THỰC TẠI VÀ HOANG ĐƯỜNG 12/i

THỰC TẠI VÀ HOANG ĐƯỜNG

                                                                                                  ĐẠI CHÚNG

                                                    ____________________________

CHƯƠNG IX: NHÌN LẠI
                                                            (Tiếp theo TT&HĐ 12/h)

Vào thời Trang Tử, chúng ta quay về phương Nam trên con tàu tốc hành vượt thời gian (con tàu này đúng là một...UFO, nhưng không phải của người ngoài hành tinh, là thực thể mà đến ngay những người có mặt trong đó cũng không xác định được (!), chỉ tạm gọi là..."con tàu", thế thôi!!!). Chặng hành trình lang thang trong xứ sở thời Xuân Thu - Chiến Quốc của chúng ta đã (tạm) kết thúc. Ai cũng thế, đều trở thành vô thức khi ở trên con tàu vượt thời gian đó và nó...đang bay. Dù chưa toại nguyện vì chưa được chứng thực hết mọi điều còn khuất tất trong chính sử, thì chúng ta vẫn vui mừng khôn xiết vì không bị ''mắc kẹt'' lại thời xa xưa đó...vĩnh viễn!
...Một tiếng gầm long trời, lở đất, rền vang sông núi. Kế tiếp là cuồng phong nổi lên. Cái ngột ngạt oi nồng của thời tiết không còn nữa, lớp mồ hôi nhờn bám rịt da người đã biến mất. Mây đen cuộn lên như những quái tượng khổng lồ. Đã lác đác vài giọt mưa chắc nịch rơi xuống nền đường vỡ tan, mất biến. Chúng ta chợt thấy mình đang đứng trước một tửu quán đã lên đèn tại Sài Gòn. Hợp lẽ tự nhiên nhất lúc này là để tránh một trận mưa có thể là như trút, chúng ta nên vào quán để uống vài chai bia ướp lạnh của thế kỷ XXI. Lâu quá rồi còn gì!?
Hóa ra vẫn là cái tửu quán quen thuộc có tên “Kiều Mi”, vẫn ông chủ quán đầu hói bóng như gương, lúc nào cũng thấy lúi húi đếm tiền, vẫn cô gái chạy bàn tươi duyên mặc áo hở ngực đến độ mỗi khi cúi xuống là khách thấy hết cả “giang sơn”; vẫn nàng tiếp thị bia nói năng lưu loát và tình tứ, có thân hình thon thả như người mẫu với đôi chân dài hoạt bát dưới làn váy ngắn làm cho lượng bia tiêu thụ luôn vượt quá sự mong đợi, vẫn là bà bếp núc ních mỗi khi rảnh lại ra bàn khách quen nói vui ba điều bốn chuyện. Nói chung là vẫn vậy, xã hội hầu như không có gì thay đổi. Ấy vậy mà đã khoảng 2500 năm trôi qua rồi, ghê thật!
Người ta cứ cho rằng xã hội hiện tại văn hóa hơn xã hội ngày xưa. Chúng ta đã đi, chúng ta đã thấy và chúng ta đã từng trải. Vì thế mà chúng ta đột nhiên trở thành những kẻ ngây ngô khi tự hỏi: “Văn hóa là gì? Lấy chuẩn mực nào để nói rằng hôm nay văn hóa hơn hôm qua?”.
Khi nói rằng một xã hội văn hóa thì cũng có thể nói xã hội đó không mông muội, không dã man, không sống giống cầm thú, hay có đạo đức, có lịch sự và có lễ  nghĩa. Nếu văn hóa được quan niệm như thế thì xã hội ngày nay đâu khác gì xã hội cách đây 2500 năm, mà có thể còn “tệ bạc” hơn. Hay là lấy trình độ tiện nghi làm chuẩn mực so sánh? Không ổn! Vì như thế phải cho rằng người giàu sẽ văn hóa hơn người nghèo, cuộc sống no đủ văn hóa hơn cuộc sống đói khát. Nói đến cuộc sống no đủ thì phải nói đến nhu cầu. Mỗi thời đại có nhu cầu đòi hỏi khác nhau, do đó sẽ có những thời kỳ trong quá khứ no đủ hơn bây giờ nhiều…Mặt khác, thực tế cho thấy đâu cứ phải giàu có hơn là đối nhân xử thế...''tử tế'' hơn? Rốt cuộc thì văn hóa là gì, nó chỉ thị điều tốt hơn hay xấu hơn trong cuộc sống, thành tâm hơn hay diễn kịch hơn trong ứng xử giữa người với người? Câu hỏi này xin nhường cho...Đấng Tạo Hóa!
Mưa như trút thật! Và như thường lệ, rất mau tạnh. Trời đã tối từ lâu, gió mát lạnh. Tiếng sấm đã dời đi, tiếp tục gầm gừ ở đâu xa lắc, nhưng ánh chớp thì vẫn gửi về đây. Lâu lâu nhá lên như khoe như giấu. Thiên nhiên cũng có nỗi niềm riêng của nó?
Mải nhìn ra cửa sổ, không biết chủ quán đến bên tự lúc nào:
- Lâu quá không thấy các đại ca ghé? Mà hôm nay sao “tâm trạng” thế? - Chủ quán chìa gói thuốc lá ra mời – Làm điếu thuốc đi mấy huynh!...
Chúng ta quay lại và vốn bản tính xởi lởi, chúng ta cười nói:
- A, chào ông chủ! Lúc nãy mới vô chào ông chủ mà ông chủ không nghe, lo đếm tiền quá mà! - Phì phà hơi thuốc lá, chúng ta tiếp - Dạo này làm ăn ra sao hả ông chủ, hốt bao nhiêu cây vàng của người ta rồi?
Chủ quán ngửng mặt lên trời cười ha ha:
- Mấy huynh bỏ quán đi hoài, làm sao mà giàu cho nổi!... Mấy đứa phục vụ ở đây cứ nhắc các anh hoài! Không biết có chuyện gì không mà không thấy các huynh ghé nữa?...
- Có chuyện phải đi xa… Mới về tức thì là ghé quán ông liền. Đây này, ông không thấy người ngợm quần áo chúng tôi toàn đất cát lấm lem sao?
Có người gọi, chủ quán líu ríu:
- Thôi, mấy anh thông cảm, ngồi chơi vui đi… – Ông chủ quay qua gọi nàng tiếp thị gần đó - Này Hoa, nhắc mấy ổng hoài mấy ổng lại ghé uống ủng hộ kìa, vui không? - Chủ quán vừa đi vừa quay lại chào, cười ha ha nữa.
Có hai loại khách mà chủ quán nào cũng thích, đó là khách xộp và khách chân tình. Chúng ta tự hào là loại khách thứ hai.
- Thấy mấy anh ghé lại, ổng vui lắm đó! – Hoa bảo thế.
- Mà em có vui không?
- Quá vui! – Hoa nghiêng mặt, so vai, tóc lòa xòa bên má trắng mịn màng nhờ bốn mùa hoa trái của sông nước miền Tây Nam Bộ.
