỏng. Nó cũng có tác dụng như ánh sáng Mặt trời là khi
chiếu các tấm kính ảnh thì làm cho các tấm này hóa đen.
Tia
kỳ lạ đó, lúc đầu vì chưa biết bản chất của nó nên người ta gọi là Tia
X; sau này, người ta còn gọi nó là tia rơnghen, để kỷ niệm tên nhà bác
học đã có công phát hiện ra.
Từ
một vị trí nhất định trong chiếc ống thí nghiệm do Rơnghen chế tạo, đã
phát hiện ra loại tia huyền bí, có tính xuyên thấu mạnh nói trên. Tuy
nhiên, khi ống hoạt động, trên thành thủy tinh ở phía đối diện với vị
trí đó còn xuất hiện một vệt sáng màu xanh nhạt. Cả Rơnghen và các nhà
bác học khác đều chưa thể lý giải được nguyên nhân xuất hiện của hiện
tượng này.
Đã
từ lâu, các nhà bác học đã biết đến hiện tượng hùynh quang. Đó là hiện
tượng phát sáng của một số chất khi bị ánh sáng Mặt trời chiếu vào. Nhà
vật lý học người Pháp, H.Becơren (Hemoi Becquerel) là một trong những
người để tâm nghiên cứu hiện tượng đó.
Quan
tâm tới thí nghiệm của Rơnghen, Becơren nhận định rằng hiện tượng xuất
hiện vệt sáng màu xanh nhạt nói trên chắc chắn phải do một loại tia mới
nào đó gây ra; và nếu đúng như vậy thì tất cả mọi chất phát sáng khác
đều phải phát ra loại tia này, dù có thể là yếu, mạnh khác nhau.
Để
xác minh tính đúng đắn của nhận định, Becơren đã đặt một chất huỳnh
quang phát sáng rất mạnh dưới tác dụng của ánh sáng Mặt Trời, rồi đặt
lên trên tấm kính ảnh đã bọc cẩn thận trong vài lớp giấy màu đen. Ý đồ
của ông trong thí nghiệm này là muốn chứng minh rằng khi chất huỳnh
quang được ánh sáng mạnh của Mặt trời chiếu vào thì không những nó phát
ra ánh sáng nhìn thấy, mà còn phải phát ra tia rơnghen, xuyên qua các
lớp giấy đen, tác dụng lên (hóa đen) kính ảnh; còn nếu không xuất hiện
tia đó, vì ánh sáng nhìn thấy không thể thâm nhập được qua những lớp
giấy đen bảo vệ và kính ảnh sẽ chẳng có dấu vết gì.
Chất huỳnh quang được Becơren chọn ngẫu nhiên (hú họa) là muối sunphát urani và kali.
Sau
vài giờ thí nghiệm, Becơren tráng phim và thấy trên kính ảnh dấu vết
của cục muối urani hiện lên rất rõ ràng. Giả thuyết của ông đã được
chứng thực!.
Becơren
làm lại thí nghiệm nhiều lần và hầu như chắc chắn điều mà ông dự đoán
và đã chuẩn bị cho công bố phát kiến của mình. Nhưng vốn tính cẩn thận
(thật là quí báu!), Becơren đã quyết định lập lại các chi tiết thí
nghiệm lần cuối cùng.
Thời
tiết bỗng trở nên u ám, mây mù làm Mặt trời bị khuất ẩn liên tục mấy
ngày liền. Gói giấy đen đựng kính ảnh với cục muối urani đặt bên trên,
đành cứ nằm lại trong ngăn bàn, chờ đợi. Rốt cuộc, không đừng được nữa,
Becơren thấy rằng dù sao thì cũng phải tráng tấm kính ảnh này.
Becơren
đã hành động theo tiên tri hay do sự thúc giục của Thượng đế? Đến ngày
nay đó vẫn là một bí ẩn! Có thế tin rằng việc làm đó của ông cũng là
định mệnh của vật lý học; tạo điều kiện cho vật lý học tiến nhanh hơn
đến cái đích cuối cùng của chứng nghiệm: nếu có Thượng đế thì Thượng đế
chính là Tự Nhiên Tồn Tại!
