THỰC TẠI VÀ HOANG ĐƯỜNG 12/i
THỰC TẠI VÀ HOANG ĐƯỜNG
ĐẠI CHÚNG
____________________________
CHƯƠNG IX: NHÌN LẠI
(Tiếp theo TT&HĐ 12/h)Vào thời Trang Tử, chúng ta quay về phương Nam trên con tàu tốc hành vượt thời gian (con tàu này đúng là một...UFO, nhưng không phải của người ngoài hành tinh, là thực thể mà đến ngay những người có mặt trong đó cũng không xác định được (!), chỉ tạm gọi là..."con tàu", thế thôi!!!). Chặng hành trình lang thang trong xứ sở thời Xuân Thu - Chiến Quốc của chúng ta đã (tạm) kết thúc. Ai cũng thế, đều trở thành vô thức khi ở trên con tàu vượt thời gian đó và nó...đang bay. Dù chưa toại nguyện vì chưa được chứng thực hết mọi điều còn khuất tất trong chính sử, thì chúng ta vẫn vui mừng khôn xiết vì không bị ''mắc kẹt'' lại thời xa xưa đó...vĩnh viễn!
...Một tiếng gầm
long trời, lở đất, rền vang sông núi. Kế tiếp là cuồng phong nổi lên. Cái ngột
ngạt oi nồng của thời tiết không còn nữa, lớp mồ hôi nhờn bám rịt da người đã
biến mất. Mây đen cuộn lên như những quái tượng khổng lồ. Đã lác đác vài giọt mưa
chắc nịch rơi xuống nền đường vỡ tan, mất biến. Chúng ta chợt thấy mình đang đứng
trước một tửu quán đã lên đèn tại Sài Gòn. Hợp lẽ tự nhiên nhất lúc này là để tránh một trận
mưa có thể là như trút, chúng ta nên vào quán để uống vài chai bia ướp lạnh của
thế kỷ XXI. Lâu quá rồi còn gì!?
Hóa ra vẫn là cái
tửu quán quen thuộc có tên “Kiều Mi”, vẫn ông chủ quán đầu hói bóng như gương,
lúc nào cũng thấy lúi húi đếm tiền, vẫn cô gái chạy bàn tươi duyên mặc áo hở ngực
đến độ mỗi khi cúi xuống là khách thấy hết cả “giang sơn”; vẫn nàng tiếp thị
bia nói năng lưu loát và tình tứ, có thân hình thon thả như người mẫu với đôi
chân dài hoạt bát dưới làn váy ngắn làm cho lượng bia tiêu thụ luôn vượt quá sự
mong đợi, vẫn là bà bếp núc ních mỗi khi rảnh lại ra bàn khách quen nói vui ba điều
bốn chuyện. Nói chung là vẫn vậy, xã hội hầu như không có gì thay đổi. Ấy vậy mà đã khoảng 2500 năm trôi qua rồi,
ghê thật!
Người ta cứ cho
rằng xã hội hiện tại văn hóa hơn xã hội ngày xưa. Chúng ta đã đi, chúng ta đã
thấy và chúng ta đã từng trải. Vì thế mà chúng ta đột nhiên trở thành những kẻ
ngây ngô khi tự hỏi: “Văn hóa là gì? Lấy chuẩn mực nào để nói rằng hôm nay văn hóa hơn hôm qua?”.
Khi nói rằng một
xã hội văn hóa thì cũng có thể nói xã hội đó không mông muội, không dã man, không
sống giống cầm thú, hay có đạo đức, có lịch sự và có lễ nghĩa.
Nếu văn hóa được quan niệm như thế thì
xã hội ngày nay đâu khác gì xã hội cách đây 2500 năm, mà có thể còn “tệ
bạc” hơn.
Hay là lấy trình độ tiện nghi làm chuẩn mực so sánh? Không ổn! Vì như
thế phải
cho rằng người giàu sẽ văn hóa hơn người nghèo, cuộc sống no đủ văn hóa
hơn
cuộc sống đói khát. Nói đến cuộc sống no đủ thì phải nói đến nhu cầu.
Mỗi thời đại
có nhu cầu đòi hỏi khác nhau, do đó sẽ có những thời kỳ trong quá khứ no
đủ hơn
bây giờ nhiều…Mặt khác, thực tế cho thấy đâu cứ phải giàu có hơn là đối
nhân xử thế...''tử tế'' hơn? Rốt cuộc thì văn hóa là gì, nó chỉ thị điều
tốt hơn hay xấu hơn trong cuộc sống, thành tâm hơn hay diễn kịch hơn
trong ứng xử giữa người với người? Câu hỏi này xin nhường cho...Đấng Tạo
Hóa!
Mưa như trút thật!
Và như thường lệ, rất mau tạnh. Trời đã tối từ lâu, gió mát lạnh. Tiếng sấm đã
dời đi, tiếp tục gầm gừ ở đâu xa lắc, nhưng ánh chớp thì vẫn gửi về đây. Lâu lâu
nhá lên như khoe như giấu. Thiên nhiên cũng có nỗi niềm riêng của nó?
Mải nhìn ra cửa
sổ, không biết chủ quán đến bên tự lúc nào:
- Lâu quá không
thấy các đại ca ghé? Mà hôm nay sao “tâm trạng” thế? - Chủ quán chìa gói thuốc
lá ra mời – Làm điếu thuốc đi mấy huynh!...
Chúng ta quay lại
và vốn bản tính xởi lởi, chúng ta cười nói:
- A, chào ông
chủ! Lúc nãy mới vô chào ông chủ mà ông chủ không nghe, lo đếm tiền quá mà! -
Phì phà hơi thuốc lá, chúng ta tiếp - Dạo này làm ăn ra sao hả ông chủ, hốt bao
nhiêu cây vàng của người ta rồi?
Chủ quán ngửng
mặt lên trời cười ha ha:
-
Mấy huynh bỏ
quán đi hoài, làm sao mà giàu cho nổi!... Mấy đứa phục vụ ở đây cứ nhắc
các anh hoài! Không biết có chuyện gì không mà không thấy các huynh ghé
nữa?...
- Có chuyện phải
đi xa… Mới về tức thì là ghé quán ông liền. Đây này, ông không thấy người ngợm
quần áo chúng tôi toàn đất cát lấm lem sao?
Có người gọi,
chủ quán líu ríu:
- Thôi, mấy anh
thông cảm, ngồi chơi vui đi… – Ông chủ quay qua gọi nàng tiếp thị gần đó
- Này Hoa, nhắc mấy ổng hoài mấy ổng lại ghé uống ủng hộ kìa, vui không? - Chủ quán vừa đi
vừa quay lại chào, cười ha ha nữa.
Có hai loại khách
mà chủ quán nào cũng thích, đó là khách xộp và khách chân tình. Chúng ta tự hào
là loại khách thứ hai.
- Thấy mấy anh
ghé lại, ổng vui lắm đó! – Hoa bảo thế.
- Mà em có vui
không?