Trước khuôn mặt trái xoan vừa cố tình vừa tự nhiên làm duyên ấy, đến Lão Tử cũng không thể giữ lòng hư tĩnh được, huống hồ chúng ta?! Có một nỗi niềm nào đó dội rất mạnh vào lòng. Hoa ơi, em đẹp lắm! Nhưng em còn nhỏ quá, chưa thấy được nhiều điều. Chúng ta nheo mắt nhìn Hoa cười, cầm ly bia lên, uống một hơi cạn đáy, rồi khà:
- Lâu ngày mới ghé, hôm nay tụi anh sẽ uống hết bia của em luôn!
- Uống xỉn sao mà về được? Về bà xã la chết đó! Uống vừa thôi, rồi mai mốt mấy anh ghé uống nữa.
Thì ra thế! Hình như cái đáng tôn sùng nhất ở cõi thế tục này là Tình Yêu Thương. Không có Tình Yêu Thương thì xã hội không thể tồn tại được, chứ nói chi đến...đạo đức!?
Điều đó thật đơn giản và ai cũng biết. Nhưng tại sao cứ phải chiến tranh, tại sao vẫn là tàn nhẫn? Đây lại là điều rất ít người biết. Đó là vì ''thèm khát'' danh lợi thái quá! Xã hội loài người vĩnh viễn không bao giờ thoát được vòng danh lợi một khi tình yêu thương đồng loại chưa vượt thoát được tự giác để lên thành bản năng ở mỗi cá thể (thứ bản năng có được nhờ nhận thức dài lâu?!).
Thử hỏi ai mà không yêu mình? Bước vào đời, ai mà không ước ao danh lợi; ai mà không tìm danh, kiếm lợi? Và ai mà không tham muốn? Và làm sao biết yêu nếu không biết ghét? Cho nên mới nói rằng yêu, ghét có mầm mống từ bản năng đã qua một mức độ nhận thức nhất định. Yêu gồm mọi người thì cần có một nhận thức cao hơn nữa!...
Tham muốn và chưa đủ gồm yêu là đầu mối của thèm khát vị kỷ. Thèm khát vị kỷ làm nên ganh ghét, lòng tham vô độ lượng và sự nhẫn tâm là cái gốc của sự độc ác. Độc ác nào mà không gặt hái oán thù?
Thèm khát danh lợi một cách vị kỷ, vô tâm là con đường dẫn đến mọi sự xung đột và tột cùng của xung đột thì đó chính là đấu tranh vũ trang, là chiến tranh? Chiến tranh là sự tàn phá cái đã tốn công của tạo dựng, là cuộc chém giết lẫn nhau giữa hai lực lượng người để giành phần thắng, vì danh lợi (hay quyền lợi) của mỗi bên tham chiến, mà thực chất là hành động quyết liệt cuối cùng của đấu tranh sinh tồn, là hành động tiêu diệt sự sống để duy trì sự sống (!), kiểu một mất một còn. Dù cho rằng một trong hai lực lượng ấy là chính nghĩa, phát động chiến tranh để bảo vệ quyền sống chính đáng của mình, và chiến tranh là cần thiết đến cỡ nào đi chăng nữa để bảo toàn Đức Huyền Diệu hay nhân danh Tình Yêu Thương, thì chiến tranh bao giờ cũng tàn bạo!
Thời đại ngày nay, khi “kỹ nghệ ghét người và giết người” đạt đến mức “tuyệt vời” hơn bao giờ hết thì Tình Yêu Thương là vô cùng bức thiết. Chính Tình Yêu Thương sẽ làm cho sự tham muốn danh lợi biết dừng lại ở mức vừa đủ, sẽ làm cho những cái đầu “nóng” biết tôn trọng sinh mạng mọi con người; làm cho những tâm hồn vị kỷ đầy lãnh cảm biết nhường nhịn, biết rằng sự sống con người ở đâu và lúc nào cũng vậy, đều đáng quí như nhau, rằng đã là người thì cố gắng không gây ra đau khổ cho bất kỳ sự sống có tình nào. Còn nếu không, Tình Yêu Thương ít ra cũng sẽ an ủi được biết bao nhiêu thân phận không may, biết bao nhiêu mảnh đời bất hạnh, biết bao nhiêu tâm trạng cần được cảm thông. Và cuối cùng, nếu không được như vậy nữa thì chí ít, nó cũng tạo được chữ Hòa trong một xã hội mưu cầu danh lợi.
Nếu hiểu văn minh là bớt mê muội, là sáng suốt hơn, thì nên chăng lấy mức độ và cách thức thể hiện Tình Yêu Thương chân chính làm chuẩn mực của văn minh và mức độ văn minh là tùy thuộc sự lan toả và thấm thía Tình Yêu Thương trong xã hội, cũng như trong mỗi con người?
- Uống ủng hộ em chai nữa không mấy anh?
Tiếng Hoa trong vắt, ngân vang trong cái ồn ào xô bồ của tửu quán bình dân làm chúng ta bừng tỉnh. Quán đã đông khách hơn.
- Uống nữa chứ em. Tụi anh chưa say mà!… Mà có khi là đã say em mất rồi cũng không biết chừng…
 Hoa nguýt, cười, tay khui bia lốp bốp, đã quen với sự cợt nhả:
 - Sợ người chê thôi, chứ ai thương, em theo liền!...
Đẹp thật! Cô nàng đi qua bàn khác rồi mà mắt chúng ta cứ dán theo cặp đùi trắng suôn đuột. Không biết đó có phải là sự yêu mến có lý trí không? Hay đó đơn thuần chỉ là dục tính bản năng trỗi dậy vì bia, rượu?…
Đúng phóc là chẳng có gì thay đổi cả dù đã khoảng 2500 năm trôi qua! Tửu quán hồi đó cũng y hệt như tửu quán tối nay: vẫn là ông chủ quán, vẫn là bà bếp, vẫn là mấy em tiếp khách, vẫn là xô bồ đủ hạng tao nhân mặc khách, vẫn đầy ắp những thân phận, đầy ắp những thị phi và đầy ắp những nỗi niềm...
Không biết có lạc lõng không mà chúng ta chợt nhớ về thơ Lê Anh Xuân của một thời cứu nước. Ôi, cái ngày xưa Tổ Quốc ngập tràn khói lửa chiến tranh, tơi bời chết chóc ấy sao mà đẹp Tình Yêu Thương đến thế? Cha anh của chúng ta đi vào cuộc chiến đấu một mất một còn với quân xâm lược sao mà hồn nhiên, thanh thản đến thế? Mọi phân tích triết học như xuất thế vô vi, nhập thế hữu vi, chính danh, vô danh… đều chỉ là vô nghĩa, phi lý, vớ vẩn khi nói về họ:
“Ơi cơn mưa quê hương
Mưa là khúc nhạc của bài ca em hát
Những đêm ta nằm nghe mưa hát mưa ơi
Nghe mưa đập cánh tre, nghe mưa rơi tàu lá
Thì thầm rào rạt vang xa…
Có lúc bỗng phong ba dữ dội
Mưa đổ ào như thác dồn trăm lối
Giấc mơ xưa có chớp giật, sấm gầm.
Trang sử nhỏ nhà trường bỗng hóa cơn giông
Nghe như tiếng của cha ông dựng nước
Truyền con cháu phải ngẩng cao mà bước
Nghe như lời cây cỏ gió mưa,
Đang hát tiếp bài ca bất khuất ngàn xưa…”
(Trích “Nhớ mưa quê hương”)