Trên
tấm kính ảnh đã được tráng, trước sự ngạc nhiên đến sững sờ của
Becơren, hình cục muối urani hiện lên rất rõ nét, rõ nét còn hơn so với
những lần thí nghiệm trước, mặc dầu không thể có bất cứ một sự phát
huỳnh quang nào của muối urani trong ngăn bàn tối om, giữa những ngày ảm
đạm ánh sáng ấy. Điều đó nói lên rằng muối sunphát urani, dù hoàn toàn ở
trong bóng tối, không có bất cứ một chút ánh sáng Mặt Trời nào chiếu
vào, vẫn phát ra những tia mắt thường không thấy được, có tính xuyên
thấu mạnh, tương tự như tia rơnghen.
Hiện
tượng mới mẻ đó, sau này được gọi là hiện tượng phóng xạ của tự nhiên
được khám phá ngày 26 tháng 2 năm 1896. Như vậy ngày đó cũng có thể được
coi như ngày khai sinh của vật lý học phóng xạ và là một trong những
thời điểm xuất phát của vật lý học hiện đại.
Khám
phá của Becơren đã lôi cuốn sự chú ý của các nhà khoa học toàn thế
giới. Trong số những nhà bác học vật lý đi tiên phong trong việc nghiên
cứu hiện tượng mới lạ chứa đầy bí ẩn này là cặp vợ chồng bác học Pie
Quiri (Pierre Curie) và Mari Quiri (Marie Currie), Ecnet Rudơpho (Ernest
Rutherford) …
Ngày nay, chúng ta hiểu rằng hiện tượng phóng xạ là hiện tượng hạt nhân tự phóng ra các hạt: anpha , bêta các bức xạ: gamma (v),
rơnghen (X), bắt điện tử quĩ đạo, tự phân chia thành hai hạt nhân nhẹ
hơn. Sau khi phân rã phóng xạ, hạt nhân biến thành một nhân khác, có các
tính chất hóa học và vật lý khác với hạt nhân ban đầu. Các hạt nhân
phóng xạ có thể là hạt nhân của các chất phóng xạ tự nhiên. Các hạt nhân
phóng xạ nhân tạo được tạo thành nhờ các phản ứng hạt nhân. Các tia
phóng xạ khi đi qua môi trường vật chất, có tác dụng ion hóa môi trường
và bị hấp thụ bởi môi trường. Đối với thế giới hữu sinh, các tia đó ít
nhất gây ra hiệu ứng sinh học mà ở một mức độ vượt quá cho phép, sự
nhiễm xạ sẽ là cực kỳ nguy hiểm, gây nên đột biến dẫn đến quái thai,
bệnh tật vô phương cứu chữa và cái chết đau thương tức tưởi cho con
người.
Từ việc
tìm hiểu và nghiên cứu hiện tượng phóng xạ, vật lý học phóng xạ đã có
những phát hiện về thế giới vi mô, có ý nghĩa thực tiễn vô cùng to lớn
đối với toàn thể loài người.
Khi
chúng ta hỏi “công sức là gì?”, thì thực ra chỉ giả vờ ngây ngô để mà
hỏi, chứ ai lại không biết cái công sức ấy. Trong vật lý gọi là “công cơ
học” và nếu “qui ra” thì được một lượng gọi là “năng lượng”. Như vậy
chúng ta có thể nói khi làm cái việc phân chia vật, chất một cách “vô
bổ” như đã làm, chúng ta lấy năng lượng đó ở đâu, nếu không phải là từ
vật, chất trong thiên nhiên. Ao ước ngàn đời của con người là khai thác
được càng nhiều càng tốt năng lượng to lớn tàng chứa trong thiên nhiên
để phục vụ cho mục đích của mình (chứ không phải cho cái việc phân chia
vớ vẩn của chúng ta!)
