Cùng thời điểm đó, tuy bị đàn áp đẫm máu nhưng
tiếng vang của phong trào Hội Kín Phan Xích Long vẫn lan tỏa khắp Nam
Kỳ. Cậu bé Trương Văn Thoại nuôi dưỡng trong lòng một tư tưởng nghĩa
hiệp pha trộn giữa hai nền văn hóa Đông và Tây.
Vì lẽ đó, thay vì đi theo con đường cách mạng, ông lại chống Pháp theo cách "hiệp khách giang hồ".
Những ngày làm cách mạng
Năm 1925, 16 tuổi ông bỏ nhà đi theo một đại lão sư phụ ẩn cư học đạo, tu luyện võ công trên núi Thị Vãi và Mây Tàu.
Nơi ông ẩn cư tu luyện trên núi Thị Vãi là ngôi chùa cổ Linh Sơn Bửu
Thiền Cổ Tự thuộc xã Phú Mỹ, huyện Tân Thành, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Ngôi chùa này được xây cất tre lá, không tên từ thời Vua Gia Long bôn
tẩu lánh nạn Tây Sơn. Các thư tịch cổ cho biết, người dựng chùa là ni sư
Diệu Thiện có tên trần tục là Lê Thị Nữ.
Bà đã có công nuôi dưỡng, che giấu Vua Gia Long trong thời gian nguy
khốn nên sau khi khôi phục ngai rồng, ông đã phong thánh cho ni sư là
Linh Sơn Thánh Mẫu và sắc ấn cho ngôi chùa với tên mới là Linh Sơn Bửu
Thiền Tự. Ngôi Linh Sơn Bửu Thiền Tự từng là nơi tụ họp của nghĩa quân
Phan Xích Long trong thời gian mới khởi phát. Phải chăng, đại lão sư phụ
của Sơn Vương là một trong những thành viên Hội Kín Phan Xích Long còn
sống sót?
|
Ông Sáu Xiêm tìm năm sinh của Sơn Vương trong sổ ghi chép của gia đình. |
Học võ được 1 năm thì sư phụ viên tịch, Trương Văn Thoại trở về Sài
Gòn. Ông đi thẳng đến tòa soạn tờ Đông Pháp Thời báo xin làm việc miễn
lương. Năm 1925, luật sư Phan Văn Trường phối hợp với Nguyễn An Ninh cho
tái lập tờ báo Tiếng Chuông Rè, Trương Văn Thoại đến xin làm cộng sự.
Buổi chiều ngày 21/3/1926, Trương Văn Thoại phụ giúp ông Trương Văn
Kỉnh tổ chức quy tựu quần chúng để Nguyễn An Ninh diễn thuyết bài xích
thực dân Pháp.
3 ngày sau, ông Nguyễn An Ninh, Trương Văn Thoại, Trương Văn Kỉnh và
hàng trăm người khác bị mật thám bắt nguội đưa về giam ở bót Catinat Sài
Gòn.
Tại bót Catinat, Chánh thanh tra mật thám Đông Dương là cò Bazin buộc
những người bị bắt giữ phải ký tên vào một tờ khai ghi sẵn có nội dung
buộc tội Nguyễn An Ninh lập đảng cướp làm phản, quấy nhiễu dân chúng,
mưu toan cướp chính quyền. Ai chấp nhận ký sẽ thả ngay và cấp tiền xe về
quê.
Hai anh em họ Trương cùng với hơn 60 người khác cương quyết không ký
nên tiếp tục bị giam giữ. Đích thân tên cò mật thám Bazin khét tiếng tàn
ác vào tận phòng giam dùng ba trắc "pín ngựa" đánh đập từng người để
buộc họ ký tên.
Bằng uy tín của mình, luật sư Phan Văn Trường đã viết một bài tố cáo
bót Catinat giam giữ người dân vô cớ, trái luật. Bài tố cáo vừa đăng
trên báo Tiếng Chuông Rè vừa được gửi thẳng đến tay Thống đốc Nam Kỳ là
Cognacq. Trước lý luận sắc bén của bài báo tố cáo, Thống đốc Nam Kỳ
Cognacq đành ra lệnh cho Bazin thả hết những người bị giam giữ.
Thoát tù, Trương Văn Thoại tiếp tục tìm nơi ẩn cư. Bộc bạch trong hồi ký, thời gian này ông vào núi tu luyện thêm võ công.
Ngồi vỉa hè tự bán sách của mình sáng tác
Năm 1931, ông trở lại Sài Gòn và bắt đầu viết một loạt tiểu thuyết xã hội với bút danh Sơn Vương.
Có thể nói, ông là một văn sĩ có tài thu hút độc giả bằng những tiểu
thuyết kỳ tình xã hội lúc bấy giờ. Ông mô tả những tướng cướp lãng tử,
giàu lòng nghĩa hiệp, chuyên cướp của nhà giàu để chia cho người nghèo.
|
Nhà may Nam Hưng trên đường Lefebvre thời
Pháp thuộc (nay là đường Nguyễn Công Trứ, phường Cầu Ông Lãnh, quận 1,
TP HCM) - Nơi Sơn Vương từng tá túc cùng Nguyễn Phương Thảo - Tướng
Nguyễn Bình. |
Trong hồi ký, ông tự bạch rằng tác phẩm của ông luôn nhắm vào 5 mục
tiêu: 1/ Cốt truyện lấy đề tài thường xảy ra trong tầng lớp bình dân; 2/
Giải trí, giáo dục, răn đời, làm ác gặp ác, làm lành gặp lành; 3/ Đả
phá chính sách thực dân, gợi lòng yêu nước; 4/ Tả chân bình dị, bênh vực
kẻ cô thế, bài xích quan liêu; 5/ Đất nước Việt Nam là của người Việt
Nam.
Sau 3 năm viết tiểu thuyết, bút danh Sơn Vương bắt đầu có vị trí
trong lòng độc giả thợ thuyền bình dân khắp các tỉnh thành Nam Kỳ.
Kể từ đầu năm 1931, người dân Sài Gòn thường trông thấy một thanh
niên cao, gầy, ăn nói mềm mỏng, mặc bộ đồ xá xẩu (thường phục của người
Hoa), trải chiếu trên vỉa hè đường De La Some (Nay là đường Hàm Nghi)
bán sách do chính mình sáng tác và ấn hành. Ông hòa nhập vào cuộc sống
vỉa hè của giới cạo gió giác hơi, chiêm tinh gia đường phố và phu xe.
Thời gian này ông bày bán hơn 20 đầu sách như: “Bạc trắng lòng đen”,
“Lỗi hẹn quên thề”, “Ngọc lầm với đá”, “May nhờ rủi chịu”, “Làm ơn mắc
oán”, “Kẻ thù dân tộc”, “Thà được làm chó hơn được làm người”, “Làm nhơn
được vợ, Phản bạn vì tình”, “Chén cơm lạt của người thất nghiệp”, “Sâu
bọ nổi lên làm người”… Hầu hết những quyển sách của ông được in khổ nhỏ
(15,5 x 12cm) và mỏng khoảng vài chục trang để giới thợ thuyền, giới lao
động bình dân có thể nhét vào túi áo dành đọc trong những giờ giải lao.
Trong số sách có xin giấy cò xuất bản (1 loại giấy phép thời đó), ông
chen vào những quyển tiểu thuyết in thủ công có nội dung kêu gọi nhân
dân chống thực dân Pháp.
Thỉnh thoảng, ông gom góp số tiền lãi từ việc bán sách mua gạo chia
thành những bao nhỏ rồi lén ném vào những ngôi nhà nghèo khó ở ngoại
thành.
Mỗi khi vắng khách, ông ngồi tại vỉa hè sáng tác hoặc giao du kết bạn với những phu xe ngựa Malabar.
Xe ngựa Malabar là một loại "xe ngựa taxi " phổ biến ở Sài Gòn giai
đoạn đó. Thời đó, giới phu xe ngựa đa phần là người Ấn Độ di cư từ vùng
biển Malabar, Pondichéry (Ấn Độ) hay từ Singapore đến Sài Gòn kiếm cơm.