- Quá vui! –
Hoa nghiêng mặt, so vai, tóc lòa xòa bên má trắng mịn màng nhờ bốn mùa hoa trái
của sông nước miền Tây Nam Bộ.
Trước khuôn mặt
trái xoan vừa cố tình vừa tự nhiên làm duyên ấy, đến Lão Tử cũng không thể giữ
lòng hư tĩnh được, huống hồ chúng ta?! Có một nỗi niềm nào đó dội rất mạnh vào lòng.
Hoa ơi, em đẹp lắm! Nhưng em còn nhỏ quá, chưa thấy được nhiều điều. Chúng ta
nheo mắt nhìn Hoa cười, cầm ly bia lên, uống một hơi cạn đáy, rồi khà:
- Lâu ngày mới
ghé, hôm nay tụi anh sẽ uống hết bia của em luôn!
- Uống xỉn sao
mà về được? Về bà xã la chết đó! Uống vừa thôi, rồi mai mốt mấy anh ghé uống nữa.
Thì
ra thế! Hình
như cái đáng tôn sùng nhất ở cõi thế tục này là Tình Yêu Thương. Không
có Tình Yêu Thương thì xã hội không thể tồn tại được, chứ nói chi
đến...đạo đức!?
Điều đó thật đơn
giản và ai cũng biết. Nhưng tại sao cứ phải chiến tranh, tại sao vẫn là tàn nhẫn?
Đây lại là điều rất ít người biết. Đó là vì ''thèm khát'' danh lợi thái quá! Xã hội loài người vĩnh viễn
không bao giờ thoát được vòng danh lợi một khi tình yêu thương đồng loại chưa vượt
thoát được tự giác để lên thành bản năng ở mỗi cá thể (thứ bản năng có được nhờ
nhận thức dài lâu?!).
Thử hỏi ai mà
không yêu mình? Bước vào đời, ai mà không ước ao danh lợi; ai mà không tìm
danh, kiếm lợi? Và ai mà không tham muốn? Và làm sao biết yêu nếu không biết
ghét? Cho nên mới nói rằng yêu, ghét có mầm mống từ bản năng đã qua một mức độ
nhận thức nhất định. Yêu gồm mọi người thì cần có một nhận thức cao hơn nữa!...
Tham muốn và chưa
đủ gồm yêu là đầu mối của thèm khát vị kỷ. Thèm khát vị kỷ làm nên ganh ghét, lòng
tham vô độ lượng và sự nhẫn tâm là cái gốc của sự độc ác. Độc ác nào mà không gặt
hái oán thù?
Thèm khát danh
lợi một cách vị kỷ, vô tâm là con đường dẫn đến mọi sự xung đột và tột cùng của
xung đột thì đó chính là đấu tranh vũ trang, là chiến tranh? Chiến tranh là sự tàn phá cái đã tốn công của tạo dựng, là cuộc chém giết lẫn nhau giữa hai lực lượng
người để giành phần thắng, vì danh lợi (hay quyền lợi) của mỗi bên tham chiến, mà thực chất là hành
động quyết liệt cuối cùng của đấu tranh sinh tồn, là hành động tiêu diệt sự sống để duy trì sự sống (!), kiểu một mất một còn.
Dù cho rằng một trong
hai lực lượng ấy là chính nghĩa, phát động chiến tranh để bảo vệ quyền
sống chính
đáng của mình, và chiến tranh là cần thiết đến cỡ nào đi chăng nữa để
bảo toàn Đức Huyền Diệu hay nhân danh Tình Yêu Thương, thì chiến tranh
bao
giờ cũng tàn bạo!
Thời
đại ngày
nay, khi “kỹ nghệ ghét người và giết người” đạt đến mức “tuyệt vời” hơn
bao giờ
hết thì Tình Yêu Thương là vô cùng bức thiết. Chính Tình Yêu Thương sẽ
làm cho
sự tham muốn danh lợi biết dừng lại ở mức vừa đủ, sẽ làm cho những cái
đầu “nóng”
biết tôn trọng sinh mạng mọi con người; làm cho những tâm hồn vị kỷ đầy
lãnh cảm biết nhường nhịn,
biết rằng sự sống con người ở đâu và lúc nào cũng vậy, đều đáng quí như
nhau, rằng đã là người thì cố gắng không gây ra đau khổ cho bất kỳ sự
sống có tình nào. Còn nếu không, Tình Yêu Thương ít
ra cũng sẽ an ủi được biết bao nhiêu thân phận không may, biết bao nhiêu
mảnh đời
bất hạnh, biết bao nhiêu tâm trạng cần được cảm thông. Và cuối cùng, nếu
không được
như vậy nữa thì chí ít, nó cũng tạo được chữ Hòa trong một xã hội mưu
cầu danh
lợi.
Nếu
hiểu văn minh là bớt mê muội, là sáng suốt hơn, thì nên chăng lấy mức
độ và cách thức thể hiện Tình Yêu Thương chân chính làm chuẩn mực của
văn
minh và mức độ văn minh là tùy thuộc sự lan toả và thấm thía Tình Yêu
Thương trong xã hội, cũng
như trong mỗi con người?
- Uống ủng hộ
em chai nữa không mấy anh?
Tiếng Hoa trong
vắt, ngân vang trong cái ồn ào xô bồ của tửu quán bình dân làm chúng ta bừng tỉnh.
Quán đã đông khách hơn.
- Uống nữa chứ
em. Tụi anh chưa say mà!… Mà có khi là đã say em mất rồi cũng không biết chừng…
Hoa nguýt, cười, tay khui bia lốp bốp, đã quen
với sự cợt nhả:
- Sợ người chê thôi, chứ ai thương, em theo liền!...
Đẹp thật! Cô nàng
đi qua bàn khác rồi mà mắt chúng ta cứ dán theo cặp đùi trắng suôn đuột. Không
biết đó có phải là sự yêu mến có lý trí không? Hay đó đơn thuần chỉ là dục tính bản năng
trỗi dậy vì bia, rượu?…
Đúng phóc là chẳng
có gì thay đổi cả dù đã khoảng 2500 năm trôi qua! Tửu quán hồi đó cũng y hệt như tửu
quán tối nay: vẫn là ông chủ quán, vẫn là bà bếp, vẫn là mấy em tiếp khách, vẫn
là xô bồ đủ hạng tao nhân mặc khách, vẫn đầy ắp những thân phận, đầy ắp những
thị phi và đầy ắp những nỗi niềm...
Không
biết có lạc
lõng không mà chúng ta chợt nhớ về thơ Lê Anh Xuân của một thời cứu
nước. Ôi, cái
ngày xưa Tổ Quốc ngập tràn khói lửa chiến tranh, tơi bời chết chóc ấy
sao mà đẹp Tình Yêu Thương đến thế? Cha anh của chúng ta đi vào cuộc
chiến đấu một mất một
còn với quân xâm lược sao mà hồn nhiên, thanh thản đến thế? Mọi phân
tích triết
học như xuất thế vô vi, nhập thế hữu vi, chính danh, vô danh… đều chỉ là
vô nghĩa,
phi lý, vớ vẩn khi nói về họ:
“Ơi cơn mưa quê
hương
Mưa
là khúc nhạc của bài ca em hát
Những
đêm ta nằm nghe mưa hát mưa ơi
Nghe
mưa đập cánh tre, nghe mưa rơi tàu lá
Thì
thầm rào rạt vang xa…
Có
lúc bỗng phong ba dữ dội
Mưa
đổ ào như thác dồn trăm lối
Giấc
mơ xưa có chớp giật, sấm gầm.