Chính
vật lý học phóng xạ đã chỉ ra: năng lượng tiềm ẩn trong thiên nhiên là
vô cùng to lớn, to lớn hơn rất nhiều so với những tưởng tượng trước đây;
và con người có đủ khả năng, có đủ công sức vốn có của mình để khai
thác, tàng trữ nó, dùng nó tạo dựng nên những điều phi thường.
Nhưng
phi thường bao giờ cũng có hai hướng: một là cảnh giới vô cùng huy
hoàng, sáng lạn, hai là sự tự hủy diệt một cách triệt để chính mình. Số
phận loài người là theo hướng nào?
Chúng
ta định “mượn” hiện tượng phóng xạ để nói đến vấn đề phân chia đang còn
dang dở nhưng lại “chệch” sang những viễn cảnh “đau thương”. Hình như
sự lo âu đã gắn kết một cách thâm căn cố đế từ những “kinh nghiệm tổ
tông” ở mỗi con người chứ không riêng gì chúng ta!
Dù sao, chúng ta không nên nói thêm nữa về những điều buồn bã ở đây để cố sao “thoát được” chặng hành trình rất “khó xơi” này.
Để
phục vụ cho việc tiếp tục “khảo cứu” sự phân chia, chúng ta không cần
đến bom nhiệt hạch (còn gọi là bơm khinh khí, bom H, nhiệt hạch là quá
trình tổng hợp hạt nhân trong “vùng” những hạt nhân nhẹ) mà chỉ cần đến
bom phân hạch (còn gọi là bom hạt nhân, bom nguyên tử, khi nổ xảy ra
phản ứng dây chuyền trong thời gian cực ngắn)
Việc
“xoay sở” được một quả bom phân hạch không khó. Thứ bom này hiện nay có
nhiều lắm rồi, hầu như đâu đâu trên Trái Đất này cũng tàng trữ; vì
nhiều nên cũng khá rẻ, thậm chí nếu khéo xin, người ta “biếu không”
luôn.
Chúng ta
mang quả bom phân hạch “dễ thương” đến một khoảng không gian xa xôi và
cho nó nổ theo kiểu phân chia vật lý đến tận cùng (nghĩa là phân chia
vật, chất đến tận không thể phân chia được nữa). Bom phân hạch lúc này
có lẽ nên gọi là bom… Không Gian! Nhưng chúng ta thấy gì?
Từ
một sự tiêu tốn năng lượng ngoại lai không đáng kể lúc kích hoạt, bom
phát nổ đến Tạo Hóa còn giật mình, phân chia ra tứ phía các hạt không
thể “nổ” hơn được nữa. Năng lượng khổng lồ mà nó giải phóng ra sẽ được
các hạt đó mang theo. Nếu tại vị trí quả bom đứng ban đầu “không còn gì
cả” thì phải cho rằng cả cái năng lượng ngoại lai ít ỏi cũng được các
hạt mang đi nốt.
Các
hạt không thể “nổ” được tiếp nữa ấy phải là điểm KG, vì nếu không, nội
tại của nó phải là một tập hợp “hạt”, đơn vị tương đối nào đó và như thế
nó phải tiếp tục nổ cho đến không có gì mà “nổ” nữa. Làm sao mà tưởng
tượng một điểm KG mang năng lượng đây, khi mà Vũ Trụ được chúng ta cho
rằng chỉ duy nhất là KG. Hơn nữa điểm KG là không thể di chuyển được vì
bất cứ sự di chuyển dù không đáng kể của nó cũng có nguy cơ làm xuất
hiện Hư Vô. Mà nó chuyển đi đâu được nếu nó là một nút của mạng KG bền
chặt, ngoài ra không có gì khác? Theo như “quan sát” của chúng ta thì vụ
nổ chí ít cũng lan truyền chấn động từ gần đến xa, ra tứ phía vì “xác”
quả bom sau vụ nổ đã mất đi. Hay chúng ta đã ảo tưởng?