“Đây rồi đoạn đường xưa
Nơi ta vẫn thường đi trong mộng
Kẽo kẹt nhà ai tiếng võng trưa
Ầu ơ… thương nhớ lắm
Ơi những bông trang trắng, những bông trang hồng
Như tấm lòng em trong trắng thủy chung
Như trái tim em đẹp màu đỏ thắm
Con sông nhỏ tuổi thơ ta đã tắm
Vẫn còn đây nước chẳng đổi dòng
Hoa lục bình tím cả bờ sông”
(Trích “Trở về quê nội”)
Tình yêu như trời xanh không chút gợn ấy là do thiên nhiên thuận hòa làm nên lòng người thuần phác, hay là sự hun đúc từ ngàn đời tổ tiên đã từng chịu biết bao nhiêu đau thương mất mát nhưng cũng vô cùng gan góc giữ gìn trọn vẹn gấm vóc giang sơn?
“Mẹ lưng còng tóc bạc
Ngậm ngùi kể chuyện ta nghe
Tám em bé chết vì bom xăng đặc
Trên đường đi học trở về
Giặc giết mười người trong một ấp
Bà con khiêng xác chất đầy ghe
Chở lên Bến Tre đấu tranh với giặc
Làng ta mấy lần bom giội nát
Dừa ngã ngổn ngang, xơ xác bờ tre”
                                    (Trích “Trở về quê nội”)
Tình yêu ấy là bản năng, là ý chí, hay là sự hòa quyện của cả hai làm nên truyền thống của một dân tộc? Truyền thống ấy ẩn giấu tiềm tàng trong máu chảy ruột mềm, trong khối óc con tim, trong từng hơi thở ở mỗi con người mà thế hệ cha anh chúng ta, trong ác liệt chiến tranh, đã thể hiện ra một thái độ sống, một quan niệm về bổn phận nhất quán và hết sức giản dị như vốn dĩ là thế, lẽ thường là thế chứ không thể khác được.
“Mẹ ta tần tảo sớm hôm
Nuôi các anh ta dưới hầm bí mật
Cả đời mẹ hy sinh gan góc
Hai mươi năm giữ đất, giữ làng
Ôi, mẹ là bà mẹ miền Nam
Ta có ngờ đâu em ta đấy
Dưới mái lều kia em đã lớn lên
Em đẹp lắm như mùa xuân bừng dậy
Súng trên vai cũng đẹp như em
Em ơi! Sao tóc em thơm vậy
Hay em vừa đi qua vườn sầu riêng
Ta yêu giọng em cười trong trẻo
Ngọt ngào như nước dừa xiêm
Yêu dáng em đi qua cầu tre lắt lẻo
Dịu dàng như những nàng tiên
Em là du kích, em là giao liên
Em chính là quê hương ta đó
Mười một năm rồi ta nhớ, ta thương

Đêm đầu tiên ta ngủ giữa quê hương
Sao thấy lòng ấm lạ
Dù ngoài trời tầm tã mưa tuôn
Tiếng đại bác gầm rung vách lá
Ôi quê hương ta đẹp quá!
Dù trên đường còn những hố bom
Dù áo em vẫn còn mảnh vá
Ta về đây chẳng mang gì cho em cả
Chỉ có trái tim chung thủy, sắt son
Và khẩu súng trong tay cháy bỏng căm hờn.”
(Trích “Trở về quê nội”)
Yêu mình, ai mà không như thế. Cha anh chúng ta cũng thế, nhưng khái niệm yêu mình ở đây đã được mở rộng để gắn kết keo sơn với yêu gồm cả quê hương xứ sở. Có lẽ vì vậy mà trước cái hữu hạn của kiếp người, cha anh chúng ta không nói: sống là tạm đến, chết là tạm đi như Dương Chu mà nói: sống là gửi, chết là về (với muôn thuở quê hương!). Hãy nghe Trần Bình Trọng nói khi sa vào tay giặc, trước sự dụ dỗ của tướng giặc đối với ông: “Ta thà chết làm quỉ nước Nam, chứ không thèm sống làm Vương đất Bắc!”. Cái khí phách đó đã hiển hiện ra trong thời đại chống Mỹ cứu nước ở thế hệ cha anh chúng ta như thế này đây:
“… Anh chết rồi, nhưng lòng dũng cảm
Vẫn đứng đàng hoàng nổ súng tiến công
Anh tên gì hỡi Anh yêu quí
Anh vẫn đứng lặng yên như bức thành đồng
Như đôi dép dưới chân Anh giẫm lên bao xác Mỹ
Mà vẫn một màu bình dị sáng trong.