Trang
sử nhỏ nhà trường bỗng hóa cơn giông
Nghe
như tiếng của cha ông dựng nước
Truyền
con cháu phải ngẩng cao mà bước
Nghe
như lời cây cỏ gió mưa,
Đang
hát tiếp bài ca bất khuất ngàn xưa…”
(Trích “Nhớ mưa
quê hương”)
“Đây
rồi đoạn đường xưa
Nơi
ta vẫn thường đi trong mộng
Kẽo
kẹt nhà ai tiếng võng trưa
Ầu
ơ… thương nhớ lắm
Ơi
những bông trang trắng, những bông trang hồng
Như
tấm lòng em trong trắng thủy chung
Như
trái tim em đẹp màu đỏ thắm
Con
sông nhỏ tuổi thơ ta đã tắm
Vẫn
còn đây nước chẳng đổi dòng
Hoa
lục bình tím cả bờ sông”
(Trích “Trở về
quê nội”)
Tình yêu như trời
xanh không chút gợn ấy là do thiên nhiên thuận hòa làm nên lòng người thuần phác,
hay là sự hun đúc từ ngàn đời tổ tiên đã từng chịu biết bao nhiêu đau thương mất
mát nhưng cũng vô cùng gan góc giữ gìn trọn vẹn gấm vóc giang sơn?
“Mẹ lưng còng tóc
bạc
Ngậm
ngùi kể chuyện ta nghe
Tám
em bé chết vì bom xăng đặc
Trên
đường đi học trở về
Giặc
giết mười người trong một ấp
Bà
con khiêng xác chất đầy ghe
Chở
lên Bến Tre đấu tranh với giặc
Làng
ta mấy lần bom giội nát
Dừa
ngã ngổn ngang, xơ xác bờ tre”
(Trích “Trở
về quê nội”)
Tình yêu ấy là
bản năng, là ý chí, hay là sự hòa quyện của cả hai làm nên truyền thống của một
dân tộc? Truyền thống ấy ẩn giấu tiềm tàng trong máu chảy ruột mềm, trong khối óc
con tim, trong từng hơi thở ở mỗi con người mà thế hệ cha anh chúng ta, trong ác
liệt chiến tranh, đã thể hiện ra một thái độ sống, một quan niệm về bổn phận nhất
quán và hết sức giản dị như vốn dĩ là thế, lẽ thường là thế chứ không thể khác được.
“Mẹ ta tần tảo
sớm hôm
Nuôi các anh ta
dưới hầm bí mật
Cả đời mẹ hy
sinh gan góc
Hai mươi năm giữ
đất, giữ làng
Ôi, mẹ là bà mẹ
miền Nam
Ta có ngờ đâu
em ta đấy
Dưới mái lều
kia em đã lớn lên
Em đẹp lắm như
mùa xuân bừng dậy
Súng trên vai cũng
đẹp như em
Em ơi! Sao tóc
em thơm vậy
Hay em vừa đi
qua vườn sầu riêng
Ta yêu giọng em
cười trong trẻo
Ngọt ngào như nước
dừa xiêm
Yêu dáng em đi
qua cầu tre lắt lẻo
Dịu dàng như những
nàng tiên
Em là du kích,
em là giao liên
Em chính là quê
hương ta đó
Mười một năm rồi
ta nhớ, ta thương
Đêm đầu
tiên ta ngủ giữa quê hương
Sao thấy lòng ấm
lạ
Dù ngoài trời tầm
tã mưa tuôn
Tiếng đại bác gầm
rung vách lá
Ôi quê hương ta
đẹp quá!
Dù trên đường còn
những hố bom
Dù áo em vẫn còn
mảnh vá
Ta về đây chẳng
mang gì cho em cả
Chỉ có trái tim
chung thủy, sắt son
Và khẩu súng
trong tay cháy bỏng căm hờn.”
(Trích “Trở về
quê nội”)
Yêu mình, ai mà
không như thế. Cha anh chúng ta cũng thế, nhưng khái niệm yêu mình ở đây đã được
mở rộng để gắn kết keo sơn với yêu gồm cả quê hương xứ sở. Có lẽ vì vậy mà trước
cái hữu hạn của kiếp người, cha anh chúng ta không nói: sống là tạm đến, chết là
tạm đi như Dương Chu mà nói: sống là gửi, chết là về (với muôn thuở quê hương!).
Hãy nghe Trần Bình Trọng nói khi sa vào tay giặc, trước sự dụ dỗ của tướng giặc
đối với ông: “Ta thà chết làm quỉ nước Nam, chứ không thèm sống làm Vương đất
Bắc!”. Cái khí phách đó đã hiển hiện ra trong thời đại chống Mỹ cứu nước ở thế
hệ cha anh chúng ta như thế này đây:
“… Anh chết rồi,
nhưng lòng dũng cảm
Vẫn đứng đàng hoàng
nổ súng tiến công
Anh tên gì hỡi
Anh yêu quí
Anh vẫn đứng lặng
yên như bức thành đồng
Như đôi dép dưới
chân Anh giẫm lên bao xác Mỹ
Mà vẫn một màu
bình dị sáng trong.
Không
một tấm hình, không một dòng địa chỉ
Anh chẳng để lại
gì cho riêng Anh trước lúc lên đường
Chỉ để lại cái Dáng - Đứng - Việt - Nam
tạc vào thế kỷ:
Anh là chiến sĩ
Giải Phóng Quân
Tên
Anh đã thành tên đất nước
Ơi Anh Giải Phóng Quân!
Từ dáng đứng của
Anh giữa đường băng Tân Sơn Nhất
Tổ Quốc bay lên
bát ngát mùa xuân.”
(Trích “Dáng đứng
Việt Nam”)
Cái khí phách ấy
có tên gọi chính xác là gì nếu không phải là Bất Khuất?!...
***
Nhìn lại, chặng
đường đã qua thật dài ghê mà cũng quanh co, ngoắt ngoéo đến lạ. Ngày mới lên đường
chúng ta đâu có ngờ là phải đi xa và vòng vo đến như thế để tìm kiếm vu vơ “một cái gì đó” chẳng biết là cái gì trong
kho tàng triết học cổ kim. Sự hoang tưởng thái quá đôi khi gây ra những lầm lạc
tai hại, những sa đà vớ va vớ vẩn không đáng có và những rề rà “vòng vo tam quốc”
không biết dùng để làm gì cho cuộc đời này (chứ nói gì đến mai sau)? Bản thân chúng ta vốn dĩ đã là những kẻ ham vui, tò
mò tọc mạch thuộc hàng nhất nhì thế giới và đã không bao giờ còn “cải tạo” được
nữa có lẽ cũng là một nguyên nhân không nhỏ dẫn đến làm cho chặng đường đó dãn ra, kéo dài mãi!...