Chúng
ta cần phải nhìn lại một cách chi tiết! Bom phân hạch nổ là hiện tượng
phóng xạ mang tính dây chuyền, số lượng sự phân hạch tăng cực nhanh theo
hàm mũ và không thể kìm chế. Đó là hành động tự phân chia, tự hủy hoại
mình một cách mù quáng nhất của quả bom, từ sự tác động ngoại lai ban
đầu “không đến nỗi nào” (gộp hai phần chất của quả bom thành một khối
lượng vượt giới hạn).
Vì
phải nổ theo “ý chí” của chúng ta nên trong trường hợp đang xét, quả
bom sẽ phải nổ và bị phân chia đến tận những hạt cơ bản, nghĩa là nó
giải phóng ra các hạt cơ bản và bức xạ. Bức xạ là một thứ “nửa nạc nửa
mỡ”, vừa là sóng vừa là hạt (thể hiện bản tính nước đôi của Tổ Tông?).
Để “dễ thấy”, nhìn ở mặt gián đoạn của thế giới, chúng ta cho nó là một
hạt. Vật lý hiện đại gọi một bức xạ nào đó là một lượng tử. Lượng tử, vì
không có khối lượng nghỉ đồng thời “hình như” không cò cấu trúc bên
trong nên “hình như” không thể coi nó là một vật, một chất mà tạm gọi là
hạt vì cũng “hình như” nó có chứa một lượng năng lượng là h.ν (h là
hằng số Planck, ν là tần số bức xạ). Sẽ phải có một loại lượng tử “nhỏ
nhất” không thể phân chia.
Đối
với các hạt cơ bản, vì “còn” khối lượng nghỉ, vẫn còn “tính” vật và
chất nên chúng phải được phân chia tiếp tục. Chúng ta đoán rằng vì giới
hạn phân chia của chúng không thể là đến điểm KG được như đã trình bày,
nên còn một khả năng là sự phân chia cuối cùng của các hạt cơ bản sẽ
dừng bước ở lượng tử nhỏ nhất.
Như
thế, quả bom chúng ta phát nổ, tự phân chia, phân rã thành các “hạt”
lượng tử. Có thể nói sự phân chia (phân rã) của quả bom triệt để đến hạt
lượng tử “nhỏ nhất” là hết, không thể triệt để hơn được nữa.
Triết
học duy tồn quan niệm sự phân chia Vũ Trụ (trong tưởng tượng) là có thể
và đến tận điểm KG. Trong khi đó, “thí nghiệm nổ” cho thấy, cố gắng lắm
thì cũng chỉ phân rã được đến lượng tử “nhỏ nhất” (khái niệm này, như
sau này chúng ta thấy, rất chi là lạ lùng!).
Vì
lượng tử “nhỏ nhất” là không thể phân chia được nữa nên đương nhiên nó
phải là đơn vị năng lượng, tương tự như điểm KG là đơn vị của chất KG.
Vì để kết quả của thí nghiệm nổ không “phản đối” quan niệm của triết học
duy tồn về sự phân chia thì phải nhận định rằng đơn vị năng lượng cũng
chính là điểm KG. nhận định như thế tưởng là “chính nghĩa” nhưng hóa ra
lại rất “phản động”. Đơn vị năng lượng ở góc quan sát khác, được thấy
như một bức xạ, mà bức xạ thì theo như vật lý học cũng như hiện tượng
phát tán của vụ nổ mà chúng ta “vừa chứng giám” phải luôn “bay” điên
cuồng với vận tốc cực đại trong Vũ Trụ (vận tốc ánh sáng). Trong khi đó,
điểm KG lại bị triết học duy tồn “bắt” phải đứng yên tuyệt đối vì nếu
không thế, chắc chắn sẽ xuất hiện Hư Vô..
Thực hư là sao nhỉ?!
(còn tiếp)
(còn tiếp)
--------------------------------------
Nhận xét
Đăng nhận xét