Không một tấm hình, không một dòng địa chỉ
Anh chẳng để lại gì cho riêng Anh trước lúc lên đường
Chỉ để lại cái Dáng - Đứng - Việt - Nam tạc vào thế kỷ:
Anh là chiến sĩ Giải Phóng Quân

Tên Anh đã thành tên đất nước
Ơi Anh Giải Phóng Quân!
Từ dáng đứng của Anh giữa đường băng Tân Sơn Nhất
Tổ Quốc bay lên bát ngát mùa xuân.”
(Trích “Dáng đứng Việt Nam”)
Cái khí phách ấy có tên gọi chính xác là gì nếu không phải là Bất Khuất?!...
 ***
Nhìn lại, chặng đường đã qua thật dài ghê mà cũng quanh co, ngoắt ngoéo đến lạ. Ngày mới lên đường chúng ta đâu có ngờ là phải đi xa và vòng vo đến như thế để tìm kiếm vu vơ “một cái gì đó” chẳng biết là cái gì trong kho tàng triết học cổ kim. Sự hoang tưởng thái quá đôi khi gây ra những lầm lạc tai hại, những sa đà vớ va vớ vẩn không đáng có và những rề rà “vòng vo tam quốc” không biết dùng để làm gì cho cuộc đời này (chứ nói gì đến mai sau)? Bản thân chúng ta vốn dĩ đã là những kẻ ham vui, tò mò tọc mạch thuộc hàng nhất nhì thế giới và đã không bao giờ còn “cải tạo” được nữa có lẽ cũng là một nguyên nhân không nhỏ dẫn đến làm cho chặng đường đó dãn ra, kéo dài mãi!...
Cái gì thuộc về lịch sử không bao giờ còn có thể sửa chỉnh được nữa chăng? Không phải mà cũng..phải! Sẽ không bao giờ sửa được các biến cố đã xảy ra cho quá khứ vì lỡ rồi, đành chịu vậy, nhưng vẫn có thể sửa được cho hiện tại và tương lai vì con người là thực thể biết sáng tạo có chủ đích! Biết đâu chừng một người nào đó, với góc độ quan sát khác, sẽ nhìn thấy ở những quãng mà chúng ta cho là vô ích ấy một vài cái gì đó có giá trị, thậm chí là một câu thần chú để mở một con đường mới đi tìm những báu ngọc. Kinh nghiệm đã cho chúng ta thấy rằng trong một câu nói bâng quơ nhất cũng hàm chứa những điều cốt yếu về Tự Nhiên Tồn Tại. Các bậc tiền bối đã tóm tắt lại đại ý rằng từ một hạt cát có thể suy ra toàn bộ thế giới khách quan được. Vì thế mà nhà vật lý nổi tiếng Stephen Hawking đã nói một câu, đầy hình tượng: “Vũ trụ trong vỏ hạt dẻ”. Có lẽ trong Tự Nhiên chẳng gì là có nghĩa đối với Tồn Tại cả và chẳng gì là vô nghĩa đối với chúng ta cả?...
Suy nghĩ như thế làm cho chúng ta đỡ áy náy hơn để kiên định đi hết những chặng đường phía trước (mà chúng ta ngỡ tưởng đã dự định từ thuở ban đầu). Anh em ơi hãy tin đi, còn xa vời lắm mới tới được đích, nếu cái đích ấy...có thật!
Bây giờ là lúc chúng ta nên tổng kết lại xem cuộc hành trình lê thê vừa qua, chúng ta đã “kiếm chác” được những gì.
Trước hết, không cần bàn cãi, chúng ta đã giết được vô số thời gian ăn không ngồi rồi. Ăn không ngồi rồi là trạng thái khủng khiếp nhất của đời người. Đó là một khoảng hoàn toàn cô đơn, hoàn toàn trống trải, tất cả đều như ngưng đọng, trừ cái chết xồng xộc chạy đến. Tiếp theo, chúng ta đã được đi khắp đó cùng đây, đến những nơi mà dù người có tiền muôn bạc bể cũng không dám mơ ước. Chúng ta đã tận mắt thấy được nhiều điều mà không phải ai cũng thấy, đã diện kiến được không ít những tiên hiền, thánh triết cũng như những hôn quân, bạo chúa. Không những thế, chúng ta còn vô cùng hãnh diện vì đã được đến rất gần để ngắm nghía nhiều mỹ nhân thời cổ đại đã lưu danh hậu thế như Cleopát, Đát Kỷ, Tây Thi … thậm chí còn ngửi thấy cả mùi hương ngạt ngào toát ra từ cơ thể họ. Thứ nữa là chúng ta đã moi ra được (theo nhận định của… chúng ta) vài ba sự thực (?) mà lịch sử cố tình dấu diếm. Thứ tư, điều này thực sự quan trọng, chúng ta đã có dịp học lại, nghiền ngẫm lại những bài học, những giáo huấn từ lịch sử. Qua đó mà quan niệm của chúng ta về cuộc đời, về bổn phận làm người đã có những thay đổi lớn lao đến tận cội rễ. Dù không biết đó là theo hướng tiêu cực hơn hay tích cực hơn nhưng cơ bản là thế này: chúng ta đã thấy yêu thương đồng loại hơn rất nhiều, biết sống nhường nhịn hơn, tương trợ hơn và vị tha hơn. Cuối cùng, điều đặc biệt nhất, chính yếu nhất, phù hợp với ý đồ nảy ra cuộc hành trình, đó là từ nhiều góc độ, chúng ta đã phát hiện ra những phô diễn của một hình dáng được cho là bí ẩn của mọi bí ẩn, tuyệt tác của mọi tuyệt tác, huyền diệu của mọi huyền diệu, thiêng liêng của mọi thiêng liêng và tầm thường của mọi tầm thường, đó là Tự Nhiên Tồn Tại. Từ nay, chúng ta đã biết rằng Tồn Tại là Tồn Tại mà cũng không phải là Tồn Tại; Tồn Tại là Tự Nhiên mà cũng không phải Tự Nhiên, Tự Nhiên là không lựa chọn mà cũng lựa chọn, không tạo dựng mà cũng tạo dựng, Tự Nhiên Tồn Tại là vốn dĩ thế, không cần nhận thức của Tư duy nhưng Tư duy thì luôn luôn “nghĩ” về Nó, buộc phải nghĩ về Nó và cái gọi là Thế Giới Khách Quan chính là thực thể hình thành nên từ sự thỏa thuận giữa tính khách quan của Nó và tính chủ quan của Tư Duy, mà Tư Duy, xét ra thì cũng là “máu xương” của Nó. Có thể nói rằng Tự Nhiên Tồn Tại giàu có tuyệt đối bởi vì nó không thiếu bất cứ một thứ gì. Toàn bộ đều thuộc quyền sở hữu của Nó từ không gian, thời gian đến vật chất, vận động. Nó có quyền lực tuyệt đối vì vạn vật đều phục tùng Nó. Nhưng Nó cũng lại nghèo “mạt rệp” và chẳng có chút quyền lực, danh phận gì, hoàn toàn vô hữu, vô vi và vô danh. Tự Nhiên Tồn Tại vô cùng vui vẻ hạnh phúc vì sự quây quần, nhảy múa không ngừng của vạn vật-hiện tượng. Nhưng vì Nó là tất cả cho nên Nó là duy nhất, trở thành cô đơn, buồn tẻ cùng cực. Tự Nhiên Tồn Tại trường sinh bất tử vì Nó vô thủy vô chung, không có trạng thái (lúc nào cũng là Nó, bất biến nếu xét đến toàn cục!), nhưng cũng trong vòng tuần hoàn ''sinh-lão-bệnh-tử-sinh …'' vì cũng có các trạng thái (lúc nào cũng biến đổi nếu xét về phương diện Tồn Tại)! Nói mãi về Tự Nhiên Tồn Tại sẽ không bao giờ hết nên chúng ta tạm gọi Tự Nhiên Tồn Tại là Cái Ấy, tạm gọi Cái Ấy là Đạo và tạm gọi Đạo là Tự Nhiên Tồn Tại để mà tạm sử dụng cho tạm hiểu, tạm lý giải nhân tình thế thái trong cái cõi cũng tạm nốt! Ha, ha...ha!..Hi, hi...hi!...He, he...he!...