Cái
gì thuộc về
lịch sử không bao giờ còn có thể sửa chỉnh được nữa chăng? Không phải mà
cũng..phải! Sẽ không bao giờ sửa được các biến cố đã xảy ra cho quá khứ
vì lỡ rồi, đành
chịu vậy, nhưng vẫn có thể sửa được cho hiện tại và tương lai vì con
người là thực thể biết sáng tạo có chủ đích! Biết đâu chừng một người
nào đó, với góc độ quan sát khác, sẽ nhìn thấy
ở những quãng mà chúng ta cho là vô ích ấy một vài cái gì đó có giá trị,
thậm
chí là một câu thần chú để mở một con đường mới đi tìm những báu ngọc.
Kinh
nghiệm đã cho chúng ta thấy rằng trong một câu nói bâng quơ nhất cũng
hàm chứa
những điều cốt yếu về Tự Nhiên Tồn Tại. Các bậc tiền bối đã tóm tắt lại
đại ý rằng từ một hạt cát có thể suy ra toàn bộ thế
giới khách quan được. Vì thế mà nhà vật lý nổi tiếng Stephen Hawking đã
nói một câu, đầy hình tượng:
“Vũ trụ trong vỏ hạt dẻ”. Có lẽ trong Tự Nhiên chẳng gì là có nghĩa đối
với Tồn
Tại cả và chẳng gì là vô nghĩa đối với chúng ta cả?...
Suy nghĩ như thế
làm cho chúng ta đỡ áy náy hơn để kiên định đi hết những chặng đường phía trước
(mà chúng ta ngỡ tưởng đã dự định từ thuở ban đầu). Anh em ơi hãy tin đi, còn xa vời lắm
mới tới được đích, nếu cái đích ấy...có thật!
Bây giờ là lúc
chúng ta nên tổng kết lại xem cuộc hành trình lê thê vừa qua, chúng ta đã “kiếm
chác” được những gì.
Trước
hết, không
cần bàn cãi, chúng ta đã giết được vô số thời gian ăn không ngồi rồi. Ăn
không
ngồi rồi là trạng thái khủng khiếp nhất của đời người. Đó là một khoảng
hoàn toàn
cô đơn, hoàn toàn trống trải, tất cả đều như ngưng đọng, trừ cái chết
xồng xộc
chạy đến. Tiếp theo, chúng ta đã được đi khắp đó cùng đây, đến những nơi
mà dù
người có tiền muôn bạc bể cũng không dám mơ ước. Chúng ta đã tận mắt
thấy được
nhiều điều mà không phải ai cũng thấy, đã diện kiến được không ít những
tiên hiền,
thánh triết cũng như những hôn quân, bạo chúa. Không những thế, chúng ta
còn vô
cùng hãnh diện vì đã được đến rất gần để ngắm nghía nhiều mỹ nhân thời
cổ đại đã
lưu danh hậu thế như Cleopát, Đát Kỷ, Tây Thi … thậm chí còn ngửi thấy
cả mùi hương
ngạt ngào toát ra từ cơ thể họ. Thứ nữa là chúng ta đã moi ra được (theo
nhận định
của… chúng ta) vài ba sự thực (?) mà lịch sử cố tình dấu diếm. Thứ tư,
điều này
thực sự quan trọng, chúng ta đã có dịp học lại, nghiền ngẫm lại những
bài học,
những giáo huấn từ lịch sử. Qua đó mà quan niệm của chúng ta về cuộc
đời, về bổn
phận làm người đã có những thay đổi lớn lao đến tận cội rễ. Dù không
biết đó là
theo hướng tiêu cực hơn hay tích cực hơn nhưng cơ bản là thế này: chúng
ta đã
thấy yêu thương đồng loại hơn rất nhiều, biết sống nhường nhịn hơn,
tương trợ hơn
và vị tha hơn. Cuối cùng, điều đặc biệt nhất, chính yếu nhất, phù hợp
với ý đồ
nảy ra cuộc hành trình, đó là từ nhiều góc độ, chúng ta đã phát hiện ra
những
phô diễn của một hình dáng được cho là bí ẩn của mọi bí ẩn, tuyệt tác
của mọi
tuyệt tác, huyền diệu của mọi huyền diệu, thiêng liêng của mọi thiêng
liêng và
tầm thường của mọi tầm thường, đó là Tự Nhiên Tồn Tại. Từ nay, chúng ta
đã biết rằng Tồn
Tại là Tồn Tại mà cũng không phải là Tồn Tại; Tồn Tại là Tự Nhiên mà
cũng không
phải Tự Nhiên, Tự Nhiên là không lựa chọn mà cũng lựa chọn, không tạo
dựng mà cũng
tạo dựng, Tự Nhiên Tồn Tại là vốn dĩ thế, không cần nhận thức của Tư duy
nhưng
Tư duy thì luôn luôn “nghĩ” về Nó, buộc phải nghĩ về Nó và cái gọi là
Thế Giới
Khách Quan chính là thực thể hình thành nên từ sự thỏa thuận giữa tính
khách
quan của Nó và tính chủ quan của Tư Duy, mà Tư Duy, xét ra thì cũng là
“máu xương”
của Nó. Có thể nói rằng Tự Nhiên Tồn Tại giàu có tuyệt đối bởi vì nó
không thiếu
bất cứ một thứ gì. Toàn bộ đều thuộc quyền sở hữu của Nó từ không gian,
thời
gian đến vật chất, vận động. Nó có quyền lực tuyệt đối vì vạn vật đều
phục tùng
Nó. Nhưng Nó cũng lại nghèo “mạt rệp” và chẳng có chút quyền lực, danh
phận gì,
hoàn toàn vô hữu, vô vi và vô danh. Tự Nhiên Tồn Tại vô cùng vui vẻ hạnh
phúc vì
sự quây quần, nhảy múa không ngừng của vạn vật-hiện tượng. Nhưng vì Nó
là tất cả
cho nên Nó là duy nhất, trở thành cô đơn, buồn tẻ cùng cực. Tự Nhiên Tồn
Tại trường
sinh bất tử vì Nó vô thủy vô chung, không có trạng thái
(lúc nào cũng là Nó, bất biến nếu xét đến toàn cục!), nhưng cũng trong
vòng tuần hoàn ''sinh-lão-bệnh-tử-sinh …'' vì cũng có các trạng thái (lúc nào cũng biến đổi nếu xét về phương diện Tồn Tại)! Nói mãi về Tự Nhiên Tồn Tại sẽ
không bao giờ hết nên chúng ta tạm gọi Tự Nhiên Tồn Tại là Cái Ấy, tạm gọi Cái
Ấy là Đạo và tạm gọi Đạo là Tự Nhiên Tồn Tại để mà tạm sử dụng cho tạm hiểu, tạm
lý giải nhân tình thế thái trong cái cõi cũng tạm nốt! Ha, ha...ha!..Hi, hi...hi!...He, he...he!...