Vì vậy, người ta gọi chung loại "xe ngựa taxi" này là xe malabar. Người
Ấn Malabar có tính cẩn thận cao nên một số được tuyển dụng làm gác-dan
(bảo vệ cổng) và hành nghề đổi tiền. Họ đặt chiếc thùng to như chiếc bàn
trên vỉa hè rồi treo những cọc tiền lủng lẳng để đổi tiền lẻ cho khách
qua đường. Từ giới xe ngựa Malabar, Sơn Vương lan rộng mối quan hệ của
mình với giới phu bốc vác Malabar, gác dan Malabar và giới đổi tiền để
bổ sung kiến thức… cướp cho mình.
Với giới phu xe, Sơn Vương tìm hiểu thói quen đi chợ, mua sắm và địa
chỉ của giới nhà giàu. Với giới gác-dan, ông tìm hiểu công thức bảo vệ.
Với giới đổi tiền, ông tìm hiểu những địa chỉ giàu có. Ông tự lập cho
mình một loạt những kế hoạch cướp táo bạo.
Trong thời gian ngồi vỉa hè bán sách, khi đêm xuống, ông cuốn chiếu
về tá túc trong căn gác trọ của tiệm may Nam Hưng ở số 2, đường Lefebvre
(nay là đường Nguyễn Công Trứ, phường Cầu Ông Lãnh, quận 1, TP HCM).
Ông Tư Chiêu - chủ tiệm may Nam Hưng - là bạn đồng liêu của ông Trương
Đình Cung Anh (thân phụ của Sơn Vương) từ thuở tóc còn để chỏm ở quê Gò
Công.
Giữa năm 1933, đám lính cò không cho giới hàng rong bám vỉa hè đường
De La Some, Sơn Vương dời địa điểm bán sách sang lề đường Charner
(Nguyễn Huệ). Tại đó, ông gặp gỡ với một thanh niên lang bạt tên là
Nguyễn Phương Thảo, sau này trở thành Trung tướng độc nhãn Nguyễn Bình -
Tư lệnh các lực lượng quân sự Nam Bộ những năm đầu cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp (1945-1954).
Từ cuộc hội ngộ kết tâm giao này, Sơn Vương đã quyết định đánh cướp
để giúp bạn có tiền mở tiệm giặt ủi, đồng thời cứu trợ người nghèo.
Cướp kiểu… tiểu thuyết
Sau khi thành công vụ cướp tiền của René Gaillard, nghĩ mình đã nằm
ngoài tầm điều tra của cảnh sát, Sơn Vương còn tiếp tục đi "hát" thêm 4
phi vụ đậm chất hiệp khách giang hồ nữa. Đặc trưng nhất là vụ cướp tiền
của giang hồ Sáu Ngọ.
|
Người thứ 2 từ trái sang, được cho là Sáu Ngọ. Ảnh Internet.
|
Tại Chợ Lớn những năm đó, có 2 ông vua đầu tư sòng bạc lớn, đó là Tư
Nhiều và Sáu Ngọ. Sáu Ngọ có tên Tây là Paul Daron. Sáu Ngọ là chồng của
nghệ sĩ sân khấu cải lương tài danh Bảy Nam. Ông là người bỏ tiền cho
nghệ sĩ Bảy Nam lập gánh cải lương Nam Hưng Ban. Sau khi chia tay nghệ
sỹ Bảy Nam, ông đã gặp và kết bạn tình với mỹ nữ Trần Ngọc Trà, tức Ba
Trà - một nhan sắc lừng danh Sài Gòn.
Khi mới quen, để lấy lòng người đẹp, Sáu Ngọ đặt may tặng cho Ba Trà
365 bộ đồ để thay đổi mỗi ngày. Dưới trướng Sáu Ngọ là hàng chục sòng
bài có giấy phép của chính quyền Pháp. Chỉ riêng sòng ở vườn Bureau (nay
là Công viên Tao Đàn), mỗi ngày Sáu Ngọ thu 2 bao tiền.
Hằng ngày, Sáu Ngọ thường sai gạc-đờ-co của mình là Sáu Maniven đi
cùng tài xế đến từng sòng thu tiền. Sáu Maniven xuất thân là giang hồ
bến xe Cái Vồn, Cần Thơ, dưới trướng của đại ca giang hồ Năm Lửa, tức
Trần Văn Soái. Sau này, Năm Lửa trở thành tướng lĩnh quân đội Hòa Hảo.
Trong một lần giành khách bán cho xe đò đường dài Cái Vồn - Chợ Lớn,
Sáu dùng cây ma-ni-ven (tay quay khởi động xe) đánh chết đối thủ rồi
trốn về Sài Gòn ẩn náu. Vì vậy, Sáu có hỗn danh là Sáu Maniven. Sáu Ngọ
thu tuyển Sáu Maniven làm gạc-đờ-co cho mình. Là dân gốc giang hồ có án
nên Sáu Maniven không dám xài súng mà chỉ lận trong lưng con dao dâu.
Sau khi điều nghiên, Sơn Vương nhận thấy hằng ngày cứ đến tầm 19 giờ
là Sáu Maniven cùng tài xế lái xe hơi đến sòng ở vườn Bureau thu tiền
rồi tiếp tục chạy về hướng Thị Nghè. Ông quyết định hành động một mình.
"Canh me" lúc Sáu Maniven vừa rời xe hơi bước vào sòng, ông leo lên ghế
sau xe chĩa súng vào đầu tài xế khống chế. Sáu Maniven ôm bao tiền trở
ra, mở cửa xe, ông tiếp tục chĩa súng vào đầu. Sáu Maniven chỉ còn biết
riu ríu ôm bọc tiền ngồi vào xe cạnh Sơn Vương.
Sơn Vương buộc tài xế chạy tiếp về hướng cầu Thị Nghè. Khi đến chỗ
vắng, Sơn Vương đẩy tài xế lẫn Sáu Maniven ra khỏi xe rồi cầm lái phóng
xe biến vào đêm tối.
Sáu Ngọ bị cướp tiền thu sòng bài rất đau nhưng không dám tố cáo với
cò Pháp. Nếu làm rùm beng, chính Sáu Ngọ bị bể nồi cơm. Sáu Ngọ lệnh cho
Maniven: "Đi tìm hung thủ, gặp đâu giết đó". Maniven chưa tìm ra hung
thủ là ai thì Sơn Vương bị bắt bởi vụ cướp xe chuyển tiền lương của Sở
cao su.
Trong vụ cướp xe chuyển tiền lương của Sở cao su, Sơn Vương bị hở
sườn một chi tiết không đáng có. Đó là ông đã sử dụng chiếc xe hơi đắt
tiền Clément Bayard của Năm Đường mượn. Vì là xe hơi đắt tiền nên khắp
Sài Gòn chỉ có 5 chiếc.
Không hổ danh là trùm mật thám Sài Gòn, qua mô tả của gã gạc-đờ-co
René Gaillard, cò Bazin - Chánh sở Mật thám ra lệnh cho lính tra bộ tìm
địa chỉ của 5 chiếc Clément Bayard hiện có tại Sài Gòn. Sau khi sàng
lọc, cò Bazin nhận thấy ngày xảy ra vụ cướp, chủ nhân của 4 chiếc kia
đều có chứng cứ ngoại phạm. Chỉ có chiếc của tên công chức Pháp mà Năm
Đường làm tài xế có nhiều dấu hiệu nghi vấn.
Tra hồ sơ, cò Bazin biết được chủ nhân của chiếc xe đang đi nghỉ hè
cùng vợ con ở Pháp. Trước khi đi nghỉ hè, ông ta giao chiếc xe cho tài
xế riêng tên thường gọi là Năm Đường chăm sóc.
Không chần chờ, Bazin cho lính đi lùng bắt Năm Đường.
(Còn tiếp)
Chuyện về nhà văn tướng cướp Sơn Vương (bài 3)
Chủ Nhật, 06/09/2015, 20:40
Đang
nghèo khó, túng thiếu,
được chia món tiền lớn, chủ lại vắng nhà, Năm Đường vùi đầu vào những
cuộc trác táng ở sòng bài và các động "Bình Khang" (tiếng lóng ám chỉ
động chứa gái bán dâm). Khi đang lim dim mắt tận hưởng lạc thú tại một
động Bình Khang ở khu Cây Điệp (nay thuộc khu phố 1, phường 2, quận 10)
Năm Đường bị lính ập vào trói gô lại…
Giang hồ Pháp gặp hiệp khách xứ Việt
Năm Đường bị tống vào nhà giam mà không nhận được một lời giải thích
nào của cò cảnh sát. Sau một đêm mất ngủ vì muỗi cắn, Năm Đường được
Chánh Sở Mật thám là cò Bazin trực tiếp hỏi cung. Thay cho màn chào hỏi,
viên chánh Sở Mật thám có máu giang hồ cầm chiếc roi pín ngựa vụt vun
vút vào không khí khiến Năm Đường run lẩy bẩy.