Cái cõi tạm ấy còn có nhiều nhãn mác khác nữa. Tùy tâm trạng và sở thích, người ta gọi đó là cõi Trần Tục (để phân biệt với cõi Niết Bàn) cõi Dương Gian (để phân biệt với cõi Âm Ti) … Nhưng thuần phác nhất, chúng ta cho rằng nên gọi là cõi Nhân Thế vì mọi phô diễn về nhân tình thế thái đều xảy ra ở cõi ấy. Trong khắp Vũ Trụ, có rất nhiều cõi tạm nhưng chỉ có một kiểu cõi gọi là Nhân thế, mà chỉ có ở đó mới xảy ra đủ mọi chuyện như chiến tranh và hòa bình, yêu thương và ghét giận, hạnh phúc và bất hạnh, vui sướng và buồn khổ, lương thiện và tàn ác, dũng cảm và đê hèn, chính nghĩa và phi nghĩa… Nói chung là phô diễn đủ mọi hỉ, nộ, ái, ố và đương nhiên là cả những xiềng xích danh lợi và thị phi nữa. Trong cái cõi ấy, vì nằm trong vòng chi phối của danh lợi, của ''lành ít dữ nhiều'' và tùy thuộc vào bản tính, sự giáodục và nhận thức mà mỗi cá thể khi lớn lên đều chọn cho mình một con đường sống, một lẽ sống, một phong cách sống, một mục đích sống khác nhau nhưng ưu tiên một thì đều giống nhau: cố sống còn để chờ...chết. Trong chiến tranh, điều nói trên bộc lộ rất rõ rệt. Không người lính bình thường nào lại không tìm cách tránh đạn; không so vai, rụt cổ khi đạn pháo, bom nổ gần bất thình lình; không người lính bình thường nào lại không tìm cách sống còn. Và sống còn không phải vì danh thì cũng vì lợi. Câu này nghe thật chói tai nhưng lại là sự thật. Người lính đánh thuê chiến đấu là vì đồng tiền của kẻ đi thuê và một phần đôi khi cũng vì sở thích. Nhưng sở thích là gì nếu không là lợi (về tinh thần). Thế thì kẻ ôm bom khủng bố có vì danh lợi hay không? Có, chí ít thì cũng vì danh lợi của giáo phái mà người đó tôn thờ...Không phải chỉ trong chiến tranh mà trong các trò chơi mạo hiểm cũng xảy ra nhiều hành động quên mình đại loại như thế mà bản chất thì cũng vì danh, vì lợi: giữ gìn thanh danh, phô diễn tài năng, so giành quyền lực, còn không thì cũng vì lợi quyền, vì tiền bạc, hoặc đơn giản chỉ vì khoái cảm riêng tư. Từ đó mà có những khái niệm như: dũng cảm, gan dạ, sợ hãi, hèn nhát, liều mạng, mù quáng, điên rồ… và tùy vào ý nghĩa của danh, lợi của hành động theo đuổi mà nảy sinh ra những anh hùng. Theo ý chúng ta thì những hành động quên mình được gọi là anh hùng chỉ khi hành động đó có mục đích cứu nhân độ thế, phụng sự lẽ phải (theo quan niệm của đại chúng toàn nhân loại), xuất phát từ tình yêu thương vô hạn, trước hết là với dân tộc, quê hương đất nước mình; và cái danh ấy là do quần chúng ghi nhận, tôn vinh.
Bẻm mép nói chuyện thiên hạ, vậy thì ngay lúc này đây, bản thân chúng ta nghĩ gì về cách sống cho hợp lẽ.? Trả lời câu hỏi này rất không dễ dàng. Trong vòng đua chen để ''kiếm chác'' danh lợi và xung quanh là biết bao nhiêu nhận định về thị phi, mà tìm ra được một thái độ sống, một cách sống vừa không trái với cá tính bản thân vừa hài lòng mọi người quả là quá khó khăn. Ai mà không có một thời “bâng khuâng đi kiếm lẽ yêu đời” và thử hỏi rằng mấy ai đã kiếm ra được chân tướng của cái lẽ yêu đời ấy? Chúng ta, những kẻ đã đi qua gần hết cuộc đời, được cho là đã từng trải và chiêm nghiệm nhiều, mà vẫn cứ ngạc nhiên về lẽ đời, tình người; vẫn chưa biết sống thế nào cho phải cho đúng với bản thân mình, và đồng thời với tất cả mọi người. Ở thời đại ngày nay, phải thừa nhận rằng con người đã làm ra biết bao nhiêu điều kỳ diệu, đã chế tác ra biết bao nhiêu công cụ, phương tiện phục vụ cho lợi ích sống còn, hưởng thụ của mình. Nhưng về mặt tình cảm, hình như con người vẫn chưa vượt thoát được ra khỏi cõi mông muội, dã man (cõi ích kỷ đến ác tâm của mình chứ không phải...của loài vật!). Có lẽ phải cần một thời gian tiến hóa dài lâu nữa chăng? Hay là chẳng bao giờ có được một nền văn minh toàn diện và đích thực? Đừng nên bi quan như thế, phải có nền văn minh ấy! Chúng ta cho rằng, khi khoa học-kỹ thuật đạt đến trình độ dễ dàng tạo ra (toàn bộ) thực phẩm ngon lành cho con người từ các chất vô cơ, thì cũng là lúc nền văn minh đích thực văn minh (tức là nền văn minh chứa đựng toàn bộ cả đạo đức lẫn văn hóa, gọi là nền văn minh chân-thiện-mỹ) đã đến...
Nếu mai này Tạo hóa cho chúng ta được sống lại một lần nữa với cuộc đời thứ hai, vì ''trót'' đầu thai vào thời đại mà xã hội vẫn còn là nơi nổi trội cho việc trước tiên là tìm miếng cơm manh áo để sống còn, sau đó là kiếm vinh quang để tự hào,  rất có thể chúng ta sẽ sống như thế này: tuổi trẻ sống theo lời dạy của Khổng Tử, làm “cột trụ kiên cường” để lập nghiệp, tạo cuộc sống cho mình, và hãnh tiến giúp đời trong khả năng mình có thể, rồi khi xã hội đòi hỏi thì theo gương Mặc Địch, tiết kiệm và “thắt lưng buộc bụng” để cứu trợ tức thời hoặc cùng mọi người “Kiêm Ái” lâu dài, lúc thư thả sung túc thì sống khoáng đạt, hồn nhiên như Dương Chu, và về già sẽ “xuất thế vô vi”, ung dung tu tiên như Lão Tử. Nhưng trước hết, chúng ta sẽ đi học, và bài học đầu tiên bắt buộc đối với chúng ta lúc đó phải là bài học về Tình Yêu Thương. Chỉ khi hiểu được đến cội rễ của Tình Yêu Thương, chúng ta mới thấy được sự hợp lẽ tự nhiên của đạo đức và từ đó mới nhận chân được ý nghĩa đích thực của cuộc đời để mà biết sống tiến thủ như Khổng Tử nói, hy sinh như Mặc Địch làm gương, hưởng thụ như Dương Chu vô ước, an nhiên như Lão Tử trầm tư mặc tưởng, và tùy hòan cảnh, tình thế, tùy biến động của thời cuộc  mà cố đạt cho trọn vẹn được hai chữ Hợp và Hòa.
Nói đến bài học về Tình Yêu Thương, chúng ta chợt nhớ đến một bài thơ đã may mắn thuộc được từ thời thơ trẻ và giữ gìn trong lòng đến tận bây giờ. Theo “truyền khẩu” thì bài thơ đó xuất hiện lần đầu tiên trên một tờ báo ở Sài Gòn vào những năm 50 của thế kỷ trước. Không biết sự “truyền khẩu” có chính xác không nữa? Nhưng không quan trọng, cái quan trọng là tinh thần của bài thơ đã làm nó ''sống mãi'' trong lòng chúng ta như một kim chỉ nam cho hành động. Còn hay hay không, chúng ta không bình luận. Chúng ta cứ trình hiện nguyên văn bài thơ (không biết tác giả là ai) ra đây, coi như là lần xuất hiện thứ ba của nó trong xã hội và mong nó sống thêm một thời gian nữa trong lòng người đời:
TRÊN ĐỐNG RÁC
Chiều xuân muộn trải tâm tình khao khát
Máu thêm yêu rào rạt mảnh hồn trai
Tôi gặp em một mình trên đống rác
Tóc rối bời, nắng nhạt phủ bờ vai