Cái cõi tạm ấy còn có nhiều nhãn mác khác nữa. Tùy tâm trạng và sở thích, người ta gọi đó là cõi Trần Tục (để phân biệt với cõi Niết Bàn) cõi Dương Gian (để phân biệt với cõi Âm Ti) … Nhưng thuần phác nhất, chúng ta cho rằng nên gọi là cõi Nhân Thế vì mọi phô diễn về nhân tình thế thái đều xảy ra ở cõi ấy. Trong khắp Vũ Trụ, có rất nhiều cõi tạm nhưng chỉ có một kiểu cõi gọi là Nhân thế, mà chỉ có ở đó mới xảy ra đủ mọi chuyện như chiến tranh và hòa bình, yêu thương và ghét giận, hạnh phúc và bất hạnh, vui sướng và buồn khổ, lương thiện và tàn ác, dũng cảm và đê hèn, chính nghĩa và phi nghĩa… Nói chung là phô diễn đủ mọi hỉ, nộ, ái, ố và đương nhiên là cả những xiềng xích danh lợi và thị phi nữa. Trong cái cõi ấy, vì nằm trong vòng chi phối của danh lợi, của ''lành ít dữ nhiều'' và tùy thuộc vào bản tính, sự giáodục và nhận thức mà mỗi cá thể khi lớn lên đều chọn cho mình một con đường sống, một lẽ sống, một phong cách sống, một mục đích sống khác nhau nhưng ưu tiên một thì đều giống nhau: cố sống còn để chờ...chết. Trong chiến tranh, điều nói trên bộc lộ rất rõ rệt. Không người lính bình thường nào lại không tìm cách tránh đạn; không so vai, rụt cổ khi đạn pháo, bom nổ gần bất thình lình; không người lính bình thường nào lại không tìm cách sống còn. Và sống còn không phải vì danh thì cũng vì lợi. Câu này nghe thật chói tai nhưng lại là sự thật. Người lính đánh thuê chiến đấu là vì đồng tiền của kẻ đi thuê và một phần đôi khi cũng vì sở thích. Nhưng sở thích là gì nếu không là lợi (về tinh thần). Thế thì kẻ ôm bom khủng bố có vì danh lợi hay không? Có, chí ít thì cũng vì danh lợi của giáo phái mà người đó tôn thờ...Không phải chỉ trong chiến tranh mà trong các trò chơi mạo hiểm cũng xảy ra nhiều hành động quên mình đại loại như thế mà bản chất thì cũng vì danh, vì lợi: giữ gìn thanh danh, phô diễn tài năng, so giành quyền lực, còn không thì cũng vì lợi quyền, vì tiền bạc, hoặc đơn giản chỉ vì khoái cảm riêng tư. Từ đó mà có những khái niệm như: dũng cảm, gan dạ, sợ hãi, hèn nhát, liều mạng, mù quáng, điên rồ… và tùy vào ý nghĩa của danh, lợi của hành động theo đuổi mà nảy sinh ra những anh hùng. Theo ý chúng ta thì những hành động quên mình được gọi là anh hùng chỉ khi hành động đó có mục đích cứu nhân độ thế, phụng sự lẽ phải (theo quan niệm của đại chúng toàn nhân loại), xuất phát từ tình yêu thương vô hạn, trước hết là với dân tộc, quê hương đất nước mình; và cái danh ấy là do quần chúng ghi nhận, tôn vinh.
Cái cõi tạm ấy còn có nhiều nhãn mác khác nữa. Tùy tâm trạng và sở thích, người ta gọi đó là cõi Trần Tục (để phân biệt với cõi Niết Bàn) cõi Dương Gian (để phân biệt với cõi Âm Ti) … Nhưng thuần phác nhất, chúng ta cho rằng nên gọi là cõi Nhân Thế vì mọi phô diễn về nhân tình thế thái đều xảy ra ở cõi ấy. Trong khắp Vũ Trụ, có rất nhiều cõi tạm nhưng chỉ có một kiểu cõi gọi là Nhân thế, mà chỉ có ở đó mới xảy ra đủ mọi chuyện như chiến tranh và hòa bình, yêu thương và ghét giận, hạnh phúc và bất hạnh, vui sướng và buồn khổ, lương thiện và tàn ác, dũng cảm và đê hèn, chính nghĩa và phi nghĩa… Nói chung là phô diễn đủ mọi hỉ, nộ, ái, ố và đương nhiên là cả những xiềng xích danh lợi và thị phi nữa. Trong cái cõi ấy, vì nằm trong vòng chi phối của danh lợi, của ''lành ít dữ nhiều'' và tùy thuộc vào bản tính, sự giáodục và nhận thức mà mỗi cá thể khi lớn lên đều chọn cho mình một con đường sống, một lẽ sống, một phong cách sống, một mục đích sống khác nhau nhưng ưu tiên một thì đều giống nhau: cố sống còn để chờ...chết. Trong chiến tranh, điều nói trên bộc lộ rất rõ rệt. Không người lính bình thường nào lại không tìm cách tránh đạn; không so vai, rụt cổ khi đạn pháo, bom nổ gần bất thình lình; không người lính bình thường nào lại không tìm cách sống còn. Và sống còn không phải vì danh thì cũng vì lợi. Câu này nghe thật chói tai nhưng lại là sự thật. Người lính đánh thuê chiến đấu là vì đồng tiền của kẻ đi thuê và một phần đôi khi cũng vì sở thích. Nhưng sở thích là gì nếu không là lợi (về tinh thần). Thế thì kẻ ôm bom khủng bố có vì danh lợi hay không? Có, chí ít thì cũng vì danh lợi của giáo phái mà người đó tôn thờ...Không phải chỉ trong chiến tranh mà trong các trò chơi mạo hiểm cũng xảy ra nhiều hành động quên mình đại loại như thế mà bản chất thì cũng vì danh, vì lợi: giữ gìn thanh danh, phô diễn tài năng, so giành quyền lực, còn không thì cũng vì lợi quyền, vì tiền bạc, hoặc đơn giản chỉ vì khoái cảm riêng tư. Từ đó mà có những khái niệm như: dũng cảm, gan dạ, sợ hãi, hèn nhát, liều mạng, mù quáng, điên rồ… và tùy vào ý nghĩa của danh, lợi của hành động theo đuổi mà nảy sinh ra những anh hùng. Theo ý chúng ta thì những hành động quên mình được gọi là anh hùng chỉ khi hành động đó có mục đích cứu nhân độ thế, phụng sự lẽ phải (theo quan niệm của đại chúng toàn nhân loại), xuất phát từ tình yêu thương vô hạn, trước hết là với dân tộc, quê hương đất nước mình; và cái danh ấy là do quần chúng ghi nhận, tôn vinh.