Chờ cho đối phương mất hết thần hồn, Bazin cười khẩy hỏi: "Tiền ăn
cướp xài rất sướng, hả mông-xừ sốp-phơ (ông tài xế)? Nếu còn chút thông
minh, mày nên kể chi tiết vụ đánh cướp, đừng để chiếc roi này khó chịu".
Dứt câu hỏi, Bazin "vuốt" một roi ngang lưng Năm Đường.
|
Ông Sáu Xiềm và kỷ vật của Sơn Vương. |
Năm Đường quì sụp xuống chân Bazin vừa lạy như tế sao vừa hứa kể hết
mọi điều. Năm Đường mới gặp Nguyễn Phương Thảo lần đầu hôm đi cướp nên
giấu nhẹm không khai. Trong cơn sợ hãi, Năm Đường vẫn đủ trí khôn để
khai rằng mình chỉ là kẻ được Sơn Vương thuê lái xe, hoàn toàn không
biết trước kế hoạch cướp.
Sáng hôm đó, Sơn Vương đang lúi húi dọn sách ra vỉa hè như thường lệ
thì một chiếc xe "cây" (tiếng lóng có nghĩa là xe bắt phạm) thắng kịt
sát bên. Ông chưa kịp phản ứng gì thì đã bị 2 viên cò khóa tay đẩy lên
xe "cây". Biết là vụ cướp bị "bể ổ", nhà văn giang hồ lẳng lặng lên xe.
Sơn Vương bước vào phòng hỏi cung thì gặp René Gaillard đã ngồi sẵn ở
bàn buy rô. Vì mối quan hệ thân tình, Bazin ưu tiên cho René Gaillard
khởi cung Sơn Vương. Vừa gặp Sơn Vương, nhớ đến khẩu súng giả trong vụ
cướp, lòng tự ái của tên giang hồ đảo Corse nổi lên bừng bừng.
René Gaillard có dáng cao to, hầm hố của dân đảo Corse, đồng hương
của Napoléon Bonaparte. Corse là một hòn đảo thuộc Pháp nằm ở Địa Trung
Hải. Người đảo Corse vạm vỡ, khỏe mạnh, ăn to nói lớn và tính khí giang
hồ mã thượng chất ngất. Hầu hết người gốc đảo Corse đến Việt Nam giai
đoạn đầu thế kỷ XX chỉ có 2 loại, nếu không làm mật thám chỉ điểm thì
làm… giang hồ.
Gã cũng từng là dân giang hồ chính hiệu và cũng từng cùng một đồng
bọn tên Charlles Gaillard đánh cướp bằng súng một chuyến xe chuyển tiền
của ngân hàng ở thành đô Paris tráng lệ. Chuyến cướp đó, gã cũng dùng
chiêu thức chặn chiếc xe chở tiền giống như Sơn Vương, chỉ có điều gã
dùng súng thật chứ không gan dạ dùng súng giả như Sơn Vương. Xui cho gã,
đồng bọn Charlles Gaillard quá nhát gan.
Khi chiếc xe chuyển tiền đã được chặn lại, tay gạc-đờ-co áp tải đã
giơ hai tay úp mặt vào thành xe chịu trận cho Charlles Gaillard dí súng
vào gáy. René Gaillard đang chuyển tiền từ chiếc xe chuyển tiền sang xe
mình thì… Charlles Gaillard bị viên gạc đờ co tước súng. Gã gạc đờ co
cảm nhận họng súng của Charlles Gaillard run lẩy bẩy sau gáy mình. Thế
là bằng một thao tác nhanh gọn, gã gạc đờ co xoay người tước khẩu súng
trên tay Charlles Gaillard như lấy từ trong túi áo. Gã gạc đờ co lẩy cò,
Charlles Gaillard đổ xuống như cây chuối rồi giẫy đành đạch trước khi
xuôi tay đi thẳng xuống địa ngục. Trước tình thế đó, René Gaillard chỉ
còn biết đưa thẳng 2 tay lên trời chịu thúc thủ.
René Gaillard ra tòa với tội danh cướp có vũ khí, thụ án 5 năm tại
nhà tù La Santé thủ đô Paris. Ngồi khám được hơn một năm, René Gaillard
vượt ngục.
Sau một thời gian im hơi lặng tiếng, René Gaillard đi tìm gã gạc đờ
co bắn chết Charlles Gaillard để đòi lại món nợ máu. René Gaillard gặp
Charlles Gaillard tại một quán rượu. Không hiểu vì run hay vì lý do nào
khác, René Gaillard nhắm súng vào đầu đối thủ siết cò nhưng viên đạn lại
găm vào… chân. Gã gạc đờ co ôm chầm lấy René Gaillard và… la làng. René
Gaillard nghiến răng kề khẩu súng vào mang tai gã gạc đờ co siết cò.
Lần này khẩu súng phản chủ đã không chịu nổ. René Gaillard bị thực khách
nhiệt tình trong quán rượu xúm nhau "đánh hội đồng" đến mềm nhũn.
Lần này, René Gaillard lãnh án chung thân, lao động khổ sai ở nhà tù
La Cayen. Cayen là một vùng nông nghiệp nổi tiếng với các sản vật khóm,
mía và nho của Pháp. Gã đã dùng sức vóc của mình góp phần tạo nên thương
hiệu khóm Cayen trong những ngày lao động khổ sai.
Trong một chuyến đeo cùm đi lao động, René Gaillard cùng một số bạn
tù tước súng lính cai rồi đào thoát. Lần vượt ngục này, vì mang án chung
thân, René Gaillard không dám tìm kẻ cựu thù đòi nợ máu nữa.
Một ngày đông lạnh lẽo, René Gaillard bất ngờ gặp đại ca đồng hương
đảo Corse. Đó là Franchini (không phải Mathiew Franchini - chủ khách sạn
Contineltal Palace ở quận 1, Sài Gòn).
Franchini là một đại ca giang hồ gác kiếm sau khi tích lũy được một
số vốn kha khá từ những vụ cướp. Y dùng số vốn đó đầu tư một số đồn điền
cao su ở Tân Đảo. Tân Đảo có tên hành chính là New Hebrides. Ngày nay
Tân Đảo có tên chính thức là Cộng hòa Vanuatu. Đó là quần đảo thuộc địa
của Pháp và Anh ở Tây nam Thái Bình Dương từ thế kỷ XIX. Chính quyền
Pháp đang khuyến khích các nhà đầu tư trồng cao su ở vùng thuộc địa này.
Sau khi nghe René Gaillard kể khổ Franchini tuyển dụng ngay gã đàn em
đang tơi tả làm vệ sĩ riêng.
Ngoài ra, Franchini còn đầu tư cao su ở Hóc Môn, Gò Vấp (Sài Gòn),
Cầu Khởi (Tây Ninh) và Mimot (Chup, Campuchia). Theo các sử liệu kháng
chiến chống Pháp thì vào những năm thập niên 30 thế kỷ XX, Franchini là
một tên chủ đồn điền cao su rất tàn ác đối với công nhân.
Sau này, thấy đầu tư ở Tân Đảo xa xôi, Franchini bán các sở cao su ở
đó rồi đặt trụ sở chính tại Gò Vấp. Tất nhiên, Franchini lôi thằng vệ sĩ
đàn em René Gaillard đi theo. Để tạo quyền lực riêng, Franchini ký gửi
René Gaillard cho Bazin để có chân trong Sở Mật thám. Tuy là một gạc đờ
co nhưng René Gaillard được đại ca tin tưởng giao cho quản lý tất cả mọi
công việc cũng như mọi giao dịch liên quan đến cao su. Đáp ơn cứu mạng,
René Gaillard trung thành với Franchini còn hơn chó nuôi từ lúc mới đẻ.
Gã giang hồ đảo Corse bị khuất phục
Tưởng mình là một con cọp uy lực, vừa gặp Sơn Vương, René Gaillard
khoái trá chuẩn bị một trận vờn mồi. René Gaillard phóng chiếc roi pín
ngựa vun vút vào không khí trước mặt Sơn Vương để uy hiếp tinh thần rồi
dọa: "Mày cướp 50.000 đồng, tao đánh đủ 50.000 roi". Không ngờ, Sơn
Vương không những không sợ mà còn nhìn hắn trừng trừng như thách thức.