                         *

Em đào em bới
Em xới em moi
Đống cặn bã của vàng son nhung lụa
Dưới lớp rác hôi tanh và nhầy nhụa
Em đang tìm chén gạo cho ngày mai

                          * 

Một cây đinh ngắn
Nửa mảnh sứ dày
Vài chiếc khoen đồng
Đôi con vít sắt
Người ta vứt của đời em cứ nhặt
Nhục hay vinh, thây kệ chuyện trần ai!

                          *

Một kẻ đi qua
Nhiều kẻ đi qua
Một chiếc xe qua
Nhiều chiếc xe qua
Người trên xe bịt mũi phất mùi xoa
Kẻ dưới lộ cũng cau mày rảo bước
Người ta sợ mùi hôi tanh ẩm ướt
Làm bợn nhơ nếp sống đượm xa hoa
Áo đẹp, khăn thơm, mắt biếc, tay ngà
Ai để ý làm chi trên đống rác
Đang triển lãm bức tranh đời bi đát
Đượm màu thương, thời đại chửa ghi lời!

                            *

Người em thương yêu ơi!
Em có biết hay là em không biết
Rằng đất nước em giàu khôn kể xiết
Vô tận tài nguyên, phong phú hoa màu
Bạc nào mua cho hết lúa Cà Mau
Vàng đọng khối cao su miền đất đỏ
Cây trái ngọt bốn mùa thơm, béo bổ
Bờ Cửu Long hiền dịu tiếp phù sa.
Bởi vì đâu bầu vú mẹ tuôn ra
Dòng sữa ngọt mà con không được hưởng?
Để cho em phải sớm chiều vất vưởng
Mảnh đời thơ làm bạn với hôi tanh
Cánh hoa non ngào ngạt đượm hương lành
Nở gượng gạo, âm thầm trong héo hắt. 