Bẻm
mép nói
chuyện thiên hạ, vậy thì ngay lúc này đây, bản thân chúng ta nghĩ gì về
cách sống
cho hợp lẽ.? Trả lời câu hỏi này rất không dễ dàng. Trong vòng đua chen
để ''kiếm chác'' danh lợi
và xung quanh là biết bao nhiêu nhận định về thị phi, mà tìm ra được một
thái độ
sống, một cách sống vừa không trái với cá tính bản thân vừa hài lòng mọi
người
quả là quá khó khăn. Ai mà không có một thời “bâng khuâng đi kiếm lẽ yêu
đời” và
thử hỏi rằng mấy ai đã kiếm ra được chân tướng của cái lẽ yêu đời ấy?
Chúng ta,
những kẻ đã đi qua gần hết cuộc đời, được cho là đã từng trải và chiêm
nghiệm
nhiều, mà vẫn cứ ngạc nhiên về lẽ đời, tình người; vẫn chưa biết sống
thế nào
cho phải cho đúng với bản thân mình, và đồng thời với tất cả mọi người. Ở
thời đại
ngày nay, phải thừa nhận rằng con người đã làm ra biết bao nhiêu điều kỳ
diệu, đã
chế tác ra biết bao nhiêu công cụ, phương tiện phục vụ cho lợi ích sống
còn, hưởng
thụ của mình. Nhưng về mặt tình cảm, hình như con người vẫn chưa vượt
thoát được
ra khỏi cõi mông muội, dã man (cõi ích kỷ đến ác tâm của mình chứ không
phải...của loài vật!). Có lẽ phải cần một thời gian tiến hóa dài lâu nữa
chăng? Hay là chẳng bao giờ có được một nền văn minh toàn diện và đích
thực? Đừng nên bi quan như thế, phải có nền văn minh ấy! Chúng ta cho
rằng, khi khoa học-kỹ thuật đạt đến trình độ dễ dàng tạo ra (toàn bộ)
thực phẩm ngon lành cho con người từ các chất vô cơ, thì cũng là lúc nền
văn minh đích thực văn minh (tức là nền văn minh chứa đựng toàn bộ cả
đạo đức lẫn văn hóa, gọi là nền văn minh chân-thiện-mỹ) đã đến...
Nếu
mai này Tạo
hóa cho chúng ta được sống lại một lần nữa với cuộc đời thứ hai, vì
''trót'' đầu thai vào thời đại mà xã hội vẫn còn là nơi nổi trội cho
việc trước tiên là tìm miếng cơm manh áo để sống còn, sau đó là kiếm
vinh quang để tự hào, rất có thể chúng
ta sẽ sống như thế này: tuổi trẻ sống theo lời dạy của Khổng Tử, làm
“cột trụ
kiên cường” để lập nghiệp, tạo cuộc sống cho mình, và hãnh tiến giúp đời
trong khả năng mình có thể, rồi khi xã hội đòi hỏi thì theo gương Mặc
Địch, tiết
kiệm và “thắt lưng buộc bụng” để cứu trợ tức thời hoặc cùng mọi người
“Kiêm Ái” lâu dài, lúc thư
thả sung túc thì sống khoáng đạt, hồn nhiên như Dương Chu, và về già sẽ
“xuất
thế vô vi”, ung dung tu tiên như Lão Tử. Nhưng trước hết, chúng ta sẽ đi
học, và
bài học đầu tiên bắt buộc đối với chúng ta lúc đó phải là bài học về
Tình Yêu Thương. Chỉ khi hiểu được đến cội rễ của Tình Yêu Thương, chúng
ta mới thấy được
sự hợp lẽ tự nhiên của đạo đức và từ đó mới nhận chân được ý nghĩa đích
thực của cuộc đời để
mà biết sống tiến thủ như Khổng Tử nói, hy sinh như Mặc Địch làm gương,
hưởng thụ như Dương
Chu vô ước, an nhiên như Lão Tử trầm tư mặc tưởng, và tùy hòan cảnh,
tình thế, tùy biến động của thời cuộc mà cố đạt cho trọn vẹn được hai chữ Hợp và Hòa.
Nói
đến bài học
về Tình Yêu Thương, chúng ta chợt nhớ đến một bài thơ đã may mắn thuộc
được từ
thời thơ trẻ và giữ gìn trong lòng đến tận bây giờ. Theo “truyền khẩu”
thì bài
thơ đó xuất hiện lần đầu tiên trên một tờ báo ở Sài Gòn vào những năm 50
của thế
kỷ trước. Không biết sự “truyền khẩu” có chính xác không nữa? Nhưng
không quan
trọng, cái quan trọng là tinh thần của bài thơ đã làm nó ''sống mãi''
trong lòng chúng ta như một kim chỉ nam cho hành động. Còn hay hay
không, chúng ta không
bình luận. Chúng ta cứ trình hiện nguyên văn bài thơ (không biết tác giả
là ai)
ra đây, coi như là lần xuất hiện thứ ba của nó trong xã hội và mong nó
sống thêm một thời
gian nữa trong lòng người đời:
TRÊN ĐỐNG
RÁC
Chiều
xuân muộn trải tâm tình khao khát
Máu
thêm yêu rào rạt mảnh hồn trai
Tôi
gặp em một mình trên đống rác
Tóc
rối bời, nắng nhạt phủ bờ vai
*
*
Em đào em bới
Em xới em moi
Đống cặn bã của
vàng son nhung lụa
Dưới lớp rác hôi
tanh và nhầy nhụa
Em đang tìm chén
gạo cho ngày mai
*
*
Một cây đinh ngắn
Nửa mảnh sứ dày
Vài chiếc khoen
đồng
Đôi con vít sắt
Người ta vứt của
đời em cứ nhặt
Nhục hay vinh,
thây kệ chuyện trần ai!
*
*
Một kẻ đi qua
Nhiều kẻ đi qua
Một chiếc xe
qua
Nhiều chiếc xe
qua
Người trên xe bịt
mũi phất mùi xoa
Kẻ dưới lộ cũng
cau mày rảo bước
Người ta sợ mùi
hôi tanh ẩm ướt
Làm bợn nhơ nếp
sống đượm xa hoa
Áo đẹp, khăn thơm,
mắt biếc, tay ngà
Ai để ý làm chi
trên đống rác
Đang triển lãm
bức tranh đời bi đát
Đượm màu thương,
thời đại chửa ghi lời!
*
*
Người em thương yêu ơi!
Em có biết hay
là em không biết
Rằng đất nước
em giàu khôn kể xiết
Vô tận tài nguyên,
phong phú hoa màu
Bạc nào mua cho
hết lúa Cà Mau
Vàng đọng khối
cao su miền đất đỏ
Cây trái ngọt bốn
mùa thơm, béo bổ
Bờ Cửu Long hiền
dịu tiếp phù sa.
Bởi vì đâu bầu
vú mẹ tuôn ra
Dòng sữa ngọt mà
con không được hưởng?
Để cho em phải
sớm chiều vất vưởng
Mảnh đời thơ làm
bạn với hôi tanh
Cánh hoa non ngào
ngạt đượm hương lành
Nở gượng gạo, âm
thầm trong héo hắt.