Nổi cáu, René Gaillard hùng hục quất roi vào người Sơn Vương.
|
Những năm 30 thế kỷ XX, cả Nam kỳ chỉ có 5 chiếc Clément-Bayard. |
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
Chiếc roi pín ngựa xé rách bươm quần áo nhưng Sơn Vương vẫn không thay đổi sắc mặc, lại còn cất tiếng cười cợt. Đánh đến vã mồ hôi, bải hoải tay chân vẫn không khuất phục được Sơn Vương, gã giang hồ đảo Corse đành xuôi tay: "Tao mệt rồi, cho mày nợ đó". Sơn Vương cười từng tràng dài: "Tôi không có thói quen mang nợ lại thích sòng phẳng. Đánh cho đủ số nợ đi".
Trước sự cứng đầu của gã giang hồ xứ Việt, nhớ lại thời mình đi "hát" bị "rớt" ở Paris mấy năm trước, René Gaillard ngầm thán phục. Gã ném roi, thốt: "Mẹc-xà-lù! Tao xóa nợ cho mày luôn đó".
Trong buổi cung đầu tiên, uy dũng của Sơn Vương đã khiến tay giang hồ thứ thiệt như René Gaillard cảm phục. Để tỏ lòng mã thượng, dân chơi đảo Corse quyết định… bãi nại cho Sơn Vương. Tuy nhiên, vụ án đã được các báo giật tít ra trang nhất nên không thể để chìm xuồng. Thế là Bazin chỉ truy cứu một mình Sơn Vương ra tòa đại hình. Trong những ngày tạm giam hầu tra tại Maison Centrale de Saigon (Khám Lớn Sài Gòn) ở số 69, đường La Grandière (nay là Thư viện Tổng hợp TPHCM) René Gillard lại là người duy nhất đi thăm nuôi Sơn Vương. Gã còn đưa cả vợ đến ra mắt tay văn sĩ tướng cướp và hứa rằng, sẽ đề nghị bị hại là ông chủ Franchini không đến dự tòa, xem như đó là hình thức bãi nại gián tiếp.
Một người là C.V.D. - trước năm 1975 là điệp báo viên của ta ẩn trong vai Phó chi Cảnh sát quận 1 của chế độ Việt Nam Cộng hòa, kể rằng ông đã từng có dịp xem hồ sơ của Sơn Vương vào năm 1972 tại Tổng Nha Cảnh sát trong chiến dịch "bài trừ tệ nạn xã hội". Vì chiến dịch huy động tổng lực nên rất nhiều cảnh sát ở các chi được trưng dụng về Tổng Nha để phân loại, lập hồ sơ đối tượng. Vì nghe danh Sơn Vương đã lâu nên khi gặp hồ sơ, ông háo hức đọc. Trong hồ sơ của tòa đại hình thời Pháp chỉ có vỏn vẹn 2 trang khẩu cung.
Lời cung của Sơn Vương rất đơn giản: "Tôi mướn chiếc xe, mướn luôn sốp-phơ Năm Đường. Tôi không nói với Năm Đường thuê đặng mần gì. Chạy tới chiếc cầu sắt, tôi biểu Năm Đường dừng xe cho tôi tiểu tiện. Chiếc xe chở bạc vừa trờ tới, tôi rút súng giả ra tra vào đầu gạc đờ co biểu đưa vali. Lấy vali bạc xong, tôi chĩa súng vô đầu Năm Đường biểu chạy hết ga. Về tới Sài Gòn, tôi hăm he Năm Đường khai ra với người khác, tôi giết chết cả gia đình. Trong vụ này chỉ mình tôi chủ mưu. Năm Đường vô can. Tôi chỉ trả công sốp-phơ và mướn xe tổng cộng 10 đồng. Mình tôi làm tôi chịu lãnh đủ, đừng truy cứu người vô can".
Phiên tòa đại hình cũng diễn ra chóng vánh khiến cánh nhà báo thất vọng tràn trề. Bị hại là Franchini không đến dự. Không có luật sư bào chữa cho bị cáo lẫn bị hại. Suốt 30 phút diễn ra phiên tòa, hầu như các quan tòa chỉ làm thủ tục. Sơn Vương chỉ phải trả lời 3 câu thẩm vấn của chủ tọa. 3 câu hỏi cũng chỉ lặp lại nội dung bản khẩu cung. Khi chánh án cho phép tự biện hộ, Sơn Vương nói gọn: "Có vay, có trả. Tòa cứ tuyên, bao nhiêu năm tù, xin chung đủ". Không còn gì để hỏi, chánh án tuyên luôn án 10 năm tù biệt xứ.
Vụ đánh cướp được các báo viết tường thuật cả trang giấy. Sau khi phiên tòa diễn ra, các báo chỉ đưa một góc tin nhỏ xíu.
Nhận án xong, Sơn Vương được đưa trở lại Khám Lớn Sài Gòn chờ chuyến đi dài.
Trong vụ này, Năm Đường được miễn tố. Chỉ có điều, khi người chủ biết chuyện đã đuổi việc Năm Đường. Ông ta trở lại nghề xà ích xe ngựa. Cảm nghĩa Sơn Vương đã bao che cho mình nên Năm Đường cũng thường xuyên đến thăm.
Kể từ khi hành hiệp, vì không muốn liên lụy đến người thân, Sơn Vương cắt đứt mọi liên lạc. Vì vậy, khi ông đi tù, cha mẹ ông cũng không hay biết.
Vào những năm đó, Maison Centrale de Saigon là nhà tù lớn nhất miền Nam, giam giữ tù nhân đại hình (trọng án) và tù nhân chính trị. Mỗi dãy phòng giam dài 30m và chiều ngang 6m. Ở giữa 2 dãy phòng giam là hành lang có chiều ngang 2m được phân cách với phòng giam bằng chấn song sắt phi 12. Tường phòng giam sơn màu đen. Cửa sổ song sắt trổ trên cao gần mái nhà. Giai đoạn này, do tù nhân chính trị nhiều nên bọn cai ngục dồn tù đại hình vào mỗi buồng hơn 50 người. 2 dãy phòng giam chứa hơn 100 người. Tất cả đều nằm dưới nền xi măng và 1 chân phải bị khóa vào 1 chiếc cùm dài suốt dọc phòng giam.
Để quản lý số tù nhân đông đúc, chen chúc ấy, bọn cai nghĩ ra chiêu dùng "dây đậu nấu đậu", có nghĩa là chúng chọn trong số tù những tay có máu lưu manh, có sức khỏe làm caporal (người quản lý). Đọc theo âm trại là cặp rằn hoặc cọp rằn. Giang hồ thời nay gọi là "đại bàng" hoặc "đầu gấu".
Cách chọn cặp rằn của bọn cai ngục rất… lưu manh. Chúng cho các tù nhân thách đấu võ với nhau để xem và bắt độ cá cược. Kẻ nào mạnh nhất phòng giam sẽ được làm cặp rằn. Khi một tù nhân thách đấu và đánh gục cặp rằn "đương nhiệm" thì sẽ được làm cặp rằn mới. Để bảo vệ "ngôi", cặp rằn thường đánh phủ đầu những tù nhân mới.
Sơn Vương cũng không ngoại lệ. Trong thời gian hầu tra, ngày đầu tiên bị chuyển từ bót Catinat sang Maison Centrale de Saigon, khi cánh cửa ngục vừa khép sau lưng, Sơn Vương đã bị cặp rằn Ba Nhỏ - một côn đồ chợ Cầu Muối - túm cổ đánh dằn mặt. Ba Nhỏ không ngờ Sơn Vương xoay người nhanh như chớp khiến gã mất đà té dúi vào chân tường. Biết gặp cao thủ võ nghệ, cặp rằn Ba Nhỏ nhịn nhục chờ thời cơ trả đũa.
(Còn tiếp)
Nông Huyền Sơn
Chuyện về nhà văn tướng cướp Sơn Vương (bài 4)
Thứ Tư, 09/09/2015, 14:45
Từ một người tràn trề tinh thần dân tộc, chế độ nhà
tù hà khắc của thực dân Pháp đã dần biến Sơn Vương thành một tín đồ cực
đoan của chủ nghĩa cá nhân. Dù vẫn còn nguyên tính cách nghĩa khí nhưng
ông bị rơi vào cái vòng luẩn quẩn ân oán giang hồ. Thế là án chồng án.