                          * 

Nắng nhạt lần lần, một ngày sắp tắt
Em ra về, bóng nhỏ ngả xiêu xiêu
Mảnh thân gầy chập chọang trên đường chiều
Bên tấp nập, dòng người xe cuộn chảy
Bỗng dừng bước, em cau mày ái ngại
Một lão già hành khất mỏi hơi than
Giơ tay xin, lê lết tấm thân tàn
Trên hè phố, người lại qua lạnh lạt
Người ta phớt, người ta xua, người ta quát
Hoặc lắc đầu bình thản bước đi qua
Từ nhà ai văng vẳng một lời ca:
“Đời đẹp lắm, buồn đau đà rủ sạch!...”
Em ứa lệ lần trong manh áo rách
Cầm trao cho tờ giấy bạc bèo nhèo
Bài thơ thương giữa những kẻ đói nghèo
Đâu ai thấy chói ngời trên đống rác! 

                               *

Người em nhỏ mà tuổi thơ bi đát
Kéo lê thê trên đống rác ven đường
Má chưa hồng đã dạn gió dày sương
Môi chưa thắm đã héo cùng mưa nắng
Em đã rắc những ý tình cay đắng
Lên lòng tôi để kết lại thành thơ
Đắng mà thơm ngào ngạt đượm hương mơ
Cay mà dịu, ngọt thanh tình nhân loại

                               *
Đêm nay,
Mực chảy thành thơ giữa tiếng cười man dại
Ngoài đường kia ánh điện nở hào quang
Trải vàng son lên đại lộ huy hòang
Tôi ngồi đây âm thầm trong ngõ tối
Trách tất cả gông cùm trên thế giới
Sao lại xiềng đôi cánh của tình thương?!
(Chép lại báo “Nhân đạo”, Sài Gòn 1951)
 ***
Nào, anh em ơi! Chúng ta lại tiếp tục lên đường, lang thang về nơi vô định.
Chúng ta lên đường mà không biết tiếp tục...đi đâu, vì trước chúng ta chẳng có con đường nào cả, dù đường xá chằng chịt!
Nói thế e rằng nhiều người nghĩ chúng ta ''rối loạn tâm thần'' nên chúng ta nói rõ hơn: phía trước rất nhiều đường nhưng không có con đường nào dành cho những kẻ học thì thiếu nhưng hoang tưởng lại thừa như chúng ta cả. Chúng ta phải tự vạch lối mà đi, mở đường mà tiến, vừa đi vừa khai phá. Như thế, sẽ mệt một tý nhưng bù lại, không bao giờ bị… “kẹt xe” hoặc lệ thuộc vào “đèn xanh, đèn đỏ”. Đi trên đại lộ ngày nay sẽ không bao giờ còn được nhìn thấy sắc màu của tự nhiên nữa. Đi trên lối mòn ngày nay sẽ không bao giờ còn được nhìn thấy hoa thơm cỏ lạ nữa.
Đi đâu bây giờ? Thôi, cứ tùy cơ ứng biến, ra khỏi quán “Kiều Mi” hẵng hay!
- Tính tiền đi em! - Chúng ta gọi cô gái chạy bàn mặc áo hở nửa ngực đang lúi húi dọn dẹp ở góc quán.
Quán đã vắng hoe, chỉ còn lác đác vài ba ông khách “quá hớp” ngồi với “bồ nhí” hoặc đang cố gắng làm ra những “ranh ngôn” cuối cùng với bạn bè. Bà bếp đã về từ lâu, chủ quán cũng đã về. Thường thì khi về, chủ quán giao lại cho cô gái hở ngực. Chắc cô ta là người nhà của ông ta. Không thấy Hoa đâu nữa. Giờ này mà nàng còn ở lại mới là chuyện lạ. Hôm nay có thể Hoa rất vui vì nhờ cái thùng chứa là chúng ta mà lượng bia bán được chắc chắn là tăng lên đến đáng nể.
Cô gái hở ngực cầm hóa đơn tính tiền lại.
Chúng ta xòe tiền ra:
- Em giữ lại tiền dư đi, khỏi thối… Mà em tên gì vậy em?
- Cảm ơn mấy anh! Dạ, em tên Nguyệt. Anh hỏi tên em lần này là lần thứ tám rồi đó nha!
- Vậy hả? Xin lỗi em, anh có cái tật hay quên. Thôi chào nhé! Lần sau gặp lại tụi anh sẽ không dám quên nữa đâu. Nguyệt là trăng, trăng tròn là Nguyệt, tên em đẹp lắm đấy… Tụi anh về nha!
- Dạ!
Chúng ta chếch choáng đi ra.
Đêm thoáng đãng và mát quá! Dù không thấy được ngôi sao nào nhưng chúng ta đoán bầu trời rất trong, chỉ còn vương vất vài đụn mây trắng như làn khói mỏng còn lưu lại từ cuộc ''thư hùng'' của thiên nhiên vừa qua. Đêm thành phố thời ''hại điện'', đèn nhiều quá! Nếu không chủ ý thì dù trời trong cũng khó thấy trăng, sao. Nếu lúc này mà đứng ở vùng quê nào đó, trên một cánh đồng đâu đó thì chắc chắn sẽ thấy được ngàn sao (không thể thấy Nguyệt được vì chưa phải mùa trăng, muốn không phải mùa trăng mà thấy Nguyệt thì chỉ còn cách tưởng tượng hay quay lại quán “Kiều Mi”, mà...cũng chưa chắc!). Thích nhất ở đất phương Nam này có kiểu mưa như thế: ầm ào, sôi nổi một cách dứt khoát, xong thì thôi, không lã chã sầu thảm, lê thê đến nhão cả người...
Chúng ta đi đâu đây? Về thôi! Không, chưa thể về được! Ngày ra đi chúng ta đã hứa với lòng là phải tìm được cái gì đó thì mới trở về với mụ vợ quanh năm chỉ biết ''lo toan nghèo khó'' cho chồng con một cách ''thương lắm'' cơ mà!? Ừ nhỉ, chưa về được đâu!...
Chúng ta đã thấy được hình bóng của Tự Nhiên Tồn Tại nhưng còn nhạt nhòa; chúng ta đã phát hiện ra viên ngọc quí trong lòng Lão Tử nhưng cũng chỉ là sự phản chiếu dù rất lung linh của cái hình bóng ấy. Nghĩa là chúng ta chỉ mới nhìn thấy được cái vẻ bề ngoài, cái hình thức biểu hiện của cái gì đó mà thôi. Thế thì rõ ràng là chúng ta vẫn chưa biết cái gì đó ấy thực chất là… cái gì?