*
*
Nắng nhạt lần lần, một ngày sắp tắt
Em ra về, bóng
nhỏ ngả xiêu xiêu
Mảnh thân gầy
chập chọang trên đường chiều
Bên tấp nập, dòng
người xe cuộn chảy
Bỗng dừng bước,
em cau mày ái ngại
Một lão già hành
khất mỏi hơi than
Giơ tay xin, lê
lết tấm thân tàn
Trên hè phố, người
lại qua lạnh lạt
Người ta phớt,
người ta xua, người ta quát
Hoặc lắc đầu bình
thản bước đi qua
Từ nhà ai văng
vẳng một lời ca:
“Đời đẹp lắm,
buồn đau đà rủ sạch!...”
Em ứa lệ lần
trong manh áo rách
Cầm trao cho tờ
giấy bạc bèo nhèo
Bài thơ thương
giữa những kẻ đói nghèo
Đâu ai thấy chói
ngời trên đống rác!
*
*
Người em nhỏ mà tuổi thơ bi đát
Kéo lê thê trên
đống rác ven đường
Má chưa hồng đã
dạn gió dày sương
Môi chưa thắm đã
héo cùng mưa nắng
Em đã rắc những
ý tình cay đắng
Lên lòng tôi để
kết lại thành thơ
Đắng mà thơm ngào
ngạt đượm hương mơ
Cay mà dịu, ngọt
thanh tình nhân loại
*
*
Đêm nay,
Mực chảy thành
thơ giữa tiếng cười man dại
Ngoài đường kia
ánh điện nở hào quang
Trải vàng son lên
đại lộ huy hòang
Tôi ngồi đây âm
thầm trong ngõ tối
Trách tất cả gông
cùm trên thế giới
Sao lại xiềng đôi
cánh của tình thương?!
(Chép
lại báo “Nhân đạo”, Sài Gòn 1951)
***
Nào, anh em ơi!
Chúng ta lại tiếp tục lên đường, lang thang về nơi vô định.
Chúng ta lên đường
mà không biết tiếp tục...đi đâu, vì trước chúng ta chẳng có con đường nào cả, dù đường
xá chằng chịt!
Nói thế e rằng
nhiều người nghĩ chúng ta ''rối loạn tâm thần'' nên chúng ta nói rõ hơn: phía trước rất nhiều đường
nhưng không có con đường nào dành cho những kẻ học thì thiếu nhưng hoang tưởng lại thừa như chúng ta cả. Chúng
ta phải tự vạch lối mà đi, mở đường mà tiến, vừa đi vừa khai phá. Như thế, sẽ mệt
một tý nhưng bù lại, không bao giờ bị… “kẹt xe” hoặc lệ thuộc vào “đèn xanh, đèn
đỏ”. Đi trên đại lộ ngày nay sẽ không bao giờ còn được nhìn thấy sắc màu của tự
nhiên nữa. Đi trên lối mòn ngày nay sẽ không bao giờ còn được nhìn thấy hoa thơm
cỏ lạ nữa.
Đi đâu bây giờ?
Thôi, cứ tùy cơ ứng biến, ra khỏi quán “Kiều Mi” hẵng hay!
- Tính tiền đi
em! - Chúng ta gọi cô gái chạy bàn mặc áo hở nửa ngực đang lúi húi dọn dẹp ở góc
quán.
Quán đã vắng
hoe, chỉ còn lác đác vài ba ông khách “quá hớp” ngồi với “bồ nhí” hoặc đang cố
gắng làm ra những “ranh ngôn” cuối cùng với bạn bè. Bà bếp đã về từ lâu, chủ quán
cũng đã về. Thường thì khi về, chủ quán giao lại cho cô gái hở ngực. Chắc cô ta
là người nhà của ông ta. Không thấy Hoa đâu nữa. Giờ này mà nàng còn ở lại mới
là chuyện lạ. Hôm nay có thể Hoa rất vui vì nhờ cái thùng chứa là chúng ta mà lượng
bia bán được chắc chắn là tăng lên đến đáng nể.
Cô gái hở ngực
cầm hóa đơn tính tiền lại.
Chúng ta xòe tiền
ra:
- Em giữ lại tiền
dư đi, khỏi thối… Mà em tên gì vậy em?
- Cảm ơn mấy
anh! Dạ, em tên Nguyệt. Anh hỏi tên em lần này là lần thứ tám rồi đó nha!
- Vậy hả? Xin lỗi
em, anh có cái tật hay quên. Thôi chào nhé! Lần sau gặp lại tụi anh sẽ không dám
quên nữa đâu. Nguyệt là trăng, trăng tròn là Nguyệt, tên em đẹp lắm đấy… Tụi
anh về nha!
- Dạ!
Chúng ta chếch
choáng đi ra.
Đêm
thoáng đãng
và mát quá! Dù không thấy được ngôi sao nào nhưng chúng ta đoán bầu trời
rất
trong, chỉ còn vương vất vài đụn mây trắng như làn khói mỏng còn lưu lại
từ cuộc ''thư hùng'' của thiên nhiên vừa qua. Đêm thành phố thời ''hại
điện'', đèn nhiều quá! Nếu không chủ ý thì dù trời trong cũng khó thấy
trăng, sao. Nếu lúc này
mà đứng ở vùng quê nào đó, trên một cánh đồng đâu đó thì chắc chắn sẽ
thấy được
ngàn sao (không thể thấy Nguyệt được vì chưa phải mùa trăng, muốn không
phải mùa
trăng mà thấy Nguyệt thì chỉ còn cách tưởng tượng hay quay lại quán
“Kiều Mi”, mà...cũng chưa chắc!).
Thích nhất ở đất phương Nam
này có kiểu mưa như thế: ầm ào, sôi nổi một cách dứt khoát, xong thì
thôi, không
lã chã sầu thảm, lê thê đến nhão cả người...
Chúng
ta đi đâu
đây? Về thôi! Không, chưa thể về được! Ngày ra đi chúng ta đã hứa với
lòng là
phải tìm được cái gì đó thì mới trở về với mụ vợ quanh năm chỉ biết ''lo
toan nghèo khó'' cho chồng con một cách ''thương lắm'' cơ mà!? Ừ nhỉ,
chưa về được đâu!...
Chúng ta đã thấy
được hình bóng của Tự Nhiên Tồn Tại nhưng còn nhạt nhòa; chúng ta đã phát hiện
ra viên ngọc quí trong lòng Lão Tử nhưng cũng chỉ là sự phản chiếu dù rất lung
linh của cái hình bóng ấy. Nghĩa là chúng ta chỉ mới nhìn thấy được cái vẻ bề
ngoài, cái hình thức biểu hiện của cái gì đó mà thôi. Thế thì rõ ràng là chúng ta vẫn chưa biết cái gì đó ấy thực chất là…
cái gì?
Tự
Nhiên Tồn
Tại phô bày ra Vũ Trụ các sự vật - hiện tượng mà chúng ta có thấy hoặc
không thấy, vì Nó phô bày đâu cho riêng chúng ta!? Cái Vũ Trụ
ấy vô cùng sinh động, biến đổi không ngừng theo nguyên lý nhân - quả.