Đề lao hiệp khách
Tại nhà giam Maison Centrale de Saigon, cặp rằn Ba Nhỏ được chủ ngục
hậu thuẫn đã hà hiếp nhiều bạn tù cô thế. Không ai dám đối mặt với y.
Một hôm, René Gillard gửi vào cho Sơn Vương 2 giỏ xách thực phẩm. Ba
Nhỏ đại diện buồng giam lên phòng cai ngục lấy đồ thăm nuôi. Gã lấy 2
giỏ thực phẩm của René Gillard gửi cho Sơn Vương mà không nói tiếng nào.
Sơn Vương vô tình không biết Ba Nhỏ đã cướp trắng "tài sản" của mình.
|
Cầu Ma Thiên Lãnh, Côn Đảo là do Sơn Vương đặt. |
Lần thăm nuôi sau, René Gillard hỏi Sơn Vương có vừa miệng những món
ăn do chính vợ René Gillard làm để gửi vào không. Đến lúc đó, Sơn Vương
mới biết Ba Nhỏ đã ăn chặn thực phẩm thăm nuôi của mình. Dù không được
nếm một chút món ăn nào, Sơn Vương cũng gật đầu khen ngon để làm vui
lòng bạn.
Trở về phòng giam, Sơn Vương điểm mặt Ba Nhỏ: "Anh bạn phải trả đủ
tôi số thực phẩm đã ăn cắp". Ba Nhỏ không nói không rằng, rút trong
người ra con dao tự chế từ thìa ăn đâm thẳng vào cổ Sơn Vương. Nhanh như
chớp, Sơn Vương đoạt lấy con dao rồi khóa cứng tay Ba Nhỏ. Gã lưu manh
chợ Cầu Muối xám mặt vì nghĩ mình đã tận mạng. Chỉ cần Sơn Vương thọc
con dao ngược vào cổ Ba Nhỏ là đời gã ra ma. Gã nhắm mắt chờ thần chết
gọi hồn. Cả phòng giam nín thở chờ đợi nhát dao phục thù của Sơn Vương.
Thật bất ngờ, Sơn Vương nhét dao vào lưng quần rồi nói: "Lần sau moa (tao) không tha cho toa (mày) đâu".
Mấy giây sau, gã lưu manh chợ Cầu Muối mới thu lại hồn vía rồi… quỳ
sụp xuống chân Sơn Vương xin nhận làm đồ đệ học võ. Sơn Vương khoát tay:
"Từ nay, phòng giam này không còn cặp rằn nữa".
Không còn nạn cặp rằn ăn hiếp tù nhân, cả phòng giam vỗ tay tung hô Sơn Vương là "đề lao hiệp khách".
Một năm sau, Sơn Vương bị chuyển ra đảo tù Côn Sơn (nay là Côn Đảo).
Ông ra đảo vào thời điểm Pháp đang xây dựng con đường nối liền các sở cũ
đến sở Ông Câu để kiểm soát tù vượt ngục (Thời gian xây dựng từ 1930
đến 1945). Khi mở đường, bọn cai ngục bắt tù nhân đập đá xây một chiếc
cầu bắc ngang đèo Ông Đụng. Việc xây dựng cầu này đã khiến hơn 356 tù
nhân chết vì lao lực và tai nạn. Sơn Vương đã phỏng theo truyện kiếm
hiệp tàu "Tiết Nhơn Quí chinh đông" gọi cây cầu này là Ma Thiên Lãnh.
Cái tên này được sử dụng cho đến ngày nay.
Cuối năm 1933, số tù nhân chính trị ra đảo ngày càng đông, nhân sự
cai ngục lại mỏng, thiếu nhân sự làm thư ký nên chúa đảo Bovier lệnh cho
Nguyễn Văn Liễn, tức Vệ Liễn - Chánh cai vệ banh 2 - trưng dụng trong
số tù nhân ở banh 2 do hắn quản lý. Sơn Vương được chúa đảo trưng dụng
"miễn ngạch trật" tức làm việc không lương tại Sở Ngân khố của đảo tù
nhờ chữ đẹp. Dù vẫn ở tù nhưng Sơn Vương trở thành tù hành chính. Ban
ngày đến Sở Ngân khố làm thư ký, ban đêm trở về buồng giam.
Năm 1936, phong trào Mặt trận Bình dân của Léon Blum lên nắm chính
quyền tại Pháp đã tiến hành hàng loạt chính sách cải cách dân chủ ở
chính quốc lẫn các vùng đất thuộc địa, trong đó có Đông Dương. Để ăn
mừng chiến thắng, Léon Blum quyết định ân xá giải phóng đồng loạt hệ
thống nhà tù. Tù nhân chính trị được tha bổng, tù nhân xã hội ở các đảo
tù được đưa vào đất liền.
Tháng 2/1937, tại nhà ngục Hà Tiên, Sơn Vương đã đứng ra hô hào bạn
tù tổ chức một cuộc bạo loạn đào thoát. Cuộc bạo loạn nhanh chóng bị đàn
áp bởi lực lượng cảnh sát Pháp do đích thân chủ tỉnh Hà Tiên chỉ huy.
Sơn Vương bị xếp vào loại cầm đầu nên bị đày ra nhà tù mới trên đảo Phú
Quốc.
Từ nhà tù Phú Quốc, ông viết nhiều bản tường trình gởi về đất liền
bằng đường dây bí mật để tố cáo nguyên do xảy ra cuộc bạo loạn. Bản
tường trình này cho biết, một số tù nhân thường phạm không lãnh án khổ
sai nhưng bị bọn cai ngục đưa ra hòn đảo nhỏ Kiên Lương đập đá xây dựng
khu nghỉ dưỡng. Đó là hành vi phạm luật thời đó. Vì việc lao động nặng
chỉ dành cho phạm nhân lãnh án "khổ sai".
Trong thời gian "khổ sai" ở Kiên Lương, những người tù này thường
xuyên bị tên chủ ngục người Pháp hành hạ, đánh đập rất tàn ác. Một hôm,
hắn bị mất một số tiền. Nghi ngờ một người bồi (nhân viên tạp dịch) Việt
Nam lấy cắp, hắn đã dùng nhục hình tra khảo tàn nhẫn đến chết. Những
người tù chứng kiến khi trở về phòng giam kể lại rằng, trong khi tra tấn
nạn nhân, tên chủ ngục Pháp liên tục thét: "Đánh chết bọn Annammit ăn
cắp!". Lòng tự ái dân tộc và nỗi bức xúc kìm nén bấy lâu có dịp phun
trào thành cuộc biểu tình trong nhà tù.
Những bản tường trình của Sơn Vương từ nhà tù Phú Quốc gửi về đất
liền đã đến tay các tờ báo ở Sài Gòn. Thống đốc Nam Kỳ lúc đó là một
thành viên của Mặt trận Bình dân Pháp đã cử người về nhà tù Hà Tiên và
Phú Quốc điều tra và sau đó tên chủ ngục bị trục xuất về Pháp. Nhờ đó,
vào tháng 2/1938, Sơn Vương cùng một số tù nhân khác được tha bổng.
Đụng độ “cọp lửa từ bi”
Ra tù, Sơn Vương trở lại vỉa hè chợ Bến Thành viết báo, bán sách kiếm cơm qua ngày.
Một tối, ông lân la vào rạp hát Nguyễn Văn Hảo xem xi-nê (chiếu
phim). Khi chen chúc mua vé, ông bị một gã người Việt lai Pháp đi cùng
"đầm" (bạn gái) đạp trúng chân đau điếng. Dù biết đạp chân người khác
nhưng gã Việt lai Pháp vẫn phớt lờ phép lịch sự không thèm xin lỗi nạn
nhân. Sĩ diện, máu giang hồ sôi sùng sục trong huyết quản, ông đấm cho
gã Việt lai Pháp, lỗ mũi gã đầy máu.
|
Banh 2, nơi Sơn Vương thụ án.
|
Không ngờ gã lưu manh Việt - Pháp là phó cai đội của bót mật thám
Polo có tên là Turbi nhưng giang hồ Sài Gòn đặt hỗn danh là Cọp Lửa Từ
Bi - một tên côn đồ lưu manh khoác áo mật thám Pháp.