Tự Nhiên Tồn Tại phô bày ra Vũ Trụ các sự vật - hiện tượng mà chúng ta có thấy hoặc không thấy, vì Nó phô bày đâu cho riêng chúng ta!? Cái Vũ Trụ ấy vô cùng sinh động, biến đổi không ngừng theo nguyên lý nhân - quả. Không có một sự biến hóa, sinh, vong nào lại không có nguyên nhân và cũng là nguyên nhân của sự biến hóa sinh, vong kế tiếp. Nhưng cứ theo cái đà ấy mà luận thì phải có một nguyên nhân đầu tiên hay người ta thường gọi là cú hích đầu tiên. Để tạo được cú hích đầu tiên thì phải có một Thượng Đế-cái đầu tiên hơn cả đầu tiên!? Chúng ta không thích gọi là Thượng Đế nên chúng ta gọi là Tự Nhiên Tồn Tại. Mà Tự Nhiên Tồn Tại thì không thị phi, cứ thế, vốn dĩ thế thôi, vô thủy vô chung. Vậy có cú hích đầu tiên không?...
Vạn vật, kể cả con người nữa, sinh ra từ đâu và khi bị diệt vong rồi thì về đâu? Câu hỏi dằn vặt này và việc không thừa nhận cú hích đầu tiên, cùng với sự phô bày ra ánh sáng ngập tràn Vũ Trụ này sẽ trước sau gì cũng tất yếu dẫn đến Nền Tảng. Nền Tảng là cái mà ngũ quan của chúng ta chưa quan sát, cảm nhận được toàn diện, nhưng nhờ các phương tiện, thiết bị tối tân mà con người đã chế tác được, đã một phần nào đó lộ diện.
Thế thì cái gì đó chính là Nền Tảng? Đúng mà cũng chưa chắc đã đúng, hoặc đúng nhưng chưa triệt để. Cần phải cho rằng cái gì đó là cái làm nên cái Nền Tảng ấy (?). Thế thì lại hỏi: cái gì đó làm nên Nền Tảng là cái quái gì? Đó cũng chính là vật chất chăng? Mà vật chất thì không thể là mông lung được. Cho nên nó phải được xây dựng nên từ những cái Một vô cùng nhỏ, nhỏ nhất, và chúng ta gọi đó là hạt vật chất. Hạt vật chất (tạm gọi thế đã) chính xác là cái gì đó mà chúng ta cần tìm; là viên ngọc quí giá tuyệt đối của Tự Nhiên Tồn Tại. Nhận thức không thể giả định là nó không tồn tại được, vì giả định như thế thì bản thân nhận thức cũng không tồn tại (và khi nhận thức không tồn tại nữa, ''tiêu'' rồi, thì còn đâu mà giả định?!)
Rõ ràng, bước đường tiếp theo của chúng ta là đi tìm những viên ngọc quí ấy và quan sát hành vi của chúng cũng như cái Nền Tảng mà chúng tạo ra. Nhưng trước hết phải rà soát xem tổ tiên chúng ta đã tìm thấy chưa hoặc đã tìm thấy đến đâu, kẻo lại làm chuyện...''biết rồi, khổ lắm. nói mãi'', chán chết...
Chỉ khi thấy được các hạt ngọc quí ấy thì chúng ta mới hiểu được Nền Tảng và như thế chúng ta mới có cơ may giải thích được mọi hành vi của mọi sự vật - hiện tượng và từ đó mới thấy được chân tướng của Tự Nhiên Tồn Tại, hay Lão Tử gọi là Đạo, đồng thời mới thấy được chân tướng của thứ mà loài người tưởng ''biết tỏng'' nhưng thực ra chưa biết và gọi là vật chất, cũng như hiểu rằng không bao giờ con người có thể ''sờ'' được ''tiền thân'' của vật chất.
Thế là, chúng ta đã xác định được dứt khoát mục đích của cuộc hành trình tiếp theo là loanh quoanh trong Tồn Tại để tìm hiểu...cội nguồn của vật chất,...nếu có. Và biết đâu trong cuộc hành trình này, chúng ta còn có thể gặp được Tạo Hóa (vì Tạo Hóa không thể ở ngoài Tồn Tại được!) để chất vấn một đôi điều gọi là quan trọng cũng nên!?
Và chúng ta đi!.. Nhưng đi đâu?...Nói rồi! Đã gọi là loanh quoanh thì đi đâu cũng được, miễn là không về nhà!...Và chúng ta đi về phương xa vời ấy, đầy mông lung bất định, xác suất thành công khó mà cao được, nhưng cũng không thấp đến nỗi...vô vọng! Có thể vĩnh viễn không bao giờ về được nữa nhưng nếu có thế thì chúng ta cứ đi, theo tiếng gọi thiết tha của số phận!
Những ai hoang tưởng cao độ cũng phải hành động như chúng ta thôi, duy nhất một lựa chọn, nghĩa là chỉ thế thôi, không có lựa chọn nào khác!...
Nào, đi!
Và chúng ta nghêu ngao hát:
.. trên đường ta qua không một dấu chân người.
Có chú nai vàng nghiêng đôi tai ngơ ngác.
Dừng ở chân đèo mà nghe suối hát,
ngắt một đóa hoa rừng cài lên mũ ta đi.

Trường Sơn ơi, ơi Trường Sơn ơi
đèo vút cao vượt qua mây gió,
đạp đá tai mèo bằng sức gió ngàn cân.
đi ta đi những trai làng Phù Đổng,
còn gì vui hơn đường ra trận mùa xuân.

Ôi có những vì sao thức cùng ta đêm nay.
Như mắt em sáng lên muôn niềm tin
ta nhớ má Năm Căn ta thương em Cửa Việt
mười bốn năm rồi giấc ngủ chưa tròn.
cả miền Nam đang gọi chúng ta đi...

Trường Sơn ơi, Trường Sơn ơi,
đêm nay ta đi Trường Sơn lộng gió,
trời vắng trăng sao nhưng tim ta rực lửa,
đi ta đi tung cánh đại bàng...”
(Trích đoạn bài hát hào hùng ''Bài Ca Trường Sơn'' ra đời từ thời chống Mỹ cứu nước)

------------------------------------------------------------------------
                                                           HẾT PHẦN I

 

Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

TT&HĐ I - 9/d

MUÔN MẶT ĐỜI THƯỜNG III/104

NGẬM SẦU (ĐL)