Không có
một sự biến hóa, sinh, vong nào lại không có nguyên nhân và cũng là
nguyên nhân
của sự biến hóa sinh, vong kế tiếp. Nhưng cứ theo cái đà ấy mà luận thì
phải có
một nguyên nhân đầu tiên hay người ta thường gọi là cú hích đầu tiên. Để
tạo được
cú hích đầu tiên thì phải có một Thượng Đế-cái đầu tiên hơn cả đầu
tiên!? Chúng ta không thích gọi là Thượng Đế
nên chúng ta gọi là Tự Nhiên Tồn Tại. Mà Tự Nhiên Tồn Tại thì không thị
phi, cứ
thế, vốn dĩ thế thôi, vô thủy vô chung. Vậy có cú hích đầu tiên
không?...
Vạn vật, kể cả
con người nữa, sinh ra từ đâu và khi bị diệt vong rồi thì về đâu? Câu hỏi dằn vặt
này và việc không thừa nhận cú hích đầu tiên, cùng với sự phô bày ra ánh
sáng ngập tràn Vũ Trụ này sẽ trước sau gì cũng tất yếu dẫn đến Nền Tảng. Nền Tảng
là cái mà ngũ quan của chúng ta chưa quan sát, cảm nhận được toàn diện, nhưng nhờ các phương
tiện, thiết bị tối tân mà con người đã chế tác được, đã một phần nào đó lộ diện.
Thế thì cái gì đó
chính là Nền Tảng? Đúng mà cũng chưa chắc đã đúng, hoặc đúng nhưng chưa triệt để. Cần phải cho rằng cái gì đó
là cái làm nên cái Nền Tảng ấy (?). Thế thì lại hỏi: cái gì đó làm nên Nền Tảng là
cái quái gì? Đó cũng chính là vật chất chăng? Mà vật chất thì không thể là mông lung được.
Cho nên nó phải được xây dựng nên từ những cái Một vô cùng nhỏ, nhỏ nhất, và chúng
ta gọi đó là hạt vật chất. Hạt vật chất (tạm gọi thế đã) chính xác là cái gì đó mà chúng ta cần
tìm; là viên ngọc quí giá tuyệt đối của Tự Nhiên Tồn Tại. Nhận thức không thể
giả định là nó không tồn tại được, vì giả định như thế thì bản thân nhận thức cũng
không tồn tại (và khi nhận thức không tồn tại nữa, ''tiêu'' rồi, thì còn đâu mà giả
định?!)
Rõ
ràng, bước đường
tiếp theo của chúng ta là đi tìm những viên ngọc quí ấy và quan sát hành
vi của
chúng cũng như cái Nền Tảng mà chúng tạo ra. Nhưng trước hết phải rà
soát xem tổ tiên chúng ta đã tìm thấy chưa hoặc đã tìm thấy đến đâu, kẻo
lại làm chuyện...''biết rồi, khổ lắm. nói mãi'', chán chết...
Chỉ
khi thấy được
các hạt ngọc quí ấy thì chúng ta mới hiểu được Nền Tảng và như thế chúng
ta mới
có cơ may giải thích được mọi hành vi của mọi sự vật - hiện tượng và từ
đó mới thấy
được chân tướng của Tự Nhiên Tồn Tại, hay Lão Tử gọi là Đạo, đồng thời
mới thấy được chân tướng của thứ mà loài người tưởng ''biết tỏng'' nhưng
thực ra chưa biết và gọi là vật chất, cũng như hiểu rằng không bao giờ
con người có thể ''sờ'' được ''tiền thân'' của vật chất.
Thế
là, chúng
ta đã xác định được dứt khoát mục đích của cuộc hành trình tiếp theo là
loanh quoanh trong Tồn Tại để tìm hiểu...cội nguồn của vật chất,...nếu
có. Và biết đâu
trong cuộc hành trình này, chúng ta còn có thể gặp được Tạo Hóa (vì Tạo
Hóa không thể ở ngoài Tồn Tại được!) để chất vấn một
đôi điều gọi là quan trọng cũng nên!?
Và chúng ta đi!..
Nhưng đi đâu?...Nói rồi! Đã gọi là loanh quoanh thì đi đâu cũng được, miễn là không về nhà!...Và chúng ta đi về phương
xa vời ấy, đầy mông lung bất định, xác suất thành công khó mà cao được, nhưng cũng không thấp đến nỗi...vô vọng! Có thể
vĩnh viễn không bao giờ về được nữa nhưng nếu có thế thì chúng ta cứ đi, theo tiếng gọi thiết tha của số
phận!
Những ai hoang
tưởng cao độ cũng phải hành động như chúng ta thôi, duy nhất một lựa chọn, nghĩa là chỉ thế thôi, không có lựa chọn nào khác!...
Nào, đi!
Và chúng ta nghêu
ngao hát:
“.. trên đường ta qua không một dấu chân người.
Có chú nai vàng nghiêng đôi tai ngơ ngác.
Dừng ở chân đèo mà nghe suối hát,
ngắt một đóa hoa rừng cài lên mũ ta đi.
Trường Sơn ơi, ơi Trường Sơn ơi
đèo vút cao vượt qua mây gió,
đạp đá tai mèo bằng sức gió ngàn cân.
đi ta đi những trai làng Phù Đổng,
còn gì vui hơn đường ra trận mùa xuân.
Ôi có những vì sao thức cùng ta đêm nay.
Như mắt em sáng lên muôn niềm tin
ta nhớ má Năm Căn ta thương em Cửa Việt
mười bốn năm rồi giấc ngủ chưa tròn.
cả miền Nam đang gọi chúng ta đi...
Trường Sơn ơi, Trường Sơn ơi,
đêm nay ta đi Trường Sơn lộng gió,
trời vắng trăng sao nhưng tim ta rực lửa,
đi ta đi tung cánh đại bàng...”
Có chú nai vàng nghiêng đôi tai ngơ ngác.
Dừng ở chân đèo mà nghe suối hát,
ngắt một đóa hoa rừng cài lên mũ ta đi.
Trường Sơn ơi, ơi Trường Sơn ơi
đèo vút cao vượt qua mây gió,
đạp đá tai mèo bằng sức gió ngàn cân.
đi ta đi những trai làng Phù Đổng,
còn gì vui hơn đường ra trận mùa xuân.
Ôi có những vì sao thức cùng ta đêm nay.
Như mắt em sáng lên muôn niềm tin
ta nhớ má Năm Căn ta thương em Cửa Việt
mười bốn năm rồi giấc ngủ chưa tròn.
cả miền Nam đang gọi chúng ta đi...
Trường Sơn ơi, Trường Sơn ơi,
đêm nay ta đi Trường Sơn lộng gió,
trời vắng trăng sao nhưng tim ta rực lửa,
đi ta đi tung cánh đại bàng...”
(Trích
đoạn bài hát hào hùng ''Bài Ca Trường Sơn'' ra đời từ thời chống Mỹ cứu nước)
------------------------------------------------------------------------
HẾT PHẦN I
Nhận xét
Đăng nhận xét