Gã hô hoán. Thế là Sơn Vương bị đám cò cảnh sát đè nghiến xuống đất trói gô lại đưa về bót Polo Chợ Lớn với tội danh… cướp cạn.
Dù chỉ va chạm nhỏ, Turbi vẫn gán cho Sơn Vương tội cướp bằng một bản cung giả.
Ngày 18/9/1939, Sơn Vương lại tái ngộ với phiên tòa đại hình vì đã
từng có án tích trọng phạm. Ra tòa lần này, chán ngán sự đời, Sơn Vương
không thèm hé răng một lời trong phần thẩm vấn của chánh án. Bực mình gã
chánh án người Pháp tuyên 10 năm cấm cố. Sơn Vương bị tống vào nhà tù
trọng án hình sự Đông Dương ở Pursat, Campuchia.
Tại đây, ông lén xin được 1 lưỡi cưa sắt của đám tù khai thác gỗ. Một
đêm tháng 2/1940, ông cưa song sắt cửa sổ, đào thoát ra rừng thành
công.
Trốn khỏi nhà tù Pursat, Sơn Vương theo cánh thợ rừng Khmer đi lần về
Phnôm Pênh. Khi ông chuẩn bị lên một chiếc tàu hàng sắp xuất bến từ
Phnôm Pênh về Châu Đốc thì bị cảnh sát Pháp phát hiện.
Ông bị cảnh sát Pháp áp tải từ Phnôm Pênh đi thẳng về bến Bình Đông,
Sài Gòn suốt 3 ngày để tái ngộ với cò Bazin tại bót Catinat.
Lần này ông bị kết án vượt ngục. Từ án 10 năm cấm cố, ông đội thêm án
khổ sai biệt xứ. Đầu năm 1942, ông có mặt tại nhà tù Côn Đảo trên một
chuyến tàu hàng của quân đội Pháp. Ra đảo lần này, Sơn Vương bị đẩy vào
hầm xay lúa banh 1 - nơi dành cho tù khổ sai.
Tháng 2/1942, tàu chiến quân đội Nhật trịch thượng "xin" Pháp cho ghé
Côn Đảo lấy nước và lương thực. Chính quyền Pháp đang suy yếu nên
nhượng bộ quân Nhật. Lấy nước và lương thực xong, quân Nhật rút đi. Đến
tháng 2/1945, bất ngờ một đội tàu chiến Nhật lại xuất hiện. Quân Nhật
muốn dùng Côn Đảo làm trạm vô tuyến nối liên lạc với các đơn vị tiến
chiếm Đông Nam Á. Lần này chúng chiếm đảo bằng vũ lực. Vừa đổ quân lên
đảo, quân Nhật tước sạch vũ khí của quân Pháp. Chúa đảo là Tyssery,
nguyên một sĩ quan cảnh sát bị quân Nhật khống chế giam lỏng.
Mấy ngày sau, Tyssery và viên đại úy chỉ huy quân đội Pháp ở Côn Sơn
được tàu chiến Nhật đưa về đất liền. Sau đó Nhật tiến hành "lễ trao trả
độc lập cho người Việt Nam", biến quần đảo Côn Sơn (tiếng Pháp: Poulo
Condore) thành cái gọi là "Quốc gia tự do Nông dân huynh đệ quần đảo Côn
Sơn (Etat libre agricole et fraternel d'Archipel de Poulo Condore) và
trao quyền chúa đảo cho Lê Văn Trà - nguyên là nhân viên thư ký của
Tyssery. Lê Văn Trà ra tờ báo "Tiếng nói tự do" và giao cho Sơn Vương
làm chủ bút. Đám tù chính trị thân Nhật được cơ hội nhảy lên làm "cha".
Sơn Vương bỏ ngoài tai chuyện chính trị, chỉ lo làm phận sự một nhà báo,
nhà văn.
Làm “Vua quốc gia an ninh đảo”
Chính phủ thân Nhật - Trần Trọng Kim đưa ra chiếc tàu đón đám tù
chính trị thân Nhật về đất liền. Còn tù chính trị Cộng sản vẫn bị giam
giữ ở các trại.
Lợi dụng sự lơ là của đám thân Nhật, Sơn Vương lén giúp đỡ những người Cộng sản giấy, bút và chiếc đài bán dẫn.
Sơn Vương chưa kịp xuất bản số báo đầu tiên thì quân Nhật đã đầu hàng
quân Đồng minh. Nhờ chiếc đài bán dẫn, những người Cộng sản nắm bắt
được tin tức cuộc khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám trong đất liền. Ngay
lập tức những người tù Cộng sản tiếp quản Côn Đảo từ tay đám thân Nhật.
Cờ đỏ sao vàng được cắm trên đảo từ ngày 16/9/1945. Lê Văn Trà giao nộp
con dấu cho lực lượng cách mạng Côn Đảo. Một Ủy ban Hành chánh Kháng
chiến Côn Sơn được thành lập vào ngày 11/12/1945, Sơn Vương được bầu làm
Chủ tịch.
Ngay sau đó ông đứng ra tổ chức cải táng hài cốt của nhà cách mạng
Nguyễn An Ninh đồng thời tổ chức lao động sản xuất để tự cung tự cấp
lương thực theo mô hình hợp tác xã.
Tuy nhiên, bản chất giang hồ lãng tử, tự tôn anh hùng cá nhân đã xô
đẩy ông đi vào con đường khác. Trong cơn cuồng vĩ, ông bất thần tuyên bố
thành lập một quốc gia mới có tên gọi là "Quốc gia Trung lập Dân chúng
quần đảo An Ninh" (Etat neutre des Insulaires de L'Archipel d'An Ninh)
và tự xưng là "Quốc vương" của "quốc gia". Tất cả tù chính trị đã theo
phái đoàn Cách mạng về đất liền, trên đảo chỉ còn những người tù hình sự
được trả tự do nên ông thỏa sức làm "vua".
Thời điểm này, đám cai đội cũ bị lưu lại đảo không cho về đất liền.
Trong đó có gia đình Vệ Liễn. Nguyễn Lệ Hoa - con gái của Vệ Liễn bước
vào tuổi dậy thì, rất xinh đẹp. Thế là Sơn Vương dùng quyền lực "vua
quốc gia", buộc Vệ Liễn phải gả Lệ Hoa cho ông. Bị Vệ Liễn từ chối, Sơn
Vương giao cho "thừa tướng" Nguyễn Thành Út bắt giam về tội "tra tấn,
hành hạ tù nhân trong thời làm cai vệ". Vệ Liễn đành chịu phép chấp nhận
gả Lệ Hoa.
Ngày 28/2/1946, đám cưới của Sơn Vương - Lệ Hoa được tổ chức linh
đình. Sơn Vương mở kho gạo mời "toàn dân" tham dự ăn uống, nhảy múa suốt
3 ngày đêm. Dù bị cưới hỏi kiểu tướng cướp, Lệ Hoa cũng có một quãng
thời gian ngắn hạnh phúc với Sơn Vương. Phần Sơn Vương, sau lễ cưới,
suốt ngày ông chỉ lo hú hí với vợ, bỏ mặc "vương triều" cho đám "thừa
tướng" quậy phá lẫn nhau.
Chỉ làm "vua" được một tháng, ngày 25/3/1946, Nhật đầu hàng quân Đồng
minh, Pháp trở lại Đông Dương. Biết thân phận, ông chủ động mời những
người đã từng làm việc cho Pháp trên đảo ra để giao lại chính quyền. Đám
này chưa biết thời cuộc sẽ về đâu nên không dám nhận. Sơn Vương đành cử
3 "thừa tướng" vào đất liền yêu cầu Pháp tiếp tế lương thực, đồng thời
xin 1 khẩu súng lục, 1 nón nỉ và 1 xe đạp. Cả 3 vị "thừa tướng" vừa xuất
hiện trên đất liền, chính quyền Pháp nắm đầu tống giam rồi phái 3 tàu
chiến chở 2 đại đội bộ binh ra tái chiếm Côn Đảo.
Ngày 8/4/1946, 2 đại đội lính Pháp rời tàu chiến tiến lên đảo thì đã
thấy Sơn Vương cùng các "thừa tướng" xếp hàng ngay ngắn chờ sẵn. Lính
Pháp bắt tất cả ngồi dưới đất tay đặt lên đầu rồi phân loại. Toàn bộ
"triều đình" của Sơn Vương bị tống giam. Phần Sơn Vương bị tố cáo là
"thành phần ác ôn" bị đem ra dựa cột để xử bắn. Vệ Liễn tiếp tục trở lại
phận sự cũ đã cùng với Lệ Hoa xin tội cho Sơn Vương.
Nhờ vậy, Sơn Vương được ân xá nhưng phải chấp nhận trả án giam.
(Còn tiếp)
Nông Huyền Sơn
Chuyện về nhà văn tướng cướp Sơn Vương (bài cuối)
Thứ Bảy, 12/09/2015, 10:10
Ngày 8/4/1946, Pháp tái chiếm Côn Đảo, Sơn Vương và
toàn bộ "vương quốc Côn Đảo" khoảng 400 người bị đẩy ngược trở vào tù.
Một gã tù có tên là Nguyễn Thành Út đã từng là lính mã tà (cảnh sát) ở
Sài Gòn đã tìm cách vu khống Sơn Vương để lập công. Sơn Vương lại rơi
vào cảnh ân oán giang hồ khiến án chồng chất.
Trừ khử tên cặp rằn gian ác
Nguyễn Thành Út vốn là một cai đội mã tà ở khu vực làng chơi Đa Kao,
Sài Gòn. Thời đó các động chứa gái ở Đa Kao mở cửa gần như công khai.
Chủ chứa biết điều, thường xuyên đóng "hụi chết" cho mã tà thì được công
khai chèo kéo khách qua đường. Út thường la cà khu vực này để kiếm
"cơm, cháo" và gái miễn phí.
|
Sơn Vương, năm 1986. |
Một lần nọ, Út ghé vào động của má mì có tên là Lan Cà Tom. Lan Cà
Tom mới 21 tuổi mang 2 dòng máu Ấn, Khmer, không rõ nguyên quán. Cô ta
đến khu phố "đèn lồng" Đa Kao thuê mặt phố để làm nơi hành nghề chứa
gái. Gái của Lan Cà Tom chỉ toàn là chị em ruột hoặc có họ hàng xa gần.
Thường ngày, Út Mã Tà đến, Lan Cà Tom luôn đon đả tiếp đãi ân cần.
Lần đó, Lan Cà Tom có đứa em gái út 16 tuổi là gái mới "ra ràng" (tức
mới vào nghề làm gái) vẫn còn ngại ngùng. Út phát hiện nên lân la tới
đòi cô em gái út của Lan Cà Tom "chào sân". Vì muốn yên thân, Lan Cà Tom
đành cho cô em gái út phục vụ. Không hiểu sao, vào phòng the được vài
phút, cô em gái út la làng, chạy ra ngoài cầu cứu. Xót ruột cho cô em,
Lan Cà Tom xông vô buồng trách cứ Út Mã Tà. Đang bị quê độ lại còn bị
chửi, nổi nóng, Út Mã Tà xáng cho Lan Cà Tom một bạt tai nảy lửa. Bị
đánh đau, Lan Cà Tom đè cổ Út Mã Tà xuống đất cào cấu tới tấp. Mấy cô
gái bán hoa ở chung xóm nghe ồn ào chạy tới, sẵn dịp nhào vô đánh trả
thù.
Trong cơn thập tử nhất sinh, Út Mã Tà rút súng bắn đại để tự giải
vây. Xui cho Út và cũng xui cho 1 người đàn ông hiếu kỳ. Phát súng không
trúng đám gái đang bâu vào đánh Út mà lại trúng đầu một người đàn ông
đi đường. Thế là Út nhận án đày biệt xứ ra Côn Đảo. Vì có gốc mã tà nên
Út được xếp làm cặp rằn trong đề lao Côn Đảo. Khi Sơn Vương ra đảo, chức
cặp rằn bị Sơn Vương chiếm đoạt, Út nuôi lòng thù hận nhưng không dám
thể hiện.
Pháp trở lại đảo, Út chớp cơ hội trả thù để lấy lại chức cặp rằn.
Gã tố cáo với chúa đảo Gimbert và tên cò Pellier một loạt tội danh
của Sơn Vương khi làm "vua" gồm: Đầu mưu lập đảng làm loạn trên đảo,
hoang phí công quỹ, dùng quyền lực cưỡng hôn Lệ Hoa (con gái Vệ Liễn),
giết dã man ông già Quít - một bạn tù lớn tuổi để cướp đoạt bản đồ kho
báu Vua Gia Long. Theo lời Út, vào năm 1783, khi Vua Gia Long bôn tẩu
lánh nạn Tây Sơn ở Côn Sơn đã chôn giấu một kho báu. Trong những ngày
Sơn Vương làm "vua" đảo, một buổi sáng người ta thấy già Quít nằm chết
co ro với cái đầu vỡ toác. Út khẳng định Sơn Vương đã bí mật giết già
Quít để cưỡng đoạt bản đồ này.
|
Về cuối đời, Sơn Vương tìm về gia đình sống với anh chị em ruột. |
Thế là chúa đảo Gimbert ra lệnh cho Pellier đẩy Sơn Vương vào phòng
tra khảo bản đồ kho báu đến chết đi sống lại nhiều lần. Cuối cùng, không
khảo được bản đồ, Gimbert đưa Sơn Vương vào đất liền để hầu tòa. Cộng
với án cũ, lần ra tòa này Sơn Vương nhận 15 năm tù khổ sai biệt xứ. Ông
trở lại Côn Đảo với thẻ tù số 313C.
Từ hầm khổ sai, Sơn Vương gởi mật thư cho Vệ Liễn đề nghị cha vợ xin
vào đất liền làm việc để Lệ Hoa có cơ hội kiếm tấm chồng khác, lo cho
tương lai. Có lẽ Sơn Vương đã định đoạt một cuộc trả thù đối với Út Mã
Tà mà ông có thể sẽ lĩnh bản án khắc nghiệt hơn, lâu hơn.
Vệ Liễn đã nghe lời Sơn Vương đưa vợ con về Sài Gòn. Trước khi rời
đảo, Lệ Hoa còn gởi cho Sơn Vương một số tiền và nhu yếu phẩm.
Ngày 8/8/1953, Sơn Vương cùng một số bạn tù được điều vào rừng đốn
củi. Trong chuyến khổ sai này, Sơn Vương chạm mặt Út Mã Tà. Ông xúi các
bạn tù rỉ tai nhau rằng, Sơn Vương sẽ ra tay phục thù, để Út Mã Tà luôn
trong tâm trạng lo lắng và cảnh giác.
Đến giờ nghỉ trưa, Sơn Vương giắt chiếc búa đẽo cây vào lưng rồi vờ
lượn lờ quanh Út Mã Tà. Sơn Vương muốn Út Mã Tà ra tay trước để tạo thế
"phòng vệ chính đáng". Và Út Mã Tà đã rơi vào cái bẫy của ông.
Đang âu lo, không biết mình sẽ bị hạ sát lúc nào, thừa lúc Sơn Vương
vừa quay lưng, Út Mã Tà chộp một khúc cây giấu sẵn trong bụi lùm xông
đến. Chỉ chờ có vậy, Sơn Vương xoay người tước khúc cây rồi bổ mạnh vào
đầu kẻ thù. Cơn hận thù có dịp tuôn trào, ông đập Út Mã Tà đến nát bét
thi thể.
Dù chứng kiến tận mắt mọi diễn biến nhưng tất cả các nhân chứng đều
khai ông chỉ đánh Út Mã Tà 1 gậy vì "phòng vệ" sau khi bị tấn công.
Ngày 22/6/1954, Sơn Vương bị giải về Tòa đại hình ở Sài Gòn đối mặt
với án tử hình. Sự nổi tiếng của Sơn Vương đã khiến luật sư Lâm Quang
Trọng nhận biện hộ không thù lao cho ông. Thẩm phán bác lời chứng rằng
Sơn Vương chỉ phòng vệ bằng một gậy. Họ diễn giải, chỉ một gậy thì đầu
Út Mã Tà không thể nát nhừ như biên bản tử thi. Vì lập luận đó, tòa sẽ
định tội sát nhân. Luật sư Trọng phản biện rằng, nếu thật sự muốn giết
Út thì Sơn Vương phải dùng chiếc búa đẽo giắt sau lưng đánh trả chứ
không dùng gậy. Với tình tiết "dùng khí giới của kẻ tấn công phản đòn,
chấp nhận phòng vệ chính đáng dẫn tới ngộ sát", Sơn Vương thoát án tử
nhưng nhận án "chung thân khổ sai biệt xứ miễn ân xá". Thời ấy án chung
thân tương đương 32 năm tù. Theo hồi ký “Máu hòa nước mắt” do chính ông
chấp bút thì ông chấp nhận bản án giết Nguyễn Thành Út. Còn án giết già
Quít là bản án oan.
Tổng cộng, Sơn Vương nhận án 4 lần, gồm 1 án 5 năm, 1 án 10 năm và 2
án chung thân khổ sai. Tính tổng cộng, ông chịu án đến 79 năm tù. Theo
cách tính đó thì ông sẽ được ra tù vào năm… 107 tuổi.
Ông ở tù miệt mài trên đảo Côn Sơn, trong khi ở đất liền trải qua bao thăng trầm thế sự.
Năm 1967, một số nhà báo ra Côn Đảo tham quan nhà tù, khi về đã viết
bài lên án chế độ vô nhân của chính quyền Nguyễn Văn Thiệu. Quốc hội Mỹ
bị chỉ trích đành đưa ra lời tuyên bố: Nếu không cải thiện chế độ nhà tù
ở Côn Đảo, Mỹ sẽ cắt viện trợ.
Nguyễn Văn Thiệu vừa được Mỹ đẩy lên ghế tổng thống Việt Nam Cộng hòa
(VNCH) đã hoảng hốt ban hành một loạt các chính sách cải thiện. Đến lúc
đó, Bộ Tư pháp VNCH mới cử người ra đảo thống kê và phát hiện hàng trăm
người mãn án theo chính sách mới nhưng vẫn chưa được cứu xét. Một số
bản án thời Pháp đã không còn hiệu lực đối với luật mới của VNCH.
Sơn Vương được phóng thích vào ngày 18/11/1968. Lúc này ông đã 59 tuổi, ngồi tù đúng 34 năm.
Chính quyền VNCH đã điều một chiếc trực thăng quân đội ra tận Côn Sơn
đón ông về Sài Gòn rồi thông báo cho ký giả trong lẫn ngoài nước đến
chứng kiến. Họ đã tận dụng ông để quảng cáo chính sách nhân đạo nhằm mua
chuộc lòng dân.
Về đến Sài Gòn, Sơn Vương chới với vì cảnh cũ, người xưa không còn.
Bà Lệ Hoa đã thành thân với người khác nhưng cũng giúp cho ông một chút
vốn để thuê nhà ở một con hẻm trên đường Nguyễn Cư Trinh, quận 1.
Ông lặng lẽ sống và liên tiếp cho ra đời một số tác phẩm. Trong đó có
"Máu hòa nước mắt", "Người tù thế kỷ"… Một số tờ báo Sài Gòn đã chộp cơ
hội ký hợp đồng ông viết nối kỳ kể về những góc khuất của tù nhân trên
đảo Côn Sơn. Ông sống tạm ổn với đồng nhuận bút. Vào những năm sau 1970,
tên tuổi ông chìm dần giữa mớ hỗn độn chính trị Sài Gòn. Người ta phải
đối mặt hằng ngày với tin chiến sự, tin đấu đá nhau giữa các phe nhóm
nên ông bị quên lãng.
Năm 1978, ông bén duyên với một người phụ nữ trẻ trung, xinh đẹp, quê
gốc ở Trà Vinh. Cả hai mở phòng mạch đông y làm kế sinh nhai.
Ra đi lặng lẽ
Ông Sáu Xiêm, tức Trương Văn Thanh - cháu nội đích tôn của ông Trương
Văn Kỉnh cho biết: "Những lần đầu về quê, ông Năm (Sơn Vương) có dắt bà
Năm về theo. Chúng tôi chỉ biết bà ấy là vợ của ông Năm chứ không biết
tên. Bà Năm trẻ hơn ông Năm khoảng 30 tuổi. Bà rất đẹp. Mỗi lần về quê,
ông Năm và bà Năm đều đi xe taxi. Lần nào xe taxi cũng chất đầy kẹo
bánh. Vừa về đến nơi, ông phát hết cho trẻ con xóm trong, xóm ngoài. Đến
năm 1985, ông Năm về đây ở luôn. Ông về một mình, không thấy bà Năm
đâu. Ông Năm bảo, bà Năm về quê Trà Vinh rồi. Ông Năm rất nghiêm khắc
nên con cháu không dám hỏi chuyện đời tư nhiều.
|
Ngôi tháp mộ chung của gia tộc họ Trương.
|
Sau đó, bà Năm có sang thăm ông vài lần rồi mất biệt. Tài sản ông
mang về quê chỉ có vài quyển sách và một vài món đồ lặt vặt không giá
trị. Khi về quê, ông chỉ xem tivi, đọc sách, lâu lâu mới ra Gò Công
chơi. Thỉnh thoảng, ông Tám Niên - Chủ tịch huyện Gò Công, vốn là bạn tù
Côn Đảo của ông Năm có lái xe hơi đến nhà đón ông Năm đi chơi. Mỗi khi
có tiệc giỗ, cao hứng ông Năm biểu diễn võ gồng cho bà con lối xóm xem.
Ông dùng dao bén chém vào người bình bịch. Ông không bao giờ kể cho con
cháu nghe về cuộc đời của ông".
Ông Sáu Xiêm cho biết, sáng ngày 4/7/1987 âm lịch tức ngày 27/8/1987,
như thường lệ, ông đem bữa sáng đến cho lão chí sĩ Sơn Vương. Tỏ vẻ mỏi
mệt, lão chí sĩ bảo ông Sáu Xiêm cứ để đó, ông sẽ ăn sau. Lúc 9 giờ,
ông Sáu Xiêm thấy lão chí sĩ Sơn Vương trở mình rồi nằm im. Khi ông Sáu
Xiêm đến gần mới biết lão chí sĩ đã ra đi. Nhà văn Sơn Vương thọ 79
tuổi.
Đám tang diễn ra lặng lẽ với con cháu trong gia đình.
Ông Sáu Xiêm đắp nấm mộ đất cho ông phía sau vườn nhà.
Theo gia tục truyền từ nhiều đời trước, sau 3 năm, ông Sáu Xiêm bốc
cốt, hỏa táng rồi đưa vào tháp mộ chung với tổ tiên, họ tộc trong vườn
nhà. Ông Sáu Xiêm bày tỏ: "Tôi làm theo gia tục mà ông nội tôi dặn dò:
Những ông, bà quá cố không được để tên bia mộ, không lập bàn thờ riêng,
không để tên trong sổ ghi chép gia phả. Ông nội tôi dạy, giấu tên tổ
tông để con cháu không bị trùng tên kị úy".
Cũng theo gia tục, con cái chỉ làm đám giỗ đơn sơ cho cha mẹ. Hàng ông bà chỉ cúng hoa quả vào ngày giỗ kị.
Chúng tôi xin phép được viếng thăm nơi lưu tro cốt của lão chí sĩ Sơn Vương.
Đó là một tháp mộ xây theo kiểu nhất trụ lục giác. Bên trong chứa tất
cả những tro cốt của họ tộc từ cả chục đời tiền nhân. Hai bên cửa tháp
mộ có chạm 2 câu đối của ông Trương Văn Kỉnh, tức Biện Thới: "Sống bất
nhiễm tam độc, lục trần/ Tử tất hưởng nhàn vu cực lạc".
Có lẽ vì thế, sau khi Sơn Vương qua đời, tất cả những gì liên quan
đến ông cũng dần mất. Hai năm cuối đời, ông có đem về quê một số sách di
cảo của ông nhưng con cháu không chú trọng lưu giữ nên tất cả đều thất
lạc. Bức di ảnh duy nhất của ông nằm chung trong bức ảnh thờ chung của
gia đình.
Chúng tôi đã tìm nhiều cách để tìm gặp người vợ sau cùng của ông để
tìm hiểu thêm về những góc khuất cuộc đời ông nhưng vô vọng. Hầu như
không ai biết bà cư trú nơi nào ở Trà Vinh.
Dù sao đi nữa, ông cũng là một kẻ sĩ yêu nước kháng Pháp. Ông có cách
kháng Pháp độc đáo của riêng ông. Thiết nghĩ các nhà nghiên cứu lịch sử
văn học cũng cần có một công trình nghiên cứu nghiêm túc về ông.
Nông Huyền Sơn
Nhận xét
Đăng nhận xét